ĐẠI SỨ CHÚ PHÁP KINH

Hán dịch: Nước Nam thiên Trúc_Tam Sạng Sa Môn BỒ ĐỀ LƯU CHI
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

_Bấy giờ, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) ở núi Kê La tập hợp các Đại Chúng, Phạm Thiên (Brahma), Tự Tại Thiên (Iśvara), Thích Đề Hoàn Nhân (Śakra-devānāṃIndra)…với vô lượng ức số hàng Quỷ Thần, từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu làm lễ đấng Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) rồi thỉnh rằng: “Nay tôi muốn nói Nhất Tự Chú đểnhiêu ích cho chúng sinh. Nguyện xin ấn khả, lắng nghe điều tôi nói”

Chư Thiên nói: “Lành thay! Lành thay! Như điều đã nói”

Tỳ Na Dạ Ca được nói, nên vui mừng hớn hở liền nói Tỳ Na Dạ Ca Nhất Tự Chú là:

“Án, ngược, già, hiệt lý. Án ha hồng phán”

*)OṂ_ GAḤ GA HRĪḤ_ OṂ_ HA HŪṂ PHAṬ

Ngược (Gaḥ: là Thân Chú)

Hiệt Lý (Hrīḥ: là Đỉnh Chú)

Án [Oṃ: là Phát Chú (Chú tóc)]

Ha (Ha: là Tâm Chú)

Hồng (Hūṃ: là Giáp Chú)

Phán (Phaṭ: là Giáng Phục Chú)

Chữ Phán xưng ba lần (là con mắt của Tỳ Na Dạ Ca)

Bạt sát (Parṣat: là tòa ngồi của Tỳ Na Dạ Ca)

Án (Oṃ:vì việc lợi ích)

Hiệt Lý (Hrīḥ:Gấp rút trị phạt)

Ha (Ha: vì đấu loạn)

Già (Ga: vì phạt hàng bên dưới)

Phán (Phaṭ: vì cấm tất cả)

Hô chữ Hồng (Hūṃ: vì phá)

Bạt sát (Pārṣat) xưng hai lần (cấm phộc)

_Nói Nhất Tự Chú xong, lại nói Đàn Pháp. Nếu muốn làm Pháp này với Pháp của Tượng. Chọn ngày 4 của kỳ Bạch Nguyệt làm, tức là ngày thành tựu. Lấy cây A Già tức dài như một ngón tay (cây Bạch Đàn, cây Khổ Luyện), khắc làm vị Trời có bốn cánh tay (Tứ Tý Thiên), mặc áo da rắn (trùng y), đầu đội mão bảy báu, tay phải cầm cây búa, tay phải bên dưới cầm cái mâm chứa viên Hoan Hỷ, tay trái cầm cây gậy (bổng), tay trái bên dưới cầm cái nanh, đầu như đầu voi bị gãy nanh bên trái, dùng nhiễu quanh cái miệng, lấy thế của viên Hoan Hỷ đến đỉnh đầu đính mọi loại Anh Lạc, sợi dây trắng quấn góc bên trên hông phải tung bay, chân đạp trên núi vàng, tay cầm cái hộp bằng bạc dựng đầy mọi loại hương, đèn, thức ăn uống cúng dường.

Ở trước mặt Tượng tụng Chú, mỗi lần thường uống sữa, hoặc nuốt khí, hoặc mè, mạch hoặc rau. Mỗi ngày ba thời Chú một loại mãn Tâm, bốn tháng sau đó làm cái Đàn bốn khuỷu tay.

Bên trong vẽ hình hoa sen bốn cánh. Ở trên cánh mặt Đông trên hoa sen vẽ chữ Án (OṂ), mặt Tây vẽ vẽ chữ Hiệt Lý (HRĪḤ), trên cánh sen ở mặt Bắc vẽ chữ Hồng (HŪṂ). Nơi đã làm kết Giới thì dùng chữ Hồng (HŪṂ), nơi hộ thân thì dùng chữ Phán (PHAṬ). Ở bên ngoài hoa sen vẽ chư Thiên, hàng Quỷ Thần Mẫu kèm với Chú, Nhật Nguyệt Thiên. Ở bên ngoài Đàn vẽ bốn Hộ Thế Tứ Thiên Vương Nữ đều an theo vị trí của mình.

Lấy 7 lá Bồ Đề (lá sen), nhóm lá bên trên an trong cái hộp để trên hoa sen nở rộ, sau đó lấy mè ném vào trong lửa, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, đủ 8000 biến. Sau đó, dùng bàn tay phải đè lên cái hộp trong Đàn, bên trong đó phát ra tiếng liền biết có hiệu nghiệm. Sau đó, ở nơi có đấu tranh, lấy cái hộp chứa nhóm đó đội trên đầu thì đấu tranh dễ thắng.

Lại có Pháp. Nếu muốn truy đuổi hô gọi người khác, lấy cái hộp, tay phải nắm cây gậy thì chỗ làm đều được

Lại có Pháp. Nếu muốn đánh bạc. Lấy cái hộp tượng, cột dưới bàn chân phải thì đánh bạc được thắng.

Lại có Pháp. Nếu muốn đuổi theo Oan Gia kia. Lấy hạt cải trắng kèm với muối. Lấy hạt cải trắng thiêu đốt, lấy hộp tượng cúng dường, thì oan gia kia liền được trở lại hòa phục

_Nói Tượng Pháp. Lấy thân hoặc cây Khổ Luyện y theo lúc trước khắc

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến tất cả yêu kính. Lấy Ngưu Hoàng, Chú vào 108 biến, sau đó lấy ngưu Hoàng chấm trên trán, tức đều yêu kính

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến tất cả yêu kính. Lấy sợi tơ của hoa sen trắng, Chú vào bô của bò, rồi Chính Tâm ở trước mặt Tượng cúng dường. Lấy Tẫn Mặc (mực làm bằng bằng tàn lửa) Chú vào 108 biến, sau đó chấm trong con mắt thì ai nhìn thấy đều yêu kính.

