KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM

(Buddhāvataṃsaka-mahāvaipulya-sūtra)
 PHẨM NHẬP VÀO PHÁP GIỚI
 Hán dịch: Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng ĐỊA BÀ HA LA (Divā-kara)
Việt dịch: Huyền Thanh

 

Bấy giờ Ma Gia Phu Nhân (Mahā-māyā) lại bảo Thiện Tài Đồng Tử (Sudhana- śreṣṭhi-dāraka) rằng: “Này Thiện Nam Tử (Kula-putra)! Ở cõi ba mươi ba Thiên (Trāyastriṃśat-deva) của Thế Giới này, có vị vua tên là Chính Niệm, nhà vua có cô con gái tên là Thiên Chủ Quang. Ông hãy đến nơi ấy hỏi “Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát (Bodhisatva-caryā) tu Đạo Bồ Tát (Bodhisatva-patha) như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử kính nhận lời chỉ dạy ấy, cúi đầu làm lễ, nhiễu quanh vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng, lui lại rồi đi liền đến cung Trời, thấy Đồng Nữ ấy, cúi lễ bàn chân (của Đồng Nữ), nhiểu vòng quanh, chắp tay trụ trước mặt rồi bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”

Thiên Nữ đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Giải Thoát của Bồ Tát tên là Vô Ngại Niệm Thanh Tịnh Trang Nghiêm.

Thiện Nam Tử ! Tôi nhớ về đời quá khứ, có Kiếp Tối Thắng tên là Thanh Liên Hoa. Tôi ở trong kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của con sông Hằng. Các Như Lai ấy từ lúc mới xuất gia, Tôi đều chiêm phụng, thủ hộ cúng dường, dựng lập Tăng Già Lam (Saṃghārāma: Chúng Viên là vườn rừng mà chúng Tăng cư trú), làm đầy đủ các thứ lặt vặt.

Lại chư Phật ấy, từ lúc còn là Bồ Tát trụ trong bào thai của mẹ, lúc Đản Sinh, khi đi bảy bước, lúc rống tiếng Đại Sư Tử, trụ tại địa vị Đồng Tử, lúc ở trong Cung, khi hướng đến cây Bồ Đề thành Chính Giác. Khi chuyển bánh xe Chính Pháp, hiện Thần Biến của Phật, giáo hoá điều phục chúng sinh….Như vậy tất cả các việc đã làm, tứ lúc mới phát Tâm cho đến khi Pháp chấm dứt, Tôi đều nhớ rõ không có sai sót, thường hiện ngay trước mặt, niệm trì chẳng quên.

Lại nhớ đến kiếp quá khứ tên là Thiện Địa, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của mười con sông Hằng.

Lại có kiếp quá khứ tên là Diệu Đức, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng với số bụi nhỏ của một Thế Giới Phật.

Lại có kiếp tên là Vô Sở Đắc, Tôi ở kiếp ấy cúng dường tám mươi bốn ức trăm ngàn na do tha chư Phật Như Lai.

Lại có kiếp tên là Thiện Quang, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng với số bụi nhỏ của cõi Diêm Phù Đề.

Lại có kiếp tên là Vô Lượng Quang, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của hai mươi con sông Hằng.

Lại có kiếp tên là Tinh Tiến Đức, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của một con sông Hằng.

Lại có kiếp tên là Thiện Bi, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của tám mươi con sông Hằng.

Lại có kiếp tên là Thắng Du, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của sáu mươi con sông Hằng.

Lại có kiếp tên là Diệu Nguyệt, Tôi ở kiếp ấy cúng dường chư Phật Như Lai ngang bằng số cát của bảy mươi con sông Hằng.

