PHẬT NÓI KINH ĐÀ LA NI TẬP

KINH SỐ 0901

(Quán Thế Âm Thiên Chuyển Đà La Ni_ Quyển Trung)

Hán dịch: Đại Đường_Thiên Trúc Tam Tạng A ĐỊA CỒ ĐA (Atikuṭa)
Việt dịch: Sa môn Thích Quảng Trí

 

QUYỂN THỨ NĂM

Thiên Chuyển Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Ấn Chú thứ 1 (đồng với Nhất Thiết Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Ấn Chú)

Cài ngược 4 ngón từ ngón trỏ trở xuống, hướng vào bên trong cùng đè ép nhau. Co ngón cái trái vào khoảng giữa của ngón trỏ, duỗi thẳng ngón cái phải hướng vào bên trong, đừng co lại, 2 cổ tay cùng hợp với nhau, đưa ngón cái phải qua lại Chú là:

“Úm (1) a lỗ lực (2) sa ha (3)”

Nếu làm Ấn Pháp này thì Nhất Thiết Quán Thế Âm nhìn thấy, thỉnh Quán Thế

Âm ngồi, làm Pháp kết Giới, đốt hương cúng dường xong, tiếp theo làm Ấn này thời

Quán Âm vui vẻ. Ngày ngày làm thì ích thiện rất tốt

Lại Thiên Chuyển Ấn Chú thứ 2:

Thủ Ấn đồng với Nhất Thiết Quán Thế Âm Tâm Ấn lúc trước, chỉ có bàn chân chẳng giống nhau

Cài ngược 4 ngón từ ngón trỏ trở xuống, hướng vào bên trong cùng đè ép nhau. Co ngón cái trái vào khoảng giữa của ngón trỏ, duỗi thẳng ngón cái phải hướng vào bên trong, đừng co lại, 2 cổ tay cùng hợp với nhau. Hai bàn chân làm hình chữ Đinh, bàn chân phải là đầu chữ Đinh, bàn chân trái là đuôi chữ Đinh, lại bàn chân phải đứng thẳng, co đầu gối trái ngay bên ngoài, gồng bắp đùi lên, co thân hướng về bên trái

Để Tâm Ấn ngay phía trước vú bên phải, đừng dính vào vú. Mặt làm dung mạo cười, hướng đầu mặt về bên phải. Mỗi thàng, ngày 15 dùng nước nóng thơm tắm gội, vào nơi Tịnh Thất rồi làm Ấn này, tụng Đại Chú bên dưới thì tội 4 nặng, 5 nghịch thảy đều tiêu diệt

Thiên Chuyển Đà La Ni là:

“Na mô la đát-na đá-la dạ gia (1) Na mô a lê gia bà lô chỉ đế nhiếp phiệt la gia (2) bồ đề tát đỏa gia (3) ma ha tát đỏa gia (4) ma ha ca lô ni ca gia (5) đá điệt tha (6) xà duệ, xà duệ (7) xà dạ bà hề nễ (8) xà dụ đá lợi (9) ca la, ca la (10) ma la, ma la (11) giả la, giả la (12) khí nõa, khí nõa (13) tát bà yết ma bạt la nõa nễ mê (14) bà già bà để, sa ha tát la bạc yết để (15) tát bà bồ đà bà lô chỉ đê (16) giả sô (17; con mắt) du lỗ đát la (18, lỗ tai) yết la nõa (19, lỗ mũi) thị ha bà (20, cái lưỡi) ca dạ (21, Thân) mạt nỗ (22, Tâm) tỳ du đạt nễ (23) tố la, tố la (24) bát la tố la, bát la tố la (25) tát bà bồ đà, a địa sắt sỉ đê, sa ha (26) đạt ma đà đổ yết la tỳ, sa ha (27) a bà bà (28) sa bá bà bá (29) đạt ma bà (30) bồ đà ni duệ (31) sa ha (32)”

 

Kinh Thiên Chuyển (ngàn Chuyển) nói rằng: “Tụng Chú này xong thì nghiệp ác bị tiêu diệt, tụng đến 7 biến thì diệt tội Ngũ Nghịch. Nếu mãn ngàn biến xong thì không tội gì không diệt được. Mãn mười vạn biến sẽ nhìn thấy Đức Quán Âm với mọi thứ trang nghiêm. Trong bảy ngày, lúc mới làm Pháp chỉ được ăn cháo sữa, bơ, lạc, bánh màu trắng, cơm gạo chứ chẳng được ăn nước tương, muối, rau. Ngày cuối cùng đừng ăn. Trong đêm của ngày 15 phải để bụng trống không, ở trước mặt Phật tụng Chú liên tục không có định hạn số, sẽ thấy Tượng lay động, phát ra tiếng xướng lên rằng: “Lành thay! Lành thay” và phóng ra ánh hào quang sáng chói. Lại đem trân châu, vật báu an trên đỉnh đầu của Chú Sư, liền biết thành nghiệm. Nhìn thấy Đức Quán Thế Âm rồi, sẽ được tất cả Nguyện lành (Thiện Nguyện).

Lại trong lúc nằm ngủ, mộng thấy Đức Quán Âm với mọi thứ trang nghiêm thì thành tựu tất cả việc lành, tiêu diệt tất cả nghiệp ác, chuyển thẳng đến người đọc cũng được diệt tội.

Khi muốn đi Đông Tây, trước tiên Chú vào bàn tay 7 biến rồi lau xoa khuôn mặt thì nơi đi đến không có các tai hoạnh

Nếu hay thanh tịnh như Pháp, thường tụng chẳng bỏ phế, sẽ được Địa thứ nhất.

Nếu có người Nữ hay tụng trì thì đời sau chuyển thành Nam Tử, lại chẳng thọ nhận hình nữ một lần nữa.

Trước tiên làm Đàn, an trí cúng dường chuẩn bị xong, rồi mới tụng Chú. Đàn đó có bốn mặt đều dài 16 khuỷu tay, bốn lớp làm đúng khuôn phép. Tướng của Viện là: bên ngoài màu trắng, bên trong bốn màu, đều một lớp giống như thế của bức vách, tức là 8 lớp vậy. Hợp màu sắc của 5 phương, mở cửa 4 mặt tương đương với Đông, Tây, Nam, Bắc. Một lớp ngay chính giữa chẳng nên mở cửa. 8 cái lọ đất lớn (Ngõa quán) 4 cái Áng Tử (cái hũ) chứa đầy nước sạch, cắm cành Bách với cành Liễu xong, bỏ vào trong lọ, hũ chứa đầy nước ấy. Làm bánh màu trắng, cơm gạo tẻ, sữa, lạc, bơ, mật, hương, quả trái… cúng dường. Thắp 16 cây đèn, bên ngoài 4 cửa đều đặt 16 cây tre nhỏ chưa từng dùng qua, treo dây lụa 5 màu ở trên cây tre ấy. Lại lấy bốn cành cây Khư Đà La (cây Tử Khương), trong ấy hai cành dài 5 ngón tay, hai cành dài 6 ngón tay, đóng ở bốn góc của Đàn. Rải mọi thứ hoa: Thời Hoa, Phi Thời Hoa ở trên Đàn. Lại lấy cây Phả Già (tức cây Câu Kỷ Tử nhỏ) gồm 1080 cây đều dài 1 xích (1/3m). Hoặc dùng một cái bát sành sứ, hoặc cái bát bằng đồng, hòa bơ sữa, xoa bôi lên cành cây này, Chú vào một cành một biến, liền ném vào trong lửa. Nếu không có cây Khư Đà La thì thay bằng cây Táo đỏ cũng được. Nên vẽ một bức tượng Quán Âm Thánh Giả màu trắng, tùy theo sức mà làm lớn hay nhỏ.

Lại trước tiên phiên Pháp là:

“Nghiệp chướng gom tụ trong ngàn kiếp chỉ một thời tụng niệm thảy đều diệt hết, được gom tụ căn lành của ngàn Đức Phật, được lìa thoát bến bờ sanh, lão, bệnh, tử trong ngàn kiếp lưu chuyển. Khi bỏ thân này, liền thấy một ngàn vị Chuyển Luân Thánh Vương, luôn trì giữ mười điều lành (thập Thiện)”.

Nếu muốn sanh về Tịnh Thổ của chư Phật thì ngày đêm đều 3 thời tụng 21 biến. Mãn 21 ngày sẽ được như điều đã muốn ấy. Liền ở trong mộng hoặc thấy hình tượng màu vàng ròng của Đức Phật với hình tượng Bồ Tát. Đây là tướng đầu tiên liền biết sẽ sanh vào Tịnh Thổ.

Lại có Pháp Thọ Trì. Lấy 5 cân Đột Bà Hương (Đường nói là Mao Hương) kèm với lúa non, một ngàn cây Chử (cây dó dùng làm giấy) dài 1 xích (1/3m) kèm với bơ đều Chú vào 1000 biến. Đến lúc muốn thiêu đốt thì dùng bơ xoa bôi trên cọng cây với hương, đều Chú một biến rồi thiêu đốt.

Chuẩn bị tháng 5, tháng 6, lấy phân bò để trong bóng râm phơi khô, hòa với nước hương Đột Bà làm bùn làm Đàn, thân tròn 2 khuỷu tay làm Đàn. Trên Đàn an mọi thứ hoa hương. Vào tháng mùa Đông, không có hoa thì khắc hoa mà an, đốt Huân Lục Hương

Chú Sư ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng đủ một ngàn biến thì Pháp thành.

