KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG VÔ TƯỞNG
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, người Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN I

PHẦN 1: ĐẠI VÂN

Chương 1: NÓI VỀ ĐẠI CHÚNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương-xá cùng với chín vạn tám ngàn vị Tỳ-kheo Tăng, đứng đầu là Tôn giả Đại Ca-diếp. Tất cả những vị này đều là những bậc A-la-hán, đã chấm dứt các lậu hoặc, đều được tự tại, tâm điều hòa thuận hợp như Hương tượng vương, noi theo đường lành tâm được giải thoát, trí tuệ vô ngại, đã lìa bỏ gánh nặng, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sinh, tu tập giới cấm thanh tịnh vi diệu, đạt tới bờ kia, oai đức vời vợi, tiếng tăm vang xa, thành tựu đầy đủ tám giải thoát.

Hàng ngày, vào buổi sáng sớm, những vị ấy thường xuất thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lễ Phật, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong rồi, lui ra ngồi một bên.

Lại có chúng Tỳ-kheo-ni gồm sáu vạn năm ngàn vị, đứng đầu là Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề, cũng hàng ngày vào buổi sáng sớm, xuất thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có chúng Đại Bồ-tát gồm sáu vạn tám ngàn vị, tất cả đều là những bậc đại Hương tượng vương. Đó là:

–Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đắc Chí.

Đại Bồ-tát Đại Vân Điện Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Lôi Chấn.

Đại Bồ-tát Đại Vân Cần Tạng.

Đại Bồ-tát Đại Vân Ái Lạc.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hoan Hỷ.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tánh.

Đại Bồ-tát Đại Vân Kim Cang Thủ.

Đại Bồ-tát Đại Vân Bảo Thủ.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hống.

Đại Bồ-tát Đại Vân Danh Xưng.

Đại Bồ-tát Đại Vân Nguyện Hoa.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thí Vũ.

Đại Bồ-tát Đại Vân Bất Khinh.

Đại Bồ-tát Đại Vân Cần Hành.

Đại Bồ-tát Đại Vân Sư Tử Hống Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Mãn Vũ Tâm Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Phổ Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Chánh Kiến.

Đại Bồ-tát Đại Vân Biến Vũ Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thân Thông Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thượng Diệu.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tự Tại.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Hải.

Đại Bồ-tát Đại Vân Nhất Thiết Tự Tại.

Đại Bồ-tát Đại Vân Phước Điền.

Đại Bồ-tát Đại Vân Nhất Thiết Thí An.

Đại Bồ-tát Đại Vân Nhật Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Nguyệt Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Lưu Ly Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Lượng Giả.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thường Kiến.

Đại Bồ-tát Đại Vân Ngã Kiến.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tịnh Kiến.

Đại Bồ-tát Đại Vân Lạc Kiến.

Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Ngại.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thường Thắng.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tịnh Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đắc Xưng.

Đại Bồ-tát Đại Vân Ái Mạng.

Đại Bồ-tát Đại Vân Giả Chủ.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thuận Sư.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hiện Đạo.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hộ Tử.

Đại Bồ-tát Đại Vân Thắng Phân Đà Lợi.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hỏa Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Ba Đầu Ma.

Đại Bồ-tát Đại Vân Ưu Bát La Hương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Uy Đức Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Động Dao.

Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Sở Úy.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đa Ma La Bạt Thọ Diệt Lương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Xích Chiên Đàn Thọ Lương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Cực Thâm.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tri Thiện Sư.

Đại Bồ-tát Đại Vân Na La Diên Đại Hỷ.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Ngưu Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Thọ Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Pháp Phân Đà Lợi Phu.

Đại Bồ-tát Đại Vân Chấp Trì Pháp Quang.

Đại Bồ-tát Đại Vân Xưng Vương Môn.

Đại Bồ-tát Đại Vân Kim Sơn Hữu Đức Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Vô Bố Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Y Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đại Thân Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hư Không Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tu Phát Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hoại Vân Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hoại Phong Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Hoại Vũ Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Tỷ Nghê Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đoạn Ám Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Đoạn Bạc Vương.

Đại Bồ-tát Đại Vân Ca Diếp.

Các vị Đại Bồ-tát Đại Vân như thế, cũng vào sáng sớm, xuất thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có năm vạn tám ngàn Đồng tử Lê-xa, như:

–Lê-xa Sư Tử Quang.

Lê-xa Pháp Đức.

Lê-xa Pháp Tiện.

Lê-xa Thích Đức.

Lê-xa Thích Tràng.

Lê-xa Thích Phan.

Lê-xa Sư Tử Hống.

Lê-xa Bảo Linh Thanh.

Lê-xa Ái Đức.

Lê-xa Danh Quý Đức.

Lê-xa Kim Cang Tu.

Lê-xa Phật Nô.

Lê-xa Như Lai Nô.

Lê-xa Thế Tôn Nô.

Lê-xa Bà Già Bà Nô.

Lê-xa Chánh Giác Nô.

Lê-xa Thế Tôn Nguyệt Nô.

Lê-xa Đại Thủ.

Lê-xa Đại Tinh Tiến.

Lê-xa Hằng Hà Đắc.

Lê-xa Văn Thù Sư Lợi.

Lê-xa Di Lặc.

Lê-xa Đại Long.

Lê-xa Long Hộ.

Lê-xa Pháp Hộ.

Lê-xa Quảng Xưng.

Lê-xa Hư Không Vân.

Lê-xa Hằng Hà Hộ.

Lê-xa Kim Hoa.

Lê-xa Điện Quang.

Lê-xa Đại Quảng Diện.

Lê-xa Tánh Quảng.

Lê-xa Tự Tại Đắc.

Lê-xa Tự Tại Địa.

Lê-xa Địa Man.

Lê-xa Phương Đẳng Nô.

Lê-xa Kim Cang Nô.

Tất cả những Đồng tử Lê-xa này đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, giữ gìn Đại thừa, ưa thích Đại thừa, những ai được giáo hóa đều hướng về Đại thừa. Chư vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có bốn vạn bốn ngàn vua trời như:

–Vua trời Ái Kiến.

Vua trời Nhất Thiết Ái.

Vua trời Nguyệt Phát.

Vua trời Nhật Sắc.

Vua trời Trường Nhĩ.

Vua trời Thanh Sắc

Vua trời Tinh Tấn.

Vua trời Thâm Mục.

Vua trời Đại Hắc.

Vua trời Viễn Tuệ.

Vua trời Hư Không Mục.

Vua trời Ái Đức.

Vua trời Ái Tu.

Vua trời Ái Xưng Quang.

Vua trời Ái Diện Quang.

Vua trời Nhất Thiết Hỷ Niệm.

Vua trời Lưu Ly Quang.

Vua trời Quang Ái.

Vua trời Bán Nguyệt.

Vua trời Đại Thanh Vi Diệu.

Vua trời Dũng Hoại Phiền Não.

Vua trời Nhất Thiết Ái.

Vua trời Đồng Tử Ái.

Vua trời Mạn Đà La Hoa.

Vua trời Vô Thường.

Vua trời Thuộc Mão Tinh.

Những đại Thiên vương như thế đều ưa thích Đại thừa, rộng nói pháp Đại thừa, giữ gìn Đại thừa, thọ trì tất cả pháp Tam-muội tổng trì, ban phát những việc an lạc cho chúng sinh. Chư vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có ba vạn tám ngàn vua rồng, như:

–Vua rồng Liên Hoa.

Vua rồng Đức Xoa Ca.

Vua rồng Ca Ca La.

Vua rồng Hòa Tu Kiết.

Vua rồng Ái Đức Tu.

Vua rồng Đại Địa.

Vua rồng Nha Lợi.

Vua rồng Tịnh Mục.

Vua rồng Sư Tử.

Vua rồng Loa Thanh.

Vua rồng Cổ Thanh.

Vua rồng Kim Quang.

Vua rồng Kim Sắc.

Vua rồng Hắc Tu.

Vua rồng Trì Đại Vũ.

Vua rồng Đại Hải.

Vua rồng Chỉ La Bà.

Vua rồng Phạm.

Vua rồng Nguyện Ái.

Vua rồng Y La Bát.

Vua rồng Đà Tỳ La.

Vua rồng Hằng Hà.

Vua rồng Hạnh Đầu.

Vua rồng Bác Xoa.

Vua rồng Tư Đà.

Vua rồng Hữu Đức.

Vua rồng A Nậu Đạt.

Vua rồng Bát Thụ Na.

Vua rồng Nhân.

Vua rồng Phi Nhân.

Vua rồng Nhân Đầu.

Vua rồng Kiết.

Vua rồng Huân Luật.

Vua rồng Tỳ Xá La.

Vua rồng Loa.

Vua rồng Hoàng Sắc.

Vua rồng Nan Đà.

Vua rồng Ưu Ba Nan Đà.

Vua rồng Tỳ Lâu Lặc Xoa.

Đề Đầu Lại Trá.

Vua rồng Tỳ Sa Môn.

Vua rồng Bán Xà La.

Vua rồng Ma Na Tư.

Những vua rồng như thế đều ưa muốn nghe nhận kinh điển Đại thừa, được nghe liền muốn trình bày rộng rãi, phân biệt cho tất cả, muốn giữ gìn chánh pháp, che chở bảo bọc chánh pháp. Vì muốn che chở chánh pháp nên những vua rồng này đã giữ gìn giới cấm một cách bền chắc, gánh vác trách nhiệm nặng nề của giáo pháp. Chư vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có ba vạn sáu ngàn vua thần Dạ-xoa. Đó là:

–Vua quỷ Tỳ Sa Môn.

Vua quỷ Hư Không.

Vua quỷ Ái Đức.

Vua quỷ Tất Thí.

Vua quỷ Đại Anh Lạc Trang Nghiêm.

Vua quỷ Nhất Hướng Thị.

Vua quỷ Động Đại Địa.

Vua quỷ Thiện Mao.

Vua quỷ Thiện Ái Gia.

Vua quỷ Ma Ni Bạt Đà.

Vua quỷ Mãn Thành.

Vua quỷ Liên Hoa Quang.

Vua quỷ Xa Luân Đài.

Vua quỷ Đại Hải Thắng.

Các vua quỷ Dạ-xoa này đều thực hành theo con đường của Như Lai A-súc, che chở chánh pháp, giữ gìn giới cấm. Các vị cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có bốn vạn chín ngàn vua chim cánh vàng. Đó là:

–Vua chim cánh vàng Lực Đẳng Hương Tượng.

Vua chim cánh vàng Kiên Cố.

Vua chim cánh vàng Cổ Thanh.

Vua chim cánh vàng Hoại Nhất Thiết Long Vương Lực.

Vua chim cánh vàng Hỏa Quang.

Vua chim cánh vàng Ban Sí.

Vua chim cánh vàng Luân Diện.

Vua chim cánh vàng Ác Tánh.

Vua chim cánh vàng Hoại Hòa Tu Kiết Long Vương Quyến Thuộc.

Vua chim cánh vàng Đại Hỷ.

Vua chim cánh vàng Thật Kiến.

Vua chim cánh vàng Hỷ Thuyết Đại Từ.

Vua chim cánh vàng Pháp Hỷ.

Vua chim cánh vàng Kim Sí Ái.

Tất cả những vua chim cánh vàng như thế đều không còn sự kiêu mạn, buông lung, đều đạt được tâm ưa thích, che chở pháp Đại thừa, bảo bọc che chở tất cả chánh pháp của chư Phật. Những vị này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có sáu vạn tám ngàn vua Càn-thát-bà. Đó là:

–Vua Càn-thát-bà Hỷ.

Vua Càn-thát-bà Tự Tại Ca.

Vua Càn-thát-bà Hiện Tại Ái.

Vua Càn-thát-bà Ngưu Vương Đắc.

Vua Càn-thát-bà Vân Phú.

Vua Càn-thát-bà Mạng Mạng.

Vua Càn-thát-bà Các Các Thanh.

Những vị vua Càn-thát-bà này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có chín vạn tám ngàn vua Khẩn-na-la, đó là:

–Vua Khẩn-na-la Thiện Kiến.

Vua Khẩn-na-la Trường Tỷ.

Vua Khẩn-na-la Dẫn Tâm.

Vua Khẩn-na-la Thê Ái.

Vua Khẩn-na-la Hoại Phiền Não.

Vua Khẩn-na-la Hoại Oán.

Vua Khẩn-na-la Ma Vương Nữ Ái

Vua Khẩn-na-la Hoại Ma Quyến Thuộc.

Vua Khẩn-na-la Tuệ Tạng.

Vua Khẩn-na-la Thâm Mục.

Vua Khẩn-na-la Tịnh Quý Đức.

Vua Khẩn-na-la Điều Căn.

Vua Khẩn-na-la Viễn Kiến.

Các vị vua Khẩn-na-la này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có một vạn tám ngàn vua La-sát, như:

–Vua La-sát Chử Khôi.

Vua La-sát Thủy Ngưu Đầu.

Vua La-sát Hoàng Phát.

Vua La-sát Sai Xỉ.

Vua La-sát Long Lâu Nhĩ.

Vua La-sát Tham Mật.

Vua La-sát Mật Sắc.

Vua La-sát Đại Yết.

Vua La-sát Đại Ẩm.

Vua La-sát Dĩ Phát Phú Thân.

Vua La-sát Đại Lực.

Vua La-sát Khả Úy Sắc.

Những vị vua La-sát này đều đã dứt trừ sự nghĩ tưởng của La-sát, chuyên dùng pháp Đại thừa chế phục tâm mình. Chư vị cũng vào sáng sớm, rời khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có ba vạn tám ngàn vua thần Đà-na-bà, như:

–Vua Đà-na-bà Tượng Diện.

Vua Đà-na-bà Nha.

Vua Đà-na-bà Phản Túc.

Vua Đà-na-bà Lư Thanh.

Vua Đà-na-bà Hoa Nhĩ.

Vua Đà-na-bà Bảo Nhĩ.

Vua Đà-na-bà Thử Đắc.

Vua Đà-na-bà Ly Đắc.

Vua Đà-na-bà Thử Lang Nghi.

Vua Đà-na-bà Di Hầu Diện.

Vua Đà-na-bà Nguyệt Diện.

Những vị vua Đà-na-bà này, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có bảy vạn tám ngàn vua Cưu-bàn-trà, đó là:

–Vua Cưu-bàn-trà Tượng Nhĩ.

Vua Cưu-bàn-trà Ky Nhĩ.

Vua Cưu-bàn-trà Đại Phì.

Những vị vua Cưu-bàn-trà này, đều đã lìa bỏ mọi sư suy nghĩ của loài Cưu-bàn-trà, cũng vào sáng sớm, những vị này ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có ba vạn tám ngàn vua ngạ quỷ đói. Đó là:

–Vua Điện Quang Minh.

Vua Đại Thí.

Vua Nhất Thiết Canh.

Vua Tiễn.

Vua Đại Hải Đào Ba.

Tất cả vua ngạ quỷ này đều ưa thích kinh điển Đại thừa, thọ trì chánh pháp, thường trình bày rộng rãi, phân biệt cho chúng sinh. Họ khát ngưỡng Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, hâm mộ Đại thừa, chuyên dùng Đại thừa để tự trang nghiêm, thường phát đại nguyện đắc giới đắc tuệ. Những vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có tám vạn tám ngàn vua A-tu-la. Đó là:

–Vua A-tu-la Tỳ Ma Chất Đa.

Vua A-tu-la Phú Lâu Na.

Vua A-tu-la Niệm Quốc.

Vua A-tu-la Tịnh Hằng Hà Tỳ Nữu.

Vua A-tu-la Lợi An.

Vua A-tu-la Tượng Yết.

Vua A-tu-la Tam Giác Sơn.

Vua A-tu-la Hôi Phát.

Vua A-tu-la Đại Ác Tánh.

Vua A-tu-la Hỏa Quang.

Tất cả vua A-tu-la này đều lìa bỏ sự suy nghĩ của loài A-tu-la, tâm được điều phục, lìa hẳn mọi kiêu mạn, không còn buông lung. Những vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có sáu vạn năm ngàn vua Đại thần chú. Đó là:

–Vua Bảo Trì.