Này Thiện Nam Tử ! Như vậy ghi nhớ hằng hà sa kiếp, Tôi thường chẳng buông bỏ chư Phật Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, từ chỗ của tất cả các Như Lai ấy, nghe Vô Ngại Niệm Thanh Tịnh Trang Nghiêm Bồ Tát Giải Thoát, thọ trì tu hành luôn chẳng gián đoạn, tuỳ thuận hướng vào. Như vậy hết thảy Như Lai của kiếp trước, từ Sơ Bồ Tát cho đến Pháp chấm dứt, tất cả Thần Biến, Tôi dùng sức Tịnh Nghiêm Giải Thoát đều tuỳ theo ghi nhớ biết rõ hết, hiện tiền trì giữ rồi thuận hành theo, chưa từng lười biếng bỏ dở.

Thiện Nam Tử ! Tôi chỉ biết Vô Ngại Niệm Thanh Tịnh Giải Thoát này, như các Bồ Tát ra khỏi bóng đêm sống chết, sáng tỏ thông suốt, lìa hẳn ngu si tăm tối, chưa từng hôn ám ngủ say, Tâm không có các điều nguy hại (chư cái), thân đi lại nhẹ nhàng an ổn. Đối với các Pháp Tính, thanh tịnh hiểu thấu. Thành tựu mười Lực, khai ngộ quần sinh…thời Tôi làm sao có thể biết, có thể nói Hạnh Công Đức ấy !…

Này Thiện Nam Tử ! Thành Ca Tỳ La (Kapilavastu) có vị Thầy là Đồng Tử (Đồng Tử Sư) tên là Biến Hữu. Ông đến đấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử đã nghe Pháp cho nên Thân Tâm vui thích Căn lành chẳng thể nghĩ bàn, Học Thuật tăng rộng, cúi đầu mặt kính lễ bàn chân của Thiên Chủ Quang, nhiễu quanh vô số vòng, lưu luyến kính ngưỡng rồi từ tạ ra đi. Từ cung Trời hạ xuống, dần hướng tới cái Thành ấy, đến chỗ của Biến Hữu thì lễ bàn chân, nhiễu quanh, chắp tay cung kính, đứng ở một bên bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”

Biến Hữu đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Ở chốn này có vị Đồng Tử tên là Thiện Tri Chúng Nghệ học Tự Trí (Trí của chữ) của Bồ Tát, ông có thể hỏi, ắt sẽ vì ông nói”

_ Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử liền đến chốn ấy, cúi đầu lễ kính, đứng ở một bên rồi bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Thời vị Đồng Tử ấy bảo Thiện Tài rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Giải Thoát của Bồ Tát tên là Thiện Tri Chúng Nghệ (Khéo biết mọi nghề). Tôi thường xướng trì, nhập vào chữ của căn bản giải thoát này.

Khi xướng chữ A _A) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Bồ Tát Uy Đức Các Biệt Cảnh Giới

Khi xướng chữ LA ( _RA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Bình Đẳng Nhất Vị Tối Thượng Vô Biên

Khi xướng chữ BA _PA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Pháp Giới Vô Dị Tướng

Khi xướng chữ GIẢ ( _CA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Phổ Luân Đoạn Sai Biệt

Khi xướng chữ ĐA ( _NA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Đắc Vô Y Vô Thượng

Khi xướng chữ LA _LA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Ly Y Chỉ Vô Cấu

Khi xướng chữ TRÀ ( _DA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Bất Thoái Chuyển Chi Hạnh

Khi xướng chữ ( _BA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Kim Cương Trường

Khi xướng chữ ĐỒ ( _ḌA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Phổ Luân

Khi xướng chữ SA ( _ṢA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Hải Tạng

Khi xướng chữ THA ( _VA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Phổ Sinh An Trụ

Khi xướng chữ NA ( _TA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Viên Mãn Quang

Khi xướng chữ GIA _YA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Sai Biệt Tích Tụ

Khi xướng chữ SỬ-TRA ( _ṢṬA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Phổ Quang Minh Tức Chư Phiền Não.