Lúc chưa Chú thời dùng Pháp này Chú vào nước 21 biến hoặc 7 biến rồi uống.

Chú vào nước để giải sự ô nhiễm nơi TỊnh Thất, Đạo Tràng, Phật Đường và rửa thân.

Chú vào cành Liễu để đánh bệnh. Chú vào nước để trị bệnh cũng được…đều Chú 21 biến.

Nếu có thể một đời, một ngày ba thời riêng biệt, mỗi thời tụng riêng 21 biến thì diệt tội chẳng thể nghĩ bàn, thông tất cả dụng. Làm Pháp này thì Quán Thế Âm vuī vẻ

Quán Thế Âm Mẫu Thân Pháp Ấn thứ 3:

Giữ vững 2 ngón cái đều vịn đầu 2 ngón út. Hai tay kèm nhau dựng dính nhau, 2 ngón trỏ cùng vịn trên ngón cái, ngón út , 2 ngón vô danh cũng như thế đặt 2 ngón giữa ngay bên trên, đầu ngón chẳng chạm nhau, phần bên dưới lòng bàn tay dính nhau, đưa ngón trỏ qua lại Chú là:

“Úm (1) thuế-bế đề (2) bàn đà-la, bà tất ni (3) chiết tra, ma câu tra (4) đà la ni (5) sa gha (6”

Pháp Ấn Chú này. Nếu có người hay ngày ngày làm, liên tục cúng dường, dùng mw2, bơ, mật hòa với hoa lúa gạo, tụng Chú một biến thì một lần thiêu đốt, như vậy cho đến 1008 biến, hoặc 108 biến Chú thiêu đốt cũng được. Như vậy ngày ngày làm Pháp này thì tất cả Quán Thế Âm vui vẻ

Lại có Pháp. Trẻ con khóc đêm, nên dùng Chú này Chú kết sợi dây rồi đeo vào cổ, liền ngưng khóc đêm

Quán Thế Âm Mẫu Tâm Ấn Chú thứ 4:

Hợp cổ tay. Kèm dựng 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh cùng trụ đầu nhau cùng với lóng lớn khiến bằng nhau. Kèm dựng 2 ngón cái dính nhau vịn cạnh đầu ngón trỏ. Dựng 2 ngón út dính đầu nhau, đưa ngón cái qua lại Chú là:

“Úm (1) ma ha thất-lợi duệ (2) sa ha (3)” 2 Pháp Ấn Chú lúc trước này, gọi là Quán Thế Âm Mẫu Pháp. Nếu có người tụng trì thì hay trứ trắm ức kiết tội nặng trong thân

Tất cả Bồ Tát nghe chú này đều được Xa Ma Tha (Śamatha: Thiền Chỉ). Do nhân duyên này được thành địa vị của Phật (Phật vị), cho nên gọi là Bồ Tát Mẫu Chú

Có người hay thọ trì, chẳng lâu sẽ được chư Phật thọ ký

Tất cả Quán Thế Âm Bồ Tát do Chú Ấn này được Xa Ma Tha Ký

Trì Nhất Thiết Quán Thế Âm Bồ Tát Tam Muội Ấn Chú thứ 5:

Hợp 2 cổ tay. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón út hợp đầu nhau. Dựng thẳng các ngón tay còn lại chẳng dính nhau (chỉ mở 2 ngón cái, ngón út chẳng dính đầu nhau.

Đây gọi là Thập Nhất Diện Ấn, là Đại Tam Muội Ấn, đưa ngón trỏ qua lại)

Chú dùng Thập Nhất Diện Đại Chú

Người làm Pháp này hay trừ tất cả nhóm nạn: vua chúa, giặc cướp, nước, lửa, đao, chất độc… đều không có sợ hãi là sức oai thần của Quán Thế Âm

Muốn thỉnh nhóm Pháp của các Bồ Tát. Trước tiên, nên làm Tam Muội Ấn liền được tất cả Bồ Tát vui vẻ

Quán Thế Âm Bồ Tát Tùy Tâm Ấn Chú thứ 6:

Hai tay đem 3 ngón: giữa, vô danh, út hướng ra ngoài cài chéo nhau rồi chắp tay lại, bên phải đè bên trái, các đầu ngón tay nắm lưng lòng bàn tay. Kèm dựng 2 ngón trỏ dính nhau, ngón cái cũng như thế đều nắm ngón trỏ. Đưa ngón cái qua lại Quy mạng đồng với nhóm Pháp quy mạng của Thập Nhất Diện.

Chú là:

“Đá điệt tha (1) úm (2) đa lợi, đa lợi (3) đốt đa lợi (4) đốt lợi (5) sa ha (6)”

Pháp Ấn Chú này. Nếu người muốn được thông minh, đem một con bò màu vàng đến chỗ thanh tịnh, khiến một Đồng Nam trì giữ 8 Giới vắt lấy sữa bò. Trải qua 3 ngày, sữa bò đã vắt được ngày ngày lại cho con bò ấy uống. Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 liền đem sữa vắt được làm Lạc (sữa đặc), dùng Lạc làm bơ. Lúc Nhật Nguyệt Thực dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới rồi làm Thủy Đàn 5 màu rộng 4 khuỷu tay

Đàn ấy không có cửa. Mặt Đông của Đàn ấy để tòa hoa sen, trên tòa an trí Kê Đô Ma Trí. Mặt Nam để tòa hoa Đô Lá La. Mặt Bắc đề tòa hoa Câu Lỗ Khuất La. Trung ương để tòa hoa Tùy Tâm Quán Thế Âm, 16 chén đèn, 8 mâm thức ăn uống, đốt hương rải hoa mà cúng dường xong. Lấy món bơ lúc trước chứa đầy trong vật khí bằng đồng đỏ sạch mới. Chú Sư ở ngày này chẳng ăn, tắm gội 3 lần, niệm Phật, chẳng được tưởng khác

Đem chén bơ ấy để ở chính giữa Đàn, khiến đứa bé làm bơ ấy ở bên ngoài nhìn vào mặt trời mặt trăng, đừng khiến cho đứa bé nhìn thấy việc bên trong Đàn. Chú Sư chẳng được nhìn vào mặt trời mặt trăng. Nếu thấy mặt trời mặt trăng thì chẳng được nghiệm. Nếu mặt trời mặt trăng dần dần sanh trở lại, chí Tâm làm Đa Lợi Tâm Ấn, bưng chén bơ ấy, luôn luôn Chú vào bơ. Trong chén bơ ấy có 3 loại Tướng hiện ra

Nếu chỉ nóng ấm thì người uống bơ, một ngày tụng được 700 Kệ Kinh

Nếu hiện ra khói thì người uống bơ, một ngày tụng được 700 Kệ Kinh

Nếu hiện ra Lửa thì người uống bơ với cho người khác uống, liền rất thông minh, một ngày tụng được 1000 Kệ Kinh

Nếu bơ ấy như thường thì cũng hay ghi nhớ nhiều hơn

Bơ ấy có 1 lượng, 2 lượng, 3 lượng, 4 lượng, 5 lượng… tùy theo Ý đều được

Lại có Tùy Tâm Quán Thế Âm Ấn thứ 7 (chẳng thấy Hiệu riêng cũng không có Chú riêng)

Hai tay đều dựng 10 ngón tay hợp đầu ngón, hơi để lòng bàn tay trống không, 2 cổ tay dính nhau, để ngay trên trái tim (Ấn này đồng với Cúng Dường Nhất Thiết Ấn Pháp)

Tùy Tâm Quán Thế Âm Kì Nhất Thiết Nguyện Ấn thứ 8:

Tay trái: co ngón cái hướng về lòng bàn tay, lại co đầu ngón trỏ cách đầu ngón cái khoảng 4, 5 phân (4/3cm hay 5/3cm), duỗi hết 3 ngón tay từ ngón giữa trở xuống cùng nắm nhau. Đặt Ấn nằm ngang để cạnh Ấn dính trên trái tim, hướng đầu ngón tay về bên phải

Chú dùng Chú lúc trước

Một Pháp ấn này. Khi muốn cầu nguyện, trước tiên làm Thủy Đàn dài rộng 4

khuỷu tay, treo các phan, lọng, mọi loại trang nghiêm. Ở trong Đàn ấy để Tượng Tùy Tâm. Ngay trước mặt Tượng ấy bày 4 cái chén thành hàng, trong 4 cái chén ấy đều chứa đựng một Vị, vị chứa Thạch Mật, đường cát, sữa, mật. Như thứ tự ấy đều chứa đầy để cúng dường. Rải mọi loại hoa, đốt Trầm Thủy Hương cúng dường Tượng xong, đối trước Tượng chí Tâm tỏ bày sám hối. Tùy theo điều đã Nguyện, ngưỡng cầu thỉnh xong, ở trước mặt Tượng làm Ấn, dùng Cà Sa che trùm, hoặc dùng khăn sạch che trùm Ấn ấy xong, chí Tâm tụng Chú mãn 800 biến, lại đừng theo duyên khác. Tụng Chú này xong thì tùy theo Tâm đã ước nguyện đều được vừa Ý

Tùy theo việc lớn nhỏ, một ngày cho đến 7 ngày làm Pháp, ngày ngày 3 Thời: sáng sớm, giữa ngày (giờ Ngọ) với lúc hoàng hôn… y theo lúc trước làm Pháp ắt điều Nguyện được kết quả, trừ chẳng chí Tâm

Thập Nhị Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thân Ấn Chú thứ 9:

Hai tay đều xếp bày ngón vô danh ngay trên lưng ngón giữa, dựng 2 ngón giữa dính đầu nhau; hợp dựng 2 ngón út, 2 ngón cái kèm dính nhau, co 2 ngón trỏ trụ đầu nhau, đều đè đầu ngón cái. Khiến lóng thứ 2 của ngón trỏ ấy ngang bằng nhau, đưa ngón trỏ qua lại Chú là:

“Úm (1) ma ha thuế đê (2) sa ha (3)”

Pháp Ấn Chú này. Lấy phân bò, nước đái bò, bơ, sữa, váng sữa đặc (lạc) cùng một đại lượng, hòa chung với nhau rồi quấy đảo. Dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, hướng mặt về chánh Đông, kèm 2 bàn chân ngồi xổm. Liền Chú vào thuốc lúc trước 108 biến… 6 tháng uống một lần, một năm lại uống vào thì thân của mình không có bệnh. Trị bệnh rất tốt

Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Thân Ấn Chú thứ 10:

Dựa theo Quán Thế Âm Mẫu Thân Ấn lúc trước. Chỉ sửa: mở 2 ngón giữa cách nhau khoàng 1 thốn (1/3dm). Hơi nâng 2 ngón trỏ, ngón vô danh đừng dính vào ngón cái. Ở khoảng giữa ngón trỏ, ngón vô danh mở đất dung chứa một ngón giữa. Đưa ngón trỏ qua lại Chú là:

“Đá điệt tha (1) úm (2) thấp bế đa dạ (3) thấp-bế đa, bồ xà dạ (4) phiếu hề phiếu hề (5) bát la ma (2) du đà tát đỏa (7) ma ha ca lô nị ca (8) sa ha”

Pháp Ấn Chú này thông với mọi loại dụng, đều có sức mạnh lớn, cũng hay hàng phục tất cả Quỷ Thần ác, chữa trị tất cả bệnh. Tất cả nạn giặc cướp đều chẳng thể hại

Nếu bị gông cùm xiềng xích. Lấy Thí Du Mạt La Chỉ làm Ấn Chú xong, xoa bôi trên gông cùm, lại chí Tâm tụng Chú liền được giải thoát

Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Khẩu Pháp Ấn Chú thứ 11:

Đem 2 ngón út dựng từng ngón bên trong. Ngón vô danh phải bật ở lưng ngón vô danh, ngón giữa trái hứng vào khoảng giữa của ngón trỏ, ngón giữa nhập vào. Ngón vô danh trái từ khoảng giữa của ngón giữa, ngón vô danh phải ló ra liền đùa vào khoàng giữa của ngón trỏ, ngón giữa nhập vào.Ḍựng thẳng 2 ngón giữa trụ đầu nhau, co 2 ngón trỏ đều móc đầu ngón vô danh. Kèm 2 ngón cái dựng thẳng trụ đầu nhau cách lìa ngón út khoảng nửa thốn (1/6dm).

Đồng tụng Chú lúc trước

Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Nha Pháp Ấn Chú thứ 12:

Dựa theo Khẩu ấn l;úc trước, chỉ sửa: co đầu 2 ngón giữa đều đè đầu 2 ngón cái, ló 2 ngón út ra bên ngoài, bên phải đè bên trái, cùng nắm lưng ngón vô danh

Chú dùng Chú lúc trước

Một Pháp ấn này hay trừ tất cả nạn: nước, lửa, gió, giặc cướp, đao với vua chúa. Cột trói nhóm nạn: Dạ Xoa, La Sát, tất cả Quỷ Thần, Rồng độc, rắn độc.

Nếu người ngày ngày thường làm cúng dường thì được Quán Thế Âm với các hàng Bồ Tát sanh vui vẻ. Kho chết được sanh về cõi nước A Di Đà, lại tùy theo ý vãng sanh về mười phương Tịnh Thổ

Nếu muốn ngưng gió. Trước tiên dùng Chú này chú vào tro 108 biến, gói trong mãnh lụa nhỏ rồi đem theo thân đi. Nếu gió thổi đến, dùng tay phải lấy tro, hướng vào gió mà đánh rải, tiếp theo dem các ngón còn lại của tay phải nắm quyền, dựng thẳng ngón trỏ, hướng vào cơn gió, luôn luôn tụng Chú, giận dữ quát tháo thì gió liền bị chặt đứt

Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Tâm Trung Tâm Chú thứ 13:

Chú là:

“Úm (1) lợi tất, để-lý lô ca, tỳ xả dạ (2) a mô già ba xá (3) ma ha cưu lô đà (4) la xà dạ (5) lợi đà dạ (6) a ba la đề a đá (7) ô-hồng, ô-hồng (8) phất phất (9)”

 

Một Pháp Chú này hay diệt tội chướng, sám hối, trị bệnh rất cá thần nghiệm, đủ như Kinh Bất Không Quyến Sách nói

Pháp vẽ tượng Quán Thế Âm Bồ Tát

Tượng Nhất Thiết Quán Thế Âm Bồ Tát, toàn thân màu trắng, ngồi Kiết Già trên tòa hoa sen trăm báu trang nghiêm, đầu đội mão hoa 7 báu trang nghiêm có vòng hào quang, trong mão báu ấy có vị Hóa Phật (Nirmāṇa-buddha) đứng, phía sau mão hoa ấy làm ánh sáng Bá Ky (vòng lặp như vân tay), bên trong ánh sáng ấy hết thảy làm màu đỏ. Lưng Tượng ấy dựa vào cái ghế 7 báu 5 màu

Tượng ấy: tay trái co cánh tay ngay trái tim, lại co ngón giữa hướng lên trên dựng thẳng. Tay phải co cánh tay hướng lên trên tay trái, co ngón trỏ và ngón cái vịn nhau, rồi trụ trên ngón giữa của tay trái.

Cổ tượng ấy có Anh Lạc châu báu. Hai cổ tay đều có vòng xuyến báu, lại dùng hoa báu trang nghiêm, lụa trắng mỏng quấn bắp tay. Thân mặc quần lụa trắng mọng có hoa trang nghiêm. Eo quấn ấy làm mảu xanh bọc màu đỏ, lại dùng lụa báu cột trên eo lưng ấy

_Hai gian trái phải của Tượng ấy đều có một vị Bồ Tát làm Thị Giả (Ante-vāsi). Hai vị Bồ Tát ấy, toàn thân màu vàng, đầu đều đội mão hoa. Vị Bồ Tát ở gian bên phải có tay phải co cánh tay cầm cây phất trắng, tay trái co cánh tay cầm hoa sen. Vị Bồ Tát ở gian bên trái có tay phải co cánh tay cầm một cành hoa báu tạp, tay trái co dựng bàn tay cầm cây phất trắng. (2 Bồ Tát) đều mặc quần lụa màu mây hồng lúc bình minh, bên trên có lụa mỏng trắng trang điểm hoa bện thắt ở trên bắp đùi, (2 Bồ Tát) đều đứng ở trên tòa hoa sen

_Hai gian trái phải ở phía sau Thị Giả của Tượng Ấy đều có 3 vị Bồ Tát theo vị trí trên dưới, thân đều hướng mặt về Tượng chiêm ngưỡng mà ngồi, trợ giúp Quán Thế Âm, dùng Thần Thông tự tại cứu giúp chúng sanh

Gian bên trái của Tượng ấy: một vị Bồ Tát bên trên, toàn thân màu vàng, trên đầu có màu vàng nhạt, dùng báu trang điểm đường viền hoa ở trên búi tóc, hào quang tròn màu xanh, lỗ tai đeo vòng màu trắng, duỗi bàn tay phải ngay trên đầu gối phải đều giương 5 ngón tay, rũ lòng bàn tay xuống dưới. Tay trái để ngay trái tim cầm hoa sen, dùng lụa hoa mỏng màu trắng quấn trên bắp tay, trên 2 cổ tay đeo vòng xuyến báu, lại mặc quần lụa màu mây hồng lúc bình minh, rồi ngồi trên hoa sen xanh

Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu vàng, đầu đội mão hoa, làm hào quang tròn đỏ, lỗ tai đeo vòng màu trắng, ngực vú cao lớn, dùng lụa hoa trắng mỏng quấn ngang trên vú. Co lưng bàn tay phải chạm dính trên bắp đùi, dựng bàn tay hướng lên trên, đều bung 5 ngón tay. Tay trái che ở khoảng giữa của bắp đùi với đầu gối, cỏ tay có vòng xuyến, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, ngồi trên hoa sen hồng

Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu trắng, trên khuôn mặt tại tam tinh có Thiên Nhãn (Devya-cakṣu). Búi tóc trên đầu tựa như màu đỏ, đầu không có vòng hoa, làm hào quang tròn màu xanh, trên lỗ tai không có đeo vòng. Thân có 4 cánh tay, Bên phải: một cánh tay co khuỷu tay hướng về phía sau, ở khoảng cái nách, ló bàn tay ra hướng về cái đầu, để ngón tay ấy trụ dính tóc bên mé tai. Một tay co cánh tay trụ trên đầu gối phải nắm xâu chuỗi màu vàng, xâu chuỗi có 21 hạt. Bên trái: một cánh tay co khủy tay hướng về phía sau ở khoảng cái nách, ló bàn tay ra hướng lên trên đến ở trên vai, ngón tay như Quyền. Một cánh tay trụ dính ở khoảng giữa bắp đùi với đầu gối, úp bàn tay cầm tráp Kinh, dùng lụa mỏng quấn trên bắp tay, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân cẳng chân rồi ngồi trên tòa hoa sen màu tím

