KINH BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN

Hán dịch: Đại Đường_Thiên Trúc Tam Tạng BỒ ĐỀ LƯU CHÍ (Bodhi-ruci: GiácÁi, hay Dharma-ruci: Pháp Ái)
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

QUYỂN THỨ MƯỜỜI BẢY

CĂN BẢN LIÊN HOA ĐỈNH ĐÀ LA NI CHÂN NGÔN PHẨM THỨ BA MƯƠI

_Bấy giờ, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát chắp tay, cung kính bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con chỉ nghĩ Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nói Bất

Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa Đàn Ấn Tam Muội Gia này rất ư thâm sâu, rộng lớn vô lượng, khó hiểu, khó vào, khó được thành tựu. Quán nhìn trong đây có vô lượng Đàn Pháp, vô lượng Ấn Pháp, vô lượng Tượng Pháp, Pháp Uy nghi của vô lượng Quỹ Tắc… giống như biển lớn, Tu Di Sơn Vương, hư không, dương diệm (dợn nước dưới ánh nắng hiện bày sự vật hư huyễn không có thật), số bụi nhỏ…Ḷại như Vô Lượng Đại Trí, Vô Dữ Đẳng Trí, Vô Tư Lượng Trí của Như Lai. Hết thảy chẳng phải là nơi so lường của tất cả 8 Bộ Trời Rồng, chúng Ma trong 6 cõi Dục, người với Phi Nhân. Chỉ là Đại Trí, Kiến Trí, Tạng Trí, Giải Thoát Trí thâm sâu của Như Lai. Cũng là Đại Trí, Trí Bản Hạnh Pháp Giới của tất cả hàng Bồ Tát Ma Ha Tát

Pháp này: Tiền Tế (Pūrvānta: quá khứ), Trung Tế (Madhyānta: hiện tại), Hậu Tế (Aparānta: vị lai) đều chẳng thể đắc. Tâm con suy nghĩ rất ư mê loạn.

Thế nào là trước? Thế nào là giữa? Thế nào là sau?

Thế nào là Pháp thông hiểu thành tựu?

Thế nào là Căn Bản Liên Hoa Đỉnh Đà La Ni Chân Ngôn?

Thế nào là Bí Mật Tâm Chân Ngôn?

Thế nào là Hi Di Chân Ngôn?

Thế nào là Phấn Nộ Vương Chân Ngôn?

Thế nào là Phấn Nộ Vương Tâm Chân Ngôn?

Thế nào là Chân Ngôn: 1 chữ, 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ cho đến 10 chữ?

Thế nào là Pháp an ổn?

Thế nào là Pháp phong nhiêu?

Thế nào là Pháp giáng phục?

Thế nào là Pháp thuốc điểm chấm?

Thế nào là Pháp thuốc xoa bôi?

Thế nào là Tượng Pháp, Đàn Pháp, Ấn Pháp?

Thế nào là Pháp: thỉnh triệu, kết Giới, chải tóc, tắm gội, sửa trị áo, Cam Lộ Quán Đỉnh, mặc áo giáp, ngồi, nằm, đất đai?

Thế nào là Pháp: hái hoa, hương đốt, hương xoa bôi, hạt cải, thức ăn, bánh, quả trái, vòng hoa?

Thế nào là Pháp Tắc: 3 loại thức ăn màu trắng, thắp đèn, vào Đàn, lễ bái, hành đạo, rải hoa, dạy truyền, chỉnh nghi (xem xét vật dụng, binh khí hộ vệ khiến cho chuẩn bị đủ uy nghi)?

Thế nào là Pháp: lấy tràng hạt chuyển niệm, xin mộng, hộ thân, kết Giới, đốt lửa, Hỏa Thực, Thần Thông, khí trượng, thu nhiếp?

Thế nào là Pháp: thỉnh triệu Quán Thế Âm, gần gũi, phát khiển?

Thế nào là Pháp: sợi dây?

Thế nào là Pháp: chày Kim Cương?

Bạch Đức Thế Tôn! Pháp này, con chẳng hiểu biết rõ. Ở trong Tướng nào: bắt chước, dạy bảo, tu tập sẽ được thành tựu? Trong thời Mạt Thế (Paścima-kāla) sau này, con nên làm thế nào để tùy thuận mọi loại Tâm Hành của chúng sinh? Dạy tu Pháp nào? Y theo Pháp của Đà La Ni Chân Ngôn nào để mở lối đi độ thoát? Nếu người tu trì thành Tất Địa (Siddhi) nào? Con đối với Pháp này rất ư mê loạn, không có các Trí hiểu biết. Chỉ xin (Đức Thế Tôn) rũ thương xót, nguyện như Pháp giải nói, phá lưới nghi ngờ!…”

Khi ấy, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Lành thay! Lành thay Bí Mật Chủ! Ông hay phát hải, rất là khéo hỏi. Vì sao chẳng hỏi sớm mà đợi làm như việc này?!…Ông hay mở lối đi, vì các chúng sinh với người tu Chân Ngôn đều được Địa thành tựu tối thượng cho nên nêu câu hỏi này làm câu hỏi rất lớn

Này Bí Mật Chủ! Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này to lớn như vô lượng biển lớn ở 10 phương, khó hiểu, khó vào. Như đếm số giọt nước biển còn biết được, chứ Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này thật chẳng phải là số lượng để biết được bờ mé ấy

Lại dùng bột của Tu Di Sơn Vương hư hạt bụi nhỏ, cũng đếm biết hết, chứ Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này chẳng phải là phần tính toán để biết số hạn ấy. Như vậy rộng lớn vượt hơn phần tính toán, phần đếm biển lớn, bụi nhỏ

Này Bí Mật Chủ! Hết thảy tất cả Như Lai quá khứ, hiện tại, vị lai ở 10 phương có mọi loại Trí Tam Muội Gia cũng có thể biết số được, chứ Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này thật chẳng phải là nơi tính đếm để biết được bờ mé ấy

Này Bí Mật Chủ! Hết thảy có Pháp Trí (Dharma-jñāna) của tất cả chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát biết sự sai biệt, tướng chuyển của nhóm 5 Uẩn (Pañca-skandha).

Hết thảy có Loại Trí (Anvaya-jñāna: Vị Tri Trí, Vô Sinh Trí) biết Uẩn (Skandha), Giới (Dhātu), Xứ (Āyatana), tất cả Duyên Khởi (Pratītya-samutpāda) hoặc chung, hoặc riêng là nhóm Vô Thường (Anitya).

Hết thảy có Tục Trí (Saṃvṛti-jñāna: Trí biết Tục Đế) biết tất cả giả thiết, tên gọi của tất cả Pháp.

