Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung
Sa môn An Thế Cao dịch từ Phạn ra Hán
Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm dịch và giải

 

PHẦN HAI: KINH VĂN

Đoạn một: Tin phụng thờ Phật có quả báo kiết hung

1. Tôn giả A-Nan khải thỉnh Đức Phật về việc tín phụng Phật có quả báo bất đồng.

CHÁNH VĂN:

A-Nan bạch Phật rằng: “Có người tín phụng thờ Phật được giàu sang phú quý tốt lành như ý. Có người tín phụng thờ Phật lại phải quả báo không như ý, bị tiêu hao suy thoái. Tại sao có việc khác biệt lạ lùng như vậy? Cúi xin đức Thiên-Trung-Thiên (Phật) từ bi khắp vì chúng sanh mà giải nói cho.

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh đây chính là lời của Tôn giả A-Nan mở đầu thưa thỉnh tôn ý Phật xin được nghe giảng pháp. Tôn giả nêu ra hai câu nghi vấn: Một là tín phụng thờ Phật được quả báo giàu sang phú quý, mọi việc đều được như ý. Hai là ngược lại, sau khi tu học Phật thì mất đi giàu sang phú quý, địa vị vốn có, lại theo đó phải nhận chịu quả báo đủ mọi điều trái ý nghịch lòng. Hai trường hợp trên đây đồng là phụng thờ học Phật cả mà sao lại nhận chịu hai quả báo khác biệt như vậy? Cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng từ bi thương xót chúng con và chúng sanh đời sau mà giải nói nghĩa lý nầy.

Bậc “Thiên-Trung-Thiên” là danh từ mà đệ tử Phật tôn xưng Đức Phật. mang ý nghĩa tôn kính khen ngợi Phật là bậc được khắp cả chúng sanh cõi trời cõi người tôn kính tối thượng.

2.- Phật đáp, phụng Phật được cát tường.

CHÁNH VĂN:

Phật bảo A-Nan: “Có người phụng sự Phật, theo bậc minh sư thọ giới, tin tưởng, tinh chuyên hành trì không phạm, tinh tiến phụng hành giáo pháp, không thối thất điều đã lãnh thọ.

LỜI GIẢI:

Trên đây lời Đức Phật giải đáp câu hỏi của A-Nan về việc tu học thì được quả báo tốt lành. Muốn được quả báo tốt lành thì trước nhất phải theo bậc minh sư cầu thọ giới tu học. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nầy Thiện nam-tử, nếu muốn thành tựu nhứt-thiết-trí thì nên quyết phải tìm cầu học hỏi nơi bậc chân thiện-tri-thức, chớ nên sanh tâm giải đãi mỏi mệt, cũng không nên sanh lòng nhàm chán, hoặc tự cho mình là đầy đủ, mà thảy đều phải hết lòng tùy thuận, cũng đừng thấy chỗ thiếu sót lỗi lầm của thiện-tri-thức. Lúc đó Thiện Tài đồng tử một lòng nghi nhớ, nương thiện-tri-thức, kính thiện-tri-thức đối với thiện-tri-thức khởi lòng nghĩ tưởng như bậc mẹ hiền, được nghe pháp rồi thì khởi tâm vui mừng không xiết kể”. Do đây có thể biết được rằng, thế gian cũng như xuất thế gian việc cầu học đều xem trọng ở việc phụng hành lời Phật dạy.

Đạo thầy trò mà còn được giữ gìn vững chắc thì trên đời nầy còn nhiều người lành thiện. Người lành thiện nhiều thì quốc gia được thạnh trị, thiên hạ thái bình! Là đệ tử Phật, nếu chánh tâm chân thành phụng hành lời Phật dạy thì đời mình được an lành, đạo pháp ngày một thêm hưng thạnh, ảnh hưởng sâu xa đến quốc gia xã hội được thanh bình lợi lạc.

“Theo bậc minh sư thọ giới cầu học”. Được gọi là minh sư thì người đó phải là bậc có kiến thức đạo hạnh vững chắc, nhân đó đồ đệ tin theo thân gần để tiếp thọ kiến thức đạo hạnh của minh sư. Nên bậc minh sư còn được xưng là chân thiện-tri-thức. Ông Âu-Dương-Cảnh-Vô nói: “Bậc thầy là lấy tri kiến và đạo hạnh làm thể, chứ không lấy thành quả hoặc chỉ lấy nghi thức làm thể”. Kinh Pháp-Hoa nói: “Các Đức Phật Thế Tôn vì đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự nhân duyên chính là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”. Kinh Niết Bàn, kinh Du già, kinh Thủ Lăng Nghiêm đều chủ trương tri kiến. Tri là thấu suốt chân tướng các pháp không còn chướng ngại chân lý vạn hữu. Kiến là kiến tánh. Thấy rõ tự tánh chân tâm không còn mê lầm. Vậy tri kiến là thấu suốt chân lý vũ trụ, thể nhập tự tánh chân tâm. Thế nên “tri kiến” là thầy của trời người. Phật giáo là nền tảng căn bản trí đức duy nhất của thiên nhơn. Phật giáo là chánh kiến chánh tri, không lụy vì mê tín, không thiên lệch vì tình cảm, nên gọi là vi diệu pháp.

“Minh sư” là chỉ cho người thông đạt trọn vẹn chân lý của tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian không còn trở ngại, phẩm hạnh học vấn kiêm ưu, thật tu thật chứng song toàn. Đức Phật dạy chúng ta học Phật nên tìm cầu minh sư. Nhưng thật ra, nói cho cùng thì minh sư có thể gặp, nhưng không thể cầu. Bởi vì nếu đời trước vụng tu, phước đức yếu kém, khiếm khuyết nhân duyên lành thiện thì khó mà tìm gặp minh sư. Dù minh sư ở bên cạnh nhà, nếu là tà tâm thì cũng không tiếp nhận được pháp nhủ giáo hóa của minh sư. Cũng như kẻ nhiều nghiệp chướng, dù nhà ở sát cạnh chùa cũng vẫn không bước đến chùa lạy Phật nghe pháp. Do đó mà nói minh sư có thể gặp mà không thể cầu. Nói cách khác có thể thấy chùa, nhưng lại bước vào chùa lễ Phật nghe pháp thì không thể làm được. Nếu như không gặp được minh sư mà bất đắc dĩ phải cầu hạng minh sư thứ yếu kém thiếu tri kiến đức hạnh, thì điều căn bản phải cầu vị thầy có chánh tri chánh kiến, có khả năng giảng giải lời của bậc thánh nhơn, khiến cho đồ đệ có thể hiểu biết lãnh thọ được, như thế mới nên tin phụng làm thầy. Kinh nói rằng: “Y pháp bất y nhơn, tuyết sơn nửa bài kệ, La Sát có thể sư”. Chỉ có bậc minh sư thấu đạt các pháp thế gian và xuất thế gian mới không sai phương hướng, mới không đưa chúng ta vào nẻo tà. Nhất là đối với người mới phát tâm vào cửa Phật, trước mặt lắm kẻ tự xưng là thầy, đời nầy không thiếu kẻ tự cho mình đã chứng đắc, nên khó tránh mắc phải tà sư ngụy thánh hư danh lợi dưỡng. Do vậy thường đưa đến tình trạng kẻ sơ phát tâm học đạo lúc ban đầu không may mắn gặp được minh sư, nếu sau nầy có gặp được chân thiện-tri-thức cũng không dễ gì dứt sạch định kiến lúc ban đầu để cải đổi phương hướng. Đây là vấn đề trọng đại đối với người mới phát tâm học Phật phải hết sức cẩn trọng lưu tâm. Với người mới phát khởi tâm chí học Phật cầu tiến phải thận trọng chọn thầy, tìm thiện-tri-thức thì đạo nghiệp mới mong thành tựu viên mãn.

“Thọ giới” là đệ tử tiếp nhận lời giáo huấn của thầy bằng giới luật Phật chế. Giới bao hàm ý nghĩa học vấn dung hội thể hiện ở nơi thân tâm sinh hoạt. Thế nên đích thực tinh thần của chữ “học” là thâm nhập và thể hiện, tri hành tương xứng. Học vấn được thể hiện sinh hoạt, sinh hoạt tức là học vấn, giáo dục tri hành hợp nhất, tu học lý sự viên dung. Do đó, học Phật cần phải thân cận bậc thầy thông đạt sự lý, có kiến thức tu dưỡng, thật tu thật chứng, biện tài đạo hạnh, đồ đệ mới có thể từ đó tiếp thọ giáo huấn hướng đạo, y giáo phụng hành.

“Tinh chuyên tin tưởng không phạm, tinh tiến phụng hành giáo pháp, không thối thất điều đã lãnh thọ”. Ba câu nầy giảng về đạo lý kính tin vâng lời thầy. Đã kính tin thì tâm phải chân thành, ý phải trung thực, không khúc mắc trái phạm, chuyên cần phục vụ dù phải tan thân mất mạng cũng không nệ hà. Vì cầu học tiến thân, vì tăng trưởng giới thân huệ mạng, nên người đệ tử đối với bậc thầy phải sanh tâm kính trọng, trong tinh thần tôn sư trọng đạo, đạo thầy trò là đạo căn bản con người, sư đạo là Phật đạo. Lời dạy của bậc thầy, đạo lý trong kinh điển đều là phương pháp tu hành, nếu học trò chuyên tâm thực hành theo không trái phạm thì đạo hạnh trí đức sẽ như thầy. Một lòng tin tưởng không nghi ngờ gọi là tinh chuyên tín kính. Không trái phạm lời giáo huấn của thầy gọi là không phạm. Tìm cầu minh sư, thân gần thiện-tri-thức với tâm chí chân thành như vậy mới thật sự gọi là thái độ tu học chân chánh. Cư sĩ Đường Đại Viên nói: Đạo Phật dạy người trước cầu đạt căn bản trí, vô tướng không phân biệt, sau cầu hậu đắc trí có khả năng phân biệt suốt thông tất cả pháp. Cũng như phương pháp giáo dục của Trung Hoa ngày xưa dạy trẻ con học kinh, trước chỉ cần học thuộc lòng, sau giảng giải mới thấu hiểu thâm sâu, về lâu về dài tự nhiên khai ngộ, đó là tư tưởng nhất quán của văn hóa Đông phương. Học Phật cũng nên đọc tụng thuộc lòng kinh luận, mới đầu chẳng cần cầu hiểu liền hiểu sâu, tức là cầu căn bản trí. Khi đã thuộc lào kinh điển, một ngày nào đó tự nhiên thấm sâu vào tim óc sanh đắc kỳ diệu, do thường hằng nghe điều thuộc lòng mà sanh tư duy, tư duy là cách tu nhiếp niệm điều phục tâm vào một mục đích tu huệ, là phương cách của văn tư tu, đưa đến đạt hậu đắc trí. Lấy đây để so sánh thì triết lý sống của Đông phương không vội cầu liễu giải, mà cầu bồi dưỡng căn bản trí, nên mất đi tác dụng hậu đắc trí. Âu Dương Tu cũng nói: “Hạng người cho rằng kinh điển thánh hiền nghĩa lý thâm sâu không thích hợp với tuổi trẻ sơ học, nên bỏ đi đừng học thuộc lòng, điều nầy thật là nông nổi! Đây cũng là mầm mống đen tối là hư hỏng học phong, thật chết đi được! Cái học không còn sinh khí nữa vậy!”.

“Tinh tấn phụng hành tinh chuyên tin tưởng không phạm” là tinh thuần chuyên nhất ngày đêm tinh tấn không ngừng, nhờ vậy mà khắc phục loạn tâm nhụt chí để tiến thủ từng giờ từng khắc, ngày hôm nay hơn ngày hôm qua, giờ này hơn giờ trước, dõng mãnh tiến lên không thối chuyển. Đây đích thực là phương pháp của người tu học theo minh sư để được như ý của bậc thầy, và mãn nguyện tâm chí học đạo của mình. Kinh điển là giáo tài của Phật pháp thuyết minh chân lý vũ trụ vạn pháp, trình bày cội nguồn của thực tế nhơn sanh, luôn luôn sinh động, có đầy đủ tính chất siêu việt thời gian và không gian. Phật pháp là nguyên lý nguyên tắc bất biến, dù ở thời gian hoàn cảnh nào. Bởi giáo lý đạo Phật mang tính chất duy nhất vĩnh hằng bất biến mới vẫn có thể trải bao ngàn năm vẫn hiệu năng đại dụng không lường, nên gọi là tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Về điểm nầy, chúng ta có thể chứng thật qua lịch sử lưu truyền Phật pháp. Bằng chứng như trong cùng một bộ kinh thuyết minh chân lý duy nhất, nhưng sự giải thích tất nhiên có mang tính chất thời đại, chúng sanh mới có thể lãnh hội, mới thâu hoạch lợi ích. Đây chính là căn bản trí bất biến, mà hậu đắc trí thì tùy thuận chúng sanh, các thứ duyên để được đại dụng vô biên, rộng sâu vô lượng. Tuy vậy, cũng không trái lệch với kinh điển, với lời Phật dạy. Đây chính là ý nghĩa tinh tấn “nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân”. – Mỗi ngày tinh tấn không ngừng, mỗi ngày đều mới, hôm nay mới hơn hôm qua. Tuy mới mà không mất gốc cũ. – Tùy duyên nhưng bất biến. Thích nghi căn cơ thời đại mà không ngoài chân lý chánh pháp, nên gọi Phật pháp là khế cơ, khế lý. Nhưng điều đáng lưu ý là, không phải học thuộc lòng kinh điển rồi dính mắc trong kinh điển như cái đảy đựng sách. Người học thuộc kinh điển không phải chỉ để nói lào thông, tụng kinh không cần quyển, không phải để người khen thưởng, mà mục đích của học thuộc lòng để suy tư lời kinh quán chiếu lại tâm tánh hành vi của minh, từ đó sửa đổi cải thiện tinh tiến thánh thiện thân tâm mới là thâm nhập kinh tạng. Người học Phật phải thức thời, phải tinh tiến, phải thích hợp với thời đại để hướng dẫn chúng sanh của thời đại. Có tâm chí tinh tiến phụng hành lời dạy của minh sư thì tự nhiên đối với đạo nghiệp học vấn tiến bộ lâu dài, không mắc phải bịnh năng thuyết bất năng hành, tránh khỏi rơi vào cố chấp lỗi thời lạc hậu. Không ý htức điều nầy thì tu lâu mà ngày một thêm xa lý đạo mất đường vào bảo tháp kiến tánh. Điều thiết yếu mà người tu học Phật không thể thiếu đó là thanh tâm thanh tịnh lễ bái cúng dường trai giới.

