KINH BỒ TÁT ANH LẠC BỔN NGHIỆP
Hán dịch: Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương Châu đời Diêu Tần
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: ĐẠI CHÚNG VÂN TẬP

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa trở lại nước của vua Bình Sa (Tần Bà Sa La), đến ngồi ở Bồ đề đạo tràng nơi Ngài đã tu hành thành tựu bậc Chánh giác.

Lúc mới thành đạo, ánh sáng của Phật chiếu soi rực rỡ, nay lại phóng ra bốn mươi hai vầng ánh sáng. Mỗi vầng ánh sáng đều có tia sáng công đức trong một trăm vạn A tăng kỳ kiếp làm thành chuỗi ngọc, trang nghiêm thân tướng của Phật đầy khắp pháp giới, trong sáng lắng đọng chiếu suốt như hư không, giác tánh thường trụ, bản thể nhiệm mầu ứng hóa cùng khắp, diệu dụng vĩ đại không gì ngăn trở, là vua là chúa trong tất cả pháp, là cha mẹ của tất cả chúng sanh. Đức Phật tự nhiên ngồi trên tòa hoa sen sư tử báu có trăm ngàn cánh. Chỗ ngồi của chư Phật trước kia cũng như vậy, đạo đức, oai nghi, tướng tốt đều giống nhau, thân, khẩu, ý thanh tịnh, phước hạnh đầy đủ. Ánh sáng của Ngài chiếu tận đến tạng báu kim cang, hiện ra vô cùng vô cực chiếu soi các cõi nước; quá khứ, hiện tại, vị lai không bị chướng ngại, giáo hóa tất cả, vượt khỏi pháp và ngã, bình đẳng cả ba đời, trí giác tròn sáng, đạt đến sự bình đẳng với tất cả chư Phật.

Bấy giờ, đại chúng Bồ-tát đều là bậc Nhất sanh bổ xứ, thần thông vi diệu, biến hóa khắp mười phương, pháp thân vô cực, hướng dẫn làm lợi ích cho chúng sanh, khai mở tạng pháp Phật, hiển bày diệu quả Phật tánh, Niết Bàn vô vi, chư vị đều thể nhập vào chân như, hiểu rõ những căn bản bên trong, ngoài, trước, sau, vô cùng vô cực, bình đẳng với cõi Phật không còn phân biệt. Dùng miệng đại bi tán thán danh hiệu Đức Phật không thể tính kể. Các sự việc trong sáu đường đều thấu suốt tất cả. Những nơi đến giáo hóa, chư vị đều khen: Phật nhớ đến chúng ta, xây dựng chí nguyện rộng lớn cho ta nên Ngài thị hiện thân ở các thế giới chư Phật. Đối với cõi nước hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc rất trang nghiêm nơi Phật du hóa hay dừng ở, Ngài đều xiển dương, giáo hóa muôn loài. Phật dùng ánh sáng thần thông hóa độ, khai mở tâm ý cho chúng ta để hiểu rõ bổn nghiệp Anh lạc trang nghiêm của chư Phật, đó là: Mười trụ, Mười hạnh, Mười hồi hướng, Mười địa, địa Vô cấu và địa Diệu giác. Đức Phật vì ta nói pháp căn bản để đoạn trừ những lỗi lầm và nghi ngờ. Đức Phật cũng vì ta hiện ra cõi Phật, thân Phật, thần thông sức mạnh, trí tuệ của Phật, vô lượng biến hóa, Bốn tâm vô lượng, Bốn vô sở úy, ba nghiệp không lỗi lầm, mười tám pháp Bất cộng và tất cả công đức của đạo Vô thượng. Đức Phật chỉ dạy, mở bày các việc cho chúng ta, thể nhập các quốc độ khắp mười phương.

Như về phương Đông, cách xa vô cực, có cõi Hương Lâm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu là Nhập Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Kính Thủ.

Về phương Nam, cách xa vô cực, có cõi Nhạc Lâm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Bất Xả Lạc, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Giác Thủ.

Về phương Tây, cách xa vô cực, có cõi Hoa Lâm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Tập Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Bảo Thủ.

Về phương Bắc, cách xa vô cực, có cõi Đạo Lâm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Hạnh Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Tuệ Thủ.

Về phương Đông Bắc, cách xa vô cực, có cõi Thanh Liên, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Bi Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Đức Thủ.

Về phương Đông Nam, cách xa vô cực, có cõi Kim Lâm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Tận Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Mục Thủ.

Về phương Tây Nam, cách xa vô cực, có cõi Bảo Lâm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Thượng Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Danh Thủ.

Về phương Tây Bắc, cách xa vô cực, có cõi Kim Cương, Đức Phật cõi ấy hiệu Nhất Thừa Độ, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Pháp Thủ.

Về phương dưới, cách xa vô cực, có cõi Thủy Tinh, Đức Phật cõi ấy hiệu Đại Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Trí Thủ.

Về phương trên, cách xa vô cực, có cõi Dục Lâm, Đức Phật cõi ấy hiệu Chí Tinh Tấn, Bồ-tát đứng đầu hiệu là Hiền Thủ.

Như vậy, tất cả các quốc độ đều có ánh sáng nơi Pháp thân Phật chiếu đến. Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi các đại Bồtát thượng thủ ở khắp mười phương. Mỗi vị Bồ-tát đều cùng vô số bậc thượng nhân đi đến đại hội, đảnh lễ ngang chân Phật rồi ngồi vào tòa hoa sen báu ngàn cánh. Khi ấy, Bồ-tát Kính Thủ là vị đứng đầu trong đại chúng, nhờ thần lực của Phật khen:

Sự tập hợp của Thánh chúng và Ngài quán xét nơi an trú, thanh tịnh cõi Phật cho đến pháp phục, uy đức của Phật, sự tu hành vi diệu và đức độ của Như Lai, sự tu tập hoàn hảo về bốn mươi hai nhân địa của bậc Hiền Thánh, sự giảng thuyết kinh pháp chứng đắc thần thông, tùy cõi trong sạch hay nhiễm ô mà cứu độ hết thảy, phân thân giáo hóa khắp nơi.

Lúc đó, cõi Phật nơi phương khác cũng nói về kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp không hai, không khác, khai mở đạo pháp cũng như sự giảng thuyết của Đức Phật Thích Ca. Khi ấy, Bồ-tát Kính Thủ liền nhập chánh định “Chư Phật thần lực đại sư tử hống” liền thưa hỏi pháp môn “Vô lượng đại bảo tạng hải kim cang anh lạc” của tất cả chư Phật và Bồtát.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới đến nơi cội cây Bồ đề quán xét nhân duyên, căn cơ của chúng sanh khắp mười phương pháp giới, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Phật, từ bốn Thiên vương, sáu cõi trời thuộc Dục giới, mười tám cõi của Phạm thiên trở lên, cho đến bốn cõi Vô sắc, tất cả đều cùng đến một lúc trong pháp hội. Có vô lượng cõi nước, cứ mỗi cõi nước phạm vi gồm có một núi Tu Di, một mặt trời, mặt trăng xoay quanh, chiếu soi bốn cõi thiên hạ. Về phương Đông là Phất Vu Đãi. Phương Nam là Diêm Phù Đề. Phương Tây là Cù Đà Ni. Phương Bắc là Uất Đơn Việt. Biển cả rộng lớn vây quanh cõi nước, ở trên có hai mươi tám cõi trời, như vậy gọi là một tiểu thế giới, bao quanh mười phương gồm một tỷ cõi nước. Lúc ấy, ánh sáng của Phật đều hiện trong đó. Cõi Dục gồm: Trời Tứ Thiên Vương, trời Đao Lợi, trời Tu Diệm Ma, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại. Các trời nơi cõi Sắc gồm: Trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Đại Phạm, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Phước Sanh, trời

Phước Ái, trời Quảng Quả, trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh. Bốn cõi Vô sắc gồm: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Các cõi trời thuộc về Sắc giới đều có hồ nước rộng lớn, hoa sen mọc lên, cho nên gọi là nước trời, còn những chúng sanh ở cõi Vô sắc đều do hóa sanh, phía dưới cõi Dục thì có năm luân. Phạm vi một cõi Phật bao gồm như vậy, gọi là Đại nhẫn. Đức Phật Thích Ca phân ra trăm ức hóa thân, hiện khắp trong đó. Vì chúng sanh trong thế giới nầy, nên Ngài nói về công hạnh của chư vị Bồ-tát tu hành Bổn Nghiệp Anh Lạc.

Khi đó, đại chúng, hàng trời, người nhìn cõi Phật và Bồ-tát, thấy như gần nhau, các vị đều vân tập đến tòa kim cang nơi chúng hội ở đạo tràng.

Phẩm 2: TÊN GỌI CỦA CÁC BẬC HIỀN THÁNH

Bấy giờ, Bồ-tát Kính Thủ từ phương khác đến, do thần lực của Phật, thấy đại chúng đều là những bậc long tượng sư tử và hàng chư Thiên nơi hai mươi tám cõi trời đều là những vị có căn hạnh lớn, tiếp nhận thần lực của đức Như Lai nên Bồ-tát thưa hỏi Đức Phật:

– Kính bạch Đức Thế Tôn! Xưa kia Ngài tu hạnh gì mà thành Phật đạo? Thân, miệng, ý đều được thanh tịnh, vững chắc như kim cang không có lỗi lầm với chúng sanh, thể tánh bên trong sáng suốt, soi khắp, thường trụ chẳng diệt, đứng đầu các Bồ-tát, phát ra sắc tướng đoan nghiêm không gì bằng, pháp thân, hóa thân vô vi thanh tịnh, tự nhiên đầy đủ độ thoát vô lượng chúng sanh. Đức Phật hiện thân trong sáu đường thường được Đế Thích và Phạm vương cung kính, như ngọn đuốc sáng trừ diệt tối tăm, như vầng nhật nguyệt soi sáng trời đất, như người thuyền trưởng đưa người qua biển, vượt khỏi ba cõi thành bậc Diệu Giác tối tôn.

Muốn thành đạo nầy cần phải tu hạnh gì? Những quả vị Hiền thánh tên gọi là gì?

Khi ấy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng miệng kim cang bảo Bồtát Kính Thủ:

– Này Phật tử! Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, như pháp mà tu hành.

Trước đây, trên các cõi trời và ở nhân gian, Ta đã khai mở vô lượng hạnh nguyện của tất cả ngôi vị Bồ-tát. Đây là pháp mà tất cả chư Phật suốt trong ba đời đều sẽ nói. Ấy là kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp.

Kinh nầy là pháp liễu nghĩa quyết định, là chỗ tu hành của chư Phật. Hôm nay, Ta sẽ vì căn cơ của đại chúng mười bốn ức người mà khai mở kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp, ngươi hãy khéo ghi nhớ, dùng chí nguyện cao xa, lòng từ bi rộng lớn giáo hóa chúng sanh khắp mười phương.

Này Phật tử! Nếu muốn thành tựu được đạo nầy trước hết làm sạch ba nghiệp, tu tập giáo pháp Ba ngôi báu, tin theo nhân quả. Nhưng điều ông hỏi là làm thế nào để thể nhập vào tất cả pháp Phật, làm vị Bồ-tát và chẳng bao lâu trở thành vị Phật. Vậy, ông phải học kỹ bốn mươi hai danh tự Hiền Thánh và hiểu rõ nghĩa chắc chắn của pháp môn mà Ta nói. Chư Phật ở mười phương ba đời đều cùng nói như nhau.

– Này Phật tử! Danh hiệu Hiền thánh được gọi như vầy:

Mười trụ gồm: Trụ Phát tâm, trụ Trị địa, trụ Tu hành, trụ Sanh quý, trụ Phương tiện cụ túc, trụ Chánh tâm, trụ Bất thối, trụ Đồng chân, trụ Pháp vương tử, trụ Quán đảnh.

Mười hạnh gồm: Hạnh Hoan hỷ, hạnh Nhiêu ích, hạnh Vô sân hận, hạnh Vô tận, hạnh Lìa si loạn, hạnh Thiện hiện, hạnh Vô trước, hạnh Tôn trọng, hạnh Thiện pháp, hạnh Chân thật.

Mười hồi hướng: Hồi hướng Cứu hộ nhất thiết chúng sanh, Hồi hướng Bất hoại, Hồi hướng Đẳng nhất thiết Phật, Hồi hướng Chí nhất thiết xứ, Hồi hướng Vô tận công đức tạng, Hồi hướng Tùy thuận bình đẳng thiện căn, Hồi hướng Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh, hồi hướng Chân như tướng, hồi hướng Vô phược giải thoát, hồi hướng Pháp giới vô lượng.

Mười địa gồm: Địa Nghịch lưu Hoan hỷ, địa Đạo lưu Ly cấu, địa Lưu chiếu Minh, địa Quán kinh Diệm tuệ, địa Độ chướng Nan thắng, địa Bạc lưu Hiện tiền, địa Quá tam hữu Viễn hành, địa Hóa sanh Bất động, địa Tuệ quang Diệu thiện, địa Minh hạnh túc Pháp vân.

Địa Vô tướng Vô cấu (địa Đẳng giác) và địa Diệu giác Vô thượng.

Này Phật tử! Những danh hiệu và pháp môn Hiền Thánh trên đã thu giữ tất cả hạnh công đức. Chư Phật và Bồ-tát đều trải qua những danh hiệu pháp môn nầy. Tất cả thần thông, tất cả nhân quả, tất cả cảnh giới cũng đều thâu tóm vào những danh hiệu pháp môn ấy. Danh từ hạnh môn đó, chư Phật nơi mười phương đều nói về đạo quả như nhau không thêm không bớt, lời nói chắc chắn như tiếng gầm sư tử. Các ông nên dùng thệ nguyện của mình mà thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết ý vị, nghĩa lý, nguyện cho chúng sanh thể nhập vào pháp Phật, thành Phật như Ta không khác. Các ông hãy nên tu học như thế.

Đức Phật bảo Bồ-tát Kính Thủ:

– Này Phật tử! Hôm nay, Ta nói tóm lược về Trụ phát tâm thứ nhất, một trong mười trụ của bậc Hiền. Khi Bồ-tát chưa lên bậc Trụ tứ nhất có mười danh tự để gọi mười tâm. Bồ-tát thường thực hành mười tâm nầy. Đó là: Tâm Tín, tâm Niệm, tâm Tinh tấn, tâm Tuệ, tâm Định, tâm Bất thối, tâm Hồi hướng, tâm Hộ pháp, tâm Giới, tâm Nguyện. Này Phật tử! Tu mười tâm nầy trải qua một, hai, ba kiếp cho đến khi nhập vào quả vị trụ thứ nhất. Ở trụ thứ nhất tu thêm trăm pháp minh môn, tức là tu mười tâm tín, mỗi một tâm tín lại có mười tâm. Do tu tập trăm pháp minh môn nên phát vô lượng nguyện lớn tu tập hữu hạnh và vô hạnh.

Tu hành như vậy được nhập vào Tập Chủng Tánh, thực hành rộng khắp các hạnh nguyện.

Bậc hiền sơ trụ
Phát nguyện rộng lớn
Nay sanh đến Phật
Vào tất cả nguyện.
Ở trong nguyện, ta
Thành tựu tất cả
Chứng được quả Phật
Do nguyện làm gốc.
Nay ta hành thí
Nguyện cho chúng sanh
Bỏ tâm tham dục
Nhập vào đạo không.
Thường quán pháp giới
Nguyện cho chúng sanh
Giữ tâm tu hành
Chứng đắc giải thoát.
Thường tu sáu nhẫn
Nguyện cho chúng sanh
Được tâm không tranh
Sống trong nhẫn lặng.
Lực tinh tấn lớn
Nguyện cho chúng sanh
Thường hành không nghỉ
Vào quả tự giác.
Tâm trú thiền định
Nguyện cho chúng sanh
Đầy đủ thần thông
Vô vi tự tại.
Tu trí đúng pháp
Nguyện cho chúng sanh
Vào biển trí tuệ
Nối ngôi Bồ-tát.
Hành nguyện vô tướng
Nguyện cho chúng sanh
Đủ tất cả nguyện
Nhập vào biển Phật.
Phương tiện đại trí
Nguyện cho chúng sanh
Sông pháp vô ngại
Đến bờ nhị đế.
Sức thần thông lớn
Nguyện cho chúng sanh
Biến hóa do mình
Đạt vô sở úy.
Biên vực trí đủ
Nguyện cho chúng sanh
Thành trí kim cang
Đạo tràng chứng quả.
Vào Địa Vô cấu
Nguyện cho chúng sanh
Ngồi gốc Bồ đề
Giáo hóa tất cả.
Ta đã giác ngộ
Nguyện cho chúng sanh
Hiểu tương tục giả
Trừ tâm chấp đoạn.
Soi pháp giáo hóa
Nguyện cho chúng sanh
Hiểu pháp duyên thành
Bỏ tâm chấp thường.
Thể Ta được đầy
Nguyện cho chúng sanh
Hiểu pháp đối đãi
Diệt tâm chấp ngã.
Đại bi không duyên
Nguyện cho chúng sanh
Rõ nhờ nhân sanh
Bỏ tâm trộm kiến.
Niết Bàn đệ nhất
Nguyện cho chúng sanh
Hiểu pháp do duyên
Diệt tâm trộm giới.
Chứng đắc mười lực
Nguyện cho chúng sanh
Thông tỏ hai đế
Đoạn tâm tà kiến.
Dùng lực kim cang
Nguyện cho chúng sanh
Rõ mười hai duyên
Diệt tâm si kiến.
Chiếu sáng cùng khắp
Nguyện cho chúng sanh
Biết pháp vô thường
Trừ tâm tham, xan.
Năm nhãn, ba minh
Nguyện cho chúng sanh
Tu đạt ba minh
Diệt tâm si mê.
Hòa hợp không ngại
Nguyện cho chúng sanh
Tiếp nối Tam bảo
Bỏ tâm tranh cãi.
Chứng trí tuệ lớn
Nguyện cho chúng sanh
Vào tất cả không
Diệt kho vô minh.
Ba mươi hai tướng
Nguyện cho chúng sanh
Các tướng tốt đẹp
Diệt y báo xấu.
Được dụng ứng thân
Nguyện cho chúng sanh
Nương thuyền pháp lớn
Vào biển pháp Phật.
Ta nhân quả nguyện
Đều đã đầy đủ
Tất cả hạnh nguyện
Thâu tóm trong đó.
Hai mươi bốn nguyện
Tóm vô lượng hành
Mới phát Tín, Nguyện
Trọn gốc tuệ lớn.
Nay nơi chư Phật
Trước thọ nguyện lớn
Nguyện nay đã đủ
Tiến tu hạnh khác.
Công đức trong đó
Tu trăm ngàn kiếp
Nguyện Ta mới bỏ
Vào vô lượng cõi.
Tất cả Bồ-tát
Nếu vào nguyện nầy
Thể nhập hoàn toàn
Biển Nhất thiết trí.

