SỐ 384
KINH BỒ TÁT TÙNG ĐÂU THUẬT THIÊN GIÁNG THẦN MẪU THAI THUYẾT QUẢNG PHỔ
(KINH BỒ TÁT XỬ THAI)
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người đất Lương Châu
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN VI

Phẩm 20: VÔ MINH

Bấy giờ, trong đại hội có Bồ-tát tên Trí Thanh Tịnh, phân biệt rõ về không, về không sinh già bệnh chết, về người dâm nộ si nhiều, người dâm nộ si ít, phân biệt rõ ràng chúng sinh có ba bậc khác nhau, trong hạng người đó có những bệnh nặng gì, bị bệnh nặng đó là tà kiến.

Bồ-tát Trí Thanh Tịnh từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

–Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác không việc gì là không nhận biết, không điều gì là không thấy, quá khứ hiện tại vị lai, từ loài người đến côn trùng, tâm nghĩ pháp gì, miệng nói lời gì, thân làm thiện ác, giới cấm sâu xa, oai nghi giới luật, biết nhiều biết ít, biết nặng biết nhẹ. Những gì con hỏi chẳng phải không, chẳng phải bất không; chẳng phải hữu, chẳng phải bất hữu; chẳng phải hữu không, chẳng phải hữu hữu. Chúng sinh thuộc ba tụ, ai là nhẹ, ai là nặng, ai là hiện báo, ai là sinh báo, ai là hậu báo. Thế nào là tưởng tri diệt, thế nào là Niết-bàn, thế nào là vô dư?

Phật bảo Bồ-tát Trí Thanh Tịnh:

–Lành thay! Lành thay! Ta rất vui mừng khi ông hỏi nghĩa này. Vì thương xót tất cả, được nhiều lợi ích mới ở trước Phật hỏi pháp bình đẳng. Ông hãy về lại chỗ ngồi, Ta sẽ giảng nói cho ông về cú nghĩa loại đầu, giữa, cuối. Nếu nghiệp ác thì thọ quả báo ác, nghiệp thiện thì thọ quả báo thiện. Ta sẽ phân biệt rõ ràng để ông biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Như người trồng cây trái
Hạt đắng, quả cũng đắng
Bị tội mắc báo ác
Chịu khổ vô số kiếp.
Giống ngọt, được quả ngọt
Trở lại thọ báo ngọt
Hương thơm rất ngon ngọt
Được hưởng báo thanh bạch.
Như người ở ao nước
Trong ngoài đều thanh tịnh
Không gió, không bụi dơ
Thơm đẹp được mát mẻ.
Có chúng sinh nào thấy
Ưa thích không thể xa
Phật đạo hạnh thanh tịnh
Giống như kia không khác.
Những chúng sinh báo ác
Đọa ba đường ác nạn
Theo dòng nước lên xuống
Nổi trôi chỗ ách khốn.
Khi ấy phiền não khổ
Tự chịu không ai thay
Chẻ xương thấu tủy não
Thiêu đốt không thể lường.
Đã đến ngục Vô cứu
Ý ngộ cầu giải thoát
Bị vô minh che lấp
Không thấy ánh sáng tuệ.
Như người đi lạc đường
Về Nam cho là Bắc
Suốt ngày tâm không ngộ
Tuy nghe cũng không tin.
Chịu tội khổ não nặng
Đau đớn càng tăng thêm
Lâu sau tội suy hết
Bị người đời khinh ghét.
Thân thể hôi, xấu xí
Như heo nằm vũng phân
Lần lượt vào vạc sôi
Chết rồi sống trở lại.
Vốn do ngu si tạo
Thọ báo như bóng hình
Thiện ác đều tương ứng
Phân loại theo chúng sinh.
Vô đạo, không bè nhóm
Hành cũng có cao thấp
Giữ giới sinh lên trời
Không thí, phước rất ít.
Ăn cơm sợ người thấy
Xấu hổ không lộ diện
Tuy có chúng Thiên nữ
Âm nhạc không hòa nhã.
Luôn luôn đi dạo chơi
Sợ gặp thiên thần đẹp
Nếu giới, thí đầy đủ
Cam lồ, y, thực đến.
Kỹ nhạc vây xung quanh
Như trăng sáng trong sao
Luôn luôn đi dạo chơi
Tùy tùng tự trang nghiêm.
Nhạc trời tự nhiên trỗi
Đây do ở nhân gian
Đủ trì giới, bố thí
Phước báo như hình bóng.
Chư Thiên tuy hưởng phước
Cũng có kiếp số nạn
Khi gần sắp qua đời
Mới biết pháp suy tàn.
Niệm thiện chuyển rất ít
Còn phải chịu làm thân
Luân hồi trong năm đường
Trải qua vô số kiếp.
Thiện ác chịu quả báo
Không riêng giàu hay hèn
Trong ấy bậc vượt lên
Như Ta, Thích Ca Văn.