Lại có Pháp. Nếu ở nơi có giặc cướp ác, thú ác, oán bố. Tay trái lấy cái hộp, tay phải đem ngón cái đè trong lòng bàn tay làm cây gậy, Chú vào 108 biến thì tất cả người ác thảy đều lìa xa

Nếu có người thường tụng Chú này thì tất cả người nhìn thấy đều yêu kính

Lại có Pháp kèm giáng phục người. Lấy muối, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, đủ 1008 biến kèm xưng tên gọi của người kia, đến 7 ngày liền chịu phục

Lại có Pháp. Nếu xua đuổi Oan Gia với khiến cho đấu loạn. Lấy mảnh áo giáp, ở trên áo giáp vẽ hình người kia với viết tên gọi. Ở trước Tượng lấy cây gậy sắt đánh lên thân với tụng Chủ đủ 7 ngày, liền được

Lại có Pháp. Nếu muốn truy đuổi hô gọi người. Một ngày ba thời ở trước mặt Tượng, tụng Chú 1008 biến. Lấy đất, phân bò ẩm ướt làm hình, hoặc lấy màu sắc vỉ hình người kia trên vải, lấy cây gỗ Khổ Luyện, một lần trì, đến đủ 7 ngày liền được. Nếu muốn trừ bỏ, lấy bơ rửa tượng, liền được vậy

Lại có Pháp. Nếu khiến người yêu kính, dùng Thân Chú, quả trái, thuốc, thức ăn… Chú vào 108 biến, xưng tên người kia, ăn vào thì người ấy liền đi đến

Lại có Pháp. Nếu truy đuổi người, lấy sợi dây cột buộc bàn tay phải của Tượng, Chú vào 1008 biến, xưng tên gọi của người kia, đến đủ 7 ngày thì người ấy bị cột trói, liền đi đến

Lại có Pháp. Lấy cây Vị Tra thiếu đốt hình, bơ…một lần Chú thì một lần thiêu đốt, đủ 1008 biến, đến 7 ngày thì tất cả người nhìn thấy đều yêu kính

Lại có Pháp. Nếu giáng phục người, ở trước Tượng, Chú vào nước 7 biến, xưng tên gọi của người kia, tức người ấy liền đi đến

Lại có Pháp. Cầu thế lực, phú quý… Lấy tua hoa sen, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, một ngày ba thời, đủ 1008 biến cho đến đủ 7 ngày, liền được

Lại có Pháp. Nếu muốn giáng phục người. Lấy bột Điểu Ma, lấy sữa bò… ở trước Tượng, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, đến đủ 7 ngày, liền được.

_Lại nói công năng của Tỳ Na Dạ Ca Chú Pháp, liền nói Chú là:

1_“Án, mê cự giá, hô la cá dạ, mưu lợi dạ, sa bà ha”

*)OṂ_ MEGHODAYA HURAS-KĀYA MŪRIYA SVĀHĀ

Chú này, nếu cấm tiếp chạm cái đầu của tượng liền Cấm

2_“Án, bạt xà lô la ca dạ, cấm dạ, mưu lợi dạ, sa bà ha”

*)OṂ_ VAJROLKĀYA KAMYĀ MŪRIYA SVĀHĀ

Chú này. nếu muốn phá hoại Oan Gia, dùng bàn tay tiếp chạm con mắt của tượng liền được

3_“Án, bạt bả đô la ca da, lô lê da, mưu lợi dạ, sa bà ha”

*)OṂ_ PĀPATOLKĀYA LOLEYA MŪRIYA SVĀHĀ

Chú này. Nếu muốn khiến cho người bị che chận, dùng bàn tay tiếp chạm lỗ tai, liền được

4_“Án, ma hô la ca dạ, lô lê dạ, sa bà ha”

*)OṂ_ MAHORAGĀYA LOLEYA SVĀHĀ

Chú Pháp này. Nếu muốn giáng phục, dùng bàn tay tiếp chạm bên cạnh tượng

5_“Án, tỳ mưu la ca dạ, mưu lê dạ, sa bà ha”

*)OṂ_BHĪMOLKĀYA MŪRIYA SVĀHĀ

6_“Án, ha số ca dạ, lô lê dạ, sa bà ha”

*)OṂ_ AŚOKĀYA LOLEYA SVĀHĀ

Lại có Pháp. Khiến cho thân hôn trầm, dùng bàn tay tiếp chạm trái tim của Tượng, liền được

Lại có Pháp. Nếu muốn giáng phục người, lấy Tượng, nghĩ đến trái tim của người kia, liền được. Dùng Chú thứ nhất

Lại có Pháp. Muốn cấm Oan Gia, bùng tay cầm nắm Tượng nghĩ đến con mắt của người kia thì kẻ ấy bị cấm

Lại có Pháp. Muốn khiến người yêu kính, dùng bàn tay tiếp chạm bắp tay của Tượng. Liền dùng Chú thứ hai

Lại có Pháp. Muốn ủng hộ Thân, dùng bàn tay tiếp chạm cỏ tranh của Tượng, liền được.