3 vị Bồ Tát ở gian bên phải, theo thứ tự: một vị Bồ Tát bên trên, toàn thân màu trắng, đầu đội vòng hoa, làm hào quang tròn màu xanh, lỗ tai đeo vòng màu trắng, ngực vú cao lớn, dùng lụa hoa mỏng trắng bện thắt ngang trên vú. Tay trái co cánh tay ngay trên bắp đùi trái, cầm hoa sen. Tay phải đè trên bắp đùi, ngữa lên cầm một vật có dạng tựa quả trái, cũng tựa như bông hoa chứa đựng trong lòng bàn tay. Mỗi mỗi theo thứ tự làm như thế. Cổ tay trái có vòng xuyến, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, an định đầu gối, ngồi ở trên hoa sen tím

Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu vàng, đầu đội vòng hoa màu đỏ, làm hào quang tròn đỏ, lỗ tai đeo cái vòng màu trắng. Tay trái co cánh tay ngay trên bắp đùi trái, cầm hoa sen. Tay phải để ngay trên bắp đùi phải, ngửa lòng bàn tay bung tán ngón tay như hiển cao lớn. Cánh tay, cổ tay có vòng xuyến, dùng lụa mỏng trắng ting quấn trên bắp tay ấy, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, giao chéo chân ngồi trên hoa sen hồng

Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu vàng, đầu có vòng hoa, ngửa mặt hướng lên trên nhìn ngó Tượng ấy, lỗ tai đeo cái vòng màu trắng, làm hào quang tròn màu xanh. Thân có 4 cánh tay, ngực vú cao lớn, dùng lụa báu màu trắng bện thắt ngang trên vú. Hai tay chắp lại. Lại một tay bên trái co cánh tay ngay trên bắp đùi trái cầm hoa sen, hoa ấy màu tím, cọng hoa ấy có dạng như hình cái chuôi mũi tên rồi làm màu vàng, đầu bông hoa hướng lên trên. Một tay bên phải co cánh tay hướng về phía sau từ cái nách ló bàn tay ra, hướng lên trên đến trước mặt cái vai, cầm xâu chuỗi, xâu chuỗi có 21 hạt. Mặc quần lụa mỏng hoa Cúc màu đỏ, giao chéo chân ngồi trên hoa sen xanh

Nhóm Bồ Tát ấy đều là Quyến Thuộc của Quán Thế Âm Bồ Tát.

_Ở phía trên Tượng ấy, gần hào quang, hai bên trái phải đều có 2 pho Tu Đà Hội Thiên. Vị Trời ở gian bên phải tấu âm nhạc của Càn Thát Bà cúng dường. Vị Trời ở gian bên trái rải tán hoa, hương cúng dường Bồ Tát

Lại hai bên của hào quang hoa đều có 4 con chim trợ giúp cúng dường. Bên trái có 2 con chim Tần Già đi kèm nhau đều đứng; tiếp theo phía sau có 2 con chim Anh Vũ đi kèm. Bên phải có 2 con chim công đi kèm, tiếp theo phía sau có 2 con hạc trắng đi kèm

Bên dưới Tòa của Tượng ấy, gian bên trái lại có 2 vị Bồ Tát, toàn thân màu đỏ, làm hình dạng thiếu niên, dung nhan đoan chánh, khuôn mặt mập mạp, đầu tóc cắt ngắn như làm màu đỏ. Trên mặt, tại Tam Tinh có một con mắt trời (Thiên Nhãn). Từ sau lưng có một con rắn trắng ló ra hướng về bên trái, ngóc đầu chuyển lên cao, nhìn hướng về khuôn mặt của Bồ Tát này. Tay phải co duỗi, Tay trái để gần vú cầm hoa sen, mặc áo lót một mảnh màu xanh, quần ngắn nhỏ bằng lụa mỏng màu trắng, cột thắt trên eo lưng, đứng mà chẳng ngồi

Vị Bồ Tát ở gian bên phải, toàn thân màu vàng, mặc quần màu mây hồng lúc bình binh, chắp tay nâng cao, ngồi trên hoa sen tím, ngửa mặt nhìn bức Tượng rồi làm cúng dường. An bày mặt đất màu xanh lục.

Hai bên Tượng ấy có cây Bồ Đề (Bodhi-vṛkṣa). Ở trên cây ấy có hoa Lăng Tiêu quấn nhau rơi xuống

Bên dưới Tòa dùng nhóm màu xanh, xanh lục, vàng, đỏ, tím…. làm đất báu Xong Pháp vẽ Tượng

Quán Thế Âm Tỳ Câu Tri Bồ Tát Tam Muội Pháp Ấn Chú Phẩm

(Ấn có 21, Chú có 44)

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở trong thành Vương Xá (Rāja-gṛha) nói các Pháp Ấn Đà La Ni Chú cùng với vô lượng Đại Chúng Bồ Tát với vô số chúng Hiền Thánh Trì Chú cùng đến dự, trước sau vây quanh, đi đến chỗ của Đức Phật. Đṇ chỗ của Đức Phật xong, cúi 5 vóc sát đất đảnh lễ bàn chân của Đức Phật. Lễ bàn chân của Đức Phật xong, nhiễu quanh Đức Phật 3 vòng rồi lui ra ngồi một bên

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con có Tâm Chú tên là Tỳ Câu Tri (Bhṛkuṭī), Thần Thông bí mật thâm sâu vi diệu, đủ các Pháp Ấn với Đàn Tràng Pháp, hộ trì Thế Gian khiến khắp chúng sanh, người, Phi Nhân được miễn lìa các khổ, tất cả chúng sanh được lợi ích ấy. Nay con muốn nói. Nguyện xin Đức Thế Tôn nghe hứa cho con nói”

Thời Đức Phật khen rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông vì tất cả chúng sanh cho nên muốn nói Pháp Ấn Đà La Ni Đàn. Ta trợ giúp ông, vui vẻ tùy theo ý ông nói”

Lúc đó, các chúng Bồ Tát đồng hội thảy đều vui vẻ, cùng một lúc khen “Lành thay!”

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát nương theo Thần Lực của Phật, liền nói Ấn Chú

Tỳ Câu Tri Đại Thân Pháp Ấn Chú thứ 1:

Trước tiên, xếp bày ngược 2 ngón út đều ở trên lưng ngón vô danh. Tiếp theo, đều xếp bày ngón vô danh ngay trên lưng ngón giữa. Hai cổ tay dính nhau, dựng 2 ngón giữa trụ đầu nhau. Dựng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ rồi hơi co ngón trỏ ấy giống như thế chẳng co lại, đưa ngón trỏ qua lại (Nếu 2 ngón trỏ co lại hết, tức là Hoa Tòa Ấn) Chú là:

“Na mô tát bà đát tha già để phiếu (1) a la ha đà phiếu (2) tam miệu tam bồ đề phiếu (3) Úm (4) bả dã na tát nễ (5) đát-la tát nễ (6) đát-la tây (7) đát-la tát gia (8) tỳ-lê câu tri (9) đá tri (10) bội di đá tri (11) bội di đá tri (12) bội la đề (13) bội la đề (14) thấp-bế đê (15) già trí ni (16) sa ha (17)”

 

Pháp Ấn Chú này. Nếu khi muốn tụng thời có thể làm Thân Ấn, chí Tâm tụng thì chư Phật nghe thấy thảy đều khen ngợi

Nếu các Bồ Tát nghe thấy

Chú Âm đều sanh vui vẻ

Chư Thiên nghe thấy thảy đều đảnh lễ

Tất cả Kim Cang nghe thấy

Chú Âm thảy đều sợ hãi

Nếu các Quỷ Thần nghe thấy

Chú Âm đều sanh hoảng sợ

Tất cả chúng sanh trong 6 đường nghe thấy thì tất cả đều phát Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta). Kẻ chịu khổ ở trong Địa Ngục nghe thấy đều được ngưng dứt tất cả sự đau đớn Pháp ứng như vậy

Tỳ Câu Tri Đại Tâm Chú thứ 2 (dùng Thân Ấn) Chú là:

“Úm (1) tỳ-lê câu tri (2) câu tri ha (3)”

 

Tỳ Câu Tri Trung Đại Tâm Chú thứ 3 (dùng Thân Ấn) Chú là:

“Úm (1) tỳ-lê câu tri (2) một đà nễ (3) sách (4)”

Tỳ Câu Tri Tiểu Tâm Chú thứ 4 (dùng Thân Ấn) Chú là:

“Úm (1) Tỳ-lợi (2)”

 

Tỳ Câu Tri Trung Tiểu Tâm Chú thứ 5 (dùng Thân Ấn) Chú là:

“Úm (1) Tỳ-lợi câu tri (2) sa ha (3)”

 

Thỉnh Tỳ Câu Tri Lai Chú thứ 6 (dùng Thân Ấn) Chú là:

“Úm (1) Tỳ-lợi câu tri (2) sa ha (3)”

Tỳ Câu Tri Nhất Thiết Dụng Chú thứ 7 (dùng Thân Ấn, cũng gọi là Đại Tâm

Chú) Chú là:

“Úm (1) bát ma bạt, thời-lợi nễ (2) ô-hồng (3) phán (4)”

Tỳ Câu Tri Đảnh Chú thứ 8 (dùng Thân Ấn, cũng gọi là Đầu Chú) Chú là:

“Úm (1) trí nễ (2) sa ha (3)”

Nếu có người trì 8 loại Chú của nhóm Đại Chú lúc trước. Khi muốn làm Pháp đều nên đồng dụng Pháp Thân Ấn lúc trước thì mọi loại có hiệu nghiệm