CHÁNH VĂN:

Hình tượng Phật phải trang nghiêm tốt đẹp, sáng chiều thành tâm lễ bái, cung kính thắp đèn nến, thanh tịnh bố thí được phước báo an lạc, hành vi không trái với lời Phật dạy, trì trai giữ giới không gián đoạn, không mỏi mệt, như thế lòng mới được an vui.

LỜI GIẢI:

Thờ hình tượng Phật tốt đẹp trang nghiêm là biểu hiện lòng thành kính. Cúng dường lễ bái hình tượng Phật không phải là một hình thức mê tín làm là thể hiện nghệ thuật tối cao về giáo học, thể hiện lòng thiết tha về tâm thành hướng thượng chân thiện mỹ. Phật, Bồ Tát vô số, nhưng không phải là phiếm thần giáo, mà là tiêu biểu cho tự tánh của chính mình có vô tận đức năng, nên thờ cúng lễ lạy Phật tượng chính là khai triển khả năng Phật tánh, thánh thiện tâm linh. Hình tượng Phật, danh hiệu Phật là tiêu biểu cho “quả địa” tánh đức. Hình tượng Bồ Tát, danh hiệu Bồ Tát là tiêu biểu cho “nhân địa” tu đức. Kính lễ Phật và Bồ Tát mang ý nghĩa kính trọng hai đức tánh đó. Nói cách khác, kính lễ Phật, Bồ Tát hàm dưỡng ý nghĩa tự trọng tự tánh, trang nghiêm đức tánh, tự cường khả năng của chính mình. Cũng như danh hiệu Thích-Ca Mâu-Ni. Thích-Ca nghĩa là năng nhân, tức bên noài thì khả năng thể hiện tất cả việc nhân từ đức hạnh. Mâu-Ni nghĩa là tịnh mặc, tức bên trong thì hàm dưỡng đầy đủ đức tánh thanh tịnh giải thoát. Cũng như danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát có nghĩa là đại địa tàng chứa tài nguyên quý báu, mà ý nghĩa sâu xa của tánh đức và tu đức là hiếu đạo. Đạo hiếu là tiêu biểu căn bản cho muôn vạn điều lành. Điều lành là đặc tánh căn bản của tu đức. Muốn đạt thành tu đức thì trước nhất phải khởi đi từ đạo hiếu. Ngoài ra như danh hiệu Văn Thù là tiêu biểu cho đức tánh trí huệ. Quán Âm tiêu biểu cho đức tánh đại từ bi. Di Lặc tiêu biểu cho đức tánh đại từ nhẫn nhục. Phổ Hiền tiêu biểu cho đức tánh thệ nguyện chuyên chở tu đức rộng lớn v.v… Trong Phật Pháp cho người tu học Phật có cơ duyên mắt thấy Phật tượng, tai nghe danh hiệu Phật, từ đó làm duyên có thể phát tâm khai triển tánh đức và tu đức, phát khởi ý chí hướng thượng thờ kính lễ hình tượng Phật Bồ Tát với tinh thần hướng thượng, với tâm chí cầu tiến thánh thiện mang ý nghĩa thâm thúy như vậy thì có thể gọi là mê tín ư?

Huống nữa Đức Phật Thích-Ca là bậc Thầy khai sáng đạo, Bồ Tát là những vị hiền thánh, đạo lý hành vi của các Ngài trải đã mấy ngàn năm chẳng những chưa mảy may tỏ ra lỗi thời lạc hậu mà còn làm ánh sáng chỉ nam cho những công trình phát minh của nhơn loại nhẹ bớt tăm tối khổ đau, nên sự thờ phụng cúng dường kính lễ hình tượng Phật Bồ Tát chính là cách dạy người thuần tâm thành ý, chánh kiến chân học tín tu. Người có tâm kính hiền trọng đức thì tất nhiên thích làm việc lành, tạo hạnh phúc cho xã hội, giúp đỡ mọi người. Thờ tượng Phật Bồ Tát phải tốt đẹp trang nghiêm tức là hàm dưỡng ý nghĩa chánh tâm thành kính luôn luôn giữ lòng thanh tịnh, hành nghi đoan trang, tinh tấn tu tập, khai triển thiện tâm thanh cao nhơn cách như Phật và Bồ Tát. Có kẻ cho rằng thờ lạy Phật tượng là việc làm mê tín, là cách thờ lạy ngẫu tượng. Do tâm tà ý lệch như thế nên đưa đến quan niệm không cúng bái ông bà tổ tiên, không ăn đồ cúng cha mẹ. Điều nầy đầu độc đưa đến ý niệm vong ân bội nghĩa bậc sanh thành dưỡng dục, người ân đức giúp đỡ mình. Xa hơn nữa là vong bản quốc gia, mất nguồn dân tộc. Hằng ngày chào cờ. Biết bao anh hùng đã hy sinh dưới bóng cờ. Cũng biết bao anh hùng đã thành công dưới bóng cờ tổ quốc. Vậy chào cờ cũng là ngẫu tượng mê tín ư? Nên thánh hiền Đông phương nói: Hiếu là đầu trong muôn hạnh lành.

“Sáng chiều thành tâm lễ bái”. Đây là phương pháp tu thân. Bởi thân thì thường thích ăn ham ngủ đắm trong dục lạc hưởng thụ, buông lung phóng túng không thích khép mình theo phép tắc luật nghi, nên phải dùng đến phương pháp lễ Phật chuyên cần để từ đó có thể ngăn chữa bệnh giải đãi, giảm trừ dần thói hư tật xấu của thân.

“Cung kính đốt đèn” là một cách của phương pháp tu tâm. Tâm u tối mê mờ thích làm những chuyện ích kỷ lợi mình hại người, do tham sân si ám muội tạo nên những điều phiền lụy khổ đau cho người khác để thỏa mãn dục vọng phàm tục của mình. Thành tâm cung kính đốt đèn cúng Phật, soi sáng hình tượng Phật, thấy rõ tướng hảo trang nghiêm để từ đó đèn Phật huệ soi sáng đến tận thâm sâu tăm tối của tâm hồn. Sáng chiều là ý nói thời khóa tu niệm sáng chiều nhất định. Người tu học Phật phải có thời khóa tu nhất định để nhiếp phục thân tâm, nhiếp niệm quán chiếu, không thể khi vui thì tụng kinh niệm Phật, khi buồn thì nghỉ hay hay khi buồn thì tìm đến Phật, niệm Phật tụng kinh cầu nguyện, khi được an vui lại thôi. Người tu học Phật phải phát tâm lập nguyện, không thể xu hướng tùy thời, khi rảnh khi khỏe thì tọa thiền niệm Phật, khi bận khi mệt thì thôi, hoặc ngược lại.

Lễ bái là phương cách thúc liễm thân buông lung, để nhiếp niệm an định, điều tâm cung kính, dẹp trừ ngã mạn. Lễ bái còn là phương pháp làm cho thân tinh tấn không u trệ biến lười giải đãi, làm cho tâm tỉnh thức không cho tâm hồn trầm mê muội. Phương pháp lễ bái của nhà Phật là y cứ vào nguyên lý của pháp tu thiền định, tức là động tĩnh nhiếp niệm không hai. Ngoài ra lễ bái còn là phương pháp dưỡng sanh tốt nhất cho thân thể tráng kiện, tâm trí tỉnh sáng. Nếu mỗi buổi sáng hành giả phát nguyện thực hành lễ sám hồng danh thì nhất định thân tâm cường tráng trong sáng. Xưa nay những người nhập thất tịnh tu đúng phương pháp, sau thời gian tu thất viên mãn, họ đạt được kết quả huy hoàng là thân thể tráng kiện, tâm trí minh mẫn, tinh thần định tỉnh. Đây là diệu lý tu dưỡng vi diệu của nhà Phật, xin hành giả tu học Phật lưu ý chớ nên đem tâm hiếu kỳ truy cầu phương pháp nào khác lạ viển vông mà lãng phí thời gian uổng công vô ích.

Chính đức Phổ-Hiền Bồ Tát cũng đã tu phương pháp lễ lạy. Đại nguyện thứ nhứt của Ngài hành trì là: “Nhứt giả lễ kính chư Phật”.

Tu phương pháp lạy sám hối tuy đơn giản mà hiệu quả thúc liễm ba nghiệp thân khẩu ý, kết quả tâm trí thanh tịnh, thân thể giảm thiểu bệnh hoạn, ác nghiệp ít sanh, tinh thần cường tráng, cuộc sống trở nên an lạc, vậy mà được mấy người thực hành? Đời nay có kẻ chẳng rõ lý lẽ thâm sâu của phương pháp lễ bái sám hối có hiệu năng tối vi diệu làm cho thân cường tráng, tâm trí trong sáng thanh tịnh, nên vội buông lời chê pháp tu nầy là tầm thường của kẻ hạ căn, cho nên chỉ có pháp tu thiền, tu mật mới thật là thượng căn mau chứng. Họ đâu có biết đến các vị Bồ Tát Phổ-Hiền, Quán-Âm, Di-Lặc, Văn-Thù còn phải tu pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Tổ thiền thứ 14 là ngài Long-Thọ bỏ Thiền tu Tịnh độ và viết luận Đại-Trí-Độ, luận Tỳ-Bà-Sa để xương minh pháp môn Tịnh độ. Tổ Mã-Minh trước tác Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bồ Tát Vô-Trước làm Vãng Sanh Luận cũng để xương minh pháp môn Tịnh độ niệm Phật, lễ Sám Hối Hồng Danh. Thiền và mật thì gồm cho cả Đại Thừa và Tiểu Thừa. Nhưng pháp môn Tịnh độ chỉ có hành giả Đại Thừa mới có thể tiếp nhận. Nên kinh A-Di-Đà đức Phật nói: “Nan tín chi pháp”. Pháp khó tin. Tức là pháp môn Tịnh độ niệm Phật, bái sám nầy chúng sanh khó tin, khó thực hành. Do đó, có lắm người xem thường pháp môn hiệu năng vi diệu nầy. Phật đã biết rõ và huyền ký pháp môn Tịnh độ là “nan tín chi pháp”.

“Thắp đèn là phương pháp tu tập”. Đèn tiêu biểu cho sáng tỏ, trí tuệ và nhiệt năng. Nói cách khác, đốt đèn cúng Phật là hàm dưỡng ý nghĩa tiêu biểu cho mỗi người chúng ta vốn đầy đủ đức tánh trí huệ sáng suốt và từ bi nhiệt tình. “Cung kính đốt đèn” là biểu thị tự đốt sáng cho mình là chiếu sáng cho người khác để cùng được sáng soi ấm áp. Dùng tâm thành kính để đốt sáng lên đèn trí huệ, bừng cháy lửa tinh tấn tạo thành vô tận ánh sáng ấm áp để cứu giúp thế nhơn. Khổng-Tử dạy môn đồ cũng có câu nói tương tự: “Hiếu học cận hồ trí”. Nghĩa là người hiếu học là người đem tâm chí tập trung vào việc học thì gần với trí. Tức là tâm ý tập trung thì trí tuệ khai thông. Khổng-Tử chú trọng nơi việc học.

“Thanh tịnh bố thí được phước báo an lạc. Hành động không trái lý đạo, không trái lời Phật dạy”.

Hai câu trên đây thuyết minh phương pháp tu hành. Tu là sửa, sửa trái thành phải, sửa xấu thành tốt, sửa tà thành chánh. Nên tu có nghĩa là tu chỉnh, tu chánh. Hành là hành động, hành vi tâm niệm của con người đâu tránh khỏi ba thứ độc tham sân si làm chướng ngại? Do đó chân tâm chánh niệm mà không thể hiện được để điều khiển thân miệng thì ba nghiệp thân miệng ý tạo ra lắm điều phiền khổ bằng tham đắm của cải, truy cầu danh lợi dục tình không thôi, từ đó mở cửa tội lỗi, tiếp nối tạo ác nghiệp, đọa đày trong đường luân hồi sanh tử khổ đau, thật đáng thương!

Phật pháp là cái phao cứu người chìm trong biển cả ba đào sanh tử. Phật pháp khiến cho con người phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, mà người tu học Phật pháp phải biết nắm lấy chỗ bí yếu trước nhất là thực hành “thanh tịnh bố thí”. Bố thí là buông xả. Buông xả với tâm an vui trong niềm hoan lạc thanh tịnh bình đẳng. Đây chính là tinh thần ly tướng bố thí của Đại Thừa Phật giáo, tức là cho mà không điều kiện, không mong cầu báo đáp. Công đức của thanh tịnh bố thí có khả năng phá trừ tham sân si mê chấp, đoạn diệt tất cả ác hạnh, tạo lợi lạc cho mọi người. Chính do chánh tâm buông xả mà đoạn trừ được mê chướng, lý sự suốt thông, thân tâm an lạc tự tại. Nhân đây có thể biết thanh tịnh bố thí dù là tài thí, pháp thí hay vô úy thí, nội tài thí hay ngoại tài thí cũng đều là chánh chân tu hành, tất nhiên được thọ dụng chân thật an lạc, được thiện quả báo.

“Không trái lý đạo, không trái lời Phật dạy”. Là đệ tử Phật nguyện y theo đạo lý của đức Phật truyền dạy mà tu hành, tức là những nguyên lý nguyên tắc mà người tu học Phật phải nghiêm chỉnh tuân hành. Đối đãi với người, xử thế với vạn vật không nên trái với điều Phật chế. Điều căn bản đầu tiên để tiến thân trên đường giác ngộ là thọ ngũ giới, rồi đến thập thiện v.v… Hành giả chánh tâm nhất niệm quyết chí đi đến giác ngộ giải thoát thì làm bất cứ điều gì phải y cứ đạo lý, lấy đạo lý Phật dạy làm thước đo, được như thế mới có cơ hội hoàn thành người lành thiện, xứng hợp đạo cách. Như Khổng Tử nói: “Lực hành cận hồ nhân”. Nghĩa là đem hết tâm lực cho việc làm lành thì đạt đến nhân nghĩa thánh thiện. Mốn đạt kết quả lành thiện mong muốn thì phải luôn luôn thật tâm dốc lòng tu sửa thực hành điều lành thiện. Nói no mà không ăn thì không thể nào no, mà phải ăn. Nói đi mà không cất bước đi thì không thể nào đến, mà phải đi. Nói tu mà không thực hành lành thiện, tu tâm sửa tánh thì không thể nào thành, mà phải đích thân thực hành mới thành đạt quả tốt.