Này Phật tử! Bồ-tát trụ ở bậc đó, đã phát nguyện lớn rồi là người vượt qua tất cả phàm phu thành mười tín. Nay lại tu tập vô lượng công đức, đó là mười Ba la mật, ba môn giải thoát: Không, vô tướng, Vô tác; hữu, vô đều không, thành tựu được quán không, trừ được bốn tướng: Ngã, nhân, chủ, chúng sanh, lần lần dứt bỏ các nhận thức sai lầm, được Thường, lạc, ngã, tịnh, phá diệt vô minh, trói buộc trong ba cõi, đoạn trừ tất cả tập khí của nghiệp, tích chứa sâu dày tất cả pháp lành, thành tựu tám vạn bốn ngàn trí tuệ Ba-la-mật. Những hạnh môn đều gồm thâu vào tâm mình, niệm niệm không rời tự tâm.

Này Phật tử! Có mười giới trọng (khi đã vi phạm) không thể sám hối, nên thọ nhận và giữ gìn.

Một, không được giết mạng sống loài người cho đến chư Thiên nơi hai mươi tám cõi trời, chư Phật và Bồ-tát.

Hai, không được trộm cắp cho đến trộm lấy cộng cỏ, lá cây.

Ba, không được dâm dục cho đến dâm dục với hàng phi nhân.

Bốn, không được nói dối cho đến nói dối đối với hàng phi nhân.

Năm, không được nói tội lỗi của Bồ-tát xuất gia hay tại gia.

Sáu, không được bán rượu.

Bảy, không được tự khen ngợi mình, chê bai người khác.

Tám, không được keo kiệt, bỏn sẻn.

Chín, không được sân giận cho đến sân giận đối với hàng phi nhân.

Mười, không được hủy báng Tam bảo.

Nếu phạm giới nầy là phạm Ba la di (khí tội) không thể sám hối, phải bị đọa trong mười kiếp, một ngày chịu tội chết đi sống lại tám vạn bốn ngàn lần, do đó không nên phá giới. Này Phật tử! Nếu mất trụ phát tâm thứ nhất thì nhị trụ, tam trụ cho đến mười địa tất cả đều bị mất. Vì thế giới pháp là hạnh căn bản của tất cả chư Phật và Bồ-tát. Nếu hết thảy chư Phật, Bồ-tát không do pháp môn mười giới nầy mà chứng được quả vị Hiền Thánh, thì đó là điều không thể có. Tướng trụ thứ nhất nầy là hạng đầu tiên trong Tập chủng tánh, cứ như vậy pháp hạnh của chín bậc trụ sau dần dần càng rộng lớn hơn, cho đến pháp hạnh của Chín Trụ, Mười Hạnh, Mười Hồi hướng, Mười Địa, địa Vô cấu, cũng dần dần tăng trưởng rộng lớn, không thể nghĩ bàn. Này Phật tử! Nay Ta nói tóm lược chỉ như một giọt nước trong biển cả.

Phẩm 3: HỌC QUÁN CỦA HIỀN THÁNH

Bấy giờ, Bồ-tát Kính Thủ thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là tướng nghĩa danh tự học quán của Bồ-tát và các dụng tâm phải như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Này Phật tử! Câu hỏi của ông giống như câu hỏi của các Bồ-tát ở cõi Phật khắp mười phương, vào lúc tất cả chư Phật ngồi nơi gốc Bồ đề thành đạo không khác và những vị Bồ-tát có thể thưa hỏi về ý nghĩa ấy đều cùng một danh hiệu là Kính Thủ. Vậy hãy lắng nghe, suy nghĩ, chánh quán như pháp tu hành. Này Phật tử! Tất cả chư Phật đều cùng thuyết giảng sáu quán minh, ba môn tam muội, Ta cũng thuyết như vậy. Sáu chủng tánh là chuỗi anh lạc công đức, dùng trang nghiêm hai loại Pháp thân của các Bồ-tát. Bồ-tát đeo mang trăm vạn vô số hạnh công đức làm bằng chuỗi anh lạc. Nếu chư Bồ-tát không vào hạnh môn công đức anh lạc mà được dựa vào chánh vị của Bồ-tát thì việc ấy không thể có.

Này Phật tử! Tánh ở đây là tánh Tập chủng, tánh Tánh chủng, tánh Đạo chủng, tánh Thánh chủng, tánh Đẳng giác, tánh Diệu giác.

Sáu chủng tánh nầy còn gọi là sáu sự kiên cố, gồm có Tín kiên, Pháp kiên, Tu kiên, Đức kiên, Đảnh kiên, Giác kiên. Lại có tên sáu Nhẫn. Nhẫn tín, Nhẫn pháp, Nhẫn tu, Nhẫn chánh, Nhẫn vô cấu, Nhẫn nhất thiết trí. Lại có tên là sáu Tuệ: Tuệ văn, Tuệ tư, Tuệ tu, Tuệ vô tướng, Tuệ chiếu tịch, Tuệ tịch chiếu. Lại có tên là sáu Định: Định tập tướng, Định định tánh, Định đạo tuệ, Định đạo chủng tuệ, Định đại tuệ, Định chánh quán. Lại có tên là sáu Quán: Quán trụ, Quán hạnh, Quán hướng, Quán địa, Quán vô tướng, Quán nhất thiết chủng trí.

Này Phật tử! Tất cả chư Phật và Bồ-tát đều nhập vào sáu pháp quán minh nầy quyết định liễu nghĩa pháp môn thật tướng.

Này Phật tử! Trước ông đã hỏi về ý nghĩa danh tự, đó là chuỗi anh lạc báu bằng đồng. Còn danh tự của Bồ-tát, đó là trong tánh Tập chủng có mười bậc: Bồ-tát Phát tâm, Bồ-tát Trì địa, Bồ-tát Tu hành, Bồ-tát Sanh quý, Bồ-tát Phương tiện cụ túc, Bồ-tát Chánh tâm, Bồ-tát Bất thối, Bồ-tát Đồng chân, Bồ-tát Pháp vương tử, Bồ-tát Quán đảnh.

Này Phật tử! Với anh lạc báu bằng bạc thì danh tự của Bồ-tát là thuộc trong Tánh chủng tánh, gồm có mười hạng: Bồ-tát Hoan hỷ, Bồtát Nhiêu ích, Bồ-tát Không sân hận, Bồ-tát Vô tận, Bồ-tát Lìa si loạn, Bồ-tát Thiện hiện, Bồ-tát Vô trước, Bồ-tát Tôn trọng, Bồ-tát Thiện pháp, Bồ-tát Chân thật.

Này Phật tử! Về anh lạc báu bằng vàng, thì danh tự của Bồ-tát là thuộc trong Tánh Đạo chủng, có mười bậc: Bồ-tát cứu hộ nhất thiết chúng sanh lìa tướng chúng sanh, Bồ-tát Bất hoại, Bồ-tát bình đẳng với tất cả Phật, Bồ-tát đạt đến hết thảy xứ, Bồ-tát công đức tạng vô tận, Bồ-tát thiện căn bình đẳng, Bồ-tát tùy thuận cùng quán sát chúng sanh, Bồ-tát chân như tướng, Bồ-tát giải thoát không còn bị trói buộc, Bồ-tát pháp giới vô lượng.

Này Phật tử! Về anh lạc báu bằng lưu ly, thì danh tự của Bồ-tát thuộc tánh Thánh chủng, có mười bậc: Bồ-tát địa Hoan hỷ, Bồ-tát địa Ly cấu, Bồ-tát địa Minh tuệ, Bồ-tát địa Diệm quang, Bồ-tát địa Nan thắng, Bồ-tát địa Hiện tiền, Bồ-tát địa Viễn hành, Bồ-tát địa Bất động, Bồ-tát địa Thiện tuệ, Bồ-tát địa Pháp vân.

Này Phật tử! Có hàng trăm vạn A tăng kỳ anh lạc công đức như vậy để trang nghiêm hai thứ Pháp thân của Bồ-tát. Bốn mươi quả vị trên đây gọi là Học hành, đều nhập vào dòng nước pháp trí để tắm gội.

Này Phật tử! Về anh lạc báu bằng ngọc ma ni, thì danh tự của Bồ-tát là ở trong tánh Đẳng giác, có một bậc là Bồ-tát Kim Cang Tuệ Tràng, an trú trong thiền vắng lặng tối cao. Do năng lực của đại nguyện mà duy trì tuổi thọ trong năm kiếp, tu ngàn pháp Tam muội, đến khi nhập Tam muội Kim cang thì đồng với tất cả pháp tánh, hai đế đều là Đệ nhất nghĩa đế, là tướng hợp nhất. Lại duy trì thọ mạng trong một ngàn kiếp, học oai nghi của Phật, như voi chúa ngắm nhìn sư tử bước đi. Lại tu tập vô lượng không thể nghĩ bàn thần thông và pháp giáo hóa của chư Phật. Cho nên tất cả pháp Phật đều được hiện tiền, nhập vào hành xứ của Phật, an trú nơi đạo tràng Như Lai vượt thoát ba thứ ma chướng. Lại duy trì thọ mạng một vạn kiếp, thị hiện thành Phật nhập vào định vắng lặng vĩ đại, giác ngộ ngang hàng với các Đức Phật, vượt ngoài hai đế chẳng có chẳng không, không tâm, không sắc, tập nhân, khổ quả hai thứ đều dứt sạch. Hiện đồng với Phật xưa, chỉ có danh tự ứng thân, hóa thân, vì hiện sắc tâm giáo hóa chúng sanh, thị hiện như các Phật trước, luôn hành theo trung đạo, được an lạc lớn, vô vi. Mặc dù sanh diệt có khác, nhưng thật ra chẳng phải là Phật hiện thần thông của Phật mà là thường an trú nơi cảnh giới bản thể.

Này Phật tử! Về anh lạc báu là công đức của địa Diệu giác, ví như chuỗi ngọc thủy tinh trong suốt trong ngoài, Thánh tánh Diệu giác luôn lắng trong gọi là bậc Nhất thiết trí, thường an trú nơi trung đạo, trên tất cả pháp, vượt khỏi bốn ma, chẳng có chẳng không, tất cả tướng đều vắng bặt liền chứng Đại giác, bản thể nhiệm mầu ứng hóa cùng khắp, báo thân ứng thân luôn thường trụ để giáo hóa những ai có đủ căn duyên. Này Phật tử! Hôm nay Ta nói tóm lược về các danh tự của Hiền Thánh, các ngươi nên thọ trì, thực hành để hóa độ chúng sanh.

Này Phật tử! Trước ông đã hỏi về các pháp hành của tâm như thế nào? Đó là mười tâm: Tâm trụ phát khởi, Tâm trụ trì địa, Tâm trụ tu hành, Tâm trụ sanh quý, Tâm trụ phương tiện, Tâm trụ chân chánh, Tâm trụ bất thối, Tâm trụ đồng chân, Tâm trụ pháp vương tử, Tâm trụ quán đảnh.

Lại nữa, đây là mười tâm của chủ thể quán và pháp của đối tượng quán. Một là Bồ-tát tích chứa sâu dày tất cả các căn lành. Đó là bốn thệ nguyện rộng lớn. Người chưa đạt đến Khổ đế làm cho họ đạt tới Khổ đế. Người chưa hiểu Tập để làm cho họ hiểu Tập đế. Người chưa an trụ nơi Đạo đế khiến họ được an trụ. Người chưa chứng Niết Bàn khiến họ chứng đắc Niết Bàn.

Này Phật tử! Hai là Bồ-tát tu tập vô lượng các hành thiện. Đó là tu bốn niệm xứ, quán về Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Do quán bốn niệm pháp đều như hư không, không còn bốn quan niệm điên đảo, tất cả các pháp đều giả danh, đều như huyễn hóa. Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; sáu đại: Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, tất cả các pháp đều không có tự tướng, không có tha tướng, vì huyễn hóa như hư không.

Này Phật tử! Ba là Bồ-tát tu tập hoàn toàn đạo pháp của Phật. Đó là học quán mười nhất thiết nhập: Bốn đại, bốn sắc, không xứ, thức xứ, quán đúng như thật tướng của nó.

Này Phật tử! Bốn là Bồ-tát đối trước Đức Phật thọ pháp tu hành. Đó là thắng xứ. Quán về tướng rộng, tướng lược nơi hai thắng xứ thuộc năm ấm bên trong. Quán tướng rộng, lược của hai thắng xứ thuộc chúng sanh nơi pháp giả có bên ngoài. Quán tướng rộng, lược của bốn thắng xứ thuộc bốn đại pháp. Quán tất cả pháp đều rỗng lặng, không tướng như vậy.

Này Phật tử! Năm là Bồ-tát tu các pháp thanh tịnh. Tức tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân: Ít ham muốn, Biết đủ, Tịch tĩnh, Tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định, Chánh tuệ và Không hý luận, tùy thuận tất cả pháp.

Này Phật tử! Sáu là Bồ-tát được chư Phật hộ niệm, tức là quán tám giải thoát. Do quán văn tuệ được sự bất động đối với giả tướng bên trong và ngoài. Do tư tuệ giải thoát mà được sự bất động đối với năm ấm bên trong và các pháp bên ngoài. Do tu tuệ giải thoát mà được sự bất động đối với sáu quán đầy đủ: năm ấm thuộc sắc giới đều rỗng không, ba môn giải thoát, năm ấm thuộc vô sắc giới và định diệt tận, vì tướng giải thoát của năm ấm là nhất Như.

Này Phật tử! Bảy là Bồ-tát hành hóa chánh pháp rộng khắp. Đó là thực hành lục hòa, ba nghiệp đồng giới, đồng kiến, đồng hành. Vì nhập vào pháp lục hòa nầy, hoàn toàn rỗng lặng nên an trú ở quả vị bất thối.

Này Phật tử! Tám là Bồ-tát được sự tin vui đối với đại pháp, tức là đạt được ba pháp không. Vì tất cả nhân không nên không tạo tác (vô tác). Vì tất cả quả không nên không có tướng trạng (vô tướng). Vì nhân không, quả không, cả hai đều không, nên các không đều không (không). Các pháp như vậy đều như hư không.

Này Phật tử! Chín là Bồ-tát nầy thực hành bốn tâm vô lượng, dùng bốn Thánh đế để giáo hóa chúng sanh, chỉ rõ ba cõi là khổ, không vui, vô minh tập khí làm nhân, do đó thọ mạng vô cùng, đạo phẩm ba không là vô vi, vắng lặng, tướng bốn Thánh đế là không hai, là một hợp tướng.

Này Phật tử! Mười là Bồ-tát nầy ưa thích mong cầu công đức của Phật. Tức là tu sáu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, được tất cả công đức của Phật. Mỗi một niệm thể nhập vào “Tam muội Như huyễn”, những nơi tu tập thường được hiện tiền.

Này Phật tử! Trước đây, ở cung trời Đao Lợi, Ta đã vì chư Thiên nói về danh nghĩa và pháp của đối tượng quán đầu tiên thuộc mười trụ, là những vị còn trong hàng phàm phu. Tất cả Bồ-tát đều nhập vào những pháp môn nầy để hướng đến biển Nhất thiết trí.

Này Phật tử! Đây là mười tâm của bậc Thập hạnh: Một là tâm hành hoan hỷ. Hai là tâm hành tạo lợi ích. Ba là tâm hành không sân giận. Bốn là tâm hành không cùng tận. Năm là tâm hành lìa si loạn. Sáu là tâm hành khéo thị hiện. Bảy là tâm hành không chấp trước. Tám là tâm hành tôn trọng. Chín là tâm hành đầy đủ pháp thiện. Mười là tâm hành chân thật.

Này Phật tử! Đây tức là pháp của đối tượng quán và tâm của chủ thể quán nơi mười hành: Một là Bồ-tát nầy vì muốn tự mình đạt được Nhất thiết chủng trí nên tu tập bốn pháp Chánh cần. Pháp lành chưa sanh dùng phương tiện làm cho phát sanh. Pháp lành đã sanh dùng phương tiện làm cho tăng trưởng. Pháp ác chưa sanh dùng phương tiện khiến chẳng sanh. Pháp ác đã sanh dùng phương tiện khiến cho diệt trừ. Khi Bồ-tát tu hành như vậy là nhằm cầu đạt quả vị Phật.