Khi Đức Phật nói kệ này rồi, trong đại chúng có chư Thiên và người gồm bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha đều phát tâm cầu đạt đạo Chánh chân vô thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Trí Thanh Tịnh

–Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ dùng quyền phương tiện sinh trong nhà bần tiện, muốn được thị hiện trừ kiết sử vô minh, ở trong thai mười tháng, khi mới sinh hiện không có tay chân, cha mẹ thấy vậy cho là quỷ nên đem quăng nơi đồng hoang, không muốn cho ai thấy. Vì sao? Vì Bồ-tát quyền hóa, muốn cho cha mẹ cùng quyến thuộc ngu si thấy được ánh sáng của đạo. Sau đó vài tháng, người mẹ lại mang thai, đủ mười tháng sinh một cậu bé đoan nghiêm tuấn tú, hiếm có trên đời, nhưng vừa mới sinh vào ban ngày thì đến tối chết. Cha mẹ kêu khóc đấm ngực, ngước lên trời kêu: “Thần núi, thần cây sao không thương tôi? Trước đây sinh một đứa con nhưng không có tay chân, đành phải quăng vào đồng hoang. Nay sinh một đứa con đẹp đẽ, tướng mạo không ai bằng, giống như thiên thần, nhưng mới sinh vào ban ngày thì đến tối chết. Ruột gan tôi đứt đoạn, phải làm sao bây giờ?”.

Qua vài tháng, người mẹ lại mang thai, đủ mười tháng sinh một bé trai, nhưng có ba đầu, tám chân, bốn mắt, tám tay, ai thấy cũng rợn tóc gáy. Cha mẹ quyến thuộc muốn bỏ mà đi, Bồ-tát quyền hiện cho họ không đi được. Cha mẹ hỏi: “Con là trời, là rồng, quỷ thần, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người hay là phi nhân?”.

Bấy giờ, cậu bé nói với cha mẹ bằng kệ:

Chẳng trời, quỷ, Dạ-xoa
Tu-luân, Ca-lâu-la
Vì trừ ngu cha mẹ
Quyền sinh nhà mẹ cha.
Con trước không tay chân
Cũng chính là thân con
Sáng sinh, chiều lại chết
Bậc bát trụ vô thượng.
Nay con thọ thân hình
Ba đầu, tám tay chân
Sao lại bỏ con đi?
Để đến cửa địa ngục.
Khổ địa ngục đầy đủ
Mười tám vạc dầu sôi
Mỗi vạc dầu sôi ấy
Có mười sáu vạc nhỏ.
Chịu khổ vô lượng kiếp
Muốn ra khỏi rất khó
Cha mẹ người ngu si
Không biết pháp chân tánh.
Tà kiến thờ cúng thần
Cho là thoát khổ nạn
Như ngọn lửa hừng hực
Lại thêm củi, cỏ khô.
Thiêu đốt gốc căn lành
Muốn diệt cũng chưa khó
Nay con làm thân lại
Hiện thân đẹp đẽ xưa.
Đạo vững tâm kiên cố
Tu tập ba thông tuệ
Từ a-tăng-kỳ kiếp
Thề độ người chưa độ.
Giữ giới, nguyện không quên
Thác sinh nhà cha mẹ
Trước sau bỏ thân mạng
Số ấy như vi trần.
Trải qua bao nhiêu chỗ
Đều nhờ phước giúp đỡ
Bao nhiêu loài quần sinh
Dấu chân đi khác nhau.
Sẽ hoan hỷ độ họ
Cũng độ bằng khủng bố
Tùy theo niệm chúng sinh
Để họ được toại nguyện.
Bệnh chúng sinh chẳng một
Cho uống thuốc cam lồ
Cho đi vào đường chánh
Không để vào đường tà.
Chư Thiên hưởng phước lạc
Cam lồ trừ bệnh: vui
Không trái Thánh giáo: vui
Giải thoát Niết-bàn: vui.

Khi Bồ-tát nói kệ này, cha mẹ dòng họ và những người trong hội đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

 

Phẩm 21: KHỔ HẠNH

Bấy giờ, Như Lai quan sát các chúng hội Bồ-tát, trời, rồng, quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân, bậc hữu học, vô học và bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, biết tâm niệm của các chúng sinh là muốn thưa thỉnh Như Lai giảng nói sự thành tựu rốt ráo về vô lượng khổ hạnh, làm thế nào để phát tâm được thành Phật đạo. Biết tâm niệm của họ, Đức Phật liền nói cho họ về hạnh khổ cực xưa kia.

Phật dạy các Bồ-tát:

–Hãy lắng nghe pháp tướng chân thật của Ta nói, không phải do thế tục mà đắc đạo, cũng không lìa thế tục mà đắc đạo; không phải theo chân đạo, cũng không lìa chân đạo. Vì sao? Vì trong cái đen có cái đẹp của trắng, vì trong tục có cái đẹp của đạo. Khổ vui cùng có. Vì sao? Vì xưa kia Ta học đạo rất trực tín, không nghi ngờ, được làm vua mặt trời, mặt trăng. Cung điện mặt trời ngang dọc năm mươi mốt dotuần. Cung điện mặt trăng ngang dọc bốn mươi chín do-tuần. Mặt trời phóng ra ánh sáng một ức một ngàn ánh sáng. Mặt trăng tỏa ra một ức ánh sáng. Ta là Thiên tử của mặt trời, mặt trăng nên cho rằng thường trụ, không hư, không hoại, từng đi qua hằng hà sa ức vạn cõi, làm Thiên tử mặt trời, làm Thiên tử mặt trăng, đến khi mạng hết mới biết chẳng phải thật, chẳng phải chân.