Hết thảy có Tha Tâm Trí (Para-citta-jñāna) biết Tâm (Citta), Tâm Sở (Caitta) của các hữu tình, Pháp tu hành chứng diệt

Hết thảy có Khổ Trí (Duḥkha-jñāna) biết khổ (Duḥkha) chẳng sinh

Hết thảy có Tập Trí (Samudāya-jñāna) biết Tập (Samudāya) chặt đứt vĩnh viễn

Hết thảy có Diệt Trí (Nirodha-jñāna) biết Diệt (Nirodha) nên chứng

Hết thảy có Đạo Trí (Mārga-jñāna) biến con đường (Mārga: đạo) nên tu

Hết thảy có Tận Trí (Kṣaya-jñāna) biết tham sân si tận hết

Hết thảy có Vô Sinh Trí (Anutpāda-jñāna) biết lối nẻo của các Hữu (các cõi) mà chẳng sinh trở lại

Hết thảy có Như Thật Trí () hiểu Nhất Thiết Trí (Sarva-jñā), Nhất Thiết Tướng Trí

Hết thảy có Vị Tri Đương Tri Căn (Anājñātājñāsyāmīndriya) nơi các Thánh Đế (Ārya-satya) chưa được hiện quán, chưa được Thánh Quả (Ārya-phala)

Hết thảy có Dĩ Tri Căn (Ājñendriya) nơi các Thánh Đế đã được hiện quán, đã được Thánh Quả

Hết thảy có Cụ Tri Căn (Ājñātāvīndriya) nghĩa là các hàng Thanh Văn, Độc Giác, tất cả chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát

Hết thảy có Hữu Tầm Hữu Tứ Tam Ma Địa (Savitarka-savicāra-samādhi: lại gọi là Hữu Giác Hữu quán Tam Ma Địa, là 1 trong 3 Tam Muội) lìa tất cả Dục Ác, Pháp Bất Thiện. Có Tầm (Vitarka: suy nghĩ tìm hiểu dạng thô) có Tứ (Vicāra: suy nghĩ tìm hiểu dạng tinh tế) sinh vui thích, nhập vào Sơ Tĩnh Lự (Prathama-dhyāna: Sơ Thiền) đầy đủ mà trụ

Hết thảy có Vô Tầm Duy Tứ Tam Ma Địa () ở trung gian của Sơ Tĩnh Lự (Sơ Thiền) với Tĩnh Lự thứ hai (Dvitīya-dhyāna: Nhị Thiền) thời định

Hết thảy có Vô Tầm Vô Tứ Tam Ma Địa () từ Tĩnh Lự thứ hai (Nhị Thiền) cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Naiva-saṃjñānāsaṃjñāyatana)

Hết thảy có Phật Tùy Niệm (Buddhānu-smṛti: niệm Phật), Pháp Tùy Niệm (Dharmānu-smṛti: niệm Pháp), Tăng Tùy Niệm (Saṃghānu-smṛti: niệm Tăng), Giới Tùy Niệm (Śīlānu-smṛti: niệm Giới), Xả Tùy Niệm (Tyāgānu-smṛti: niệm thí), Thiên Tùy Niệm (Devānu-smṛti: niệm Thiên), Tịch Tĩnh Yếm Ly Tùy Niệm (Śāntisaṃvegānu-smṛti: niệm sự vắng lặng chán lìa), Nhập Xuất Tức Tùy Niệm (niệm hơi thở ra vào), Thân Tùy Niệm (Kāyānu-smṛti: niệm thân), Tử Tùy Niệm (Maraṇānusmṛti: niệm sự chết)

Khi đã hành Bố Thí Ba La Mật (Dāna-pāramitā) thời dùng Nhất Thiết Bất Không Trí Đại Bi làm đầu, tự đem cho tất cả thứ đã có bên trong, bên ngoài. Cũng khuyên người khác đem cho tất cả thứ đã có bên trong, bên ngoài.

Khi đã hành Tịnh Giới Ba La Mật (Śīla-pāramitā) thời dùng Nhất Thiết Bất Không Trí Đại Bi làm đầu, tự trụ ở con đường 10 nghiệp thiện, cũng khuyên người khác trụ ở con đường 10 nghiệp thiện.

Khi đã hành An Nhẫn Ba La Mật (Kṣānti-pāramitā) thời dùng Nhất Thiết Bất Không Trí Đại Bi làm đầu, tự đầy đủ Tăng Thượng An Nhẫn, cũng khuyên người khác đầy đủ Tăng Thượng An Nhẫn

Khi đã hành Tinh Tiến Ba La Mật (Vīrya-pāramitā) thời dùng Nhất Thiết Bất Không Trí Đại Bi làm đầu, tự tu 6 Ba La Mật tinh cần chẳng ngưng, cũng khuyên người khác tu 6 Ba La Mật tinh cần chẳng ngưng.

Khi đã hành Tĩnh Lự Ba La Mật (Dhyāna-pāramitā) thời dùng Nhất Thiết Bất Không Trí Đại Bi làm đầu, tự tu phương tiện khéo, nhập vào các Tĩnh Lự Vô Sắc (Arūpa-dhyāna), cuối cùng chẳng tùy theo thế lực ấy thọ sinh. Cũng khuyên người khác nhập vào các Tĩnh Lự Vô Sắc đồng sùng sự khéo léo

Khi đã hành Bát Nhã Ba La Mật (Prajñā-pāramitā) thời dùng Nhất Thiết Bất Không Trí Đại Bi làm đầu, tự như thật quán Tính của tất cả Pháp không có chỗ chấp dính. Cũng khuyên người khác quán Tính của tất cả Pháp không có chỗ chấp dính. Cũng lại chẳng trụ Tự Tính, Tự Tướng hoặc động, hoặc trụ cũng chẳng thể đắc

Khi đã tu 4 Chính Đoạn (Catvāri-samyak-prahāṇāni) thời nơi các Pháp chưa sinh ác, bất thiện thì làm cho chẳng sinh ra. Nơi các Pháp đã sinh ác, bất thiện thì làm cho chặt đứt hết. Chưa sinh Pháp Thiện thì làm cho sinh ra. Đã sinh Pháp Thiện thì làm cho an trụ. Chẳng quên tăng rộng gấp bội, tu trọn đủ

_Đã tu 4 Thần Túc (Cātvara-ṛddhipādāḥ): khi tu Dục Tam Ma Địa (Chandasamādhi) thời chặt đứt Hành (Prahāṇa saṃskāra), lìa nương tựa, thành tựu Thần Túc (Ṛddhi-pāda). Khi tu Cần Tam Ma Địa (Vīrya-samādhi) thời chặt đứt Hành, lìa nương tựa, thành tựu Thần Túc. Khi tu Tâm Tam Ma Địa (Citta-samādhi) thời chặt đứt Hành, lìa nương tựa, thành tựu Thần Túc. Khi tu Quán Tam Ma Địa (Vīmāṃsāsamādhi) thời chặt đứt Hành, lìa nương tựa, thành tựu Thần Túc. Dùng không có

Khi tu Tín Căn (Śraddhendriya), Tinh Tiến Căn (Vīryendriya), Niệm Căn (Smṛtīndriya), Định Căn (Samādhīndriya), Tuệ Căn (Prajñendriya) thời nghĩa là Tính của Tín Căn, Tinh Tiến Căn, Niệm Căn, Định Căn, Tuệ Căn… lìa nương dựa, lìa nhiễm dính, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Tín Lực (Śraddhā-bala), Tinh Tiến Lục (Vīrya-bala), Niệm Lực (Smṛtibala), Định Lực (Samādhi-bala), Tuệ Lực (Prajñā-bala) thời nghĩa là Tính của Tín Lực, Tinh Tiến Lực, Niệm Lực, Định Lực, Tuệ Lực… lìa nương dựa, lìa nhiễm dính, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