Lại có Pháp. Muốn chữa trị người bệnh, dùng bàn tay tiếp chạm bàn chân của Tượng, liền được khỏi bệnh

Lại có Pháp. Muốn phá hoại được Oan Gia. Lấy cây A Ca vẽ hình người kia kèm xưng tên gọi, dùng bàn chân đạp lên. Dùng Chú thứ tư

Lại có Pháp. Muốn giáng phục người. Lầy hoa Mạn Trà La (Māndāra) vẽ hình người kia kèm viết tên gọi, dùng bàn chân đạp lên. Sau đó, lấy lá cây A Ca, đường cát, bơ hòa chung với nhau, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, đủ 1008 biến. Lại cũng dùng Chú thứ nhất

Lại có Pháp. Muốn cầu thông minh. Lấy Xương Bồ, Chú vào 1008 biến, sau đó uống vào. Dùng Chú thứ năm

_Lại nói tên gọi của tám Tỳ Na Dạ Ca

1_Khúc Tỳ

2_Nhất Nha

3_Tượng Nha

4_Hắc Đầu

5_Đam Mẫu

6_Lợi Nha

7_Ma Vương

8_Yên Sắc

Tên gọi như vậy, chí Tâm thường nhớ niệm, tức tất cả Pháp đã làm đều có tất cả tội, thảy đều tiêu diệt

_Lại nói Bát Tỳ Na Dạ Ca Tượng Tác Pháp.

Tượng Khúc Tỳ lấy đất ẩm ướt của loài kiến càng làm hình tượng

Nhất Nha, lấy đất bên sông xoa tô làm

Hắc Đầu, lấy đất đỏ

Đam Mẫu, lấy đất ở rễ cây Khổ Luyện

Ma Vương, lấy đất ở rễ cây Bồ Kết của người Hồ

Tượng Yên Sắc, vẽ trên vải lụa

Có Pháp tám Tỳ Na Dạ Ca của tên gọi này, theo thứ tự cúng dường

_Lại nhóm Dạ Xoa (Yakṣa), Càn Thát Bà (Gandharva). Nếu muốn có người thành tựu Pháp này. Cúng dường Dạ Xoa thì chỗ mong cầu đều được.

Khúc Tỳ thì dùng hương xoa bôi với hoa cúng dường.

Nhất Nha thì dùng mọi loại thức ăn uống, hương, hoa cúng dường

_Đồng Tử Sứ Chú Giả. Chú thứ hai: Triệu Thỉnh

Án, Phộc ca la chuẩn đồ, a địa bá đá duệ, toa ha”

*)OṂ_ PĀKALA COḌA ADHIPATAYE SVĀHĀ

Sứ Giả (Ceṭaka, hay Dūta) có thân làm hình người, đầu làm đầu dê, móng chân bò, tay cầm cây gậy (bổng), đầu cây gậy cắm xuống đất. Chú rất ác trong Quỷ Thần Đạo có tên là Dạ Xoa Phộc Quỷ Chú, cũng dùng cho tất cả Quỷ. Tức ngày riêng như điều này, bảy ngày tụng mười vạn biến

Nếu chú vào thuốc cho người bệnh thì bệnh liền khỏi. Chẳng được ăn vật của nhóm Hồ Cao, thịt bò…

Ở bốn phương Kết Giới Chú thứ ba: “A a, xà xà, la la” hóa làm thân người, liền hỏi tên, Điệp Điệp Tỳ tỳ Sứ Giả Tỳ Na Dạ Ca, ngầm tụng Chú một biến vào một nắm cỏ tranh, an bốn phương làm Giới

_Thứ tư Bản Thân Chú

Na mưu tỳ na dạ ca tả, a tất tri mục khư tả, đá điệt tha: a tri da, na tri da, thù phan đế da, ô tất đàm ca da, tất bà tha bát da, bà đạt tát tả da da, bà lợi trì, toa ha”

*)NAMO VINĀYAKASYA_ HASTI-MUKHASYA

TADYATHĀ: AṬYĀ NAṬYĀ JIBHATEYA USVI-KĀYA, SVIDAPAYA BHADHASASYAYA BHARI PATI _ SVĀHĀ

Muốn làm Pháp này, trước tiên nên làm Tượng, hoặc dùng Bạch Lạp (một chất pha chì với thiếc) với đồng, gỗ … đều khắc hình tượng ấy có tướng hòa hợp của hai thân vợ chồng đứng ôm nhau, đều làm thân người đầu voi. Làm tượng ấy phải thẳng thắn chẳng được trả giá

Làm Tượng ấy xong, ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, ở trong tịnh thất dùng phân bò sạch xoa tô làm một cái Đàn tròn, lớn nhỏ tùy ý. Nên lấy một thăng dầu mè, dùng Chú bên trên. Lại Chú vào dầu sạch ấy 108 biến làm cho dầu ấy ấm dần lên. Dùng vật khí bằng đồng sạch chứa đầy dầu ấm ấy. Sau đó đem Tượng để tại cái mâm bằng đồng bên trong dầu, an trí bên trong Đàn. Dùng cái muỗng đồng sạch, hoặc cái thìa đồng… múc dầu rưới lên đỉnh đầu và thân của Tượng ấy 108 lần.

Về sau, ngày ngày lại Chú vào dầu cũ 108 biến, trong một ngày múc rưới 7 lần, sáng sớm bốn lần, giờ Ngọ ba lần, cộng thành 7 lần. Như vậy làm Pháp cho đến 7 ngày thì tùy theo Tâm ước nguyện thành, liền được vừa ý.

Lúc chính thức rưới dầu thời luôn luôn phát nguyện. Dùng bơ, mật hòa với lương khô vụn làm thành viên, rễ củ cái kèm một chén rượu chua, nước tương… Như vậy ngày thành hiến thức thức ăn, ắt nên tự ăn mới được khí lực

_Thứ năm: Lục Cấp Tật Thần Vương Chú:

Dược xoa na, dược xoa na, tỳ xá già na, câu trà dã, lệ đá dược nhược, câu bàn trù, hổ ốc, tể ốc ốc, sa bà ha”

Chú ấy có tên thứ nhất là Cấp Tật, tên thứ hai là Thiên Sứ. Chẳng nên tụng nhiều, đủ sáu biến liền được

_Thứ hai: Kết Giới. Sứ Giả Xà La A Xà La hóa làm thân người, liền hỏi tên. Điệp Tỳ Điệp Tỳ Sứ Giả Tỳ Na Dạ Ca, ngầm tụng Chú đều lấy một nắm cỏ tranh an bốn phương làm Giới