Sau đó thọ mạng giảm dần, làm đại thần mặt trời, mặt trăng tên là Hà-già-la, cung điện ngang dọc hai mươi lăm do-tuần, kế làm Tỳ-lêha-ba-đề, cung điện ngang dọc hai mươi do-tuần.

Lại làm Ương-già-la, cung điện ngang dọc mười chín do-tuần.

Lại làm Hê-mỗ, cung điện ngang dọc mười chín do-tuần.

Lại làm Hàm-mi, cung điện mười lăm do-tuần.

Năm đại thần này đứng hai bên mặt trời, mặt trăng. Qua vô số trăm ngàn kiếp làm năm vì sao này đoạn tận rồi bị đọa lạc, cũng không chân thật, rồi thọ mạng của họ giảm dần.

Ta từng làm sao Mão cùng với bạn sáu người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Tất với bằng nhóm năm người, độ bốn mươi lăm.

Ta từng làm sao Tuy, bè bạn ba mươi người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Sâm, đơn độc một mình, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Tỉnh, bè nhóm hai mươi người, độ bốn mươi lăm.

Ta từng làm sao Quỷ, bè nhóm ba mươi người, độ bốn mươi.

Ta từng làm sao Liễu, bè nhóm bốn mươi người, độ mười lăm.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phía Đông.

Ta từng làm sao Tinh, bè nhóm năm người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Trương, bạn bè hai mươi người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Dực, bạn bè hai mươi người, độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Chẩn, bạn bè năm người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Giác, đơn độc một mình, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Cang, cũng đơn độc một mình, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Để, bạn bè hai mươi người, độ ba mươi lăm.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Nam.

Ta từng làm sao Không, bạn bè bốn người độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Tâm, bạn bè ba người, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Vĩ, bạn bè ba người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Ky, bạn bè bốn người, độ ba mươi.

Ta từng làm sao Đấu, bạn bè ba người, độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Ngưu, bạn bè ba người, độ mười sáu.

Ta từng làm sao Nữ, bạn bè ba người độ ba mươi.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Tây.

Ta từng làm sao Hư, bạn bè bốn người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Ách, đơn độc một mình, độ mười lăm.

Ta từng làm sao Thất, bạn bè hai người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Bích, bạn bè hai người độ ba mươi lăm.

Ta từng làm sao Khuê, bạn bè hai người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Lâu, bạn bè hai người độ ba mươi.

Ta từng làm sao Vị, bạn bè ba người độ ba mươi.

Bồ-tát nên biết, bảy vì sao này đứng ở phương Bắc.

Từ vô số kiếp Ta làm vua mặt trời, mặt trăng, hoặc làm quan thần qua lại xoay tròn, hình hài khô bại, không phải đạo chân thật. Sau đó đến nhân gian làm vua Chuyển luân Thánh vương, vua nhỏ đủ miền, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ cầu đạo thanh tịnh cho là chân thật. Nhưng tất cả đều là việc làm trống không, không hợp với đạo chân thật.

Xưa kia, có một thời, Ta vào núi cầu đạo, thấy các tiên học gồm năm người đều nhóm họp ở một chỗ:

–Có người co một chân, chấp tay đứng, chuyển thân nhìn theo mặt trời.

Hoặc có người thờ mặt trăng, chấp tay đứng, chuyển thân nhìn theo mặt trăng.

Có người nằm trên gai góc, hoặc nằm trên cát đá.

Có người giữ giới học theo gà, bò, ngựa, nai.

Có người từ trên đỉnh núi gieo mình xuống vực sâu.

Có người ôm đá, tự trầm mình xuống sông sâu.

Có người dùng năm thứ lửa tự đốt thân để cầu được sinh lên trời.

Có người xẻ từng bộ phận của thân để tìm chỗ ở của thần.

Có người mổ đỉnh đầu để lấy tủy não đốt đem cúng dường chư Thiên.

Có niệm quăng mình vào dầu sôi nước nóng.

Có người ở bên phải của dòng sông giết vô lượng chúng sinh.

Có người ở bên trái dòng sông đốt hương để cho những chúng sinh qua đời đó được sinh lên cõi trời.

Có người tự suy nghĩ: “Nay ta độ cha mẹ trước”, nên đem cha mẹ quăng trong lửa, rồi xướng lên: sẽ sinh lên cõi Phạm thiên.

Có người ăn phân bò, có người ăn hạt cỏ.

Có người bảy ngày ăn một lần, hoặc có khi không ăn, hình hài khô gầy.

Có người bện lá cây để làm y phục.

Có người nối xương để làm y phục.

Có người lấy đầu lâu để làm đồ đựng thức ăn.

Có người nằm trên gai, kim nhọn, rồi chích vào tim để giữ tâm trụ.

Có người nhóm họp lại một chỗ, cùng nhau mổ bụng để rửa ruột trừ đi sự dơ bẩn, nói rằng để sinh lên cõi Phạm thiên.