_Khi tu Niệm Đẳng Giác Chi (Smṛti-bodhyaṅgāni), Trạch Pháp Đẳng Giác Chi (Dharma-pravicaya-bodhyaṅgāni), Tinh Tiến Đẳng Giác Chi (Vīrya-bodhyaṅgāni), Hỷ Đẳng Giác Chi (Prīti-bodhyaṅgāni), Khinh An Đẳng Giác Chi (Prasrabdhibodhyaṅgāni), Định Đẳng Giác Chi (Samādhi-bodhyaṅgāni), Xả Đẳng Giác Chi (Upekṣā-bodhyaṅgāni) thời nghĩa là Tính của Niệm Đẳng Giác Chi, Trạch Pháp Đẳng Giác Chi, Tinh Tiến Đẳng Giác Chi, Hỷ Đẳng Giác Chi, Khinh An Đẳng Giác Chi, Định Đẳng Giác Chi, Xả Đẳng Giác Chi… lìa nương dựa, lìa nhiễm dính, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

_ Khi tu Chính Kiến Chi (Samyak-dṛṣti), Chính Tư Duy Chi (Samyaksaṃkalpa), Chính Ngữ Chi (Samyak- vāc), Chính Nghiệp Chi (Samyak- karmānta), Chính Mệnh Chi (Samyak- ājiva), Chính Tinh Tiến Chi (Samyak- vyāyāma), Chính Niệm Chi (Samyak- smṛti), Chính Định Chi (Samyak- samādhi) thời nghĩa là Tính của Chính Kiến Chi, Chính Tư Duy Chi, Chính Ngữ Chi, Chính Nghiệp Chi, Chính Mệnh Chi, Chính Tinh Tiến Chi, Chính Niệm Chi, Chính Định Chi… lìa nương dựa, lìa nhiễm dính

_Khi đã trụ Không Giải Thoát Tam Ma Địa (Śūnyatā-vimokṣa-samādhi) thời nghĩa là quán Tự Tướng của các Pháp đều trống rỗng (Śūnya: không). Tâm ấy an trụ

Khi đã trụ Vô Tướng Giải Thoát Tam Ma Địa (Animita-vimokṣa-samādhi) thời nghĩa là quán Tự Tướng của các Pháp không có Tướng. Tâm ấy an trụ

Khi đã trụ Vô Nguyện Giải Thoát Tam Ma Địa (Apraṇihita-vimokṣasamādhi) thời nghĩa là quán Tự Tướng của các Pháp không có Nguyện. Tâm ấy an trụ… dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

_Khi tu Xứ Phi Xứ Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ nhóm tướng Nhân Quả, Tướng Xứ (mỗi một Sự, Lý ấy không trái ngược nhau) Phi Xứ (mỗi một Sự, Lý ấy có trái ngược nhau) của các loài hữu tình, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện Khi tu Nghiệp Dị Thục Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng Dị Thục (Vipāka: quả báo) của các Nghiệp Pháp nhận chịu mọi loại nghiệp Nhân Quả của các hữu tình, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Chủng Chủng Giới Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng vô lượng giới của các hữu tình, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Chủng Chủng Thắng Giải Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng vô lượng thắng giải của các hữu tình, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Căn Thắng Liệt Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng căn hơn kém của các hữu tình, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Biến Hành Hạnh Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng biến hành hạnh (Sarvatraga-caryā: hạnh thực hành ở khắp mọi nơi) của các hữu tình, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Tĩnh Lự Giải Thoát Đẳng Trì Đẳng Chí Tạp Nhiễm Thanh Tịnh Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ nhóm tướng Căn, Lực, Giác Chi, Đạo Chi thanh tịnh tạp nhiễm của Tĩnh Lự (Vidyāna: thiền) Giải Thoát (Vimokṣa) Đẳng Trì (Samādhi: Định) Đẳng Chí (Samāpatti) của các hữu tình…. dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Túc Trụ Tùy Niệm Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng của sự việc trong vô lượng ức số đời trước của các hữu tình… dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Tử Sinh Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ tướng của sự việc trong vô lượng vô số lần sinh tử của các hữu tình… dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Lậu Tận Trí Lực thời nghĩa là như thật biết rõ các Lậu (Āsrara: sự chảy rỉ, tên riêng của phiền não) đã tận hết, Vô Lậu Tâm Giải Thoát, Vô Lậu Tuệ Giải Thoát. Ở trong Pháp mà tự tác chứng an trụ đầy đủ, hay rõ biết chính đúng “sự sinh ra của ta đã chấm dứt, Phạm Hạnh đã dựng lập, điều cần làm đã làm xong, chẳng còn nhận thân đời sau nữa” … dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

_Khi tu Chính Đẳng Giác Vô Úy thời nghĩa là tự xưng là bậc Chính Đẳng Giác, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Lậu Tận Vô Úy thời nghĩa là tự xưng đã vĩnh viễn dứt hết các Lậu, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Chướng Pháp Vô Úy thời nghĩa là vì các Đệ Tử nói con đường của Pháp gây chướng ngại, dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Khi tu Tận Khổ Đạo Vô Úy thời vì các Đệ Tử nói con đường dứt hết sự khổ não

Nhóm Thời như vậy. Giả sử có Sa Môn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên Ma, Phạm… nương vào Pháp y theo của Thế Gian căn vặn với khiến cho nghĩ nhớ, nói nơi Pháp này chẳng phải là Chính Đẳng Giác nói. Nói có chảy rỉ (lậu) như vậy chưa dứt hết hẳn. Nói tập Pháp này chẳng thể chướng ngại Đạo. Nói tu Đạo này chẳng thể hết khổ…. thì Ta đối với sự căn vặn ấy: thấy chính đúng là không có lý do. Vì đối với sự căn vậy ấy, thấy không có lý do, cho nên được an ổn trụ, không có sợ, không có lo ngại… Tự xung Ta ở tôn vị của Đại Tiên, ở trong Đại Chúng rống tiếng Sư Tử chính đúng, chuyển bánh xe Diệu Pháp, thâm sâu, thanh tịnh, chính chân vô thượng…. dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

_Tu Nghĩa Vô Ngại Giải, Pháp Vô Ngại Giải, Từ Vô Ngại Giải, Biện Vô Ngại Giải thì dùng không có chỗ đắc làm phương tiện Tu Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại xả thì dùng không có chỗ đắc làm phương tiện Tu 5 loại mắt, 6 Thần Thông, Nhất Thiết Trí Trí thì dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Được Ta, Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác từ đêm mới chứng A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề cho đến đem cuối cùng, điều cần làm đã làm xong, nhập vào Vô Dư Y Đại Niết Bàn. Ở khoảng giữa ấy thường không có lỗi lầm, không có âm thúc dục gấp rút, không có quên mất, không có Tâm bất định, không có mọi loại tưởng, không có gì chẳng chọn, bỏ. Chí muốn không có lùi, Tinh Tiến không có lùi, Niệm không có lùi, Tuệ không có lùi, Giải Thoát không có lùi, Giải Thoát Tri Kiến không có lùi. Tất cả Thân Nghiệp Trí làm con đường trước tiên, tùy theo Trí mà chuyển. Tất cả Ngữ Nghiệp Trí làm con đường trước tiên, tùy theo Trí mà chuyển. Tất cả Ý Nghiệp Trí làm con đường trước tiên, tùy theo Trí mà chuyển. Tri Kiến đã dấy lên trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều không có vướng mắc, không có ngăn ngại… dùng không có chỗ đắc làm phương tiện

