KINH CHIÊM SÁT THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Bồ-đề Đăng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật cùng tất cả bậc trí ở trong núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương xá, đã dùng năng lực thần thông thị hiện đạo tràng rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh vô ngại, cùng vô lượng, vô biên các đại chúng, giảng thuyết pháp môn căn bản sâu xa. Bấy giờ, trong chúng hội có một Bồ-tát gọi là Kiên Tịnh Tín, từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục ngay thẳng, bày vai phải chắp tay thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con ở trong hội này muốn có đôi điều thưa hỏi, nguyện xin Thế Tôn cho phép.

Đức Phật bảo:

–Này thiện nam! Tùy theo ý ông để hỏi.

Bồ-tát Kiên Tịnh Tín thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng như lời Thế Tôn đã dạy con ở đời quá khứ sau khi chánh pháp diệt, tượng pháp sắp diệt cho đến đời sau cùng (mạt pháp) như vậy chúng sinh phước mỏng nhiều khổ não, đất nước có nhiều loạn lạc, tai họa đều dấy khởi, nhiều nguy hiểm kinh sợ đe dọa làm nhiễu hại, các đệ tử của con quên nhớ nghĩ thiện, chỉ tăng thêm tham, sân, si, tật đố, ngã mạn, giả sử có thì cũng tương tự như thực hành pháp thiện, chỉ cầu lợi dưỡng ở thế gian, được gọi lấy danh lợi làm căn bản, không thể phát tâm tu tập pháp chính yếu. Lúc ấy, chúng sinh thấy tai họa nổi loạn ở đời tâm thường khiếp sợ, lo sợ thân mình và các thân thuộc không có cơm, áo đầy đủ để nuôi thân, do những điều này mà có nhiều nhân duyên làm chướng ngại, ở trong Phật pháp, căn cơ thấp kém, lòng tin rất ít, người chứng đạo rất hiếm, cho đến ở trong ba thừa dần dần lòng tin cũng rất ít, sự tu tập thiền định ở thế gian thành tựu các thần thông biết được mạng sống kiếp trước lại càng không có. Như thế về sau ở trong đời mạt pháp trải qua lâu mới đắc được đạo, lòng tin thiền định, các thần thông, tất cả hoàn toàn không có. Hôm nay, con vì tượng pháp sắp diệt ở đời ác vị lai này và trong đời mạt pháp có căn lành kém ít, xin thưa hỏi Như Lai, dùng phương tiện gì để giáo hóa chúng sinh khiến cho họ phát lòng tin diệt trừ các tai họa, não hại. Do chúng sinh gặp nhiều điều ác xấu, có nhiều chướng ngại mà bỏ mất tâm thiện của mình, ở trong pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian, phát sinh nhiều nghi hoặc, không có tâm kiên cố mong cầu pháp thiện, những chúng sinh như vậy đáng thương yêu, đáng cứu giúp, với lòng đại Bi và Nhất thiết chủng trí của Thế Tôn, nguyện xin Thế Tôn thị hiện phương tiện, ví dụ để họ hiểu rõ khiến xa lìa lưới nghi hoặc, diệt trừ chướng ngại, lòng tin được tăng trưởng, nương theo (xe) thừa nào mà chứng đắc pháp không thoái chuyển.

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Tịnh Tín:

–Lành thay, lành thay! Những điều ông hỏi rất hay, rất hợp ý ta. Hôm nay, ở trong chúng này có vị Đại Bồ-tát gọi là Địa Tạng, ông nên đem những câu này thưa hỏi, vị ấy sẽ vì ông thị hiện phương tiện để giảng thuyết giáo hóa, đúng với sở nguyện của ông.

Khi ấy, Bồ-tát Kiên Tịnh Tín lại thưa Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn trí tuệ vĩ đại, vì sao Thế Tôn không giảng thuyết mà muốn để Bồ-tát Địa Tạng đó giảng thuyết.

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Tịnh Tín:

–Ông chớ sinh suy nghĩ cao thấp. Thiện nam này đã phát tâm đến nay trải qua vô lượng, vô biên, a-tăng-kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, từ lâu đã chứng đắc Nhất thiết trí như biển, công đức đầy đủ, chỉ do bản nguyện, năng lực tự tại nên phương tiện, quyền xảo thị hiện giáo hóa khắp mười phương, tuy đến khắp tất cả các quốc độ thường thực hành các công đức, mà ở trong năm thứ ô uế ở đời để giáo hóa lợi ích về sau; cũng do năng lực, bản nguyện đã tu tập, do đó, chúng sinh lãnh thọ sự giáo hóa. Vị Bồ-tát đó từ mười một kiếp đến nay trang nghiêm thế giới này, chúng sinh được thuần thục. Cho nên ở trong chúng hội nay, thân tướng đoan nghiêm, oai đức lạ thường, chỉ ngoài Như Lai ra thì không ai sánh bằng, lại ở trong thế giới này sự thị hiện giáo hóa, chỉ có Bồ-tát Quán Thế Âm và các Đại Bồ-tát, còn không ai sánh bằng. Vì thế năng lực thệ nguyện của Bồ-tát mau chóng hoàn thành tất cả sự mong cầu của chúng sinh, diệt trừ hết thảy tội nặng của chúng sinh, vượt qua chướng ngại hiện tại được an ổn, Bồ-tát này gọi là Thiện An Úy. Có nghĩa là khéo léo giảng thuyết pháp sâu xa, có thể hướng dẫn những người mới học phát tâm mong cầu Đại thừa, khiến không còn khiếp sợ, do nhân duyên này mà ở trong thế giới ấy, tôn trọng, lãnh thọ sự giáo hóa nên được giải thoát. Do đó, hôm nay, ta chỉ bày cho ông thưa hỏi.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Tịnh Tín đã hiểu rõ ý của Phật liền thưa hỏi Đại Bồ-tát Địa Tạng:

–Lành thay, thưa Hiền giả Cứu đời! Lành thay, bậc Bồ-tát đại trí tuệ! Như tôi đã hỏi, chúng sinh ở đời ác dùng phương tiện gì để giáo hóa họ; khiến xa lìa chướng ngại và được lòng tin kiên cố. Hôm nay, Như Lai muốn khiến cho Hiền giả giảng thuyết về phương tiện này, nên phải biết thời thương yêu, vì họ mà thuyết.

Lúc ấy, Đại Bồ-tát Địa Tạng nói với Đại Bồ-tát Kiên Tịnh Tín:

–Thiện nam! Hãy lắng nghe! Tôi sẽ vì người mà thuyết; sau khi Đức Phật nhập diệt trong đời ác, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đối pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian chưa có lòng tin chắc chắn không thể tu học, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, hiện ra hoàn toàn; không thể siêng năng quán xét pháp bốn Thánh đế và mười hai nhân duyên, cũng không chuyên cần quán xét về các pháp thật tế chân như, không sinh, không diệt, vì không siêng năng quán xét những pháp như vậy nên không chứng được Niết-bàn không tạo mười điều ác nguồn gốc của tội lỗi, đối với công đức Tam bảo, đủ các cảnh giới, không có lòng tin trong ba thừa đều không có hướng nhất định.

Những người như vậy, thì có đủ các thứ chướng ngại, càng tăng thêm sự lo âu, hay nghi hoặc đối với tất cả, tâm không hiểu rõ, nhiều mong cầu, nhiều khổ não, các điều trói buộc sinh khởi không định, suy nghĩ, lo buồn, rối loạn, bỏ mất việc tu tập. Người có những chướng nạn này thường dùng pháp tướng mộc luân để chiêm nghiệm về nghiệp thiện ác trong đời trước, những việc tốt, xấu, sướng khổ ở hiện tại đều do duyên hợp nên có chia lìa tức là diệt. Nghiệp tùy tâm tích tập, tướng hiện, quả sinh khởi, tướng không mất không hoại nên không sai khác. Chiêm nghiệm kỹ về nghiệp thiện, ác như vậy thì hiểu rõ tâm mình, những việc nghi ngờ lấy đó để biết rõ. Nếu đệ tử Phật, chỉ cần tu tập pháp tướng này, chí tâm nương tựa những pháp quán ấy thì sẽ thành tựu, không nên từ bỏ pháp này, mà trái lại chạy theo những việc bói số xem tướng tốt, xấu ở thế gian, tham trước, ưa tích tập. Nếu người ưa thích tích tập sâu xa thì làm chướng đạo Thánh.

Này thiện nam! Nếu muốn học tướng mộc luân, trước hết phải khắc vào cây khoảng ngón tay nhỏ, khiến cho dài ngắn đều bằng một tấc, nằm ở giữa, bốn bên đều bằng, còn hai đầu xiên thừa thì bỏ đi để sát giữa bàn tay ngữa, gieo xuống làm cho nó thay đổi do nghĩa này nên gọi là luân. Lại nữa, dựa theo tướng này có thể phá trừ lưới nghi hoặc của chúng sinh, quay về chánh đạo, đạt được nơi an ổn. Vì thế gọi là chuyển. Tướng luân này có ba loại sai khác. Những gì là ba?

  1. Tướng luân có thể chỉ bày những sự khác nhau của nghiệp thiện ác đã làm đời trước, tướng luân này có mười loại.
  2. Tướng luân hiển bày sự sai khác nhỏ, lớn, mạnh, yếu đã làm gần nay hay lâu đã tích chứa nghiệp đời trước, tướng luân này có ba loại.
  3. Tướng luân có thể hiển bày sự chịu quả báo khác nhau trong ba đời.

Luân này có sáu loại. Nếu muốn chiêm nghiệm sự sai khác của nghiệp thiện, ác đã làm đời trước thì nên khắc vào cây mười luân (vòng) dựa vào luân này viết tên của mười thiện, mười thiện căn bản ở trong một luân, ghi vào mỗi mặt. Tiếp đến dùng mười ác viết đối diện với mười thiện làm cho tương xứng cũng viết vào một mặt.