Vua Vô Tận Tài.

Vua Vô Ngại.

Vua Bất Đối.

Những vua Đại thần chú này, yêu kính pháp Đại thừa, ưa nói Đại thừa, ủng hộ Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, đạt định Đại thừa, đủ hạnh bình đẳng, thường muốn dứt trừ mọi nghi ngờ nơi tâm, che chở chánh pháp, vâng giữ tịnh giới. Những vị ấy, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có chín vạn chín ngàn Tiên nhân chứng năm thần thông. Đó là:

–Tiên nhân Na La Tha.

Tiên nhân Nhuệ Phù La.

Tiên nhân Bạt Di Ca.

Tiên nhân Thiện Nô.

Tiên nhân Kiệt Già.

Tiên nhân Thái Bạch.

Tiên nhân Huỳnh Hoặc.

Tiên nhân Lộc Giác.

Tiên nhân Lộc Mục.

Tiên nhân Ly Mạn.

Tiên nhân Bà Tư Tra.

Tiên nhân Hoan Hỷ.

Tiên nhân Ngũ Ấm.

Tiên nhân Kiếp Sơ.

Tiên nhân Đại Vân Sắc Y.

Tiên nhân Thiên Y.

Tiên nhân Kiều Thi Ca.

Tiên nhân Phả La Đọa.

Tiên nhân Long Thanh.

Tiên nhân Hữu Đức.

Tiên nhân Đoạn Nhục.

Tiên nhân Thí Nhất Thiết Mạng.

Tất cả Tiên nhân chứng năm thần thông đó, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có Thiên Đế thích cùng vô lượng vô số chúng trời Tam Thập Tam, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có Tứ Thiên vương, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có vua Ba-tư-nặc – chủ nước Xá-vệ – cùng các tiểu vương trang nghiêm bốn thứ binh. Những vua này đều yêu kính pháp Đại thừa, ưa nói Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, che chở chánh pháp, thọ trì tịnh giới. Các vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh`lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có năm vạn ba ngàn đại Trưởng giả, như: Trưởng giả Tu-đạtđa v.v…, đều là những vị đã thọ năm giới, đã phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, yêu kính Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, hâm mộ Đại thừa, che chở Đại thừa, vâng giữ tịnh giới, vì các chúng sinh tùy thuận Bồ-đề. Những vị ấy, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có chủ nước Chiêm-bà, tên Nguyệt Hộ cùng các tiểu vương thọ trì năm giới, cùng phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Những vị ấy cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có mười sáu nước lớn, như:

–Nước Ương-già-đà.

Nước Ma già-đà. Nước Ca-thi.

Nước Câu-tát-la.

Nước Bạt-kỳ.

Nước Ma-la.

Nước Phân-đà.

Nước Tu-ma.

Nước A-ma.

Nước A-bàn-đề.

Nước Câu-lưu.

Nước Bán-thời-la.

Nước Bạt-sai.

Nước Thủ-la-tiên-na.

Nước Dạ-bàn-na.

Nước Kiếm-phổ-xà.

Mọi chúng sinh trong mười sáu nước lớn này đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có phu nhân Mạt-lợi cùng một vạn sáu ngàn phu nhân khác, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có một vạn tám ngàn chúng Ưu-bà-di như Bà-tỳ-xá-khư v.v… Tất cả chúng Ưu-bà-di này đều phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng, ưa thích Đại thừa, mong mỏi Đại thừa, ủng hộ chánh pháp, vâng giữ tịnh giới, vì muốn tập hợp, trợ giúp đạo pháp nên tu đạo Bồđề, tất cả đều đạt được tâm không thoái chuyển, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện thọ thân nữ, thường thích tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa, và cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có Thiên tử Tự Tại cùng vô lượng thiên chúng hiện thần biến lớn phóng ra ánh sáng năm màu, đem các loại hoa như núi Tu-di: hoa Ưu-bát-la, Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, hoa hương, hoa đại hương, hoa vi diệu, hoa đại vi diệu, hoa ái kiến, hoa đại ái kiến, hoa thời, hoa thường, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, cùng các thứ hương như: hương chiên-đàn, hương hoa, hương phức-ca, với các thứ kỹ nhạc, các loại hoa lớn như bánh xe. Những vị trời ấy, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có hàng vạn Phạm thiên như Phạm thiên Loa-kế v.v… vô lượng Phạm thiên này, đều phóng ra ánh sáng năm màu, có năng lực phá tan mọi tham dục hắc ám của chúng sinh hiện có nơi núi Kỳ-xàquật. Các vị Phạm thiên ấy đem vô số loại hương tạp, hoa, kỹ nhạc đi đến chỗ Phật ở tại rừng Trúc Ca-lan-đà, núi Kỳ-xà-quật, trong đại thành Vương-xá. Tại đây, đất đai ngang dọc một do-tuần, các y trời trải kín khắp mặt đất, như: y Kiều-thi-ca, y Ca-lăng-già, y Sô-ma, y Câunhuệ-bà; lại dựng tòa sư tử bảy báu, cao một trăm vạn tám ngàn dotuần, bày biện những vật cúng dường xong, các Phạm thiên đều nhiễu quanh Như Lai đủ ba mươi vòng, rồi cởi y báu mang nơi thân, phủ lên trên Như Lai và nói:

–Cúi xin Như Lai hãy vì các chúng sinh mưa xuống cơn mưa pháp.

Lúc đó, từ nơi không trung phát ra âm thanh lớn:

–Bạch Thế Tôn! Mặc dù được nghe nói về pháp thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng tất cả chúng sinh không thể nào hiểu được. Cúi mong Như Lai hãy trình bày, giảng nói.

Lại có vô lượng Nga vương, như Nga vương Sư Tử v.v… đem đầy đủ những thứ cúng dường như các loại hoa hương để cúng dường tòa sư tử báu.

Lại có vô lượng Khổng tước vương như Thiện Mục v.v… đem các loại hương hoa, những kỹ nhạc vi diệu cúng dường Phật.

Lại có vô lượng Điểu vương Câu-chỉ-la, như Điểu vương Thiện Hạnh v.v… cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có Điểu vương Ca-lan-đà trên núi Tuyết, như Điểu vương Liên Hoa v.v… đem các hương hoa, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có vô lượng Điểu vương Mạng mạng, như Điểu vương Vô Ngại v.v… cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có vô lượng vua thần núi, đứng đầu là vua thần núi Tu-di, cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Lại có vua các loài cỏ thuốc ở Hương sơn, như vua Nhẫn Nhục v.v… cũng vào sáng sớm, ra khỏi thiền định, đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng, xong xuôi, lui ra ngồi một bên.

Bấy giờ, mọi cây cối hiện có đều trổ hoa quả. Mọi kỹ nhạc không tấu tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu. Mọi loài thú dữ như sư tử v.v… trong núi Tuyết đều phát khởi tâm từ, xem nhau như mẹ với con.

Lại có tất cả các loài trùng độc như muỗi, nhặng v.v… đều đạt tâm từ xem nhau như con một.

Các loài chim dữ cũng lại như vậy.

Lại có bốn loại rắn độc, đó là: loại rắn độc nhìn, loại rắn độc phì hơi, loại rắn độc cắn, loại rắn độc xúc chạm v.v… cũng đều đạt được tâm từ.

Cả đến mười sáu loại luật nghi xấu ác cũng đều như vậy. Các chúng sinh ác thảy đều thọ năm giới.

Khi đó, tất cả đại chúng cùng đều thọ trì giới hạnh thanh tịnh, ưa muốn nghe thọ kinh điển Đại thừa, cung kính Đại thừa, ủng hộ Đại thừa, những kẻ chê bai hủy báng Đại thừa, khi thấy việc như thế cũng đều thọ trì, cung kính cúng dường.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, đảnh lễ Phật, quỳ dài, chấp tay, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chư đại chúng ở đây đều có lòng hồ nghi. Nay con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn cho phép.

Đức Phật nói:

–Tốt lắm! Hay lắm! Này thiện nam! Ta có thể phá tan sự nghi ngờ nơi tâm của đại chúng. Có điều gì, ông cứ thưa hỏi.

Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát làm sao tu hành đạt được Đà-lani?

Làm sao có khả năng đạt được Tam-muội đại hải?

Làm sao có khả năng giải thích những lời bí mật của chư Phật?

Làm sao đạt được sự nhận biết đầy đủ về pháp vị?

Làm sao thấy được Tạng kín đáo?

Làm sao hội nhập vào nơi an ổn thấy được sự tồn tại mãi mãi của Như Lai?

Làm sao có khả năng đạt được Tạng báu của Như Lai? Chấm dứt vĩnh viễn mọi bần cùng khốn khổ của chúng sinh?

Làm sao có khả năng giải thích được nghĩa lý sâu xa của chư Phật Như Lai?

Làm sao có khả năng đến được bờ biển giải thoát của chư Phật Như Lai?

Làm sao Bồ-tát hội nhập vào cảnh giới của chư Phật Như Lai?

Làm sao Bồ-tát lại hộ trì mọi pháp huyễn của chư Phật?

Làm sao Bồ-tát đạt được pháp của Như Lai, khi đạt rồi lại có khả năng diễn nói?

Làm sao có khả năng biết được tất cả pháp giới?

Làm sao đạt được thân tuệ tinh, thân nguyệt, thân nhật (thân sao chổi, thân mặt trời, thân mặt trăng) của Phật?

Làm sao đạt được biên vực tận cùng của Như Lai?

Làm sao có khả năng đạt được nghiệp thanh tịnh của chư Phật?

Làm sao đạt được con đường hành hóa của Như Lai đi?

Làm sao đạt được ao thanh tịnh thâm diệu của Phật?

Làm sao được hoa Phân-đà-lợi của Phật?

Làm sao đạt được sức tự tại của Phật?

Làm sao có khả năng đạt được tài sản của chư Phật?

Làm sao có khả năng thấy được thật tướng của Như Lai?

Làm sao thấy được sự thường trụ bất biến của Phật?

Làm sao có khả năng đạt được màu sắc vàng ròng của Như Lai?

Làm sao Bồ-tát đạt được ngôi vị Pháp vương của Phật? Làm sao có khả năng đạt được pháp thân kim cương?

Làm sao đạt được thường thân, thường thanh của Phật?

Làm sao Bồ-tát đến được nơi an ổn của Như Lai mà không có tưởng an ổn?

Làm sao thấy được thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật Như Lai mà chẳng phải là ác kiến?

Thế nào là pháp thân chân thật, sinh thân chân thật của Như Lai?

Thế nào là thân kim cương của Như Lai xua tan mọi tạp thân?

Thế nào là thấy thân hoại mà gọi là cái thấy chân chánh?

Thế nào là thân Như Lai không được gọi là thân do máu, thịt, gân, xương kết hợp thành, hay là có những thân như thế?

Thế nào là quán không khi nghe Như Lai nói pháp?

Thế nào là những điều đã đạt được?

Thế nào là khi nói pháp lại nghe đầy đủ về pháp vô sở hoạch, hoặc vô sở hữu?

Thế nào là được nói về cái thường, chân thật của Như Lai?

Thế nào là nhập Niết-bàn hoặc không nhập Niết-bàn?

Thế nào gọi là giới thật ngữ hoặc không tịnh uế?

Tại sao khen ngợi việc trì giới là pháp Phật không bị diệt?

Tại sao nói pháp diệt, lại nói khi pháp diệt có nhiều người phá hủy giới cấm? Tánh tịnh của Phật Như Lai là thượng tịnh, là cứu cánh tịnh chăng? Tánh của những người hủy hoại giới cấm cũng như vậy phải không?

Thế nào là ưa thích sinh tử?

Thế nào là chư Bồ-tát thường nói về cái vui của sinh tử?

Thế nào là chư Bồ-tát lại ưa thấy tánh của Như Lai?

Thế nào là sự thường hằng của phiền não?

Thế nào là ưa phiền não?

Thế nào là lại nhập vào được tất cả cửa phiền não?

Thế nào là có khả năng tu được tất cả nghiệp của cõi Phật?

Thế nào là khéo biết được gốc rễ của phiền não?

Thế nào là các Bồ-tát có khả năng khéo diệt trừ được tâm nghi ngờ về thường, lạc, ngã, tịnh đối với Phật, hoặc là không có tâm hồ nghi?

Thế nào là sợ sống chết, hoặc là có sự sợ hãi đối với sự sống chết?

Thế nào là ưa đắm chấp?

Thế nào là đạt được con đường của Phật?

Thế nào là chuyển bánh xe chánh pháp?

Thế nào là hướng dẫn cho chúng sinh nhận biết Phật tánh không thể bị đoạn trừ?

Thế nào là đối trị chúng ma, khiến lìa cảnh giới ma?

Thế nào là đưa chúng sinh vượt qua biển khổ lớn sống chết?

Thế nào là nói về sống chết, chỉ dẫn con đường sống chết?

Thế nào là đạt được biển cả vô lượng của sự sống chết?

Thế nào là cầu sống chết, khát khao con đường sống chết?

Thế nào là tham sống chết, nuối tiếc không buông bỏ?

Thế nào là mở bày sự sống chết giống như Phân-đà-lợi?

Thế nào là sự ràng buộc của phiền não giống như bốn biển lớn?

Thế nào là các phiền não thường khởi lên giống như sự phát nguyện?

Thế nào là có được tâm địa ngục?

Thế nào là thường cầu tâm địa ngục?

Thế nào là tu tập giới cấm địa ngục?

Thế nào là chấm dứt hết thân địa ngục do nghiệp hành của địa ngục đao, kiếm, cung, tên, dùi, vòng lửa…?

Thế nào là có khả năng phá tan quả địa ngục của chúng sinh?

Thế nào là tạo sự an lạc cho chúng sinh ở địa ngục?

Thế nào là giáng cơn mưa lớn xuống dập tắt ngọn lửa địa ngục?

Thế nào là thân ở địa ngục nhưng không chịu hình phạt?

Thế nào là làm người chèo thuyền dẫn dắt cho địa ngục?

Thế nào là làm vị thuốc hay, lớn cho địa ngục?

Thế nào là có khả năng bít lấp con đường địa ngục?

Thế nào là làm ngọn đuốc tuệ phá tan sự u ám nơi sinh tử?

Thế nào là không bị vấy bẩn do sự độc hại của phiền não sinh tử? Tuy trụ nơi vô sở trụ mà không đồng với không trụ, lại có khả năng tiêu trừ mọi phiền não, như mặt trời phá tan tuyết, thấy được thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai, tâm an trụ như núi Tu-di, không lay động, không chuyển dời, giống như cây cờ của Đế thích. Như Lai thật sự không có Niết-bàn cứu cánh, cũng nói Như Lai nhập vào Niết-bàn, tâm ấy không hoại, giống như kim cang?

Thế nào là có được sự xấu hổ?

Thế nào là đạt được thân tướng tốt đẹp?

Thế nào là lại có khả năng đạt thân được mọi người ái kính?

Thế nào là đạt được không tham lam?

Thế nào là đạt được không giận dữ?

Thế nào là có khả năng đạt được ánh sáng vi diệu?

Thế nào là đạt được tánh chân chánh?

Thế nào là đạt được sự tự tại?

Thế nào là có khả năng đạt được quyến thuộc của đại chúng?

Thế nào là có khả năng đạt được quyến thuộc không hoại, không lui, không mất, không tham ăn uống, thường tu hạnh biết vừa đủ, trọn không ăn thịt, thường sinh lòng yêu mến đối với các chúng sinh, thường được thế gian cung kính, tôn xưng là bậc đại thí chủ cho tất cả, bậc đại lực (sức lực mạnh mẽ), bậc kiện hành (bước đi vững chắc), bậc có lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, đại tuệ tổng trì, tùy thuận theo thế gian làm an lạc cho thế gian?