Những sự khổ hạnh xưa kia của Ta không thể lường được, học đạo sáu năm bên gốc cây Thọ vương, mỗi ngày ăn một hạt mè, hạt gạo, chim chóc làm ổ sinh con trên đỉnh đầu của Ta. Loài rắn, trăn quấn lấy thân Ta. Người thợ săn quăng ném gạch đá, có lúc chặt chẻ phá hoại thân thể, có lúc dùng gậy đâm vào bụng cho đến rốn chịu trăm ngàn vạn khổ như vậy mà không cho là khổ. Vì sao? Vì bấy giờ Ta cho là đạo chân thật, nhưng thật ra chẳng phải là đạo chân thật.

Ở trên hư không có vị trời chấp tay thưa Bồ-tát: “Sức chịu đựng rất to lớn, có thể phá nát các kiết sử, xin Bồ-tát hãy nghĩ đến thành Phật, cẩn thận đừng thoái lui”.

Hằng hà sa chư Phật quá khứ không giống như Bồ-tát tuyệt thực để cầu đạo. Điều này làm cho thiên thần cảm động mới sai những cô gái dâng bát sữa. Uống xong, khí lực bình phục, tư duy bảy ngày chiến thắng quân ma. Phạm thiên xuống thỉnh: “Xin hãy thành Phật để xiển dương đại pháp, để nói đạo chân thật, đừng vào Niết-bàn”.

Niết-bàn là không sinh, già, bệnh, chết. Xưa kia Ta đã từng tu khổ hạnh như vậy.

Bấy giờ, trong chúng hội ca ngợi là điều chưa từng có và tất cả đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

 

Phẩm 22: TỨ ĐẠO HÒA HỢP

Lúc ấy, trong chúng hội có Bồ-tát tên Biến Quang, trí tuệ thông đạt, trụ vào quả vị Bất thoái chuyển, tâm thệ nguyện rộng lớn không thể nào lường tính, được chư Phật khen ngợi chẳng phải một, chẳng phải hai, có công đức vô lượng với hằng hà sa Phật, chứa nhóm hạnh vô úy, thường dạo khắp vô lượng cõi Phật, cùng học với tám vị:

  1. Bồ-tát Bất Tà Kiến.
  2. Bồ-tát Trực Ý.
  3. Bồ-tát Chúng Tướng.
  4. Bồ-tát Khuất Thân.
  5. Bồ-tát Giải Thoát.
  6. Bồ-tát Giải Phược.
  7. Bồ-tát Ấn Khả.
  8. Bồ-tát Thệ Nguyện.

Từ vô số kiếp trụ vào địa Tận, đắc Bất thoái chuyển.

Bấy giờ, Bồ-tát Biến Quang thưa Phật:

–Làm thế nào Đại Bồ-tát nhập vào bốn loại đạo mà không có trước sau, thành tựu đạo Vô Thượng Đẳng Chánh Giác? Bồ-tát ngày đêm tư duy thấy dục như lửa, tưởng tri niệm đều tận những hành pháp điên đảo; thấy lợi pháp đầu tiên được quả A-na-hàm, thì ngay ở cung trời ấy thủ đạo minh chứng. Như vậy không bao lâu, có lúc Bồ-tát ở quả vị trên quan sát xuống cõi Dục giống như đống bọt nước, đoạn trừ ba kiết sử, xa lìa ba ác đối với hữu, vô hữu. Hoặc có Bồ-tát đắc căn, đắc lực, lập chí tự tại, phá hữu diệt vô, không còn bốn đẳng tâm, kia đây đều bình đẳng không có tưởng ngã, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng có Đẳng chánh giác. Vậy những vị ấy đối với đạo vô thượng có gì sai khác?

Đức Phật dạy:

–Lành thay! Những câu hỏi này Ta sẽ phân biệt rõ ràng đầy đủ cho ông.

Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên Bồ-tát?

Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên? Sự xúc chạm của vòng xuyến nơi hai tay gọi là nhân duyên của nhân duyên.

Người kia dạy ta tiếp thu nhờ nơi âm thanh, tiếng nói giáo hóa, gọi là Thanh văn, không có thầy, không có trí, không nhờ kia đây, nên gọi là Phật Duyên giác.

Lại nữa, đối với đạo này, đạo kia, Đại Bồ-tát học hỏi quyết nghi với nhau, được chứng hay không chứng đều trôi theo năm đường. Đó gọi là giác, cũng không thấy giác, cũng không thấy không giác, không một, không hai, đó là không hai nhập.

Đại Bồ-tát với bản hạnh tu tập hiểu rõ Duyên giác, với hữu dư, vô dư kiết sử đều đoạn hẳn, đó là không hai nhập.

Tất cả các loại chúng sinh hiểu rõ đều là vô thường. Thân chẳng phải của ta, trong ngoài đều là trống không. Đó là không hai nhập.

Ân đức của Phật lan rộng khắp nơi không bờ bến, lấy khổ tập đạo để đạt đến vô vi, đó là không hai nhập.