Mười thiện là tất cả các pháp thiện căn bản có thể tóm thâu hết các pháp thiện khác. Mười ác là tất cả pháp ác căn bản có thể hàm chứa hết những pháp ác khác. Nếu muốn chiêm nghiệm tướng luân này thì trước hết phải học chí tâm đảnh lễ tất cả chư Phật mười phương, nhân đó lập nguyện, nguyện làm cho hết thảy chúng sinh mười phương mau chóng đều thân cận, cúng dường thưa hỏi, lãnh thọ chánh pháp. Lại nữa, phải nên học chí tâm kính lễ Tạng pháp mười phương; nhân đó liền lập nguyện, nguyện làm cho tất cả chúng sinh khắp mười phương mau chóng được thọ trì đọc tụng đúng như pháp tu hành và vì người khác thuyết pháp. Lại nữa, phải học chí tâm kính lễ tất cả Hiền thánh khắp mười phương, nhân đó liền lập nguyện, nguyện làm cho tất cả chúng sinh mười phương mau chóng được gần gũi cúng dường phát tâm Bồ-đề, chứng được quả vị không thoái chuyển. Sau đó, phải học chí tâm lễ kính Đại Bồ-tát Địa Tạng ta, liền lập nguyện, nguyện làm cho tất cả chúng sinh mười phương nhanh chóng diệt trừ nghiệp ác, tội nặng xa lìa các chướng ngại các vật dụng đời sống đều đầy đủ. Kính lễ rồi, tùy theo những thứ hương hoa mình có nên tu tập cúng dường. Tu tập cúng dường là tưởng nhớ đến ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng, thường lễ bái khắp tất cả, nguyện đem hương hoa này đồng trong pháp tánh đều tỏa khắp tất cả cõi chư Phật, cúng dường làm Phật sự. Lại nghĩ tất cả mười phương luôn luôn được cúng dường đầy đủ. Hôm nay, con sẽ đem tất cả thứ hương hoa, chuỗi hạt cờ lọng báu các thứ trang sức, trân báu đẹp, âm nhạc, đèn đuốc lửa, thức ăn, nước uống, y phục, giường nệm, thuốc thang cho đến tất cả thứ trang nghiêm hiện có ở mười phương đều cúng dường đầy đủ, thường nhớ nghĩ cùng với chúng sinh vui vẻ cúng dường, thường nhớ tu tập cúng dường trong tất cả thế giới. Hôm nay, con tùy hỷ, nếu người chưa tu tập cúng dường nguyện được giáo hóa khiến cho thực hành cúng dường. Lại nguyện, thân con mau chóng biến hiện khắp tất cả cõi nước. Đối với hết thảy Phật, Pháp, Tăng đều đem hết vật dụng cúng dường trang nghiêm, cùng tất cả chúng sinh vui vẻ thực hành cúng dường tất cả Pháp thân, sắc thân, xá-lợi, hình tượng, những nơi tháp miếu của chư Phật, tất cả việc Phật, cúng dường tất cả Pháp tạng hiện có và thuyết pháp khắp nơi. Cúng dường tất cả chúng sinh Hiền thánh tăng, nguyện cùng với tất cả chúng sinh tu tập thực hành cúng dường như vậy, dần dần thành tựu sáu pháp Ba-la-mật, bốn Vô lượng tâm, hiểu biết sâu xa những pháp xưa nay vốn vắng lặng, một vị bình đẳng, không sinh, không diệt, xa lìa nhớ nghĩ thanh tịnh hoàn toàn viên mãn. Lại nên, biết rõ tâm cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng ta. Lại nữa, nên xưng tán danh hiệu hoặc nhớ nghĩ, nhất tâm đọc tụng “Nam-mô Địa Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát”. Xưng tán như thế, đạt được một ngàn kinh, ngàn niệm rồi mà cho rằng: Lòng đại Từ, đại Bi của Đại Bồ-tát Địa Tạng nguyện xin cứu giúp cho con và tất cả chúng sinh mau tiêu trừ các chướng ngại, tăng trưởng lòng tin thanh tịnh. Hôm nay, sự quán tưởng, xưng tụng khiến được tương ứng, nói như vậy rồi, sau đó, tay cầm mộc luân ở trên vật trong sạch mà gieo xuống trong đó. Như vậy muốn chiêm nghiệm pháp cho mình, hoặc muốn chiêm nghiệm người khác đều cũng làm như thế. Nên biết về luân tướng này là tùy theo nghiệp hiện tại, nên mỗi một đế đều quán tưởng suy nghiệm, hoặc thuần mười thiện hoàn toàn hoặc thuần mười ác hoàn toàn hoặc thiện ác hỗn tạp, hoặc thuần thiện không hoàn toàn, hoặc thuần ác không hoàn toàn. Như vậy các loại nghiệp nhân không giống nhau, các quả báo tập khí đều sai khác. Đúng như Phật Thế Tôn đã giảng thuyết nơi khác, nên phải nhớ kỹ; tư duy quán xét các nghiệp ở hiện tại cùng quả báo đời này trong kinh, những việc khổ, vui, tốt và xấu, với tập khí phiền não đều tương xứng nhau gọi là tương ứng. Nếu không thích đáng nghĩa là không chú tâm gọi là nói trống rỗng. Nếu chiêm nghiệm luân tướng mà nghiệp thiện ác đều không hiện ra thì người này đã chứng tâm trí vô lậu thường cầu pháp xuất ly, lại không thích chịu quả báo thế gian, các nghiệp hữu lậu thay đổi yếu nhỏ dần, không thể tăng trưởng. Do đó, không thể hiện ra được, lại thuần thiện không hoàn toàn, thuần ác không hoàn toàn thì hai hạng người này nghiệp thiện ác không thể hiện ra, đều nhỏ yếu chưa có khả năng trở thành quả, vì thế không thể hiện ra. Nếu ở đời đương lai, đệ tử chư Phật đã chiêm nghiệm quả báo thiện ác đắc được điều tương ưng. Ở trong năm dục được điều vừa ý, chớ chẳng phải tự mình phóng túng mà khởi tâm buông lung, nên suy nghĩ, do nghiệp thiện đời trước của ta như vậy, nên hôm nay được quả báo này. Hôm nay, ta có thể thay đổi, càng tinh tấn tu tập không nên dừng nghĩ. Nếu gặp những việc nguy hiểm, não hại, không tốt quấy phá, lo sợ không được vừa ý, nên phải chịu đựng không nghi ngờ, hối tiếc, thoái mất việc tu tập nghiệp lành, liền suy nghĩ đời trước ta tạo nghiệp ác như vậy, ngày nay gặp quả này. Hôm nay, ta nên hối cải tu tập sửa đổi nghiệp ác và thường thực hành việc thiện khác không ngừng nghỉ. Nếu biếng nhác, phóng túng thay đổi thì càng tích chứa nhiều khổ tập. Đây gọi là chiêm nghiệm Pháp luân tướng ban đầu. Này thiện nam! Nếu muốn chiêm nghiệm nghiệp đã tích chứa trong quá khứ đến lâu hay mau, sự tạo tác khác nhau mạnh, yếu, lớn, nhỏ thì nên khắc vào bảng gỗ ba vòng (luân), dùng thân, miệng, ý, làm căn bản ở mỗi vòng, viết chữ vào đó lại ở giữa mỗi vòng vẽ một bức họa, lớn, dài xén bỏ đi các viền. Lại nữa, mặt thứ hai vẽ một bức họa nhỏ, ngắn khiến cho đến viền. Lại nữa, mặt thứ ba, khắc một bên như bức họa kia, làm cho đường lớn, sâu, mặt thứ tư cũng khắc vào bên làm cho đường nhỏ, cạn; nên biết nghiệp thiện trang nghiêm giống như bức họa, nghiệp ác hại suy yếu gống như giảm lần. Bức họa lớn dài là hiển bày tích chứa thiện đến rất lâu, thực hành lanh lợi, làm được tăng trưởng. Bức họa nhỏ, ngắn đến rất gần, từ trước tu tập cơ bản thuần thiện, sự tạo ác rất ít. Bức họa được khắc lớn và sâu, biểu thị việc ác đến rất lâu, các tai họa phát triển. Cuối cùng, bức họa nhỏ và cạn là biểu thị việc thiện đến mau giảm đi trước kia tích chứa pháp ác gây các nghiệp chưa đến mức lớn mạnh, hoặc tuy đã làm các tội ác nặng nhưng đã từng hối lỗi, sữa đổi. Đây có nghĩa là tội nhỏ. Này thiện nam! Nếu ban đầu chiêm nghiệm chuyển tướng là chỉ biết sự sai khác của nghiệp thiện ác đã tạo đời trước mà không thể biết tích tập lâu, mau những nghiệp lớn, nhỏ, mạnh, yếu đã tạo. Vì thế nên chiêm nghiệm tướng luân thứ hai, nếu chiêm nghiệm tướng luân thứ hai nên dựa vào trong tướng luân ban đầu nghiệp đã hiện ra, nếu thuộc về thân thì rơi vào luân tướng của thân, nếu thuộc về miệng thì rơi vào luân tướng của miệng, nếu thuộc về ý thì rơi vào luân tướng của ý, không được đem ba tướng luân này, chiêm nghiệm cùng một nên phải tùy theo nghiệp căn bản, nhớ mỗi một thiện ác dựa vào sự khác biệt thuộc luân nào mà quán xét.

Lại nữa, chiêm nghiệm trong luân tướng ban đầu chỉ có nghiệp

thiện của thân, thì ở trong luân thứ hai này là việc ác của thân nghĩa là không có chí tâm không được tương ứng gọi là nói trống rỗng. Lại nữa, không tương ứng là chiêm nghiệm trong luân tướng ban đầu đắc được nghiệp không giết hại và nghiệp không trộm cắp, quán xét về nghiệp không giết hại, trước hết, ý làm chủ mà trong luân tướng thứ hai (thấy) bị ác của thân thì gọi là không tương ứng.