Dùng một Tâm Trí như thật nhập vào khắp. Biết Pháp Tâm, Tâm Sở của tất cả hữu tình, viên mãn du hý mọi loại Thần Thông mà tự nghiêm tịnh mọi loại cõi Phật, cúng dường thừa sự chư Phật Thế Tôn. Nơi thân Như Lai như thật quán sát, nhiêu ích hữu tình. Nơi nghĩa thú của Pháp như thật phân biệt, dùng Pháp cúng dường thừa sự chư Phật. Nên lại quán sát kỹ lưỡng Pháp Thân của chư Phật

Dùng không có chỗ đắc (vô sở đắc) viên mãn Vô Tướng nghĩa là suy nghĩ tất cả các Tướng nơi các Pháp: chẳng tăng, chẳng bớt, chẳng chấp, chẳng vướng, không có lấy, không có trụ, viên mãn cái thấy bình đẳng của tất cả Pháp, viên mãn Lý Thú một tướng của các Pháp, hành tướng chẳng phải là hai, chẳng dấy lên phân biệt

Dùng không có chỗ đắc viên mãn tất cả các sự thấy của tất cả Thanh Văn, Độc Giác. Buông bỏ cái thấy Tập Khí phiền não của các Hữu Lậu, điều phục cái thấy của Tâm Tính

Dùng không có chỗ đắc viên mãn tùy theo, như tất cả Âm Trí của tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già, người, Phi Nhân…

Dùng không có chỗ đắc mà vô lượng vô số Chủng Tộc Quyến Thuộc của chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát… chẳng phải là các loại tạp.

Dùng không có chỗ đắc mà thân tướng đầy đủ. Khi mới sinh ra thời thân ấy đầy đủ tất cả tướng tốt, phóng ánh sáng lớn chiếu vô biên Thế Giới của chư Phật, khiến Thế Giới ấy biến động theo 6 cách. Hữu tình gặp thấy không có ai chẳng được lợi ích

Dùng không có chỗ đắc viên mãn Xuất Gia là nơi mà vô lượng vô số hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già, người, Phi Nhân đã theo hầu… đi đến Đạo Trường, cắt bỏ râu tóc, lại mặc 3 áo Pháp, nhận giữ Ứng Khí, dẫn đường cho vô lượng vô số hữu tình khiến nương vào 3 Thừa hướng đến chứng Viên Tịch

Dùng không có chỗ đắc mà căn lành thù thắng, Nguyện Lực rộng lớn cảm được cây Bồ Đề màu nhiệm như vậy, dùng báu Lưu Ly làm gốc cây ấy, báu chân Kim Cương làm gốc rễ, mọi báu kỳ diệu làm cành lá, mọi loại hoa quả. Cây ấy vao rộng che trùm khắp 3 ngàn Đại Thiên cõi Phật, ánh sáng chiếu soi, vòng khắp căng già sa đẳng Thế Giới của chư Phật ở 10 phương, mãn túc tư lương Phước Tuệ thù thắng. Hết thảy có Nhất Thiết Huyễn Hóa Tam Muội Thần Thông đều là Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia

Này Bí Mật Chủ! Ông hỏi Đại Trí thâm sâu, Kiến Trí, Tạng Trí, Đại Giải Thoát Trí của như Lai. Đại Trí của tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, Trí Bản Hành Pháp Giới như vậy…Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát này luôn thường dùng Nhất Thiết Huyễn Hóa Tam Muội Thần Biến này hiện bày mọi loại hình tước, sắc loại, Thần Thông của Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia như vậy, độ các hữu tình với người tu Chân Ngôn được Đại Tất Địa (Mahāsiddhi)

Này Bí Mật Chủ! Thân, Thức, Tâm, Trí, Đại Từ, Đại Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát này đều là Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân

Ngôn Tam Muội Gia như Tính của nước với sữa hợp làm một vị, một tướng, bình đẳng không có hai, bình đẳng rưới rót tất cả cõi giới, nơi chốn tròn đủ. Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này nhiếp hóa, độ thoát hữu tình trong 3 hữu (3 cõi), đều trụ đất Kim Cương của Niết Bàn

Nếu có tất cả chúng sinh trong nẻo người, nẻo Địa Ngục, nẻo Quỷ đói dùng Tâm bình đẳng nhớ niệm tên Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thì một thời đều đến, tùy theo chỗ cấp giúp, không có gì chẳng giải thoát. Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ấy có Tâm Bi, Tâm Mẫn chẳng lùi, chẳng hối hận

Lại có tất cả chư Thiên cho đến Sắc Cứu Cánh Thiên. Tất cả Long Thần, Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, cho đến hết thảy hữu tình ở Địa Ngục A Tỳ… một thời xưng niệm tên Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thì cũng đều đồng thời đi đến, độc thoát ách nạn của các Dục. Ví như vầng ánh sáng bình đẳng của mặt trời, mặt trăng diệt tất cả hỗn độn, hắc ám có trong 4 châu. Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ấy cũng lại như vậy, dùng ánh sáng Đại Từ Bi chiếu khắp tất cả hữu tình: mọi loại ách nạn, sinh, già, bệnh, chết, Hữu Vi, Hữu Lậu đều được giải thoát, trụ ở con đường thiện lành

Này Bí Mật Chủ! Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ấy vì các chúng sinh với người tu Chân Ngôn, như vậy bền chắc mặt áo giáo Tinh Tiến, cho chứng Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Như vị Đại Thương Chủ dẫn tiến mọi người, che chận đường ác, an trí đường thiện lành, Tâm chẳng phân biệt, Tâm chẳng buồn bực hối hận”

_Bấy giờ, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát nương theo Đức Phật xưng tán Đại Công Đức của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát xong, liền phấn tấn hớn hở, chắp tay dùng Kệ khen rằng:

“Thương thay Đại Bi Quán Thế Âm!

Thương thay Thế Gian Tự Tại Chủ!

Nếu có người chuyên chính nhớ giữ

Được thoát tất cả khổ đường ác

Đây là Thế Gian tôn trọng cha

Đây là Thế Gian tôn trọng mẹ

Đây là bậc cứu độ Thế Gian

Đây là Thế Gian Đại Nhật Quang (ánh sáng mặt trời to lớn của Thế Gian)”

_Lại bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ rằng: “Như vậy! Như vậy! Như ông đã nói! Ông cần phải đến trước mặt Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát cung kính, đỉnh lễ, như Pháp thưa hỏi. Tức (vị ấy) dùng lời chân, lời thật vì ông diễn nói”

Khi ấy, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, xoay vần đùa giỡn cái chày, bước đi như Sư Tử, đến trước mặt Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát cung kính, đỉnh lễ, nhiễu quanh theo bên phải 3 vòng rồi lui ra trụ một bên, cởi cái não báu Thanh Tịnh Nguyệt Quang Ma Ni trên đầu ra, dùng hai tay dâng lên Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát xong, quỳ thẳng lưng, chắp tay bạch rằng:

“Thánh Giả! Tôi đối với Pháp này rất ư mê loạn, không có các Trí Tuệ hiểu Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa Đàn Ấn Biến Tượng Thành Tựu Tam Muội Gia này. Pháp này tộng lớn, thâm sâu vô lượng đều chẳng biết rõ Thế nào là trước? Thế nào là giữa? Thế nào là sau?