“Trai giới không nhàm” là nói lên ý nghĩa công phu kiên tâm trì chí tinh tấn không ngừng. Tâm thanh tịnh gọi là trai. Đức Phật thường dạy chúng ta phải giữ lục căn thanh tịnh, không nhiễm trước trần cảnh. Điều nầy chính đức Phật muốn chúng ta tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì tự nhiên đầy đủ vô lượng phước huệ. Nhưng thường thì tâm của chúng ta không được thanh tịnh, bởi do suốt ngày vọng tưởng huân tập tạp nhiễm quá nhiều nên chưa thể chứng đắc, đây là điều tủi hổ khổ tâm đối với hành giả thức thời cầu tiến. Phật dạy chúng ta nên trì giới. Giới có nghĩa là giới hạn, ngăn ngừa, cấm chỉ, dứt trừ tất cả vọng niệm, tập khí phiền não, hồi phục đức dụng thanh tịnh cố hữu của bản thể tâm tánh chúng ta. Nên “trai giới” là pháp môn hữu hiệu cụ thể hàm hữu ý nghĩa ngăn trừ nghiệp chướng, hàng phục thân tâm tạp vọng để trở nên thanh tịnh. Nghiệp chướng trừ sạch thì tâm ý thanh tịnh, đức tánh từ bi bình đẳng trong người của chúng ta hoàn toàn hiển lộ thì gọi là thành Phật. Vì vậy, phương pháp tu trì trai giữ giới không thể tính ngày giờ mà nhất định phải thường hằng tháng năm kiên trì không ngừng nghỉ gián đoạn, không nhàm mỏi mệt, tinh tấn công phu tu tập cải thiện không ngừng, hằng tâm trì chí nổ lực khắc phục chướng ngại, gắng công liên tục tu sửa chánh niệm mới hy vọng viên mãn công hạnh tu hành thành đạt mục đích, thế mới là đại dũng lực. Đức Phật nói: người tu hành Phật đạo như kẻ chèo thuyền ngược dòng thác đổ phải cố ra sức chống chèo mới đến bến bờ an ổn. Khổng Tử nói: “Tri sĩ cận hồ dũng”. Người biết hổ thẹn là người có tiến bộ. Biết xấu hổ nhìn nhận lỗi lầm thua kém là người có tinh thần dũng cảm. Người thông đạt sự lý với tinh thần dũng cảm ấy là mặc nhiên hàm dưỡng đạo đức thường hằng tiến bộ mới có thể đạt được chí nguyện siêu nhân thoát tục.

“Lòng được an vui”. Đây là nói công đức tu hành viên mãn, đạo hạnh tròn đầy mới được pháp hỷ sung mãn, chân thật thọ dụng an vui.

Trên đây là thuyết minh về đạo lý và phương pháp để cho chúng ta biết rõ phương cách chánh thân tu tâm từ đó đạt được mỹ mãn hạnh phúc an vui. Một khi đã đạt được an lạc hạnh phúc chân thật mới thể hội được giá trị về ý nghĩa cuộc sống của sự tu học Phật pháp. Có làm được như thế mới cảm nhận được Phật lực gia bị, Bồ Tát thiện thần ủng hộ trên lộ trình tu hành.

CHÁNH VĂN:

Thường được chư Thiên, thiện thần ủng hộ, tâm cầu như ý, hành sự như nguyện, trăm việc tăng tiến gấp đôi, được trời rồng quỷ thần mọi người kính trọng, về sau đắc đạo.

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây nói lên thành quả của những hành giả chánh tâm thành ý y giáo pháp của đức Phật giảng dạy, dốc chí tu hành thì đạt được lợi ích phi thường. Thật vậy, người Phật tử nếu chuyên tâm chánh niệm tinh tiến học tập tu hành thì tất nhiên được Thiên nhơn thiện thần tôn kính ủng hộ, làm bất cứ việc lành thiện nào, tâm nguyện gì cũng đều được như ý không bị chướng ngại hủy diệt. Ngược lại, người mang tâm tà ngụy tu hành, dù có dựa thế lực quyền hành rồi cũng suy tàn mạt vận. Bồ Tát Thiện thần ủng hộ người chân chánh lành thiện. Ác thần ác quỷ kính nể lánh xa. Kẻ tà ngụy gian ác thì tà thần ác quỷ gần gũi giúp đỡ. Còn cúng bái thì còn giúp, hết cúng bái thì chúng quay lại tác hại. Nên người tu Phật phải chánh tâm chánh niệm, phải nghĩ đến phát triển đạo pháp lợi lạc chúng sanh. Lúc đầu có khó khăn, nhưng về sau sẽ như ý nguyện. Chẳng những mang tâm nguyện hành sự không bị hủy diệt mà còn tiến triển này một thêm mới mẻ, gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp. Hành giả phải luôn luôn nhứt tâm chánh niệm tinh tấn không ngừng, dù chướng ngại vấp ngã trăm ngàn lần cũng phải dũng khí tinh tiến mạnh bước trên đường hành đạo như lúc ban đầu mới phát tâm với niềm tin vững chắc. Bởi người chánh tâm thành ý hành đạo tu tập thì luôn luôn được sự cung kính hộ trì của Tứ đại Thiên vương Bát bộ Hộ pháp Thiện thần và người đời kính ngưỡng giúp đỡ. Đó là sự lợi ích hiện tiền, còn về sau cuối cùng thì được trí huệ từ bị, đức hạnh viên mãn thành Phật.

CHÁNH VĂN:

Kẻ thiện nam, người thiện nữ (y như giáo pháp đức Phật mà chánh tâm tu hành) là chân thật đệ tử Phật.

LỜI GIẢI:

Phật nói: Được xưng là đệ tử Phật thì phải nhứt tâm chánh niệm y như giáo pháp đức Phật dạy mà tinh tiến tu hành, có làm được như thế mới gọi là phụng sự Phật. Thiện nam tín nữ chánh tâm học Phật, chánh niệm tu hành, không thiên lệch bên nầy, không chấp trước bên kia, không tin tà ma ngoại đạo, không theo thầy tà bạn ác, không dính mắc ngã si ngã kiến ngã mạn ngã ái, như thế mới đích thực là Phật tử chân chánh.

Trên đây đức Phật kết luận lời giải đáp về câu hỏi của A-Nan “Có người kính tin phụng thờ Phật, được giàu sang phú quý như ý tốt đẹp. Có người phụng sự Phật không được lợi ích như ý, lại còn bị tiêu hao suy thoái”.

Tôn giả A-Nan nêu hai câu hỏi để hỏi Phật: 1/- Kính tin phụng thờ Phật thì được phước báo giàu sang phú quý, mọi việc tốt đẹp như ý. 2/- Kính tin phụng thờ Phật thì lại bị ác báo tiêu hay suy thoái. Cũng đồng là kính tin phụng thờ Phật cả, mà tại sao quả báo lại không giống nhau? Thật ra điều này không có gì khó hiểu. Hễ chân tâm chánh niệm kính tin phụng thờ Phật, ngày đêm chuyên cần tinh tấn tu tập đúng như lời Phật dạy thì ngay hiện đời được kết quả lợi ích. Ngược lại, kính tin thờ Phật mà tà tâm tụng niệm cầu danh lợi dưỡng muốn được giàu có danh cao chức trọng, mang tâm niệm ngưỡng vọng Phật như thần linh thì sẽ gặp phải tai ương hoạn nạn. Bởi chân tâm chánh niệm thờ Phật tu hành thì được hộ pháp thiện thần chư thiên Bồ Tát gia hộ. Còn tà tâm tạp niệm thờ Phật tu hành thì được ác thần ác quỷ hộ trợ. Liên quan vấn đề nầy, chúng ta sẽ thấy đức Phật giải thích dưới đây.

3.- Phật đáp, phụng Phật mà lại gặp phải điều bất thường.

CHÁNH VĂN:

Có người tin phụng Phật mà không chịu tìm minh sư, không nghiên cứu kinh Phật, chỉ thọ giới thôi.

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây Phật dạy rằng, người tu học Phật, nhằm lúc Phật đã nhập Niết bàn rồi, mà không biết hoặc biết mà không thiết tha tìm cầu minh sư để nương tựa học hỏi, chỉ biết thọ giới, nhưng không được minh sư hướng dẫn để thấu rõ phương pháp tu tập, như thế thì biết người đó thiếu phước duyên. Bởi vì cách Phật lâu xa, kẻ tà sư thuyết pháp dãy đầy, người học đạo không cẩn trọng trong việc tìm minh sư thì dễ rơi vào lưới của những kẻ ngụy xưng Phật Bồ Tát hiện, kẻ ngụy tăng tu hành, kẻ tà sư tà kiến tà hạnh giăng ra. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật nói: “Chúng sanh thời mạt kiếp cách Phật càng xa, kẻ tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Kẻ tà sư ác hữu không những chỉ dãy đầy mà họ còn dùng đủ phương thuật quỷ kế để mê hoặc khuyến dụ người mê tin theo. Người đời vì tâm chí lợi lộc nông cạn tưởng đó là Phật thánh xuất hiện, nên ùa tin theo. Khi kẻ tà sư kia tổn phước, chú thuật hết linh nghiệm thì hạng người nhẹ dạ sùng bái tin theo kia cũng đã tiêm nhiễm tà niệm sâu nặng tự nhiên biến thành quyến thuốc của kẻ tà sư rồi. Lại có kẻ tà sư ma đạo khác nổi lên tung hoành, từng hồi từng cơn diễn ra như thế ở thời mạt pháp. Như Phật đã đã nói trong kinh Thủ Lăng Nghiêm: “Trong thời mạt pháp tà ma yêu quái lừng lẫy dãy đầy thế gian, tung hoành tham dâm, sát sanh rượu thịt, ẩn núp dối trá nơi Tăng xá già lam, tự xưng là thiện tri thức, cho minh là bậc thượng nhơn, đạt vô thượng pháp, chứng thánh quả, mê hoặc kẻ vô thức, khiến cho họ lo sợ mất tâm chánh tín, lầm lẫn vào đường tà, gia đình tiêu tán”. Thế nên đức Phật đã thống thiết giảng nói: “Thế nào là giặc? Giặc là kẻ mặc y phục Như Lai, mà thiếu giới hạnh, hành vi khinh nhục Như Lai tạo đủ thứ ác nghiệp danh lợi dục tình mà nói là phụng sự Phật pháp, cung cách chẳng phải là bậc xuất gia tỳ kheo cụ túc giới, tâm hành tiểu thừa, ích kỷ lợi danh, do vậy làm cho vô lượng chúng sanh nhầm lẫn tin theo, đọa địa ngục vô gián”. Đức Phật biết rõ những gì sẽ xảy ra ở đời vị lai sau khi ngài Niết bàn, nên Ngài đã huyền ký rất kỹ trong kinh điển để cho chúng sanh đời sau tránh khỏi tai họa của lưới tà ngụy giăng ra. Ngài đã thống thiết lo âu cho chúng sanh trong thời mạt pháp cách Phật lâu xa không nhiều ma chướng tà mị, nên Ngài từ bi không tiếc lời giảng nói căn dặn để cho chúng sanh biết rằng, nếu tu học Phật mà không tìm minh sư để nương tựa, thì kiến thức chân chánh đạo hạnh thuần tịnh không làm sao có được? Nhất là kẻ sơ cơ phát tâm tu học Phật mà không thận trọng trong việc tìm chân tăng quy y để thân gần học hỏi thì khó mà tránh khỏi lầm lạc, hậu quả oan uổng một đời! Đã biết bao người tin Phật, đã biết bao kẻ có bằng cấp cao tự hào cho mnh là trí thức tin Phật mà vẫn bị ma thuật hấp dẫn cuốn lôi! Cũng có kẻ chẳng cần thọ giới hoặc đã hoàn tục, đắm chìm trong ái dục rồi cũng ngang nhiên cạo đầu mặc áo ta xưng thầy cũng bày trò truyền giới giảng kinh. Tình trạng nầy trong thời mạt pháp dãy đầy tà ngụy như Phật đã huyền ký trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Nên đức Thế Tôn khuyền “cần phải cầu minh sư học đạo thì mới thông lý đạt đạo”.

“Không nghiên cứu kinh Phật”. Người tu học Phật mà không chịu nghiên cứu kinh Phật thì làm sao hiểu được nghĩa lý đức Phật giảng dạy, không hiểu nghĩa lý của Phật giảng thì cho dù mỗi ngày có tụng kinh đến chục lần đi nữa cũng không thể nào “thấu hiểu thâm ý đích thực diệu lý nhiệm mầu của đức Như Lai”. Thấu hiểu nghĩa lý kinh điển Phật dạy, chẳng khác nào như người lữ hành biết rõ đường đi. Thọ trì giới luật Phật chế cũng như chân cất bước đi. Nếu không biết thì làm sao đi? Không có minh sư dẫn giải thì làm sao thông hiểu giáo lý, tu hành đúng phương pháp?

“Chỉ thọ giới mà thôi”. Thọ giới là hình thức bên ngoài, như tại gia thọ trì tam quy và ngũ giới. Xuất gia làm Sa di thọ trì 10 giới. Tỳ kheo thọ trì 250-giới. Bồ Tát thọ trì 58 giới v.v…. Tuy nhiên thọ giới nếu không có bậc minh sư giảng giải thì làm sao hiểu giới? Thọ giới mà đối với giới thể, giới tướng, giới pháp, giới hành, và bốn biệt nghĩa khai, giá, trì, phạm không thông hiểu thì làm sao tu hành đạt đạo chứng quả? Vậy mà vẫn có lắm kẻ thích dùng ngôn ngữ chơi chữ huênh hoang cho rằng Lục tổ Huệ Năng đâu cần học, nhị Bảo là đủ, cần gì phải cầu thầy quy y. lời nói nầy hiển bày tâm ngã mạn tà kiến mà người tu học Phật chân chánh rất kiên kỵ. Trong suốt tam tạng kinh điển Phật chưa từng thuyết giảng và chủ trương Nhị Bảo. Lại có kẻ manh tâm tham nhiều đệ tử cho quy y qua điện thoại, hoặc gặp ai cũng cho bừa pháp danh quy y nhận làm đệ tử. Như vậy là sư bất minh, ngụy sư xem thường Phật pháp cũng thuộc ngã mạng tà kiến xa lìa chánh đạo, không thể nào đạt được cảnh giới kiến tánh Phật tâm.

CHÁNH VĂN:

Chỉ có được cái danh thọ giới, mà hồ đồ mê muội không tin năng lực của giới, trái phạm giới luật, khi tin khi không, tâm ý do dự. Không có tâm hoan hỷ cung kính kinh điển tượng Phật, nên chẳng thành kính thắp hương đèn lễ bái, lại riêng ôm lòng nghi ngờ, giận hờn mắng nhiếc, ác khẩu đố kỵ người hiền.