_Thứ sáu:

Án, tiêu đá tha da, kiện đà ấm đô dương noa duệ. Nam mô điệp tỳ tỳ na dạ ca, án, trí trí câu, sa bà ha”

Điệp Tỳ Chú

Nếu muốn Sứ Giả Tỳ Na Dạ ca chẳng được làm các việc gây hại, tạo chướng nạn cho con người. Hoặc muốn trị bệnh sốt rét, lấy bốn cọng cỏ dài một thốn (1/3 dm), miệng tụng Chú 7 biến an ở bốn bên người bị bệnh sốt rét, đều cách khoảng bốn xích (4/3 m), kết Giới Điệp Tỳ ấy ngay trên cỏ, thì bệnh sốt rét liền khỏi

Nếu người bệnh chẳng đến được, Chú vào Chương (huy hiệu) đem đi, nhiễu quanh thân thì bệnh ấy liền khỏi. Nếu muốn cột trói người bệnh, đem cỏ nhiễu quanh thân, an đặt rồi ngầm tụng Chú 7 biến thì không có ai chẳng bị cột trói

Nếu khi muốn làm Pháp thời lấy một nắm cỏ tranh làm Giới, sau đó tụng Đại Chú như biến số, liền tụng Sứ Giả Chú 7 biến. Pháp điều Tỳ Na dạ Ca chỉ là người tụng Chú trong mộng kinh sợ, thấy cảnh giới ác của các súc sinh, nên biết là Tỳ Na Dạ Ca Quỷ Vương giận dữ. Trong mộng, cảm giác dùng sự Tàm Quý (xấu hổ), nên rất dè chừng. Ngày mai tự đem thức ăn uống khao tạ. Pháp tạ lỗi dùng nước xoa mài đất làm Đàn, làm cái Đàn tròn rộng hai khuỷu tay, lớn như cái mâm cũng được, lấy 5 cái bánh hấp, 3 quả La Bặc thiêu đốt khiến cho ăn. Có hoa thì để hoa kèm thiêu đốt nhóm Bạch Giao Hương, Huân Lục Hương an ở trong Đàn

Người trì Chú ở mặt Tây của Đàn, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng Đại Tự Tại Thiên Chú 108 biến xong, nói: “Thật đáng xấu hổ! Xin hãy đi cho tốt lành”. Nói như vậy xong, lấy vật tạp chứa đầy tại mâm trong Đàn, ra khỏi cửa, hướng về phương Tây vứt bỏ, phía Tây Bắc cũng được, miệng nói là:

Tát bà dược xoa la xà, a yết tát ha bát xà ca xa”

Nói lời này xong, vứt bỏ vật liền quay về

_Đại Tự Tại Thiên Chú:

“Án, tỳ đá la tát ni, bà la mạt lợi đạt ni, sân đạt ni, sân đại ni, tần đạt ni, toa ha”

*)OṂ_ VEḌĀLA ŚANI PRAMARTHANI CCHINDANI CCHINDANI BHINDANI SVĀHĀ

Tụng 108 biến tức Tâm vui vẻ. Chẳng phải chỉ trong Mộng chỉ cảm giác có việc

Ma, liền làm Pháp an định tốt

_Dược Xoa Thần Vương Bộ Nhiếp Đại Cấp Tật. Chú thứ năm:

Dược xoa na, dược xoa na, tỳ xá già, câu bàn trà da, thế lệ đa, dược nhã, câu bàn trù hổ ốc, phô ốc, phô ốc, toa ha”

Trước tiên nên tụng 15 biến, chẳng được tụng nhiều thì tất cả Quỷ Thần bị cột trói

_Bấy giờ, Tỳ Na La Nẵng Già thống lãnh 9800 các Đại Quỷ Vương du hành ba ngàn Thế Giới. “Chúng ta đã dùng Thần Lực tự tại đi khắp các phương phụng sự bảo vệ Tam Bảo, dùng Đại Tứ Bi lợi ích cho chúng sinh”. Hướng về Đức Thế Tôn cùng phát ra tiếng nói là: “Con dùng Thần Thông tự tại cho nên có hiệu là Tỳ Na La Nẵng Già, cũng có tên là Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka), cũng gọi là Tỳ Vi Na Nẵng Già, cũng nói là Ma Ha Tỳ Na Dạ Già. Như vậy, bốn Thiên Hạ đều xưng gọi chẳng giống nhau.

Con ở Xuất Thế cũng có tên gọi riêng”

Liền dùng Thần Biến bay lên hư không, rồi nói Kệ là:

“Ta có Pháp vi diệu

Thế Gian rất hiếm có

Chúng sinh, người thọ trì

Đều cho Nguyện mãn túc

_Ta hành Pháp thuận đời

Đī bày việc hiếm cú

Ta hay tùy nguyện ấy

Có cầu tên Thiên Quan (vị Quan dời đổi)

Ta khiến quốc vương triệu

Cầu báu lạ ở đời

Khiến đời gom Trân (châu báu) lợi

Nhà tràn đầy bảy báu

_Có người cầu sắc đẹp

Phát nguyện hư không đến

Đừng nên nói xa gần

Cao quỳ với khó dễ

Chí Tâm cầu nơi Ta

Ta khiến trong phút chốc

_Chúng sinh có bệnh khổ

Thần cuồng với nhọt, ghẻ

Bệnh độc, mọi bất lợi

Trăm loại hại, thêm phiền

Tụng Đà La Ni Ta

Không gì chẳng giải thoát

_Một mình nơi ám tối

Y Ta đều không sợ

Kiếp Tặc đột nhiên xâm

Ta đều khiến tự trói

_Đời lấn hiếp, xâm phạm

Ta đều khiến tồi phục

Tiêu dao, tự khoái lạc

Uyển chuyển không chỗ thiếu

Có niệm đều vừa ý

Tùy có đều mãn túc

_Giả sử mọi ác xâm

Ta đều hay gia hộ

Ta khiến như ý ấy

Cư ngụ đều cát khánh

Cửa nhà đều yên tĩnh

Nam nữ được tiếng tốt

Vợ chồng thuận hòa hợp

_Người Thượng Phẩm trì Ta

Ta cho Nhân Trung Vương (vua trong loài người)