Lại nữa, nếu quán hiện tại từ khi sinh đến về sau không thích giết hại, không tạo tội giết hại nhưng ý làm chủ nghĩ nghiệp giết hại, nhưng ở trong luân tướng thứ hai, thân mắc nhiều tội ác, gọi là không tương ứng, ngoài thân ra, nghiệp trong miệng, nghĩa không tương ứng cũng lại như vậy. Thiện nam nên biết! Nếu đời vị lai, các chúng sinh muốn mong cầu giải thoát sinh, lão, bệnh thì ban đầu học phát tâm, tu tập thiền định, trí tuệ vô tướng thì trước hết phải chiêm nghiệm nghiệp ác đã tạo đời trước nhiều, ít cho đến nhẹ hay nặng, nếu nghiệp ác nhiều thì không được học thiền định trí tuệ, nên biết trước phải thực hành pháp sám hối. Vì sao? Vì người này đã tích chứa tâm ác rất mạnh mẽ. Hiện tại chắc chắn tạo nhiều tội ác, hủy phạm giới cấm, do phạm giới trọng, nếu không sám hối để được thanh tịnh mà tu tập trí tuệ thiền định thì có nhiều chướng ngại không thể đạt được, hoặc tâm bị tán loạn, hoặc vị ngoại đạo tà kiến làm não hại, hoặc lãnh thọ pháp tà kiến, tăng trưởng ác kiến; vì thế trước phải thực hành pháp sám hối. Nếu (giữ) giới căn bản thanh tịnh tội trọng đời trước rất ít thì xa lìa các chướng ngại. Này thiện nam! Người muốn tu tập pháp sám hối nên an trú nơi vắng lặng, tùy theo năng lực có thể tôn nghiêm Đức Phật ở trong phòng và trang trí kinh pháp, treo cờ lụa, lọng, tìm những hương hoa để cúng dường, tắm tẩy thân thể và mặc y phục giặt sạch chớ để mùi hôi xông lên. Ở trong thất này ngày đêm chia ra ba thời đọc tụng danh hiệu. Nhất tâm đảnh lễ bảy Đức Phật ở quá khứ và năm mươi ba Đức Phật, lại quay mặt về mười phương, mỗi một phương tâm đều suy nghĩ, đảnh lễ khắp tất cả sắc thân, xá-lợi, hình tượng, nơi tháp miếu của chư Phật, tất cả những việc của Phật. Lại nữa, đảnh lễ tất cả chư Phật trong ba đời mười phương, tâm nghĩ đảnh lễ hết Tạng pháp ở mười phương, tâm nên nghĩ đảnh lễ tất cả Hiền thánh khắp mười phương. Sau đó, càng biết rõ tụng danh hiệu, lễ bái Đại Bồ-tát Địa Tạng ta, đảnh lễ như vậy rồi nên nói những tội đã làm, nhất tâm cầu khẩn; nguyện xin chư đại Bi mười phương tôn chứng biết cứu giúp, hôm nay, con xin sám hối lại không dám tạo tội nữa, nguyện con và chúng sinh mau chóng diệt trừ mười ác, bốn tội trọng, năm tội nghịch điên đảo hủy báng Tam bảo, tội Nhất-xiển-đề đã gây từ vô lượng kiếp đến nay; lại nên suy nghĩ tánh tội như vậy, chỉ theo vọng tưởng hư dối, tâm điên đảo khởi, không có thật nhất định mà có thể đạt được bản tánh vắng lặng của hư không. Nguyện con và tất cả chúng sinh mau đạt được bản tánh của tâm, diệt trừ hoàn toàn nguồn gốc tội lỗi, lại thường nên phát nguyện, nguyện cho tất cả Bồ-tát mười phương chưa thành Chánh giác thì mau chứng thành Chánh giác, nếu chứng thành Chánh giác rồi nguyện thường an trú ở đời để chuyển bánh xe chánh pháp, không nhập Niết-bàn, lại nữa nên phát nguyện tùy hỷ, nguyện con và tất cả chúng sinh trừ bỏ hoàn toàn tâm ganh ghét, ở tất cả cõi Phật trong ba đời thường tu học các công đức, tất cả thành tựu đều tùy hỷ. Lại nữa phát nguyện hồi hướng, nguyện tất cả những công đức đã tu tập của con, các vật dụng đều ban cho hết thảy chúng sinh, cùng chứng được trí tuệ của Phật đến thành Niết-bàn. Đã phát nguyện hồi hướng như thế rồi lại đến ngồi ngay thẳng giữa tịnh thất yên tĩnh, chú tâm hoặc đọc tụng hoặc nhớ nghĩ danh hiệu của ta thì sẽ giảm bớt ngủ nghỉ, nếu nhiều hôn mê (mê tối) nên ở trong tịnh thất đạo tràng đọc tụng liên tục. Lại nữa, ban đêm phân chia từng thời, nếu có ánh sáng của đèn đuốc thì làm việc cũng chia ra ba thời, cung kính cúng dường, sám hối tội lỗi và phát nguyện. Nếu không đủ ánh sáng để làm việc thì phải ngồi trong tịnh thất chú tâm tụng niệm, mỗi ngày thường thực hành pháp sám hối, chớ có biếng nhác. Nếu người đời trước từ bỏ các việc căn bản thiện thì tạm thời gặp phải nhân duyên ác nên tạo pháp ác, tội chướng có chút ít nhưng tâm người đó có năng lực rất mạnh mẽ, sau bảy ngày liền được thanh tịnh diệt trừ được chứng ngại. Như vậy, những nghiệp của chúng sinh có dày (nhiều) mỏng (ít), các căn lợi, độn sai khác vô lượng, hoặc trải qua mười bốn ngày mới được thanh tịnh, hoặc trải qua hai mươi mốt ngày, cho đến bốn mươi chín ngày mới được thanh tịnh. Nếu ở quá khứ, hiện tại đều tăng trưởng các tội trọng thì trải qua trăm ngày mới được thanh tịnh, hoặc trải qua hai trăm ngày cho đến ngàn ngày mới được thanh tịnh. Nếu căn cơ quá thấp kém, tội chướng lại rất nặng thì phải nên phát tâm dũng mãnh không tiếc thân mạng, đêm ngày thường xuyên đọc tụng liên tục bỏ bớt ngủ nghỉ, làm lễ sám hối phát nguyện, thích tu tập cúng dường không lười biếng, không bỏ phế cho đến bỏ mất thân mạng cũng không thoái lui, tinh tấn như vậy ở trong ngàn ngày, chắc chắn được thanh tịnh.

Này thiện nam! Nếu muốn đạt được tướng trí tuệ thanh tịnh, thì tu tập thực hành qua bảy ngày mỗi một ngày vào buổi sáng sớm đem luân tướng thứ hai đặt ở trong bàn tay thường ném xuống ba lần, nếu thân, miệng, ý đều toàn thiện thì gọi là được thanh tịnh. Như vậy các chúng sinh ở vị lai có thể tu tập sám hối từ quá khứ lâu xa đến nay, ở trong Phật pháp đã thực hành điều thiện, tùy theo sự tu tập có những công đức gì, nghiệp có nhiều, ít, nhiều loại sai khác. Vì thế, những người đó được thanh tịnh thì tướng cũng không giống nhau, hoặc có chúng sinh ba nghiệp được (thuần) hoàn toàn thiện, liền được các tướng tốt khác, hoặc có chúng sinh ba nghiệp được tướng đẹp thì ở trong một ngày, một đêm lại thấy ánh sáng chiếu khắp cả tịnh thất, hoặc nghe những mùi hương thơm ngào ngạt lạ thường, thân ý vui vẻ, hoặc sinh mộng lành, trong mộng thấy sắc thân Đức Phật đến làm lễ ấn chứng, cầm tay, xoa đầu khen ngợi rằng, lành thay, hôm nay, ông được thanh tịnh ta đến ấn chứng cho ông, hoặc trong mộng thấy thân của Bồ-tát đến làm ấn chứng, hoặc mộng thấy hình tượng Đức Phật phóng hào quang làm ấn chứng. Nếu người chưa được tướng lành của ba nghiệp, trước hết chỉ nghe thấy những việc này thì là nói hư dối vọng ngữ mê hoặc, lừa gạt chẳng phải tướng lành. Nếu người đã từng có căn lành xuất thế, giữ gìn tâm mạnh mẽ. Bây giờ, ta tùy theo người đáng độ để thị hiện thân phóng ánh sáng đại Bi khiến họ được an ổn, xa lìa các nghi ngờ, lo sợ, hoặc thị hiện các loại thần thông biến hóa, khiến cho họ tự nhớ lại những việc thiện ác đã làm đời trước, hoặc tùy theo sự ưa thích của họ để thuyết giảng những pháp căn bản sâu xa, người ấy liền hướng về Đại thừa có lòng tin chắc chắn, hoặc dần dần chứng được quả đạo Sa-môn.

Lại nữa, những chúng sinh đó, tuy chưa thấy ta thị hiện thân thuyết pháp, nhưng phải tu học nhất tâm, khiến thân, miệng, ý đều được thanh tịnh: Ta cũng cứu giúp khiến chúng sinh đó nhanh chóng diệt trừ các chướng ngại, Thiên ma Ba-tuần không đến phá hoại được; cho đến làm thầy chín mươi ngoại đạo tà kiến, tất cả quỷ thần cũng không đến quấy nhiễu. Năm triền cái dần dần giảm đi, thật có khả năng tu tập các trí tuệ thiền định.

Lại nữa, nếu các chúng sinh ở đời vị lai tuy không vì cầu trí tuệ thiền định, phát ra từ đạo chính yếu, chỉ vì những người bị nguy hiểm, bần khổ, thiếu thốn, lo buồn, khổ não dày vò thì cũng nên cung kính lễ bái cúng dường, sám hối việc làm ác, thường phát nguyện, đối với tất cả thời, tất cả nơi, siêng năng nhất tâm đọc tụng danh hiệu của ta, làm thật chí thành cũng sẽ nhanh chóng thoát khỏi khổ não, xả bỏ thân mạng này rồi sinh vào nơi tốt lành.

Lại nữa, đời vị lai những chúng sinh tại gia hoặc xuất gia, muốn cầu thọ giới thanh tịnh vi diệu, nhưng trước đó đã phạm tội trọng quá nhiều thì không được thọ; cũng phải như phương pháp sám hối trên, làm một cách chí tâm, thân, miệng ý đều lành, liền có thể thọ giới. Nếu những chúng sinh đó muốn tu tập đạo Đại thừa, mong cầu thọ giới trọng căn bản của Bồ-tát nguyện đều thọ tất cả giới cấm của tại gia và xuất gia, nghĩa là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiếp hóa chúng sinh giới, mà không thể gặp được Thầy truyền giới hoàn hảo, giảng thuyết rộng rãi Tạng pháp của Bồ-tát, trước hết phải tu tập thực hành, phải chí tâm cung kính cúng dường trong đạo tràng, ngưỡng mong Bồ-tát chư Phật mười phương làm thầy chứng minh, nhất tâm lập nguyện ca ngợi giới tướng, trước hết nói về mười giới trọng căn bản, thứ đến nên thuyết hết ba loại tụ giới (Tam tụ tịnh giới) tự mình phát nguyện mà thọ giới, ở đây cũng được đắc giới.