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây thuyết minh nguyên do tại sao người tu học Phật phụng thờ Phật mà không được quả báo lành thiện. Như văn kinh nói: “Có được cái danh thọ giới mà tâm hồ đồ mê muội không chân thật tha thiết kính tin vào năng lực của giới pháp, hành vi ngôn ngữ trái phạm giới luật, khi tin giới luật, khi lại không tin, tâm ý do dự”. Lời Phật dạy trong đoạn kinh trên đây thật quá rõ. Tức là trên danh nghĩa hình thức thì có thọ giới, có thờ Phật mà kỳ thật thiếu cái tâm chân chánh thành khẩn thiết tha cầu thọ giới, cầu hiểu ý nghĩa của việc thọ giữ giới, năng lực diệu dụng của giới. Như thế danh và thực chẳng đồng. Vì sao? Bởi vì thọ giới mà tâm chẳng thành khẩn thiết tha được giới, không thấy giới pháp là quý giá, loạn tâm vọng tưởng tạp niệm mong được Phật độ mạnh khỏe lợi lộc như ý, nên trí không sáng lòng chẳng tin sâu, tâm trí hồ đồ bực bội, không ý thức mình đang làm gì, cõi lòng không thực sống trong trạng thái thanh tịnh tỉnh giác. Do loạn tưởng tạp ý mê muội hồ đồ che lấp tâm trí, nên thầy bạn giảng dạy ý nghĩa chánh pháp, hướng dẫn chánh đạo không thể nào tiếp nhận lý giải suốt thông, thậm chí lời giảng dạy không đi vào tai thì có đâu sanh khởi chánh tâm chánh tín? Chỉ có tâm thành tha thiết chánh tín thâm sâu đối với giới pháp thì mới có năng lực công đức thành tựu đạo nghiệp. Nếu không đủ tâm thành tha thiết chánh tín thâm sâu dốc chí thực hành thì đạo nghiệp nhất định không thể nào thành tựu được.

Không do thành tâm chánh tín thọ trì giới pháp, nên tâm niệm hành vi thường không phù hợp giới luật. Đối với Phật pháp ý nghĩa rộng lớn thâm sâu, đạo lý luân hồi nhân quả báo ứng, nhất là những giáo lý vi diệu u huyền, những nguyên lý pháp tắc tiếp vật đãi nhơn xử thế qua giới luật mà đức Phật đã dạy chúng ta, thì kẻ thiếu chánh tín chánh niệm thường tỏ ra thái độ khi tin khi không. Có lúc họ cho rằng những gì Phật nói đối với họ thì đại khái qua loa cũng được. Có lúc tâm ý họ do dự không thiết tha tiếp nhận giới pháp Phật chế, hoặc không dám tiếp nhận thọ trì, tất nhiên đưa đến hậu quả hiển nhiên là không thể cảm được năng lực nhiệm mầu của việc giữ giới, không thấu hiểu Phật lý. Nếu không cảm nhận năng lực mầu nhiệm của giới luật, không thấu hiểu giáo lý, cũng không tìm cầu minh sư thân cận cầu học, sống nhàn nhàn nhông nhông tư tưởng long bong không biết chọn phương pháp nào tu hành cho thích hợp, tất nhiên đưa đến hậu quả mê muội phụng hành Phật pháp, như thế gọi là tu mù, dù cho có khổ hạnh muối dưa, kết quả chỉ khổ công lụy kiếp mà chẳng được gì.

“Cũng không có tâm hoan hỷ cung kính kinh điển tượng Phật”. Kinh điển tượng Phật là vật quý báu để cho chúng sanh nương theo đó mà tu hành thánh thiện thân tâm. Đối với kinh điển không có tâm tôn kính quý trọng tức là tự nhiên biểu hiện tâm xem thường, như vậy tâm tánh không nương vào đâu để phát triển đạo đức. Đối trước tượng Phật thắp hương đèn sớm chiều chân tâm chánh niệm lễ bái tụng trì nguyện cầu thành ý phụng hành lời Phật dạy. Đây là hình thức tu học cần thiết đương nhiên không thể bỏ, nhưng qua đó điều tối quan trọng là thành tâm thực hành. Thắp sáng nhang đèn là mang ý nghĩa nhắc nhở khiến cho hành giả thắp sáng cái tâm quang minh, bừng cháy đèn trí huệ, nung đúc lòng thành tin. Ý nghĩa lễ lạy là dạy chúng ta diệt trừ ngã mạn, phát khởi tâm cung kính tất cả thánh hiền, người vật. Kính người thì người kính ta. Thương người thì người thương ta. Tâm kính người mà còn lợi ích như thế huống nữa là tâm kính Thánh hiền thì được lợi ích biết là chừng nào. Suy ra thì rõ. Nếu tu hành mà không có tâm kính người thương vật, không chánh tâm tin sâu lời Phật dạy, không đem hết lòng dạ thành tâm khẩn thiết tinh tấn hành trì theo giới pháp, mà chỉ hình thức ngoài thân, không cố gắng diệt trừ tham sân si từ nội tâm, thì cho dù ngày ngày có thắp đèn nhang tụng kin lễ bái cũng chẳng hơn gì người không tin Phật pháp, không biết thắp đèn nhang lễ bái, mà biết tội phước làm lành lãnh dữ.

“Riêng ôm lòng nghi ngờ”. Bởi không thấu hiểu giáo lý, không tìm minh sư chỉ giáo để học hỏi, sự lý tu hành không thông, nên mãi ôm lòng nghi ngờ. Đối với các tập khí bất lương, tật hư thói xấu đã huân tập từ trước không thể cải đổi đoạn trừ, như tánh ưa giận hờn, mắng nhiếc, ác khẩu, tự ái v.v…. Người xưa có câu: “Dao bén cắt thân thể dễ lành; lời ác hại người, hận khó tiêu”. Mang tâm đố kỵ người hiền làm việc thiện, xuyên tạc người tu hành chân chánh không biết chiêu đãi a dua nghe theo mình, như thế thì làm sao gọi là Phật tử, là tu học Phật, và làm sao có thể tránh được quả báo ác?

CHÁNH VĂN:

Lại chẳng thực hành lục trai, ham thích sát sanh. Không tôn kính Phật, để kinh Phật chung lộn với áo quần vật bẩn thỉu; hoặc để kinh Phật chỗ bất tịnh giường ghế của vợ con; hoặc treo vắt trên ghế trên phên vách, không có tâm cung kính làm kệ tủ để kinh sách, xem thờ kinh Phật như kinh sách thế gian không khác.

LỜI GIẢI:

Là đệ tử Phật điều tối cần yếu là phải tu tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh và tâm từ bi. Nếu không thể thực hành mỗi ngày tu thì ít ra cũng nên mỗi tháng tập tu sáu ngày, gọi là lục trai. Những ngày lục trai tính theo âm lịch là mùng 1, 8, 14, rằm, 23, 30 (nếu tháng thiếu thì 29). Những ngày này nên tu trì giới, tụng kinh, niệm Phật, sám hối để bồi dưỡng tâm tánh thuần từ thanh tịnh quang minh. Trước đây chúng ta sống trong thời đại nông nghiệp quân chủ có đủ thời gian sống với năm tháng thanh nhàn thưởng thức bình minh tĩnh mát, trăm rằm sáng soi. Ngày nay chúng ta sống trong thời đại kỹ nghệ dân chủ, mọi ý thức, sinh hoạt đều biến đổi, con người bị thời gian kéo lôi chạy theo máy móc mệt lả, thân tâm rã rời, nên phương thức tu bồi tâm tánh cũng theo đó biến đổi, tốt nhất mỗi tuần nên tịnh tâm trai giới là phương pháp lợi ích thực tế làm cho thân tâm khang kiện, thọ mạng dài lâu, phước huệ tăng trưởng.

“Ham thích sát sanh” phát khởi từ lòng tham dục, sân hận, ích kỷ, ngu si v.v… Những thứ phiền não độc hại nầy xúc tác phát khởi tâm động niệm thúc đẩy làm việc sát hại chúng sanh. Sát sanh là điều Phật giáo tuyệt đối ngăn cấm, vì như thế là hủy hoại tâm từ bi thanh tịnh, mắc phải quả báo oán cừu vay trả rất nặng.

Phàm người biết đọc sách mà biết quý trọng kinh sách, quý trọng kinh sách như quý trọng thánh hiền. Đệ tử Phật kính quý Pháp bảo như kính quý Phật. Người đã có tâm thuần chân với đạo thì tất nhiên kính quý kinh sách Phật tượng hơn cả thân mạng của mình. Vì sao, bởi vì kinh Phật là mực thước là phương pháp mà chúng sanh y nương theo đó hành trì, từ đó được tu chánh hành vi, phát huy phước huệ, thể nhập tri kiến, tiến gần đến quả vị giác ngộ giải thoát.

Người không có tâm quý kính kinh Phật thì không phải là người tu học Phật. Cũng như người không quý sách thì không phải là chân chánh đọc sách. Đem Phật kinh để chung với áo quần, hoặc đồ vật hư rách bất tịnh, hoặc bỏ bừa bãi trên giường ghế nền nhà, hoặc bạ đâu để đấy không có chỗ cao sạch, như thế là thiếu hẳn lòng kính quý kinh điển. Khách đến nhà mà còn phải có chỗ để khách ngồi, tỏ lòng quý khách. Đối kinh sách Phật, chúng ta lại càng phải đặc biệt có tủ hoặc kệ để kinh. Đó cũng là cách thể hiện lòng cung kính Pháp bảo. Không có chỗ đặc biệt để kinh sách Phật là mặc nhiên xem kinh sách Phật đồng như những sách báo khác, bạ đâu để đó thì rõ ràng hiển lộ tâm bất kính bất chánh bất cẩn, tự xem thường việc học đạo tu chứng. Người học Phật mà xem thường kinh sách Phật, tức là xem thường việc tu chứng giác ngộ giải thoát thì còn gì gọi là học đạo giải thoát?

CHÁNH VĂN:

Nếu khi bệnh tật, tự mình không tin tiền nhân nghiệp quả lại cầu hỏi thầy bói thầy phù thủy làm sớ văn cúng tấu để mong giải trừ. Thờ tà thần thì thiện thần xa lánh không còn hộ trì, do đây mà yêu tinh quỷ mị ngày một đến thêm nhiều, ác quỷ tụ tập nơi cửa khiến cho suy kiệt tổn hao, sở cầu không được tốt, hoặc mới vừa từ trong ác đạo ra được làm người, tuy là đời nay làm người, nhưng vẫn là người còn mang nặng tập khí tội lỗi. Hạng người như thế không phải đích thực là Phật tử.

LỜI GIẢI:

Đây là đoạn kinh thứ bốn Phật nói duyên do người tu học Phật mà lại không được quả báo tốt.

Đã mang thân người thì không ai tránh khỏi tật bệnh. Tôn chỉ Phật pháp là phá trừ mê tín, khai phát trí huệ. Nếu có bịnh thì nên chuyên tâm điều trị hợp tác với thầy thuốc để sớm được lành mạnh. Tốt hơn nữa, nên đem tâm thanh tịnh thành tín niệm danh hiệu Phật Bồ Tát thì sẽ được thần lực gia hộ bất khả tư nghì. Điều nầy thuộc tâm lý an lành. Y cứ học lý thâm sâu, niềm tin kiên cố, đạo tâm vững bền thì việc cầu Phật lực gia hộ chẳng phải là điều mê tín. Tất cả bịnh hoạn tai nạn đều do nghiệp quả bất thành. Thân miệng ý đã tạo nghiệp thì cũng phải dùng thân miệng ý tu chánh để dứt trừ. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chúng sanh vốn tạo các vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, từ thân miệng ý mà sanh ra, chúng sanh phải nên tu sám hối”. Kinh cũng nói: “Tội từ tâm khởi đem tâm sám hối. Tâm dã thanh tịnh rồi thì tội liền tiêu”. Nếu không tin lời Phật khuyên dạy, lại đi tin quỷ thần, cầu thầy bùa thầy pháp bói toán đồng bóng, thì đấy là kết duyên với tà thần ác quỷ. Bởi vì tà sư phù thủy là hạng người thiếu tâm đức, mong được lợi lộc, thờ bái quỷ thần bói quẻ tấu sớ để trị bệnh nhơn, còn cúng bái thì tà thần ác quỷ còn giúp họ, hết cúng bái tà thần ác quỷ lại giận dữ phá hoại. Như thế mãi mãi có bệnh. Để mãi mãi được cúng bái. Cúng tế tà thần ác quỷ để hầu được giúp đỡ nào có khác gì làm việc hối lộ. Khổng Tử nói: “Chẳng nên cúng tế loài quỷ, vì đó là việc làm siểm nịnh”. Kinh Phật dạy: “Quy y Phật, vĩnh viễn không quy y thiên thần quỷ vật”. Đủ thấy các bậc Thánh triết tiên hiền có sự nhận thức tương đồng. Là đệ tử Phật đối với quỷ thần nên khởi tâm kính nhưng xa lánh đó. Cổ đức có dạy: “Kính nhi viễn chi”. Mỗi khi đi ngang qua miếu thờ thần hay gốc cây đại thọ nên chú nguyện: “Mong nguyện tôn thần phát tâm cầu thoát ly thế gian, không nên tiếp tục hưởng máu thịt, nên một lòng niệm Phật A-Di-Đà cầu sanh Tịnh độ, sớm thành Phật đạo, phổ độ chúng sanh”. Như thế là khởi tâm từ bi thuyết pháp khuyến hóa quỷ thần hướng thiện, điều nầy người tu học Phật phải nhớ thực hành. Nếu khẩn cầu thân gần thần quỷ thì đương nhiên xa lánh Phật thánh, tự nhiên phải bội lời phát nguyện khi phát tâm quy y Tam Bảo: “Đệ tử quy y Phật nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y thiên thần quỷ vật”.

Đối với những người không tin lời Phật giảng, không y theo lời Phật day mà tu hành, đức Phật nói: “Những người như thế là những người mới từ trong đường ác vừa được sanh làm người, tâm chất còn nặng tà kiến, ác nghiệp không thể tiếp nhận chánh kiến thiện nghiệp, chẳng khác nào đứa trẻ mới sanh không thể mở mắt tiếp nhận ánh sáng mặt trời, không thể nào nhận lãnh những lời khuyên dạy. Trường hợp những người như thế, nếu tự biết, hoặc nhờ bậc minh sư chỉ đạo, cần phải nổ lực cầu giới pháp để trừ tập khí xấu ác, bồi dưỡng huân tập điều lành thiện thì sẽ được quả báo trừ mê mở ngộ, dứt khổ được vui.