Người Trung Phẩm trì Ta

Ta cho làm Đế Sư (thầy của vua chúa)

Người Hạ Phẩm trì Ta

Phú Quý không dùng hết

Luôn muốn cùng vui đùa

Không gì chẳng mãn túc

Nô Tỳ xếp thành bầy

Mỹ Nữ đầy sân đi

Du hành được tự tại

Ẩn hiển hay tùy niệm

Ra vào không ngăn ngại

Không ai đo lường được

_Ta ở trong ba cõi

Thần Lực được tự tại

Giáng việc hiếm ở đời

Ta thảy đều đã làm

Nói Sở Năng của Ta

Cùng kiếp chẳng thể hết

Trì Đà La Ni Ta

Ta đều hiện trước mặt

Vợ chồng với quyến thuộc

Thường tùy được hộ vệ.

_Ta có lúc du hành

Tụng, Ta tức thời đến

Gặp ở nơi hiểm nạn

Biển lớn, mọi con sông

Nơi núi sâu, Ải hiểm

Sư tử, voi, cọp, sói

Nạn Trùng độc, các Thần

Trì Ta, đều an ổn

Nếu có kẻ xâm nhiễu

Đū bị vỡ bảy phần

Thọ mệnh đều lâu dài

Phước Lộc từ trời đến”

_Lúc đó, Tỳ Na La Dạ Ca nói Kệ này xong, bảo người đời rằng: “Nếu có chí Tâm trì Đà La Ni của Ta đủ mười vạn biến, đều nên làm Đàn tròn, tạo Tượng. Trong một ngày hoặc một thời, hoặc ba thời cúng dường đừng khiến cho thiếu sót, đủ 7 ngày hoặc

21 ngày, Ta sẽ hiện thân, tùy theo Nguyện được đầy đủ

Người đời trì Đà La Ni của Ta. Lại có Đà La Ni nên trì tụng Chú ở phút chốc mà thọ nhận sự thỉnh cầu ấy, dùng đủ Thần Lực.

Rồi nói Chú là:

Án, đát điệt tha: tỳ nẵng dạ ca tả, bả lợi ni da, toa ha”

*)OṂ_ TADYATHĀ: VINĀYAKASYA PARI-ṆEYA SVĀHĀ

_Khi ấy, Tỳ Na La Dạ Ca nói Chú này xong, lại bảo người đời rằng: “Hoặc có Pháp. Khi muốn thấy thân Ta, lại nên trì Minh Hiện Thần Chú của Ta. Người chí Tâm trì thì Ta liền đi đến trước mặt người ấy cùng nói chuyện, có Nguyện cầu gì đều làm cho đầy đủ”

Liền dùng miệng Thần, nói Chú là:

Án, bạt lợi trì dạ ca tả da, sa bà ha”

*)OṂ_ PARĪTIYA KACCHĀYA SVĀHĀ

_Bấy giờ, Tỳ Na La Dạ Ca nói Minh Hiện Chú này xong, lại bảo người đời rằng: “Nếu làm Đàn Pháp cúng dường Ta, cần phải dùng hay tay kết Ấn tụng Chú.

Dùng Ấn: đem ngón út với ngón vô danh cài chéo nhau, hơp co lại hướng vào bên trong. Liền dựng hai ngón giữa cài chéo nhau, cũng dựng ngón trỏ đều phụ ngón giữa từ bên ngoài vịn lóng đầu của ngón giữa. Đem hai ngón cái đều phụ ngón trỏ, sát bên cạnh lóng đầu, rồi đưa qua đưa lại, dùng làm ý triệu Kết Ấn thành xong, rồi nói Chú là:

Án, bạc ca chuẩn trà, a ba đá duệ, toa ha”

*)OṂ_PĀKA COḌA APATAYE SVĀHĀ

_Khi ấy, Tỳ Na Dạ Ca nói như vậy xong, lại bảo người đời rằng: “Nếu có người trì Đà La Ni của Ta, sẽ vì người đó nói Pháp làm Đàn, vẽ tượng. Ngươi nên nghe cho kỹ, chẳng được nghi ngờ khác. Giả sử có người trì Pháp thì nên chí Tâm tụng đủ 10 vạn biến, liền làm Đàn, như vậy lần thứ nhất chí Tâm thời Ta cũng tùy theo Nguyện cho đầy đủ. Lần thứ hai lập Đàn cúng dường thì Ta đều hiện rõ ràng chẳng phải đợi phút chốc. Trải qua mười lần lập Đàn cho đến trọn đời tsẽ được Thượng Phẩm Thượng Thánh chẳng thể nghĩ bàn

Pháp thọ trì, Pháp làm tượng như vậy vì sắc đẹp, quần áo. Tức bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt. Cầu tiền của, đồ vật quý báu với công danh, lợi lộc…thì bắt đầu từ ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt. Đàn tròn trịa có thể rộng khoảng một khuỷu tay, hoặc có thể lớn nhỏ tùy theo ý. Nên dùng phân của con bò nhỏ màu vàng làm nền tròn, tự tô đắp cho hợp với sự dầy mỏng tùy ý, lại gia thêm bùn hương cao khoảng bảy thốn (7/3 dm), nơi dùng đất ấy ở hang sâu không có người với nơi không có một con vật nuôi nào

Lại làm tượng. Lấy Đường Đào (cây đào) với Đường Tảo (cây táo) khắc tướng tốt chẳng được khinh lờn. Hoặc lại dùng bạc, đồng với Bạch Lạp (một chất pha chì với thiếc) đúc tượng, nhân vì dùng tướng tốt chẳng đổi mới, trân trọng làm hình tượng hai thân có đầu voi ôm nhau tương hợp, bên trái là tướng nam, bên phải là tướng nữ, cao năm thốn (5/3 dm) hoặc một xích hai (4dm) đầy đủ tướng tốt