Thế nào là đạt được sự vô thượng của thế gian, vô thắng của thế gian, vô biên của thế gian; thường thực hành chánh ngữ, tu hành phạm hạnh; thực hành hạnh đại bi, hạnh hỷ, thánh hạnh; thấy cõi pháp không rồi tùy thuận diễn nói, thấy cõi bất không nói cũng như vậy; nói tướng pháp Phật, thấy pháp chân chánh của Phật, đạt được sự tự tại trong sạch; giữ gìn giới tài, đức tài, pháp tài và bất thực tài, vì chúng sinh nghèo đạt được tài vật chứa nơi thân; vì các chúng sinh đạt được ba loại định: không, vô tướng, vô nguyện; muốn sinh tịnh độ thì đạt thân theo nguyện. Tuy vì các chúng sinh phải thọ ấm thân này nhưng không vì vậy mà cầu chúng sinh phải báo đáp ân đức, ca ngợi việc tu trì giới, quở trách việc phá giới, không bị đám người tà vạy cản trở, quấy phá. Tuy đọc ngoại điển nhưng không theo nghĩa lý, những lời thuyết giảng về cú nghĩa không dứt. Tuy được mệnh danh là Sa-môn, Bà-la-môn nhưng hoàn toàn không phát sinh ý tưởng của Sa-môn, của Bà-la-môn. Tuy tỏ tường về toán số, chú thuật nhưng tâm chưa từng có ý nghĩ lệ thuộc. Tuy vì chúng sinh hiện vào thiên tự, cung kính cúng dường, y chỉ lễ bái nhưng trong tâm thường y vào pháp giới. Hiện tại làm mười điều ác, kỳ thật là hành phạm hạnh, được chư Phật hộ niệm, xem như con một. Hay khéo hộ trì pháp thân chư Phật, có khả năng chuyển tất cả bánh xe chánh pháp của chư Phật; thấy một cách sâu xa về tướng chân thật cùng pháp giới thâm diệu của chư Phật, tu hành tất cả mọi hành của chư Phật, đạt được vô lượng thân cùng vô lượng hạnh, khéo giải thích mọi mật ngữ của chư Phật, cùng trừ bỏ kiêu mạn giống như chư Phật; khéo nói nghĩa lý sâu kín của pháp giới. Tuy nói kiêu mạn nhưng không có ý tưởng kiêu mạn, cũng không dạy người khác kiêu mạn. Tâm không tham, sân, si, sợ hãi, giống như chư Phật, hạnh nguyện vô lượng, sự kín đáo vô lượng, chư pháp vô lượng, ưa nói vô lượng, tánh tướng vô lượng, chân thật vô lượng, thấy chân, thấy thật, thấy tánh, thấy pháp. Vì muốn đoạn trừ phiền não cho chúng sinh nên diễn nói pháp, thường được tri kiến của chư Phật Thế Tôn, vượt hẳn biển cả của mọi sự ràng buộc theo phiền não. Vì muốn độ chúng sinh nên nói pháp vượt biển cả của mọi sự ràng buộc nơi phiền não. Đối với những người tự mình được độ, đã độ, chưa độ, những người tự mình được thoát, đã thoát, chưa thoát, những người tự mình được an, đã an, chưa an và những người chưa được Niết-bàn thì đều khiến đạt được sự Niết-bàn, tự thấy pháp giới một cách rõ ràng chân thật; hoặc vì chúng sinh nói thật – không thật. Trải qua vô lượng kiếp đã phá tan bốn loại ma, vì các chúng sinh nên hiện ở nơi cây đạo hàng phục chúng ma. Tri kiến thật bên trong từ lâu đã phá tan các ma, vì các chúng sinh nên nói nay phá trừ, dùng phương tiện khéo léo chuyển bánh xe chánh pháp, dùng phương tiện khéo léo để hiện nhập Niết-bàn?

Thế nào là có khả năng đạt được thần thông của chư Phật?

Thế nào là đạt được ngôi Pháp vương của Phật Như Lai?

Thế nào là đạt được tạng pháp bí mật của Phật?

Thế nào là đạt được sự không thể nghĩ bàn của Phật?

Thế nào là có khả năng đạt được sự vô lượng, vô xưng, vô số, vô thắng, vô biên của chư Phật?

Thế nào là có khả năng ban phát vị cam lồ cho tất cả chúng sinh?

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Vì muốn tạo an lạc cho chúng sinh ở thế gian, ông đã nêu ra những câu hỏi này, là những câu hỏi rất có ý nghĩa. Tất cả chúng sinh do bị vô minh làm cho tăm tối nên không thể biết được mọi công đức chân thật của chư Phật.

Này thiện nam! Nay ông muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt được con mắt trí tuệ thường nhãn, thường quang, vượt hẳn qua sông lớn phiền não sinh tử, hiểu rõ hạnh Bồ-đề của chư Phật; muốn phá tan màn kết vô minh cho chúng sinh, chỉ dẫn hạnh Bồ-đề vô thượng, hay ưa diễn nói về không thường, không lạc, không ngã, không tịnh của tất cả chúng sinh, thế mà nay muốn mở bày về thường, lạc, ngã, tịnh. Như Lai rốt ráo nhập vào Niết-bàn không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, thế mà nay muốn mở bày về việc chư Phật Thế Tôn không rốt ráo diệt, thường trụ bất biến.

Này thiện nam! Tất cả chúng sinh thường vọng sinh phân biệt về pháp giới, thế nhưng tánh của pháp giới thật sự không phân biệt. Nay nêu câu hỏi, tức ông muốn hỏi về ý nghĩa không phân biệt.

Này thiện nam! Tất cả chúng sinh thường bị cấu nhiễm do các thứ tà độc. Như Lai Thế Tôn là bậc đại lương y, ý ông muốn bậc y vương Như Lai ra toa trao thuốc, trị mọi thứ bệnh khổ cho chúng sinh.

Này thiện nam! Giống như Phạm chí Già-la-ca cùng các Bà-lamôn Ni-kiền-tử, thật sự chẳng phải là A-la-hán mà khởi lên ý tưởng của La-hán.

Chẳng phải là bậc Thánh mà khởi lên ý tưởng của bậc Thánh.

Chẳng phải là hàng trời mà khởi lên ý tưởng của hàng trời.

Thật chẳng phải là pháp thường, lạc, ngã, tịnh mà khởi lên ý tưởng của thường, lạc, ngã, tịnh.

Nay vì muốn nhổ mũi tên tà độc, cởi bỏ sự ràng buộc tà vạy, phá

địa ngục tà, ra khỏi lưới tà, ban phát vị cam lồ, ngủ yên nơi bốn thiền, thoa hương tịnh giới, bốn đẳng làm hoa, hổ thẹn làm áo mặc cho chúng sinh, ông đã nêu ra câu hỏi này.

Này thiện nam! Tất cả chúng sinh không biết tổng tướng, không biết biệt tướng, tướng, không tướng, chẳng phải tướng, chẳng phải là không tướng, chẳng phải là tướng tướng, chẳng phải là không tướng tướng.

Không thể biết, chẳng phải là không thể biết.

Chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia. Chẳng phải tay, chẳng phải ngón tay.

Chẳng phải bên này, bên kia, chính giữa.

Chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác.

Chẳng phải chỉ bày, chẳng phải không chỉ bày.

Chẳng phải nguyên nhân, chẳng phải không nguyên nhân.

Chẳng phải mau chóng, chẳng phải không mau chóng.

Chẳng phải nhận biết, chẳng phải không nhận biết.

Chẳng phải hiểu biết, chẳng phải không hiểu biết.

Chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.

Chẳng phải tối, chẳng phải sáng.

Chẳng phải tướng, chẳng phải danh.

Chẳng phải nhẹ, chẳng phải nặng.

Chẳng phải yếu, chẳng phải mạnh.

Chẳng phải nơi chốn, chẳng phải không nơi chốn.

Chẳng phải sạch, chẳng phải không sạch.

Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi.

Chẳng phải có, chẳng phải không.

Chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói.

Chẳng phải lấy, chẳng phải bỏ.

Không sinh không lui.

Chẳng phải thật, chẳng phải hư.

Chẳng phải chánh, chẳng phải tà.

Chẳng phải rốt ráo, chẳng phải không rốt ráo.

Chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không ruộng phước.

Chẳng phải thời gian, chẳng phải không thời gian.

Chẳng phải có thể sạch, chẳng phải không thể sạch.

Chẳng phải tạo tác, chẳng phải có khả năng tạo tác.

Chẳng phải sinh, chẳng phải diệt.

Chẳng phải lạnh, chẳng phải nóng.

Chẳng phải ấm, giới, nhập, chẳng phải kết nhân, chẳng phải nghiệp nhân.

Chẳng phải sinh, chẳng phải đọa.

Chẳng phải trưởng, chẳng phải tăng trưởng.

Chẳng phải có đọa lạc, rốt ráo không đọa.

Chẳng phải là pháp hữu, dứt hẳn các hữu.

Chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Chẳng phải thật, chẳng phải không thật.

Chẳng phải tánh, chẳng phải không tánh.

Chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng phải tận, chẳng phải bất tận, cũng không thể tận.

Chẳng phải đẳng, chẳng phải vô đẳng, cũng không cùng đẳng.

Chẳng phải đất, nước, gió, lửa.

Tất cả pháp giới thật không có thân, tướng của thật tướng là rốt ráo chân thật. Đó gọi là Như Lai được thành tựu từ các đại công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Thân như vậy tức là chân pháp thân của chư Phật. Ý nghĩa sâu xa không thể nghĩ bàn.

Pháp giới của Như Lai sâu kín thâm diệu, không dời đổi chốn gốc. Tuyên nói chánh pháp khiến chư Phật trong mười phương thảy đều nghe biết. Vì sao? Vì nẻo hành hóa của Như Lai hiện bày thần lực tự tại. Những điều sâu kín như thế, các hàng Thanh văn, Duyên giác không sao nghe được.

Này thiện nam! Tại sao chư Phật lại không vì các hàng này mà giảng nói khiến họ được nghe?

Này thiện nam! Ngay cả nghĩa của một chữ, các hàng Thanh văn, Duyên giác cũng không thể nào giải thích được. Họ giống như kẻ cuồng loạn, sinh ra bị mù, uống thuốc độc, như tằm trong kén, như trúng tên độc, như người bệnh ho đàm khi uống nước. Vì thế, chư Phật không giảng nói cho họ biết,

Này thiện nam! Tất cả chúng sinh bị các kiết sử phiền não gây

bệnh. Chư Phật Như Lai có năng lực ban cho pháp dược, dùng chú thuật mầu nhiệm nhổ mũi tên độc, trừ bệnh đau vai. Chúng sinh thật sự không biết Như Lai thường trụ bất biến. Như Lai đốt ngọn đuốc pháp trí tuệ vì muốn khiến cho chúng sinh thấy được thường, lạc, ngã, tịnh. Ví như mặt trời xuất hiện có thể khiến cho mọi chúng sinh thấy khắp được mọi tướng trạng cao thấp của mặt đất. Như Lai cũng vậy, tất cả chúng sinh không biết phương đẳng, cũng không thể đạt được Tam-

muội tổng trì, không biết thời giờ của Phật, không biết tài sản của Phật, không thấy thân Phật, không hiểu tướng trạng Niết-bàn của Như Lai, không biết sự diệt cùng không diệt của Phật pháp, mà lại cho rằng: Như Lai vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh; mũi tên phiền não là thức ăn tạp độc. Thế nên, Ta diễn nói pháp thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật là muốn dứt trừ sự tối tăm u ám của vô minh cho những người ấy.

Này thiện nam! Các hàng Thanh văn, Duyên giác chưa từng được nghe về nghĩa lý của một chữ, nay vì muốn cho họ được nghe, ông đã nêu ra những câu hỏi ấy. Hãy lắng nghe, lắng nghe và suy nghĩ thật chín chắn, Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói.

Có kinh vương Đại Phương Đẳng cam lồ khai mở kho báu lớn chẩn cấp cho người nghèo khổ, khai phát kho công đức của chư Phật. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tánh ấy vô tận, xưa nay nó bị che lấp. Nay chư Phật Như Lai muốn hiển thị nên đã thắp ngọn đèn trí tuệ lớn soi sáng, khiến cho chúng sinh thấu hiểu rõ ràng, nhận thấy minh bạch.

Này thiện nam! Ta định nói, ông liền nêu bày câu hỏi. Trước đây ông đã phát thệ nguyện chưa?

Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:

–Bạch Thế Tôn! Thật sự xưa nay con không phát nguyện này, mà đây chính là do sức thần thông, lòng đại từ bi của Đức Thế Tôn và vì muốn độ thoát chúng sinh nên con mới nêu ra câu hỏi như thế. Đó chính là do con muốn phá tan sự khốn khổ, bần cùng của chúng sinh, muốn cho chúng sinh được tâm ý vô tận. Nay Như Lai giảng nói tức có khả năng tiêu diệt mọi sự tối tăm bao trùm của vô minh cho tất cả chúng sinh, khiến họ đạt được vật báu trí tuệ, khiến thấy rõ Phật tánh, thấy được pháp thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai chăng?

Phật đáp:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nay vì muốn giúp chúng sinh vượt qua biển sinh tử, vì muốn truyền bá rộng rãi kinh điển Phương Đẳng, vì khiến cho chánh pháp luôn thường trụ, ban phát tất cả pháp vị cam lồ, trừ dứt mọi sự khốn khổ, bần cùng cho chúng sinh nên ông đã nêu ra những câu hỏi như vầy, ý nghĩa của nó rất là sâu xa. Hãy lắng nghe, ghi nhận, Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói, khiến cho các chúng sinh đạt được sự an ổn, vui vẻ. Nay ông nên vì tất cả chúng sinh khéo giữ gìn nghĩa này.

Này thiện nam! Tất cả các Như Lai – đấng Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn – đều có thể một pháp gọi là pháp giới. Dựa vào pháp giới này, chư Phật Thế Tôn đều có thường tuệ, dùng nước thường tuệ tắm sạch bản thân, uống vị nước cam lồ và cùng đem ban bố cho tất cả muôn loài, khiến họ tu tập theo nẻo hành hóa của chư Phật. Ông nên uống vị nước cam lồ này. Khi đã uống xong, ông nên ban phát. Nay Ta sẽ nói, ông khéo lắng nghe. Những điều Ta nói thảy đều tốt đẹp, nghĩa lý chân thật, lời lẽ nhiệm mầu, âm thanh thanh tịnh, thuần chất không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của phạm hạnh thanh bạch.

*********

Này thiện nam! Có kinh Đại Vân là biển lớn tổng trì, là biển lớn Tam-muội, chính là pháp ấn của Như Lai, là thành pháp của chư Phật, là pháp giới hết mực thâm diệu, thường trụ bất biến, là`thường, lạc, ngã, tịnh, không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Nếu ai thọ trì, biên chép, đọc tụng, giảng nói, thì người ấy có khả năng phá tan phiền não cho chúng sinh, đoạn trừ mọi bần cùng, khốn khổ. Nhằm lúc đói khát, đồng ruộng tiêu điều, nước non quý hiếm v.v… nếu đọc tụng kinh này thì sẽ được mùa màng thêm tươi, đất đai trù phú. Hoặc lúc hạn hán, trời không giáng mưa, hoặc có lúc khát khao pháp thực, đọc tụng kinh này thì sẽ đạt được vị pháp cam lồ tổng trì.

Nếu ai muốn có đầy đủ đại thần thông thì nên thọ trì kinh này.

Nếu muốn tuôn trận mưa pháp thấm nhuần cây khô thì nên đọc kinh này.

Nếu có bệnh hoạn cũng nên thọ trì kinh này.

Vì sao? Vì kinh này là thần dược cho mọi thứ bệnh hoạn. Kinh này có năng lực đoạn trừ mọi độc hại, là đại Đà-la-ni, là đại Tammuội. Kinh này là những hương thoa, hương bột, hương đốt, là hoa thanh tịnh vi diệu.