Này Phật tử! Hai là Bồ-tát nầy muốn tự thân có năng lực vĩ đại nên tu tập bốn Như ý túc: Chánh niệm định cảnh, Tinh tấn theo đuổi, Định tâm thâu giữ, Tuệ soi sáng cảnh giới thiền định. Tu bốn pháp nầy chứng được pháp vô sanh tự tại.

Này Phật tử! Ba là Bồ-tát nầy vì muốn đầy đủ năng lực vô úy nên tu tập năm căn: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ, hiểu rõ năm căn đều là vô tướng.

Này Phật tử! Bốn là Bồ-tát nầy mong cầu đầy đủ về Tam bảo. Đó là năm phần pháp thân: Giới trừ diệt những hiện hành sai trái. Do định nên tâm không loạn động. Nhờ tuệ thông tỏ các tưởng hư giả. Vì tâm giải thoát nên không bị trói buộc. Do không bị trói buộc nên nhận biết tất cả chúng sanh không bị ràng buộc. Do tri kiến giải thoát cho nên thấy rõ các pháp đồng như hư không, không có hai tướng.

Này Phật tử! Năm là Bồ-tát nầy vì muốn giáo hóa tất cả chúng sanh, do đó tu hành tám chi Thánh đạo: Từ thầy dạy mà phát sanh tuệ giải là chánh tri kiến. Được nghe pháp rồi tư duy là chánh tư duy. Siêng năng tu tập không hề nhàm chán gọi là chánh tinh tấn. Ba chi bốn, năm, sáu, người xuất gia thọ học ba chi nầy gọi là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Hai chi bảy và tám nhập được tánh không các pháp gọi là chánh định, chánh tuệ. Quán tướng hợp nhất, không hai của pháp vô sanh.

Này Phật tử! Sáu là Bồ-tát vì muốn được tâm từ bi rộng lớn nên tu bảy pháp Bồ đề phần: Niệm giác phần, Trạch pháp giác phần, Tinh tấn giác phần, Hộ (xả) giác phần, Hỷ giác phần, Định giác phần. Tuệ (khinh an) giác phần gọi là pháp môn quán để nhập nhất tướng.

Này Phật tử! Bảy là Bồ-tát vì muốn thành tựu bốn trí vô ngại nên tu tập năm thiện căn: Chánh quán, Noãn quán, Đảnh quán, Nhẫn quán, Thế đệ nhất trong ba cõi không, nên có thể sanh trí tuệ sáng suốt lớn, vô tướng ở mười địa hay Thánh thai (Ba Hiền: Mười Trụ, mười Hạnh, mười Hồi hướng) lúc chưa biến đổi, vì bình đẳng với đệ nhất nghĩa không.

Này Phật tử! Tám là Bồ-tát vì muốn nhập vào khắp cõi Phật để giáo hóa nên tu tập bốn vô ngại biện: Pháp vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Từ vô ngại biện, Lạc thuyết vô ngại biện. Bốn vô ngại biện nầy gọi là Tuệ tánh, soi rõ các pháp vô sanh, thực hành trong Đệ nhất nghĩa đế.

Này Phật tử! Chín là Bồ-tát vì muốn trong một niệm soi chiếu thấy rõ tất cả pháp, nên quán về mười hai nhân duyên tương quan trong ba đời. Hai chi ở quá khứ là Vô minh và các Hành. Các chi ở hiện tại là: Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu. Hai chi ở vị lai là Sanh, Lão tử đều giả hợp mà thành. Thật tánh của nhân duyên là không nắm bắt được.

Này Phật tử! Mười là Bồ-tát vì muốn tự tại chuyển bánh xe pháp. Nghĩa là: Bồ-tát đầy đủ ba nghĩa Tam bảo. Khi đó, Bồ-tát ở nơi trung đạo của Đệ nhất nghĩa, trí là Giác bảo. Tất cả pháp không sanh, không động tức là Pháp bảo. thường thực hành và hòa mình với chúng sanh trong sáu đường nên gọi là Tăng bảo. Do đó, hướng dẫn chúng sanh nhập vào biển Phật.

Này Phật tử! Trước đây, ở tại cung trời Diệm Ma, Ta đã vì chư Thiên mà giảng thuyết Thập hạnh của hàng phàm phu. Hôm nay, ở đây nói tóm lược về những pháp căn bản, các ngươi hãy nên thọ trì. Tất cả chư Phật đều giảng thuyết như vậy.

Này Phật tử! Đây là mười Tâm hồi hướng: Một là tâm cứu hộ tất cả chúng sanh lìa tướng chúng sanh hồi hướng. Hai là tâm không hư hoại hồi hướng. Ba là tâm bình đẳng với tất cả chư Phật hồi hướng. Bốn là tâm hướng đến tất cả nơi chốn hồi hướng. Năm là tâm chứa giữ công đức vô tận hồi hướng. Sáu là tâm bình đẳng tùy thuận thiện căn hồi hướng. Bảy là tâm bình đẳng quán tất cả chúng sanh hồi hướng. Tám là tâm là tướng chân như hồi hướng. Chín là tâm giải thoát không còn bị trói buộc hồi hướng. Mười là tâm đồng pháp giới vô lượng hồi hướng.

Này Phật tử! Đây là mười Tâm của chủ thể quán nơi pháp của đối tượng quán. Một là Bồ-tát nầy học tập Đệ nhất nghĩa đế bằng cách quán về nhị đế, quán tướng của tất cả pháp là như như, không thể nắm bắt. Dùng từ, bi, hỷ, xả chỉ dạy truyền trao cho hàng trời, người trong sáu đường. Cạo đầu, đắp y, quy y Tam bảo, Bồ-tát xuất gia được dự vào tất cả Tam bảo. Vì được Đệ nhất thanh tịnh nên đối với Phật pháp không hai.

Này Phật tử! Hai là Bồ-tát nầy thâm nhập trí tuệ Đệ nhất nghĩa, chính là thành tựu năm thứ thần thông, là diệu dụng sai biệt của tuệ tâm sở. Thiên là sự thần diệu của tâm. Thân hình biến hóa là thiên thần thông. Thiên nhãn là thấy những hình sắc lớn nhỏ nơi các pháp trong ba đời. Thiên nhĩ là nghe được tất cả các tiếng của muôn loài khắp mười phương. Tha tâm trí thông là biết được tâm ý của tất cả chúng sanh. Túc mạng trí thông là thấy rõ từng phần thọ mạng của chúng sanh trong sáu đường qua ba đời. Do trí vô sanh mà thấy biết tất cả pháp.

Này Phật tử! Ba là Bồ-tát nầy tâm đã thuần thục, nương vào trí vô sanh để thành tựu được bốn đức tin trong sạch không hoại. Đối với Phật, Pháp, Tăng, Giới thì lòng tin không hoại.

Này Phật tử! Bốn là Bồ-tát với tâm lượng đồng với diệu lực của Phật tức ba tướng. Các pháp vốn không, giả gọi là Sanh. Đã có lại hoàn không, giả gọi là Diệt. Chẳng phải không có pháp, giả gọi là Trú. Cho nên thông đạt tất cả pháp không, không hai.

Vì tướng của đệ nhất nghĩa đế rỗng lặng nên gọi tướng Thế đế là không.

Này Phật tử! Năm là Bồ-tát nầy giới lường tính về nghiệp lực của chúng sanh, xét thấy năm ấm, sắc khác với không. Tập hợp của sắc thành đại chủng thuộc về sắc phần. Tướng sắc rỗng lặng do từng sát na liên hệ thành tâm, tướng của tâm rỗng lặng nên Thọ, tưởng, hành, thức không tập hợp, không phân tán vì cùng một tướng là vô tướng.

Này Phật tử! Sáu là Bồ-tát tu học theo năng lực giáo hóa của Phật, nên tu quán về mười hai nhập, sáu trần bên ngoài, sáu căn bên trong làm giao tiếp cho sáu thức xứ gọi là nhập. Với tuệ quán của Bồtát chẳng ở bên trong, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở giữa, tất cả pháp đều không tự, không tha.

Này Phật tử! Bảy là Bồ-tát hướng đến trí vô ngại, tức mười tám giới, là sáu căn, sáu trần, sáu thức đều một tướng hợp nhất, vì tất cả pháp cũng là một tướng hợp nhất.

Này Phật tử! Tám là Bồ-tát nầy thuận theo trí tuệ tự nhiên của mình, tức là thuận nhân, quả, thiện, ác gọi là nhân; khổ vui là quả. Nguyên do là nhân, chỗ dấy khởi là quả. Do khởi lên sự đối đãi lẫn nhau gọi chung là nhân quả. Nhưng nhân, quả đều không, chẳng sanh, chẳng diệt nên đều là tướng hợp nhất.

Này Phật tử! Chín là Bồ-tát có thể thọ nhận Phật, Pháp, Tăng, tức là quán nhị đế là không. Nhân duyên tập hợp gọi là có, chẳng phải thấy có mà bảo có. Nhân duyên phân tán nên gọi là không, chẳng phải bảo có là hoàn toàn không. Đối với cái có mà không hoặc không mà không, cả hai đều chẳng liên quan đến trí tuệ giải thoát, nó không có hai tướng.

Này Phật tử! Mười là Bồ-tát dùng tuệ tự tại để hóa độ hết thảy chúng sanh. Tức là lấy trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế làm cảnh của đối tượng duyên cho thể trí tuệ để quán thấu suốt các pháp, nhưng lại không hai. Tuệ quán nầy chuyển dần, nhập vào Thánh địa (Sơ địa). Do đó, gọi là tâm quán tương tợ với Đệ nhất nghĩa đế, nhưng chưa phải hoàn toàn đúng với đối tượng quán của lý trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế. Đại Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở lên mới quán đúng lý trung đạo ấy. Có ba quán tâm để nhập vào các địa đó là: Từ giả quán mà nhập vào không quán để quán hai đế. Từ không nhập vào giả gọi là quán bình đẳng. Hai pháp quán nầy là đạo phương tiện. Do hai pháp quán không nầy mà nhập vào quán trung đạo thuộc Đệ nhất nghĩa đế, chiếu soi cả hai đế, mọi tâm vắng lặng, nhanh chóng nhập vào dòng nước pháp trí của bậc Sơ địa, gọi là Ma ha tát Thánh chủng tánh, trong pháp vô tướng mà tu trung đạo, nhưng vẫn không hai.

Này Phật tử! Do ba mươi tâm ấy để nhập vào đức tin đối với Nhất thừa, làm nhân pháp cho Nhất thừa, chẳng phải những hành thường mà có được. Cần tu hạnh rộng lớn và tâm vĩ đại, trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới hàng phục được những thử thách (nhẫn đạo) từ đó được đầy đủ đức tin.

Này Phật tử! Việc tiến tới và thối lui là từ bậc mười trụ trở về trước. Bồ-tát phát khởi ba tâm Bồ đề đều còn ở trong pháp của hàng phàm phu, có hằng sa chúng sanh học hành giáo pháp của Phật. Những người tâm do tin tưởng tu hành thì thuộc phần có thể thối lui thiện căn. Những thiện nam nào trong một kiếp, hai kiếp cho đến mười kiếp, tu tập mười tín thì được vào mười trụ. Người này, lên trụ thứ nhất tiếp tục tu đến sáu trụ. Nếu tu Bát nhã Ba-la-mật thứ sáu với sức chánh quán hiện tiền, liền gặp chư Phật, Bồ-tát, các tri thức thiện ủng hộ, vượt qua sáu trụ và lên bảy trụ, tâm thường an trú không thối lui, từ bảy trụ về trước gọi là thành phần có thể thối chuyển.

Này Phật tử! Nếu như Bồ-tát vào bậc bất thối, thể nhập trí tuệ Bát nhã là độ thứ sáu, tu về quán không, không ngã, không nhân, không có thọ giả, hoàn toàn không sanh, chắc chắn được vào hàng chánh vị Bồ-tát.

Này Phật tử! Nếu từ một kiếp, hai kiếp, ba kiếp cho đến mười kiếp không gặp được tri thức thiện, thì có thể làm cho những Bồ-tát ấy thối tâm Bồ đề. Như trong hội đầu tiên của Ta có tám vạn người thối tâm như: Thiên tử Tịnh Mục, Vương tử Pháp Tài, Xá-lợi-phất… Các vị nầy muốn vào trụ thứ bảy, nhưng trong đó vì gặp nhân duyên xấu ác, nên thoái hóa vào hàng phàm phu, bất thiện, không còn gọi là tánh Tập chủng, lại rơi vào hàng ngoại đạo, hoặc một kiếp, hoặc mười kiếp cho đến ngàn kiếp, trở thành đại tà kiến, phạm tội ngũ nghịch, làm tất cả việc ác. Đây là tướng của sự thối tâm. Này Phật tử! Trước đây ở cõi trời thứ tư (cung trời Đâu Suất), Ta đã thuyết giảng rộng rãi về mười hồi hướng, là pháp của phàm phu. Hôm nay ở nơi cội Bồ đề nầy Ta nói tóm lược những điều chính yếu. Bồ-tát các vị hãy khéo lãnh hội để tu hành.

Này Phật tử! Tâm của mười địa gồm có: Tâm tu bốn vô lượng, tâm tu mười thiện, tâm sáng rực rỡ, tâm tuệ sáng soi, tâm tối thắng vĩ đại, tâm thường hiện tiền, tâm không sanh diệt, tâm chẳng nghĩ bàn, tâm tuệ sáng suốt, tâm thọ nhận quả vị.

Lại nữa, mười Tâm của chủ thể quán nơi pháp của đối tượng quán: Một là trí tuệ của bậc an trú nơi địa Hoan hỷ của lý trung đạo thuộc Đệ nhất nghĩa đế. Nghĩa là hai mươi tâm hoan hỷ, mười nguyện vô tận, ứng hiện Pháp thân vào cõi Phật khắp mười phương, sử dụng năm thông, nhập vào Tam muội như huyễn, ứng hóa hiện vô lượng công đức, không thọ nhận quả báo nơi ba cõi Khổ, tập, diệt, đạo. Hai loại Pháp thân thay đổi thọ sanh, ba quán hiện tiền thường tu tâm ấy, nhập vào trăm pháp minh môn, hoàn toàn không bị ba mươi phiền não chi phối, mọi tâm đều vắng lặng vào dòng nước pháp, tự nhiên chảy vào biển Nhất thiết trí.

Này Phật tử! Địa thứ hai, Bồ-tát tu hành pháp bảo “Kim cang hải tạng”, tức là tự mình tu hành mười nghiệp thiện, cùng giáo hóa người tu như vậy, khen ngợi người tu mười nghiệp thiện, ca ngợi mười pháp thiện, hiện thân trong ngàn cõi Phật, giáo hóa chúng sanh. Vị nầy thành tựu ba pháp diệu quán, trung đạo vô tướng.

Này Phật tử! Địa thứ ba, Bồ-tát này nhập vào Tam muội Như huyễn, tức là mười hai môn thiền. Sơ thiền có các trạng thái: Giác, Quán, Hỷ, Lạc, Nhất tâm, năm chi nầy làm nhân, thứ sáu là tâm vắng lặng, chính là thể của Định. Bốn chi Hỷ, Lạc, Ỷ (Trừ), Nhất tâm làm nhân, thứ năm là tâm vắng lặng, chính là thể của Định. Năm chi Lạc, Hộ, Niệm, Trí, Nhất tâm làm nhân, thứ sáu là tâm vắng lặng, chính là thể của Định. Bốn chi Không khổ, Không lạc, Hộ niệm, Nhất tâm làm nhân. Nhân này gọi là phương tiện, Thứ năm là tâm vắng lặng, chính là thể của Định. Thiền gọi là chi lâm, Định gọi là thâu giữ, trải qua nhiều kiếp không bị phân hủy, gọi là Định.

Về bốn Định không, mỗi một đều có năm chi, vì thể và dụng tương tự nhau nên phương tiện đạo cũng giống nhau. Chi phần gồm có: Tưởng, Hộ, Chánh, Quán, Nhất tâm, năm chi ấy làm nhân, thứ sáu là tâm vắng lặng, chính là thể của Định. Từ Định, phát sanh bốn tâm vô lượng gọi là bốn định vô lượng. Bậc Thánh nhân thị hiện giống cách thức của phàm phu, nhưng năng lực tự tại thì hơn hẳn phàm phu. Bồ-tát này nhập vào vô lượng Định, hiện thân nơi trăm ngàn cõi Phật để giáo hóa chúng sanh.

Này Phật tử! Địa thứ tư, Bồ-tát này tu hành hết tất cả kho tàng pháp bảo, tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất phần Bồ đề, bát chi Thánh đạo. Phần Bồ-tát này lực hành vĩ đại, thị hiện một ức Pháp thân nhằm giáo hóa tất cả chúng sanh.

Này Phật tử! Địa thứ năm, Bồ-tát nầy nhập vào trí quán pháp giới, quán mười sáu đế: Hữu đế, Vô đế, Trung đạo thuộc Đệ nhất nghĩa đế, Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế, Tướng đế, Sai biệt đế, Thị thành đế, Thuyết đế, sự đế, Sanh khởi đế, Tận vô sanh đế, Nhập đạo đế, Như Lai trú đế. Tất cả pháp gì thuộc ngũ minh luận đều ở trong một niệm tâm, Bồ-tát này đều sử dụng cùng một lúc, thị hiện vô lượng thân trong tất cả cõi Phật để lãnh thọ pháp môn giáo hóa của Đức Phật.