Lại nữa, các chúng sinh ở đời vị lai muốn cầu xuất gia và đã xuất gia, nếu không thể gặp được thầy truyền giới hoàn hảo và Tăng chúng thanh tịnh, tâm của người ấy nghi ngờ không được đúng như pháp thọ trì cấm giới, chỉ có thể học phát tâm đạo vô thượng, cũng đã làm cho thân, miệng, ý đều thanh tịnh. Người đó chưa xuất gia mà phải cắt tóc mặc y pháp phục như đã lập nguyện trên, tự mình phát nguyện thọ trì ba loại tụ giới luật nghi của Bồ-tát thì gọi đắc được đầy đủ giới Ba-la-đề mộc-xoa. Giới xuất gia gọi là Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, tức là tìm cầu Tạng luật Thanh văn và Tạng luận, tu tập Bồtát, thọ trì, đọc tụng, quán xét tu hành. Nếu tuy xuất gia mà tuổi chưa đủ hai mươi, trước hết nên phải phát nguyện thọ mười giới căn bản và thọ giới khác là Sa-di và Sa-di-ni, đã thọ giới cũng gọi Sa-di, Sadi-ni, tức cần thân cận cúng dường, thị giả những vị xuất gia trưởng thượng, học tâm Đại thừa thọ giới cụ túc, tìm thầy nương tựa, thưa hỏi giáo giới thực hành oai nghi như pháp Sa-di, Sa-di-ni, nếu người không được như vậy thì nguyện được gần gũi Bồ-tát, thực hành Tạng luận, đọc tụng, suy nghĩ, quán xét, tu tập, siêng năng cúng dường ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Nếu Sa-di-ni tuổi đã được mười tám cũng nên phát nguyện thọ sáu pháp giới Thức-xoa-ma-na trong Tạng luật và học hết tất cả giới tụ của Tỳ-kheo-ni. Người ấy nếu đủ hai mươi tuổi, có thể như trên thọ tất cả ba loại giới tụ của Bồ-tát, sau đó được gọi Tỳ-kheo-ni. Nếu chúng sinh đó tuy học sám hối mà không thể chí tâm, không được tướng tốt, giả sử đã thọ giới đều không gọi đắc giới.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ-tát Địa Tạng:

–Tôn giả thuyết giảng về sự sai khác của chí tâm có mấy loại?

Chí tâm đắc được tướng tốt là thế nào?

Đại Bồ-tát Địa Tạng bảo:

–Này thiện nam! Ta đã thuyết giảng tóm lược về chí tâm có hai loại. Hai đó là:

  1. Ban đầu mới tu tập chí tâm mong cầu.
  2. Giữ gìn tâm ý thường tinh tấn, chí tâm tương ứng thành tựu mạnh mẽ.

Hoàn thành được hai loại chí tâm này thì có thể đắc được tướng tốt. Hai loại chí tâm này lại có ba hạng sai khác là thượng, trung, hạ. Ba hạng là:

  1. Nhất tâm, có nghĩa trói buộc vọng tưởng, tâm an trú không tán loạn.
  2. Tâm dũng mãnh, nghĩa là thường mong cầu không lười biếng, không kể thân mạng.
  3. Tâm sâu xa, nghĩa là cùng với pháp tương ứng hoàn toàn không thoái lui.

Nếu người tu tập pháp sám hối này mà không được chí tâm bậc

hạ thì hoàn toàn không được tướng tốt thanh tịnh. Đây gọi là chiêm nghiệm pháp luân thứ hai.

Này thiện nam! Nếu muốn chiêm nghiệm bị sự sai khác của quả báo trong ba đời thì phải khắc vào bảng gỗ sáu luân (vòng). Ở luân thứ sáu này dùng một số một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm, mười sáu, mười bảy, mười tám viết vào đó. Mặt thứ nhất viết số một làm gốc, còn ba mặt khác, viết tuần tự không sai, không lẫn lộn, nên biết các số này đều từ một số mà phát sinh, dùng số một làm gốc, những số như vậy đều biểu thị tập hợp sáu căn của chúng sinh, tất cả từ một cảnh giới thật với tâm thanh tịnh, tự tánh tạng của Như Lai mà sinh khởi, nương vào một cảnh giới thật để làm căn bản gọi là nương vào cảnh giới thật. Người bị vô minh không hiểu rõ một pháp giới, nhớ nghĩ sai lầm hiển bày cảnh giới vọng tưởng, phân biệt chấp trước nhân duyên của nghiệp tập, phát sinh sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì do sáu căn bên trong tiếp xúc sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bên ngoài phát sinh sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thân thức, ý thức, vì nương sáu thức nên đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh khởi tưởng trái nghịch, tưởng thuận, những tưởng chẳng trái, chẳng thuận, phát sinh mười tám thọ. Nếu đệ tử chư Phật đời vị lai chịu nhân quả báo trong ba đời muốn rõ được ý nghi ngờ thì phải gieo ba lần vào luân tướng thứ ba này, chiêm nghiệm, tánh số kết hợp, dựa vào cách tánh số để quyết định thiện ác. Như vậy thấy được tướng quả báo thiện ác trong ba đời, gồm có một trăm tám mươi chín loại. Tất cả là:

  1. Cầu pháp Thượng thừa chứng bậc không thoái chuyển.
  2. Mong cầu quả hiện tại sẽ chứng đắc.
  3. Cầu Trung thừa được quả vị không thoái chuyển.
  4. Cầu pháp Hạ thừa chứng đắc bậc không thoái chuyển.
  5. Mong cầu thần thông được thành tựu.
  6. Tu tập thành tựu bốn Phạm thiên.
  7. Ở đời tu tập thiền được thành tựu.
  8. Mong muốn thọ giới được giới vi diệu.
  9. Đã từng thọ giới cụ túc.
  10. Mong cầu vị, trụ, tín của Thượng thừa.
  11. Mong cầu vị, trụ, tín, của Trung thừa.
  12. Mong cầu vị, trụ, tín của Hạ thừa.
  13. Đã chọn (thấy) người làm bạn tốt.
  14. Như đã nghe chánh pháp.
  15. Thấy người là bạn xấu.
  16. Như đã nghe chẳng phải chánh pháp.
  17. Thấy người có công đức chân thật.
  18. Đã biết được người không có công đức chân thật.
  19. Biết rõ được nghĩa không sai lầm.
  20. Biết rõ nghĩa là sai lầm.
  21. Đọc tụng không bị sai sót.
  22. Đọc tụng bị sai trái.
  23. Sự tu tập không bị lầm lẫn.
  24. Sự thấy nghe đều tốt.
  25. Sự chứng đắc là thật chứng.
  26. Sự học bị sai lầm.
  27. Sự thấy nghe chẳng tốt hoàn toàn.
  28. Sự chứng đắc chẳng phải là chánh pháp.
  29. Có sự bảo vệ của thần tà.
  30. Có thể thuyết giảng bàn luận với trí hiểu sai lầm.
  31. Sự huyễn hóa biết chẳng phải năng lực của người.
  32. Trước phải tu tập biết rõ về trí đạo.
  33. Trước phải tu tập đạo thiền định.
  34. Thấy sự học không có chướng ngại.
  35. Thấy sự học là chỗ thích nghi.
  36. Thấy sự học là chẳng phải nơi thích hợp.
  37. Quán xét sự học là tích chứa đời trước.
  38. Quán thấy sự học chẳng phải tích chứa đời trước.
  39. Quán thấy sự học hoàn toàn tăng trưởng.
  40. Quán thấy sự học ít phương tiện.
  41. Quán thấy sự học không có mục đích tiến lên.
  42. Sự mong cầu quả hiện tại chưa chứng đắc.
  43. Cầu mong được đi xuất gia.
  44. Cầu nghe pháp được chỉ giáo.
  45. Cầu được đọc tụng kinh.
  46. Quán xét việc làm là việc của ma.
  47. Quán xét việc làm đã thành tựu.
  48. Quán thấy việc đã làm chẳng thành.
  49. Mong cầu thật giàu tài sản đầy tràn.
  50. Mong cầu địa vị quan sẽ thành tựu.
  51. Cầu mạng sống lâu thì tuổi được kéo dài.
  52. Cầu phật ở đời được thành tựu.
  53. Thông tỏ nhiều về học vấn.
  54. Ít thông suốt về học vấn.
  55. Tìm cầu thầy, bạn được như ý.
  56. Cầu đệ tử được vừa ý.
  57. Cầu cha mẹ được như ý.
  58. Cầu nam nữ được bằng lòng.
  59. Cầu vợ cả vợ lẽ được như ý.
  60. Cầu bạn đồng hành được như ý.
  61. Được cùng chung sự suy nghĩ.
  62. Quán thấy tâm người thường giận dữ.
  63. Mong cầu không căm hờn được vui vẻ.
  64. Cầu hòa hợp được như ý.
  65. Quán thấy tâm người hoan hỷ.
  66. Biết rõ tất cả những suy nghĩ của người.
  67. Suy nghĩ của người không thể hiểu được.
  68. Kêu gọi đều đến tụ tập.
  69. Oán ghét được xa lìa.
  70. Thương kính được gần gũi.
  71. Quán thấy sự tích chứa dục thì được nhóm họp.
  72. Quán thấy sự tích chứa dục không được tích tụ.
  73. Kêu gọi không đến.
  74. Kỳ hẹn người chắc chắn sẽ đến.
  75. Hẹn người dừng lại không đến.
  76. Thấy người được an lạc.
  77. Thấy người không được an ổn.
  78. Thấy người không có thân hình.
  79. Mong cầu thấy thì được thấy.
  80. Tìm kiếm gì liền thấy được.
  81. Cầu được nghe lời nói an lành.
  82. Tìm thấy không được như ý.
  83. Thấy được nghi ngờ tức là sự thật.
  84. Thấy sự nghi ngờ là không phải sự thật.
  85. Thấy người không hòa hợp.
  86. Mong cầu Phật sư sẽ đạt được.
  87. Cầu cúng dường sẽ có được đầy đủ.
  88. Cầu vật dụng sinh sống đều được như ý.
  89. Mong vật dụng sinh sống có rất ít.
  90. Những sự mong cầu đều sẽ được.
  91. Những sự mong cầu sẽ không có.
  92. Sự mong cầu ít có được.
  93. Những sự mong cầu được như ý.
  94. Sự tìm cầu mau được thành tựu.
  95. Sự mong cầu lâu mới thành tựu.
  96. Sự tìm cầu lại hao tổn.
  97. Sự mong cầu được lợi lành.
  98. Sự mong cầu lại chịu khổ.
  99. Bị mất đi tìm sẽ có lại.
  100. Bị mất rồi thì mãi mãi không có được.
  101. Thấy mình bị mất được trả lại.
  102. Cầu xa lìa nguy hiểm liền thoát khỏi nạn.
  103. Cầu xa lìa bệnh liền được tiêu trừ.
  104. Thấy sự trừ bỏ không còn chướng ngại.
  105. Thấy sự trừ bỏ có chướng ngại.
  106. Thấy chỗ an trú được an ổn.
  107. Thấy nơi an trú không được an ổn.
  108. Đến nơi nào là được an vui.
  109. Đến nơi nào là có sự nguy hiểm.
  110. Đến nơi nào là lưới ma.
  111. Đến nơi nào khó giáo hóa.
  112. Đến nơi nào có thể giáo hóa.
  113. Đến nơi được lợi cho mình.
  114. Đi đường không bị quấy phá.
  115. Đi đường bị quấy rối.
  116. Vua, dân, xấu, ác đói khát sinh khởi.
  117. Vua dân xấu ác có nhiều bệnh dịch.
  118. Vua dân tốt đất nước phồn vinh an lành.
  119. Vua không có đạo đức đất nước bị tai nạn, hỗn loạn.
  120. Vua tu tập công đức thì diệt trừ tai họa, hỗn loạn.
  121. Vua làm ác thì đất nước sắp phá hủy.
  122. Vua làm việc thiện thì đất nước vững an toàn.
  123. Quán thấy để tránh mà thoát được nạn.
  124. Quán sát để tránh mà không thoát được nan.
  125. An trú ở đâu mọi người được an ổn.
  126. An trú ở đâu đều có chướng nạn.
  127. Nương vào chúng tụ họp không được an.
  128. Sống nơi vắng lặng không có các tai nạn.
  129. Thấy điều quái dị không có sợ hãi.
  130. Thấy việc quái dị bị tổn hại.
  131. Thấy đều quái dị tinh tấn an ổn.
  132. Thấy điều trong mộng không có tổn hại.
  133. Thấy điều trong mộng có sự tổn hại.
  134. Thấy điều trong mộng tinh tấn an ổn.
  135. Thấy điều trong mộng là (thuận lợi) tốt lành.
  136. Thấy chướng ngại hỗn loạn mau được xa lìa.
  137. Thấy chướng ngại hỗn loạn dần dần được từ bỏ.
  138. Thấy chướng ngại hỗn loạn không thể xa lìa.
  139. Thấy chướng ngại loạn động nhất tâm đoạn trừ.
  140. Thấy tai nạn mau được thoát khỏi.
  141. Thấy tai nạn lâu được thoát khỏi.
  142. Thấy khó khăn chịu khổ não.
  143. Thấy khó khăn tinh tấn thoát khỏi.
  144. Thấy tai nạn đến thân mạng sẽ chấm dứt.
  145. Thấy tai họa lớn không thể khắc phục.
  146. Thấy tai họa chẳng phải khổ não của người.
  147. Thấy những tai họa chẳng phải người.
  148. Thấy các tai họa có thể sửa chữa.
  149. Thấy các tai họa khó có thể cứu chữa.
  150. Quán thấy bị nạn thiếu tinh tấn.
  151. Quán thấy tai nạn đau khổ lâu dài.
  152. Quán thấy bị tai họa thì mình sẽ khác.
  153. Quán thấy bệnh hoạn thì đến thầy thuốc giỏi để chữa trị.
  154. Thấy bệnh hoạn thì chữa trị.
  155. Thuốc men phải có hiệu lực.
  156. Thấy bệnh hoạn được diệt trừ.
  157. Gặp vị thầy thuốc không thể chữa trị.
  158. Quán thấy bệnh ghẻ không thể chữa trị.
  159. Thuốc men không có hiệu lực.
  160. Thấy thân bị bệnh hoạn sẽ hết.
  161. Đến từ trong đường địa ngục.
  162. Đến từ trong đường súc sinh.
  163. Đến từ trong đường ngạ quỷ.
  164. Đến từ trong đường A-tu-la.
  165. Đến từ trong loài người.
  166. Đến từ trong hàng chư Thiên.
  167. Đến từ ở nhà.
  168. Đến từ trong xuất gia.
  169. Từng đến gặp Phật cúng dường.
  170. Từng đến gần gũi cúng dường hiền thánh.
  171. Đã từng đến nghe Pháp sâu xa.
  172. Xả bỏ thân này rồi vào địa ngục.
  173. Xả bỏ thân này làm súc sinh.
  174. Xả bỏ thân này làm ngạ quỷ.
  175. Xả bỏ thân này rồi làm A-tu-la.
  176. Xả bỏ thân này rồi sinh làm người.
  177. Xả bỏ thân này rồi làm vua mọi người.
  178. Xả bỏ thân này sinh làm chư Thiên.
  179. Xả bỏ thân này sinh làm vua cõi trời.
  180. Xả bỏ thân này rồi nghe được Pháp sâu xa.
  181. Xả bỏ thân này được xuất gia.
  182. Xả bỏ thân này gặp được Thánh tăng.
  183. Xả bỏ thân này sinh vào cõi trời Đâu-suất.
  184. Xả bỏ thân này sinh vào cõi Phật thanh tịnh.
  185. Xả bỏ thân này được diện kiến Phật.
  186. Xả bỏ thân này an trú vào Hạ thừa.
  187. Xả bỏ thân này rồi an trú vào Trung thừa.
  188. Xả bỏ thân này rồi được chứng quả.
  189. Xả bỏ thân này rồi an trú vào Thượng thừa.