Đức Phật nói những chúng sanh mới ra khỏi đường ác vừa được làm người thì nghiệp ác tập khí vẫn còn sâu nặng, vẫn là kẻ còn nghiệp bất thiện. Những chúng sanh tập khí ác còn quá sâu nặng thì cho dù có được quy y thọ ngũ giới hoặc giả xuất gia đi nữa, nhưng do còn khí chất tà kiến ác tập nặng nề, tuy danh nghĩa là đệ tử Phật mà kỳ thực chưa tương xứng.

Những lời đức Phật dạy trên đây dủ cho ta thấy rằng, những người hiện đời không chân chánh thành tâm tu học Phật, lại tin theo tà sư ma thuật, nên chuốc lấy quả báo tiêu hao suy thoái, đưa đến sự việc bất như ý và liên lụy đến đời sau sẽ còn phải chịu quả báo khủng khiếp.

CHÁNH VĂN:

Khi chết phải đọa vào địa ngục chịu các hình phạt tra khảo đau đớn, bởi do tà tâm gây tạo tội ác quả hiện đời suy thoái tiêu hao, đời sau lại còn phải chịu bao điều oan ương hoạn nạn, chết đọa vào đường ác luân chuyển chịu thống khổ khốc liệt không lời nào tả cho hết. Quả báo khổ đau như vậy đều do tâm niệm hành vi bất thiện đời trước và đời nầy tích tụ ác nghiệp mà hình thành.

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây đức Phật giảng cho chúng ta biết về quả báo của kẻ mê tín tu mù tạp tin theo tà sư bạn ác, không y theo giáo pháp tu hành. Đức Phật cặn kẻ giảng dạy sự thật của chân lý nhân quả của quả báo hoạt hiện trong ba đời. Điều nầy Phật giảng nói hết sức rõ ràng đáng để cho chúng ta nghiên cứu suy nghiệm hầu thấu triệt cùng tận chân tướng vũ trụ nhơn sanh, từ đó phát tâm tu tĩnh để thoát khỏi vòng quanh nổi chìm trong vòng lục đạo quả báo.

Đời nay tạo nghiệp nhân gì thì đời sau, khi nhân duyên thuần thục đầy đủ nhất định hiện hành thọ quả báo, mảy may không sai sót. Như trước đã nói, kẻ mượn danh nghĩa Phật tử dù là xuất gia hay tại gia mà tà tri kiến, kết giao với ngoại đạo, theo tà sư ác hữu mê tín quỷ thần, thì không chỉ đời nầy chịu quả báo xấu ác mà còn tiếp nối những đời kế tiếp, sau khi chết phải liên tục chịu khổ báo trong địa ngục rồi ngạ quỷ súc sanh. Bởi do mê chấp dẫn đến mê tín tà hạnh, ngã chấp dẫn đến ngã mạn, ngã ái, ngã si, nên không nghe lời thiện tri thức khuyên can, mà dẫn đến hành xử sai lạc chánh pháp, tất nhiên phải nhận lấy quả báo bất thiện hiện đời và đời sau. Thế nên đức Phật nói: “Hiện đời suy thoái tiêu hao, đời sau lại chịu oan ương hoạn nạn, chết đọa vào đường ác luân chuyển chịu thống khổ khốc liệt không lời nào tả cho xiết”. Những lời Phật dạy trên đây đều nói về quả báo khổ đau hiện đời và đời sau, căn nguyên của nó là do “gây tạo tích tụ nhiều ác nghiệp từ tâm niệm hành vi bất thiện”. Những lời khuyên dạy thống thiết nầy phát xuất từ đáy lòng từ bi bằng trí tuệ giác ngộ của đức Thế Tôn đủ để cho chúng ta phản tỉnh quán chiếu thân tâm, dừng bước trên con đường lầm lạc đọa đày. Tiếp đến dưới đây, đức Phật đặc biệt khai đạo cho chúng ta tu học Phật pháp tất phải phá trừ chấp trước mê tín.

4- Phật huấn thị phải phá trừ mê chấp.

CHÁNH VĂN:

Kẻ ngu mù tối không thấu hiểu nguyên nhân của quả báo do hành vi đời trước tạo nghiệp nhân, dẫn tới báo ứng nghiệp quả, chính là nguyên nhân từ trước đưa đến ngày nay. Rõ ràng như vậy mà không thấy biết, lại nói do phụng thờ Phật pháp nên phải suy thoái tiêu hao; không những không biết chính tự đời trước chẳng tu phước đức mà còn oán trách thiên địa, giận thánh hờn trời, bởi do người đời mê muội nên chẳng thông hiểu đạo lý nhân quả báo ứng.

LỜI GIẢI:

Người đời chẳng thông hiểu chân tướng sự lý nghiệp duyên nhân quả báo ứng, nên oán trời trách người, mặc tình phóng tâm buông lời thả ý cho hả dạ mà mắc tội lỗi.

Kẻ ngu muội ở đời, theo quan điểm Phật giáo có năm nghĩa: 1/- Đắm chìm ngũ dục (tiền của, sắc tình, quyền danh, ham ăn, tham ngủ) mà tin phụng Phật. 2/- Thị phi điên đảo mà tin phụng Phật. 3/- Thích điều ác, ghét điều thiện mà tin phụng Phật. 4/- Nghe Phật pháp không thích không hiểu mà tin phụng Phật. 5/- Kẻ mới từ đường ác ra mà tin phụng Phật. Nói một cách tổng quát như kẻ tập khí ác nặng nề ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái chưa đoạn trừ gọi là người ngu si. Tâm trí mê muội, không có chánh tri kiến phân biệt chánh tà chân ngụy gọi là kẻ mù tối.

“Nguyên nhân do hành vi đời trước” tức là nói ba nghiệp nhân của thân miệng ý đã tạo trươc đó hoặc trong quá khứ. Như kinh Phật nói: “Khi Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn thuyết pháp, có sáu mươi vị sơ phát tâm Bồ Tát cùng đến chỗ Phật gieo mình đầu mặt lạy sát đất khóc lóc thống thiết như mưa, mỗi vị hỏi Phật về nghiệp duyên đời trước của mình. Đức Phật nói: Các ông ở thời đức Phật Câu Lưu Tôn xuất gia học đạo. Lúc đó có thành tâm cúng dường cho hai vị pháp sư hết sức là cung kính trọng hậu, thì các ông sanh tâm ghanh tỵ đố kỵ, nói chỗ lỗi của hai vị pháp sư kia vơi người thí chủ, khiến cho người tín chủ dần dần sanh tâm khinh mạn hủy báng làm đoạn dứt thiện căn. Do nhân duyên ấy mà các ông đã đọa vào bốn thứ địa ngục trải mấy vạn năm sau đó mới được trở lại làm người, trong năm trăm đời sanh làm người mù ngu si vô tri thường bị người khinh chê. Các ông sau khi qua đời trong năm trăm năm nữa, khi chánh pháp diệt rồi, còn phải sanh vào những chỗ quốc gia nghèo đói nhơn dân ác độc, làm kẻ hạ tiện bị người chê bai sai khiến, mê mất bản tâm, trải qua năm trăm năm khi diệt hết tất cả nghiệp chướng rồi, sau đó mới được sanh cõi nước Phật A Di Đà”. Đoạn kinh trên đây cho chúng ta thấy quả báo của hành vi tâm niệm thật đáng sợ, đâu dám không cẩn thận tự răn mình ư? Người tu học Phật phải thành tâm hết lòng tin lời Phật dạy là chân thành thực hành. Nhân quả báo ứng ba đời là chân lý bất di bất dịch, phải đem tâm thành tin sâu để từ đó tự thúc liễm thân tâm, thời thời phản tỉnh, ngày đêm tinh tấn không ngừng niệm Phật bái sám tham thiền, chuyên ròng dõng mãnh như mũi tên trực bay mới mong có ngày đạt đạo. Ngược lại chểnh mảng qua ngày, cơm áo đầy đủ tiêu hao của thí chủ thì khó tránh quả báo khổ. Đến như kẻ khinh thường nhân quả, mưu đồ quyền danh lợi dưỡng làm tổn thương đến Tăng đoàn, hại đến niềm tin Phật tử thì hậu quả không thể lường được.

Người ngu là người tâm không có chánh tri, mắt không chánh kiến cả hai đều tăm tối, chẳng rõ thị phi chánh tà, chẳng biết thiện ác lợi hại, dĩ nhiên càng không biết phản tỉnh “nguyên do hành vi đời trước đã tạo”. Đó là kẻ thật sự mê muội tăm tối. Nhưng cũng có những kẻ biết thiện ác chánh tà mà vẫn cố ý làm, do động lực thúc đẩy, hoặc vì tự ái, hoặc do ngã mạn, hay quyền danh lợi dưỡng, thì quả báo phải trăm ngàn lần hơn kẻ mê muội tối tăm kia. Có vị thiện thần đến hỏi Phật: Đêm nào tối tăm hơn hết? Đức Phật đáp: Không tin nhân quả luân hồi là ngu muội tối tăm hơn hết.

Đức Phật nói: “Muốn biết đời trước mình đã tạo nhân gì, thì cứ xem đời nầy mình đang thọ nhận được gì. Muốn biết đời sau mình sẽ chịu quả báo như thế nào, thì cứ xem đời nầy mình đang tạo cái nhân gì”. Như thế đủ biết tất cả sự việc trên đời không tách rời nhân quả nhân duyên nghiệp báo. Nhân quả báo ứng đều có nguồn gốc căn cội, chứ không phải tự nhiên mà thành. Khi biết nhân quả báo ứng như bóng theo hình, như mây theo gió, như bánh xe lăn theo chưn trâu, có tiếng thì có vang, thì tại sao chúng ta không cố gắng làm những điều tốt để cho “tâm thanh thản thân an ngủ thảnh thơi”, làm việc lành để “trời thương đất hộ quỷ thần phục”.

Có kẻ gặp phải những điều bất hạnh trong đời sống hiện tại, không biết đó là quả báo tiền khiên kiếp trước do chính mình đã tạo ra, hoặc biết mà cố ý lờ đi, lại đổ cho “do thờ Phật quy y Tam Bảo mà phải suy vi tiêu hao”. Chẳng biết tự trách đời trước đã vụng tu thiếu vun bồi phước đức mà còn tạo ác, nên đời nay phải chịu bao nhiêu điều không may. Đã vậy, đời nầy lại muốn hưởng phước chớ cũng vẫn chẳng chịu tu tâm dưỡng tánh hành thiện, cứ than thân trách phận, oán trời trách đất, hờn giận thánh thần không có mắt, chê bai Phật Bồ Tát không linh! Thế gian có lắm người ngày đêm dong ruỗi truy cầu lợi danh mong được thỏa tình dục vọng không bao giờ thấy đủ, dù là có bạc vạn bạc triệu. Hạng người tham vọng nầy không có chút giây phút định tinh thần phản tỉnh nội tâm, nên họ mãi miết mê đắm điên đảo nhào lộn theo sự vật tiền tài thành bại, tự hủy hoại tâm đức như con thiêu thân, suốt đời chẳng thông hiểu lý sự nhân quả, cứ tiếp tục tạo ác nghiệp và để mãi mãi đắm chìm trong phập phồng lo âu đau khổ.

CHÁNH VĂN:

Người không thấu đạt đạo lý, ôm lòng không yên, chí không kiên cường, tâm thối thất lạc đạo, trái phụ ơn Phật chỉ dạy mà không phản tỉnh hồi tâm, bị tà kiến trói buộc đọa đày trong ba đường ác, đều do mình tự tạo tác họa phước. Duyên do thức tâm tội ác, gieo thành gốc rễ lầm lạc, không thể không thận trọng.

LỜI GIẢI:

Do không thông hiểu chân tướng sự lý nhân quả báo ứng, nên tự tác tự thọ. Đức Phật nói: “Người không thấu hiểu đạo lý thì ôm lòng không yên, chí không kiên cường”. Vì sao? Bởi không thấu hiểu giáo lý của Phật dạy thì tâm trí u mê dễ bị cuốn lôi theo tình đời thế sự, tà sự bạn ác, để rồi từ đó nổi chìm thành, bại họa hại lo âu, tội phước không lường. Do đó, người tu thọc Phật trước nhất phải học hiểu giáo lý, phải siêng nghe giảng kinh thuyết pháp, phải chín chắn suy ngẫm giáo lý rồi thành tâm thực hành, hoàn thành ba vô lậu học: Văn, tư, tu, tức là “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Giáo lý kinh điển không thấu rõ, không có tâm tìm cầu minh sư để thân gần tu học, thì không từ đâu thông đạt đạo lý, do đó “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa cũng không thành”. Vì không biết cách tu học, cũng không thân gần minh sư, nên tâm tư cứ mãi nghi hoặc bất định, vĩnh viễn không thể sanh khởi lòng thanh tịnh tín tâm kiên cố, hành vi tâm niệm trở nên hồ đồ nay vầy mai khác không như giáo pháp, tâm chí tấn thối thất lạc không hợp đạo lý, trái ngược ý Phật, thật là phụ ơn đức Phật ần cần chỉ dạy lắm vậy.

Thân mạng chúng ta được cha mẹ sanh dưỡng. Huệ mạng của chúng ta được sư trưởng huấn dục tạo thành. Như thế sư trưởng là cha mẹ của huệ mạng. Phật là bậc đạo sư hướng dẫn chúng ta giác ngộ đạo lý giải thoát sanh tử luân hồi. Vậy ơn sư trưởng, ơn Phật thâm sâu cao cả hơn cha mẹ. Vì sao? Vì thân này nhơ bẩn giả tạm khổ lụy trong sanh tử luân hồi. Đạo lý của Phật không những làm cho chúng ta đạt được pháp thân huệ mạng trường cữu mà còn có khả năng giác ngộ giải thoát cho cha mẹ lục thân quyến thuộc và tất cả chúng sanh ra khỏi sáu nẻo sanh tử luân hồi. Thế nên tự nhận mình là Phật tử mà không thấu hiểu giáo lý, không tìm cầu thân cận minh sư học hỏi tu tập, không y theo lời Phật dạy hành trì, lại sanh tà tâm vọng tưởng hiếu kỳ, sáng chạy nơi nầy chiều đến nơi khác, gần tà sư bạn ác, thế là chẳng những trái với lời Phật dạy, cô phụ ân đức của Phật, mà còn không cứu giúp được cha mẹ thân quyến, thật là bội bạc tội lỗi biết là dường nào! Nếu biết không kịp thời hồi tâm phản tỉnh trở về sống với chánh pháp dốc lòng chánh tâm quán niệm sửa tánh hành thiện, tức là “biển khổ mênh mông, hồi đầu bến giác”. Nhưng rất thương thay kẻ không thấu đạt đạo lý “không phản tỉnh hồi đầu, bị tà kiến trói buộc cuốn lôi nổi chìm trong ba đường khổ, đó chính là chúng ta tự tạo tai họa cho chúng ta”.