Này thiện nam! Nay ông đốt lên ngọn đèn trí tuệ, phá tan sự tối tăm, cuồng ngu cho chúng sinh, thế nhưng các chúng sinh thường nói: “Pháp vô thường, vô ngã, vô tịnh của Như Lai là pháp hoại diệt”, chúng sinh như vậy tức là uống nước độc, bị mũi tên cực độc, vết thương lở lói, cuồng say, mất tâm, bị vô minh che lấp. Hàng Thanh văn, Duyên giác giống như loài bò già yếu đuối. Vì thế, ông nên tuyên nói rộng rãi, phân biệt công đức của Như Lai, dùng dầu thật tướng làm sáng tỏ thêm ngọn đèn trí tuệ, khai phát mắt tuệ, trừ bỏ sự tối tăm của vô minh.

Nếu ai nói Như Lai thật sự sinh ra nơi vương gia Du-đầu-đàn, xuất gia học đạo, tu tập khổ hạnh, phá trừ quân ma, ngồi nơi đạo tràng thành đạo Bồ-đề, thì nên biết, đấy là kẻ hủy báng Phật. Thà bị chặt đầu, nhổ đứt cả lưỡi, chớ nên phát ra những lời nói hư vọng như vậy. Vì sao? Vì chẳng thể khéo giải thích được những lời nói bí mật của chư Phật Như Lai. Nếu trong kinh có chép: “Sa-môn Cù-đàm”, thì nên biết đó là mật ngữ.

Này thiện nam! Nếu vì chúng sinh thị hiện thần túc thì nên biết đó là đứa con chân chánh của Phật.

Này thiện nam! Ông vì đạt được quả báo lớn nên đã trao cho các hàng Thanh văn, Phật-bích-chi những thứ thuốc như thuốc khiến nôn tháo ra, thuốc làm giảm đau, thuốc xông, thuốc uống, thuốc trị các bệnh. Những thuốc ấy là gì? Đó là kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ông nên biết: Kinh này tức là Chuyển luân Thánh vương trong các kinh. Vì sao? Vì trong kinh điển này có chép: “Thật tánh, Phật tánh của chúng sinh thường trụ trong tạng pháp. Chúng sinh không hiểu rõ cả đến một câu một chữ”. Nay ông nên lắng nghe, lắng nghe rồi tức đấy sẽ là tạng pháp của ông. Ông lại nên quán cảnh giới của kinh này.

Này thiện nam! Kinh này có pháp môn gồm bốn trăm thứ giải thoát không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát.

Này thiện nam! Kinh này có môn Tam-muội Thần thông vương trong tạng báu của các pháp.

Này thiện nam! Kinh này có môn Đà-la-ni nơi tạng báu trong ba mươi sáu trí tuệ không thoái chuyển của chư Phật, Bồ-tát.

Này thiện nam! Kinh này lại có pháp môn gồm ba mươi ba loại phương tiện giải thoát theo đại hạnh hội nhập mọi âm thanh chúng sinh của chư Phật, Bồ-tát.

Này thiện nam! Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thần túc đại hạnh quang vương hội nhập tạng mật hạnh của chư Phật, Bồtát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại từ cảnh giới đạo hành nghiệp sinh tử, đạt được tâm định giải thoát theo tuệ nguyện tạng của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí bất diệt nhập vào tư duy theo thần thông vương của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại tạng pháp tư duy không sinh, có thể hội nhập nơi thần túc của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí thâm diệu hội nhập vào hạnh pháp vương vô úy của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại Đại vân thấy tạng công đức không thể nghĩ bàn nơi giáo pháp của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn nhập vào mười loại ngôn ngữ của chúng sinh, tu pháp hạnh lớn theo phương tiện không dứt bỏ giải thoát của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thần thông hội nhập nơi sinh hành, hữu hành, hành tạng quang vương của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại Tam-muội tâm trụ nơi hạnh nghiệp sinh tử phiền não giải thoát theo pháp tạng thệ nguyện của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại trí hội nhập vào thần túc vương không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thần túc vương không sinh, không thể nghĩ bàn, thông đạt mật tạng của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí sâu rộng hội nhập nơi hạnh tinh tấn của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí Đại vân tạo các pháp hòa hợp nơi thần túc vương của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn Đại vân với nhãn mục quang minh của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm đủ mười thứ ánh chớp tỏa sáng của Đại Vân hội nhập nơi hạnh của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn Đại vân xiển dương kinh Đại thừa của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn thần túc biến hiện đèn sáng của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn giảng nói mười loại mưa pháp nhập vào thần túc vương của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí kim cang hội nhập nơi tạng pháp của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại tánh chánh hạnh là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười hạnh vô tận hội nhập nơi thần thông vương của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại hành nghiệp vô cùng vi diệu là nẻo hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại sư tử hống là nơi chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười hạnh sinh khởi hòa hợp hội nhập nơi tâm hộ trì nghiệp thế gian của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười thần thông báu là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười thần thông của chim cánh vàng là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười đại thí vi diệu vương của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười đại lực thần thông vô sở úy là nẻo hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười hạnh rộng lớn như biển lớn là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại chí tâm là nơi chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười đại lực vi diệu, dũng mãnh vương là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười loại thiện hành đại thần thông vương, là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười hai tạng thần thông được khai thị của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười trí tạng báu của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mọi hành nơi cảnh giới mười trí là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười chánh trí vi diệu nơi tạng báu của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm hạt giống nơi mười thứ ruộng phước của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn gồm mười thứ thần thông chân thật vua của mọi sự an lạc, là chốn hội nhập của chư Phật, Bồ-tát.

Này thiện nam! Ông quán kinh này là không thể nghĩ bàn, cảnh giới của công đức cũng là không thể nghĩ bàn. Đây chính là tạng pháp không thể lường, không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát. Cũng là tạng báu vô tận, không thể nghĩ bàn của chúng sinh.

Lại nữa, này thiện nam! Cảnh giới của kinh này là không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Kinh này lại có pháp môn là Tạng Đà-la-ni của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai tạng vi diệu bí mật của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai đại hải (Biển lớn của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai thời tạng pháp (Tạng thời gian của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai thế tạng (Tạng thế gian của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai nhật tạng (Tạng mặt trời của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai nguyệt tạng (Tạng mặt trăng của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai cảnh giới (Cảnh giới của Như Lai) của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn hết mực sâu xa của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai vô sở úy của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai dũng kiện của chư Phật,Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai địa của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là A-lê-ha của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có pháp môn là Như Lai tụ của chư Phật, Bồ-tát.

Này thiện nam! Ông quán xét về đại pháp Đà-la-ni của kinh này, chính là tạng phước vô tận của tất cả chúng sinh, là pháp môn Đà-la-ni, Tam-muội giải thoát không thể nghĩ bàn của chư Phật. Đây chẳng phải là cảnh giới mà các ông có thể nhận biết được. Chư Phật Thế Tôn tùy theo thế gian mà nói, nghĩa lý hết mực sâu xa, khó có thể thấu đạt, chỉ có Như Lai mới thấy biết được. Từ xưa tới nay, đối với những việc như vầy, ông chưa từng được nghe, thậm chí đến cả một câu, một chữ. Vì thế, hôm nay Ta sẽ giảng nói về cảnh giới vô cùng sâu xa này của Như Lai. Ông phải chí tâm lắng nghe, ghi nhận.

Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Thật đúng như lời của bậc Thánh dạy. Bạch Thế Tôn! Con khác nào loài nhặng, loài kiến, thường bị vô minh bao phủ tối tăm. Cúi xin Như Lai mở lòng thương xót, hãy vì khắp tất cả chúng sinh mà giảng nói rõ về một câu, thậm chí một chữ. Như Lai là đấng Pháp vương không thể nghĩ bàn.

Bạch Thế Tôn! Các hàng Thanh văn, Duyên giác giống như loại bò già mù, điếc, câm, ngọng, khác nào như đứa trẻ nhỏ. Con cũng như vậy, xưa nay con thật chưa từng nghe được một câu, thậm chí đến chỉ một chữ. Cúi mong Như Lai hãy vì chúng sinh mà mở rộng lòng thương lớn. Mọi cảnh giới hiện có của chư Phật Như Lai là không thể nghĩ bàn, thường trụ không đổi, thông đạt các pháp. Cúi xin Như Lai hãy vì chúng con cùng các chúng sinh mà giảng nói rõ về tạng bí mật ấy, thậm chí chỉ cần nghĩa lý của một câu hay một chữ, khiến cho chúng con cùng các chúng sinh thấy biết được sự thường hằng bất biến của Như Lai.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hôm nay ông đã khéo

lãnh hội những lời bí mật hiện có của chư Phật. Thiện nam! Kinh Phương Đẳng này là không thể nghĩ bàn. Những thệ nguyện của ông cũng là không thể nghĩ bàn. Pháp Đà-la-ni của chư Phật Như Lai là không thể nghĩ bàn. Cảnh giới của kinh này cũng là không thể nghĩ bàn. Ánh sáng của trí thâm diệu cũng không thể nghĩ bàn.

Thiện nam! Theo như ông nói: “Đối với kinh này, mình giống như hạng bò già, đứa trẻ mù, điếc, câm, ngọng, không thể nào hiểu rõ. Thiện nam, ông chớ nên sinh lòng hồ nghi, sầu muộn.

Thiện nam! Trong mọi trường hợp, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, ông thường phải luôn nhớ nghĩ tới kinh điển này. Hoặc giả gặp các nạn: nước, lửa, trộm cướp… cũng nên kiên trí cẩn thận, chớ buông bỏ. Vì sao? Vì trong kinh điển này có năm văn tự, nghĩa lý rất sâu xa:

  1. Như Lai.
  2. Thường.
  3. Lạc.
  4. Ngã.
  5. Tịnh.

Đây được gọi là công đức vô thượng của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, này thiện nam! Giả sử trong lửa dữ bùng cháy khắp Hằng hà sa thế giới trong mười phương, có người nhớ nghĩ tới kinh này, thì lửa dữ không thể thiêu đốt họ, vậy nên luôn cúng dường, tôn trọng Tam bảo, đừng khiến tâm quên mất. Nay ông có được mọi công đức vi diệu, đó là do ông đã từng tán thán chư Phật, đã hay hỏi về chỗ chưa từng nghe nơi nghĩa lý sâu xa của một câu, một chữ. Không bao lâu, các ông cũng sẽ đạt được sự thấy biết về diệu nghĩa ấy.

Nếu muốn biết sự thường hằng bất biến của Như Lai, ông phải nên thọ trì kinh này, đọc tụng biên chép, giảng nói nghĩa kinh. Vì sao? Vì những điều được nói trong kinh ấy là không thể nghĩ bàn. Như Lai thường hằng, không có biến đổi, trọn không rốt ráo nhập vào Niết-bàn. Ông nên trình bày giảng nói về thường, lạc, ngã, tịnh cho khắp tất cả chúng sinh. Chư Phật Như Lai không có vị nào rốt ráo nhập vào Niếtbàn. Pháp bảo, Tăng bảo thường trụ cũng không diệt tận.

Khi ấy, Tỳ Lam Đại Tỳ Lam Phong Vương – người được thọ hưởng quả báo vui sướng giống như cõi trời – phóng ra cơn gió mát suốt thời không đổi, khiến cho hoa quả thường có, không lúc nào tạm ngừng. Rồi ông đem đầy đủ những đồ cúng dường đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, chấp tay cung kính, nhiễu bên phải ba vòng và lui ra ngồi một bên.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng sức thần thông cho nổi lên bốn đám mây đen, nước ngọt tuôn khắp, phát lên ba thứ sấm, nghĩa là cả tầng trên, tầng giữa, tầng dưới đều phát ra âm thanh cam lồ giống như kỹ nhạc ở cõi trời, tất cả chúng sinh đều vui thích nghe.

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền nói chú:

–Kiệt đế, ba ly kiệt đế, tăng kiệt đế, ba la tăng kiệt đế, ba la ty la diên để, tam ba la ty la diên để, bà la bà la, ba ta la, ba bà la, ma văn xà, ma văn xà, giá la đế, giá la để, ba giá la để, tam ba la giá la để tỳ đề hy ly hy lê, tát lệ ê, tất lệ ê, phú lô phú lô sa ha.

Nếu có các vị rồng nào nghe thần chú này mà không cho mưa ngọt xuống, đầu sẽ bị vỡ ra làm bảy mảnh.

Cùng lúc mười vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ thế giới chư Phật đều chấn động đủ sáu cách. Bấy giờ, nhân nơi đại địa chấn động các chúng sinh khắp chốn mỗi mỗi đều thấy nhau, lần lượt cùng nhau giao động, cho đến cõi trời Tịnh Cư. Trời Tịnh Cư động rồi thì Long vân đều động. Khi Long vân động thì mưa xuống cơn mưa lớn, chín vạn tám ngàn dòng sông lớn hiện có trong cõi Diêm-phù-đề đều chứa đầy bảy báu. Tất cả ao, suối có đủ các vị thượng dược. Mặc dù mưa suốt bảy ngày nhưng không làm thương tổn ai. Chúng sinh vui sướng như được uống cam lồ. Các con sông chứa đầy nước tám công đức, đó là: ngon, lạnh, nhẹ, mềm, trong sạch, thơm tho, khi uống lan khắp cơ thể, uống rồi không bệnh. Những loại trùng trong nước đều phát ra âm thanh vi diệu.

Tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương-xá, bảy báu trải kín khắp mặt đất, từ nơi không trung lại mưa xuống bảy báu, kết thành những loại hoa: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi. Những loài thủy tộc đều phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những chúng sinh thuộc hàng súc sinh thì ham thích Đại thừa, khao khát Đại thừa, lòng từ hướng nhau, xem nhau như một, đều cùng phát tâm cúng dường Đức Phật. Lúc đó, đại chúng và các chúng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩnna-la, Ma-hầu-la-già, đem đầy đủ những đồ cúng dường như: hoa, hương, kỹ nhạc v.v… cúng dường Đức Phật. Từ không trung lại mưa xuống các loại hương, hoa, y báu, kỹ nhạc, cờ phướn v.v… cúng dường Đức Thế Tôn.

Thiện nam! Kinh này chính là chỗ thành tựu của vô lượng công đức, thế nên, có khả năng hiện bày những điềm như vậy.

Bấy giờ, cả đại chúng cùng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay con mới biết được thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật Như Lai. Cúi xin Như Lai hãy từ bi thương xót nhận y Ưu-đa-la-tăng của chúng con dâng cúng. Sau đó toàn thể đại chúng dùng kệ tán thán:

Như Lai chân thật thường
Thành từ vô lượng đức
Nay con vì thường – lạc
Nên cúi đầu đảnh lễ.
Chư Phật bỏ vô thường
Mới đạt thân vô biên
Thiên Trung Thiên vô thượng
Đại lực khó nghĩ bàn.
Như Lai thường không đổi
Dốc tiến thân vô biên
Vì chúng mưa pháp vũ
Giống như Đại Vân vương.
Phật tự đạt an lạc
Vì chúng nói an lạc
Tự đạt các công đức
Khuyên bảo đại chúng theo.
Như Lai, tuệ vô thắng
Thường trụ như hư không
Vì chúng làm ruộng phước
Thường hành hạnh bậc Thánh.
Thương xót các chúng sinh
Biết được nghiệp của họ
Mở bày tạng bí mật
Mát mẻ như trăng non.
Nay nói kinh Đại Vân
Đoan nghiêm như trăng tròn
Định biết vô lượng chúng
Phát khởi tâm Bồ-đề.
Thế Tôn bậc Pháp vương
Đối pháp, đạt tự tại
Nên mệnh danh chân ngã
Thành tựu lạc vô thượng.
Như Lai lên tòa báu
Cất tiếng sư tử gầm
Tuyên nói các chúng sinh
Tất cả có Phật tánh.
Ví như trong núi Hương
Thường sinh cỏ nhẫn nhục
Như Lai với sức thần
Khiến cho khắp cả chúng.
Thấy núi Thứu-đầu này
Đều do bảy báu thành
Bấy giờ, trong chúng hội
Thấy rồi rất vui thích.
Giống như Tứ Thiên vương
Ưa trụ núi Tu-di
Như Lai đại phước điền
Thần lực không thể lường.
Phá trừ chúng sinh kiết
Phiền não, mọi u ám
Tất cả các chúng sinh
Không thoái tâm Bồ-đề.
Giống như chư Thế Tôn
An lạc không lay động
Chúng sinh đoạn nghiệp ác
Thành tựu giới thiện diệu.
Tu hành hạnh Bồ-đề
Quyết định thấy Phật tánh
Nếu được nghe kinh này
Chỉ đến nghĩa một chữ.
Tức đắc đạo Bồ-đề
Tùy thuận hành phạm hạnh
Cúi mong đấng Vô thượng
Diễn nói cho một câu.
Khiến khắp tất cả chúng
Đều được hiểu nghĩa lý
Các chúng sinh chúng con
Chậm lụt, không trí tuệ.
Như Lai hãy thương xót
Khai mở, khiến được hiểu
Tất cả các chúng sinh
Nghèo thiếu đói pháp thực.
Cúi mong đại từ bi
Ban bố khiến đủ đầy khắp
Chúng con được nhận rồi
Lại sẽ chuyển cho người.
Cũng khiến tất cả chúng
Thảy đều được đầy đủ
Tất cả các chúng sinh
Nghèo nàn không phước đức.
Không thường, không có ngã
Cũng không chỗ quy y
Như Lai đã thành tựu
Đaị công đức vô thượng.
Cúi mong đấng đại từ
Ban con cùng tất cả
Như Lai là Pháp vương
Như biển, vua các sông.
Chúng sinh không biết dựa
Nay con được nương tựa
Vì chúng làm nương tựa
Giống như cha mẹ lành
Ban chúng vị cam lồ
Khiến khắp dứt phiền não.