Này thiện nam! Đây là một trăm tám mươi chín tướng sai khác của quả báo thiện ác. Pháp chiêm nghiệm này tùy theo tâm, thấy tâm sở làm chủ các niệm. Nếu số hợp với ý tương đương thì không bị sai lầm. Nếu chiêm nghiệm rơi vào số hợp, cùng quán tâm sở làm chủ các niệm mà không tương đương thì gọi là không chí tâm, gọi là hư dối. Người nào có ba lần thả xuống nhưng đều không thấy hiện ra thì người này được gọi là được vô sở đắc.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu mình phát tâm quán chiếu người khác, lãnh thọ những quả báo cũng lại như vậy. Nếu người khác không thể chiêm nghiệm cho mình mà muốn đến nhờ mình quán xét thì nên quán xét lường tánh tâm mình. Không tham luyến thế gian, trong tâm thanh tịnh; sau đó, mới có thể quay về cung kính, tu tập và cúng dường như trên. Nhất tâm phát nguyện để chiêm nghiệm, không nên tham cầu danh lợi thế gian, thực hành giống như Đạo sư để mình ngăn ngừa tán loạn. Nếu trong tâm không thanh tịnh, thì giả sử có chiêm nghiệm vẫn không tương ứng, chỉ là hư dối. Lại nữa, nếu chúng sinh ở đời vị lai tất cả đều chiêm nghiệm đều không được tốt lành, sự mong cầu không chứng đắc, những suy nghĩ lo buồn làm đau khổ, sợ hãi, thì đêm ngày phải thường siêng năng đọc tụng nhớ nghĩ danh hiệu của ta. Nếu nhất tâm được thì chiêm nghiệm tốt lành, thành tựu tất cả sự mong cầu, diệt trừ khổ não ngay hiện tại.

 

KINH CHIÊM SÁT THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ-tát Địa Tạng:

–Làm thế nào hướng dẫn cho người tìm đến Đại thừa, mau chóng đạt mục đích phương tiện?

Đại Bồ-tát Địa Tạng bảo:

–Này thiện nam! Nếu có chúng sinh hướng đến Đại thừa thì trước hết phải biết thực hành pháp căn bản. Người ấy ban đầu thực hành pháp căn bản gọi là nương tựa vào một cảnh giới thật để tu tập tin và hiểu, nhờ năng lực tin, hiểu mà tăng trưởng nên nhanh chóng thể nhập chủng tánh của Bồ-tát. Một cảnh giới thật, nghĩa là tâm tánh chúng sinh từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh không sinh, không diệt, không chướng, không ngại, giống như hư không, xa lìa phân biệt, bình đẳng khắp nơi, không nơi chốn, không sinh ra, khắp cả mười phương đều là một tướng, không hai không khác, không biến, không đổi, không tăng, không giảm, vì tất cả tâm chúng sinh, tâm Thanh văn, tâm Bích-chi-phật, tâm Bồ-tát, tâm chư Phật đều đồng không sinh, không diệt, không cấu nhiễm, tướng chân như vắng lặng. Vì sao? Vì tất cả tâm sinh khởi phân biệt giống như huyễn hóa, không có chân thật; có nghĩa là thức, thọ, tưởng, hành ý niệm nhờ vào thiền định biết được các pháp, tâm có nhiều loại mà chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng phải màu hỗn hợp, không có dài, ngắn, vuông, tròn, lớn, nhỏ, cho đến tất cả cảnh giới mười phương hư không để tìm hình tướng của tâm không có một phạm vi có thể nắm bắt; chỉ vì chúng sinh vô minh mờ ám huân tập các nhân duyên hiện ra cảnh giới vọng tưởng làm sinh khởi niệm tham chấp, nên tâm này không thể biết mình, mê mờ tự cho là có, sinh khởi nhận biết qua tưởng chấp ngã và ngã sở mà thật không có tướng về nhận biết. Do tâm vọng tưởng này hoàn toàn không có tánh, không thể thấy. Nếu không có trí tuệ phân biệt thì không có

tướng sai khác của tất cả cảnh giới ba đời mười phương, vì tất cả pháp đều không thể tự có (hình thành), chỉ dựa vào tâm vọng tưởng phân biệt mà có. Cho nên, tất cả cảnh giới đều không giống nhau tự suy nghĩ là có, biết đây là mình, biết kia là người. Vì thế các pháp không thể tự có thì không thể sai khác, chỉ do tâm vọng tưởng không biết, không rõ bên trong tự nó không có. Nghĩa có cảnh giới bên ngoài trước rồi vọng tưởng sinh ra đầy đủ tưởng về pháp như: gọi là có, là không, là đó, là đây, là đúng, là sai, là tốt, là xấu và mê vọng sinh ra vô lượng, vô biên tưởng về pháp, nên biết như vầy, tất cả các pháp đều do vọng tưởng sinh, dựa tâm vọng tưởng làm căn bản, nhưng tâm vọng này không có tự tướng, cũng nương vào cảnh giới mà có, nghĩa là do suy nghĩ; nhận biết về cảnh giới trước nên gọi là tâm.

Lại nữa, tâm vọng này cùng với cảnh giới trước, tuy nương tựa lẫn nhau sinh khởi, nhưng không có trước sau, nên tâm vọng này có thể là nguồn gốc của tất cả cảnh giới. Vì sao? Vì do tâm vọng không nhận rõ pháp giới là một tướng, nên cho tâm có vô minh, do năng lực của vô minh hiện ra cảnh giới vọng tưởng, cũng do vô minh diệt nên tất cả cảnh giới diệt, chẳng phải dựa vào tất cả cảnh giới do mình không hiểu rõ cho là cảnh giới có vô minh, cũng chẳng phải do cảnh giới sinh ở trong vô minh, vì tất cả chư Phật ở trong các cảnh giới không phát sinh vô minh.

Lại nữa, không nương vào cảnh giới diệt nên vô minh tâm diệt, vì tất cả cảnh giới từ xưa đến nay bản thể tự diệt chưa từng có. Do nghĩa này nên nói tất cả các pháp nương tâm làm gốc, phải biết các pháp đều gọi là tâm, do nghĩa bản thể không khác là đối tượng của tâm sở.