Khi xướng chữ CA _KA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Sai Biệt Nhất Vị

Khi xướng chữ _SA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Bái Nhiên Pháp Vũ

Khi xướng chữ MA _MA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Đại Lưu Thoan Kích Chúng Phong Tề Trì

Khi xướng chữ GIÀ _GA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Phổ Thượng An Lập

Khi xướng chữ SA-THA _THA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Chân Như Tạng Biến Bình Đẳng.

Khi xướng chữ _JA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhập Thế Gian Hải Thanh Tịnh

Khi xướng chữ THẤT-GIẢ _SVA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Chư Phật Chính Niệm Trang Nghiêm

Khi xướng chữ ĐÀ ( _DHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Quán Sát Viên Mãn Pháp Tụ

Khi xướng chữ XA _ŚA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Chư Phật Giáo Thọ Luân Quang

Khi xướng chữ KHƯ _KHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Tịnh Tu Nhân Địa Hiện Tiền Trí Tạng

Khi xướng chữ XOA _KṢA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Tức Chư Nghiệp Hải Tạng Uẩn

Khi xướng chữ SA-ĐA ( _STA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Quyên Chư Hoặc Chướng Khai Tịnh Quang Minh

Khi xướng chữ NHƯỠNG ( _ÑA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Tác Thế Gian Liễu Ngộ Nhân

Khi xướng chữ PHẢ ( _RTHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Trí Tuệ Luân Đoạn Sinh Tử

Khi xướng chữ ( _BHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Cung Điện Cụ Túc Trang Nghiêm.

Khi xướng chữ XA ( _CHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Tu Hành Giới Tạng Các Biệt Viên Mãn

Khi xướng chữ SA-MA _SMA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Tuỳ Thập Phương Hiện Kiến Chư Phật

Khi xướng chữ HA-BÀ ( _HVA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Vô Duyên Chúng Sinh Phương Tiện Nhiếp Thọ Lệnh Sinh Hải Tạng.

Khi xướng chữ HA ( _TSA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Thú Nhập Nhất Thiết Công Đức Hải

Khi xướng chữ GIÀ _GHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Pháp Vân Kiên Cố Hải Tạng.

Khi xướng chữ TRA _ṬHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Thập Phương Chư Phật Tuỳ Nguyện Hiện Tiền

Khi xướng chữ NOA _ṆA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Bất Động Tự Luân Tụ Tập Chư Ức Tự

Khi xướng chữ SA-PHẢ _PHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Hoá Chúng Sinh Cứu Cánh Xứ

Khi xướng chữ SA-CA ( _SKA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Chư Địa Mãn Túc Vô Trước Vô Ngại Giải Quang Minh Luân Biến Chiếu.

Khi xướng chữ _YSA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Tuyên Thuyết Nhất Thiết Phật Pháp Cảnh Giới

Khi xướng chữ ĐA-SA _ŚCA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Hư Không Pháp Lôi Biến Hống

Khi xướng chữ _ṬA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Hiểu Chư Mê Thức Vô Ngã Minh Đăng

Khi xướng chữ ĐÀ _ḌHA) thời nhập vào Môn Bát Nhã Ba La Mật tên là Nhất Thiết Pháp Luân Xuất Sinh Chi Tạng

Này Thiện Nam Tử ! Tôi xướng như vậy, nhập vào các chữ Căn Bản Giải Thoát thời 42 Môn Bát Nhã Ba La Mật này làm đầu nhập vào vô lượng vô số Môn Bát Nhã Ba La Mật

Này Thiện Nam Tử ! Tôi chỉ biết Thiện Tri Chúng Nghệ Bồ Tát Giải Thoát này, Như các Bồ Tát hay đối với tất cả Pháp khéo léo thuộc Thế Gian với Xuất Thế Gian dùng Trí thông đạt, đến ở bờ kia, phương pháp chẳng đồng, kỹ thuật khác nhau đều tổng hợp không có bỏ sót. Văn tự, toán số tích chứa sự hiểu biết sâu xa ấy. Y Dược, Chú Thuật khéo trị mọi bệnh. Có các chúng sinh bị Quỷ Mỵ bắt giữ, oán ghét Chú Trớ, Tinh Tú ác, trăm điều quái dị, xác chết chạy đến đuổi bắt, bệnh điên, bệnh động kinh, bệnh gầy gò ốm yếu, mọi loại các tật bệnh…đều hay cứu chữa khiến cho được khỏi bệnh.