Khi làm Tượng thời chẳng được ăn, chẳng dùng nơi ồn ào dơ bẩn, người vẽ trân quý chẳng được khinh mạn. Làm tượng xong, liền ở Tịnh Thất dựng lập cái Đàn tròn, ngay lúc ấy lấy đất hòa với Bạch Đàn Hương làm bùn, Chú vào 108 biến, sau đó đem hướng đến dầu của lò lửa, một lần Chú thì một lần rưới rót trên đỉnh đầu Tượng. Dùng một vật khí bằng đồng chứa Tượng bên trong, an ở bên trong Đàn, mặt tượng hướng về phương Tây, người hướng về phương Đông đi vào. Bên ngoài Đàn đều cách Đàn một xích (1/3m) chẳng được tiếp chạm, mỗi lần lấy muỗng đồng múc dầu thì Chú một lần rồi rưới rót lên đỉnh đầu Tượng một lần, chí Tâm đủ 108 lần. Liền phát nguyện tùy theo ý mà nói. Trong một ngày làm xong, ngày hôm sau cũng thế, đủ 7 ngày hoặc 14 ngày, 21 ngày thì Ta hiện thân, tùy theo nguyện ban cho đầy đủ.

Lại dùng ngay Đỉnh Cúng Dường bên trong Đàn. Dùng bơ, dầu làm viên Hoan Hỷ với dùng củ cải, viên ngon ngọt kèm với quả trái xong. Có làm cúng dường đều chứa trong vật khí bằng đồng, mỗi ngày mỗi thay thứ mới. Lại hoa, đèn mỗi mỗi bày đủ hoặc an ở bốn mặt. Nhóm rượu, thức ăn như vậy nếu an ở mặt tức cân nhắc chính đúng, để trước mặt tượng chẳng được để chỗ khác. Một chén đèn, một vật dùng chứa thức ăn, thuốc đều mỗi mỗi bày đủ, an cho chính đúng. Lại trì tụng, trước tiên kết Ấn tụng 108 biến, tiếp theo tụng tên 108 biến hoặc 21 biến xong, liền tụng nơi Chú chính 108 biến. Mỗi nhày như thế thì Ta nương theo thời liền hiện thân, hoặc có gió mưa thì đừng nghi sợ. Có tướng này thời thành tựu. Người đẹp đều đến, người bệnh đều khỏi, có nguyện cầu được như nguyện, chẳng thể coi thường vậy. Vui vẻ cúng dường Ta, đều vui vẻ chí Tâm phụng hành khẩu quyết

Như Tiểu Đàn lúc trước, lớn nhỏ tùy hỷ, tinh khiết cũng rộng hẹp tùy ý. Vật cúng chỉ dùng một chén rượu, một mâm xếp củ cải với quả trái chồng lên nhau, một mâm chất bơ, mật, thức ăn chồng lên nhau… đều an bên trong Đàn. Lấy cây Bach Đàn Hương hòa với một chút, đất, nước hoa dưới giếng (tỉnh hoa thủy). Lò hương lúc trước với một chén dầu, vật để trước mặt người trì Chú, trên nền của Đàn, an theo ở Nam Bắc…. dầu, vật an ở phía Nam, khói hương an ở chính giữa.

_Muốn được làm Đàn, chẳng luận lớn nhỏ đều nên trước tiên tụng Chú chính 108 biến, Chú khiến cho trong sạch. Sau đó lượng rộng hẹp dùng ngón tay vẽ đất khiến vuông vức. Liền lấy nước hương rưới vảy đất, miệng tụng Chú. Vừa tụng một biến xong: miệng trì Thần Chú, dùng nước hương rưới vảy đất, vuông tròn, thanh tịnh đứng tụng thì vị Thanh kia giáng đến, vui vẻ điều hòa Thân Tâm. Tướng của Thánh đầy đủ Âm Dương với phán đoán. Tụng 7 biến Chú xong, liền lấy phân của con bò nhỏ hòa chung, rồi Chú vào 7 biến xoa bôi đất làm nền, cần khiến cho con bò nhỏ thuận theo sự trong sạch. Nếu không có thì đem Chu Sa thay thế làm nền. Liền đem đất màu vàng hòa với hương làm bùn, cũng Chú vào 7 biến, liền tụng như Pháp, xong rồi dùng Đàn, Đàn rộng rãi. Ba ngày ba đêm đốt hương, thắp đèn tụng Chú mỗi ngày ba thời. Vào Đàn tụng Chú, một làn vào thì tụng Chú chính 108 biến. Như vậy đủ ba ngày, liền chọn lúc sáng sớm an Tượng làm Pháp, mỗi mỗi như Kinh văn. Hoặc một ngày một đêm thắp đèn sáng, đốt hương tụng Chú cũng được. Sau đó an Tượng làm Pháp. Mỗi lần chọn buổi sáng sớm với giờ Ngọ cũng được.

_Lại làm Tượng. Trước tiên lấy cây gỗ, Chú vào 7 biến, mỗi mỗi cùng với người thợ nên chặt đứt ngũ tân (Hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ)…thiết yếu nên ăn rau. Khi điều hòa hai điều chính đúng thời nếu muốn Pháp Hương thì miệng tụng Chú chẳng được nghỉ, khắc tướng tốt, để bàn tay tượng nữ nâng viên Hoan Hỷ, bàn tay tượng nam nắm cái bánh hấp, tượng nam duỗi bàn tay trái nắm tượng nữ, tay phải của tượng nữ nắm tượng nam, hai mặt tượng cùng nhìn nhau, miệng mũi (vòi voi) đều màu trắng tựa như hình Kim Cương. Như thế cần có tướng nam nữ, tượng nam có cái vòi dài cuốn lại, tượng nữ có cái vòi ngắn, mắt dài, thân mập mạp đều như cười vui, mặc áo Phất Bẩm, lúc trước gọi là Tháp Trọng (?) như các thứ dùng mặc khiến cho màu sắc mỹ lệ. Bộ này chẳng giống nhau, áo của nam chật hẹp, áo của nữ rộng rãi, bàn chân đạp lên hoa sen. Bàn chân, bàn tay, cánh tay, bắp tay đều có đeo chuỗi ngọc.