Lại nữa, tất cả các pháp từ tâm sở sinh khởi, cùng với tâm tương ưng hòa hợp mà có, cùng sinh cùng diệt, đồng không có chỗ trụ, do tất cả cảnh giới chỉ phụ thuộc vào tâm duyên với những niệm liên tục, nên được dừng nghĩ tạm thời cho là có. Như vậy đã thuyết giảng về ý nghĩa của tâm có hai loại tướng. Đó là:

  1. Tướng trong tâm.
  2. Tướng ngoài tâm.

Tướng trong tâm lại có hai loại. Đó là:

  1. Chân.
  2. Vọng.

Chân có nghĩa là bản thể của tâm cùng với như như không khác, thanh tịnh hoàn toàn, không chướng, không ngại, vi diệu khó nhận biết. Do kiến tất cả nơi, thường hằng không hủy hoại, kiến lập sinh trưởng tất cả pháp. Nghĩa vọng là sinh khởi niệm phân biệt hiểu biết duyên với những điều vọng tưởng suy nghĩ, tuy là tương tục có khả năng phát sinh tất cả cảnh giới nhưng bên trong hư dối không có chân thật, không thể nhận biết. Nghĩa tướng bên ngoài của tâm là tất cả các pháp, những cảnh giới đều tùy theo sự suy nghĩ mà cảnh giới hiện ra trước mắt, biết có trong tâm và bên ngoài tâm sai khác. Vì thế nên biết tướng vọng tưởng bên trong thì làm nhân, làm thể, tướng vọng tưởng bên ngoài làm quả, làm dụng, do những nghĩa này nên ta thuyết giảng tất cả các pháp đều gọi là tâm.

Lại nữa, nên biết tướng tâm bên ngoài đều như thấy các cảnh giới trong mộng, do suy nghĩ tâm, tạo thành nên việc bên ngoài không có thật, tất cả cảnh giới đều cũng như vậy, tất cả đều do vô minh, nhận thấy những điều vọng tưởng trong mộng. Lại nữa, nên biết bên trong tâm thường nhớ nghĩ không ngừng sự nhận biết đã duyên tất cả cảnh giới, cũng đều do tâm thường suy nghĩ không ngừng, cho nên gọi tâm sinh thì tất cả pháp sinh, tâm diệt nên hết thảy pháp diệt, mà tướng sinh diệt chỉ có danh tự thật không thể nắm bắt, vì tâm không đến với cảnh giới, cảnh giới cũng không đến ở nơi tâm, như ảnh ở trong gương không đến cũng không đi, nên tất cả pháp cầu tướng sinh, diệt, không thể nắm bắt, nghĩa là các pháp hoàn toàn không có thể tánh, xưa nay thường vắng lặng thật không sinh diệt, như thế tất cả pháp thật không sinh diệt thì không có tướng sinh diệt của các cảnh giới, thuần nhất một vị gọi là Chân như Đệ nhất nghĩa đế, tự tánh thanh tịnh của tâm, vắng lặng hoàn toàn vì không có tướng phân biệt. Không có tướng phân biệt thì ở tất cả nơi đều an trú cả, có khắp mọi nơi để có thể nương tựa phát sinh tất cả pháp.

Lại nữa, tâm đó gọi là tạng Như Lai, nghĩa là đầy đủ vô lượng, vô biên điều công đức vô lậu thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Do Pháp thân của chư Phật từ xưa đến nay không chướng, không ngại tự tại không diệt, tất cả đều thị hiện các việc công đức, thường phát triển chưa từng dừng nghỉ, nghĩa là có mặt khắp tất cả thế giới để giáo hóa thực hành, mỗi mỗi sự hóa hiện càng tăng dần, vì một thân Đức Phật tức là tất cả thân chư Phật, tất cả thân chư Phật tức là một thân Đức Phật, nên tạo các nghiệp cũng đều là một. Nghĩa là không có tướng phân biệt, không nhớ nghĩ, bình đẳng như vậy không có hai, do tánh của một pháp nên các việc làm giống nhau, tự nhiên hiện ra thể tánh không có sai khác, tùy theo sự chết đây sinh kia của chúng sinh thường chính là y báo. Ví như hư không đều có thể dung nạp tất cả loại hình tượng màu sắc, vì tất cả các loại hình tượng màu sắc đều do hư không mà có, xây dựng phát triển an trú trong hư không, vì hư không là nơi thu nhận tất cả. Do hư không là thể nên không có khả năng phát sinh cảnh giới hư không khác, phải biết trong màu sắc hình ảnh, cõi hư không, không thể hủy hoại, màu sắc hình ảnh hủy hoại thì trở về hư không, mà hư không vốn không tăng, không giảm, không động, không đổi. Pháp thân chư Phật cũng lại như vậy, đều có thể dung chứa hết thảy quả báo của chúng sinh; vì tất cả quả báo của chúng sinh đều do Pháp thân chư Phật mà có, phát sinh tăng trưởng đều trú trong Pháp thân, vì Pháp thân là nơi thâu nhận tất cả, do Pháp thân là thể, không thể phát sinh phạm vi Pháp thân thì nên biết tất cả trong thân chúng sinh và Pháp thân của chư Phật không thể hủy diệt, nếu phiền não đoạn trừ thì trở về Pháp thân mà Pháp thân căn bản là không tăng, không giảm, không động, không biến, chỉ từ vô thỉ đến nay tâm bị vô minh, năng lực huân tập nhân duyên u tối nên hiện ra cảnh giới vọng tưởng, vì do nhân duyên huân tập cảnh giới vọng tưởng phát sinh mê vọng cùng tương ứng với tâm chấp ngã và ngã sở, tạo các nghiệp chịu khổ sinh tử, Pháp thân này gọi là chúng sinh. Nếu chúng sinh huân tập Pháp thân mà có năng lực thì phiền não giảm dần, có thể nhàm chán thế gian, mong cầu đạo Niếtbàn, tin tưởng quy y chuyên tu tập sáu pháp Ba-la-mật, tất cả pháp Bồ-đề phần, gọi là Bồ-tát. Nếu Bồ-tát như vậy thực hành tất cả pháp thiện hoàn toàn, xa lìa được vô minh ngủ nghỉ, lại gọi là Phật, nên biết chư Phật, Bồ-tát, chúng sinh như vậy chỉ do thế gian giả gọi nên có sai biệt; nhưng thể của Pháp thân hoàn toàn bình đẳng không có tướng sai khác.

Này thiện nam! Đây nói tóm lược nghĩa của cảnh giới Phật. Nếu như muốn nương vào một cảnh giới thật tu tập tin hiểu thì nên thực hành hai loại quán. Đó là:

  1. Duy tâm thức quán.
  2. Chân như thật quán.

Học Duy tâm thức quán, nghĩa là tất cả thời tất cả nơi tùy theo thân, miệng, ý đã tạo tác nghiệp, đều phải quán xét biết được do tâm này, cho đến tất cả cảnh giới, nếu tâm nhớ nghĩ đều phải quán xét để biết, chớ khiến cho tâm vô ký theo duyên mà không tự biết, ở trong từng niệm đều nên quán xét tùy theo sự suy nghĩ của tâm sở lại phải làm tâm chạy theo niệm ấy khiến cho tâm biết mình, biết trong tâm mình tự phát sinh nhớ nghĩ vọng tưởng, chẳng phải tất cả cảnh giới có nhớ nghĩ tức có phân biệt. Nghĩa là trong tâm tự sinh dài, ngắn, tốt, xấu, đúng, sai, được, mất, yếu, mạnh, có, không thấy nhiều vô lượng tưởng, mà hết thảy cảnh giới chưa từng có sinh khởi tưởng phân biệt, nên biết tất cả cảnh giới tự nó không có tưởng phân biệt, tức là chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tốt, chẳng xấu, cho đến chẳng có, chẳng không, xa lìa tất cả tướng. Quán xét như vậy thì tất cả pháp chỉ do tâm vọng tưởng sinh. Nếu lìa âm thì không có một pháp, một tướng, mà tự mình thấy có sự khác biệt, thường giữ trong tâm như thế biết được do niệm vọng tưởng cảnh giới không thật, chớ để dừng nghỉ gọi là tu tập Duy tâm thức quán. Nếu tâm vô ký không biết tâm niệm của mình, tức là có cảnh giới trước, không gọi là Duy tâm thức quán. Lại giữ trong tâm thì biết được tưởng tham, tưởng sân và tưởng tà kiến mê lầm, biết rõ tâm thiện, bất thiện vô ký, suy nghĩ nhiều về các khổ. Nếu ngồi tùy theo đối tượng của tâm duyên, quán từng niệm mới biết tâm sinh diệt. Ví như nước chảy đèn đốt không có tạm dừng, từ đây chứng được Tam-muội Sắc tịnh, được Tam-muội này rồi thì tâm tu tập theo quán thiền Chỉ (Xa-ma-tha) và tu theo thiền Quán (Tỳ-bà-xá-na). Người nào tâm tu tập theo thiền Chỉ suy nghĩ về trong tâm không thể thấy tướng đầy đủ, không động, không đến, không đi, bản tánh không sinh lìa phân biệt, tâm tu tập theo thiền Quán, thì tưởng thấy sắc trong và ngoài, tùy theo tâm sinh, tùy theo tâm diệt cho đến tưởng tu tập thấy sắc thân chư Phật cũng lại như vậy, tùy tâm sinh, tùy tâm diệt, như huyễn như hóa, như trăng trong nước, như ảnh trong gương, chẳng phải tâm, không xa lìa tâm; chẳng phải đến, chẳng phải không đến; chẳng phải đi, chẳng phải không đi; chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh; chẳng phải làm, chẳng phải không làm.

Này thiện nam! Nếu có thể tu tập tâm theo hai quán này thì mau chóng đạt được đạo Nhất thừa, nên biết chỉ có quán tâm thức (nhận biết) gọi là pháp môn trí tuệ tối thượng. Nghĩa là có khả năng làm cho tâm đó mau chóng phát triển năng lực tin hiểu nhanh thể nhập vào nghĩa không, được phát tâm đại Bồ-đề vô thượng. Nếu tu học Chân như Phật quán thì suy nghĩ về tánh của tâm, không sinh, không diệt, không trụ, sự thấy, nghe, biết hoàn toàn xa lìa tưởng phân biệt dần dần có thể vượt qua những tướng cảnh giới định Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đạt được Tam-muội tương tự không; đạt được Tam-muội tương tự không thì tướng phân biệt thô của thức, thọ, tưởng, hành không xuất hiện. Tu học này là bậc Thiện tri thức đại Từ bi giữ gìn, bảo vệ nên không xa lìa các chướng ngại, siêng năng tu tập không ngừng nghỉ tuần tự có thể nhập vào Tam-muội Tâm tịch, đạt được Tam-muội này rồi, lại có khả năng nhập vào Tam-muội Nhất hành, được Tam-muội Nhất hành rồi thấy vô số chư Phật phát tâm thực hành rộng lớn, sâu xa, an trụ ở quả vị Kiên tín. Nghĩa là hai loại thiền định: thiền Quán và thiền Chỉ, tin hiểu dứt khoát, khả năng được quyết định hướng, tùy theo sự tu tập thế gian đối các thiền định Tam-muội không còn chấp trước, cho đến tu tập hết thảy căn lành pháp Bồ-đề phần, ở trong sinh tử không còn khiếp sợ không thích Nhị thừa, nhờ nương vào khả năng tu tập hướng đến hai quán tâm. Đã nương các trí tuệ phương tiện thiện xảo vi diệu thực hành các pháp căn bản.