Này Phật tử! Địa thứ sáu, Bồ-tát này hiểu biết rõ các duyên khởi của pháp hữu lậu, nên phát sanh trí tuệ, quán chiếu mười thứ Mười hai nhân duyên bằng mười trí soi chiếu. Đó là: Mười hai nhân duyên của ngã kiến. Mười hai nhân duyên của tâm. Mười hai nhân duyên của vô minh. Mười hai nhân duyên của tướng duyên do. Mười hai nhân duyên của sự trở thành. Mười hai nhân duyên của ba nghiệp. Mười hai nhân duyên của ba đời. Mười hai nhân duyên của ba khổ. Mười hai nhân duyên của tánh không. Mười hai nhân duyên trói buộc thọ sanh. Bồ-tát này vì quán thuận nghịch mà thị hiện vô lượng thân vào tất cả cõi Phật, giáo hóa hết thảy chúng sanh.

Này Phật tử! Địa thứ bảy, Bồ-tát này đã hết quả báo hữu lậu, thành tựu trí tuệ không chướng ngại. Do trí tuệ của ba môn giải thoát quán chiếu hai thứ tập khí thuộc ba cõi, nên vị nầy diệt trừ hoàn toàn quả báo thuộc sắc và tâm. Tất cả công hạnh, công đức, sự tạo tác đều hoàn thành. Những thần thông, sự biến hóa, nơi làm, chỗ tạo tác chẳng phải một mà cũng chẳng phải hai, pháp nào cũng đầy đủ. Việc tu hành phát sanh tất cả hạnh công đức, diệu dụng, cho đến những hạnh công đức, diệu dụng của bậc địa thượng đã chuẩn bị hoàn thành. Các căn bản thực hiện tất cả công hạnh lấy mười Ba-la-mật (độ) làm gốc, gồm có: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền, Trí, Nguyện, Phương tiện, Thông lực và Tuệ vô tướng, dụng công thực hành mười độ đã xong, vô vi không tạo tác, nhập vào dòng nước pháp trí, mọi tâm đều vắng lặng, tự nhiên chảy vào biển Nhất thiết trí.

Này Phật tử! Địa thứ tám, Bồ-tát này thực hành diệu quán đạo không công dụng. Nghĩa là trí tuệ vô tướng vĩ đại, diệu dụng nơi phương tiện là vô cùng, không có tập khí của sắc pháp, trừ hết vô minh, trong trăm vạn kiếp tôn kính chư Phật qua vô lượng cõi. Với một niệm tâm vận dụng mọi lúc hiện như hình Đức Phật và tất cả chúng sanh. Trong một niệm tâm cùng một lúc thị hiện như vậy nhưng vẫn không công dụng.

Này Phật tử! Địa thứ chín, Bồ-tát này chứng được trí tuệ thâu rõ các pháp, là đã hoàn thành bốn mươi biện tài, những hạnh công đức, đoạn trừ các tập khí của tâm và vô minh, tất cả tạng Phật và tạng biến thông, trong một niệm tâm, cùng một lúc, Bồ-tát thị hiện thân Phật, thân chúng sanh trong khắp vô lượng đại thiên thế giới, ứng dụng vô lượng phương pháp nhằm giáo hóa chúng sanh.

Này Phật tử! Địa thứ mười, Bồ-tát này vận dụng trí quán vô ngại, là phát ra vô lượng mây pháp, mưa pháp tuôn xuống đầy khắp chúng sanh. Hai tập khí vô minh (sắc, tâm) nay đã tiêu diệt, lãnh thọ chức vị lớn. Sức thần thông biến hóa không thể tính kể, thị hiện như Phật, vì diệu dụng là hoàn toàn vô tướng.

Này Phật tử! Mười địa trên đây, tất cả ba Hiền đều vào pháp môn nầy, tu tập chứng đắc thành tựu quả vị Chánh giác.

Này Phật tử! Trước kia ở cõi trời thứ sáu (Tha Hóa Tự Tại), Ta đã nói về mười địa, hướng dẫn giáo hóa cho hàng chư Thiên. Hôm nay, Ta chỉ nói tóm lược, các ông nên lãnh thọ, tu tập.

Này Phật tử! Bậc thứ bốn mươi mốt là địa Vô cấu, tâm của Bồtát này gọi là tâm thể nhập pháp giới. Nghĩa là tâm ở định ấy là dũng mãnh, hàng phục, nhập vào “Tam muội pháp quang” này tu hành mười pháp, gồm có: Một là học thần thông, biến hóa không thể nghĩ bàn của Phật. Hai là nhóm họp vô lượng Bồ-tát quyến thuộc. Ba là tu lại pháp môn đã tu ở trước. Bốn là thuận theo và thưa hỏi tất cả chư Phật trong các cõi nước. Năm là từ biệt cha mẹ, vô minh. Sáu là đi vào cánh cửa huyền diệu của Phật. Bảy là thị hiện như Phật, thị hiện tất cả hình tướng. Tám là cả hai Pháp thân đều được đầy đủ. Chín là không còn hai thứ tập khí. Mười là lên đến đỉnh núi Trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế. Thế nên, Bồ-tát ở địa Vô cấu từ trụ phát tâm thứ nhất trở đi cho đến địa này, mỗi bậc phải trải qua vô lượng kiếp tu bốn mươi tâm với vô lượng pháp môn và công đức. Lại từ Địa thứ nhất tu hành hai thứ Pháp thân với vô lượng công đức, phải qua trăm ngàn kiếp hành trì mới thành tựu đầy đủ kho tàng Phật pháp, thể nhập Tam muội tướng tận, hoàn thành quả vị Nhất thiết trí, thường thực hành hạnh của Phật.

Này Phật tử! Trước đây ở Đệ tam thiền, Ta đã tập hợp chúng Bồtát trong tám cõi thiền, nói về Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ, thể nhập Tam muội Phật hoa, nêu rõ trăm vạn ức kệ. Nay chỉ dùng nghĩa của một kệ tóm tắt lại, khai mở tâm của chúng sanh. Các ngươi hãy nên thọ trì.

Này Phật tử! Bậc bốn mươi hai gọi là tâm Tịch diệt nơi địa Diệu Giác. Tâm của địa nầy là tính thường trụ. Sự vô cùng cực cũng là thứ nhất, trong suốt như hư không, là bậc Nhất thiết chủng trí thấu rõ lý nơi đế vô sanh của chúng sanh từ đầu đến cuối. Chỉ có Đức Phật mới biết cùng tận nguồn gốc của chúng sanh, những gì có đầu có cuối Phật đều thấy rõ, cho đến tất cả phiền não, tất cả quả báo của chúng sanh. Một niệm tâm Phật đều thích ứng, soi chiếu tận nguồn gốc. Tất cả quốc độ, tất cả quả báo, tất cả thần thông, biến hóa của chư Phật, Bồ-tát, Phật đồng thời trong một niệm tâm đều biết rõ tất cả, cảnh giới không thể nghĩ bàn, ra ngoài hai đế, chỉ một không hai.

Này Phật tử! Trước đây Ta đã ở nơi cội Bồ đề, khi giảng nói về biển pháp giới, lúc ấy có tám vạn Bồ-tát nơi địa Vô cấu, thân ở hiện tại chứng đắc quả Phật. Hôm nay, vì đại chúng này, nói tóm lược hành xứ quả vị Phật. Các ngươi nên lãnh thọ.

Bấy giờ, Bồ-tát Kính Thủ thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Từ bậc Địa thứ nhất đến mỗi địa về sau, Bồtát đều có quả báo thần thông, biến hóa và hai loại pháp thân. Một là thân pháp tánh, hai là pháp thân ứng hóa. Hai thân nầy tướng tâm và tướng sắc như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Này Phật tử! Quả xuất thế gian từ Địa thứ nhất cho đến Phật địa, mỗi địa đều có hai thứ pháp thân. Pháp thân này ở trong dòng nước pháp tánh của Đệ nhất nghĩa đế, từ Phật tánh sanh khởi trí. Thật trí là pháp thân, pháp chỉ cho tự thể, tích chứa làm thân. Tất cả chúng sanh đều do căn lành chiêu cảm với pháp thân của thật trí này, nên pháp thân ấy có thể ứng hiện vô lượng pháp thân, thị hiện trong tất cả cảnh giới và quốc độ tất cả thân Phật và chúng sanh, tất cả thân Bồ-tát, đều có thể thị hiện tất cả loại thân không thể nghĩ bàn, cõi nước cũng lại như vậy.

Này Phật tử! Độ là chỗ ở của tất cả Hiền Thánh. Cho nên tất cả chúng sanh, Thánh Hiền, mỗi một đều ở cõi quả báo của mình. Nếu là phàm phu chúng sanh còn thân năm ấm, năm ấm bên trong là cõi chánh báo. Núi, rừng, đất đai và những gì chung có là cõi y báo. Những bậc Thánh nhân ở Địa thứ nhất cũng có hai cõi. Một là cõi Thật trí, căn bản trí nương nơi hậu đắc trí làm cõi. Hai là trải qua vô lượng vô số kiếp ứng hiện nơi cõi Tịnh, Uế, gọi là cõi Biến hóa, đến cõi địa Vô cấu cũng lại như vậy. Tất cả chúng sanh cho tới địa Vô cấu, đều chẳng phải là cõi Tịnh, vì còn an trú nơi quả báo. Chỉ có Phật là ở nơi trung đạo thuộc Đệ nhất nghĩa đế, tức cõi Pháp tánh (Thường tịch quang độ) do đó, trước đây, trên giảng đường Phổ quang, Ta đã vì tất cả chúng sanh giảng thuyết rõ về pháp môn Tịnh độ.

Này Phật tử! Bồ-tát địa thứ nhất trong nhất niệm tâm hoàn toàn vô tướng, Trí thân, Pháp thân, thành tựu trăm vạn A tăng kỳ pháp công đức, soi chiếu hai đế, mọi tâm đều vắng lặng trong dòng nước pháp, không thể dùng tâm thức của hàng phàm phu mà suy xét về hai thứ pháp thân huống gì là đối với hai địa, ba địa cho đến địa Diệu giác. Song trong địa ứng hóa, có thể cho là Bồ-tát nơi Địa thứ nhất có trăm, ngàn, vạn thân cho đến vô lượng thân, có buộc, có mở. Còn pháp thân thì mọi tâm đều vắng lặng trong dòng nước pháp, trên không thấy tất cả pháp Phật và quả báo để mong cầu, chứng đắc; dưới chẳng thấy có vô minh, kiến chấp để đoạn, chúng sanh để hóa độ. Chỉ vì sự giáo hóa trong đế lý thế gian mà thấy có Phật để cầu, kiến chấp để đoạn, chúng sanh để hóa độ. Này Phật tử! Cũng có thể cho tu pháp của ba Hiền nhập vào bậc Thánh, ở trong dòng nước pháp mọi tâm đều vắng lặng, tự nhiên hòa nhập nơi biển lớn Diệu giác… Này Phật tử! Cho đến gọi là ba Hiền, mười địa cũng là không tên, không tướng, chỉ lấy theo sự ứng hóa để gọi. Vì đạo pháp chư Phật xưa đã có danh từ mười địa… Này Phật tử! Ông nên thọ trì tất cả giáo pháp của chư Phật, đều bình đẳng như nhau không khác.

Này Phật tử! Quả báo của thế gian là Bồ-tát ở mười trụ phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu bằng đồng, làm vua Chuyển luân, có bánh xe báu bằng đồng, có trăm người con phước dùng làm quyến thuộc, sanh nơi một cõi Phật, lãnh thọ lời Phật dạy, tu hành giáo hóa người ở hai chân thiên hạ. Bồ-tát mười hạnh phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc bằng bạc, làm vua Chuyển luân, có bánh xe báu bằng bạc, có năm trăm người con phước dùng làm quyến thuộc, sanh trong hai cõi Phật, lãnh thọ giáo pháp Phật, tu hành, giáo hóa chúng sanh ở ba châu thiên hạ. Bồ-tát mười hồi hướng phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu bằng vàng, làm vua Chuyển luân, có bánh xe báu bằng vàng, có một ngàn người con phước dùng làm quyến thuộc, sanh trong mười cõi Phật, giáo hóa tất cả chúng sanh khắp bốn châu thiên hạ.

Bồ-tát ở Địa Hoan hỷ (Sơ địa), phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc trăm tay, có tướng bánh xe báu bằng bảy thứ báu, làm Tứ thiên vương, có vạn người con theo làm quyến thuộc, một trăm pháp thân, làm một trăm cõi Phật, giáo hóa thiên hạ khắp mười phương.

Bồ-tát ở Địa thứ hai phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc quý bằng ngàn báu, tướng bánh xe báu với tám thứ ngọc quý, làm vua cõi trời Đao Lợi, có hai vạn người con theo làm quyến thuộc.

Bồ-tát ở Địa thứ ba phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc quý bằng vạn báu, tướng bánh xe báu bằng chín thứ báu, làm vua cõi trời Diệm Ma, quyến thuộc nhiều không thể tính kể.

Bồ-tát ở Địa thứ tư phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc quý bằng một ức báu, tướng bánh xe báu bằng mười thứ báu, làm vua cõi trời Đâu Suất, quyến thuộc cũng nhiều không thể tính kể.

Bồ-tát ở Địa thứ năm phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu có ánh sáng trời, tướng bánh xe báu bằng mười một thứ báu, làm vua cõi trời Hóa Lạc, quyến thuộc nhiều không thể tính kể.

Bồ-tát ở Địa thứ sáu phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc ma ni quý có ánh sáng rực rỡ, tướng bánh xe báu bằng mười hai thứ ngọc, làm vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại, quyến thuộc nhiều không thể tính kể.

Bồ-tát ở Địa thứ bảy phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu Tuệ quang như rồng ngàn sắc, tướng bánh xe báu bằng mười ba thứ ngọc, làm vua cõi trời Phạm Thiên, quyến thuộc đông nhiều không thể tính kể.

Bồ-tát ở Địa thứ tám phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu sáng như Phạm sư tử, tướng bánh xe báu bằng Đại ứng báu, làm vua cõi trời Quang Âm, quyến thuộc nhiều không thể kể.

Bồ-tát ở Địa thứ chín phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu sáng trong, tướng bánh xe báu sáng như mây trắng, làm vua cõi trời Vô Lượng Tịnh, quyến thuộc rất nhiều.

Bồ-tát ở Địa thứ mười phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu sáng trăm vạn thần thông, tướng bánh xe báu bằng ngọc vô úy, làm vua cõi trời Tịnh Cư, quyến thuộc rất nhiều.

Bồ-tát Đẳng giác, phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu sáng bằng ngàn vạn sắc trời, tướng bánh xe báu sáng như Giác đức, làm vua ba cõi, tất cả Bồ-tát đều là quyến thuộc.

Địa Diệu giác Phật, phước báo trang nghiêm với chuỗi anh lạc báu sáng rực do vô lượng tạng công đức, tướng bánh xe báu bằng ngàn phước đức, là bậc Pháp vương của pháp giới, tất cả Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ đều là quyến thuộc.

Này Phật tử! Tướng chuỗi anh lạc báu bánh xe báu trên đây, tất cả chư Phật và Bồ-tát khi di chuyển, khi ngừng lại thường tùy theo thân, cũng vì để giáo hóa tất cả chúng sanh, nên có những pháp gọi là danh số quả báo.

Này Phật tử! Bồ-tát nơi ba Hiền hàng phục nghiệp đạo phiền não phần thô, quả tương tục thô nơi ba cõi cũng không khởi nghiệp thô, là Bồ-tát kiến đạo. Địa Hoan hỷ Nhẫn phục diệt nghiệp đạo ở ba cõi ác. Địa Ly cấu Nhẫn phục diệt nghiệp đạo ở trong loài người. Địa Phát quang Nhẫn phục diệt nghiệp đạo ở sáu cõi trời. Địa Diệm tuệ Nhẫn phục diệt các kiến chấp. Địa Nan thắng Nhẫn phục diệt các kiến chấp nghi ngờ. Địa Hiện tiền Nhẫn phục diệt nguyên nhân của nghiệp. Địa Vô sanh Nhẫn phục diệt quả báo của nghiệp đạo. Địa Bất động Nhẫn phục diệt nghiệp đạo tạo nhân nơi sắc pháp. Địa Thiện tuệ (Quang địa) Nhẫn phục diệt nghiệp đạo nơi nhân của tâm. Địa Pháp vân (tịch diệt) Nhẫn phục diệt hai thứ nghiệp đạo tập khí sắc và tâm. Địa Đẳng giác (Vô cấu) Nhẫn phục diệt tập khí nghiệp đạo, đoạn trừ các tập khí từ trước nhưng quả vẫn còn. Thế nên, này Phật tử! Bồ-tát nơi ba Hiền gọi là hàng phục chưa đoạn trừ. Từ Nhẫn nơi Địa Hoan hỷ trở lên vừa đoạn trừ và hàng phục các phiền não. Khi đến bậc Địa Diệu giác, Nhẫn hiện tiền thì tất cả vô minh trong Như Lai tạng nhanh chóng đoạn sạch.