Bốn đẳng tâm đại bi che trùm hết tất cả, chúng sinh ngu si được đến với đạo chân thật, đó là không hai nhập. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thanh văn, Phật-bích-chi
Là tên mượn để gọi
Như người đại chiến thắng
Thắng giặc là trên hết.
Không ai sánh bằng Phật
Một mình vào ba cõi
Điều tâm chiến thắng ma
Sức nhẫn đến Niết-bàn.
Luân chuyển khổ sinh tử
Mạng như lửa đá mài
Trải qua ức trăm ngàn
Không biết khi nào thoát.
Phật vốn không danh hiệu
Vì do người tôn trọng
La-hán, Phật-bích-chi
Chỉ một không có hai.
Như Phật Định Quang kia
Thọ ký Ta vô thượng
Sau chín mươi mốt kiếp
Ở trong Hiền kiếp này.
Bậc tối thắng thứ tư
Hiệu là Thích Ca Văn
Đời vạc sôi năm trược
Không hiếu thuận cha mẹ.
Sát hại A-la-hán
Không vâng lời Phật dạy
Những nơi Ta từng ở
Chẳng một, chẳng hai đường.
Trong sáu đường phiền não
Trải qua vô số kiếp
Đầu, giữa, cuối không ngủ
Kinh hành tu đức hạnh.
Kỉnh tâm tự giác ngộ
Lìa chấp trước ba hữu
Hạnh nguyện xưa của Phật
Không xả, thủ diệt độ.
Một thân, một thần thức
Giống mình không có khác
Cực khổ trong số kiếp
Tinh thần bị suy sụp.
Vì họ, không vì mình
Nên được thành Phật đạo
Ta là Nhất thiết trí
Dạy cho người chưa dạy.
Tuệ thông không chấp trước
Một tiếng dứt nghi ngờ
Ba đời Tu-đà-hoàn
Đạt đến đạo vô vi.
Huống chi người đệ nhất
Theo Phật không còn nghi
Các đệ tử của Ta
Hữu học và vô học.
Bốn đẳng cứu vớt khổ
Không khởi, không sinh diệt
Vốn do tư tưởng sinh
Lại do tư tưởng diệt.
Phi ngã tư tưởng sinh
Phi ngã tư tưởng diệt
Hành vốn do có căn
Trôi nổi chẳng một mối.
Căn đoạn dứt tư tưởng
Không còn niệm căn bản.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, có mười hai na-do-tha chúng sinh đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

 

Phẩm 23: Ý

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Căn Liên Hoa, tuệ thí vô ngại, thực hành bốn tâm bình đẳng kiên cố khó lay động, đi đứng nằm ngồi không mất oai nghi, lễ độ. Từ vô số kiếp đến nay, vị ấy luôn tu hành phạm hạnh, thiền định không tán loạn, phân biệt rõ ràng về thiện ác, quan sát chúng sinh có tâm dâm nộ si hay không có tâm dâm nộ si, dù nhiều hay ít gì cũng đều biết rõ, dạo qua các cõi Phật, cúng dường phụng thờ chư Phật Thế Tôn, khéo dùng phương tiện thị hiện vô thường, vô ngã, vô thân, vô thọ mạng, vô nhân; đi biết đi, đứng biết đứng và có lòng từ bi thương xót hết thảy mọi loài.

Khi ấy, Bồ-tát Căn Liên Hoa từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Ý của bốn đạo ở chỗ nào?

Ý hữu vi hay ý vô vi?

Ý là quả hay ý là phi quả?

Ý là hữu đối hay vô đối?

Ý có thể thấy hay không thể thấy?

Ý là quá khứ, hiện tại, vị lai hay chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai?

Ý là pháp của tiên nhân hay chẳng phải pháp của tiên nhân?

Ý là pháp hữu vi hay là pháp vô vi?

Ý là pháp hữu lậu hay là pháp vô lậu?

Đối với quả báo ba pháp thì ý ở đâu?

Ý ở trong đen hay quả báo đen?

Ý ở trong trắng hay quả báo trắng?

Ý ở trong không đen không trắng, hay trong quả báo không đen không trắng?

Ý ở hành pháp thô hay hành pháp tế?

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Căn Liên Hoa:

–Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Căn Liên Hoa! Nghĩa mà ông hỏi là thương xót tất cả, khai hóa pháp tâm ý thức cho chúng sinh, thị hiện ánh sáng cho người mù tối. Nay ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Tối thắng không ai bằng
Thanh tịnh không vết dơ
Mặt đẹp như hoa sen
Không bị bụi làm dơ.
Sống ở đời hữu vi
Bị khổ nạn ba cõi
Ta không, kia cũng không
Ý tịch không tâm thức.
Như nước trong đồ đựng
Tùy theo tướng của vật
Quá khứ vốn chẳng có
Hiện tại hành thiện ác.
Vị lai pháp sẽ hoại
Ý này vốn chẳng phải
Bồ-tát hành đại bi
Cũng hiện đối – vô đối.
Rửa trừ bệnh cấu uế
An ổn đạo cứu cánh
Người bị năm cái che
Khiến tâm bị chướng ngại.
Như trời chiếu thiên hạ
Thường bị năm việc che
Khói bụi trần tu luân
Bít lấp pháp căn môn.
Ý vốn không thiện ác
Theo hành động đã tạo
Tịch diệt, không, vô pháp
Như nhánh nhiều trái, gãy.
Ví như cây chuối ấy
Lột mãi không có lõi
Thân người do bốn đại
Tìm ý không ý căn.
Ý ở trong ba đời
Ba đời không có ý
Phân biệt thức tâm pháp
Tìm cầu không thật có.
Ý pháp không hình tướng
Không thể nói ý ấy
Tâm nghĩ rất nhiều điều
Sinh diệt không dứt đoạn.
Quá khứ nghĩ thiện ác
Vị lai sẽ thọ báo
Hiện tại hành đã đủ
Ý tạo chẳng phải ai.
Một niệm chín mươi ức
Nghiệp có thiện có ác
Chỉ một niệm tạo ra
Diệt trừ không thể hết.
Huống chi ngày tháng kiếp
Nghiệp thiện ác đã tạo
Người trí sẽ hộ thân
Kiên cố không lay động.
Như kẻ phạm tội kia
Bưng bát dầu đầy tràn
Nếu rớt một giọt dầu
Càng thêm bị tội lớn.
Hai bên trỗi âm nhạc
Sợ chết không dám nhìn
Bồ-tát tu quán tịnh
Giữ ý như kim cang.
Chê khen và não loạn
Tâm ý không lay động
Hiểu không xưa nay tịnh
Không kia, đây, chặng giữa.
Pháp chân như bốn đế
Hướng đến cửa Niết-bàn
Những việc xưa ta tạo
Kết nối gốc thân căn.
Chẳng tính thầy, đệ tử
Có thể tính đếm được
Vô số ức ngàn kiếp
Đem thân đền nợ tội.
Thân voi, ngựa, sáu súc
Không được sinh làm người
Dù được làm thân người
Bị điếc, đui, câm, ngọng.
Phật hiện chiếu thế gian
Biên địa không thấy Phật
Khổ năm vạc nước sôi
Thuần ác không nghe thiện.
Điên đảo theo pháp tà
Trong chân tánh đạo suy
Ta từ vô số kiếp
Giữ hạnh như bát dầu.
Yêu thân tự giữ gìn
Đưa đến chỗ vô úy
Chín mươi sáu loại đạo
Như đom đóm trong đêm.
Phật nhật chiếu thế gian
Trừ bỏ các tối tăm
Có Phật người đời vui
Có thuốc người bệnh vui.
Có báu người nghèo vui
Thành Phật Niết-bàn vui
Khổ hạnh nhẫn nhục vui
Ta không chấp sắc vui.
Tham lam bố thí vui
Giữ giới không phạm vui
Được nghe Phật dạy vui
Tư duy thiền định vui.
Hữu – vô bình đẳng vui
Khó gặp được gặp vui
Địa ngục tám nạn khổ
Vô cứu đệ nhất khổ.
Hạt giống mục nát khổ
Gieo mạ không lên khổ
Sinh thiên rồi đọa khổ
Chánh kiến đảo điên khổ.
Rồng Nan-đà-bạt khổ
Quấn núi Tu-di khổ
Kiếp thiêu lửa cháy khổ
Trạo hối cầu Phật khổ.
Nhất hạnh hướng nhất đạo
Nhất tâm không thoái lui
Một thân tu đức hạnh
Cuối cùng thành nhất thật.
Tu nhất, không lìa nhất
Đoan nghiêm nhất biết nhất
Giữ nhất, không lìa nhất
Nên nói đi một mình.

 

Phẩm 24: ĐỊNH Ý

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Trì Không, đầy đủ tướng tốt, nhập vào bốn pháp môn, biện tài bậc nhất, tu trì cõi Phật, mỗi cõi Phật đều lưu thân lại để giáo hóa, thị hiện sinh diệt tùy theo căn cơ cao thấp của con người, âm thanh nói năng có khi ngọt có khi đắng, nói rõ ràng về quá khứ, hiện tại, vị lai, trước mặt người hỏi thì một khi trả lời bằng vạn ý, ý nghĩa thâm thúy khó có thể lường được.

Bấy giờ, Bồ-tát Trì Không từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, thưa Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để độ chúng sinh khổ đau?

Phật bảo Bồ-tát Trì Không:

–Bồ-tát làm thế nào để chúng sinh nghe tiếng khổ, hạnh khổ thì khổ đoạn, khổ diệt, không còn thấy nguồn gốc của khổ nữa. Con đường đưa đến khổ là do ân ái sinh ra, những sợi dây ân ái trói buộc tâm người. Lấy hai mươi pháp hạnh làm thuốc trị liệu, không còn theo gốc khổ, chất chứa hành nghiệp nhiều kiếp, diệt rồi sinh trở lại. Chúng sinh tà kiến cho là đạo chân thật, chuyển nhập định ý Tam-muội thanh tịnh. Thanh tịnh không vết dơ, không kia không đây. Tâm thức khai ngộ, dần dần được định ý. Lành thay sự lợi ích của Ta, an ổn diệu lạc không gì bằng. Tâm ý thức bị trói buộc lần lần mở ra, gọi đó là đạo chân thật, còn đây chẳng phải đạo chân thật. Vì sao? Vì pháp hư ngụy lừa dối chẳng phải bản hạnh của Phật. Những gì xưa kia chư Phật hành là chân thật. Ngoài Ta ra, không có pháp chân thật nào hơn những pháp mà Phật đã hành, đó là bốn bất tư nghì. Bốn bất tư nghì là gì?