Tỳ Câu Tri Hương Lô Pháp Ấn Chú thứ 9 (Ấn là thứ 2, Chú là thứ 9)

Dựa theo Thân ấn lúc trước, bên trên chỉ sửa 2 ngón cái nắm 2 ngón trỏ, co lóng trên của 2 ngón trỏ trụ đầu nhau Chú là:

“Úm (1) tứ,câu lô câu lô (2) tỳ xà duệ (3) sa ha (4)”

Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm Pháp, tụng Tỳ Câu Tri Bồ Tát Chú thời nên dùng Ấn này ấn vào lư hương với ấn vào hương xong, sau đó đốt hương. Tay bưng lư hương, tâm miệng phát Nguyện: “Nay vì việc…..”. Cúng dường xong rồi, tiếp theo ấn vào nước hương

Tỳ Câu Tri Hương Thủy Pháp Ấn Chú thứ 10 [Ấn là thứ 3, Chú là thứ 10. Phạm Âm nói là Càn Đà Đạt La Độ Ba (Gandha-dhara-dhūpa)]

Tay phải đem 5 ngón tay nắm duỗi, co khuỷu tay, cạnh bàn tay ấn trên nước hương. Không dùng tay trái Chú là:

“Úm (1) bồ đề (2) bồ đà bát để (3) du đạt nễ (4) sa ha (5)”

Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm Pháp, tụng Chú thời làm Ấn ấn vào nước, tụng Chú 7 biến, đem nước rưới vảy trên đầu, thân… Cũng dùng Pháp Chú này cúng dường chư Phật, các hàng Bồ Tát. Tiếp theo, làm việc Pháp Hộ Thân, Ấn Chú

Tỳ Câu Tri Hộ Thân Pháp Ấn Chú thứ 11 (Ấn là thứ 4, Chú là thứ 11) Lật nghiêng che 2 tay, kèm dựng 2 ngón cái, đầu ngón tay tựa như cánh chim Chú là:

“Úm (1) tỳ bỉ nễ (2) ha”

Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm Pháp, tụng Chú thời liền dùng Ấn này hộ thân của mình. Tiếp theo làm kết Giới

Tỳ Câu Tri Kết Địa Pháp Ấn Chú thứ 12 (Ấn là thứ 5, Chú là thứ 12)

Hai tay: từ ngón giữa trở xuống, cài ngược nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, lưng ngón tay nắm lòng bàn tay, kèm nghiêng 2 ngón cái cùng trụ nhau dựng thẳng, co 2 ngón trỏ cùng nắm móng ngón dựa lưng nhau, đem 2 ngón cái trụ mặt đất Chú là:

“Úm (1) bội di đá tri (2) ô-hồng (3)”

Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm Pháp, tụng Chú thời liền dùng Ấn này ấn lên mặt đất, tịch trừ tất cả hết thảy các nhóm Ma ác, Thần Quỷ ở trên mặt đất, ở dưới mặt đất

_Tiếp theo, làm Tứ Phương Kết Giới Ấn Chú

Tỳ Câu Tri Kết Tứ Phương Giới Pháp Ấn Chú thứ 13 [Ấn là thứ 6, Chú là thứ 13. Phạm âm là Ba La Ca La (Parakara)]

Trước tiên, nghiêng bàn tay phải để 5 ngón tay dính nhau. Đem bàn tay phải đè trên cánh tay trái, lưng bàn tay dính nhau. Đem ngón cái phải móc ngón tay trái, tùy theo mặt trời chuyển theo bên phải Chú là:

“Úm (1) bà di đá tri (2) ô-hồng (3)” (Chú này đồng với Địa Giới Chú)

Pháp Ấn Chú này. Ngay lúc muốn làm Pháp, tụng Chú thời liền dùng Ấn này xoay theo bên phải 3 vòng, hướng về 4 phương nhiễu quanh… tịch trừ hết thảy tất cả nhóm Ma, Quỷ Thần ở 4 phương. Tiếp theo, làm Thượng Phương Giới Ấn Chú

Tỳ Câu Tri Kết Thượng Phương Giới Pháp Ấn Chú thứ 14 (Ấn là thứ 7, Chú là thứ 14)

Hai tay đem 3 ngón từ ngón giữa trở xuống cài ngược nhau, bên phải đè bên trái, lưng ngón tay nắm lòng bàn tay. Nghiêng 2 đầu ngón cái cùng trụ nhau, co 2 ngón trỏ, móng tay cùng bám trụ nhau, đem đầu ngón cái đảo đến trên đảnh đầu, đừng chạm vào đảnh đầu

Chú là:

“Úm (1) đá tri (2) ô-hồng (3)”

Pháp Ấn Chú này hay trừ hết thảy tất cả các Ma, nhóm Quỷ Thần ác ở ttrong hư không trên Trời. Ngay khi muốn làm Pháp, tụng Chú thời chỉ hộ Thân, kết Giới, lại không có chỗ sợ hãi. Mọi thứ muốn làm Pháp Tỳ Câu Tri (Bhṛkuṭī) thì không có khó khăn trở ngại, đều có thần nghiệm

Tỳ Câu Tri Sư Tử Tòa Pháp Ấn [Ấn là thứ 8, dùng Đại Tâm Chú. Phạm âm nói là Tư Dăng Già Tán Na (Siṃhayāsana)]

Hai tay đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh cùng hợp đầu nhau. Hợp cổ tay, dựng thẳng 2 ngón út cách nhau khoảng nửa thốn (1/6dm), co 2 ngón cái vào bên trong lòng bàn tay (nếu lại hướng ra ngoài dựng thẳng hai ngón cái thì gọi là đi đến)

Tỳ Câu Tri Hoan Hỷ Pháp Ấn (Ấn là thứ 9, dùng Đại Tâm Chú)

Hai tay đều co ngón út, đem 2 ngón cái đều đè lên móng ngón út, bung duỗi các ngón còn lại. Tay phải duỗi thẳng cánh tay, tay trái che dính trên ngực, đứng lên co đầu gối phải, thân ở bên phải, nghiêng bàn chân trái dựng thẳng (nếu 2 bàn chân cách nhau khoảng 4 xích (4/3m) tức là Sứ Giả Ấn. Nếu hô gọi đến thì dùng ngón trỏ phải co lại liền đến, giương duỗi ra liền đi)

Một Pháp Ấn này đánh tất cả Quỷ với A Tu La (Asura). Nơi chỗ dùng đều được đại nghiệm

Nếu người ác làm tất cả Pháp muốn đi đến gây hại thì làm Ấn Chú này thảy đều chẳng thành

Tỳ Câu Tri Cúng Dường Pháp Ấn [Ấn là thứ 10, dùng Đại Tâm Chú. Bản Phạn ghi là A Già Mẫu Đà La (Argha-mudra)]

Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa 2 ngón cái, mở đầu ngón cách nhau khoảng 2 thốn rưỡi (5/6dm) [nếu kèm co 2 ngón cái vào lòng bàn tay tức là Pháp đến, đưa 2 ngón cái ra tức là Pháp đi]

Một Pháp Ấn này. Nếu dùng mọi loại hoa, hương, thức ăn uống cúng dường Tam Bảo, kèm làm Ấn này mà cúng dường sẽ được Phước vô lượng, tất cả Bồ Tát đều rất vui vẻ

Tỳ Câu Tri Tùy Tâm Pháp Ấn (Ấn thứ 11, dùng Đại Tâm Chú)

Co 2 ngón vô danh tại lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Đều dựng 2 ngón út, 2

ngón giữa dính nhau. Co 2 ngón trỏ đều phụ bên dưới lóng thứ nhất của ngón giữa. Co 2 ngón cái nắm cạnh lóng bên dưới của ngón trỏ

Một Pháp Ấn này. Khi muốn cúng dường thời nên làm Ấn này, tụng Đại Tâm Chú thì Tỳ Câu Tri hiện thân trước mặt Hành Giả, khiến cho Hành Giả nhìn thấy, đều tùy theo điều đã Nguyện khiến cho xứng với Tâm đã mong cầu

Tỳ Câu Tri Thí Dữ Nhất Thiết Thực Pháp Ấn [Ấn thứ 12, dùng Đại Tâm Chú. Phạm âm nói là Bà Lợi (Baliḥ)]

Ngửa 2 bàn tay, duỗi 8 ngón tay, để ngón út đến bên cạnh cổ tay cùng nắm nhau, đều co 2 ngón cái, đầu ngón dính ở chính giữa lòng bàn tay

Một Pháp Ấn này, ấn lên các thức ăn uống chứa đầy bên trong, rồi đem bố thí cho hàng Thần Hộ Pháp, tất cả chúng sanh thì tất cả người được đều sanh vui vẻ. Dùng 5 Ấn lúc trước cùng đồng tụng Đại Tâm Chú lúc trước thì mọi loại có hiệu nghiệm

Tỳ Câu Tri Hoa Cúng Dường Pháp Ấn (Ấn thứ 13, Chú thứ 15)

Chắp tay lại, trong lòng bàn tay trống không. Co 2 ngón trỏ ở bên trong lòng bàn tay, hiện 2 ngón cái kèm dựng đừng nắm dính ngón trỏ Chú là:

“Úm (1) thất-lý trí la súc di (2) tô bà la để (3) bát-la đế hột-lý sắt-nõa (4) ma du ba chỉ đăng, bố sử (5) sa ha (6)”

 

Pháp ấn Chú này. Nếu làm việc Pháp của Quán Thế Âm Tỳ Câu Tri Bồ Tát đều cần phải làm Ấn này cúng dường mong được tất cả Bồ Tát vui vẻ