Này Phật tử! Vô minh là không hiểu rõ về tất cả các pháp. Vì mê mờ pháp giới mà khởi nghiệp quả trong ba cõi. Cho nên Ta nói: Từ vô minh phát sanh mười ba phiền não. Đó là tà kiến, ngã kiến, thường kiến, đoạn kiến, chấp thủ giới cấm, chấp lấy quả báo, chấp tánh nghi ngờ. Bảy kiến ấy chấp giữ tất cả sự mong cầu nên gọi là chấp kiến. Từ những chấp này phát sanh sáu thứ tâm chấp trước: Tham lam, yêu mến, giận dữ, ngu si, ham muốn, kiêu mạn, thường sanh khởi trong pháp giới.

Này Phật tử! Tất cả phiền não đều do mười ba thứ ấy làm nguồn gốc. Vô minh và mười ba thứ phiền não ấy tạo thành gốc rễ. Do đấy, theo trong pháp giới, riêng thành quả báo nơi ba cõi. Này Phật tử! Hai nghiệp tham chấp làm mê tất cả sắc trong pháp giới, vì tâm ham muốn nên phát sanh quả báo, chia làm quả báo ở cõi Dục.

Này Phật tử! Hai nghiệp tham chấp làm mê tất cả các sắc tâm trong pháp giới, vì thế sắc tâm sanh khởi quả báo, chia làm quả báo ở cõi Sắc.

Này Phật tử! Hai nghiệp tham chấp làm mê tất cả các định tâm trong pháp giới, vì thế định tâm sanh khởi quả báo, chia làm quả báo ở cõi Vô sắc.

Vì vậy, trong một pháp giới mà có quả báo khắp ba cõi. Tất cả những pháp hữu vi hoặc phàm, hoặc Thánh, hoặc tham chấp, hay tham đắm, hoặc nhân quả đều không ra ngoài pháp giới. Chỉ có Đức Phật là bậc ở ngoài pháp giới, sau đó, lại trở vào trong pháp giới tạng, vì chúng sanh còn trong vô minh, chỉ bày tất cả quả báo lành, dữ, sự khác nhau đến vô lượng.

Này Phật tử! Trước hết là Bồ-tát nơi ba Hiền hàng phục vô minh trong ba cõi, nhưng sự dụng công còn là nghiệp thô. Vì sao? Vì khi thọ sanh, căn lành làm duyên cho chủng tử sẵn có, yêu thương làm nghiệp nhuận sanh, vì thế, thọ nhận quả vị lai, do đó gọi là dừng lại nghiệp dụng, nhưng chẳng đoạn ái dụng.

Bậc thứ mười một (hạnh Hoan hỷ) cũng còn hàng phục nghiệp quả của ba cõi trong pháp giới.

Từ bậc Sơ Địa cho đến bảy Địa, nghiệp quả của ba cõi đều được đoạn trừ, nhưng đến tám Địa mới thật sạch hết. Từ đó trở lên, thị hiện thành Phật, thọ sanh trong vương cung, xuất gia thành đạo, chuyển bánh xe chánh pháp, nhập Niết bàn, vì thị hiện tất cả thế giới của các Đức Phật, nên những quả báo của chủng tử ái nhiễm nơi ba cõi không còn, chỉ còn tập khí của căn bản vô minh, nhưng đều do theo sức đại nguyện biến hóa sanh. Vì thế, trước đây Ta ở thiên cung đã thuyết giảng về ý nghĩa có sanh, không sanh, nghiệp sanh hay biến hóa sanh. Này Phật tử! Trong quả vị Thánh có hai thứ nghiệp: Một là Tuệ nghiệp, là trí tuệ vô tướng, vô sanh, mọi tâm chuyên vào pháp tánh. Tuy sanh nhưng lặng yên nên gọi là Tuệ nghiệp. Hai là Công đức nghiệp, từ nơi Thật trí phát sanh các pháp vô lậu trong Tục đế hữu vi, tích chứa trăm vạn A tăng kỳ công đức, vì thế gọi là Công đức nghiệp. Từ Thánh nơi Địa thứ nhất lên các Địa sau là thị hiện thọ sanh, vì sanh tử biến dịch đã chấm dứt, chẳng tạo nghiệp mới, do nghiệp lực mà duy trì thọ mạng hàng trăm ngàn kiếp, biến hóa thọ sanh khắp nơi.

 

KINH BỒ-TÁT ANH LẠC BỔN NGHIỆP

QUYỂN HẠ

Phẩm 4: GIẢI THÍCH Ý NGHĨA

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Kính Thủ:

– Trước đây, ông đã hỏi về nghĩa và tướng. Hôm nay, Ta sẽ nói về nghĩa và tướng của mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, Địa Vô cấu và Địa Diệu giác.

Này Phật tử! Trong kinh Kim Cang Hải Tạng Anh Lạc nầy giải thích về nghĩa tướng của bậc Hiền Thánh, nghĩa phát xuất từ Thể. Thể là thể của Bồ-tát, nghĩa gọi là công đức. Hai pháp như thế làm thể, làm nghĩa của tất cả Bồ-tát, do đó gọi là Thể, Nghĩa.

Này Phật tử! Trụ Phát tâm (Trụ thứ nhất) là vị ấy ban đầu chỉ là phàm phu, chưa biết Tam bảo, Thánh nhân, chưa nhận biết nhân quả xấu tốt, lành dữ. Tất cả đều không nhận thức, không hiểu, không biết. Này Phật tử! Từ hạng phàm phu không hiểu biết gặp được chư Phật, Bồ-tát khởi một niệm tin đối với giáo pháp, lại phát tâm Bồ đề. Bấy giờ, người ấy được gọi là Bồ-tát tin tưởng, cũng gọi là Bồ-tát giả danh, cũng gọi là Bồ-tát danh tự, vị nầy thực hành tóm lược mười tâm, gồm có tâm Tín, tâm Tấn, tâm Niệm, tâm Tuệ, tâm Định, tâm Giới, tâm Hồi hướng, tâm Hộ pháp, tâm Xả, tâm Nguyện. Lại thực hành thêm mười tâm, như tu mười pháp thiện, năm giới, tám giới, mười giới, sáu Ba-lamật giới. Người nầy lại tu thêm mười điều thiện, hoặc một kiếp, hai kiếp, ba kiếp tu mười tâm Tín được hưởng phước báo của sáu cõi trời. Căn lành bậc thượng có ba phẩm: Thượng phẩm làm Thiết Luân Vương cai trị một châu thiên hạ. Trung phẩm làm Túc Tán Vương. Hạ phẩm làm vua trong loài người. Người nầy còn đủ tất cả phiền não, nhưng đã tích lũy vô lượng nghiệp lành, có khi thối thất cũng có lúc tiến lên. Nếu được gặp thiện tri thức chỉ dạy pháp Phật, hoặc một kiếp, hai kiếp mới vào quả vị Trụ. Nếu không như vậy thì bị chìm đắm không thể ra khỏi, thuộc thành phần thối lui thiện căn. Này Phật tử! Phát tâm trụ là hạng người có căn lành thuộc thành phần tiến lên. Hoặc một kiếp, hai kiếp ở chỗ có nhiều chư Phật, tu tập mười tâm Tín, tin tưởng Tam bảo, thường trụ trong tám vạn bốn ngàn trí tuệ Ba-la-mật, tất cả các hành và pháp môn đều thọ trì, tu tập, luôn phát khởi tâm tín, không tạo mười thứ tà kiến, năm tội nghịch, tám thứ nhận thức điên đảo, không sanh vào chỗ nạn, thường gặp pháp Phật, văn tuệ rộng lớn, tìm đủ mọi cách mới vào cảnh giới không, an trú vào tánh không nên gọi là Trụ. Vị nầy trước kia tu tập pháp Phật bằng tâm thông tỏ về lý không. Tất cả công đức không tự mình tạo, mà tâm sanh tất cả công đức. Tuy thế, người nầy không gọi là Địa, chỉ được gọi Trụ.

Này Phật tử! Bậc Trụ Trị địa là thường tùy theo tâm không, lắng sạch tám vạn bốn ngàn pháp môn, do đạt thanh tịnh nên gọi là Trụ Trị địa. Này Phật tử! Nuôi lớn hết thảy các hành nên gọi là trụ Tu hành. Sanh vào nhà Phật, chủng tánh thanh tịnh là trụ Sanh quý. Tu tập, vun trồng vô lượng căn lành, gọi là trụ Phương tiện cụ túc. Thành tựu trí tuệ thứ sáu gọi là trụ Chánh tâm. Nhập vào lý vô sanh nơi cảnh giới không, rốt ráo, tâm thường tu hành không, vô tướng, vô nguyện, gọi là trụ Bất thối. Từ khi phát tâm không sanh điên đảo, không khởi tà kiến ma sự phá tâm Bồ đề, gọi là trụ Đồng chân. Ở trong giáo pháp của đấng Pháp vương mà sanh giác ngộ, sẽ tiếp nối quả vị Phật, gọi là trụ Pháp Vương Tử. Từ những quán không của chín bậc trên, chứng được tâm vô sanh tối thượng, gọi là trụ Quán đảnh. Theo tâm Quán đảnh tiến vào ngôi vị biết năm ấm là tánh không, thực hành tám vạn bốn ngàn trí tuệ Ba-lamật, gọi là mười hạnh.

Này Phật tử! Khi mới nhập vào thể tánh không, không bị tà luận của ngoại đạo làm nghiêng đổ, nhập vào chánh vị gọi là hạnh Hoan hỷ. Thường giáo hóa tất cả chúng sanh khiến đạt được lợi lạc, gọi là hạnh Nhiêu ích. Đối với pháp thực chứng, tâm nhẫn không ngã, ngã sở gọi là hạnh Vô sân hận. Thường an trú vào công đức, hiện hành giáo hóa chúng sanh, gọi là hạnh Vô tận. Khi mạng chung, quỷ vô minh không làm loạn, không làm cho ô trược, không mất chánh niệm, gọi là hạnh Lìa si loạn. Đời nào cũng thường sanh nơi cõi Phật, gọi là hạnh Thiện hiện. Ở nơi ngã là vô ngã cho đến tất cả pháp không, gọi là hạnh Vô trước hạnh. Thường kính trọng pháp Phật trong ba đời gọi là Tôn trọng. Thuyết pháp, truyền trao cho người, việc gì cũng thành phép tắc gọi là hạnh Thiện pháp. Hai đế Chân, Tục, chẳng phải như, chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng gọi là hạnh Chân thật.

Này Phật tử! Từ tâm chân thật nhập vào cảnh giới của chúng sanh không, vô ngã không, hai không bình đẳng không khác, tướng nhất quán là tướng hợp nhất, học tập trăm vạn ức quán không về trí tuệ Bala-mật, xoay vần từ trước đến sau, tâm tâm quan sát chỉ có trạng thái vắng lặng, sáng suốt, nuôi lớn những pháp minh quán của bậc Mười địa hồi nhân, hướng quả. Lại dùng vô lượng tâm không bỏ, không nhận. Pháp của mười hồi hướng cũng như vậy. Này Phật tử! Thường dùng tâm vô tướng,luôn vào sáu đường để nhận quả báo, không nhận mà nhận, các sự thọ nhận như vậy đều xoay vần biến đổi nhằm chuyển hóa chúng sanh, gọi là hồi hướng Cứu hộ nhất thiết chúng sanh lìa tướng chúng sanh. Quán tất cả pháp chỉ có thọ dụng, chỉ có danh, mỗi niệm không ngừng, gọi là hồi hướng Bất hoại. Tất cả thời tu hành pháp Phật trong ba đời, gọi là hồi hướng Đẳng nhất thiết Phật. Dùng diệu lực của nguyện lớn vào tất cả cõi Phật để cúng dường chư Phật, gọi là hồi hướng Hướng đến nhất thiết xứ. Vì thường an trú nơi Tam bảo, giáo hóa cho mọi người, gọi là hồi hướng Vô tận công đức tạng. Tu tập hành tướng thiện và vô lậu thiện mà không hai, gọi là hồi hướng Tùy thuận bình đẳng thiện căn. Vì quán cha mẹ hoặc thiện hoặc ác không hai chỉ là một tướng hợp nhất, gọi là hồi hướng Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh. Vì thường quán chiếu hai đế “hữu, vô”, biết tất cả pháp là tướng hợp nhất, gọi là Hồi hướng Như tướng. Vì thấy các pháp không hai, Bát nhã vô sanh, hai đế bình đẳng, quá khứ, hiện tại, vị lai đều là tướng hợp nhất, gọi là hồi hướng Giải thoát không còn trói buộc. Giác ngộ tất cả pháp đều là trung đạo của Đệ nhất nghĩa đế vô tướng, các pháp đều là một tướng chiếu soi, gọi là hồi hướng Pháp giới vô lượng.

Này Phật tử! Ba mươi tâm nầy nếu giải thích đủ thì có vô lượng vô biên nghĩa, chẳng phải tất cả trí của hàng phàm phu có thể suy lường được. Vì đó là con đường giáo hóa của tất cả chư Phật và Bồ-tát trong mười phương.

Này Phật tử! Trước ông hỏi: Thế nào là Địa?

Này Phật tử! Địa là duy trì (giữ gìn). Giữ gìn trăm vạn A tăng kỳ công đức, cũng gọi là sanh, thành tựu tất cả nhân quả nên gọi là địa. Bỏ hạnh phàm phu sanh vào nhà Phật, tiếp nối quả vị Bồ-tát, nhập vào Thánh chúng, bốn loài ma không làm cho điên đảo, giữa hữu và vô thể tánh đều bình đẳng, cả hai đều chiếu sáng đức tin rộng lớn mới được đầy đủ. Lại tu học quán trung đạo vô sanh nơi Đệ nhất nghĩa đế. Tu học pháp môn minh quán, trên từ Địa thứ hai, Địa thứ ba, cho đến Địa thứ mười một, mọi tâm đều vắng lặng, thể nhập vào dòng nước pháp. Một tướng, không tướng, hai thứ thân không gì ngăn ngại, thần thông biến hóa đều nhập vào cõi Phật, gọi là địa Hoan hỷ. Vì chân chánh vô tướng nên nhập hoàn toàn vào cảnh giới không của chúng sanh, hiện thân khắp các thế giới của vạn đức Phật, sáu thông biến hóa vô ngại, gọi là địa Ly cấu. Này Phật tử! Tuệ giác sáng suốt và tín nhẫn, tu tập mười hai bộ kinh của Phật thuở xưa: Trường hàng, Trùng tụng, Thọ ký, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Vị tằng hữu, Luận nghị. Lại dùng pháp nầy để giáo hóa chúng sanh, tâm sáng suốt, thần thông biến hóa gọi là địa Minh (địa Phát quang). Từ trí vô sanh tùy thuận để phát sanh pháp nhẫn, quán hai tướng chân tục của các pháp, trên là quán các công đức của Phật, dưới quán cảnh giới nơi sáu đạo của chúng sanh. Do quán pháp Đại từ nên thuyết pháp, ban cho niềm vui. Do quán Đại bi nên cứu chúng sanh thoát khỏi ba đường khổ. Do quán Hỷ nên mọi người được yên vui. Do quán Xả nơi khắp chúng sanh nên đều hội nhập thể tánh bình đẳng. Vì nhập bảy pháp quán như trên nên gọi là địa Diệm huệ. Với pháp thuận nhẫn tiến tu Thánh đạo, vô minh trong ba cõi cùng nghị kiến, tất cả đều không, thành tựu công đức nơi tám thứ biện tài, nhập vào năm minh, năm luận, tức là bốn thuật biện luận về nhân, quả và thuật biện luận về nội điển, ngoại điển, bất cứ lĩnh vực nào cũng đều thông suốt gọi là địa Nan thắng. Với pháp quán thuận nhẫn bậc thượng, quán tất cả pháp thuộc về quá khứ, hiện tại và vị lai đều là tướng hợp nhất. Nhân duyên pháp giới là tướng vắng lặng, không hai, gọi là địa Hiện tiền.

Này Phật tử! Các pháp nhẫn vô sanh, quán các pháp chẳng phải là có phiền não, chẳng phải là không phiền não, một lần sanh ra, một lần diệt đi, một lần thành quả, một thân sau cùng thuộc trong ba giới, vừa xuất vừa nhập, tích chứa vô lượng công đức, thường hướng đến địa bậc trên, mọi niệm đều vắng lặng gọi là địa Viễn hành. Này Phật tử! Do Bồ-tát quán pháp vô sanh, dứt bỏ quả báo nơi ba cõi và những tác dụng của quả biến dịch, thể nhập trung nhẫn của Tuệ vô tướng, từ không hiện có, từ có hiện không, tự tại biến hóa vô thường, tự thấy thân mình sắp đạt quả là chư Phật xoa đỉnh đầu, thuyết pháp, thân, tâm nơi hành riêng không thể nghĩ bàn, nên gọi là địa Bất động. Bồ-tát lại vào quán pháp môn thượng nhẫn, mỗi một ánh sáng đều có hóa Phật, do thể vô sanh nhẫn, thị hiện tất cả thân Phật, gọi là địa Diệu huệ.

Này Phật tử! Bồ-tát tu tập đến đây là nhập hạ phẩm Đại tịch nhẫn của lý trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế, làm công hạnh Phật, an tọa nơi tòa hoa sen báu có ngàn cánh, nhận sự thọ ký để thành vị Phật, học công năng giáo hóa của Phật. Hai thứ tập khí đã được chiết phục, đoạn trừ, thành tựu lòng tin sâu xa đối với quả Phật, đồng với chân như và

pháp giới. Chân, tục hai đế đều là một tướng, đầy đủ tất cả các công đức, thể nhập nơi căn cơ chúng sanh, anh lạc vô thượng là công đức trang nghiêm, đồng thời xuất hiện tất cả hình tướng, nên gọi là địa Pháp vân.