Bồ-tát giữ ý có thể làm cho ba ngàn đại thiên thế giới nơi cõi Phật đều bằng bảy báu, rồi làm trở lại như cũ. Đó là bất tư nghì thứ nhất.

Như Ta ngày nay ở trong bào thai mẹ dẫn dắt cho vô lượng atăng-kỳ chúng sinh, người chưa độ được độ, người chưa đến được đến, trừ bỏ đi những cấu bẩn để đạt đến vô cấu. Đó là bất tư nghì thứ hai.

Xưa kia Ta thệ nguyện cốt yếu là độ người đau khổ để đến nơi không còn khổ. Một người khổ, chưa độ được thì Ta không bao giờ vào Niết-bàn. Đó là bất tư nghì thứ ba.

Thân Phật vô lượng, Đông, Tây, Nam, Bắc có thể dung chứa hết. Một mình không có bạn bè, tự tánh pháp không, quán chúng sinh rồi tự quán tánh của mình, đây đẹp kia xấu, đây tịnh kia bất tịnh, đây là địa thủy hỏa phong, đây là của ta kia chẳng phải là của ta, đây khổ kia không khổ, đây vui kia không vui, đây thường kia vô thường, đây là đời này kia là đời sau, làm phước được phước, tạo tội chịu tội. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thân như tro, đất, phân
Do bốn đại tạo thành
Không phong, thủy trang nghiêm
Thì địa thủy ly tán.
Hỏa diệt trong chốc lát
Thí thức không chỗ trụ
Tội nhiều chứa gốc khổ
Đây do thức tạo nên.
Nay Ta biết bản thức
Bỏ ngươi, ngươi không thật
Vải năm màu rực rỡ
Làm hư hoại tâm người.
Như người thở ra vào
Hành pháp không dừng lâu
Hiểu biết vô thường, khổ
Không đây, kia, chặng giữa.
Một tiếng ứng vạn ức
Hiển bày giáo đệ nhất
Thân vô thường, khổ, không
Hiểu rõ các pháp tướng.
Trở về trụ sáu tịnh
Hiểu không, vô tướng, vô nguyện
Thân chẳng phải của ta
Như Phật dạy chúng sinh.
Thân còn tâm thức lìa
Nếu Phật không như vậy
Làm sao phân thân dạy
Báo tội phước theo trước.
Nguyện đều được thỏa mãn
Nay thọ, sau không thọ
Hiện tại cũng như vậy
Tội giết hại cha mẹ.
Cũng hiện, cũng không hiện
Giống như việc đánh cầu
Thần thức bị ô nhiễm
Hoặc nghịch hoặc hối hận.
Một lòng hướng Niết-bàn
Bậc đại sư vô vi
Xả thân bỏ tục lụy
Pháp vốn không nhân duyên.
Quả báo như hình bóng
Như có cũng không có
Tà kiến nói chân thật
Bị lưới si quấn trói.
Từ đen vào lại đen
Không phân biệt pháp trắng
Giới nhẫn có năm hạnh
Không sợ, không bị sợ.
Định lực chấn đại thiên
Thắng ma như điều binh
Người cầu đạo vô thượng
Có người thoái, người tiến.
Như sông chảy về biển
Đến nhiều, đạt thì ít
Gặp được duyên đại bi
Thiện quyền vượt bờ kia.
Phật là Nhất thiết trí
Không nhiễm, không chấp trước
Ta vốn hành nghiệp khổ
Bỏ nước, thành, vợ con.
Quên cha mẹ, sư trưởng
Không tiếc thân mạng mình
Như người giữa đồng hoang
Khao khát cần nước uống.
Gặp sông, suối, ao, giếng
Lấy uống không còn khát
Người thọ thân bốn đại
Có định không định xứ.
Huống thức không thiện ác
Thức thọ báo rõ ràng
Nhà bảy báu trì giới
Có trăm vạn Thiên nữ.
Nhạc trỗi để vui chơi
Không bao giờ sầu ưu
Lực Phật Nhất thiết trí
Thấm nhuần khắp mọi người.
Trước đạt năm thần thông
Nhuần gội pháp cam lồ
Xưng dương bốn cú nghĩa
Không trước, sau, chính giữa.
Pháp này nối pháp khác
Thông pháp tánh trong ngoài
Những gì Ta đã tạo Bị ác sử trói buộc.
Luân hồi trong năm đường
Mà cho là nhà cửa
Cảnh trời như lửa xẹt
Tìm kiếm không có thật.
Rùa mù tìm bọng cây
Có lúc còn được gặp
Một khi ta mất mạng
Ức kiếp khó lại được.
Biển rộng lớn sâu thẩm
Ba trăm ba mươi sáu
Nếu quăng kim vào biển
Tìm kiếm còn khi được.
Một khi ta mất thân
Khó được hơn đó nữa
Người giữ luật, trì giới
Ở đời khó gặp được.
Trong ức ngàn vạn kiếp
Phật như hoa Ưu-đàm
Những chúng sinh hữu duyên
Được Phật giáo hóa đạo.
Đoạn trừ các kiết sử
Vĩnh viễn không bị vướng.

Khi Đức Phật nói kệ này xong, có hai mươi na-do-tha chúng sinh lập tín căn kiên cố, không còn nghi ngờ và đều phát tâm cầu đạt đạo Chánh chân vô thượng.