Thế Tôn Như Lai Chánh Giác không thể nghĩ bàn, sự thương xót chúng sinh cũng không thể nghĩ bàn, nhưng lời nói bí mật khó thể lường tính.

Chư Phật Thế Tôn là Tam-muội vương, là đại thuyền sư vương, không thể xưng kể, không thể tính lường.

Cảnh giới như vậy chẳng phải là nơi mà các hàng Thanh văn, Duyên giác biết được.

Như Lai là đấng Nguyệt vương, thường không có sự tăng giảm, là tướng đại mãnh của các công đức, là nơi tích tụ vô lượng phước báo chân thật, là Nhật vương vô thượng đại quang minh, xem các chúng sinh ngang đồng La-hầu-la, sức mạnh đạt được đều đem ban bố cho tất cả. Tự mình không còn sự sợ hãi, lại khiến cho chúng sinh cũng đạt được vô sở úy. Tự bản thân phá tan vô minh, lại trừ bỏ cho chúng sinh sự tối tăm, u ám của vô minh.

Bạch Thế Tôn! Con bị vô minh ngăn chận nên cũng không biết, không biết được thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai. Tất cả chúng sinh bị vô minh che lấp nên vọng cho Như Lai là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Vì thế họ mới chịu sự trôi lăn trong ba nẻo ác. Nếu ai cho Như Lai diệt độ hoàn toàn nơi Niết-bàn, nên biết kẻ ấy ắt phải đọa vào địa ngục.

Bạch Thế Tôn! Hôm nay con mới biết được chư Phật Như Lai không rốt ráo diệt độ. Biết được vậy, con đạt được vật báu lớn vô thượng. Dựa vào Phật lực, con lại biết được bản tánh thật sự của chư Phật, lại được uống pháp cam lồ vô thượng, dứt hẳn tất cả mọi ràng buộc của phiền não. Những người xưa nay bị cuồng điếc, câm, ngọng, ngày nay thảy đều được chữa lành.

 

Chương 2: NÓI VỀ TAM MUỘI

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:

–Bạch Thế Tôn! Sự giác ngộ chân chánh của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Nay Thế Tôn nói kinh này khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Cảnh giới của kinh này là không thể nghĩ bàn, chính vì tất cả vô lượng chúng sinh mà hiện đại thần thông, mưa các vị báu. Chúng sinh nào được nghe tất được gặp mưa pháp cam lồ vô thượng. Thế nên Như Lai là không thể nghĩ bàn, cảnh giới của kinh này cũng không thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sinh thành tựu đại công đức mới gặp được. Nghiệp báo của chúng sinh là không thể nghĩ bàn.

Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng sinh được sự an lạc giống như cái vui ở bậc thiền thứ ba, hình mạo quý lạ như cõi trời không khác. Hôm nay, Như Lai nói tạng kinh này tức là nói đến tạng vô tận của chúng sinh, tuôn mưa đại pháp, đó là pháp tổng trì Tam-muội, thường trụ bất biến của Như Lai.

Nói “Vân” tức là nói các vị Đại Bồ-tát.

Nói “sấm rền vang” tức là nói phá tan mọi hành động tạo sự ràng buộc của phiền não.

“Ánh chớp lóe sáng” nghĩa là nói các chúng sinh đều có Phật tánh.

“Âm thanh” tức nói các Bồ-tát vì chúng sinh mà giảng nói pháp hữu vi, pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh.

“Mưa đá” tức là tám phần Thánh đạo có khả năng phá hủy tất cả mọi ràng buộc của phiền não.

“Lại nói có mưa đá” nghĩa là kinh này có năng lực phá hủy tâm của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi. Đó tức gọi là tuôn đại mưa pháp, làm cho những chúng sinh đói khát, túng thiếu được no đủ, nghĩa là Như Lai thường trụ không đổi, ấy gọi là mưa cam lồ.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hôm nay ông đã khéo giảng nói về mưa pháp như vậy. Thiện nam! Nếu các Bồ-tát nào muốn mưa pháp làm thấm nhuần đem lại lợi ích cho chúng sinh thì nên thọ trì kinh này, tu hành, đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng nói nghĩa kinh.

Này thiện nam! Hãy lắng nghe, lắng nghe và ghi nhớ. Trong kinh

điển không thể nghĩ bàn này có trụ giải thoát nhập bảo tạng. Thần túc pháp vương cùng bốn trăm Tam-muội. Nay Ta sẽ giảng nói.

Này thiện nam! Kinh này lại có Tam-muội Thâm mãnh đại hải nhãn mục của chư Phật, Bồ-tát. Nếu Bồ-tát nào thành tựu đầy đủ Tammuội này thì đạt được đầy đủ đa văn đại hại, đa văn tạng báu của Bồtát, tâm không còn sự hồ nghi đối với đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Nói “vô ngại” tức nói thân không bị ngăn ngại, có thể sinh khắp các thế giới tịnh diệu của chư Phật.

Lại nói “vô ngại” tức đạt Túc mạng trí, ví các chúng sinh xoay chuyển năm hữu.

Lại, “vô ngại” tức không tham chấp nơi nghiệp nhưng lại đạt được quả báo.

Nói “vô ngại” nghĩa là hễ một lần thấy Phật, tâm sinh hoan hỷ, thì vào đời sau đạt được thân đoan nghiêm, thân được mọi người yêu mến, thân không tham, thân không ác, thân lớn, thân thượng tộc, thân đại phú, thân quyến thuộc không hoại, thân không bị phá hoại, thân không thoái, thân không diệt.

Những hạnh nguyện tu tập, niệm vui tạo nghiệp, đều hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng, thành tựu được sự hổ thẹn phá tan mọi kiêu mạn, chăm tu tinh tấn, từ – bi – hỷ – xả, đem không – vô tướng – vô nguyện huân nhập nơi tâm.

Lại nữa, “vô ngại” tức là nguyện sinh cõi khác, liền được vãng sinh. Mọi tà thuyết dị kiến đều không thể hủy hoại được. Những gì mà người này muốn nói về cú nghĩa vô tận, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn cũng không thể mê hoặc làm rối loạn, khiến tâm họ dao động.

Tuy đọc ngoại điển nhưng tâm không tham vướng, không ham muốn thân của hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâula, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Lại không tham vướng những thứ như: phòng xá, ngọa cụ, y phục, ẩm thực. Thiên ma Ba-tuần không sao xen tay hại được. Những pháp thiện họ thực hành trọn không quên mất.

Phàm những lời người này giảng nói đều được mọi người kính thọ. Tâm họ thoáng đạt giống như đại hải. Trí tuệ của họ cũng như thế, viên mãn trọn đủ giống như trăng tròn, như mặt trời, ngọn đuốc có khả năng phá tan sự u ám, tối tăm, như tánh của hư không không thể nào nắm bắt được, không đắm chấp nơi thế gian, như hoa ở dưới nước. Đối với tất cả hữu, tâm không tham vướng, có khả năng hủy hoại pháp giới, giống như kim cương, giữ cõi các pháp giống như núi Tu-di, bản tánh thanh tịnh giống như ngọc báu lưu ly, đạt được giới của Như Lai tâm niệm nơi tuệ luôn sáng tỏ, tánh lực như huyễn hóa, không động không trụ.

Này thiện nam! Kinh này lại có Tam-muội Tràng báu giải thoát thâm diệu bậc nhất. Nếu Bồ-tát nào có đầy đủ Tam-muội ấy thì được mệnh danh là bậc đa văn đại hải, đa văn tạng báu, tâm không nghi ngại, cho đến huyễn hóa cũng không động, không trụ.

Này thiện nam! Kinh này lại có Tam-muội Pháp môn tịnh trí hết sức thâm diệu. Nếu Bồ-tát nào có đầy đủ Tam-muội này thì được mệnh danh là bậc đa văn đại hải, đa văn tạng báu, tâm không nghi ngại, cho đến huyễn hóa cũng không động, không trụ.

Này thiện nam! Kinh này lại có: Tam-muội Phật căn hương tượng vương giải thoát. Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Tam-muội Dũng lực. Tam-muội Dũng thắng. Tam-muội Kiền dũng. Tam-muội Hảo hương. Tam-muội Chánh quang. Tam-muội Vô ngã quang. Tam-muội Thậm thâm hạnh tạng. Tam-muội Hành thâm giải thoát. Tam-muội Hành lực giải thoát. Tam-muội Nhất thiết pháp hạnh. Tam-muội Hằng hà sa đẳng hạnh. Tam-muội Nhất thiết giải thoát. Tam-muội Nhất thiết Tam muội vương. Tam-muội Chánh thượng. Tam-muội Đại hải triều. Tammuội Bản giải thoát. Tam-muội Hoại ma ức chúng. Tam-muội Trụ giới điện quang. Tam-muội Hỏa quang. Tam-muội Vô tận ý vương. Tammuội Vô tận ý. Tam-muội Hải vương thần túc. Tam-muội Đại cao ý. Tam-muội Chủng tử. Tam-muội Trụ đại hải. Tam-muội Vô ngại. Tammuội Vô ngại giới. Tam-muội Cao giải thoát. Tam-muội Nhân duyên ý. Tam-muội Nghiệp tác. Tam-muội Kiền hành vương. Tam-muội Đại lực. Tam-muội Thậm thâm lưu ly vương. Tam-muội Tu-di sơn. Tammuội Sư tử hống. Tam-muội Cam lồ vị. Tam-muội Trang nghiêm. Tam-muội Hỏa quang. Tam-muội Liên hoa quang. Tam-muội Quốc thổ hỷ. Tam-muội Nhất thiết thân. Tam-muội Động đại hải vương. Tam-muội Động đại địa vương. Tam-muội Nhất thiết Tam muội mẫu.