Này Phật tử! Bấy giờ, Bồ-tát an trú vào Nhẫn quán của trung phẩm Đại tịch môn, công hạnh đều đầy đủ, lên đỉnh Đại sơn, trăm ngàn Tam muội tích chứa oai nghi, diệu dụng của Phật, chỉ còn tích lũy quả đức. Với vô thường, sanh, diệt, mọi tâm không còn bị lay động, tu hạnh vượt qua địa thứ mười, hiểu biết như Phật, ngồi chỗ Phật ngồi. Trí tuệ của Bồ-tát này thấy rõ của cảnh giới chân thường và vô thường của các pháp. Nên biết, Bồ-tát này như đức Phật, gọi là học với đức Phật. Tất cả các Bồ-tát ở địa dưới không biết sự sai khác của Bồ-tát này, đối với đức Phật gọi là Bồ-tát, đối với Bồ-tát ở địa dưới gọi là Phật. Vì sao? Vì Bồ-tát dùng đại năng lực biến hóa để duy trì mạng sống trong trăm kiếp, vạn kiếp, thị hiện làm Phật, hiện tướng Đản sanh, thành đạo, chuyển bánh xe pháp, nhập Niết bàn Vô dư, giảng thuyết tám pháp luân tương tợ như Phật, nhưng chẳng phải quả Phật. Gọi bằng với chư Phật vì oai nghi, đi đứng… như Phật, an trú trong trăm ngàn Tam muội. Do thực hành những hạnh Phật như vậy, nên nhập vào Định Kim cang nhất tướng, vô tướng vắng lặng, vô vi gọi là địa Vô cấu. Đạo Bồ-tát với diệu quán thượng nhẫn vắng lặng vô cùng, vô tướng. Chỉ làm duyên sanh ra pháp thiện cho chúng sanh, cũng tự giữ gìn các công đức, nên gọi là Phật tạng, vừa tịch tĩnh mà soi chiếu tất cả pháp, cũng như tất cả Bồ-tát dưới Phật cũng vừa chiếu vừa tịch. Thế nên, này Phật tử! Trước kia ở cõi Tứ thiền, Ta vì tám ức Phạm thiên vương trình bày về tịch, chiếu của Như Lai không tâm, không sắc, vắng lặng, soi chiếu tất cả pháp. Hôm nay, Ta nói tóm lược về câu và nghĩa, vì đại chúng này thuyết giảng về các hạnh pháp thiện.

Phẩm 5: PHẬT MẪU

Bấy giờ, Bồ-tát Kính Thủ thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Hai loại chiếu, trí của Phật và Bồ-tát từ đâu sanh ra? Về nghĩa tịch chiếu và chiếu tịch là thế nào? Pháp tánh của nhị đế là một hay hai? Thuộc về có hay không? Đệ nhất nghĩa đế là như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Này Phật tử! Gọi là hữu đế, vô đế, trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế, là mẹ sanh ra trí tuệ của chư Phật và Bồ-tát, cho đến tất cả pháp cũng là mẹ sanh ra trí tuệ của chư Phật và Bồ-tát. Vì sao? Vì chư Phật và Bồ-tát đều từ pháp sanh. Này Phật tử! Hai đế là: Thế đế (Hữu đế) là giả có mà chẳng hoàn toàn không, Vô đế là chân không nên chẳng phải có. Hai đế thường như vậy nên chẳng phải một. Bậc Thánh soi chiếu thấy chúng là không nên chẳng phải hai. Dù có đức Phật hay không có thì pháp giới cũng không thay đổi, nên chẳng phải không. Đệ nhất nghĩa không hai nên chẳng phải có. Dù có đức Phật hay không thì pháp giới cũng có hai tướng nên chẳng phải một. Các pháp thường thanh tịnh nên chẳng phải hai. Vì chư Phật trở lại làm phàm phu nên chẳng phải không. Vì không là không nên chẳng phải có. Vì không thật nên chẳng phải một. Bổn tế không sanh nên chẳng phải hai. Không hủy hoại giả danh nơi tướng của các pháp nên chẳng phải không. Các pháp tức chẳng phải các pháp, nên chẳng phải có. Pháp chẳng phải pháp nên chẳng phải hai. Chẳng phải phi pháp nên chẳng phải một. Này Phật tử! Nghĩa của hai đế là chẳng phải một cũng chẳng phải hai, chẳng thường cũng chẳng đoạn, không đến cũng không đi, không sanh cũng không diệt, mà hai là tướng tức như Thánh trí không hai không có hai nên gọi là mẹ sanh ra trí tuệ của chư Phật và Bồ-tát. Này Phật tử! Vô số cõi Phật ở mười phương đều cũng như vậy. Hôm nay Ta vì đại chúng nói tóm lược về nghĩa căn bản của hai đế trong kinh Minh Nguyệt Anh Lạc này.

Lúc ấy, Bồ-tát Kính Thủ bạch Phật:

Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật, Bồ-tát với đại trí tuệ phương tiện bình đẳng, chiếu soi các pháp giới, làm cho giác ngộ nhanh hay chậm? Tạng thức vô minh và tâm là một hay khác? Số lượng lâu mau như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Này Phật tử! Ông ở đời quá khứ, trong giáo pháp của bảy đức Phật trước, mỗi mỗi đều đã thưa hỏi, chẳng phải là không rõ! Nay vì mười bốn ức vị trong đại chúng này, ông muốn khiến cho đại chúng hiểu rõ pháp ấy nên thưa hỏi chăng?

Này Phật tử! Hôm nay, vì đại chúng mười bốn ức người, Ta dùng kim cang khẩu nói về liễu nghĩa quyết định. Pháp hội thuở xưa của Ta có một ức tám ngàn Bồ-tát ở địa Vô cấu, ngay tại chỗ ngồi đạt được nguồn gốc của pháp tánh, liền giác ngộ nhanh chóng về lý không hai, các pháp tướng hợp nhất. Các đức Phật rời khỏi pháp hội, mỗi vị an tọa ở thế giới khắp mười phương giảng nói về Bảo tạng Anh lạc của Bồ-tát. Ngay pháp hội đại chúng đang ngồi đều thấy rõ một ức tám ngàn đức

Thế Tôn, gọi là Đốn giác Như Lai. Mỗi vị đều ngồi nơi tòa Sư tử hống bằng trăm thứ báu. Khi ấy, vô lượng đại chúng cũng ngồi một chỗ, lắng nghe vị Đẳng giác Như Lai thuyết giảng về Tạng pháp anh lạc, vì thế không có sự giác ngộ dần dần của Thế Tôn mà chỉ có giác ngộ lập tức của Như Lai. Chư Phật ba đời đều thuyết giảng như vậy không khác, Ta nay cũng thế.

Này Phật tử! Trước ông đã hỏi về Tạng thức vô minh và tâm là một. Điều nầy không phải như thế. Nếu giải thoát khổ và các kiến chấp mê lầm là một tướng thì lẽ ra không trói, không buộc, Phật và phàm chẳng hai. Vì sao? Vì phiền não đồng một thể tướng. Sao thế? Vì cùng một tâm sanh diệt cùng một lúc, nên không khác, không sai biệt. Này Phật tử! Nếu trói và mở là một tướng thì bốn đại có thể là một, sáu vị chẳng khác nhau, nhưng mỗi đại mỗi khác, mỗi vị mỗi khác, nên trói buộc, giải thoát cũng như vậy. Này Phật tử! Tất cả Bồ-tát khi còn là phàm phu đều đầy đủ các kiết sử, nhưng khi trừ diệt thì phần thô bỏ trước, phần vi tế diệt sau. Nếu nhất tâm và phiền não là một, lẽ ra phải có hai thể sáng tối. Này Phật tử! Lấy gần để luận, nếu lấy xa hơn thì trong tâm thiện của hàng phàm phu còn không có tâm bất thiện, huống chi trong tâm vô tướng lại có vô minh. Này Phật tử! Cho thiện, ác cùng một tâm, đó là bài kệ của An Sư Đà, kẻ ngoại đạo của nước vua Bình Sa: “Sáng tối là một tướng, thiện ác đồng một tâm”.

Này Phật tử! Theo nghĩa đúng trong pháp của Ta mà nói: Thiện ác đồng một hành (uẩn) có trói buộc, có giải thoát, có phàm, có Phật, tiếp nối nơi trăm kiếp cũng đồng một hành, không được nói: Thiện ác đồng một tâm. Chư Phật xưa thường nói: Lửa của trí vô tướng diệt trừ bóng tối vô minh mà thiện, ác có hai thứ sai khác, nhưng cho là đồng một quả báo, điều nầy cũng không đúng. Tất cả thiện đều thọ nhận quả Phật, vô minh phải chịu nhận quả hữu vi sanh diệt, vì thế, quả thiện từ nhân thiện sanh, quả ác từ nhân ác sanh. Cho nên gọi thiện không thọ nhận quả sanh diệt, chỉ thường lãnh thọ quả Phật. Nếu tất cả pháp thiện của Thánh nhân và phàm phu đều gọi là vô lậu, không lãnh thọ quả hữu lậu, nhưng nói lãnh thọ quả hữu lậu là Phật giáo hóa chúng sanh đổi ác làm lành, làm nhân duyên để sanh quả báo hữu vi, chẳng phải vô lậu. Vô minh là nhân làm nghiệp thọ quả, nên gọi là ba thọ, ba khổ. Ba khổ là khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Ba thọ là khổ thọ, lạc thọ, xả thọ. Hai thọ (lạc thọ và xả thọ) làm duyên tốt cho nhân và quả, khổ thọ là duyên của nhân quả ác. Tất cả pháp ấy đều khổ, vô minh là gốc.

Này Phật tử! Trước đây ông đã hỏi về kiếp số hành đạo của chư Bồ-tát lâu, mau. Việc đó là: Ví như một tảng đá một dặm, hai dặm cho

đến mười dặm, vuông vức như vậy, có người dùng áo trời nặng bằng ba thù, lấy theo lịch âm dương nơi cõi người, ba năm một lần lau tảng đá đó, lau đến khi mòn hết tảng đá, khoảng thời gian ấy là một tiểu kiếp. Hoặc lau mòn tảng đá vuông vức một dặm, hai dặm cho đến bốn mươi dặm, cũng gọi một tiểu kiếp. Lại lấy tảng đá vuông vức tám mươi dặm cũng dùng chiếc áo trời Phạm thiên nặng chừng ba thù và cõi Phạm thiên có thứ ánh sáng trăm báu của ngọc minh châu phát ra làm ngày, tháng, năm, cứ ba năm một lần lau tảng đá ấy. Lau cho đến lúc mòn hết, thời gian đó gọi là một trung kiếp.

Lại lấy tảng đá vuông vức tám trăm dặm, dùng chiếc áo nặng chừng ba thù của trời Tịnh Cư. Trong cõi này có gương sáng soi do ngàn thứ ngọc phát ra ánh sáng làm ngày, tháng, năm, cứ ba năm một lần lau tảng đá ấy. Lau cho đến lúc mòn hết, thời gian đó gọi là một đại A tăng kỳ kiếp.

Này Phật tử! Cách tính và gọi kiếp như sau: Tảng đá vuông vức một dặm, hai dặm, cho đến mười dặm, lau mòn hết gọi là một lý kiếp, hai lý kiếp. Nếu tảng đá vuông vức năm mươi dặm lau mòn hết gọi là năm mươi lý kiếp. Tảng đá trăm dặm, lau mòn hết gọi là một trăm lý kiếp. Tảng đá vuông vức ngàn dặm, vạn dặm cũng vậy, lau đến khi mòn hết gọi là ngàn lý kiếp, vạn lý kiếp.

Này Phật tử! Tất cả Hiền Thánh đều ở cùng số lượng kiếp ấy, tu tất cả pháp môn. Thời gian lâu mau để chứng quả Phật, phải kể một trăm đại kiếp mới đạt đến ngôi vị Đẳng giác. Nếu như tất cả chúng sanh ở vào số kiếp ấy tu hành thì không lâu sẽ chứng quả vị Phật. Nếu không ở vào thời gian đó thì chẳng gọi là Bồ-tát.

Này Phật tử! Pháp môn này là mười tâm tín làm gốc cho tất cả hạnh. Do đó trong mười tâm tín, mỗi tâm tín có mười phẩm tâm tín, làm ra trăm pháp minh môn. Lại từ trăm pháp minh môn, mỗi tâm còn có trăm tâm, cho nên thành ra một ngàn minh môn, cứ mỗi tâm lại có một ngàn tâm, cứ như vậy mà tăng cho đến vô lượng minh môn. Lại cứ lần lượt hơn lên cho đến những pháp của thượng thượng sẽ thành “Minh minh pháp môn” với hàng trăm vạn A tăng kỳ công đức. Tất cả các hạnh đều nhập hết vào trong minh môn ấy.

Phẩm 6: NHÂN QUẢ

Bấy giờ, Bồ-tát Kính Thủ lại hỏi:

– Bạch đức Thế Tôn! Chánh pháp của bậc Hiền Thánh đã thuyết đủ rồi, còn hai tướng nhân quả như thế nào?

Đức Phật bảo:

– Này Phật tử! Nhân tu hành của chư Phật nơi ba đời là mười Bala-mật, đó chính là trăm vạn A tăng kỳ trí tuệ nơi gốc công đức. Phật và Bồ-tát đều gồm thâu vào trong đó. Thế nên, mười pháp là kho tàng của biển trí tuệ kim cang, phát xuất tất cả các hạnh công đức sáng rỡ vô cùng.

Này Phật tử! Mười trí tuệ Ba-la-mật này, trước hết là thực hành Thí. Thí có ba duyên: Một là tiền của. Hai là giáo pháp. Ba là ban cho chúng sanh điều không sợ hãi. Giới có ba duyên: Một là giới tự tánh. Hai là giới thọ pháp thiện. Ba là giới làm lợi ích cho chúng sanh. Nhẫn có ba duyên: Một là nhẫn những hạnh khổ. Hai là nhẫn những điều ác bên ngoài. Ba là nhẫn của Đệ nhất nghĩa đế. Tinh tấn có ba duyên: Một là tâm khởi thệ nguyện rộng lớn. Hai là phương tiện hướng đến Bồ đề. Ba là siêng năng giáo hóa chúng sanh. Thiền có ba duyên: Một là định tâm không cho tướng loạn khởi lên. Hai là định sanh tất cả công đức. Ba là định làm lợi ích cho chúng sanh. Tuệ có ba duyên: Một là soi chiếu về Tục đế (Hữu đế). Hai là soi chiếu về Chân đế (Không đế). Ba là soi chiếu về trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế. Nguyện có ba duyên: Một là nguyện tự tu hành. Hai là nguyện do thần thông. Ba là nguyện giáo hóa chúng sanh. Phương tiện có ba duyên: Một là tiến đến để đạt kết quả. Hai là hiểu giỏi về Hữu và Vô. Ba là các pháp đều không bỏ cũng không nhận. Thông lực có ba duyên: Một là thông lực của quả báo. Hai là thông lực do tu định. Ba là thông lực do biến hóa.

Tuệ vô cấu có ba duyên: Một là trí vô tướng. Hai là trí nhất thiết chủng trí. Ba là trí biến hóa. Này Phật tử! Từ mười trí sanh ra tất cả hạnh công đức, như bảy Thánh tài là Tín, Thí, Giới, Văn, Tuệ, Tàm, Quý. Dùng những thứ này làm hành trang để thành Phật, nên gọi là Tài. Bốn nhiếp pháp là Lợi hành, Ái ngữ, Bố thí, Đồng sự. Bốn vô ngại biện là Pháp biện, Nghĩa biện, Từ biện, Lạc biện. Đấy là bốn pháp biện luận không bị chướng ngại nên gọi là Vô ngại biện. Từ vô ngại trí sanh ra khả năng sáng suốt nên gọi là Y (dựa vào), gồm: Y kinh liễu nghĩa, chẳng y kinh không liễu nghĩa. Y theo pháp chẳng y theo người. Y theo ý nghĩa chẳng y theo lời. Y theo trí tuệ chẳng y theo vọng thức. Từ trí sanh ra mười lực, bốn vô sở úy, sáu thần thông, ba minh, trăm vạn A tăng kỳ công đức, lần lượt sanh ra trí tuệ có khả năng duyên với tám sự thật ở đời như pháp bốn đế, hai đế, mười hai nhân duyên. Tám sự thật là: Các pháp đều do duyên mà thành. Các pháp hư giả không có ngã. Các pháp hữu vi đối đãi lẫn nhau. Các pháp tướng đều hư vọng. Tiếp 6 nối liên tục nên gọi là một tướng. Rỗng lặng nên không thể nắm bắt. Nhân sanh tập khởi tức pháp chẳng phải là duyên. Tập nhân thật có là pháp sanh thành, pháp giả tạo nên pháp. Thọ là khởi, dụng là pháp tích tụ. Thế nên, tám pháp hữu vi và tất cả pháp là nơi được trí căn bản soi chiếu đến. Lại nữa, từ nơi trí nầy có thể dứt trừ năm triền cái là tham dục, giận dữ, ngủ nghỉ, trạo cử, nghi hoặc. Bốn thứ thọ thực như Xúc thực, Thức thực, Tư thực, Đoạn thực. Bốn cách sanh như Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh, Hóa sanh. Có thể trừ bỏ mười ác, năm tội nghịch, tám thứ điên đảo, mười ba phiền não, ba chướng nơi sáu đường, ba cõi, sáu mươi hai thứ kiến chấp, bốn lưu, bốn phược, bốn thủ, chín phiền não, bảy thức xứ, bốn kiếp… Những pháp được trừ diệt đều gọi là pháp bất thiện.