Thế nào là Pháp thông hiểu thành tựu?

Thế nào là Căn Bản Liên Hoa Đỉnh Đà La Ni Chân Ngôn?

Thế nào là Bí Mật Tâm Chân Ngôn?

Thế nào là Thiện Hi Di Chân Ngôn?

Thế nào là Phấn Nộ Vương Chân Ngôn?

Thế nào là Phấn Nộ Vương Tâm Chân Ngôn?

Thế nào là Chân Ngôn: 1 chữ, 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ cho đến 10 chữ với tất cả các Pháp?

Nguyện vì tôi dạy bày, mở cởi, giải nói”

_Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát dùng Tâm Từ Bi nhận cái mão báu Thanh Tịnh Nguyệt Quang này, liền ném lên hư không, hiến cúng dường Đức Phật. Dùng Đại Thần Lực đưa cái mão báu thẳng đến A Ca Ni Tra Thiên (Sắc Cứu Cánh Thiên) trụ ngay trên đỉnh đầu Đức Phật, biến thành cái lọng báu có chu vi tròn trịa dài rộng 500 ngàn Du Thiện Na, dùng báu Lưu Ly xanh biếc làm cái cốt, dùng các báu lớn làm hoa, chuỗi ngọc. Dùng vàng Diêm Phù Đàn làm mọi chuông, mõ. Dùng các quần áo của cõi Trời làm võng, phất trần. Cái lọng ấy: mỗi một bông hoa, chuỗi ngọc, chuông, mõ, võng, lưới, chuỗi ngọc, phất trần tuôn ra vô lượng ánh sáng. Ánh sáng ấy rực rỡ vượt hơn trăm ngàn mặt trời. Tất cả Chúng ngửa mặt quán nhìn, Tâm vui vẻ. Tất cả chư Thiên, Long Thần, 8 Đô (8 phương) thảy đểu đĩnh lệ, cúng dường. Chúng Khổ Hạnh Tiên cùng một lúc phát ra âm thanh, mọi loại ca bái, nhìn khen… Cái lọng này là nơi mà các Như Lai đã khen ngợi

Cái lọng ấy: các bông hoa, trên mỗi một đài đều có tướng báu. Trong mỗi một cái trướng có một Đức Như Lai ngồi Kiết Già. Nhiễu quanh 4 bên cái lọng có vô lượng chư Thiên Kinh Nữ (Thiên Nữ xinh đẹp), Long Nữ, Càn Thát Bà Nữ, A Tố Lạc Nữ, Nghiệt Lỗ Trà Nữ, Khẩn Na La Nữ, tất cả Chủng Tộc Chân Ngôn Tiên Nữ với vô lượng trăm ngàn Chúng của hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già… mỗi mỗi đều nương theo mây hoa mọi báu, đài điện ánh sáng, đều cầm các vòng hoa, hương xoa bôi, hương đốt của cõi Trời; các âm nhạc, quần áo, chuỗi ngọc, phướng, hoa, phan, phất trần của cõi Trời đều cùng xếp bày nối tiếp nhau, cúng dường Đức Như Lai. Hoặc đều gọ, tấu mọi loại nhạc Trời, ca múa, khen ngợi, xướng tiếng Phạm Âm… cùng một lúc dùng Tâm bình đẳng hiến cúng dường Đức Phật. Hết thảy tất cả 8 Bộ Trời Rồng trụ tại núi Bổ Đà Lạc cũng đều vui vẻ, hớn hở quán nhìn, khen chưa từng có

Lại có Nhất Thiết Như Lai Chủng Tộc Chân Ngôn Thần, Nhất Thiết Liên Hoa Chủng Tộc Chân Ngôn Thần, Nhất Thiết Kim Cương Chủng Tộc Chân Ngôn Thần, Nhất Thiết Ma Ni Chủng Tộc Chân Ngôn Thần, Nhất Thiết Đại Mạn Noa La Chủng Tộc Chân Ngôn Thần… hớn hở, quán nhìn, khen chưa từng có, chắp tay chiêm ngưỡng

Lại có tất cả Tinh Thiên, Thất Diệu Thiên, Tỳ Ma Dạ Thiên, Đại Phạm Thiên, Đế Thích Thiên, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Câu Ma La Thiên, Nan Nỉ Kế Thấp Phộc La Thiên, Nga Nê Thấp Phộc La Thiên, Y Thủ La Thiên, Ma Hề Thủ La Thiên, Tứ Thiên Vương, Bảo Hiền Thần, Mãn Hiền Thần, Lực Thiên Thần, Diệm Ma Vương, Phộc Lỗ Noa Thiên, Câu Phế La Thiên… đều nương theo cái điện báu, đều cầm các vòng hoa, hương xoa bôi, hương đốt quần áo, chuỗi ngọc, lọng báu, phướng, phan của cõi Trời xếp bày trong Hội để cúng dường Đức Phật

Lại có Đâu Suất Đà Thiên cho đến A Ca Ni Tra Thiên đều nương theo các mây báu, cung điện… ở trong hư không tuôn mưa hiện mọi loại mây biển đủ màu, hiến cúng dường Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát kèm với Đại Chúng trong Hội

Lại có Địa Cư: tất cả Tùng Lâm Thần, Dược Thảo Thần, Miêu Giá Thần, Hoa Quả Thần, Sơn Thần, Thủy Thần, Tuyền Chiểu Thần, Hà Thần, Giang Thần, Hải Thần,

Long Thần, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già đều cầm mọi loại hương xoa bôi, hương bột, hương đốt… hoa tya5p trên bờ dưới nước cùng một lúc quấn quýt nhau rải bày khắp mặt đất, làm cúng dường lớn

Tất cả chúng Trời, Rồng, Thần như vậy cùng lúc đồng được Thần Thông Uy Đức của Như Lai gia bị

_Bấy giờ, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ nhìn thấy Thần Biến rộng lớn vô lượng này. Lại nghĩ niệm rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ấy hiện bày vô lượng Thần Thông, Thần Biến rộng lớn như vậy”

Lại bạch với Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Nguyện rũ thương, khiến cởi bỏ sự nghi ngờ!”

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Để cởi bỏ sự nghi ngờ thì nên nghe cho kỹ! Hãy nghe thật kỹ!”

Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát lại từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước mặt Đức Phật, cung kính chắp tay, đỉnh lễ bàn chân của Đức Thế Tôn, nhiễu quanh theo bên phải 3 vòng rồi lui ra trụ một bên, vui tươi mỉm cười phóng ánh sáng lớn, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Trong Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này có Căn Bản Liên Hoa Đỉnh Đà La Ni Chân Ngôn Bí Mật Tâm Ấn, Phổ Biến Huyễn Hóa Quán Đại Mạn Noa La Quảng Đại Thần Biến Tối Thượng Tam Muội Gia… (nay con) muốn ở trước mặt Đức Phật khai mở, diễn bày. Tam Muội Gia này chỉ dùng chút Công Hạnh, đọc tụng, thọ trì mau được thành tựu”

_Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền duỗi bàn tay vô lượng trăm ngàn quang minh kim sắc quang xoa đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, khen rằng: “Lành tháy Lành thay bậc thanh tịnh! Nay chính là lúc thích hợp nên diễn nói”