Không biết phản tỉnh, cố chấp mê lầm, chẳng chịu hồi tâm sám hối là do màn lưới tham sân si mạn nghi bao phủ, sống hay chết ngủ trong hầm tối của tà kiến ác niệm nghe theo lời dụ ngọt của ác đảng ác hữu tà sư, ham thích quyền danh lợi dưỡng, tất nhiên hậu quả không cách nào thoát khỏi đọa đày trong ba đường khổ, và như vậy không tài nào nhổ sạch gốc rễ dây rừng chằng chịt luân hồi trầm luân ngũ dục. Lấy dây tà kiến tự trói mình bằng sự tin theo ngụy tăng tà sư bạn ác a dua vui đâu tấp đó là mặc nhiên tự mình vun trồng dây tà ngụy bò leo trên giàn tham sân si mạn nghi, tưới phân nước ngũ dục vào gốc rễ tam độc, như thế đều là “tự tác tự thọ” chớ có trách ai?!

“Duyên do thức tâm tội ác” là nói bản tánh của chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đời này đời khác tiếp tục tiêm nhiễm dục tình tập khí hình thành “thức tâm tội ác”. Khổng Tử nói: “Tánh tương cận giã, tập tương viễn giã”. Khổng Tử nói “tánh” cũng chẳng khác nào như Phật nói bản tánh. Còn “tập” mà Khổng Tử đề cập ở đây thì tương đồng như Phật nói tội thức. Tập tuy là có thiện có ác, nhưng phần nhiều mang tính chất huân tập nhiễm ô. Tác dụng của bản tánh thanh tịnh hàm tàng tất cả chủng tử thiện ác. Chủng tử thì vĩnh hằng không hoại diệt, một khi gặp duyên thì liền sanh khởi hiện hành, kết quả hoàn thành báo ứng. Chủng tử trong tạng thức của phàm phu ác nhiều thiện ít, nên gọi là tội thức. Ở đây nói tội thức tức là chỉ về nghiệp chủng tử tà ác huân tập nơi tàng thức của chúng sanh. Tất cả thiện ác chánh tà thị phi hoạt hiện hành vi tâm niệm từng giây từng phát sát na trải qua trong suốt đời sống của mỗi chúng sanh đều huân chứa trong tàng thức, nên kinh đây nói là “gieo thành gốc rễ” để rồi chịu quả báo. Như thế trong đời sống chúng ta há lại chẳng thận trọng thân miệng ý ư? Có lần đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Chừng nào rắn độc tham sân si trong người ra hết rồi, lúc đó các con mới an ngủ”.

CHÁNH VĂN:

Thập ác là oan gia, thập thiện là bạn lành, thân tâm an ổn đều do tu thiện mà được. Thiện là áo giáp bằng đồng không sợ binh đao; thiện là thuyền lớn có thể vượt nước sông sâu biển cả, hay giữ lòng tin chân chánh thì nhà cửa an hòa, phước báo tự nhiên tăng trưởng, đạt được từ việc tốt lành nầy đến việc tốt lành khác, không phải thánh thần ban cho. Nếu không tin như vậy thì về sau sẽ chuyển thành bi kịch.

LỜI GIẢI:

Trên đây đức Phật khai đạo cho chúng ta nhận rõ tiêu chuẩn thiện ác và định luật nhân quả, đồng thời kín đáo khuyến cáo chúng ta nên tin sâu nhớ kỷ ghi lòng khắc dạ lời của các đức Phật trong bảy đời huấn thị: “chớ làm các điều ác, nên làm các việc lành, phải giữ lòng thanh tịnh”. Điều nầy dễ dàng ai cũng biết. Dễ đến nổi đứa bé năm tuổi cũng biết, vậy mà già tám mươi tuổi chưa làm được.

Thập ác là quy nạp các ác nghiệp căn bản thành mười loại: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, ba nghiệp ác nầy thuộc về thân; nói dối nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời thô ác, bốn nghiệp ác nầy thuộc về miệng; tham lam sân hận si mê, ba nghiệp nầy thuộc về tâm. Mười ác nghiệp trên đây là giặc cướp phá hoại đức tánh của chúng sanh, nên kinh đây gọi là oan gia. Oan gia oán cừu mà gặp nhau thì nhất định phải hại nhau. Sát sanh là nghiệp ác nhất trong thập ác. Phàm người phạm thập ác thì quyết phải mắc quả báo khó thoát khỏi địa ngục A-tỳ, tức là địa ngục vô gián. Địa ngục nầy khổ báo hình phạt vô cùng khốc liệt đớn đau không lúc nào ngừng nghỉ. Mạng người ngắn ngủi trong hơi thở, mấy mươi năm sống trên đời mau như đám mây buổi hoàng hôn, như bóng ngựa qua cửa sổ, như chim về tổ buổi chiều tà, như làn khói bay qua mắt. Nhơn sanh thế sự như bèo trôi bọt nước, bản than vốn đã bất tịnh giả tạm thì vợ con của cải lợi danh nào có thoát khỏi vô thường tan biến. Thở ra mà không hít vào thì tất cả buông xuôi trắng tay, sao phải khổ công dong ruỗi tạo ác nghiệp làm chi để phải quả báo đọa đày khổ lụy? Thanh Đề mẹ của tôn giả Mục Kiền Liên, Hy Thị vợ Lương Võ Đế, gần nhất là cái chết của anh em Ngô Đình Diệm đủ để chúng ta rự răn mình.

Thập thiện thì trái với thập ác, tức là thân không tạp nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Ý không khởi tham lam, sân hận, si mê. Như thế gọi là mười điều thiện. Mười điều thiện nầy là lương thực là hành trang, là động lực đưa người về thiên giới. Người tu học Phật điều căn bản là phải tu đầy đủ mười điều lành thiện nầy. Kinh Thập Thiện chuyên thảo luận vấn đề nầy một cách rõ ràng, không tìm đọc là điều thiếu sót không nhỏ cho vấn đề mở mang kiến thức, lợi ích thiết thực trong việc tu hành thanh tịnh hóa thân tâm. Những ai y theo thập thiện tu tập một cách nghiêm chỉnh thì mới được gọi là chân chánh thiện nam tử thiện nữ nhơn.

Bạn lành là bạn thâm hậu, bạn đạo đức thiện tri thức có khả năng giúp đỡ chúng ta được an lành thanh tịnh. Bạn lành đó không gì bằng lấy thập thiện làm bạn. Gọi là bạn lành thì phải chí đồng đạo hợp, hoạn nạn tương trợ nhau, cùng nhau thành tựu công nghiệp, đó là bạn thế gian. Còn bạn lành xuất thế gian chính là các bậc chân Tăng, Phật, Bồ Tát. Thân gần hầu học với các bậc chân Tăng, nhứt tâm niệm Phật Bồ Tát để được minh tâm kiến tánh thành Phật thành Tổ, điều này bạn lành thế gian vô phương giúp đỡ, mà tất cả phải tự mình nỗ lực cố gắng công chuyên cần tu tập thập thiện, với sự hướng dẫn của bậc chân Tăng và thần lực gia hộ chư Phật Bồ Tát, từ đó quyết chí thực hiện tam vô lậu học giới định huệ, được như thế mới có thể mãn nguyện về việc thánh thiện đời mình, điều tiên quyết căn bản là nghiêm chỉnh thực hành thập thiện. Thế nên thập thiện mới đích thực chân chánh là bạn lành xuất thế gian, mà bất cứ ai cũng có thể kết bạn tôn trọng với thập thiện giữ gìn để tu tập. Muốn thực tế để đạt thành kết quả thánh thiện trong hiện đời thì đừng để “tâm” phóng túng bơi lội chơi vơi trong rừng giáo lý mênh mông, đừng để “ý” chạy theo sở thích hiếu kỳ với những lý thuyết không tưởng, những giáo lý cao siêu ngoài khả năng của mình, cũng phải cẩn trọng đừng để miệng đắm mê trong luận bàn các tư tưởng pháp môn thấp cạn sâu, mà nên thực tế tu tập thập thiện, chuyên tâm niệm Phật quán chiếu nội tại để kiện toàn thân tâm thanh tịnh, để không lầm đường lạc lối, dứt nghiệp chướng tiền khiên và nghiệp bất thiện hiện đời, thực hiện tu tập như vậy là thực tế để về ngôi giác ngộ Phật quả.

Điều đơn giản đem lại thành quả thực tế như vậy thế mà chúng ta không thực hành, suốt tháng ngày cứ chạy đông chạy tây, nay thầy nầy, mai cô nọ, loanh quanh đuổi bắt theo lý thuyết mới lạ, pháp môn kỳ bí để thỏa mãn óc hiếu kỳ, thì thật vô tình hủy hoại chánh tâm chánh niệm khả năng phát triển Phật tánh và thời gian, phụ bạc công ơn Phật và các bậc thầy tổ đã trút hết tâm huyết khô miệng hết lời giảng cho chúng ta. Chúng ta thấy trong pháp hội Lăng Nghiêm, ngài A-Nan thông minh đa tài, mãi say sưa văn triết giáo thuyết mà có phần khiếm khuyết hạ thủ công phu tu tập, tâm lúc nào cũng có tưởng mình thông minh học giỏi hiểu rộng biết nhiều thì sẽ được Phật ban cho thánh quả, đến khi bị nạn Ma Đăng Già thì mới sực tỉnh ra rằng đạo lực của mình còn yếu kém phải cần đến Phật cứu giúp. Đức Phật khai thị: “Người ta ăn cơm, mình không thể no; người ta có bịnh mình không thể thay”. Tuy A-Nan với Phật là ruột thịt chí thân, nhưng Phật không thể thay thế cho A-Nan, mà chỉ phải chính A-Nan hồi tâm phản tỉnh tiến tu, Phật mới có thể hướng đạo. Phật giáo tuyệt đối không có mê tín, không có ỷ lại vào bất cứ ai ban phước giáng họa, mà chính mình phải thành tâm chân chánh y theo lời Phật dạy tu hành thì mới mong giác ngộ chứng quả, như Phật đã nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, nếu tất cả mọi người đều chân tâm chánh niệm y như lời Phật dạy cố gắng tu hành. Thành Phật hay đọa lạc, hiển vinh hạnh phúc hay khổ nhục bất hạnh tất cả đều do chính ta tự tác hoàn tự thọ, nên Phật chỉ cho chúng ta phương pháp dễ thấy, dễ tin, dễ thực hành: Mười điều ác là oan gia, mười điều thiện là bạn lành. Bất cứ ai hễ nhận biết nhận chân đâu là oan gia để tránh, đâu là bạn lành để theo, tức là phản tỉnh thì liền đó từng giây phút tội lỗi giảm thiểu, phước đức tăng trưởng. Thiện niệm tăng trưởng theo ngày giờ tháng năm thì tự nhiên hiện đời thân tâm an lạc không còn lo sợ phiền não, và khi từ giã cõi đời nầy chắc chắn được sanh về cảnh giới an vui của chư thiên, tiến xa hơn nữa là cõi nước thanh tịnh của chư Phật, rồi tiếp tục tu hành sẽ thành Phật. Vậy Phật là do dứt ác tu thiện mà được quả vị Phật. Thực tế như thế, tại sao không chánh tâm thành ý y theo lời Phật dạy để tu hành mà lại sanh tâm cầu mong viễn vong, thỏa mãn với lý thuyết không tưởng, mê tín chạ theo những kẻ tự xưng có phép lạ, tà ngụy Phật thánh?