Này Phật tử! Những cảnh được trừ bỏ do mười trí và những công đức đều gọi là nhân của Phật, các vị nên chấp nhận mà tu trì.

Này Phật tử! Trước ông hỏi: Thế nào là quả? Quả là thể của pháp giới tánh, là những công phu tu tập nơi đạo pháp của bậc Bồ-tát năm hiền. Thể này chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải lớn, chẳng phải nhỏ, chẳng phải thân, chẳng phải tâm, chẳng phải tướng, chẳng phải ba đời, chẳng phải trời, chẳng phải người, chẳng phải tên gọi, chẳng phải Thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng phải sáu đường, chẳng phải sáu thức, chẳng phải sáu nhập, chẳng phải số lượng, vượt khỏi hình tướng của các pháp, chẳng phải ruộng phước, chẳng phải quỷ thần, chẳng phải động, tịnh, chẳng phải sanh, diệt, chẳng phải thứ nhất, chẳng phải năm sắc, chẳng phải sáu đại, chẳng phải đất đai, chẳng phải pháp giới, chẳng phải ba cõi, chẳng phải trói, mở, chẳng phải sáng tối, chẳng phải pháp chứng đắc. Thể này vắng lặng, vô vi vượt ngoài tất cả pháp, không thể đem tâm suy nghĩ, chỗ này rất khó thể lường, phải từ trong lý tương đối, trải qua vô lượng vô số kiếp tu hành mới có quả báo.

Này Phật tử! Có hai Pháp thân: Một là Pháp thân cực quả. Hai là Pháp thân ứng hóa. Pháp thân ứng hóa như bóng theo hình. Do Pháp thân cực quả là thường hằng nên ứng hóa thân cũng thường tồn tại. Này Phật tử! Thuở xưa, chư Phật nêu đạo lý nơi hai Pháp thân cũng như vậy. Hai Pháp thân của tất cả Bồ-tát đều là thân không nhất định. Tất cả phàm, Thánh cũng đều có hai thân là báo thân và phương tiện thân. Báo thân thì không giống nhau, còn phương tiện thân thì cũng có cùng với chúng sanh.

Này Phật tử! Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đều có hai thân, chư Như Lai thường nói như vậy, nên gọi là liễu nghĩa quyết định. Này Phật tử! Về nghĩa công đức nơi thân thì thể của chư Phật vẫn là đồng nhau, quả pháp không khác, tức có đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật – Thế Tôn, vì đủ mười đức trên, nên được tất cả chúng sanh cúng dường cung kính. Lại nữa, chư Phật có mười tám pháp bất cộng, gồm: Thân không lầm lỗi, khẩu không lầm lỗi, niệm không lầm lỗi, không tưởng gì khác, chẳng có tâm bất định, biết hết tất cả nhưng tâm buông xả, niệm không giảm, dục không giảm, tinh tấn không giảm, trí tuệ không giảm, giải thoát không giảm, thân nghiệp theo trí tuệ hành động, ngữ nghiệp theo trí tuệ nói năng, ý nghĩa theo trí tuệ quán xét, trí tuệ biết việc quá khứ, trí tuệ biết việc hiện tại, trí tuệ biết việc vị lai không chướng ngại. Lại có mười lực. Trí biết những gì đúng sai. Nghiệp lực biết rõ nghiệp của ba đời, Định lực, Căn lực, Dục lực, Tánh lực, Quả lực, Thiên nhãn lực, Túc mạng lực, Kiết tận lực. Bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả nơi Ta là bậc Nhất thiết trí đã diệt hết hoàn toàn lậu, thoát khỏi phiền não và phiền não chướng, có đủ thiên thân, thiên nhãn, thiên nhĩ, lậu tận, túc mạng, tha tâm, đủ năm nhãn, năm phần pháp thân, ba nghiệp không lỗi lầm là Phật, Pháp, Tăng bảo, Niết Bàn giải thoát, trí linh diệu đạt đến Nhất thừa. Tạng báu kim cang, tạng pháp thân, tạng diệu tự tánh thanh tịnh là bậc ba Đạt, ba vô vi, ba minh, là nhất chân pháp giới, đạo độc nhất vô vi an lạc. Này Phật tử! Các quả của Thánh trí đều từ kho tàng vô lượng công đức không thể tính kể. Những quả ấy là nhất đạo. Thể của quả tròn đầy, công đức đầy đủ nghĩa lý cùng khắp, nhập vào trung đạo nơi Đệ nhất nghĩa đế làm thanh tịnh cõi nước vô cùng, không tên không tướng, không thể thủ đắc các pháp, chẳng có thể, chẳng vô thể. Nó là một tướng chiếu diệu, tướng hợp nhất, tướng nhất thể, là tướng giác ngộ, trong suốt không hai. Này Phật tử! Chỉ riêng một pháp quả này là viên mãn thường trú. Thể và tướng của quả độc nhất có vô lượng nghĩa, nghĩa có vô lượng công đức. Công đức có vô lượng tên. Nghĩa của quả là Niết Bàn Thường, lạc, ngã, tịnh. Mười tám pháp bất cộng và tất cả công đức đều gọi là nghĩa quả, nên gọi là quả của quả. Này Phật tử! Nghĩa lý, công đức, danh từ cả ba từ ngữ ấy đều do giáo hóa chúng sanh mà có nghĩa ba câu như vậy. Các bậc Thánh và chúng sanh nếu ai hiểu rõ ba từ ngữ ấy thì được chư Phật nơi ba đời thọ ký, sẽ được vào ngôi vị ấy.

Này Phật tử! Quả này không thể nói hết, không thể biết được, mà phải dùng pháp có tên, có tướng để nói về danh, tướng của pháp. Cho nên mỗi một quả là tên gọi của thể, còn nghĩa là quả của quả. Nghĩa

của quả là phát xuất từ quả tròn đầy, nên gọi là quả của quả. Này Phật tử! Nếu Ta nói về nhân, quả thì dù trăm ngàn kiếp cũng không thể nói hết. Đại chúng các vị hãy tự thọ trì.

Phẩm 7: ĐẠI CHÚNG THỌ HỌC

Bấy giờ, Bồ-tát Kính Thủ đảnh lễ chư Phật, thay mặt đại chúng tóm tắt thưa hỏi về những nghĩa cốt yếu đã giảng nói trong bảy pháp hội. Bồ-tát tin thuận ba tạng Pháp bảo. Vì muốn một pháp không bị đoạn tuyệt, không vì danh lợi ở thế gian, muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài, nên Bồ-tát thưa đức Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Trước đây, đức Phật thuyết giảng về nhân, về quả nơi tất cả kho tàng công đức của Hiền Thánh. Hôm nay, đại chúng gồm mười bốn ức người, ai có thể không rời chỗ ngồi mà vẫn lãnh thọ đường lối tu hành từ trước đến sau, mỗi mỗi đều thực hành đầy đủ, tuần tự nhập vào quả vị Bồ-tát.

Lúc này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ tướng nhục kế trên đảnh, phóng ra tất cả hào quang của Phật và Bồ-tát, nhằm triệu tập chư Phật khắp mười phương, mỗi phương có đến trăm ức cõi Phật, tất cả chư Phật và Bồ-tát trong những cõi ấy đều vân tập đến. Chính ngay vào lúc đó, ở giữa đại chúng, đức Phật nói với các Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Pháp Tuệ, Bồ-tát Công Đức Lâm, Bồ-tát Kim Cang Tràng, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Thiện Tài Đồng Tử:

– Các vị đã thấy Bồ-tát Kính Thủ ở giữa đại chúng thưa hỏi ba pháp quán về pháp giới, về đạo thanh tịnh nơi tự tánh của chư Phật và pháp môn minh quán của các Bồ-tát cần phải tu hành. Các vị, bảy bậc Bồ-tát, mỗi vị lãnh thọ trăm vạn đại chúng, nên phải ghi nhận học quán như thế.

– Này Phật tử! Hôm nay Ta lại nói thêm về pháp minh quán, đó là thứ lớp của lối vào sáu chủng tánh, ông hãy lắng nghe kỹ, tư duy tu tập các trí tuệ, khuyến khích đại chúng theo đó tu hành. Tất cả chúng sanh khi mới nhập vào biển Tam bảo, phải dùng đức tin làm căn bản, khi vào nhà Phật rồi lấy giới làm gốc. Này Phật tử! Những thiện nam, thiện nữ, người không đủ các căn, kẻ huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, kẻ nô tỳ và hạng người biến hóa, khi mới bắt đầu làm hạnh Bồ-tát, thọ là đắc giới vì đều có tâm hướng thượng. Người nào đầu tiên phát tâm xuất gia, nối tiếp quả vị Bồ-tát, trước tiên phải thọ giới pháp chân chánh. Giới là gốc rễ nơi kho tàng hàm chứa tất cả hạnh công đức, là hướng đúng đến con đường thành Phật, là gốc của các hạnh. Giới có công năng trừ diệt các việc cực ác như bảy kiến chấp, sáu thứ vướng mắc. Giới là gương sáng của chánh pháp. Này Phật tử! Hôm nay vì các Bồ-tát, Ta kiết tất cả căn bản giới. Đó là ba tụ tịnh giới (ba môn thọ) gồm: Nhiếp thiện pháp giới (Giới gồm thâu các pháp thiện), tức là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nhiếp chúng sanh giới (Giới thâu tóm các chúng sinh) tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả giáo hóa tất cả chúng sanh đều được an vui. Nhiếp luật nghi giới (Giới thâu gồm các luật nghi) là mười pháp Ba-la-di.

Này Phật tử! Có ba cách thọ giới: Một là đối trước chư Phật, Bồtát hiện tiền mà thọ, liền được đắc giới chân thật phẩm thượng. Hai là sau khi chư Phật và Bồ-tát nhập diệt, trong vòng ngàn dặm có người trước đã thọ giới Bồ-tát, cung thỉnh bậc này làm vị giới sư trao giáo pháp cho mình. Trước hết, phải đảnh lễ ngang chân vị đó, rồi thưa: “Ngưỡng bạch Đại đức Tôn giả! Xin Đại đức làm thầy truyền trao giới pháp cho con”. Người đệ tử này đúng pháp được đắc giới, đó là đắc giới phẩm trung. Thứ ba là sau khi chư Phật nhập diệt, trong vòng ngàn dặm không có pháp sư, thì nên đối trước hình tượng chư Phật và Bồ-tát, quỳ thẳng chấp tay tự thệ thọ giới. Bạch như vầy: “Con pháp danh là… Ngưỡng bạch chư Phật nơi mười phương và Bồ-tát đại địa, nay con xin thọ học giới của tất cả Bồ-tát”. Bạch lần thứ nhất rồi, bạch lần thứ hai, lần thứ ba. Đây là giới thuộc phẩm hạ. Này Phật tử! Ba tụ tịnh giới có ba cách thọ giới như trên, chư Phật quá khứ đã dạy, chư Phật vị lai sẽ dạy, chư Phật hiện tại đang dạy. Các vị Bồ-tát quá khứ đã học, các vị Bồ-tát vị lai sẽ học, các vị Bồ-tát hiện tại đang học. Đây là giới pháp chân chánh của đức Phật. Nếu tất cả chư Phật, tất cả Bồ-tát không nhập vào pháp giới này để chứng quả vô thượng Bồ đề, đạt đến ngôi vị bình đẳng như hư không thì sự kiện đó không bao giờ có.

Đức Phật lại bảo:

– Này Phật tử! Hôm nay, Ta chính thức nói về điều giới chính yếu. Các thiện nam, thiện nữ khi sắp thọ giới, trước tiên đảnh lễ chư Phật ở đời quá khứ và nhiều kiếp ở quá khứ. Đảnh lễ chư Phật ở đời vị lai và nhiều đời ở vị lai. Đảnh lễ chư Phật ở đời hiện tại và tất cả hiện tại. Đảnh lễ ba lượt như vậy rồi, tiếp đến đảnh lễ Pháp, đảnh lễ Tăng cũng thế. Sau đấy, dạy cho giới tử kính thọ bốn đức tin bất hoại, nương tựa bốn pháp quy y sau: Từ thân đời này đến thân sau cùng ở đời vị lai, quy y Phật, quy y giáo pháp, quy y Hiền Thánh Tăng và quy y pháp giới, nói như vậy đủ ba lần. Kế đó, phải dạy giới tử sám hối tội lỗi ở ba đời. Nếu đời hiện tại mà thân, miệng, ý tạo mười tội ác, con xin thành tâm sám hối, nguyện hoàn toàn không khởi cho đến cùng tận đời hiện tại.

Nếu đời vị lai mà thân, miệng, ý tạo mười tội ác, con xin thành tâm sám hối, nguyện hoàn toàn không khởi cho đến tận cùng đời vị lai. Nếu đời quá khứ mà thân, miệng, ý tạo mười tội ác, con xin thành tâm sám hối, nguyện hoàn toàn không khởi cho đến tận cùng đời vị lai. Sám hối tội lỗi như vậy xong, ba nghiệp đều thanh tịnh như ngọc lưu ly, trong ngoài đều chiếu sáng, giới sư liền trao cho mười giới vô tận, bảo các giới tử hãy lắng nghe:

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được giết mạng sống của người và vật. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý nói dối. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý dâm dục. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý trộm cướp. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý uống rượu. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý nói tội lỗi của người xuất gia, tại gia Bồ-tát. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý keo kiệt. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý giận dữ. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý hủy nhục người khác. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

– Này Phật tử! Từ thân đời này cho đến thân Phật, nơi tận cùng đời vị lai, trong thời gian đó không được cố ý hủy báng Tam bảo. Nếu có vi phạm thì không phải là hạnh Bồ-tát, mất bốn mươi hai pháp Hiền Thánh, nên không được vi phạm. Vậy người có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp:

– Mô Phật, có thể giữ được.

Này Phật tử! Đã thọ mười giới vô tận rồi, người thọ sẽ vượt qua bốn loại ma chướng và sự khổ của ba cõi. Từ đời này đến đời khác, giới không bị mất, thường theo người tu hành cho đến khi thành Phật. Này Phật tử! Nếu tất cả chúng sanh ở quá khứ, vị lai, hiện tại không thọ giới Bồ-tát thì không gọi là hữu tình có hiểu biết cùng với súc sinh không khác, không gọi là người, thường xa lìa biển Tam bảo, chẳng phải Bồ-tát, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, chẳng phải quỷ, chẳng phải người, gọi là súc sinh, là tà kiến, là ngoại đạo, chẳng gần gũi với tình người. Nên biết, giới Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp xả, có vi phạm cũng không bị mất giới, đến cùng tận đời vị lai. Nếu có người tới muốn xin thọ giới, vị Bồ-tát pháp sư trước hết phải giảng thuyết đọc tụng khiến họ tâm ý khai mở, sinh tâm ưa thích, sau đó mới truyền trao. Lại nữa, vị pháp sư nào ở trong các cõi nước, giáo hóa một người xuất gia thọ giới Bồ-tát, thì phước đức của vị pháp sư ấy nhiều hơn người xây dựng tám vạn bốn ngàn bảo tháp, huống nữa là giáo hóa cho hai, ba, đến trăm, ngàn người, thì phước đức đó không thể tính kể hết.

Hoặc là người chồng, người vợ, hoặc người bà con trong sáu thân, được làm thầy cùng truyền trao lẫn nhau. Người thọ giới ở trong cõi Phật và trong số chúng Bồ-tát, thì vượt khỏi những khổ não sanh tử nơi ba kiếp, thế nên cần thọ trì. Có giới Bồ-tát, nếu phạm cũng hơn người không thọ giới dù không phạm. Có giới Bồ-tát, dù bị phạm cũng gọi Bồtát. Không giới Bồ-tát, nếu không phạm cũng gọi là ngoại đạo. Do đó, người nào thọ một phần giới gọi là Bồ-tát một phần, cho đến hai phần, ba phần, bốn phần, mười phần, gọi là thọ đầy đủ giới. Thế nên, Bồ-tát có mười giới trọng, tám vạn bốn ngàn oai nghi. Nếu vi phạm mười giới trọng thì không được sám hối, nhưng được pháp thọ giới lại. Tám vạn bốn ngàn oai nghi là giới khinh, nếu có vi phạm thì được phép sám hối, đảnh lễ sám hối tội liền tiêu diệt. Tất cả giới Bồ-tát từ phàm cho đến Thánh đều lấy tâm làm Thể. Thế nên, tâm cùng tận thì giới cũng cùng tận, tâm không cùng tận thì giới cũng không cùng tận, chúng sanh trong sáu đường lãnh thọ thì đắc giới. Chỉ cần hiểu lời dạy thì đắc giới không mất. Này Phật tử! Tất cả chư Phật trong ba đời đều dạy như vậy. Hôm nay, Ta nơi cội Bồ đề, vì mười bốn ức người mà giảng thuyết. Từ bậc Sơ trụ về trước, những vị Bồ-tát tin tưởng mới thọ giới pháp. Này Phật tử! Những Bồ-tát tin tưởng ấy trong mười ngàn kiếp thực hành mười giới pháp sẽ nhập vào mười trụ tâm. Này Phật tử! Trước hết vì đại chúng mà truyền trao giới Bồ-tát, sau đó vì họ giảng thuyết kinh Anh Lạc cho người đồng kiến, đồng hành.