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nương theo sự khen ngợi của Đức Phật xong, quán khắp tất cả Như Lai ở 10 phương, một thời cung kính đều đỉnh lễ hết, phấn tấn hớn hở liền nói Căn Bản Liên Hoa Đỉnh Đà La Ni Chân Ngôn là:

“Na mạc tắc trất-lệ dã đặc-bà nỗ nga đả (1) bả-la để sắt sỉ đế biều (2) tát phộc đả tha nga đổ sắt nê sái (3) y mộ già mạn noa la, ngu hứ duệ biều (4) tát phộc bột đà bồ địa tát đắc phế biều (5) na mạc tát phộc bả-la để duệ ca bột đà lý dã (6) thất la phộc ca tăng kì biều (7) để đả na nga đả, bả-la trất bán nỉ biều (8) na mạc tát phộc đả tha nga đá ngu hứ dã (9) củ la, hột-lợi na dã, tam ma duệ biều (10) na mạc tam miểu nga đá nam (11) na mạc tam miểu bả-la để bán na nam (12) na mạc xá la đặc-phộc để, tố đá dã (13) ma ha ma đái-duệ (14) na mạc y lợi gia (15) mai trất-lệ dã, bả-la mỗ khế biều (16) ma ha bồ địa tát đoả lý dã (17) nga noa phộc lệ biều (18) na mô y nhĩ đả bà dã, đả tha nga đá gia (19) la khả đê, tam miểu tam bột đà dã (20) na mô la đát-na đát-la gia dã (21) na mạc bát đầu-mộ sắt nê sái (22) mạn noa la đà la dã (23) na mạc y lợi-gia (24) phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la dã (25) bồ địa tát đỏa dã (26) ma ha tát đỏa dã (27) ma ha ca lỗ nê ca dã (28) na mô ma ha lý sử, y lợi dã (29) nga noa phộc lệ biều, ế biều (30) na mạc tắc cật-lý đoả-bà, ải lâm (31) nhĩ mục cật sái mạn nỗ lâm (32) y lợi gia phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la dã (33) mục khố đặc kì lợi noa (34) ma mộ già la nhạ bát đầu-mộ sắt nê sái (35) hột-lợi na diệm, đả tha nga đá, tam mỗ khư bà sử đảm (36) ma ha nặc bát lợi-san, mạt địa-duệ (37) y khả nhĩ đá nễ, ma vạt đả, dĩ sử duệ, tỉ điền đổ mễ (38) tát phộc ca lợi dã nê (39) tát phộc bà duệ số giả mễ, lạc khất sam củ lỗ (40) đát ninh-dã tha (41) Án, bát đầu-mộ sắt nê sái (42) bà la na, hồng (43) giả la giả la (44) chỉ lợi chỉ lợi (45) chủ lỗ chủ lỗ (46) ma ha ca lỗ nê ca (47) nhĩ lý nhị lý (48) bỉ lý bỉ lý (49) chỉ lợi chỉ lợi (50) bá la ma ca lỗ nê ca (51) tỉ lý tỉ lý (52) chỉ lý chỉ lý (53) bỉ lý bỉ lý (54) nhĩ lý nhĩ lý (55) Ma ha bát đầu-ma khả tắc đả (56) ca la ca la (57) chỉ lý chỉ lý (58) củ lỗ củ lỗ (59) Ma ha thú đà tát đỏa (60) ế hứ duệ hứ (61) bột đình-dạ, hiệu đình-dạ (62) đà phộc đà phộc (63) ca noa ca noa (64) chỉ nê chỉ nê (65) củ noa củ noa (66) bá la ma thú đà tát đỏa (67) ca la ca la (68) chỉ lý chỉ lý (69) củ lỗ củ lỗ (70) Ma ha tắc tha ma bả-la bả đả (71) giả la giả la (72) tán giả la tán giả la (73) nhĩ giả la nhĩ giả la (74) ế nhứ nhứ ế nhứ ế (75) bà la bà la (76) tị lý tị lý (77) bộ lỗ bộ lỗ (78) Ma ha nhĩ ma la, bát đầu-mộ sắt nê sái, nhĩ la nhạ (79) sa đà dã, sa đà dã (80) hồng hồng (81) ế hứ duệ hứ (82) ma ha ca lỗ nê ca (83) ma ha bát thú bát để, phế sái đà la (84) đà la đà la (85) Ma ha bát đầu-mộ sắt nê sái đà la (86) sai la sai la (87) tát bà phộc la noa (88) khả la khả la (89) giả la giả la (90) tát phộc bật đình-dạ đà la (91) na ma tắc cật-lý đả (92) khả la khả la (93) tát phộc bá bá, chỉ lý, nhĩ sái khả la (94) khả khả (95) hứ hứ (96) hổ hổ (97)

Án, ca la (98) một-la khả ma, phế sái đà la (99) đà la đà la (100) địa lợi địa lợi (101) độ lỗ độ lỗ (102) Ma ha bát đầu-ma (103) nhập phộc la đà la (104) đả la đả la (105) sai la sai la (106) bá la bá la (107) bát đầu-ma bá xả đà la (108) giả la giả la (109) phộc la phộc la (110) la thấp-nhĩ, xả đả, sa khả tắc la (111) bát la để mạn nê đá, xá lý la (112) nhập phộc la, nhập phộc la (113) đáp bá đáp bá (114) bà già bạn (115) tố ma, ninh-cát đinh-dã (116) dã ma, phộc lỗ noa, củ phế la, một-la khả mễ (117) nại-la, lý sử (118) nỉ phộc nga nõa, tệ chỉ đả, giả la noa (119) tố lỗ tố lỗ (120) chủ lỗ chủ lỗ (120) bổ lỗ bổ lỗ (121) tán nại củ ma la, một nại-la, bà sai phộc (123) nhĩ sắt nỗ, đà nẵng na, nỉ phộc, lý sử, na dã ca (124) phộc hổ, nhĩ nhĩ đà, phế sái đà la (125) ma ha bát đầu-ma đát noa đà la (126) bá xả đà la (127) đà la đà la (128) địa lợi địa lợi (129) độ lỗ độ lỗ (130) tha la tha la (131) già la già la (132) dã la dã la (133) la la la la (134) ma la ma la (135) bá la bá la (136) chá la chá la (137) phộc la phộc la (138) Ma ha bà la, na dã ca (139) tam mạn đa mạn noa la (140) phộc lộ chỉ đả (141) nhĩ lộ chỉ đả (142) lộ kế thấp-phộc la (143) ma ê thấp-phộc la (144) mỗ hổ mỗ hổ (145) mỗ lỗ mỗ lỗ (146) mỗ dã mỗ dã (147) muộn già muộn già (148) bà già bạn (149) y lợi gia phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la dã (150) lạc khất sái, lạc khất sái, ma ma (151) tát phộc bà duệ biều (152) tát vũ bát nại-la mễ biều (153) tát phộc khất-la hề biều (154) tát phộc nhập phộc lệ biều (155) tát phộc danh-dạ địa biều (156) phộc mặc bạn đà na (157) đả noa na, la nhạ, chủ la, đả tắc ca la (158) y khất nễ, ổ na ca (159) nhĩ sái, xả tắc đát la (160) bá lý mộ giả ca (161) ca noa ca noa (162) ký nê ký nê (163) củ nỗ củ nỗ (164) giả la giả la (165) ấn ninh-cát lý dã, phộc la bão trượng nga (166) giả đổ la lý dã (167) tát địa, tam bả-la ca xả ca (168) đả ma đả ma (169) na ma na ma (170) sai ma sai ma (171) Ma ha đả muộn đà ca la (172) nhĩ đà ma na (173) sát bá la nhĩ đá, bá lý bố la ca (174) nhĩ lý nhĩ lý (175) nhứ nhứ nhứ nhứ (176) tha tha tha tha (177) trí trí trí trí (178) trụ trụ trụ trụ (179)  ế nê dã, chiết ma cật-lý đả, bá lý ca la (180) ế hứ duệ hứ (181) ải thấp phộc la (182) ma ê thấp-phộc la (183) bát đầu-mễ thấp phộc la (184) ma ha bộ đả nga noa, bạn nhạ ca (185) ma ha tất đễ thấp phộc la (186) củ lỗ củ lỗ (187) bá la bá la (188) ca nhứ ca nhứ (189) ma nhứ ma nhứ (190) nhĩ thú đà, nhĩ sái dã, bà tân (191) ma ha ca lỗ nê ca (192) thấp-phế đá duệ-thận nhiêu (193) bá nhĩ đả (194) la đát-na, ma củ tra (195) ma la đà la (196) tát phộc thận nhạ, thủy la tỉ, cật-lý đả (197) nhạ tra, ma củ tra (198) ma hạt đặc bộ đả (199) ca ma la, cật-lý đả, ca la, đả la (200) chi khả na, tam ma địa (201) nhĩ mục khất sái bả-la kiếm tinh-dã (202) phộc hổ, tát đỏa tán đát để, bá lý bá giả ca (203) ma ha ca lỗ nê ca (204) tát phộc yết ma, bà la noa, nhĩ du đà ca (205) tát phộc danh-dạ địa, bả-la mộ giả ca (206) tát ma xá bá lý bố la ca (207) tát phộc tát đoả-phộc tam ma thấp-phộc sai ca (208)