Tam-muội Hoại nhất thiết nữ thân. Tam-muội Sư tử hạnh vương. Tammuội Viên vương. Tam-muội Tế hạnh. Tam-muội Cổ thanh vi diệu. Tam-muội Đoạn hữu. Tam-muội Lưu. Tam-muội Quảng tuệ. Tammuội Biến hóa. Tam-muội Quang minh. Tam-muội Hoại ám. Tammuội Đại hải trí tuệ. Tam-muội Tán thán. Tam-muội Đại tán thán. Tam-muội Thời. Tam-muội Đại thời. Tam-muội Hiện tại giải thoát. Tam-muội Hợp tán. Tam-muội Phân-đà-lợi hoa. Tam-muội Khinh. Tam-muội Đại lạc. Tam-muội Hư không. Tam-muội Giải thoát thân. Tam-muội Đoạn ngữ. Tam-muội Đoạn thanh. Tam-muội Vô ái. Tammuội Vô thắng. Tam-muội Nhất thiết. Tam-muội Man. Tam-muội Long vương. Tam-muội Phong. Tam-muội Phong hành vương. Tammuội Vô biên. Tam-muội Vô sắc. Tam-muội Vô biên sắc. Tam-muội Pháp ý. Tam-muội Vi diệu hương. Tam-muội Thân ý. Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Tam-muội Hoại ác. Tam-muội Liên hoa ý. Tam-muội Đại lực xí. Tam-muội Hoại vô minh. Tam-muội Bồ đề thọ. Tam-muội Bảo mạng mạng. Tam-muội Đại lực mạng. Tam-muội Nhật quang. Tam-muội Nguyệt quang. Tam-muội Đại hải môn. Tam-muội Nhất thiết pháp giới. Tam-muội Kiết sử căn. Tam-muội Giới vũ. Tam-muội Giới vân. Tam-muội Am-la quả. Tam-muội Am-la hoa. Tam-muội Tịnh. Tam-muội Thủy. Tam-muội Loa. Tam-muội Thời. Tam-muội Thời vương. Tam-muội Chúng. Tam-muội Vô thân. Tam-muội Giới. Tam-muội Thiện giới. Tam-muội Địa. Tam-muội Địa thần túc. Tammuội Thủy đẳng. Tam-muội Thanh liên hoa. Tam-muội Cam lồ vị. Tam-muội Vô hệ. Tam-muội Uyên ương. Tam-muội Xa luân. Tammuội Chuyển luân Thánh vương. Tam-muội Bất động. Tam-muội Bất khinh. Tam-muội Bất trường. Tam-muội Lân mẫn. Tam-muội Tịnh ý. Tam-muội Nhất thiết công đức ý. Tam-muội Y-la-bát-la. Tam-muội Vô nghĩa giải thoát. Tam-muội Phong thần túc vương. Tam-muội Vô lượng tràng. Tam-muội Hư không giới. Tam-muội Vô tuệ tinh. Tammuội Quang bảo. Tam-muội Bạc thời. Tam-muội Đồng tử. Tam-muội Vương tử. Tam-muội Đoạn độc. Tam-muội Pháp đăng. Tam-muội Quốc thổ vượng. Tam-muội Thí thế giới. Tam-muội Pháp quý đức. Tam-muội Pháp lực. Tam-muội Thượng hoa. Tam-muội Hỷ. Tam-muội Đại hỷ. Tam-muội Tri đại lực. Tam-muội Tấn-đầu-ca quả. Tam-muội Tinh tấn. Tam-muội Xưng. Tam-muội Bạch nga vương. Tam-muội Thân quang. Tam-muội Vô tận lực. Tam-muội Vô tận lực giải thoát. Tam-muội Tăng trưởng danh. Tam-muội Đoan chánh. Tam-muội Năng phá hoại. Tam-muội Ma-lâu-ca hoa. Tam-muội Thiện hạnh vương. Tam-muội Thiện quang. Tam-muội Bảo địa. Tam-muội Bạch. Tammuội Bạch chủng. Tam-muội Tịnh hạnh ý. Tam-muội Ái quang minh. Tam-muội Hư không tâm. Tam-muội Thiên quan. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương quan. Tam-muội Niệm Bồ tát. Tam-muội Hộ ý. Tam-muội Hộ thậm thâm. Tam-muội Lực thừa. Tam-muội Lực thừa quang. Tam-muội Lực sĩ. Tam-muội Lực sĩ tinh tấn. Tam-muội Diêm phù quốc. Tam-muội Thố ngư. Tam-muội Mãng xà. Tam-muội Cảnh giới vương. Tam-muội Tịnh cảnh giới. Tam-muội Sử tâm. Tam-muội Triêu thanh. Tam-muội Hữu đức ý. Tam-muội Đại thanh. Tam-muội Đại hải sắc. Tam-muội Đại an. Tam-muội Huyên. Tam-muội Vô huyên. Tam-muội Kim cương ý. Tam-muội Thế Tôn mục. Tam-muội Tu-di sơn vương. Tam-muội Tuyết sơn vương. Tam-muội Thế Tôn hiện hạnh. Tam-muội Thắng. Tam-muội Liên hoa. Tam-muội Câu-vật-đầu hoa. Tam-muội Nguyệt tạng. Tam-muội Hoa phu. Tam-muội Địa man. Tam-muội Hiện tại niệm Thế Tôn vương. Tam-muội Thắng trụ. Tammuội Thiện trụ. Tam-muội Thiện hạnh. Tam-muội Đại hải. Tam-muội Nhất thiết nhập bình đẳng. Tam-muội Nhập nhất thiết nghi. Tam-muội Đại dược. Tam-muội Đại dược lực. Tam-muội Cam lồ dược vương. Tam-muội Đại dược vương. Tam-muội Đại lãnh. Tam-muội Đại hải. Tam-muội Đại lãnh vương. Tam-muội Vô lãnh vô nhiệt. Tam-muội An. Tam-muội An lực. Tam-muội Nhất thừa. Tam-muội Thích tuệ tinh. Tam-muội Hữu đức. Tam-muội Bảo viên vương. Tam-muội Vô định sắc. Tam-muội Định hoa. Tam-muội Lục nhập chân tịnh. Tam-muội Đại giới. Tam-muội Năng hoại dục giới. Tam-muội Anh lạc. Tammuội Kim sắc. Tam-muội Trí ái. Tam-muội Trí viên vương. Tam-muội Trí tử. Tam-muội Phân-đà-lợi hoa. Tam-muội Nhật quang vương. Tammuội Nguyệt ái. Tam-muội Quang vương. Tam-muội Quang viên vương. Tam-muội Tịnh quang vương. Tam-muội Quang tạng. Tammuội Thanh quang. Tam-muội Thời quang. Tam-muội Đoạn ám. Tammuội Quang triêu. Tam-muội Tiễn quang. Tam-muội Nhất thiết thiện căn. Tam-muội Bà-la-na hương tượng vương. Tam-muội Vị sinh ác vương. Tam-muội Điều nhu. Tam-muội Năng hoại kiêu mạn. Tammuội Diệu đức. Tam-muội Diệu thanh. Tam-muội Tham vị. Tam-muội Viện địa vương. Tam-muội Thần thông vương. Tam-muội Thần thông căn. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương phan. Tam-muội Chuyển luân Thánh vương tràng. Tam-muội Sư tử đầu. Tam-muội Nhật thần thông. Tam-muội Pháp hộ. Tam-muội Quảng. Tam-muội Tri nghiệp thần thông vương. Tam-muội Cao. Tam-muội Vô thượng. Tam-muội đăng vương. Tam-muội Xá trạch. Tam-muội Đa hỷ. Tam-muội Sơ địa. Tam-muội Giới địa. Tam-muội Đại hải hỷ vương. Tam-muội Đại hải từ vương. Tam-muội Đại hải bi vương. Tam-muội Đại hải xả vương. Tam-muội Nhẫn nhục vương. Tam-muội Nhẫn nhục lực giới vương. Tam-muội Thần thông chí tâm. Tam-muội Bát giải thoát môn. Tammuội Pháp giới tất cánh. Tam-muội Vô giới. Tam-muội Vô tánh. Tammuội Đại điền chủng tử. Tam-muội Trí từ. Tam-muội Hải. Tam-muội Hải lực. Tam-muội Phật nhãn. Tam-muội Phật môn. Tam-muội Trí hạnh. Tam-muội Phật diện. Tam-muội Nhất thiết thân. Tam-muội Nhất thiết phước đức vương. Tam-muội Hư không tạng. Tam-muội Hư không huyễn. Tam-muội Phật huyễn. Tam-muội Ác tánh. Tam-muội Trị độc. Tam-muội Miên. Tam-muội Giác. Tam-muội Mộng. Tammuội Đắc. Tam-muội Thần thông vương. Tam-muội Vô ngã thần thông. Tam-muội Thắng kiến. Tam-muội Thắng hỷ. Tam-muội Tùy thế. Tam-muội Phật diện trụ. Tam-muội Chánh kiến. Tam-muội Nhất thiết vi trần. Tam-muội Ngữ vô ngại. Tam-muội Tịnh. Tam-muội Thân quang. Tam-muội Thân đăng. Tam-muội Bất si. Tam-muội Bất cuồng. Tam-muội Nhất thiết thắng quang. Tam-muội Thủy ý. Tam-muội Phiêu. Tam-muội Thủy mạt. Tam-muội Vô thắng. Tam-muội Vô thắng trí. Tam-muội Vô thắng thân. Tam-muội Tinh tấn. Tam-muội Hằng hà sa đẳng thắng vương. Tam-muội Tri kiến viên quang vương. Tam-muội Đoạn súc sinh. Tam-muội Nguyện sinh súc sinh hữu. Tam-muội Súc sinh thần thông. Tam-muội Lạc súc sinh. Tam-muội Bất nhiễm súc sinh nghiệp. Tam-muội Nhập địa ngục. Tam-muội Bất nhiễm địa ngục nghiệp. Tam-muội Bất nhiễm địa ngục nghiệp hành thần thông vương. Tam-muội An lạc hạnh thể. Tam-muội Hữu đức hà. Tam-muội Hữu đức hải. Tam-muội Tịnh hà. Tam-muội Tịnh hạnh công đức. Tam-muội Phước đức. Tam-muội Phước đức thanh. Tam-muội Tịnh phước đức văn. Tam-muội Hữu đức mộng. Tam-muội Tán thán. Tam-muội Hữu đức mộng đắc. Tam-muội Hữu đức mộng hạnh. Tam-muội Chánh hữu đức. Tam-muội Tịnh tăng trưởng. Tam-muội Trí vũ. Tam-muội Phong đồng hành. Tam-muội Cát. Tam-muội Cát trang nghiêm. Tam-muội Cát thần thông. Tam-muội Cát thần thông vương. Tam-muội Vô giới. Tam-muội Tạp sắc. Tam-muội Thọ giới. Tam-muội Tán giới. Tammuội Giới thật. Tam-muội Trí đăng. Tam-muội Đắc giới thật. Tammuội Thường giới. Tam-muội Thường giới nhập tạng kiến. Tam-muội Tâm. Tam-muội Tâm vương. Tam-muội Thường giới hỷ. Tam-muội Thường lạc giới. Tam-muội Giới anh lạc. Tam-muội Giới thiên quan. Tam-muội Giới cụ túc. Tam-muội Giới man. Tam-muội Giới hương. Tam-muội Giới hoa. Tam-muội Giới đồ mạt hương. Tam-muội Giới thần thông vương. Tam-muội Nhất thiết vị. Tam-muội Nhất thiết hoa. Tam-muội Nhất thiết hương túy. Tam-muội Đoạn nhất thiết hư không. Tam-muội Thọ an lạc. Tam-muội Đoạn nhất thiết thế pháp vương. Tam-muội Thường. Tam-muội Hằng. Tam-muội Bất biến. Tam-muội Địa. Tam-muội Vô thích địa. Tam-muội Vô thạch sa. Tam-muội Địa đẳng. Tam-muội Đại vân lưu ly vương. Tam-muội Thanh cổ. Tammuội Đại vân điện. Tam-muội Đại vân bộc thủy. Tam-muội Đại vân thủy tạng. Tam-muội Đại vân thủy man. Tam-muội Đại vân an thủy. Tam-muội Đại vân thủy ngưng. Tam-muội Đại vân trí hải. Tam-muội Đại vân thắng lực. Tam-muội Đại vân thủy quang trì vương. Tam-muội Đại vân thủy triều hải. Tam-muội Đại vân hải chủng. Tam-muội Đại vân bất động thủy. Tam-muội Đại vân thủy bất động thần thông vương. Tam-muội Đại vân đoan chánh vương. Tam-muội Đại vân nhất vị. Tam-muội Đại vân nhất thừa. Tam-muội Đại vân an thủy lưu. Tammuội Đại vân đa thủy lưu. Tam-muội Đại vân lãnh thủy. Tam-muội Đại vân bất lãnh bất nhiệt thần thông vương. Tam-muội Đại vân nguyệt vương. Tam-muội Đại vân hữu đức. Tam-muội Đại vân sơ lực. Tam-muội Đại vân khát. Tam-muội Đại vân lạc. Tam-muội Đại vân thủy hành vương. Tam-muội Đại vân hư không hành. Tam-muội Đại vân thủy bảo. Tam-muội Đại vân hỷ. Tam-muội Đại vân bảo chủng.

Tam-muội Đại vân hộ. Tam-muội Đại vân thủy tịnh vương. Tam-muội Đại vân thủy quy y ấn. Tam-muội Đại vân pháp ấn. Tam-muội Đại vân thủy tịnh quang. Tam-muội Đại vân đại thủy tạng vương. Tam-muội Đại vân thủy định. Tam-muội Đại vân liên hoa. Tam-muội Đại vân thủy giới. Tam-muội Đại vân thủy đẳng. Tam-muội Đại vân dạ hành. Tam-muội Đại vân thủy thanh. Tam-muội Đại vân hải vô tận ý. Tammuội Đại vân phóng quang. Tam-muội Đại vân tạng. Tam-muội Đại vân thủy tụ. Tam-muội Đại vân thủy trụ. Tam-muội Đại vân sư tử vương. Tam-muội Đại vân lạc. Tam-muội Đại vân tịnh. Tam-muội Đại vân tham. Tam-muội Đại vân tràng. Tam-muội Đại vân thậm thâm. Tam-muội Đại vân lôi. Tam-muội Đại vân tăng trưởng thủy. Tam-muội Đại vân dược vương. Tam-muội Đại vân túy vị. Tam-muội Đại vân sư tử hạnh. Tam-muội Đại vân đại hương tượng vương. Tam-muội Đại vân an lạc. Tam-muội Đại vân phong. Tam-muội Đại vân thủy hành bất động. Tam-muội Đại vân vô úy. Tam-muội Đại vân thủy thuận. Tam-muội Đại vân vô tận ý. Tam-muội Đại vân lậu nan sổ. Tam-muội Đại vân lôi đại lực. Tam-muội Đại vân thủy hỷ. Tam-muội Đại vân hải thủy viên. Tam-muội Đại vân thủy phan. Tam-muội Đại vân cam lồ vũ. Tam-muội Đại vân chiên đàn lương. Tam-muội Đại vân cát. Tammuội Đại vân tất cánh. Tam-muội Đại vân vô chung thỉ. Tam-muội Đại vân la võng. Tam-muội Đại vân bảo vũ. Tam-muội Đại vân bí mật. Tam-muội Đại vân tuệ tinh. Tam-muội Đại vân ý mật. Tam-muội Đại vân đại động. Tam-muội Đại vân diệt. Tam-muội Đại vân vi diệu âm. Tam-muội Đại vân hằng hà sa đẳng. Tam-muội Đại vân thủy kiện. Tam-muội Đại vân nga vương. Tam-muội Đại vân thủy hành. Tammuội Đại vân mạng. Tam-muội Đại vân cuồng vương. Tam-muội Đại vân cuống. Tam-muội Đại vân Thủ lăng nghiêm. Tam-muội Đại vân mã vương. Tam-muội Đại vân phách thọ. Tam-muội Đại vân vô tận vân. Tam-muội Đại vân nhất thiết đẳng đại. Tam-muội Đại vân nhất thiết vũ. Tam-muội Đại vân nhất thiết hòa hợp. Tam-muội Đại vân Am la thọ quả. Tam-muội Đại vân sơn phụ. Tam-muội Đại vân kiên tiên. Tam-muội Đại vân mật hạnh. Tam-muội Đại vân mật thật. Tam-muội Đại vân nga vương hạnh. Tam-muội Đại vân bất khả tư nghì. Tammuội Đại vân nhập trụ thần thông vương.

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào có đầy đủ các loại Tam-muội như thế thì đạt được đa văn đại hải, đa văn bảo tạng của Bồ-tát. Đối với đạo quả Bồ-đề Vô thượng, tâm không còn nghi ngại, trọn không còn bị đọa nơi ba cõi ác, không sinh nơi biên địa, đạt được trí túc mạng, tạo nghiệp sinh tử, vui với sinh tử, thường được gặp Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng; thậm chí ngay trong mộng cũng không lìa bỏ, được thân đoan nghiêm, thân được mọi người yêu mến, thân không tham, thân không ác, thân lớn, thân chủng tánh, hàng quyến thuộc thì hòa hợp, không ngăn trở phá hoại, không lui, không diệt, không đọa, không mất.

Đối với việc tu hành, thâm tâm niệm tuệ, đều hướng tới đạo quả giác ngộ vô thượng được sức hổ thẹn, đoạn trừ kiêu mạn, chăm tu tinh tấn, từ bi hỷ xả, huân tập nơi tâm không – vô tướng – vô nguyện, nguyện sinh tịnh độ tức khắc vãng sinh. Mọi tà thuyết dị kiến không thể phá hoại. Thuyết pháp có thứ lớp, cú nghĩa dồi dào. Tuy đọc ngoại điển nhưng tâm không tham vướng, hoàn toàn không nguyện cầu thân trời, thân rồng, thân Dạ-xoa, cho đến thân của Chuyển luân vương, cũng không tạo tác nghiệp hạnh sinh tử, không cầu sự cung kính chúng sinh của thế gian, hộ trì chánh pháp, khiến ma không thể tùy tiện thao túng. Thấy người trì pháp thì phát tâm cung kính sâu xa, trí tuệ đạt được giống như đại hải, không tăng không giảm, như trăng tròn đầy, như ánh mặt trời, như ngọn đuốc sáng trừ bỏ sự tối tăm cho chúng sinh, giống như hư không không bị phiền não, không nhiễm phiền não; như hoa dưới nước, như hư không, trụ nơi không trụ; như kim cang nguyên chất phá tan các pháp, giữ gìn tất cả pháp; giống như núi Tuyết, định biết Như Lai thường trụ không biến đổi, trí tuệ thanh tịnh như ngọc báu lưu ly, đạt được giới Như Lai, uy lực như đại hải, tấm lòng từ ái thương xót chúng sinh, không động, không chuyển, như cây cờ của Đế thích, hoại các pháp ác, đắc vị thượng diệu, giống như quả Ca-đà-ca thơm ngon, tùy thuận thế pháp không chỗ ngược trái.

Này thiện nam! Đây chính là môn Tam-muội.

Này thiện nam! Nếu ai thành tựu đầy đủ bốn trăm Tam-muội như vậy thì nên biết, người ấy khéo hộ trì tạng pháp.

Bấy giờ, trong chúng hội có một Thiên tử tên Tịnh Mật cùng với một vạn tám ngàn các Thiên tử bước tới chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ, cung kính chấp tay, mưa các hoa trời, hương thơm, cờ phướn, ca nhạc v.v… cúng dường Đức Thế Tôn, nhiễu bên phải ba vòng rồi nói kệ ca ngợi:

Như Lai không nghĩ bàn
Pháp, Tăng cũng như vậy
Con thấy mưa Tam-muội
Như đời gặp cam lồ.

 

Chương 3: NÓI VỀ ĐÀ LA NI

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh nào chưa nhập vào kinh Phương Đẳng này thì nên biết, những chúng sinh ấy giống như kẻ bị mù, điếc.

Trong kinh này có ba mươi sáu loại trí báu bất thoái, vô biên tâm hành ý nhập nơi môn Đà-la-ni, tức là pháp môn đầu tiên của tất cả pháp. Cúi mong Như Lai hãy vì chúng con mà rộng nói phân biệt.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nay Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông phải lắng nghe, suy nghĩ cho thật kỹ.

Kinh này có pháp môn Đà-la-ni bất thoái bảo luân tạng của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái thanh tịnh mật thủy của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái bí mật quang minh của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái đại vũ của chư Phật, Bồ-tát.