Bấy giờ, trong chúng có trăm ức người từ chỗ ngồi đứng dậy, xin thọ trì giới pháp của Phật. Người đứng đầu trong đại chúng tên Phạm Đà Thủ Vương cùng với vô số thiên tử tu mười giới đầy đủ, được vào Sơ trụ.

Này Phật tử! Từ bậc Sơ trụ, tu hành trăm pháp minh môn, đó là mười tín, mười tấn, mười phát thú, mười thừa, mười kim cang, mười tùy hỷ, mười giới, mười nguyện, mười hộ, mười hồi hướng. Nhờ tu trăm pháp minh môn này mà thông đạt ba cõi là không, giả danh đều là “Không”. Tất cả các pháp không ta, không người, không thọ, không nhận, tánh đều không nhất định, tức diệt trừ được mười ba thứ trói buộc là bảy kiến chấp và sáu thứ vướng mắc, chứng tướng như thật, nhập vào quả vị Sơ hạnh. Này Phật tử! Từ Sơ hạnh này, quan sát tu tập ngàn pháp minh môn là mười tín cho đến mười hướng, tâm dần dần nhập vào pháp tánh, nhận ra các pháp vô ngã, pháp tích tập, pháp sanh khởi, pháp sanh diệt, pháp Niết Bàn, đều không có người thọ pháp, pháp như hư không, như huyễn, như mộng, như thành Càn thát bà, như sóng nóng. Tất cả các pháp không có tướng, trăm ngàn sanh diệt đều không thể nắm bắt, khi đó, thể nhập vào quả vị đầu tiên trong mười hồi hướng. Này Phật tử! Từ hồi hướng thứ nhất này, sự sáng suốt soi chiếu lần lần thay đổi, trí tuệ chiếu soi nẻo tu học, tương tợ pháp quán bình đẳng. Sự quán này gọi là Vô đắc. Không có sở đắc nên giả gọi đắc. Ví dụ như thắp ngọn đèn sáng bằng tim đèn, ánh lửa ngọn đèn được thắp không phải là ánh lửa ngọn đèn trước đó, nhưng trong lúc ấy có sự đốt cháy, sự cháy này chẳng phải tách rời sự cháy ở trước, chẳng phải không có ánh lửa trước, nhưng khi đó có sự đốt cháy, ánh lửa sau này cũng lại như vậy. Vì các pháp hữu vi thuộc hai đế đều lần lượt biến đổi, nên là giả, là sự đốt cháy. Vì thế nên biết ánh lửa trước đó chẳng phải là ánh lửa hiện tại. Sự cháy nơi hiện tại chẳng phải là sự cháy ở trước. Vì cái cháy bây giờ không phải cái cháy từ trước, nên bây giờ mới có. Vì ánh lửa trước chẳng phải là bây giờ, do đó đối với hiện tại, lửa trước không còn đốt cháy, không còn đốt cháy đối với bây giờ, còn sự đốt cháy hiện tại vẫn là giả gọi. Nếu hành giả chứng được pháp quán bình đẳng, lại cũng như vậy. Sự chứng ngộ lúc giữa chẳng phải là tâm chứng ngộ lúc đầu, cũng chẳng phải không là tâm ban đầu mà giữa đó có sự chứng ngộ. Tâm sau cũng như vậy. Vì thế, tâm lúc đầu chẳng phải tâm ở hiện tại, sự phát khởi bây giờ chẳng phải là sự phát sanh ban đầu. Vì sự phát khởi bây giờ chẳng phải sự phát khởi trước đó, nên bây giờ mới có. Tâm lúc đầu chẳng phải tâm hiện tại, tâm hiện tại là vô đắc, không đắc đối với bây giờ. Hiện tại đắc là giả đắc. Nơi tâm trung đạo Đệ nhất nghĩa đế, mọi niệm đều vắng lặng, thể nhập trong vạn pháp minh môn. Từ mười tín cho đến mười hồi hướng, tự nhiên vào dòng trung đạo bình đẳng, không có thủ đắc, vì quán một tướng chân thật, một tướng soi tỏ tiến vào địa thứ nhất.

Này Phật tử! Từ địa thứ nhất ấy, ở vào chánh quán của trí soi chiếu không hai, nhập vào trăm vạn A tăng kỳ môn công đức, ở trong quán môn của một tướng, cùng thời gian tu tập các hạnh cho đến quả

vị thứ mười, mọi tâm đều vắng lặng, nhập tự nhiên vào dòng địa Vô cấu. Này Phật tử! Lại từ địa này với một trí soi chiếu rõ tất cả nghiệp nhân, nghiệp quả, toàn thể pháp giới chỉ là một quán. Dùng trí tuệ biết rõ vọng thức nơi chúng sanh vừa mới khởi lên một tướng, an trú theo duyên sanh, thuận theo Đệ nhất nghĩa sanh khởi gọi là niệm Thiện, trái với Đệ nhất nghĩa đế khởi gọi là Hoặc. Do hai thứ này làm chỗ trú nên gọi là Thiện sanh đắc, Hoặc sanh đắc. Do hai thứ thiện, Hoặc này làm gốc mà khởi tất cả pháp Thiện, Hoặc về sau. Từ duyên sanh của tất cả pháp thuộc tên gọi của Thiện và Hoặc, tác động thành Thiện, tác động thành Hoặc (phiền não). Nhưng tự tâm chẳng Thiện, Hoặc mà từ hai thứ kia rồi đặt tên nên hai tâm thiện, Hoặc, khởi lên mê lầm nơi cõi Dục, gọi là trụ địa Dục giới. Khởi mê lầm ở cõi Sắc, gọi là trụ địa Sắc giới. Khởi mê lầm ở tâm gọi là trụ địa Vô sắc giới. Từ bốn trụ địa này mà khởi lên tất cả phiền não, nên là cái ban đầu khởi lên bốn trụ địa. Trước bốn trụ địa lại không có pháp khởi, nên gọi là Vô thỉ vô minh trụ địa. Trí kim cang biết rõ một tướng khởi đầu tiên ấy có sự kết thuc, mà không biết pháp hữu, pháp vô trước niệm khởi đầu tiên là thế nào, nhưng biết được chúng sanh bị một trú địa tạo thành ba thứ trụ địa. Chỉ có chư Phật mới biết tất cả từ đầu đến cuối. Bồ-tát nơi địa Vô cấu, với Nhất thiết trí, biết sự thường trú ngang với địa mình trong Đệ nhất nghĩa, rồi tự nhiên nhập vào biển trí của địa Diệu giác. Này Phật tử! Ở trong địa Diệu giác, chỉ tùy sự hiện hóa mà có tên gọi, có vô lượng nghĩa, có vô lượng tên. Nghĩa và tên đều phát ra từ một thể gọi là Diệu quả, thường trú thanh tịnh như hư không, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói được, chẳng thể đếm được, chẳng thể gọi tên, nhưng đi vào khắp mọi nơi.

Này Phật tử! Ta nói về thứ tự pháp môn nơi sáu nhập của hàng Bồ-tát có vô lượng công đức như vậy. Pháp môn sáu nhập ấy, tất cả Bồ-tát đều phải tiến vào. Hôm nay, Ta ở bảo tòa này, với sự có mặt của mười bốn ức người không rời bổn tòa đều cùng vào được pháp môn sáu nhập. Này Phật tử! Xưa kia, lúc mới thành đạo, tại bổn tòa Bồ đề này, Ta đã nói về mười pháp môn biển thế giới, có chín mươi ức người cũng vào minh môn sáu nhập. Lúc đến giảng đường Phổ Quang, Ta nói về mười cõi Phật, có trăm vạn ức người vào được minh môn sáu nhập. Ta đến điện đường của trời Đế Thích nói về mười trụ, có năm trăm vạn người vào được minh môn sáu nhập. Lại đến điện đường nơi cõi trời Dạ Ma nói về mười hạnh, có ngàn vạn người vào minh môn sáu nhập. Lại đến điện đường nơi cõi trời Đâu Suất nói về mười hồi hướng, có mười Hằng hà sa người vào minh môn sáu nhập. Lại đến ma ni điện đường của cõi trời thứ sáu nói về mười địa, có trăm vạn Hằng hà sa người vào minh môn sáu nhập. Ta lại đến tinh xá Kỳ Hoàn nói phẩm Nhập pháp giới, có mười hai Hằng hà sa người vào được minh môn sáu nhập. Hôm nay, Ta lại đến bảo tòa này, ở hội thứ tám, vì mười phương vô lượng đại chúng và Bồ-tát Kính Thủ, cùng tất cả mọi người nói về minh môn sáu nhập. Tất cả đại chúng thọ trì như một không khác.

Phẩm 8: PHÁP HỘI NHẬP TẬP TÁN

Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ-tát Kính Thủ và mười bốn ức người trong đại hội:

– Này chư vị! Từ trước đến nay các vị đã nghe Ta giảng nói về bốn mươi hai pháp môn minh quán về những phẩm vị của Thánh Hiền. Tất cả đại chúng đều nên phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đức Phật bảo ba lần như thế và dạy:

– Này chư vị! Nên thọ nhận và phát tâm hành trì. Bấy giờ, giữa đại chúng có trăm ngàn thiên thần nghe pháp môn nầy liền phát được tâm của bậc Sơ trụ, bỏ pháp phàm phu, tu hành “phục nhẫn”, được vào pháp môn minh quán của mười trụ. Lại có mười ngàn thiện nam, thiện nữ nhập vào pháp môn minh quán thanh tịnh của mười hạnh. Lại có tám vạn Đại Phạm Thiên vương chứng đạt pháp môn minh quán của bậc Sơ địa. Lại có tám bộ A tu luân vương, mỗi người đều xả bỏ thân trước, vào mười tín tâm, tu mười nghiệp thiện. Lại có tám vạn Bồ-tát mười địa, hiện đời trở thành bậc Chánh Đẳng Giác. Lúc đó, có vô lượng cõi Phật ở mười phương, tất cả đại chúng nghe đức Phật thuyết giảng về pháp môn sáu nhập trong kinh Anh Lạc và mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, địa Vô cấu, địa Diệu giác, mọi người đều phát tâm Bồ đề vô thượng, trở về đất nước. Lại có chư Thiên nơi cõi Sắc và cõi Vô sắc, mỗi vị đều nương thần thông trở về trụ xứ, lần lượt tuyên nói pháp môn Bồ-tát Anh lạc, dạy trao cho hàng chư Thiên. Lại có chư Thiên trong sáu tầng trời thuộc cõi Dục, trở về chỗ mình, rộng vì chư Thiên nói lại bổn hạnh không thể suy lường. Khi ấy, mọi người đều đến thọ trì, đọc tụng, hiểu ý nghĩa kinh và về nước mình giảng nói về hạnh bổn nghiệp của bậc Bồ-tát và chư Phật. Phần thọ trì đã xong. Lúc này, đức Phật dạy Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Huệ Hải, Bồ-tát Kim Cang Tạng và Bồtát Đạo Hoa… cùng tám ngàn vị Bồ-tát, đều là Pháp Vương Tử của các đức Phật nơi các quốc độ khắp mười phương.

Đức Phật dạy:

– Các vị hãy vì chúng sanh mê mờ trong mười phương mà thọ trì, đọc tụng, lý giải ý nghĩa kinh. Hãy vì tất cả chúng sanh quá khứ, hiện tại, vị lai mà khai mở tuệ giác tánh không, đưa họ nhập vào pháp môn minh quán.

Cùng khi đó, có năm mươi vạn vị đại Bồ-tát đều là bậc Nhất sanh bổ xứ, từ tòa ngồi đứng dậy, vâng lãnh lời Phật để nhiều kiếp sau không hề bị mất. Lại có một vạn Phạm Thiên vương từ tòa ngồi đứng dậy thọ nhận lời Phật dạy. Lại có vô lượng thiên nữ từ tòa ngồi đứng dậy vâng giữ lời Phật. Bấy giờ, chư vị Bồ-tát trong vô lượng cõi ở những phương khác và các Bồ-tát trong nước này, dùng sức thần biến hóa nhập vào Tam muội Như huyễn, vút lên hư không, phấn khởi vô lượng vì đã được nghe và thọ trì kinh Anh Lạc công đức, nhất tâm nhận lãnh tu hành để thành tựu quả Phật, không xả bỏ pháp môn Hiền Thánh.

Bấy giờ, đức Phật lại hiện bày trăm vạn thần thông biến hóa, vô lượng hào quang, vô lượng sắc thân thanh tịnh và lại dặn dò đại chúng tu học khế kinh Anh Lạc Kim Cang Tạng Hải, Ngài bảo:

– Tất cả đại chúng nên hết lòng thọ trì kinh pháp nầy. Vì kinh nầy là pháp hành hóa nơi tâm của vô lượng trăm ngàn Phật thời quá khứ. Chư vị nên thọ trì, cúng dường. Khi ấy, các vị Bồ-tát cùng trong một lúc, từ nơi tòa ngồi phương tiện ngàn ánh sáng rực rỡ chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, hoan hỷ thọ trì kinh Anh Lạc không thể nghĩ bàn của Bồ-tát. Các Bồ-tát cung kính đảnh lễ, thọ trì, cúng dường đức Phật rồi lui ra.

Lại có thiên tử trong sáu cõi trời thuộc Dục giới, mười ngàn quốc vương, nghe đức Phật sắp rời pháp tòa, cả đại chúng cùng khóc ròng, nước mắt đầm đìa, cảm động lan cả đại thiên, ai cũng khóc khi rời khỏi chỗ ngồi.

Lại có tám mươi ức đại Bồ-tát đều đủ bốn tâm vô lượng, bình đẳng nhất quán pháp Hữu, Vô, pháp vô vi, vô tướng, thọ trì lời dạy của Phật và nhập nơi vô tận cùng tam muội “Pháp hóa” hoan hỷ rồi lui ra. Lại có mười ngàn vị mới hành bậc Hiền nhập vào chín định quán, bốn thiền, bốn định không và định diệt tận, thành tựu bảy tịnh, mười giới, tâm vào định thấy rõ chân lý, thoát khỏi nghi ngờ đối với chánh pháp, tu chân chánh, thấy biết đoạn trừ kiến hoặc, được nhập pháp rồi, các Bồ-tát đảnh lễ Phật lui ra.

Bấy giờ, tại tòa Bồ đề, có tám ngàn Bồ-tát từ tòa ngồi đứng dậy, một vị tên là Kim Cang Hoa bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Trong đời vị lai, khi Bồ-tát thuyết giảng kinh, truyền pháp luân xuống cho người nghe pháp, lãnh thọ giáo pháp,

thực hành pháp như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Này Phật tử! Câu hỏi ấy thật có ý nghĩa. Trước hết phải vì người nghe pháp, truyền trao cho họ giới pháp Bồ-tát, sau đó thuyết bổn hạnh Bồ-tát và pháp môn sáu nhập. Này Phật tử! Tuần tự truyền trao bốn pháp quy y: Quy y Phật, Pháp, Tăng, Giới. Đạt được bốn tín tâm bất hoại, sau đó mới truyền mười giới: Không giết, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không nói lỗi người Bồ-tát tại gia và xuất gia, không bỏn sẻn, không giận dữ, không tự khen mình chê người khác, không hủy báng Tam bảo. Mười pháp Ba-la-di này là tội không thể sám hối. Này Phật tử! Đã thọ mười giới, lại vì người nghe, dạy họ cúng dường pháp sư, thường dùng vô lượng hoa hương cõi trời, trăm ngàn đèn sáng, trăm ngàn vải vóc, chuỗi ngọc quý giá, trăm ngàn nhạc hay, trăm vị thức ăn, phòng nhà, kinh sách, tất cả những vận cần dùng đều nên dâng cúng. Vì pháp sư hoằng dương chánh pháp nên phải cung kính như kính Phật, như phụng thờ cha mẹ, như việc thờ lửa của đạo Bà la môn. Này Phật tử! Đối với pháp sư nên tôn kính như thờ trời Đế Thích, cha mẹ, sư tăng mỗi ngày ba lần lễ lạy cung kính, vì pháp quên mình không tiếc thân mạng. Như thế mới là Phật tử chân chánh. Những người cầu pháp nếu được như vậy, mới vì họ thuyết giảng pháp môn Anh Lạc bổn nghiệp của hạnh Bồ-tát, trong trăm vạn đức Phật tiếp nối truyền trao.

Khi ấy, mười ức đại chúng cùng than:

– Trong đời vị lai không có giáo pháp, không còn Tam bảo, không có người Hiền, vì kiếp của đời xấu ác ô trược nổi lên, người nói chánh pháp, người nghe chánh pháp đều rất khó khăn.

Đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đều buồn khóc. Những tiếng bi thương làm đất rung chuyển, biển cả dậy sóng, vũ trụ như quay cuồng, hai mươi tám vì sao, mặt trời, mặt trăng ẩn đi một lúc. Khi đó, đại chúng thu giữ thần lực, nghiêm túc cung kính thọ trì, đọc tụng, giải nói câu nghĩa, mười kiếp cũng không thể hết, mọi người vui mừng làm theo đảnh lễ lui ra.