Tạo thành hình xong, liền lấy Bạch Giao Hương lau chùi. Lại đốt Bạch Giao Hương xông ướp Tượng hợp một làm cho thơm tho thanh tịnh. Liền đem Tượng an ở nơi yên tịnh, như Pháp liền tụng Chú 108 biến, như vậy mỗi ngày cho đến 7 ngày cúng dường, sau đó dựa theo Pháp Như Lai được làm Pháp, tùy theo thân an trí

Lại dùng Bạch Đàn Hương làm sự dẫn dắt, hoặc ngôn tụng 108 biến. Nếu có việc riêng cấp bách, liền tụng 7 biến. Còn như có việc cầu thỉnh gấp rút, Thân phải đi đến nơi khác cho đến nhà của người khác, việc có tình thế cấp bách… liên thiêu đốt Bạch Giao Hương, dùng bàn tay vẽ trên đất, lớn nhỏ tùy theo Tâm, dùng nước hương làm sạch đất Đàn, dùng Tượng phản ánh vật trong sạch an trong Đàn, đốt hương một ngày một đêm thì vị Thần ấy liền tùy theo hết mọi việc hướng về phía trước, nghĩa là tên gọi của vị Thần ấy chẳng được lễ bái. Nếu như một ngày đêm chẳng có hiệu nghiệm, tức 7 ngày sẽ như ý. Tuy hai ba lần làm Pháp xong, tức vị Thần ấy thường hiện ra. Nếu chẳng hiện, lại tụng Chú nghĩ nhớ chẳng lâu thì vị Thần ấy liền đến. Nên vẽ đất làm Đàn, tụng Chú, chỉ Chú nhiều biến thì thường vui vẻ. Lại khiến cho vị Thần ấy vui, liền nâng bàn tay búng ngón tay thì vị Thần ấy vui ngay. Nếu rũ bàn tay xuống thì vị Thần ấy liền giận dữ. Bày tỏ tùy theo điều đã hỏi.

_Vị Bà La Môn ở Trung Thiên Trúc dịch Bản này, là y theo người Hồ từ Tây quốc (Ấn Độ) đem đến. Các hành dụng phần lớn chẳng đồng với sự lo toan rõ ràng

Lại có một Bản là phần được trích ra từ quyển Chư Thiên Bộ trong Đà La Ni Tập Kinh. Nếu làm Phật Bộ với Bồ Tát Bộ thì một mực làm hai thân có đầu heo, đầu voi đều tự quỳ gối, hình vốn đều riêng biệt, đồng với hành dụng này.

_Lại khắc Tượng cúng dường trong mùa Tu là hơn hết. Ngay lúc này thời Âm Dương giao thái, vạn sự đều khiến cho Thiên Thần yêu thích. Việc xấu phiền não chẳng thuận Âm, cũng chẳng thuận Dương, như làm Pháp Đỉnh Ấn. Chẳng như vậy thì chọn lấy Nguyệt Thần với ngày 15, chẳng cần ngày tháng, luôn luôn thỉnh liền được

_Lại mỗi một Bản thì Pháp Sứ Giả Nô Chú này là một Chân Ngôn, việc ấy âm thầm thỉnh Thân Chú 7 biến, lại kết Ấn ấy, âm thầm làm Chú xong, trước tiên khiến thấy Bản Thủ Ấn, liền biết vị Trời đi đến ngay. Tức dùng tay thỉnh làm Hoan Hỷ Bồ Đề, khiến thỉnh tất cả việc, nhóm vật… đều biết tốt xấu. Bảy ngày muốn ra khỏi Đàn thỉ giải bỏ Pháp, Chú ba biến.

Chú là:

Án, tỳ sa bà, toa ha”

*)OṂ_ VIŚVA SVĀHĀ

_Phàm Pháp dựng Đàn, thọ nhận Đàn. Ở núi hoang vắng với bên dòng nước, trong sạch tối diệu. Chẳng như thế thì ở núi, trong nhà, viện riêng… chẳng được thấy phụ nữ sinh đẻ, phụ nữ đang mang thai, gà, chó… Tiếp theo, dùng ngày 15 của hai kỳ Hắc Bạch Nguyệt, khiến Đồng Nữ bên trên may cái áo sạch, thường mặc ở trên thân khiến ra khỏi viện

_Phàm muốn niệm tụng Thánh Giả. Trước tiên bên trong đều uống một, hai cân thuốc. Tức bên trong thanh tịnh, bên ngoài nên tắm rửa, mặc áo sạch mới, dùng ngày mồng một (Sóc) của tháng khởi đầu, ở sát dòng nước, tiến đến núi cao, vường hoa, hoặc nơi kín đáo (ẩn xứ) phát Hoằng Thệ Nguyện: “Ngày nay, con phát Tâm niệm tụng, thề nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, cứu giúp các kẻ nghèo túng, Tín thí (tiền của vật dụng của người có niềm tin đem cho) đã được, xin tu sửa chốn Già Lam (Saṃghārāma: vườn rừng có chư Tăng cư ngụ) bị phá hoại. Lại nguyện Thánh Giả Từ Bi xót thương nghe hứa”