Lại khéo biết riêng rẽ vàng, ngọc, chân châu, vật trang sức báu, san hô, Lưu Ly, Ma Ni, xa cừ, Kê Tát La (Keśara:vật báu ở Tây Tạng)…tất cả nơi sinh ra kho báu, phẩm loại chẳng đồng, giá cả nhiều ít…thôn xóm, doanh trại, làng, ấp, đô thành lớn nhỏ, cung điện, vườn thú, vườn hoa, vách núi, suối, cái đầm, sông ngòi. Phàm là nơi mà tất cả mọi người cư trú thì Bồ Tát đều hay tuỳ theo phương pháp nhiếp hộ.

Lại quan sát Thiên Văn, Địa Lý, sự tốt xấu của tướng người, âm thanh của chim thú, Khí hậu thế nào, năm lúa đậu dư thiếu, sự an nguy của quốc thổ… Như vậy hết thảy kỹ nghệ của Thế Gian không có điều gì chẳng thông suốt tận cội nguồn của nó.

Lại hay phân biệt Pháp Xuất Thế, tên chính đúng, nghĩa biện bác, quan sát Thể Tướng, tuỳ thuận tu hành. Trí vào trong ấy không có nghi không có ngại, không có ngu si tăm tối, không có ngu muội chậm chạm, không có lo lắng bực bội, không có chìm đắm, không có gì chẳng hiện chứng…thời Tôi làm sao có thể biết, có thể nói Hạnh Công Đức ấy !…

Này Thiện Nam Tử ! Nước Ma Kiệt Đề (Magadha) này một Tụ Lạc (Grāma). Trong đấy có cái Thành tên là Bà Đát Na (Nandavardhana) có vị Ưu Bà Di (Upāsikā) hiệu là Hiền Thắng. Ông đến đấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử cúi đầu mặt kính lễ bàn chân của Chúng Nghệ, nhiễu quanh vô số vòng, lưu luyến kính ngưỡng rối từ tạ ra đi, hướng tới cái Thành trong Tụ Lạc, đến chỗ của Hiền Thắng, lễ bàn chân, nhiễu quanh, chắp tay cung kính, đứng ở một bên rồi bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Hiền Thắng đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Pháp Môn của Bồ Tát tên là Vô Y Xứ Đạo Trường. Đã tự mình mở bày hiểu biết, lại vì người nói.

Lại được Tam Muội Vô Tận, chẳng phải là Tam Muội ấy, Pháp có cùng tận không có cùng tận. Đã hay sinh ra con Mắt không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra lỗ tai không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra lỗ mũi không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra cái lưỡi không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra cái thân không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra cái ý không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra mọi loại Tuệ Minh không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra Thần Thông vòng khắp không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra vô lượng Công Đức như sóng nhỏ sóng to trong biển đều không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính, lại hay sinh ra ánh sáng thuộc Thế Gian không có cùng tận của Nhất Thiết Trí Tính.