Kinh này lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái lưu thủy của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái tâm ý của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái điện quang của chư Phật, Bồ- tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái lương điện của chư Phật, Bồ- tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân bất thoái tịnh quang của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý tuệ tinh của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý sáng rỡ nơi tạng bi kín của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý chú lớn của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý có đức của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua tạng hư không của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua đại dược của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua đại vũ của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển xứng ý của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý núi Chỉ-la-bà của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý hành của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua cao tột của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua thủy triều của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển mắt nga vương của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển trí biển lớn của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển sự siêng năng nơi vua ý thâm diệu của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vũ chủng của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển địa man của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển sự vui vẻ của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý thế của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ý không động của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển quả vị của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển chứa nhóm của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ánh sáng nơi nước của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển tạng nước vô tận của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển ánh sáng trăng nơi tánh nước của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển bản thể ánh sáng nơi nước của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có Đà-la-ni Đại vân không thoái chuyển vua biển lớn không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát.

Này thiện nam! Đây chính là ba mươi sáu pháp Đà-la-ni bất thoái trí bảo vô biên “tâm hành ý nhập”.

Bấy giờ, trong chúng hội có Thiên nữ tên Bảo Man bay vụt lên không trung cao bảy cây Đa-la, mưa xuống các loại hoa, hương thoa, hương bột, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Đức Phật rồi nói kệ tán thán:

Như Lai – Đại Y vương
Thân kim cang không hoại
Các ý tuệ thù thắng
Giới tịnh, thương chúng sinh.
Trừ dứt các phiền não
Như mặt trời trừ tối
Nay nói Đà-la-ni
Như mây tuôn mưa lớn.

 

Chương 4: MẬT NGỮ

Khi ấy, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh bị vô minh làm cho mù tối. Cúi xin Như Lai rộng khai, hiển thị mật ngữ của chư Phật, đốt ngọn đèn trí tuệ sâu xa làm ánh sáng lớn dẫn đường.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông đốt lên ngọn đèn đại pháp. Lắng nghe, ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Trong kinh này có hai mươi ba môn giải thoát đạo tích mật ngữ nhập vào phương tiện đại pháp nơi hành tỉnh giác của chư Phật, Bồ-tát.

Môn hành giải thoát nhập vào mật ngữ đoạn ngã và ngã sở.

Môn hành giải thoát nhập vào mật ngữ sắc đáng sợ, sắc không đáng sợ, sắc thấp kém.

Môn hành giải thoát nhập vào mật ngữ tham cầu không được.

Môn Mật ngữ: Cõi đoạn, cõi có, cõi không.

Môn Mật ngữ: Vô minh có, vô minh không, vô minh có – không.

Môn Mật ngữ: Có người tham, không người tham, đoạn dứt sự tham.

Môn Mật ngữ: Người có ái, không ái, đoạn dứt sự ái.

Môn Mật ngữ: Có người trói buộc, không trói buộc, đoạn dứt sự trói buộc.

Môn Mật ngữ: Có người sân hận, không sân hận, đoạn dứt sự sân hận.

Môn Mật ngữ: Có tối tăm, không tối tăm, có ánh sáng.

Môn Mật ngữ: Có chậm lụt, không chậm lụt, có lanh lợi, đại lanh lợi.

Môn Mật ngữ: Có phá, có bẻ, có hoại.

Môn Mật ngữ: Có khổ, có vui, có người không cảm thọ khổ vui.

Môn Mật ngữ: Có lòng từ, không lòng từ, không sự thương xót.

Môn Mật ngữ: Có đại thí chủ, có người ban phát nhưng không có người nhận.

Môn Mật ngữ: Có người mắng, không người nhận, dứt trừ sự mắng.

Môn Mật ngữ: Có sự thanh tịnh, không sự thanh tịnh, cắt đứt tất cả sự thanh tịnh.

Môn Mật ngữ: Có sự ngang bằng, không sự ngang bằng, cắt đứt tất cả sự ngang bằng.

Môn Mật ngữ: Có sự buông lung, không sự buông lung, đoạn dứt buông lung, không sự buông lung.

Môn Mật ngữ: Như Lai không, bất không, phi không, phi bất không.

Môn Mật ngữ: Như Lai thường, không thường, phi thường, phi không thường.

Môn Mật ngữ: Như Lai ngã, không ngã, phi ngã, phi không ngã.

Môn Mật ngữ: Như Lai ái, không ái, phi ái, phi không ái.

Thiện nam! Đó là hai mươi ba môn giải thoát Mật ngữ đạo tích nhập vào phương tiện đại pháp nơi hạnh tỉnh giác của chư Phật, Bồ-tát.

Khi ấy, trong chúng hội có Thiên tử tên Chúng Ái cùng với vô lượng Thiên tử bay lên không trung cao mười bảy cây Đa-la, mưa xuống các loại hoa, hương thơm, cờ, lọng, ca nhạc để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Như Lai lời thâm mật
Nhị thừa không hiểu được
Tuyên nói cho mọi người
Khiến đều được an lạc.

 

Chương 5: CHUYỂN SINH HỮU TẠNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn thần thông hành nhập vào

hành tạng hữu sinh quang vương vi diệu. Cúi mong Như Lai phân biệt giảng nói rộng. Phật bảo:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt rộng nói cho ông. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh này có pháp môn Hữu sinh lạc vương của chư Phật, Bồ-tát.

Lại có pháp môn Hữu sinh cầu hỷ.

Lại có pháp môn Hữu sinh hư khát.

Lại có pháp môn Hữu sinh lạc thuyết.

Lại có pháp môn Hữu sinh an.

Lại có pháp môn Hữu sinh nguyện.

Lại có pháp môn Hữu sinh xứng.

Lại có pháp môn Hữu sinh thể vương.

Lại có pháp môn Hữu sinh thiện vương.

Lại có pháp môn Hữu sinh vô thiện bất nhiễm hành tạng vi diệu pháp vương.

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Thần thông hành nhập hành tạng hữu sinh quang vương vi diệu.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Ái Quang đem các loại hoa trời, các loại hương, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Nay con cúi đầu lạy
Không sinh nơi các Hữu
Phương tiện trong các nẻo
Khắp vì tất cả chúng.
Như Lai, tâm tự tại
Thế nên thân ấy thường
Vì chúng chuyển sinh tử
Như hoa không nhiễm vướng.

 

Chương 6: ĐẮC CHUYỂN SINH TỬ NGHIỆP PHIỀN NÃO

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nghiệp nhân sinh tử phiền não đạt nguyện tạng tâm định. Cúi xin Như Lai hãy vì tất cả chúng sinh phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ mở bày giảng nói cho ông rõ. Phải lắng nghe và suy nghĩ kỹ.

Trong kinh này có: Pháp môn Đắc nhân quả thật sinh tử phiền não.

Lại có pháp môn Sinh tử nhân lạc vương.

Lại có pháp môn Sinh tử trang nghiêm trụ tâm.

Lại có pháp môn Sinh tử hỷ địa.

Lại có pháp môn Sinh tử kỳ địa.

Lại có pháp môn Sinh tử chánh kiến.

Lại có pháp môn Sinh tử huyễn.

Lại có pháp môn Sinh tử y phục.

Lại có pháp môn Sinh tử cửu trụ.

Lại có pháp môn Sinh tử quang minh.

Thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Nghiệp nhân sinh tử phiền não đạt nguyện tạng tâm định.

Khi đó, trong đại chúng có Long vương tên Vô Độc đem các loại hương, các loại hoa thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Vì các loài chúng sinh
Hiển thị nghĩa sinh tử
Phật không phiền não nghiệp
Vì chúng sinh đến đây.

 

Chương 7: TRÍ CUỒNG NHẬP

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười thứ pháp môn Trí cuồng không thể

nghĩ bàn nhập vào thần thông vương. Cúi mong Như Lai hãy mở bày phân biệt rộng. Phật bảo:

–Lành thay! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh này có: Pháp môn Đắc đại an ẩn.

Pháp môn Vô thắng thắng thần thông vương.

Pháp môn Vô xứng xứng quang sở nhập.

Pháp môn Vô lượng lượng quang sở nhập.

Pháp môn Bồ-đề thời.

Pháp môn Kỳ quang.

Pháp môn Cao thê.

Pháp môn Khoan phước.

Pháp môn Trì nhất thiết chúng sinh.

Pháp môn Hiện tại quang.

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Trí cuồng không thể nghĩ bàn nhập vào thần thông vương.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Man đem các loại hoa, các loại hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ khen ngợi:

Tâm Phật khó nghĩ bàn
Thân trí cũng như vậy
Vì hóa độ chúng sinh
Rộng mở pháp môn này.

 

Chương 8: PHÁP MÔN GIẢI THOÁT CHUYỂN PHƯỚC ĐỨC TẠNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Trí thâm diệu nhập vào pháp vương hành vô úy. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt rộng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có: Pháp môn Giải thoát tất cả pháp ác.

Pháp môn Hư không tạng.

Pháp môn An nhập hết mực thâm diệu.

Pháp môn Tế châm.

Pháp môn Hải bất động.

Pháp môn Trí đăng.

Pháp môn Thân khẩu.

Pháp môn Đoạn nhập tất cả phiền não.

Pháp môn Kiên ý nhập.

Pháp môn Tịnh ý vô ngại.

Thiện nam! Đây gọi là mười pháp môn Trí thâm diệu nhập pháp vương hành vô úy.

Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Kim Quang Minh đem các loại hoa, các thứ hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán:

Như Lai thân sắc vàng
Trí báu là anh lạc
Nơi báu, pháp lành tụ
Như cây cỏ Tu-di.

 

Chương 9: GIẢI THOÁT HỮU ĐỨC CHUYỂN TẠNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Đại vân kiến lưu tạng báu công đức không thể nghĩ bàn. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt diễn thuyết. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh này có:

Pháp môn Lạc từ tạng. Pháp môn Lạc bi tạng.

Pháp môn Lạc hỷ tạng.

Pháp môn Lạc xả tạng.

Pháp môn Bảo thủy lưu tạng.

Pháp môn Đại hải hành.

Pháp môn Như Lai sở thuyết pháp lưu.

Pháp môn Thời nhập tạng.

Pháp môn Tưởng ý bảo tạng nhập.

Pháp môn Nhất thiết đại pháp tụ.

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn Đại vân kiến lưu tạng báu công đức không thể nghĩ bàn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Trí Ái Lạc đem các loại hoa trời, các thứ hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:

Như Lai không sinh diệt
Pháp Phật khó xét lường
Vô minh che chúng sinh
Nêu rộng nơi pháp giới.

 

Chương 10: CHUYỂN CÔNG ĐỨC HẠNH

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Vũ lưu tạng công đức không thể nghĩ bàn. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ tuyên nói rộng rãi, phân biệt cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ.

Này thiện nam! Có pháp môn Vũ võng.

Pháp môn Bảo vương.

Pháp môn Vũ đại hải vương.

Pháp môn Vũ trần.

Pháp môn Vũ đoạn độc.

Pháp môn Vũ mãn an lạc.

Pháp môn Vũ thể.

Pháp môn Vũ chủng chủng chánh kiến.

Pháp môn Vũ công đức.

Pháp môn Vũ lương dược.

Này thiện nam! Đó chính là mười loại pháp môn Vũ lưu tạng công đức không thể nghĩ bàn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Hư Không Lôi đem các loại hoa, các thứ hương thượng diệu, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:

Chư Phật Như Lai nói
Tạng vi mật thượng diệu
Khiến cho tất cả chúng
Vượt hẳn dòng phiền não.
Đoạn diệt khổ sinh tử
Hết thảy chẳng còn gì
Tự mình đạt giác ngộ
Niết-bàn luận đủ lạc – thường.
Như Lai, Thiên Trung Thiên
Thành tựu vô lượng đức
Nay nói kinh Đại Vân
Vì chúng phát tâm đạo.

 

Chương 11: HƯ KHÔNG SINH

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười loại pháp môn về Đại vân đắc hư không định. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:

Pháp môn Thiện pháp vương.

Pháp môn Kiến tánh.

Pháp môn Trí vô thắng vương.

Pháp môn Vô kiêu mạn.

Pháp môn Vô tận ý.

Pháp môn Bất khả tư nghì.

Pháp môn Vô ngại.

Pháp môn Thậm thâm.

Pháp môn Chất trực.

Pháp môn Hư không tướng.

Này thiện nam! Đây chính là mười loại pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Diệu Tộc Tánh đem các loại hương hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi tán thán:

Như Lai tạng sâu kín

Chúng sinh không hiểu được

Cúi mong vì tất cả

Phân biệt khiến tỏ bày.

 

Chương 12: ĐIỆN QUANG CHUYỂN

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười loại pháp môn nói về Đại vân điện quang. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ ghi nhận. Trong kinh có:

Pháp môn Sáu thông.

Pháp môn Công đức.

Pháp môn Bảo quang.

Pháp môn Hư không tinh tiến.

Pháp môn Tạng.

Pháp môn Giới điều.

Pháp môn Công đức tạng.

Pháp môn Đoạn nghi.

Pháp môn Lưu ly ý.

Pháp môn Thanh tịnh.

Pháp môn công đức thâm diệu đại hải.

Pháp môn Hoại nhất thiết kiến.

Pháp môn Kim cấu.

(Chương 12, bản Phạn dư 3 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười loại pháp môn.

Lúc đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Hỷ đem các loại hoa, hương, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi tán thán:

Như Lai Đại Y vương

Không: thân, thân phương tiện

Vô ngại như hư không

Rộng nói kinh Đại Vân.

 

Chương 13: ĐIỆN CHUYỂN

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Bảo điện hành. Cúi mong Như Lai mở bày, phân biệt.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:

Pháp môn Điện quang bảo vương.

Pháp môn Lợi trí tuệ.

Pháp môn Trí tuệ năng hoại.

Pháp môn Sơ trí.

Pháp môn Trí hải.

Pháp môn Pháp nghi.

Pháp môn Cát tường.

Pháp môn Pháp cổ.

Pháp môn Tu di sơn.

Pháp môn Năng hoại ám.

Pháp môn Phong đẳng hạnh.

(Chương 14, bản Phạn dư 1 pháp môn)

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Hằng Hà Thần đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Tâm vô úy, vô ngã

Vô tham, thương chúng sinh

Sử dụng đại phương tiện

Mà vì tất cả đời

Như Lai, sức công đức

Khiến cho con biết được

Thân vô thượng vô biên

Không thể suy nghĩ, bàn

Con nghe kinh này rồi

Đoạn hẳn mọi phiền não.

 

Chương 14: THẦN THÔNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười loại pháp môn nói về Đại vân điện quang huyễn. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt rộng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Điều huyễn.

Pháp môn Điều tạng.

Pháp môn Lạc pháp.

Pháp môn Cầu pháp.

Pháp môn Thiêu kiết.

Pháp môn Sinh nhất thiết pháp.

Pháp môn Đoạn chư tranh tụng. Pháp môn Năng tiêu phiền não.

Pháp môn Thượng cao.

Pháp môn Niệm vô tận.

Pháp môn Độ nhất thiết chúng sinh.

(Chương 14, bản Phạn dư 1 pháp môn)

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Đại Hỷ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Như Lai, đại thần thông

Thân Ngài không động chuyển

Vì chúng, đoạn sinh tử

Nên nói kinh Đại Vân.

 

Chương 15: BẢO BẠC

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Đại thần thông. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ. Trong kinh có:

Pháp môn Bảo bạc.

Pháp môn Bạc đẳng.

Pháp môn Bạc trang nghiêm vương.

Pháp môn Bạc đăng. Pháp môn Bạc dược.

Pháp môn Bạc đồng.

Pháp môn Bạc vô tận ý.

Pháp môn Bạc thượng thượng.

Pháp môn Bạc thượng dung.

Pháp môn Bạc thậm thâm.

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Khi đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Nghiêm Sức Tự Hỷ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:

Như Lai, đại bạc vương

Thiên Trung Thiên mưa khắp

Biết các nghiệp phiền não

Và dứt trừ sạch chúng.