Án, bát đầu-mộ sắt nê sái (209) bá xả hột-lợi na dã, mạn noa la (210) na mô tốt đổ đê, toa-phộc ha (211)”

 

_Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nói Đà La Ni Chân Ngôn này thời 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động lớn theo 6 cách. Trên, dưới, giáp vòng núi Bổ Đà Lạc ấy khắp cả từ mặt đất cùng một lúc phun vọt lên hoa sen mọi báu

Từ trong rốn của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát phóng ánh sáng lớn, hiện hoa sen mọi báu ngàn cánh, dùng báu Lưu Ly xanh làm cái cọng, vàng Diêm Phù Đàn làm cái đài, ngọc đỏ làm hạt, ngọc trắng làm tua nhụy. Hoa ấy lại phóng mọi loại ánh sáng màu chiếu thấu suốt tất cả cõi nước ở 10 phương: cung Trời, cung Rồng, cung Dược Xoa, cung La Sát, cung a Tố Lạc, cung Càn Thát Bà, cung Nghiệt Lỗ Trà, cung Khẩn Na La, cung Ma Hô La Già, tất cả hữu tình cảnh giác an ủi. Ánh sáng ấy chiếu xuống bên dưới đến 16 Địa Ngục, hết thảy đều biến thành ao hoa sen, tất cả hữu tình chịu khổ trong đó đều được giải thoát, cùng một lúc buông xả mạng, đến cõi nước An Lạc ở phương Tây hóa sinh trong hoa sen, dùng quần áo của cõi Trời để trang nghiêm thân, chứng Túc Trụ Trí

Tất cả hữu tình trên bờ, dưới nước gặp ánh sáng này thời buông xả Báo Thân củng sinh vào cõi Trời, dùng quần áo của cõi Trời để trang sức thân

Tại Hội: Bồ Tát Nhất Địa, Nhị Địa cùng một lúc đều chứng Đệ Bát Địa Trụ. Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa ấy cho đến Thất Địa, tất cả hàng Bồ Tát Ma Ha Tát đều chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề

Tất cả Chủng Tộc Chân Ngôn Minh Tiên đều chứng Bất Không Liên Hoa

Đỉnh Bí Mật Tâm Mạn Noa La Tam Ma Địa

Tất cả Long Vương đều chứng Bảo Tràng Tam Ma Địa

Tất cả chư Thiên đều chứng Hỏa Củ Tam Ma Địa

Tất cả Dược Xoa Vương, La Sát Vương đều chứng Bảo Cung Điện Tam Ma Địa

Tất cả A Tố Lạc Vương, Càn Thát Bà Vương đều chứng Kim Cương Giáp Tràng Tam Ma Địa

Tất cả Nghiệt Lỗ Trà Vương đều chứng Kim Cương Chủy Đại Tấn Tật Lực Tam Ma Địa

Tất cả Khẩn Na La Vương, Ma Lô La Già Vương, tất cả Chân Ngôn Thần đều chứng Thân Khẩu Ý Nghiệp Thanh Tịnh Tam Ma Địa

Tất cả Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca đều thoát sự lo buồn khổ não của Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, 6 Xứ, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già, Bệnh, Chết

_Bấy giờ, trên thân Thích Ca Mâu Ni Như Lai phóng khắp ánh sáng của cây phướng Đại Nhật nhập thẳng vào trái tim của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát liền lại bảo Chấp Kim Cương Bí Mật

Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Nên quán sát kỹ lưỡng Bất Không Vương Liên Hoa Đỉnh Bí Mật Tâm Thần Thông Tự Tại Mạn Noa La Tam Muội Gia này” Lúc đó, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch rằng: “Thánh Giả! Tôi đã quán thấy Bất Không Vương Liên Hoa Đỉnh Bí Mật Tâm Thần Thông Tự Tại Mạn Noa La Tam Muội Gia này rộng lớn vô lượng, thâm sâu đặc biệt lạ kỳ, khó thấy, chưa từng có, thành tựu tất cả Pháp tối thượng, cho các hữu tình trừ bỏ các gánh nặng, khiến cho người thọ trì được Đại Phước Địa”

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát lại bảo Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Bất Không Vương Liên Hoa Đỉnh Bí Mật Tâm Thần Thông Tự Tại Mạn Noa La Tam Muội Gia này hay rộng lợi ích cho tất cả hữu tình, trừ các tội chướng, xua đuổi các Tỳ Na Dạ Ca, tất cả chúng Ma, Quỷ Thần ác đều tự chạy tan. Tất cả thuốc độc, trùng độc, cọp, sói, thú ác, mọi loại tai nạn thảy đều trừ khiển. Người chỉ đọc tụng mau được thành tựu chân thật vô thượng”

_Khi ấy, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát vui vẻ, mỉm cười, nghịch giỡn cái chày cầm trong lòng bàn tay, nói với đấng Đại Bi rằng: “Thế nào là Liên Hoa Đỉnh Bí Mật Tâm Thần Thông Tự Tại Mạn Noa La Tam Muội Gia chân thật. Nguyện xin nói bày”

Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát liền duỗi bàn tay phải xoa đài sen ngàn cánh trong ánh sáng lớn trên rốn của mình. LIền ở trên đài hiện ra cái trướng báu, ở trong cái trướng ấy hiện Liên Hoa Đỉnh Bí Mật Tâm Thần Thông Tự Tại Mạn Noa La Quán Thế Âm Bồ Tát hiển tướng Đại Phạm Thiên, mặt mắt vui tươi, có 3 con mắt, 4 cánh tay, dùng đủ mọi báu, Anh Lạc, trang phục cõi Trời để trang nghiêm thân. Đầu đội mão báu, mão có vị Hóa Phật. Một tay cầm sợi dây, một tay cầm mão hoa sen báu, một tay cầm cây gậy báu, một tay cầm chày Kim Cương… ngồi Kiết Già, thân phóng mọi lọa ánh sáng màu kỳ diệu tự nghiêm thân ấy, ánh sáng che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, mọi ngôi sao…. Ấy là nơi mà mắt của các Như Lai đã quán sát. Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát cung kính đỉnh lễ, tất cả chư Thiên chắp tay lễ tán, tất cả chúng Khổ Hạnh Tiên lễ kính khen ngợi. Tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, a Tố Lạc, Càn Thát Bà, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già chắp tay, đỉnh lễ, xoay nhiễu quanh ca tán”

_Bấy giờ, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát kèm với quyến thuộc nhìn thấy Thần Biến rộng lớn bí mật chân thật của Liên Hoa Đỉnh Bí Mật Tâm Thần Thông Tự Tại Mạn Noa La Tam Muội Gia này, cùng một lúc đều chứng Bất Không

Liên Hoa Đỉnh Vô Cấu Quang Diệm Tam Ma Địa, Bất Không Huyễn Hóa Tam

Ma Địa… vui vẻ, chắp tay cùng một lúc lễ tán Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát liền nói Bí Mật Tâm Chân Ngôn là:

“Án, y mộ già hột-lợi na dã (1) bát đầu-mộ sắt nê sái (2) củ ma la, phế sái đà la (3) bát đầu-mễ thấp-phộc la (4) y mễ xả dã (5) tát phộc mộ già củ la sai ma dã (6) hột-lợi na diệm (7) tát phộc tất đình-dạ mộ kiệm (8) bả-la duệ xả (9) bát đầuma, bát đầu-ma (10) hồng hồng (11) na mô tốt đổ đê (12) toa-phộc ha (13)”

 

Chân Ngôn như vậy, thân tâm vui thích, dùng Tâm Đại Bi quán Đức Phật A Di Đà, quán Quán Thế Âm thì Phước Uẩn mà người trì tụng đắc được ngang đồng với Giới Giải Thoát Uẩn của tất cả Như Lai 3 đời, cũng ngang bằng với Giải Thoát Sắc Uẩn của Đức Phật A Di Đà, cũng như thân cầm nắm mọi loại khí trượng của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát

Nếu thường kết Liên Hoa Đỉnh Ấn, tự rưới rót lên đỉnh đầu của mình mà niệm tụng thời được đồng với tất cả Như Lai 3 đời trao cho Quán Đỉnh, sẽ chứng trăm ngàn Tam Ma Địa, nhóm Phước tương ứng

_Chủng Tộc Hi Di Vương Chân Ngôn là:

“Án, y mộ già (1) bát đầu-mộ sắt nê sái thấp-phộc la (2) bát đầu-mễ thấpphộc la (3) y mạn đát la dã (4) tát phộc đả tha nga đả nam (5) y mộ già bát đầumộ sắt nê sái (6) sai ma dã ma ca lợi sái dã (7) bả-la mễ xả dã (8) tát phộc yết ma tỉ trầm mễ (9) bả-la duệ bá (10) y phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la (11) hồng hồng (12) ma ha bát đầu-mộ sắt nê sái bộ nê (13) toa-phộc ha (14)”

 

Chân Ngôn như vậy, Tâm vui vẻ, mặt đáng sợ, dùng Tâm Đại Bi quán Quán Thế Âm, quán Liên Hoa Đỉnh Mạn Noa La. người trì tụng trong Quán Thế Âm Mạn

Noa La, Liên Hoa Chủng Tộc Chân Ngôn Minh Vương, Mai Đát La Chân Ngôn Minh Vương, Bật Đình-Dạ Chân Ngôn Minh Vương thì Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát thảy đều âm thầm hộ giúp, cho chứng Bất Không Chủng Tộc Tất Địa, Liên Hoa Đỉnh Chủng Tộc Tất Địa, Liên Hoa Quảng Đại Đàn Tất Địa, Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Mạn Noa La Tất Địa, Bất Không Phú Nhiêu Tôn Quý Tự Tại Tất Địa, Nhất Thiết Bồ Tát Chủng Tộc Thông Hội Taq61t Địa… sẽ ở trong trăm ngàn cõi Phật, sinh làm Đại Chủng Tộc Chân Ngôn Minh Tiên. Dạo chơi trong các cõi Trời, trong cõi Rồng, trong tất cả cỏi của Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc, Càn Thát Bà, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, người, Phi Nhân… đều được tự tại, cho đến sẽ chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề tương ứng

_Chủng Tộc Phấn Nộ Vương Chân Ngôn là:

“Án, ma ha chiến noa (1) bát đầu-mễ thấp-phộc la (2) nhĩ nhĩ đà lỗ bá (3) nhĩ ca nhứ bát đầu-ma (4) đặng sắt tra-la ca la la (5) tỳ sái noa phộc cật đát-la (6) tát phộc nột sắt tra (7) hột-lợi na diệm (8) khư na dã nhĩ khất nam (9) bát đầu-ma điệt-lực chỉ trí (10) điệt-lý trí hồng (11) toa-phộc ha (12)”

 

Chân Ngôn như vậy, thân tâm giận dữ, quán Phất Nộ Vương Chân Ngôn tụng trì thì núi Tu Di Lô, núi vàng, núi sắt đều chấn động hết. Biển lớn phun trào, tất cả cung Rồng đều dấy lên lửa lớn. Các Tỳ Na Dạ Ca ác đều bị chận bắt cột trói, tất cả Quỷ Thần bỏ chạy tứ tán, tất cả Đại Phấn Nộ Vương thường đều ủng hộ. Đại Phạm Thiên, Đế Thích Thiên, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Diệm Ma Vương, Thủy Thiên, Sa Già La Long Vương, Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương, Câu Ma La Thiên Thần, Tứ Thiên Vương Thần… thường đi theo hộ trì

Giáng phục các tai vạ thì huống mặt về nơi có tai vạ, dùng tiếng giận dữ lớn, tụng niệm liền được trừ diệt. Trong Đàn ngầm tụng, làm tu Pháp thì mau được thành tựu

_Chủng Tộc Phấn Nộ Vương Tâm Chân Ngôn là:

“Án, y mộ già (1) bát đầu-mộ sắt nê sái (2) ma ha bát đầu-ma bá xả (3) củ lỗ đà ca lý sái dã (4) bát-la phế xả dã (5) ma ha bát thú bát để (6) dã ma, bà lỗ noa, củ phế la (7) một-la khả ma, phế sái đà la (8) ma ha chiến noa mễ nga (9) y mộ già củ la sai ma dã (10) bát đầu-mễ (11) hồng hồng (12)”

Chân ngôn như vậy, Tâm phấn tấn quán Phấn Nộ Vương ở trước mặt Bất Không Vương Quán Thế Âm thiêu đốt Hương Vương, tụng trì thì hết thảy tất cả Thiện Pháp mà Tâm đã niệm thảy đều thành tựu

 

KINH BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN

_QUYỂN THỨ MƯỜI BẢY (Hết)_