Tỳ Câu Tri Hương Cúng Dường Chú (Chú thứ 16, Ấn dùng Hoa Cúng Dường

Ấn) Chú là:

“Úm (1) bát-la để hột-lý sắt-nõa (2) đỗ ma la câu lê (3) sa ha (4)”

 

Tỳ Câu Tri Diệt Tội Chú (Chú thứ 17, Ấn dùng Hoa Cúng Dường Ấn)

“Úm (1) a địa-ấp địa (2) tỳ ha la nễ (3) ba-la đề (4) sa ha (5)”

Hai Chú Pháp này. Nếu làm Pháp Tỳ Câu Tri đều đồng làm Hoa Cúng Dường Ấn lúc trước, tụng 2 Chú này thì tất cả chư Phật nghe Chú này đều sanh vui vẻ, ắt được trừ diệt vô lượng kiếp tội

Tỳ Câu Tri Vạn Lý Kết Giới Cúng Dường Chú (Chú thứ 18, dùng Pháp Thân

Ấn) Chú là:

“Úm (1) hột-lý sắt-nõa ti (2) ô-hồng (3) phất (4)”

Một Chú này. Nếu muốn làm các Đạo Tràng, kết chỗ của Pháp Đàn, rộng làm cúng dường, sợ các việc Ma thì có thể dùng kết Pháp Thân Ấn lúc trước, tụng Chú này thời liền được Pháp thành

Tỳ Câu Tri Tác Đàn Nê Địa Cúng Dường Chú (Chú thứ 19, dùng Hương

Thủy Ấn)

Chú là:

“Úm (1) đế thệ, đế xà bà để (2)”

Một Chú này. Nếu muốn lập Đàn, rộng bày cúng dường. Dùng Hương Thủy Ấn lúc trước ấn vào nước hương xong, nên dùng Chú này chú vào nước hương ấy 108 biến, dùng xoa bôi đất của Đàn, liền được Pháp thành

Tỳ Câu Tri Bồ Tát Hàng Ma Ấn Chú Pháp Phẩm

Tỳ Câu Tri Pháp Giáp Chú (Chú thứ 20) Chú là:

“Úm (1) bả trị na xá nễ (2) ô-hồng (3) phất (4)”

 

Tỳ Câu Tri Pháp Nỗ Chú (Chú thứ 21) Chú là:

“Úm (1) đá-la tát tây (2) ô-hồng (3)”

 

Tỳ Câu Tri Pháp Tả Xạ Chú (Chú thứ 22) Chú là:

“Úm (1) đá-la tát gia (2) ô-hồng (3)”

 

Tỳ Câu Tri Pháp Hữu xạ Chú (Chú thứ 23) Chú là:

“Úm (1) đá-la tát nễ (2) ô-hồng”

 

Tỳ Câu Tri Pháp Tiễn Chú (Chú thứ 24) Chú là:

“Úm (1) tỳ-lê câu tri (2) ô-hồng (3)”

 

Tỳ Câu Tri Giải Nhất Thiết Ngoại Đạo cập chư Pháp Sự Đẳng Kết Giới Chú

(Chú thứ 25) Chú là:

“Úm (1) thấp-bế đê (2) xà trí nễ (3) sa ha (4)”

Nhóm Chú Giáp này. Nếu làn Tỳ Câu Tri Đạo Tràng với tất cả Đàn, kết Giới phòng hộ, nơi cúng dường cùng với chữa bệnh, phòng các Quỷ Thần, phá Pháp nạn của các Ngoại Đạo, Bà La Môn… thì mỗi mỗi đều nên làm Thân Ấn lúc trước, tụng 6 Chú này với tụng các Chú ắt được có nghiệm

Tỳ Câu Tri Chước Ca La Pháp Ấn (Ấn thứ 14)

Dựa theo Phật Luân Ấn (Buddha-cakra-mudrā) ngón trỏ cách ngón giữa khoảng nửa thốn (1/6dm)

Tỳ Câu Tri Bạt Chiết La Pháp Ấn (Ấn thứ 15, cũng gọi là Sân Ấn)

Chắp 2 tay lại, đem 2 ngón cái vịn lóng bên dưới của ngón vô danh bên trong lòng bàn tay. Kèm co 2 ngón vô danh đè trên ngón cái, 3 ngón còn lại đều hợp đầu nhau. Lóng giữa của 3 ngón của 2 tay cách nhau khoảng 1 thốn (1/3dm)

Tỳ Câu Tri Đả Nhất Thiết Quỷ Pháp Ấn (Ấn thứ 16)

Dựa theo lúc trước, tay trái co ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út; đem ngón cái đè trên móng 3 ngón, đừng khiến hiện móng tay; dựng thẳng ngón giữa. Đṇg dậy kèm 2 bàn chân, đem Ấn để trên trán, hướng ngón giữa xuống bên dưới, ngay tam tinh. Mặt làm hình giận dữ. Không có dùng tay phải

Nên dùng Ấn này đánh tất cả Quỷ

Tỳ Câu Tri Tam Nhãn Pháp Ấn (Ấn thứ 17)

Dựa theo Phật Đảnh ấn bên trên, chỉ sửa hai tay: đem 3 ngón từ ngón giữa trở xuống, lật ngược cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, dựng thẳng 2 ngón giữa trụ đầu nhau, hai ngón cái ấy không nắm ngón giữa đều dựng phụ bên cạnh ngón giữa. Đứng dậy kèm 2 bàn chân, bày ngược bàn tay ngay trên trán, để đầu ngón tay ngay tam tinh rũ xuống bên dưới. Mặt làm hình giận dữ (đồng với Quân Trà Lợi Tam Nhãn Pháp Ấn)

Một Pháp Ấn này. Nếu muốn chữa bệnh, với đem hàng phục tất cả Ma ác, nhóm

Đại Quỷ Thần thì nên dùng Ấn này, tụng Đại Chú Pháp đều có nghiệm

Tỳ Câu Tri Đào Sổ Châu Pháp Ấn Chú (Ấn thứ 18, Chú thứ 26)

Cùng đồng với Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bộ Đào Sổ Châu Pháp, lại không có khác biệt, dùng Đại Tâm Chú. Lại dùng diệt chướng ngại Chú là:

“Úm (1) tỳ-lợi xá lăng già nễ (2) sách (3)”

Pháp Ấn Chú này tên là Diệt Chướng Ngại

Tỳ Câu Chi Bồ Tát nói rằng: “Làm Ấn bấm xâu chuỗi, tụng Chú này thời trừ tội chướng của 3 nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại… thảy đều tie6u diệt hết sạch không có dư sót. Đều tụng Chú này không có gì chẳng có nghiệm

Tỳ Câu Tri Niệp Hôi Pháp Ấn Chú (Ấn thứ 19, Chú thứ 27)

Tay phải đem ngón cái với ngón vô danh nhúm lấy tro, Chú 7 biến, để dính trên đảnh đầu

Chú là:

“Úm (1) ô-đặc già để (2) tức-phổ lỗ (3) sa ha (4)”

Pháp ấn Chú này. Nếu người tụng trì Tỳ Câu Tri Chú Pháp, hoặc có xuất hành đi đến nơi cần đi mà muốn tự phòng hộ cùng với người khác phòng hộ thân ấy. Dùng Pháp Ấn này, nhúm lấy tro, Chú 7 biến, dùng tro xoa bôi 6 chỗ: từ đảnh đầu đến tam tinh, 2 nách, dưới cổ họng, trái tim thời nơi nơi đi đến đều không có chướng ngại

Tỳ Câu Tri Phát Khiển Nhất Thiết Khứ Pháp Ấn Chú (Ấn thứ 20, Chú thứ 28)

Tay trái co đầu ngón giữa, ngón vô danh đến lóng thứ 2 khiến bằng đầu, dùng ngón cái nắm lấy, 3 ngón tựa như đan dệt nhau, đều duỗi thẳng ngón út với ngón trỏ, đừng nắm ngón vô danh và ngón giữa. Co đầu gối kèm ngồi, dùng tay phải ấn đất. Dùng 3 ngón tay đan dệt nhau của tay trái để dính ngay trước ngực, co eo hướng về phía trước

Chú là:

“Úm (1) tỳ-lê câu tri (2) câu tri (3) ô-hồng (4) nễ nễ (5) cước (6)”

Pháp ấn Chú này. Nếu muốn Phát Khiển tất cả với muốn sai khiến thì nên làm

Ấn này, đưa bàn tay ấn đất xong, ngẩng đầu lên, miệng nói rằng: “đi đi” thì sẽ mau đi

Tỳ Câu Tri Bồ Tát Sứ Già Pháp Ấn Phẩm

Tỳ Câu Tri có 2 vị Sứ Giả. Vị thứ nhất tên là Bát La Tháp Ma, vị thứ hai tên là Bát La Tát Na. Hai vị Sứ Giả này đều nói một Chú. Thỉnh dùng Thân Ấn lúc trước của Bồ Tát, hàng phục tất cả

Sứ Giả Bát La Tháp Ma Chú (hợp với Chú thứ 29_ Sứ Giả Chú thứ 1) Liền nói Chú là:

“Úm (1) tỳ-lê câu để-hề (2) ba la đề (3) giả la bà (4) sa ha (5)”

Sứ Giả Bát La Tát Na Chú (hợp với Chú thứ 30_ Sứ Giả Chú thứ 2) Liền nói Chú là:

“Úm (1) bà già bà để-hề (2) tỳ-lê câu để-hề (3) bát-la na đễ-hề (4) bát-la bà bá để (5) sa ha (6)”

Tụng 2 Chú này thì Bồ Tát nghe thấy, sanh Tâm vui vẻ

Hai Sứ Giả ấy tùy thỉnh Bồ Tát. Bồ Tát ấn khả cgho người này được nói Thần Chú này, hay khiến cho tất cả sanh tín ngưỡng. Lại có Chú khác cũng thỉnh thông dụng, với các nhóm Ấn trợ thành sức Oai Thần của Bồ Tát

_Bấy giờ, Đức Phật cũng đồng thời thảy đều ấn khả. Nhóm Sứ Giả ấy đều rất vui vẻ. Người hành Bồ Tát Pháp nên tụng trì Chú Pháp này, hay khiến Pháp mà Chú Sư đã làm, đều mong được nơi mà Bồ Tát thường hộ niệm

Liền nói Chú là (Chú thứ 31_ Sứ Giả Chú thứ 3)

“Úm (1) đá tri (2) ô-hồng (3) cước (4)”

 

Sứ Giả Thượng Phương Kết Giới Pháp Chú (Hợp Chú thứ 32_ Sứ Giả thứ 4) Chú là:

“Úm (1) bà di đá tri (2) ô-hồng (3) phất (4)”

 

Lại Kết Giới Chú (Chú hợp với Chú thứ 33_ Sứ Giả Chú thứ 5) Chú là:

“Úm (1) thấp-bế đê (2) xà tri nễ (3) phất (4)”

Hai Chú này khi kết Hộ thời kèm dùng Bồ Tát Kết Giới Hộ Thân Ấn, tụng Chú Pháp thành

Sứ Giả Đầu Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 34_ Sứ Giả Chú thứ 6) Chú là:

“Úm (1) bà dã na xá nễ (2) sa ha (3)”

 

Sứ Giả Đảnh Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 35_ Sứ Giả Chú thứ 7) Chú là:

“Úm (1) đá-la tát nễ (2) ô-hồng (3)”

 

Sứ Giả Đảnh Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 36_ Sứ Giả Chú thứ 8) Chú là:

“Úm (1) đá-la tát gia (2) phất (3)”

 

Sứ Giả Khẩu Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 37_ Sứ Giả Chú thứ 9) Chú là:

“Úm (1) đá-la tây (2) ô-hồng (3) phất (4)”

 

Sứ Giả Tâm Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 38_ Sứ Giả Chú thứ 10) Chú là:

“Úm (1) Tỳ-lê câu tri (2) phất (3)”

 

Sứ Giả Cung Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 39_ Sứ Giả Chú thứ 11) Chú là:

“Úm (1) bà di đá tri (2) ô-hồng (3) phất (4)”

 

Sứ Giả Tiễn Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 40_ Sứ Giả Chú thứ 12) Chú là:

“Úm (1) la tri (2) phất (3)”

 

Sứ Giả Bang (như cây bổng) Pháp Chú (Chú hợp với Chú thứ 41_ Sứ Giả Chú thứ 13)

Chú là:

“Úm (1) bà di đá tri (2) phất (3)”

Các nhóm Chú này thảy đều thông dụng Tỳ Câu Tri Bồ Tát Pháp ấn, chế phục

Quỷ Thần, chữa các bệnh tật, cứu giúp chúng sanh đều sẽ có nghiệm

Tiểu Tâm Chú (Chú hợp với Chú thứ 42) Chú là: “Úm (1) kỳ (2)”

 

Tỳ Câu Tri Bồ Tát A Lợi Trà Pháp Ấn Chú (Ấn thứ 21, cũng gọi là Nhất Tự Ấn Chú)

Hai tay đem 4 ngón tay đều nắm ngón cái làm Quyền. Trước tiên để tay phải ngay dưới nách trái, tiếp theo để tay trái ngay dưới nách phải, co đầu gối trái, thân nghiêng về bên trái, nghiêng bàn chân phải dựng thẳng (mỗi mỗi dựa theo Quân Trà Lợi Thân

Pháp Ấn) Chú là: “Úm (1) bật-lăng”

Kết Ấn này xong, tụng Đại Chú lúc trước mãn 7 biến xong, liền nhiếp bàn chân phía sau để gót chân ngay bên dưới đầu gối phải, bàn chân đừng chạm đất, xoay theo bên phải một vòng, miệng xưng Hổ-hồng (HŪṂ). Xướng một tiếng xong, tụng Nhất

Tự Chú, ngoái về 4 phía nhìn xa, khởi hình rất giận dữ thì thành

Một Pháp Ấn của Tỳ Câu Tri này, tên là Đại Đại Mẫu Đạt La (Mahāmahāmudra). Tỳ Câu Tri sẽ làm Pháp này muốn đánh tất cả

_Bấy giờ, trong Hội: nhóm Chúng quyến thuộc của Kim Cang Bộ (Vajra-kula) sang rất sợ. Các hàng Thiên Ma thảy đều tan nát, choáng váng một lúc. Do sức Oai Thần của Bồ Tát Ấn cho nên tụng Nhất Tự Chú một biến, liền sẽ ngang bằng không có sai khác với tụng Quán Âm Thân Chú, cũng không có khác với Công Đức của Nhất Tự Phật Đảnh

Tỳ Câu Tri Cứu Bệnh Pháp Đàn Phẩm

Chú Sư nếu muốn cứu người bệnh thì đền nhà người bệnh, dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, cùng làm Pháp Đàn cứu bệnh khổ ấy

Nơi làm Đàn ấy. Nên đến đất tốt ở khoảng giữa rừng, hoa, cây cối gần nước. Hoặc đến nơi ở bên bờ bãi sông Hằng. Hoặc gần nơi có cái đầm sâu của Rồng… Tùy theo nơi tối thắng đã trụ ấy, trong sạch tu sửa đất ấy xong, như Đàn Pháp 7 ngày của Thập Nhất Diện trong sạch tu sửa đất xong, dùng bùn hương xoa bôi đất, treo mọi loại phan, lọng đủ màu với các vật khí báu

Chính giữa Đàn Tràng nên làm Pháp Đàn 5 màu rộng 4 khuỷu tay. Chính giữa Đàn để vị trí của Tỳ Câu Tri Bồ Tát. Phương Đông làm tòa hoa sen, trên tòa đặt một cây đao lớn nằm ngang. Phương Bắc cũng làm một tòa hoa sen, trên tòa ngửa an một cái gương sáng. Phương Nam lại cũng làm một tòa hoa sen, ở trên tòa ấy dựng đứng 3 mũi tên. Bên ngoài cửa ây của Đàn trải bày tòa ngồi của Chú Sư

Lấy 5 cái lọ nước đều đựng được một thăng trở xuống, chứa đầy nước sạch, bỏ 5

loại hạt lúa đậu vào. Dùng lá Bách xanh với cành lá Trúc, cành lá Lê Nại (một loại táo Tây) cắm vào miệng cái lọ ấy. Trang nghiêm cái lọ xong, đem an 4 góc với chính giữa Đàn. Bày 10 mâm mọi loại quả trái thượng vị, thắp 12 ngọn đèn, dùng các hương hoa, mọi loại làm Pháp, tụng Chú cúng dường ngày ngày chẳng dứt. Mãn 7 ngày xong, ngay sau đó Tùy Tâm Pháp Ấn đến ứng nghiệm làm giới hạn. Chí thành sám hối được diệt trừ chướng, mau thành chứng nghiệm

Về sau, nếu chữa bệnh cũng y theo Pháp này. Khiến người bệnh ấy tại mặt Đông của Chú Sư hướng về phía Bắc ngồi. Chú vào hạt cải trắng nhiễu quanh trên đầu người bệnh ấy rồi thiêu đốt. Ba ngày quyết định được khỏi bệnh

Nếu làm Pháp Đàn này, như có thể sau này được lúc Nhật Nguyệt Thực làm Đàn này thì rất ư đại nghiệm.

Nếu chẳng gặp lúc Nhật Nguyệt Thực thì ở trong tháng ấy chọn lấy ngày tốt

Nếu không có nơi chốn tốt như lúc trước thì nên tìm cái chùa tốt làm Đàn cũng được. Nhưng Chú Sư ấy cần phải được người khác bố thí con ngựa trắng. Nếu không có ngựa trắng thì dùng bạc làm con ngựa đem cho Chú Sư. Nếu không có bạc làm con ngựa thì chọn lấy vật mà ý của Chú Sư cần dùng, thay cho con ngựa. Nếu không có vật thì dùng Tâm tốt hiếu thuận, giữ Giới bền chắc cũng được. Chẳng trái ngược với sự dạy bảo nghiêm quyết của A xà Lê thì mới dạy Pháp này

Công Năng của Tỳ Câu Tri Bồ Tát Chú

Nếu có Sa Môn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân… trì Đại Chú Ấn này, làm hộ Thân, kết Giới, mọi loại làm Pháp, chữa bệnh, sám hối… cúng dường hương hoa không dứt, sẽ được Bồ Tát hộ niệm.