Phàm phu kiết vô biên

Xoay vòng chịu sinh tử

Bồ-tát không phiền não

Nên không đến các nẻo.

 

Chương 16: KIM CƯƠNG TRÍ

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Trí kim cang hành nhập trí. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ ghi nhận. Trong kinh có:

Pháp môn Thần thông bảo tụ.

Pháp môn Hỷ vương.

Pháp môn Thần thông bình đẳng.

Pháp môn Bạch nga thanh.

Pháp môn Hư không vô ngại.

Pháp môn Dược vương.

Pháp môn Pháp tràng.

Pháp môn Đại hải thậm thâm.

Pháp môn Bất động.

Pháp môn Vô biên quang.

Pháp môn Bất khả tư nghì.

Pháp môn Vô lượng kiếp.

(Chương 16, bản Phạn dư 2 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thâm Trí Ái đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:

Như Lai, vô thượng vương

Không sinh cũng không diệt

Vì các loại chúng sinh

Mà thị hiện sinh diệt.

Chân thật, thường, không đổi

Vì chúng nói vô ngã

Thân Phật như kim cang

Không thể bị ngăn, hoại.

 

Chương 17: VÔ TẬN

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Vô tận ý hội nhập thần thông. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt nói rộng.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Cam lộ ý nhập.

Pháp môn An bảo.

Pháp môn Lạc.

Pháp môn Hỷ.

Pháp môn Tinh tấn thậm thâm.

Pháp môn Ý hạnh.

Pháp môn Vô tận lạc.

Pháp môn Thường hỷ lạc.

(Chương 17, bản Phạn thiếu 2 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Đại Bảo Luân đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói lời ca ngợi:

Như Lai không giàu nghèo

Thân Ngài không trở ngại

Vì thương xót tất cả

Vui nói kinh Đại Thừa.

 

Chương 18: CHÁNH HẠNH

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chánh đạo. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Thâm quảng hạnh.

Pháp môn Kiện hành.

Pháp môn Hiện lực.

Pháp môn Kiện thắng.

Pháp môn Nhất thiết thiên nhân.

Pháp môn Nhập nhất thiết thời.

Pháp môn Bất nhiễm nhất thiết thời.

Pháp môn Nhất thiết đạo hỷ.

Pháp môn Đoạn nhất thiết cõi ác.

Pháp môn Đại hải thường triều.

Pháp môn Đại hải thần thông.

(Chương 18, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Đắc đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Như Lai đấng vô thượng

Tu tập đạo chân chánh

Tuy thành kho vững chắc

Tâm dứt mọi lo sợ.

Thương xót các chúng sinh

Và cũng vì chúng con

Ngay nơi bảo tòa này

Tuyên nói kinh như vậy

 

Chương 19: SƯ TỬ HỐNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Hành sư tử hống thâm diệu hết mực. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Nhất thiết vị hống.

Pháp môn Nhất thiết vị hỷ.

Pháp môn Thời thần thông vương.

Pháp môn Liên hoa.

Pháp môn Hỷ địa.

Pháp môn Đại hỷ địa.

Pháp môn Tứ oai nghi.

Pháp môn Thánh hạnh.

Pháp môn Tịnh.

Pháp môn Nhất thiết pháp thể.

Thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Vi Diệu Thanh đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Trí vô thượng vi diệu

Giống như nước biển cả

Diệu lực khó nghĩ bàn

Nên như sư tử gầm.

Vì các loại chúng sinh

Sinh khởi lòng thương xót

Nay nói kinh Phương Đẳng

Tâm ý không còn sợ.

 

Chương 20: SƯ TỬ HỐNG THẦN THÔNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Thần thông của sư tử hống. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Quang.

Pháp môn Pháp phong.

Pháp môn Pháp cổ.

Pháp môn Pháp bảo.

Pháp môn Pháp tạng.

Pháp môn Pháp lực.

Pháp môn Pháp động.

Pháp môn Pháp tạp.

Pháp môn Đại địa.

Pháp môn Nan cận.

Pháp môn Nhất thiết anh lạc.

(Chương 20, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Sư Tử Hống đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Như Lai không nhân dụ

Không hơn, không biên vực

Vì các loài chúng sinh

Phương tiện sư tử gầm.

 

Chương 21: THIỆN PHƯƠNG TIỆN

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về việc Nhập vào phương tiện của thế gian. Cúi mong Như Lai phân biệt nói rộng.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:

Pháp môn Sinh vương nhập.

Pháp môn Cứu cánh đa phương tiện nhập.

Pháp môn Tín tâm nhập.

Pháp môn Sư tử thần thông.

Pháp môn Thế giới phi thế giới.

Pháp môn Thời nhất nhập.

Pháp môn Thiện bất thiện.

Pháp môn Năng điều ác nhân.

Pháp môn Hữu đức vương nhập.

Pháp môn Đắc nhất thiết cung kính.

Pháp môn Hạ nghiệp lành.

(Chương 21, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Lúc ấy, trong chúng hội có Thiên tử tên Bà-la-ha-ca đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Như Lai phương tiện nhập Niết-bàn

Thân Ngài không động, cũng không diệt

Nhập vào thiền định khó nghĩ bàn

Chúng sinh không hiểu, cho mất hẳn.

 

Chương 22: THẦN THÔNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Thần thông hội nhập nơi bảo tạng. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng

nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Pháp châu la.

Pháp môn Đại thần thông.

Pháp môn Bảo hương tạng.

Pháp môn Sư tử hống nhập tụ.

Pháp môn Phá pháp tướng.

Pháp môn Chiên đàn hương.

Pháp môn Vô tướng.

Pháp môn Vô ngữ.

Pháp môn Liên hoa.

Pháp môn Xưng.

Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Tăng Trưởng Hữu Đức đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Tam thiên đại thiên cõi

Phật tự tại trong pháp

Pháp thân không thể thấy

Vì chúng hiện tướng tốt.

 

Chương 23: KIM SÍ ĐIỂU

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chỗ hội nhập thần thông của kim sí điểu. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:

Pháp môn Năng hoại Long vương Bà-tu-cát lực thần thông vương.

Pháp môn Tự tại lực nhập.

Pháp môn Hỷ nhập.

Pháp môn Khai dũng nhập.

Pháp môn Đại hải thời nhập.

Pháp môn Năng hoại đại sơn.

Pháp môn Năng hoại phong lực.

Pháp môn Trường kiến.

Pháp môn Năng hoại nhất thiết độc. Pháp môn Đắc bảo tuyển.

Thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Thâm Tịnh Hạnh đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Như Lai đại Pháp vương

Tuệ nhãn ví ngàn nhật

Định căn tay kim cang

Diệt hết các phiền não.

 

Chương 24: ĐẠI XẢ

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Đại xả thời thần thông vương vi diệu. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Vô ngại lực thâm diệu.

Pháp môn Giới trụ.

Pháp môn Giới quảng vương.

Pháp môn Giới giới vương.

Pháp môn Bảo nhũ lưu.

Pháp môn Công đức lưu vi diệu.

Pháp môn Từ lực lưu.

Pháp môn Nhẫn nhục lưu.

Pháp môn Hỷ lực lưu.

Pháp môn Xả lực lưu.

Thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Khi đó, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Quý Đức đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi ca ngợi:

Lễ Phật, sức vô lượng

Thân thường trụ không hoại

Vì các loài chúng sinh

Nên nói các pháp giới.

 

Chương 25: VÔ ÚY

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Đại lực vô sở úy là chỗ hội nhập của thần thông. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Trong kinh có:

Pháp môn Vô sở úy lực thần thông.

Pháp môn Bất hy lạc căn.

Pháp môn Bảo tụ.

Pháp môn Thập hữu đức.

Pháp môn Tịnh hoàn.

Pháp môn Tịnh quang hạnh.

Pháp môn Tịnh bảo quang.

Pháp môn Hỷ nhập.

Pháp môn Tịnh đẳng.

Pháp môn Điện quang.

Này thiện nam! Đây là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Tuệ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi tán thán:

Tạng bí mật Như Lai

Sâu xa như biển lớn

Vì các loài chúng sinh

Hành tịnh nơi pháp giới

 

Chương 26: NHẬP HẠNH

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Nhập hạnh. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Nhập tạng.

Pháp môn Chánh hạnh.

Pháp môn Chánh thật.

Pháp môn Cát xưng.

Pháp môn Xưng.

Pháp môn Thường hỷ.

Pháp môn Nhật tu.

Pháp môn Bi lực.

Pháp môn Nhẫn nhục.

Pháp môn Thường tịnh.

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Chánh Quang đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Biển trí tuệ Như Lai

Sâu xa thật khó lường

Vì khắp các chúng sinh

Nay nói kinh Đại Vân.

 

Chương 27: CHÍ TÂM

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Chí tâm sở nhập. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Trụ thiện giới.

Pháp môn Đại hại trí.

Pháp môn Trí triều.

Pháp môn Thần thông hạnh.

Pháp môn Hư không thần thông.

Pháp môn Vô nhiệt.

Pháp môn Sơ thành.

Pháp môn Tùy hành.

Pháp môn Thí hỷ.

Pháp môn Thiện chí tâm.

Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Ba-đầu-ma-trí đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Đảnh vô kiến Như Lai

Không hơn, không gì trên

Nay phóng ánh sáng lớn

Khắp vì các chúng sinh.

 

Chương 28: DŨNG LỰC

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Dũng vương đại lực vi diệu. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Kiền thắng điền hạnh. Pháp môn Thủ lăng nghiêm.

Pháp môn Dũng kiện thần thông.

Pháp môn Kiện lực.

Pháp môn Kiện quy.

Pháp môn Chúng sinh cụ túc.

Pháp môn Trí kiên kiền hành.

Pháp môn Hoại lại đọa.

Pháp môn Quảng lực.

Pháp môn Kiện điều quang.

Pháp môn Kiện ý.

(Chương 28, bản Phạn dư 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Dũng Vũ đem các thứ hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Quyến thuộc không thể hoại

Giống như kim cang báu

Hàng phục quyến thuộc ma

Vì chúng nói kinh này.

 

Chương 29: THIỆN

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Thiện hạnh đại thần thông vương sở nhập. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Thiện bảo điều.

Pháp môn Thiện tụ.

Pháp môn Thiện đường.

Pháp môn Thiện hạnh.

Pháp môn Thiện ý.

Pháp môn Thiện đức.

Pháp môn Thiện tịnh.

Pháp môn Thiện điều quang.

Pháp môn Nhất thiết thiện hạnh anh lạc.

(Chương 29, bản Phạn thiếu 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Lúc đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Thiện Hộ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Thành tựu được tướng lành

Ngồi an tòa thiện diệu

Khắp vì các chúng sinh

Diễn bày pháp vô thượng.

 

Chương 30: THẦN THÔNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười ba pháp môn nói về Tạng thần thông được khai thị. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt chỉ bày cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Lạc thần thông quật.

Pháp môn Hỷ thần thông quật.

Pháp môn Đại hỷ thần thông quật.

Pháp môn Hành thần thông quật.

Pháp môn Sư tử thần thông quật.

Pháp môn Đẳng thần thông quật.

Pháp môn Thị thần thông quật.

Pháp môn Bi thần thông quật.

Pháp môn Xả thần thông quật.

(Chương 30, bản Phạn thiếu 4 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười ba pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Đại Hải Ý đem các thứ hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Cây Bồ-đề thường trụ

Đệ tử thích nương tựa

Gốc yên không lay động

Nên sinh được mầm định

Được trái thường không đổi

Do vậy, cúi đầu lạy.

 

Chương 31: TRÍ

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn Trí sơ hạnh. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Pháp tăng trưởng.

Pháp môn Hỷ thực.

Pháp môn Vô tận ý.

Pháp môn Tham thần thông.

Pháp môn Thí đơn.

Pháp môn Bất lạc thế gian.

Pháp môn Trang nghiêm địa.

Pháp môn Trang nghiêm giới.

Pháp môn Lạc điều.

Pháp môn Trụ thời.

Thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.

Khi ấy, trong đại chúng có Thiên nữ tên Tu Man Na Hoa, đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Giới Như Lai vô thượng

Trí tuệ vô thượng thượng

Vì thương xót chúng sinh

Rộng nói kinh Đại Vân.

 

Chương 32: TRÍ BẢO TẠNG

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Trí bảo tạng. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Thiện trì bảo tạng.

Pháp môn Pháp trì.

Pháp môn Cung kính.

Pháp môn Tâm trì.

Pháp môn Điều vương.

Pháp môn Chánh tinh tiến.

Pháp môn Đại hải bảo tạng.

Pháp môn Lạc cát. Pháp môn Trí quả.

Pháp môn Đại cát.

Pháp môn Thành tựu công đức.

Pháp môn Đoan chánh.

Pháp môn Trì giới tinh tấn.

(Chương 32, bản Phạn dư 3 pháp môn)

Thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên nữ tên Liên Hoa Man đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Biển đại trí Như Lai

Nay con chí tâm lạy

Tạng bí mật định sâu

Đấng đại bi tuyên nói.

Như Lai đã tự chứng

Cả thường, lạc, ngã, tịnh

Cũng lại khiến chúng sinh

Đều đạt được như mình.

 

Chương 33: THÍ

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chánh tri tạng báu vi diệu. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Bảo tạng.

Pháp môn Tịnh tạng.

Pháp môn Tịnh lạc.

Pháp môn Thí lạc.

Pháp môn Thí mục.

Pháp môn Thâm tạng.

Pháp môn Thâm pháp trang nghiêm.

Pháp môn Chánh kiến.

Pháp môn Mẫn nhất thiết chúng sinh.

(Chương 33, bản Phạn thiếu 1 pháp môn) Này thiện nam! Đây chính là mười pháp môn.

Khi đó, trong đại chúng có Thiên nữ tên Pháp Bảo Lạc, đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Như Lai đại thí chủ

Trang nghiêm “tụ đại thí”

Ban tất cả chúng sinh

Không quán ruộng chẳng ruộng.

 

Chương 34: PHƯỚC ĐIỀN

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chủng tử của ruộng phước. Cúi mong Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Bảo hạnh thắng.

Pháp môn Bảo lưu vũ.

Pháp môn Bảo hạnh tụ.

Pháp môn Bảo công đức tụ.

Pháp môn Bảo chánh ý.

Pháp môn Bảo mục.

Pháp môn Bảo ý.

Pháp môn Bảo quang.

Pháp môn Bảo đăng.

Pháp môn Bảo điện.

Pháp môn Vô tận ý.

Pháp môn Bảo trụ.

Pháp môn Nhất thiết bảo điền.

(Chương 34, bản Phạn dư 3 pháp môn) Này thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.

Lúc ấy, trong đại chúng có Thiên tử tên Bảo Vũ đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Chư Phật Đẳng Chánh Giác

Là ruộng phước ở đời

Đại từ bi thương xót

Tất cả các chúng sinh

Tỏ rõ ruộng chẳng ruộng

Nên gọi A lê ha.

 

Chương 35: CHÁNH PHÁP

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có mười pháp môn nói về Chân thật thần thông an lạc vương sở nhập. Cúi xin Như Lai hãy phân biệt giảng nói.

Phật dạy:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông rõ. Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Trong kinh có:

Pháp môn Bất động.

Pháp môn Trụ mạo.

Pháp môn Bất động lạc.

Pháp môn Thâm trụ.

Pháp môn Bất khả tư nghì tụ.

Pháp môn Bất khả tư nghì tụ giải thoát.

Pháp môn Lạc ý.

Pháp môn Bất khả tư nghì trụ.

Pháp môn Như Lai trí ấn.

Pháp môn Nhất thiết đại hải vô tận ý.

Này thiện nam! Đó chính là mười pháp môn.

Lúc này, trong đại chúng có Thiên tử tên Đại Quang đem các loại hương, hoa, cờ, lọng, ca nhạc v.v… để cúng dường Phật rồi nói kệ ca ngợi:

Chư Phật, Bà-già-bà

Nói giáo pháp vi diệu

Vì các loài chúng sinh

Đều thật khó nghĩ bàn.

Pages: 1 2 3