Ba ngày khải cáo xong, cảnh Giới tiêu biểu cho Tâm như sự trắng sạch của Thánh hiện ngay trước mắt. Y theo lấy số vật cúng dường, trước tiên cần viên Hoan Hỷ, thức ăn khô vụn, cơm nắm, Mật và củ cải… chỉ là thứ thơm mới, quả trái, một chén đèn bơ dùng để cúng dường. Lấy sen cột buộc cái đèn, Tâm tùy theo thời làm Đàn an trí cúng dường. Đà La Ni ấy từ đầu đến đuôi, y theo thứ tự niệm tụng. Thánh Giả thấy việc của Thân, nên phát khiển Thân Tâm, kết Bản Thân Ấn, quỳ gối phải sát đất, ngồi hướng mặt về phương Đông, Thánh Giả hướng mặt về phương Tây, mỗi mỗi siêng đốt hương, chẳng phải là các hương của Trầm Thủy…Thiêu đốt triệu thỉnh ít nạn. Từ đây về sau, liền y theo Kinh kết Giới. Tức nên tụng Thân Chú 108 biến, nắm gốc liền nên tụng hô bên trái (tả: ?phần phía sau) 108 biến, lại tụng Căn Bản. Mỗi đêm 6 thời, một thời tụng Thân Chú, kết Thân Ấn. Dùng thời này, liền nên hô triệu, triệu như Tâm Ý trì giữ, khiến đi đến. Tức nên phát Nguyện, chỗ tu thích hợp với Tâm, chỗ nói bảo thì tự mình chẳng được tránh né nói từ cú, một lòng xưng niệm, chặt đứt tất cả vọng tưởng

Trong một năm, chẳng được ăn ngũ tân, rượu thịt. Đều chẳng nên tìm người phụ nữ ô uế bất tịnh làm việc. Như cầu nước thanh tịnh liền cùng với Sứ Giả phân tích sáng tỏ hứa cho thì liền là. Nếu chẳng hứa thì chuyển Đàn cúng dường, khi sắp muốn nằm thì gia trì vào Bơ rồi ăn, sáng sớm lại uống nửa thăng sữa, cũng nên gia trì

Như mộng thấy súc sinh, liền cúng dường Ma Hề Thủ La (Maheśvara) với Tỳ Ma La (Vimala), tạm thời ngưng niệm, làm Tượng, mỗi mỗi y theo Kinh Pháp, chẳng được ăn quả Hợp Tử đem lên nhà xí sẽ bị Thánh Giả đánh chết. Các người trì giữ tại Ý chẳng được lười biếng

_Đi du phương chẳng được đi chung với người khác. Đến chùa, chẳng được ở chung phòng với người khác. Khi ăn thì nên trích ra một phần thức ăn biểu thị cho Tâm, cúng dường chúng Thánh. Tâm Tướng với Thắng Lượng là ngay trước mặt, thấy các bậc Thánh, liền có thể cầu việc như tại cảnh giới, tức nên chuyên Tâm, mỗi lần lên nhà xí thì một lần tắm gội

Một việc Thánh này, cần thiết dùng tắm gội. Đã tắm gội xong, gia trì vào chút bột Bạch Đàn Hương xoa bôi trên thân. Trên Đà La Ni Tập có Chân Ngôn với Thủ Ấn của Thánh Bộ này, cũng lấy đồng dùng, rất có hiệu nghiệm

Thường chẳng được nói hý luận với nhóm người không có Trí, không có cãi cọ, nói lời uế ác, cần thiết phải cấm, vì Chúng của Thánh Bộ niệm tụng chẳng lìa bên cạnh mình. Phân biệt rõ ràng việc ác thì Thánh Bộ chẳng có chút than thở.

Giả sự tụng không có ích, ắt nơi thân kiếp có chỗ hao tổn, bên trong bị cấm đoán. Chẳng được đánh nhau với người khác, giả sử bị người khinh khi thì nên nhẫn nhịn ắt đối phương tự bị hao tổn. Chẳng được cao ngạo, nếu cao ngạo thì chẳng hợp với ý của Thánh. Nên giao du với người cao quý, chẳng được chung cùng với Hạ Phẩm, đồng với Thánh như Thánh có tổn thất. Chỗ của người Hạ Phẩm, giả sử được chỗ ấy thì chẳng nên nhận, tức có điều hao tổn. Nơi của người cao quý, tất cả điều đã cho thì nên thọ nhận, vận Tâm tác niệm nên ở trước mắt của người cao quý, đồng tụ một nơi. Như điều này, một mực y theo Pháp này thì trong 100 ngày liền thành. Chẳng y theo Pháp này thì không có chỗ thành, nơi thân vẫn bị tổn thất

_Nói rõ ràng đối với quả báo. Ban đêm nằm với ban ngày ngủ, thì chẳng được nằm ngửa. Nếu nằm ngửa sẽ không biết Thánh Giả đến, đè trên điều xấu, đột nhiên có Pháp oán. Sự cúng dường này chẳng được chỗ thuận tiện của Thánh Giả, thời một năm chưa mãn. Khi giao tiếp với phụ nữ, hoặc họ đến kín đáo ắt chẳng được thọ nhận, trong đêm có phụ nữ thấy rất đoan chính thì nên tác ý tránh né, đứng dậy đừng nằm

Án, độ tỳ già da, bát la xà bạt lợi ni, sa bà ha”

*)OṂ_ DHŪPYĀYA PRAJVALIṆI SVĀHĀ

_Tắm gội, 7 lần

Án, bộ, xà bạt la, hồng”

*)OṂ_ BHUḤ JVALA HŪṂ

ĐẠI SỨ CHÚ PHÁP KINH (Bồ Đề Lưu Chi)

_Hết_

Bản này chưa được chỉnh sửa ư?!…. Lại kẻ sinh sau triển chuyển ghi chép sai lầm vậy. Ngày khác xem xét bản chính để minh xác lại vậy

Thời Bảo Lịch thứ tư, Giáp Tuất, mùa Thu, Di Tắc Trung Hoán

14/05/2015