Thiện Nam Tử! Tôi chỉ biết Pháp Môn Vô Y Xứ Đạo Trường này. Như tất cả Hạnh Công Đức không có dính mắc của các Bồ Tát Ma Ha Tát thì tôi làm sao có thể nói hết!…

Này Thiện Nam Tử! Phương Nam có cái Thành tên là Ốc Điền. Nơi ấy vị Trưởng Giả tên là Kiên Cố Giải Thoát. Ông có thể đến đấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử lễ bàn chân của Hiền Thắng, nhiễu quanh vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng rồi từ tạ đi về phương Nam đến cái Thành ấy, chỗ của vị Trưởng Giả, lễ bàn chân, nhiễu quanh, chắp tay cung kính, đứng ở một bên rồi bạch

rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Trưởng Giả đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Giải Thoát của Bồ Tát tên là vô Trước Thanh Tịnh Niệm. Từ lúc Tôi được Giải Thoát đó trở đi Pháp Nguyện tràn đầy. Ở chỗ của mười phương Phật, không có mong cầu lại nữa.

Thiện Nam Tử ! Tôi chỉ biết Tịnh Niệm Giải Thoát này. Như các Bồ Tát Ma Ha Tát được không có chỗ sợ hãi (vô sở úy), tiếng gầm rống của Đại Sư Tử (Đại Sư Tử Hống), an trụ tại nhóm Phước Tuệ cao rộng…thời Tôi làm sao có thể biết, có thể nói Hạnh Công Đức ấy!…

Này Thiện Nam Tử ! Ngay trong cái thành này có vị Trưởng Giả tên là Diệu Nguyệt, nhà của vị Trưởng Giả ấy thường có hào quang. Ông đến chỗ ấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử lễ bàn chân của Kiến Cố, nhiễu quanh vô số vòng, rồi từ tạ ra đi, hướng đến chỗ của Diệu Nguyệt, lễ bàn chân, nhiễu quanh, chắp tay cung kính, đứng ở một bên rồi bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Diệu Nguyệt đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Giải Thoát của Bồ Tát tên là Tịnh Trí Quang Minh.

Thiện Nam Tử ! Tôi tuy biết Trí Quang Giải Thoát này. Như các Bồ Tát Ma Ha Tát chứng được vô lượng Pháp Môn giải thoát… thời Tôi làm sao có thể biết, có thể nói Hạnh Công Đức ấy!…

Này Thiện Nam Tử ! Ở phương Nam này có cái thành tên là Xuất Sinh, ở đấy có vị Trưởng Giả tên là Vô Thắng Quân. Ông đến chỗ ấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử lễ bàn chân của Diệu Nguyệt, nhiễu quanh vô số vòng, lưu luyến, chiêm ngưỡng rồi từ tạ ra đi, dần hướng về cái thành ấy, đến chỗ của vị Trưởng Giả, lễ bàn chân, nhiễu quanh, chắp tay cung kính, đứng ở một bên rồi bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Trưởng Giả đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Giải Thoát của Bồ Tát tên là Vô Tận Tướng. Tôi đã chứng Bồ Tát Giải Thoát này, nhìn thấy vô lượng Phật, được kho tàng không cùng tận (Vô Tận Tạng)

Thiện Nam Tử ! Tôi tuy biết Vô Tận Tướng Giải Thoát này. Như các Bồ Tát Ma Ha Tát chứng được Trí không có giới hạn, Biện Tài không có ngăn ngại… thời Tôi làm sao có thể biết, có thể nói Hạnh Công Đức ấy!…

Này Thiện Nam Tử ! Ở phương Nam của cái thành này có một Tụ Lạc tên là Vi Pháp, ở trong tụ lạc ấy có vị Bà La Môn tên là Thi Tỳ Tối Thắng. Ông đến chỗ ấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử lễ bàn chân của Vô Thắng Quân, nhiễu quanh vô số vòng, lưu luyến, chiêm ngưỡng rồi từ tạ ra đi, dần hướng về phương Nam, đến Tụ Lạc ấy gặp Tỳ Thi Tối Thắng, lễ bàn chân, nhiễu quanh, chắp tay cung kính, đứng ở một

bên rồi bạch rằng: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Bà La Môn đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Tôi được Pháp Môn của Bồ Tát tên là Thành Nguyện Ngữ, Bồ Tát trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai dùng tiếng nói (Ngữ) đó cho đến ở A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề không có thoái chuyển, không có đã lui, không có hiện lui, không có sẽ lui

Thiện Nam Tử ! Tôi đã trụ ở Thành Nguyện Ngữ cho nên tuỳ theo ý tạo làm, không có gì chẳng thành đầy đủ.