Nếu muốn vào cung A Tu La. Ở trong 8 năm, ngày ngày tụng Chú mãn 3000 biến làm Tam Nhãn Ấn, Chú vào hạt cải trắng 108 biến, một lần Chú thì một lần đánh ném trên đất thì đất liền mở ra hang động, Chú Sư đi vào, muốn trụ được thấyPhật Di Lặc liền tùy ý mà trụ. Nếu muốn đi ra thì đừng vào trong thành. Nếu thấy giữa đường có tài vật, lượm lấy đi ra cũng không có tội. Nếu có quả trái, hái lấy mà ăn, thì sống lâu một ngàn tuổi

Nếu Ý muốn làm biển lớn khô cạn thì có thể đến bên bờ biển, trải qua 3 tháng dùng Đãi Chú lúc trước chú vào hạt cải trắng 108 biến, rải tán trong nước biển, ngày ngày như vậy thì nước biển liền khô cạn

Nếu ý muốn bắt được Rồng. Cần phải ở gần bên nước có Rồng, trải qua 100 ngày, làm Pháp tụng Chú thì Rồng ấy tự đi ra, đến gặp Chú Sư nhận chịu sự điều phục.

Nếu trị bệnh nóng sốt rất là hiệu nghiệm

Nếu người muốn được An Đát-La Đà Na. Lấy Ma Na Sất La (Đường nói là Thạch Hùng Hoàng), Mật Đà Tăng… phần lượng của 2 vật bằng nhau, cùng đâm giã làm bột, lại nghiền cho mịn. Trải qua 6 tháng, ngày ngày tắm gội mặc áo sạch mới, ngày ngày 3 thời: sáng sớm, giữa ngày (giờ Ngọ) với lúc mặt trời lặn, chí Tâm, Chú vào thuốc 108 biến, lại Chú 7 biến rồi chấm vào trong con mắt tức được tùy ý, An Đát-La Đà Na rửa đi mới nhìn thấy. Vật thuốc ấy đừng để cho người khác cầm.

Nếu ý muốn vào cung A Tu La. Có các vật ác, La Sát, rắn gây chướng nạn với cửa chẳng mở ra. Nhóm chướng đen tối đều chuẩn bị tác ý, Chú vào hạt cải trắng 1008 biến, tự mang theo đi, gặp nơi có Chướng liền dùng đánh ném thì nơi nơi chốn chốn đều không chướng ngại.

Pháp vẽ tượng Tỳ Câu Tri

Nếu dùng lụa mỏng trắng, hoặc ở trên vải… vẽ làm Tượng ấy. Họa Sư trước tiên thọ trì 8 Giới Trai, vẽ tượng Thích Ca Phật, gian bên trái vẽ Kim Cang, gian bên phải vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Phật ấy màu vàng ròng, thân mặt của Kim Cang đừng đen đừng trắng, hình trạng như Đồng Tử 16 tuổi, tất cả thân phần giống như Pháp trang nghiêm thân Bồ Tát

Quán Thế Âm ấy: mặt với thân phần, mão trên đầu, Anh Lạc, áo Trời trang nghiêm, quần gấm Ỷ La… đều như Pháp vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát ở nơi khác. Bên dưới bàn tay trái của Quán Âm vẽ riêng hình Thiên Nữ thân đều màu trắng, quần áo trắng đỏ, dung mạo rất đoan chánh, đầu đội mão hoa. Tiếp theo vẽ Chú Sư ngay bên dưới, quỳ gối, tay bưng lư hương, hướng về Quán Thế Âm

Làm Tượng này xong. Từ ngày 1 đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt nên ăn Đại Mạch, cháo sữa, luôn tụng Chú sau… đṇ ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, 3 ngày 3 đêm đừng ăn, cúng dường Tượng thời tượng Thiên Nữ ấy liền phóng ánh sáng nhập vào trong ngón chân của Phật. Thấy tướng này thời Tâm Nguyện được kết quả

Nếu muốn thấy Bàn Trà La Bà Tư Ni (Pāṇḍara-vāsinī). Vào ngày 13 hoặc ngày 14, hoặc ngày 15….. 3 ngày 3 đêm có thể vào trong nước biển lớn tụng Chú, trương Tượng vẽ ấy ở trên bờ biển, dùng trăm ngàn hoa sen cúng dường, thời Bàn Trà La Bà

Tư Ni Thiên Thần hiện đến. Lúc đó, tu Đạo thông minh, Trí Tuệ, Biện Tài, Trì Chú

Tiên Nhân… tùy theo ước nguyện ấy đều được như ý

Lại Tỳ Câu Tri Chú là:

“Na ma tát bà đá tha yết đê phiếu (1) bà già bà đế tệ (2) Úm (3) tát bả bà dạ na xá nễ (4) đát-la sa nễ, đát-la sa nễ (5) đát la sa dạ, đát la sa dạ (6) đát-la tây (7) bật cự trí (8) nễ củ trí (9) đá trí đá trí (10) phệ đá trí, phệ đá trí (11) hộ lỗ lỗ phệ đá trí (12) thuế đê xà trí nễ (13) sa ha (14)”

 

Chú này cũng có tên là Quán Thế Âm Bồ Tát Thuyết Kim Cang Chú. Khi tụng

Chú này thời tất cả chứng nạn thảy đều ngưng dứt

Nếu muốn tự hộ thì Chú vào tro 7 biến, chấm lên trán, dưới cổ kèm trên 2 bắp tay thì đi đến nơi nào, cũng không có sợ hãi.

Nếu vì người khác thì Chú vào đầu tóc ấy, kết tác làm búi tóc, Tâm luôn niệm Chú thì tất cả quan phủ hoặc đi một mình trong đêm, hoặc đi giữa đám giặc cướp, tất cả nơi đáng sợ… đều được không có nạn. Hết thảy người ác đều vui vẻ quy phục, chẳng thể gây trở ngại

Muốn hàng phục tất cả. Nên ở ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, một ngày một đêm đừng ăn. Dùng cây Bồ Đề làm củi nhúm lửa, lấy một dúm mè, Chú vào một biến xong thì ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy số đủ tám ngàn biến thời tất cả quy phục Cây Thi Lợi Sa (Śirīṣa: là cây Hợp Hoan) là cái cây mà Câu Lưu Tôn Phật

(Krakucchanda-buddha) đắc Đạo. Chỉ là cái cây mà Phật đắc Đạo liền được dùng vậy. Cây Khổ Luyện cũng được

Nếu bị tất cả người Oán ếm đối muốn cho mất Tâm Tánh. Lấy xưng người làm làm cây cọc, Chú vào 8000 biến, đóng chôn dưới cửa nhà người Oán ấy thì trở lại khiến cho người ấy bị mất Tâm Tánh vậy

Lại có Pháp. Lấy tro thiêu đốt xác chết, vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, Chú vào một dúm tro một lần rồi ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy mãn 8000 biến thì người Oán kia liền bị diệt

Lại có Pháp. Vào ngày 14 của kỳ Hắc Nguyệt, vào trong nước đứng ngập đến rốn, tụng Chú thì tất cả Oan Gia, giặc ác, quần chúng… cả hai đều làm hòa giải đều sanh Tâm hiền thiện

Lại có Pháp, muốn làm Tứ Phương Kết Giới. Lấy 4 cây Khư Đà La (Khadīra) dài 8 ngón tay, đều Chú vào 800 biến xong, đóng ở 4 phương thì tất cả Quỷ ác với người Oán ác đều chẳng được vào bên trong Giới này. Lại ở trong Giới làm Mạn Trà La, Chú vào nước 21 biến rải tán trên đất, liền thành kết Giới. ở bên trong liền có thể làm Chú Pháp vậy

Lại có Pháp. Tát Đỏa Mỗ Đá Bả Tra Na Hồng Bồ Lợi Sa Tỳ 7 lần Chú vào hạt cải

Lại có Pháp nói là: sống lâu, thiếu vật, khó thành….chẳng phiên dịch vậy

Lại có Pháp. Lấy một chút Tần Ngưu Tô, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, như vậy số mãn 8000 biến xong. Nếu đến tất cả bệnh đau nhức, chướng ngại thảy đều tiêu trừ. Cũng chẳng cần xem ngày tháng, thời tiết… làm được liền làm, củi cũng nhận dùng

Lại có Pháp. Lấy Một Hoạn Tử làm củi nhúm lửa thiêu đốt thuốc (đấy này không có, cho nên bị thiếu)

Lại có Pháp. Giặc giận dữ đi đến muốn gây trở ngại cho Ta. Tụng Chú này xong, tức Tâm vui vẻ

Lại có Pháp. Vì việc Quan, vào ngày 8 của tháng, ở bên tượng Quán Ấm, Chú vào hoa trắng, một cọng một biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt, mãn 8000 biến thì việc quan được cởi thoát hết

Lại có Pháp. Có giặc muốn đến xâm loạn, ở trước tượng Quán Âm, chí Tâm tụng Chú thì giặc liền quay trở lại, bỏ đi

Lại có Pháp. Tùy cầu Pháp nào, khi tụng Chú này thời thiêu đốt, không có khói, than… Chú vào hạt cải trắng, một hạt một biến rồi một lần ném vào trong lửa thiêu đốt. mãn 8000 biến thì điều đã mong cầu đū được toại nguyện. Lại Chú vào hạt cải trắng 7 biến thì tất cả hàng Khởi Thi Quỷ thảy đều bị cột trói

Lại có Pháp. Chú vào Thạch Mật 7 biến, ném vào trong nước, liền lấy nước này làm Mạn Trà La, kết Giới.. ở bên trong tụng Chú thì tất cả sư tử, loài trùng lớn, cầm thú, trâu, voi trắng, La Xà Chu La, nước… đều chẳng thể gây hại

_Lược nói xong Pháp Ấn Chú với Công Năng của Tỳ Câu Tri.

 

PHẬT NÓI ĐÀ LA NI TẬP KINH

QUYỂN THỨ NĂM (Hết)

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12