Ngài Diên Thọ thiền sư nói: “Thập thiện là áo giáp bằng đồng không sợ binh đao. Thập thiện là thuyền lớn vượt nước sông sâu biển cả”. Đao binh là chỉ các loại khí giới chiến tranh do tham vọng giận tức hận thù tạo nên. Nước là chỉ cho tham ái. Lòng tham dục không đáy là căn nguyên của tất cả tai họa. Thập thiện có công năng tiêu trừ tam độc tham sân si, cội rễ của phiền não, họa hại chiến tranh, và đưa người vượt qua biển khổ sanh tử luân hồi đến chỗ an lạc hạnh phúc. Thế nên Phật nói: “Hễ ai hay giữ lòng tin chân chánh thì nhà cửa an hòa, phước báo tự nhiên đến”. Do tạo nhân thiện thì được quả lành, không phải Phật Thánh thần tiên nào có quyền năng ban cho cả. Chính mình chánh tâm thành ý tinh tấn tu tập thập thiện thì được an lành Phật ngay hiện thời và tự tại giải thoát khi từ bỏ xác thân nầy. Nếu không tin nhân quả Phật đã chỉ dạy, thì tất nhiên tự đẩy mình xuống hố chông gai tội lỗi. Trong kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên, vua Ba Tư Nặc hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn, tại sao người tu pháp thập thiện chỉ một đời mà có thế dứt sạch được nghiệp ác từ thời quá khứ đến nay, được phước báo sanh lên cõi trời hoặc trở lại làm người giàu sang phú quý?”. Đức Phật đáp: “Nầy Đại Vương! Thật là dễ hiểu! Ví như người nhà nông gia công dùi gổ lấy lửa, chỉ chuyên tâm dụng công trong thời gian ngắn thì cũng đã được lửa, mà lửa đó có khả năng đốt sạch các đống cỏ rơm tích lủy từ nhiều năm trước đến nay trong khoảnh khắc”. Người tu thập thiện cũng vậy, nếu thành tâm thiện chí nhất ý một lòng chánh niệm tu tập thập thiện thì sẽ dứt sạch nghiệp chướng trong ba kỳ. Ngược lại, nếu chỉ hình thức, thọ giới cho nhiều để biểu diễn cầu danh lợi dưỡng thì sẽ lãnh quả báo khổ đau. Như Phật nói trong kinh Vị Tằng Hữu: “Sau khi vua Ba Tư Nặc và hoàng hậu nghe Phật thuyết pháp xong, lòng vô cùng hoan hỷ, Thiên long bát bộ cùng đại chúng hơn năm trăm người đều phát tâm tu Thập thiện. Vua Ba Tư Nặc và hoàng hậu đảnh lễ Phật cảm tạ rồi lui ra về. Các quan Thái giám ra trước chuẩn bị kiệu sẵn sàng cho Hoàng hậu, không ngờ thấy mất thất bảo trang sức trên kiệu đã bị kẻ trộm gỡ lấy mất sạch hết. Kiệu trước đây lộng lẫy, bây giờ trơ trọi tả tơi hoang tàn. Quan Thái giám thất kinh liền gọi bốn kẻ thạch nữ lực lưỡng khiêng kiệu đang ngủ say dậy tra hỏi đánh đập không tiếc tay. Bị đòn quá đau đớn hết chịu nỗi, một trong bốn kẻ vụt chạy vào tinh xá la khóc ầm vang, quỳ lạy trước Phật khóc nức nở thảm thiết, thưa trình tự sự oan ức. Phật liền sai tôn giả A-Nan ra bảo đừng đánh họ nữa. Vì những người khiêng kiệu đó chính là thầy của Hoàng hậu, họ say ngủ nên không biết ai lén gỡ cắp đi những châu ngọc trang sức ở kiệu. Nghe vậy Hoàng hậu và vua Ba Tư Nặc kinh ngạc, liền đến trước Phật quỳ lạy cầu xin giảng giải về sự việc kỳ lạ này. Phật bảo rằng: Những người thạch nữ khiêng kiệu đó, tiền kiếp vốn là 5 vị sa môn. Họ tà tâm kết bè nhóm với nhau ở chung một chỗ trên núi mưu đồ tính kế lợi dưỡng không lo tu hành. Họ sai một người trong bọn khéo ăn nói đi vào làng mạc phố phường truyền rao với mọi người rằng: “Trên núi kia có bốn vị sa môn đang ngày đêm chuyên tâm tu hành rất là giới hạnh đạo đức, các Ngài ấy sắp chứng thánh quả. Bà con nên mau mau đến đó cúng dường kiếm phước. Ai được thấy dung mạo các ngài ấy thì gia đình con cái sẽ bình an, cầu gì được nấy. Nghe truyền rao đồn đãi như vây, ai nấy ùn ùn kéo nhau đem lễ vật đến cúng bái. Trong số những người đến cúng dường có một trưởng giả giàu có ngày ngày thành tâm đem đủ thức thọ dụng đến dâng cúng và tôn kính bọn họ như bậc sư phụ. Năm sa môn đó được của cúng dường ăn xài thỏa dạ, lợi dưỡng hưởng thụ, thiếu tâm tu hành, nên có nhiều kiếp đọa vào địa ngục, làm loài ngạ quỷ và súc sanh, nay mới được làm người. Người phú hộ kia chính là tiền thân của Hoàng hậu. Năm sa môn đời trước kia, bây giờ chính là bốn kẻ thạch nữ chuyên khiêng kiệu và một kẻ nữa dang ở trong cung ngày đêm chuyên lo dọn quét nhà tiêu nhà tắm cho Hoàng hậu đấy”. Nghe thế Hoàng hậu bàng hoàng rùng mình xót xa thương tâm cho năm kẻ kia, và hạ lịnh ban cho tiền bạc đồ dùng rồi bảo họ rời đi nơi khác hoặc phát tâm theo Phật tu hành. Năm kẻ nầy nghe vậy buồn rầu lạy lục khóc lóc thảm thiết cầu xin được ở lại hầu hạ hoàng hậu. Trước sự việc nhân quả báo ứng kinh khiếp như vậy, Hoàng hậu lo sợ phân vân chẳng biết nên tính như thế nào cho phải lẽ, e ngại lại phải mắc quả báo lỗi làm dùng các người mà tiền kiếp mình đã từng tôn kính cúng dường hâu hạ mình. Đức Phật thấu rõ nỗi lòng lo âu của Hoàng hậu, nên Ngài khởi tâm từ bi dạy rằng: Vì nghiệp quả chưa dứt nợ trả chưa xong, quả báo buộc ràng, nên bọ họ không thể ra đi được. Họ rất vui vẻ làm kẻ hạ tiện hầu hạ để trả quả báo. Dù Hoàng hậu tặng họ vàng bạc y phục đầy đủ khuyên họ ra đi, nhưng họ vẫn cảm thấy buồn khổ không chịu đi, vì quả báo trả chưa xong. Nghiệp nhân đã tạo, quả báo tự thọ”. Cũng trong tinh thần nhân quả nghiệp báo duyên sanh, kinh Hoa Nghiêm nói: “Muốn biết tất cả các đức Phật trong ba đời thì nên quán tánh của pháp giới hết thảy đều do tâm tạo”. Chúng sanh vui khổ giàu nghèo sang hèn cùng với hoàn cảnh chúng sanh đang sống, tất cả đều do tâm tạo. Tâm ý hành vi là kim chỉ nam cho hướng đi của đời người, là chất liệu ngói gổ xây dựng ngôi nhà cho kiếp sống nhơn sanh hiện đời và đời sau.

CHÁNH VĂN:

Phật nói: Nầy A-Nan! Thiện ác theo người như bóng theo hình không có xa lìa nhau. Việc tội phước đối với chúng sanh cũng như vậy, chớ nên ôm lòng nghi ngờ mà tự đọa vào đường ác. Tội phước nhân quả phân minh, phải nên tin chắc chớ đừng lầm lẫn, thì chỗ ở thường an lạc. Lời Phật nói hết sức chân thật trọn không dối người.

LỜI GIẢI:

Trên đây Phật dạy A-Nan về chân lý nhân quả báo ứng của thiện ác. Thiện ác báo ứng theo sát người như bóng theo hình không thể nào xa lìa trốn tránh được. Tin chắc như vậy và dùng chánh trí tin sâu lời Phật dạy thì không bị tà thuyết vật dục làm mê hoặc. Liên quan đến vấn đề thiện ác báo ứng, kinh Phật có đoạn nói như thế nầy: “Có ông nhà nghèo hiền ở gần Kỳ Viên tinh xá, phát tâm mỗi ngày đến quét tinh xá Phật và Tăng chúng với lòng chí thành không lúc nào tỏ ra giải đãi mỏi mệt. Một ngày nọ có ông trưởng giả đến Kỳ Viên dạo chơi bổng thấy dưới lòng suối lớn hiện ra lâu dài làm bằng thất bảo, trưởng giả lấy làm lạ mới đem chuyện nầy hỏi Phật, mới biết là của ông nhà nghèo hiền hậu kia, do ngày ngày thành tâm quyết tinh xá cho Phật và Tăng chúng mà được phước báo như ậy. Vị trưởng giả nghe xong lòng hoan hỉ tìm dến gặp ông nhà nghèo hiền kia thương lượng dùng năm trăm cân vàng để mua lâu đài thất bảo đó. Ông nhà nghèo hiền được vàng liền mở hội bố thí cúng dường. Phật nhân đó thuyết pháp về nhân quả thiện ác báo ứng, khiến cho ông nhà nghèo hiền làm công quả kia tin sâu, nhờ đó mà chứng được đạo quả”. Dẫn đoạn kinh trên đây cho chúng ta rõ thiện ác quả báo là sự thực hiển nhiên, để từ đó có thể dứt trừ mê chấp khinh thường, Phật nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Kinh nói: “Không sợ tham sân sanh khởi, chỉ sợ giác ngộ chậm lâu”. (Xin tìm xem quyển Phương Pháp Cải Đổi Vận Mạng).

5.- Đức Phật nói Tam Bảo khó được gặp.

CHÁNH VĂN:

Đức Phật lại bảo A-Nan: Như Lai không nói hai lời, khó gặp Phật ở đời, khó nghe được kinh pháp, ông có phước duyên đời trước, nên nay được hầu Phật nghe pháp.

LỜI GIẢI:

Trên đây đức Phật nói với tôn giả A-Nan cũng là nói với chúng ta. Ngài nói: “Như Lai không nói hai lời”. Qua câu nầy ta cảm thấy lời của Phật thật là thống thiết trút hết tâm cang khô khàn cả miệng lưỡi như lời tâm huyết thiết tha của bậc cha già cam đoan khẳng định trao trút hết cho đàn con.

“Khó gặp Phật ở đời”, bởi chúng sanh tạo nhiều nghiệp ác trôi lăn trong luân hồi sanh tử khó gặp được Phật ra đời. Có được cơ duyên gặp Phật hay gặp các bậc chân Tăng giảng truyền chánh pháp là phước duyên đặc thù phải mau kết gieo nhân lành bằng cách phát tâm quy y Tam Bảo, hồi đầu cầu tu học Phật pháp đừng để mất cơ hội. Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật nói: Được thân người là khó. Khó như người chìm nổi, bồng bềnh trôi trên biển cả đã nhiều năm tháng, nay gặp được phao. Chúng sanh gặp Phật pháp, gần chân Tăng, phát tâm quy y Tam Bảo, chẳng khác nào như con rùa mù nhiều trăm năm dưới đáy biển sâu nay nổi lên mặt nước gặp được bộng cây chui vào. Quả thật vậy, kinh điển lưu truyền bất tuyệt, chân Tăng giảng kinh thuyết pháp không ngừng, cửa chùa rộng mở tháng năm, tiếng kinh kệ sáng chiều âm vang bất tận, mà trần thế chẳng thấy mấy người chí tâm tầm sư học đạo! Nên cổ đức có câu: “Niết bàn hữu bộ vô nhơn đáo. Địa ngục vô môn hữu khách tầm”. Niết bàn mở cửa không người đến. Địa ngục cái khoen khách mở vào. Chúng sanh mải miết lao mình trong dục lạc ái ân, thị phi hơn thua giang hồ ân oán, huân tập thành ác nghiệp để rồi kiếp kiếp đời đời phải chịu lấy nghiệp báo, nên không thấy được chân trời hạnh phúc bao la của an lạc giác ngộ giải thoát. Đã biết bao triết gia thi nhân văn sĩ lừng danh kim cổ đều mang tâm chí nhiệt thành muốn tô điểm vẻ đẹp cho đời, nhưng cuối cùng đều phải thầm than “đời là vô thường mộng huyễn, là biển khổ trầm luân!”

Bể khổ mênh mông sóng ngập tràn
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
Ngoảnh lại cùng trong biển khổ thôi.

Tất cả chúng sanh đang đắm chìm trong biển khổ của cuộc đời, đang lặn hụp nổi trôi trong sáu nẻo luân hồi không biết đến bao giờ mới thôi dứt, chỉ có người giác ngộ mới là an lạc giải thoát tự tại.

Làm thế nào để được an lạc giác ngộ giải thoát tự tại? chỉ có phát tâm Bồ đề chánh tín tu tập Phật pháp, tin sâu nhân quả là được an lạc, là bước đến ngưỡng cửa Niết bàn, đạt thành Phật quả chánh đẳng chánh giác. Ai cũng có thể phát tâm tu và ai cũng có thể thành chánh đẳng chánh giác. Đức Phật đã quả quyết tuyên bố: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Nếu tất cả mọi người ý thức được lời xác quyết của Phật, tin sâu vào đó phát tâm Bồ đề y theo Phật pháp nghiêm chỉnh tu hành thì sự an lạc trong tầm tay, sự giác ngộ giải thoát hiện ngay trước mắt. Thời gian tu hành từ phàm phu đến Phật quả phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, chậm mau tùy theo tâm chí kiên cường nhịp độ tinh tấn tu là được thành đạo chứng quả, nhưng cũng đã định hướng và trên đường bước đến đạo quả Niết bàn. Người nào không có quá trình công phu tu tập, không có gia công hành đạo mà tự cho mình có phép lạ linh thiêng chứng thánh, thì đó là kẻ ảo tưởng điên cuồng trong Phật pháp, kinh Phật gọi là “đại vọng ngữ, mắc tội rất nặng”. Thiền tông gọi là kẻ tà hoặc tẩu hỏa nhập ma.

Muốn trở thành học trò giỏi, có bằng cấp cao tiến sĩ, luật sự, bác sĩ thì phải cố gắng ngày đêm trải bao năm tháng dùi mài kinh sử, không rời đèn sách, chăm học không ngừng, chứ đâu phải học tà tà cho qua ngày tháng lấy lệ mà thành bác sĩ luật sư tiến sĩ được? Sự tu hành lại đặc biệt đòi hỏi phải chuyên cần tinh tấn hơn. Có quan niệm cho rằng đời còn trẻ chưa cần tu sớm, để già rồi tu cũng chẳng muộn. Nếu đó là ý nghĩ đúng thì sao không nói đời còn trẻ nên ăn chơi hưởng lạc thú để già rồi đi học cũng chẳng muộn. Tuổi già khí lực suy tàn, ở thế gian đã tạo muôn ngàn tội lỗi, tập khí phiền não sâu dày còn đâu năng lực để tu tập, còn đâu thời gian để hành đạo, còn đâu tinh thần mẫn cáng để đóng góp phần công đức vun trồng phước huệ. Kinh Phật dạy phước huệ tròn đầy mới thành chánh quả. “Phước huệ lưỡng toàn phương tác Phật”.

Có tu là có hạnh phúc. Tu là xây đắp nền móng, là cội gốc của hạnh phúc bản thân, gia đình, xã hội, quốc gia. Nên đạo Nho cũng dạy “trước phải tu thân, rồi mới tề gia, sau mới ra trị quốc bình thiên hạ”. Đạo Phật khuyên mọi người nên tu tập để hiện đời mình và người đều được an lạc, đời sau hưởng bầu trời vô tận hạnh phúc và cuối cùng là đạt đạo quả giác ngộ giải thoát. Các thức giả trong thiên hạ nếu phát tâm Bồ đề ngay bây giờ, trong đời nầy tinh tấn tu hành vun trồng phước đức vào cội Bồ đề tâm nguyện về cảnh giới Tịnh độ diện kiến Phật A Di Đà để được ngày đêm nghe Ngài thuyết pháp, thì nên Thiền – Tịnh song tu là pháp tu thuận duyên tiến nhanh trên đường thành đạt chánh quả. Bằng không thì phải đợi 56 ức năm nữa, khi đức Phật Di Lặc ra đời nếu còn được thiện duyên làm đệ tử Ngài trong pháp hội Long Hoa phát tâm tu hành. Nhưng thử lắng lòng tự hỏi có nắm chắc là sẽ được gặp đức Phật Di Lặc ra đời để được làm đệ tử ngài dự pháp hội Long Hoa không? Hay lúc đó còn chìm đắm trong ba ác đạo hoặc rơi vào lưới ngoại đạo tà giáo hay quay cuồng trong lục dục lạc trần gian. Khó lắm! Quá ư xa diệu vợi mơ hồ!