Thiện Nam Tử ! Tôi tuy biết Pháp Môn Thành Ngữ này. Như các Bồ Tát Ma Ha Tát cùng với Thành Nguyện Ngữ đi, dừng không có trái ngược, nói xong đã thành, chưa từng hư vọng, sinh ra Nhân của vô lượng Công Đức… thời Tôi làm sao có thể biết, có thể nói !…

Này Thiện Nam Tử ! Ở phương Nam này có cái thành tên là Diệu Ý Hoa Môn, ở đấy có vị Đồng Tử tên là Đức Sinh, lại có Đồng Nữ tên là Hữu Đức. Ông đến chỗ ấy hỏi: “ Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào?”

_ Thời Thiện Tài Đồng Tử đối với Pháp tôn trọng, lễ bàn chân của Bà La Môn, nhiễu quanh vô số vòng, lưu luyến, chiêm ngưỡng rồi ra đi, dần hướng về phương Nam, đến cái Thành ấy gặp Đồng Tử Đồng Nữ, đỉnh lễ bàn chân của họ, nhiễu quanh xong rồi ở trước mặt, chắp tay nói lời này: “Thánh Giả ! Trước đây Tôi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nhưng chưa biết Bồ Tát học Hạnh Bồ Tát, tu Đạo Bồ Tát như thế nào ? Tôi nghe Thánh Giả khéo hay dạy bảo. Nguyện vì tôi mà nói”.

Thời Đồng Tử Đồng Nữ bảo Thiện Tài rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Chúng tôi chứng đắc Giải Thoát của Bồ Tát tên là Huyễn Trụ. Dùng Tịnh Trí này quán các Thế Gian đềy Huyễn Trụ. Do Nhân Duyên sinh cho nên tất cả chúng sinh đều Huyễn Trụ. Do Nghiệp Phiền Não đã khởi cho nên tất cả Pháp đều Huyễn Trụ. Do nhóm Vô Kinh, Hữu Ái triển chuyển Duyên sinh cho nên tất cả ba cõi đều Huyễn Trụ. Do Trí điên đảo đã sinh cho nên tất cả chúng sinh: sinh diệt, sinh, già, chết, lo buồn, khổ não… đều Huyễn Trụ. Do hư vọng phân biệt đã sinh cho nên tất cả quốc độ đều Huyễn Trụ. Do Tưởng đảo, Tâm đảo, Kiến đảo, Vô Minh đã hiện cho nên tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật đều Huyễn Trụ. Do Trí chặt đứt phân biệt đã thành cho nên tất cả Bồ Tát đều Huyễn Trụ. Do chỗ thành của các Hạnh Nguyện cho nên tất cả Bồ Tát Chúng Hội biến hoá, điều phục, các chỗ cho làm đều Huyễn Trụ…

Do Nguyện với Trí đã nhiếp thành, cho nên Thiện Nam Tử ! Tự Tính của cảnh Huyễn chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện Nam Tử ! Hai người chúng tôi chỉ có thể biết Bồ Tát Giải Thoát này. Như các Bồ Tát Ma Ha Tát khéo vào vô biên lưới Huyễn của các việc… thời Hạnh Công Đức ấy, chúng tôi làm sao có thể biết, có thể nói !…”

Khi Đồng Tử, Đồng Nữ nói Giải Thoát của chính mình xong. Do các sức căn lành chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho thân của Thiện Tài mềm mại sáng bóng.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM PHẨM NHẬP VÀO PHÁP GIỚI

_MỘT QUYỂN (Hết)_

04/08/2011