Lại nữa, người tu học tin hiểu như trên lại có hai hạng. Đó là:

  1. Căn tánh lanh lợi.
  2. Căn tánh thấp kém.

Người lợi căn trước đã biết các thế giới bên ngoài chỉ do tâm sở tạo thành nên hư dối không thật như huyễn như mộng, quyết định không còn nghi ngờ, ấm, cái rất ít, tâm ít tán loạn, những người này phải tu học chân như thật quán. Người căn cơ thấp kém ban đầu chưa thể biết tất cả cảnh giới bên ngoài đều do tâm này hư dối không thật, tham chấp sâu dày ngăn che khởi tâm khó điều phục, ban đầu phải tu học chỉ quán về tâm thức. Nếu người tuy học tin hiểu như vậy mà căn lành còn kém chưa thể tiến đến mục đích, các phiền não ác không thể kiềm chế, tâm người ấy còn nghi ngờ khiếp sợ rơi vào ba đường ác, sinh ở nơi tám nạn, thường lo không gặp được Phật Bồ-tát, không thể cúng dường thọ trì chánh pháp, sợ hạnh Bồ-đề khó có thể thành tựu. Những người có nghi ngờ và các chướng ngại thì nên ở trong tất cả thời, tất cả chỗ thường siêng năng đọc tụng danh hiệu ta, nếu được nhất tâm căn lành mới tăng trưởng, ý lanh lợi, nên quán Pháp thân ta và Pháp thân của tất cả chư Phật cùng bản thể của mình đều bình đẳng, không hai không khác không sinh, không diệt, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh công đức viên mãn, đáng có thể quay về nương tựa.

Lại nữa, quán xét thân tâm mình đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, như huyễn như hóa, đáng để nhàm chán xa lìa. Nếu người có thể tu tập quán như vậy mau chóng tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, bị các chướng ngại dần dần dần giảm bớt. Vì sao? Vì người này học tập nghe danh hiệu của ta, cũng có thể tu học nghe danh hiệu của chư Phật mười phương, gọi là người học được tâm lễ bái cúng dường ta, cũng là người học tâm lễ bái cúng dường chư Phật mười phương. Gọi là người học nghe kinh Đại thừa sâu xa. Gọi là người học chấp trì viết chép cung kính cúng dường kinh Đại thừa thâm sâu. Gọi là người học thọ trì đọc tụng kinh Đại thừa sâu xa. Gọi là người học xa lìa tà kiến ở trong chánh pháp uyên thâm không có hủy báng. Gọi là người học tin hiểu hoàn thành Đệ nhất nghĩa đế thâm sâu. Gọi là người có khả năng diệt trừ các tội chướng. Gọi là người được vô lượng công đức tụ. Người ấy khi bỏ thân này hoàn toàn không rơi vào đường ác, ở nơi tám nạn, trở lại nghe chánh pháp tu tập thực hành, cũng tùy theo hạnh nguyện mà sinh đến cõi Phật thanh tịnh ở phương khác. Lại nữa, người ấy muốn sinh ở phương khác hiện ở cõi nước thanh tịnh thì nên phải tùy theo danh hiệu Phật của cõi ấy chuyên tâm tụng niệm nhất tâm không tán loạn như quán xét ở trên, chắc chắn được sinh vào cõi Phật đó thanh tịnh, căn lành tăng trưởng nhanh chóng chứng quả vị không lui sụt, phải biết nhất tâm buộc niệm như trên suy nghĩ về pháp thân bình đẳng của chư Phật, trong các căn lành việc làm là trên hết. Nghĩa là siêng năng tu tập dần dần có thể đạt được Tammuội nhất hướng. Nếu người đạt đến Tam-muội nhất hướng thì thành tựu được tâm hạnh vi diệu rộng lớn, gọi là đắc pháp tương tự Vô sinh pháp nhẫn, do đã nghe được danh hiệu ta, cũng đã nghe được danh hiệu chư Phật mười phương; do đã chí tâm lễ bái cúng dường ta, cũng chí tâm lễ bái cúng dường chư Phật mười phương; do đã nghe được kinh điển Đại thừa sâu xa; có khả năng viết chép cung kính cúng dường kinh điển Đại thừa uyên thâm, có thể thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa sâu rộng, đã an trú hoàn toàn trong Đệ nhất nghĩa đế sâu xa không sinh lo sợ xa lìa hủy báng, tâm được chánh kiến có khả năng hiểu biết, chắc chắn diệt trừ các tội chướng, hiện tại chứng được vô lượng công đức tụ. Vì sao? Nghĩa là tâm Bồ-đề không còn phân biệt, vắng lặng trí tuệ phát sinh các phương tiện thực hành đầy đủ hạnh nguyện. Người có khả năng nghe danh hiệu ta, có nghĩa tin chắc chắn thực hành sẽ có lợi ích, cho đến những người có được tất cả khả năng khác đều có thể chứng được nhân của quả vị nhất thừa không thoái chuyển. Nếu tâm còn tán loạn cấu uế, dù đã tụng niệm danh hiệu ta nhưng không gọi là nghe, vì không có khả năng tin hiểu dứt khoát, chỉ được phước báo lành ở thế gian, không được lợi ích sâu xa rộng lớn. Như vậy tâm tán loạn cấu uế, tuy người đã tu tập tất cả việc lành mà không thể được lợi ích rộng lớn.

Này thiện nam! Phải biết người siêng năng tu tập thiền định vô tướng như trên thì không bao lâu đạt được lợi ích sâu rộng, lần lần thành tựu được lợi ích to lớn của Đức Phật. Có nghĩa là thể nhập quả vị Kiên tín, thành tựu pháp Tín nhẫn, thể nhập quả vị Kiên tín, thành tựu pháp Thuận nhẫn rồi thì nhập vào quả vị chân chánh chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Người thành tựu Tín nhẫn thì có khả năng trở thành chủng tánh của Như Lai. Người thành tựu Thuận nhẫn có thể hiểu rõ hạnh của Như Lai. Người thành tựu Vô sinh nhẫn thì thực hành được hạnh của Như Lai, tuần tự trở thành Phật. Nói tóm lại có bốn loại. Những gì là bốn?

1. Tin tưởng pháp hoàn toàn nên thành Phật. Nghĩa là nhớ vào địa chủng tánh tin tưởng chắc chắn vào các pháp không sinh, không diệt thanh tịnh bình đẳng không thể mong cầu.

2. Hiểu rõ hoàn toàn các pháp nên thành Phật. Có nghĩa nhờ địa giải hạnh hiểu sâu xa về pháp tánh biết rõ nghiệp Như Lai không tạo, không gây ở trong sinh tử, Niết-bàn, không sinh khởi hai tưởng, tâm không còn lo sợ.

3. Chứng đắc pháp hoàn hảo nên thành Phật. Nghĩa là nhờ vào địa tịnh tâm để được trí không phân biệt pháp vắng lặng, không thể nghĩ bàn, thực hành tự nhiên không mong cầu tưởng.

4. Tất cả hạnh công đức đầy đủ nên thành Phật. Nghĩa là do an trú hoàn toàn địa Bồ-tát có thể diệt trừ hết thảy chướng ngại, vô minh, mộng ảo.

Lại nữa, nên biết người tu học thiền định ở thế gian có ba loại. Đó là:

1. Không có phương tiện năng lực tin hiểu, thích thọ nhận công đức của các thiền định mà sinh kiêu mạn, là thiền trói buộc mong cầu lại thế gian.

2. Không có năng lực phương tiện tin hiểu, do thiền này phát sinh đầy điều nhàm chán xa lìa; sợ hãi sinh tử lại rơi vào Nhị thừa.

3. Có năng lực phương tiện tin hiểu. Nghĩa là do dựa vào một cảnh giới thật, tu tập thân gần với hai loại: thiền Chỉ và thiền Quán, có thể tin hiểu tất cả pháp, chỉ do tâm sinh khởi tưởng đều như mộng như huyễn, tuy được các công đức thiền định ở thế gian mà không chắc chắn, lại không mong cầu quả ba cõi, lại hiểu rõ sinh tử tức Niết-bàn, cũng không khiếp sợ thoái lui mà cầu Nhị thừa.

Tu học tất cả pháp môn các thiền định Tam-muội thì nên biết có mười loại thứ đệ tướng môn, đầy đủ tóm thâu các pháp thiền định, có khả năng làm cho người học thành tựu thích ứng không sai lầm, không xảo trá. Những gì là mười?

  1. Giữ niệm tướng phương tiện.
  2. Muốn an trú vào tướng cảnh giới.
  3. Ban đầu an trú cảnh giới phân biệt biết rõ phát ra tướng trú nhập.
  4. An trú cảnh giới hoàn toàn đạt được tướng kiên cố.
  5. Suy nghĩ phương tiện mạnh mẽ lại cầu tướng tiến thú.
  6. Tâm dần dần được điều thuận vui vẻ, diệt trừ nghi hoặc hiểu biết tướng tự an úy.
  7. Được thăng tiến, ý chuyên nhất ít phân biệt cùng với sự hiểu biết đắc tướng lợi ích.
  8. Thay đổi sự tu tập kiên cố, trí tuệ tăng trưởng đạt được tướng thắng công đức đối trị thành tựu.
  9. Tùy theo tâm suy nghĩ phát ra những công đức bên ngoài giống như ý muốn được tướng không sai lầm, dối trá.
  10. Nếu người tu lại sửa đổi khác trước mà khởi phương tiện tuần tự thành tựu tướng xuất nhập tùy tâm siêu việt tự tại.

Đây gọi là mười loại thứ đệ tướng môn, tóm thâu các việc thiền định.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ-tát Địa Tạng:

–Hiền giả làm sao thuyết giảng pháp sâu xa khiến cho chúng sinh xa lìa khiếp nhược?