 

Phẩm 25: QUANG ẢNH

Khi ấy, ở trong thai, Đức Thế Tôn giảng rộng về pháp Đại thừa không thể nghĩ bàn. Vì sắp diệt độ nên Thế Tôn thị hiện đức bóng ánh sáng, làm cho chúng hội đều cùng một màu, giống như màu vàng ròng của Phật không khác. Chư Thiên, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tula, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân cùng bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có người hướng đến quả, có người đã đắc quả cũng đều một màu. Ai nấy đều muốn nghe Đức Như Lai giảng nói về bóng ánh sáng nên định ý gây dựng công đức, giải thoát vô ngại, có bốn biện tài, ứng đối mau lẹ, tưởng tri đều diệt tận, phủi sạch gánh nặng cho mọi người, đi đứng nằm ngồi không mất oai nghi. Theo pháp chư Phật thường giảng nói về khổ, tập, diệt, đạo, dìu dắt chúng sinh vào bốn ý chỉ, thành tựu đoạn ý, giác lực, sư tử vô úy, tám con đường của bậc Thánh, không, vô tướng, vô nguyện.

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên Hiền Quang, từ tòa ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay thưa Phật:

–Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn phóng ra ánh sáng này chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ánh sáng được hóa này, có giống như Phật hóa không? Công đức của thần lực Phật chẳng phải một, chẳng phải hai, ánh sáng này tiếp xúc không thể cùng tận. Hai đức hạnh ấy có khác nhau không? Cúi xin Thế Tôn giải thích những mối nghi ngờ để cho người chưa tin dứt hẳn hồ nghi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Hiền Quang:

–Những điều ông hỏi đều là do thần lực của Như Lai. Vì sao? Vì ánh sáng thần diệu của Như Lai hiện bày là để cứu độ chúng sinh nên không bị chướng ngại. Từ cõi Diêm-phù-đề lên đến trời Quả Thật, ánh sáng chiếu xa, giảng nói sáu độ vô cực: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Đúng như thần lực của Phật độ thoát chúng sinh, không còn kia, không còn đây. Vô số a-tăng-kỳ chúng sinh được cứu độ đều là nhờ ánh sáng mát dịu của Đức Phật che chở. Khi ấy, ánh sáng tự nhiên vang tiếng nói kệ:

Quá khứ vô số Phật
Đều phóng ánh sáng này
Mỗi mỗi vầng ánh sáng
Nói sáu độ vô cực.
Giới, nhẫn, môn giải thoát
Thích pháp để tự vui
Trước nói ba không định
Kế tiếp thành tựu đạo.
Những người bị ba độc
Không trói, không bị trói
Bốn mươi tám kiết sử
Không cứu, không được cứu.
Chẳng thật người hành đạo
Những nơi đã trải qua
Sống an vui ba chỗ
Dấu chân thần rất quý.
Đi qua rất cao thượng
Đạt đến bờ vô vi
Lập hạnh không thoái chuyển
Vô úy sức oai thần.
Được thần quang tiếp độ
Hơn trăm ức vạn lần
Như mỗi ánh sáng kia
Phân làm số bụi trần.
Một bụi là các cõi
Vô số không thể lường
Sức Phật không cùng tận
Chẳng có cũng chẳng không.
Ánh sáng giảng nói pháp
Độ thoát a-tăng-kỳ
Pháp thân tự nhiên không
Trong ngoài hạnh thanh tịnh.
Tám vạn tư phiền não
Định tâm không tán loạn
Xưa Ta chín mươi hai
Kiếp số khó thể lường.
Ngồi thẳng dưới gốc cây
Hành đạo không thoái lui
Trời, người, tu luân, quỷ
Năn nỉ hỏi nghĩa Ta.
Ánh sáng lại tiếp độ
Độ thoát vô ương số
Quá khứ Phật Thức-khí
Phóng ánh sáng dạy sau.
Ai vào ánh sáng ấy
Tiêu diệt khổ ba độc
Tiếp Phật Duy-vệ-tôn
Thần đức không thể lường.
Cũng lại phóng ánh sáng
Cứu vớt người khổ não
Câu-na-hàm-mâu-ni
Đấng ra khỏi ba cõi.
Hiện ở núi tiên nhân
Ánh sáng luôn rực rỡ
Câu-lưu: trời trong trời
Không vướng, không bị nhiễm.
Tịch diệt nhập Niết-bàn
Phóng quang sau giáo hóa
Ca-diếp Bản Vô Tôn
Độ người không thể lường.
Cũng lấy đức ánh sáng
Độ người chưa được độ
Ta, Thích Ca Mâu Ni
Nói pháp ở trong thai.
Thân đây, ánh sáng kia
Biến khắp các cõi Phật
Đối với người tiểu tiết
Không thể nào lường nổi.
Chỉ Phật lường được Phật
Công đức không khác nhau
Chư Phật ở vị lai
Đều hiện phóng ánh sáng
Hiện để độ chúng sinh
Ánh sáng trước pháp sau.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, có bảy trăm bảy mươi ức chúng sinh nghe Phật giảng nói về thần đức quang minh này, ngay tại chỗ ngồi đều phát tâm cầu đạt đạo Bình đẳng vô thượng.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7