Đại Bồ-tát Địa Tạng bảo:

–Này thiện nam! Phải biết ban đầu học phát tâm cầu đến Đại thừa, chưa từng có lòng tin thì đối với pháp sâu xa của đạo vô thượng thích sinh nghi ngờ khiếp sợ. Ta thường dùng phương tiện thiện xảo tuyên thuyết nghĩa chân thật nên được an ổn xa lìa hèn yếu; vì thế gọi ta là Thiện An Úy. An Úy là thế nào? Nghĩa là chúng sinh căn cơ thấp kém, tâm hẹp hòi, nghe đạo tối thắng vô thượng vi diệu, ý tuy ưa thích phát tâm nguyện hồi hướng nhưng lại suy nghĩ cầu đạo Vô thượng cần phải tích tập công đức rộng lớn khó thực hành khổ hạnh, tự độ mình, độ người, trải qua số kiếp dài lâu ở trong sinh tử thường chịu khổ mới chứng đắc. Vì thế tâm chúng sinh hèn yếu. Ta liền vì họ thuyết giảng nghĩa chân thật, nghĩa là tất cả các pháp tự tánh vốn không, rốt ráo không ngã, không tạo tác, không thọ nhận, không mình, không người, không đi, không đến, không có nơi chốn, cũng không có quá khứ, hiện tại, vị lai và vì họ thuyết giảng về mười tám không, không có sinh tử Niết-bàn, tất cả các pháp tướng chân thật nhưng không thể nắm bắt.

Lại nữa, vì họ thuyết tất cả các pháp như huyễn, như hóa, như trăng trong nước, như ảnh trong gương, như thành Càn-thát-bà, như hư không dung chứa các tiếng vang, như ánh sáng mặt trời, như bọt nước, như sóng nắng, như đèn, như mắt bị nhặm, như mộng, như tia sấm, như mây, phiền não sinh tử tánh rất vi tế, có thể diệt.

Lại nữa, phiền não sinh tử hoàn toàn không có thể tánh mong cầu không thể được, xưa nay không sinh, hiện tại không diệt, tự tánh vắng lặng tức là Niết-bàn, thuyết giảng như vậy có thể diệt trừ tất cả các kiến, bớt tự ngã và tâm chấp trước vào tưởng, nên xa lìa hèn yếu. Lại có chúng sinh không hiểu nghĩa lý lời nói của Như Lai mà sinh lo sợ, người nên biết ý chỉ, lời nói của Như Lai. Có nghĩa Như Lai thấy một cảnh giới thật, hoàn toàn đã xa lìa sinh, già, bệnh, chết, các pháp xấu, chứng được Pháp thân ấy luôn luôn trong sáng không biến đổi được vô lượng tụ công đức. Lại có thể thấy rõ tất cả trong thân chúng sinh đều có công đức thanh tịnh vi diệu chân thật như vậy, nhưng vì vô minh mê mờ đã che kín làm chướng ngại, mãi chịu vô lượng các khổ sinh già, bệnh, chết, nên Như Lai đã khởi tâm Từ bi rộng lớn này muốn làm cho hết thảy chúng sinh lìa các khổ, đều được Pháp thân an lạc Đệ nhất nghĩa, mà Pháp thân này là không còn phân biệt, xa lìa các suy nghĩ, chỉ diệt trừ hư dối vọng vọng tưởng, không khởi niệm tham chấp quả vị chứng. Nhưng tất cả chúng sinh thường thích phân biệt chấp giữ các pháp, vì điên đảo vọng tưởng nên chịu sinh tử. Cho nên Như Lai vì muốn làm cho họ xa lìa tưởng phân biệt chấp trước, thuyết giảng tất cả pháp thế gian, thể hoàn toàn trống rỗng, không hiện có, cho đến tất cả pháp xuất thế gian, thể cùng hoàn toàn trống rỗng không hiện có. Nếu giảng thuyết rộng rãi là như mười tám không. Như vậy trình bày tất cả pháp đều không lìa thể Bồ-đề. Thể Bồ-đề là chẳng có, chẳng không, chẳng phải không có, chẳng phải không không, chẳng có chẳng đủ, chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải không một, chẳng phải không khác, chẳng phải một khác với tất cả, cho đến rốt ráo không có một tướng mà có thể nắm bắt, thì do lìa tất cả tướng. Lìa tất cả tướng có nghĩa là không thể dựa vào lời nói chấp giữ. Do trong pháp Bồ-đề không có thu nhận lời nói và không thể nói thuyết giảng; lại không thể dựa vào tâm niệm để biết, vì trong pháp Bồ-đề không có thể nhận giữ, không mình, không người xa lìa tướng phân biệt. Nếu người có tưởng phân biệt thì gọi là hư dối, không gọi là tương ứng. Thuyết giảng như vậy chúng sinh căn cơ thấp kém không thể hiểu rõ là Pháp thân Như Lai đạo Vô thượng, chỉ là pháp trống rỗng hoàn toàn rốt ráo không có sở hữu. Tâm người ấy hèn yếu, lo sợ đọa lạc không có chỗ trú, hoặc sinh tưởng đoạn diệt làm giảm bớt kiến chấp lại phát sinh hủy báng xem nhẹ người khác. Ta liền vì họ thuyết giảng tự tánh Pháp thân của Như Lai chẳng phải không mà có bản thể chân thật, đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh, từ xưa đến nay tự nhiên viên mãn, chẳng tu tập, chẳng tạo tác, cho đến trong thân của tất cả chúng sinh cũng đều đầy đủ, không biến, không khác, không sinh, không diệt. Họ nghe thuyết như vậy trừ bỏ hèn yếu. Đây gọi là An Úy.

Lại nữa, chúng sinh mê mờ chấp giữ nặng nghe thuyết pháp này cũng sinh hèn yếu. Vì cho Pháp thân của Như Lai từ xưa đến nay đầy đủ chẳng phải tu, chẳng phải tướng nên khởi không có tướng thật mà sinh hèn yếu, hoặc suy tánh tự nhiên rơi vào tà kiến điên đảo, ta liền thuyết giảng thực hành tất cả pháp thiện được tăng trưởng đầy đủ sắc thân của Như Lai vô lượng quả báo công đức thanh tịnh, nghe thuyết giảng khiến họ xa lìa hèn yếu. Đây gọi là An Úy.

Ta đã thuyết nghĩa sâu xa, chân thật thích hợp không có lỗi lầm, để xa lìa lời nói sai lầm. Làm thế nào biết rõ để xa lìa tưởng sai lầm? Nghĩa là Pháp thân của Như Lai, dù không có diễn tả về cảnh giới lìa suy nghĩ của tâm chẳng phải không, chẳng phải chẳng không và không có tất cả tướng không thể dùng lời nói để trình bày, mà căn cứ vào nhân duyên huyễn hóa của Thế đế, giả gọi pháp trong tương đối, đối đãi, tức có thể dùng phương tiện hiển bày để giảng thuyết. Vì Pháp thân này tánh chân thật không có phân biệt, xa lìa tướng mình và tướng người, không phải không, không phải không không, cho đến xa lìa tất cả tướng nên nói thể của pháp đó hoàn toàn không, không có sở hữu, do lìa tâm suy nghĩ phân biệt nên tất cả không có một tướng mà có thể tự thấy tự biết là có. Vì thế nghĩa không này, nhất định chân thật thích hợp không sai lầm.

Lại nữa, trong nghĩa không đó, do xa lìa tâm niệm vọng tưởng phân biệt nên hoàn toàn không có một tướng nên có thể trống rỗng, vì chỉ có chân thật tức là không phải không, có nghĩà lìa bỏ nhận biết của tưởng, không có các tưởng hư dối, tất cả thường không biến không khác. Do không có một tướng có thể hủy hoại có thể diệt, xa lìa tăng giảm. Người đó không còn phân biệt cái thể chân thật, từ xưa đến nay đầy đủ vô lượng việc công đức tự nhiên, thành tựu thích ứng không xa lìa, không giải thoát, nên thuyết là không phải không, thể chân thật các công đức như vậy thì tất cả chúng sinh đều có nhưng vì vô minh che lấp mà không thấy biết, không thể được công đức lợi ích, lại cho khác nhau, gọi là chưa có. Do không thấy biết thể của pháp ấy nên những việc làm công đức lợi ích, chẳng phải chúng sinh đó có thể thọ dụng, không cho là thuộc của họ. Chỉ dựa vào việc tu tập hết thảy pháp lành, đối trị các nhận thấy sai lầm làm chướng ngại Pháp thân ấy. Sau đó được công đức lợi ích, vì thế nói tu tập tất cả pháp lành sinh được sắc thân của Như Lai.

Này thiện nam! Như nghĩa lý sâu xa ta đã thuyết giảng nhất định chân thật xa lìa những sai trái lỗi lầm, phải biết như vậy.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng thuyết giảng những pháp môn chính yếu thâm sâu, phương tiện thù thắng này thì có mười vạn ức chúng sinh phát tâm Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác, an trú trong quả vị Kiên tín. Lại có chín vạn tám ngàn Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Tất cả đại chúng đều đem hương hoa của trời cúng dường Đức Phật và cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng.

Lúc ấy, Đức Phật bảo các đại chúng:

–Các ông đều phải biết thọ trì pháp môn này, tùy theo nơi an trú lưu truyền rộng rãi. Vì sao? Vì pháp môn này rất là khó được, có nhiều lợi ích. Nếu người nào nghe được danh hiệu Đại Bồ-tát Địa Tạng này và tin tưởng những pháp Bồ-tát đã giảng thuyết thì nên biết người ấy mau chóng diệt trừ tất cả các điều chướng ngại, mau chứng đạo vô thượng.

Cả đại chúng cùng nhau thưa:

–Chúng con sẽ thọ trì lưu truyền pháp này ở thế gian không giám làm quên mất.

Lúc ấy, Đại Bồ-tát Kiên Tịnh Tín thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy sáu căn tụ ở trong kinh gọi pháp môn gì? Pháp chân thật chính yếu này con sẽ thọ trì khiến cho đến đời vị lai, tất cả đều được nghe.

Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Kiên Tịnh Tín:

–Pháp môn này gọi là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo; cũng gọi là Diệt Trừ Các Chướng Ngại; Tăng Trưởng Lòng Tin Thanh Tịnh; cũng gọi là Khai Thị Giáo Hóa Tìm Đến Đại Thừa; Tiến Đến Mục Đích Phương Tiện; Hiển Bày Nghĩa Sâu Xa Rốt Ráo Chân Thật; cũng gọi là Thiện An Úy làm xa lìa hèn yếu mau chóng thể nhập pháp môn Kiên tín quyết định. Nương vào nghĩa này, ông nên thọ trì. Phật giảng thuyết pháp môn này rồi, tất cả đại chúng vui vẻ, tin tưởng thọ trì.