Chỉ có những ai ngay hiện đời thành khẩn phát tâm Bồ đề y theo chánh pháp tu tập, tha thiết thân cận chân Tăng học đạo mới tạo được thiện duyên gần Phật, thấy Phật. Còn tu lấy lệ, tu hình thức cầu danh lợi dưỡng, việc phước đức lơ là, ngã chấp pháp chấp sâu nặng thì tự đẩy mình cách Phật càng xa, đạo quả giác ngộ vô phương đạt đến. Nên kinh nói “rất khó gặp Phật ở đời” là vậy. Gặp Phật ở đời là khó, gặp minh sư học đạo là khó. Có thiện duyên lắm mới gặp. Mà hễ đã gặp lại được nghe giảng pháp là chứng ngộ. Chúng ta vô phước không gặp Phật, nhưng chúng ta còn có thiện duyên gặp kinh điển chan chứa lời Phật dạy, còn được các chân Tăng thiền đức giảng thuyết giáo pháp, từ đó chúng ta nghe hiểu phát tâm tu hành cũng là hạnh ngộ phước duyên, nên thành tâm phát nguyện trang kính tự cường, trang nghiêm Tịnh độ, hạ thủ công phu, nỗ lực tu học, để khỏi phụ ơn Phật, để còn đền đáp ơn phụ mẫu và ơn chúng sanh. Đức Phật đã vì chúng ta mà phải xả thân, dâng hiến trọn đời 80 tuổi, ròng rã 49 năm, ngày đêm thuyết pháp độ sanh cho đến giờ phút chót vào Niết bàn.

Kinh Phật có khắp nhân gian, nhưng rất ít người để tâm nghiên tầm học hiểu. Số lượng người tìm hiểu Phật pháp tu học so với số lượng nhân loại hiện hữu trên cõi đời nầy thì quả thật rất ít. Nên cổ đức nói: “Kinh điển Phật pháp khó được nghe” là vậy.

Nghiệp chướng chúng sanh quá nặng, nên phần đông không thích gần Phật pháp mà thích gần tục tạp dục lạc. Nghe giảng Phật pháp thì cảm thấy mỏi mệt, xem kinh Phật thì dễ cảm thấy chán, nghe luận bàn giáo lý thì tâm thần uể oải ngáp ngủ, đủ thứ chướng duyên làm trở ngại việc nghe kinh giảng pháp. Bởi vọng tình huân tập nhiều đời nhiều kiếp, nên ý chí cầu đạo giác ngộ khó khăn. Cổ đức nói: “Vọng tình huân tập, chí đạo nan văn”.

Kinh luật Phật pháp có hiệu năng tu chỉnh đưa chúng sanh đến chánh tri kiến Phật. Giới luật có hiệu năng sửa chánh hành vi của con người. Kinh luật luận là chuẩn tắc, là nơi y cứ cho người tiến bước trên đường thánh thiện đạt đến quả tịch tịnh giác ngộ giải thoát. Người tu theo Phật pháp là người đi ngược dòng sanh tử. Có đi ngược dòng đời sanh tử mới cứu được đời.

Khi đức Thế Tôn vào Niết bàn, Ngài có di chúc cho hàng đệ tử “Bốn điều y pháp” theo đó mà tu hành: 1/ Y pháp bất y nhơn: Pháp là chỉ cho tam tạng giáo điển kinh luật luận. Ý đức Phật thầm bảo hàng đệ tử rằng, sau khi Ngài nhập Niết bàn, nếu kẻ hoằng pháp không y cứ vào kinh luật thì không nên nghe theo. 2/- Y nghĩa bất y ngữ: Nghĩa ở đây là chỉ đạo lý đức Phật đã giảng dạy. Ngữ ở đây là chỉ cho văn ngôn, tức là lời nói văn tự, làm công cụ ghi chứa và phương tiện để diễn đạt đạo lý. Nghĩa là chủ, ngữ là khách. Tức là Phật bảo chúng ta y cứ vào đạo lý của Phật dạy mà tu hành, chớ đừng chấp vào văn tự ngữ ngôn. Chấp chặt văn tự ngữ ngôn làm tan mất nghĩa lý diệu huyền Phật Đà giáo hóa. Thế nên kinh Phật còn ghi “Tất cả kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng” – “Nhứt thiết tu-đa-la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. 3/ Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa: “Bất liễu nghĩa” là những giáo lý mà đức Phật nương theo thế tục giảng thuyết, vì có những chúng đệ tử căn tánh còn thấp kém mà phải phương tiện nói, như pháp tiểu thừa và pháp nhơn thiên. “Liễu nghĩa” là giáo pháp mà đức Phật đích thực chứng đắc chánh đẳng chánh giác vô thượng Bồ đề. Tâm nguyện của đức Phật muốn hàng đệ trong y cứ giáo pháp liễu nghĩa, giáo pháp nhứt thừa Phật quả mà tu hành để thành đạo vô thượng Bồ đề chứng quả chánh đẳng chánh giác như Phật, chớ đừng nên y cứ giáo pháp bất liễu nghĩa tiểu thừa nhơn thiên. Như các hành giả tu pháp Sám Hối Hồng Danh phát nguyện: “Con nay phát tâm (tu pháp sám hối) không phải vì cầu phước báo của cõi trời người, Thanh Văn, Duyên Giác cả đến quả vị quyền thừa Bồ Tát, mà con phát nguyện tu pháp Hồng Danh Sám Hối chỉ duy nhất cầu được quả vị tối thượng thừa (Phật quả), vì đó nên con phát tâm Bồ đề. 4/ Y trí bất y thức: Trí là lý trí, trí huệ. Thức là hiểu biết của vọng thức. Phật khuyên chúng ta phải có tâm chí hướng thượng, minh định thái độ để chuẩn bị khóa trình đầy đủ cho việc tu học, chứ không để vọng thức tình cảm mê chấp. Y theo bốn pháp này mà tu tập, thì hành giả nhất định không bị sa lầy rơi vào thường tình biên kiến cảm tình, địa phương, bè phái, thân thuộc, bạn ác. Cho dù đang sống vào thời cách Phật đã lâu xa như chúng ta, nhưng nếu chân tâm thành ý y theo bốn pháp Phật dạy đây mà tu tập thì không khác nào như Phật còn ở đời. Trong thời mạt vận Phật pháp lắm kẻ tà tâm lợi dụng, chúng sanh phước mỏng tội dày, thầy tà bạn ác dãy đầy, nếu không y cứ bốn pháp nầy làm chuẩn tắc để hành đạo thì thật khó mà tránh khỏi rơi vào biên kiến. Do vậy, hằng ngày chúng ta thường thấy có kẻ tin Phật đã lâu, hoặc đầu tròn áo vuông nâu sòng đã nhiều năm tháng mà không tránh khỏi lưới thường tình bè phái, độc tôn, lợi danh, hình thức là tin Phật mà suốt đời cho đến khi chết tâm niệm vẫn chưa dính dấp gì lý đạo.

Công dụng của kinh điển là đem lại an lạc cho đời sống hiện tiền, và giải thoát sanh tử luân hồi cho kiếp tương lai. Sự kiết tập, phiên dịch, lưu truyền kinh điển khó khổ mồ hôi nước mắt sánh bằng trời biển, tổn hao tâm lực lớp lớp người có chí nguyện hoằng dương chánh pháp, trải bao ngàn năm với giá hy sinh tâm huyết chất chồng không tiếc thân mạng công lao đó sánh bằng hư không, cũng vì tâm nguyện lợi lạc quần sanh của các Thánh Tăng tiền bối. Giờ đây kinh sách, Phật tượng, chùa viện sẳn có tất cả mọi phương tiện hành đạo, chúng ta chỉ còn có việc phát tâm tu học thôi mà không làm nổi thì thật đáng thương, đáng tội nghiệp cho kiếp chúng sanh trầm luân mê muội. “Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó gặp nay đã gặp. Thân nầy không tu để tự độ, lại đợi đến bao giờ mới chịu tu để độ thân”. Kinh Kim Cang Phật nói: :”Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau có người trì giới tu phước, đối với kinh nầy mà hay sanh tín tâm cho là chân thật, thì nên biết người đó không phải chỉ ở nơi một, hai, ba, bốn, năm đức Phật, mà đã từng ở chỗ vô lượng ngàn vạn đức Phật trồng các căn lành rồi”. Từ đây, chúng ta có thể biết rằng, người không có căn lành, thiếu phước thiện gieo trồng nhân duyên Bồ đề thâm sâu thì rất khó có tâm phấn khởi tiếp thọ giáo lý của Phật để áp dụng vào đời sống.

CHÁNH VĂN:

Nên nghĩ đến việc báo ân Phật, Ngài đã giảng truyền giáo pháp, thị hiện làm người, làm ruộng phước điền cho người tín tâm gieo trồng phước đức để đời sau không còn lo âu. A-Nan lãnh thọ giáo pháp của Phật, tự mình phụng hành đồng thời truyền khắp cho chúng sanh đều nghe.

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây Phật dạy người tu học Phật nên phát tâm vị tha truyền bá chánh pháp, làm ruộng phước điền cho chúng sanh để cùng được an lành lợi lạc. Đây cũng là đoạn kinh cuối cùng mà tôn giả A-Nan hỏi Phật về việc vì sao kính phụng Phật như lại có quả báo hung kiết khác nhau.

“Nên nghĩ đến việc báo ân Phật”. Đoạn nầy mang ý nghĩ ơn đức, uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Phật dạy chúng đệ tử làm người phải luôn luôn giữ tâm niệm báo đền ân đức. Có nghĩ đến việc báo đền ân đức thì mới có tâm niệm tri ơn. Vậy thì những người nào đã có ơn với ta? Đó là bốn ơn nặng: 1/ Ơn cha mẹ sanh dưỡng thân thể hình hài của chúng ta khôn lớn thành người. 2/ Ơn sư trưởng: Sư trưởng đã dạy dỗ ta, tạo cho ta có kiến thức hiểu biết, nhơn cách làm người. 3/ Ơn quốc gia chánh phủ: Đã bao người hy sinh mới có được mãnh đất quốc gia và chánh phủ giữ gìn nhờ đó mà nhơn dân mới được an cư sinh sống. Ngày nay ta được sống trong sự an lành để tu hành, nên phải biết ơn. 4/ Ơn chúng sanh: Tất cả chúng sanh mỗi người đều đem hết khả năng sáng tạo của mình để góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp, giúp đỡ cung cấp nhu cầu tạo cho ta có hoàn cảnh hạnh phúc tiện nghi để hành đạo, nên phải tưởng nghĩ báo đền ơn họ. Cuộc sống của chúng ta không thể tách rời bốn ơn nặng nầy, nên Phật khuyên hàng đệ tử phải luôn luôn ghi nhớ “trả ơn và báo đáp thâm ơn”.

Báo ơn bằng cách nào? Phật dạy chúng ta trước nhất phải “giảng truyền giáo pháp”. Truyền là truyền bá ban bố khắp nơi. Để truyền bá giáo pháp thì trước hết tự bản thân phải hiểu và y như giáo pháp mà nghiêm chỉnh hành trì, tức là hành giả tương ưng, tri hành hợp nhất, đáng làm mô phạm cho đời, được như thế lời thuyết giảng mới có giá trị, khiến cho người hoan hỷ tín thọ. Nghĩa là thân giáo, khẩu giáo tương ưng, tâm nguyện, đạo hạnh xứng hợp. Ngược lại “năng thuyết bất năng hành, biện tài vô đạo hạnh” thì phản tác dụng khiến cho người đời đàm tiếu, thế nhơn nghi ngờ chánh pháp, chê bai hành giả của đạo Phật. Thế nên, Phật dạy hàng đệ tử xuất gia phải y giáo pháp nghiêm chỉnh tinh tấn tu tập, trên báo đền bốn ơn đức sâu nặng, dưới khắp cứu giúp chúng sanh thoát khổ nạn, như thế là trựo Phật hoằng hóa để tiệm tiêu họa hoạn, làm nơi nương tựa tạo ruộng phước diền cho chúng sanh. Phước điền có 3 loại: 1/ Kính điền là phước điền do lòng kính tin Tam Bảo. 2/ Ân điền là phước điền do báo đáp ơn đức cha mẹ. 3/ Bi điền là phước điền do lòng từ bi thương người nghèo khổ, và tâm từ bi khắp thương người nghèo khổ, và tâm từ bi khắp thương tất cả chúng sanh. Cội gốc của muôn hạnh lành là thành kính, hiếu thuận và từ bi. Thành kính là tin Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo mà sanh. Hiếu thuận do nghĩ nhớ báo đáp thâm ân phụ mẫu mà sanh. Từ bi do trải lòng thương xót tất cả chúng sanh mà sanh. Thế nên trong Phật pháp nói: Phật, Bồ Tát, Sư trưởng, Phụ mẫu, chúng sanh là ruộng tốt để cho chúng ta gieo giống lành. Người đời cầu Phật mà chẳng biết ruộng phước trước mắt để gieo trồng giống lành thiện trong ruộng phước điền, nhưng thực tế thì không mấy người chịu gieo trồng! Phật do lòng từ bi mà khai mở nền đạo, người có lòng tin thì gieo trồng giống phước vào trong Phật pháp, sau đó quyết sẽ được thọ hưởng phước báo bất tận. Có đệ tử hỏi Phật: Tại sao A-Nan lại htông minh xuất chúng? Phật đáp: A-Nan nhiều tiền kiếp về trước vốn là nhà buôn. Một hôm thấy có một chú Sa di ôm bình bát khất thực vừa đi vừa khóc. Nhà buôn kêu chú Sa di lại hỏi, thì được trả lời: Thầy tôi mỗi ngày cho tôi học thuộc một bài kinh, nếu không thuộc thì sư phụ tôi buồn. Nếu chăm chú lo học thuộc thì tôi không đi khất thực được, ngày hộm đó thầy trò tôi đều nhịn đói. Nếu tôi đi khất thực thì không thuộc bài, sư phụ tôi buồn. Ở nhà học thuộc kinh thì không đi khất thực được, sư phụ tôi phải chịu đói. Đằng nào toi cũng không làm sư phụ vui, nghĩ vậy mà tôi ngậm ngùi rơi lệ. Nhà buôn nghe vậy động lòng phát Bồ đề tâm bảo với chú Sa di: Từ đây về sau, mỗi ngày chú cứ đến đây tôi sẽ dưng cúng thức ăn để chú yên tâm học thuộc kinh. Chú đừng buồn khóc nữa. A-Nan đã tạo cái nhân giúp người học thuộc kinh nên được cái phước trí thông minh nhớ rõ.

Quý vị trọn quyền quyết định tin lời Phật dạy, tin kinh điển hay không, nguyện hay không nguyện, tu hay không tu, gieo trồng phước hay không đều tùy quyền quý vị. Đức Phật là người lái thuyền, giáo pháp là con thuyền đưa con người qua bể khổ. Lên thuyền hay không là thuộc quyền quý vị. Đức Phật nói: Ta là thầy thuốc, giáo pháp là thuốc, chúng sanh là bệnh nhơn, mặc dù thầy thuốc hết lòng khuyên bệnh nhơn nên uống thuốc để lành bệnh, nhưng chịu uống hay không là tùy bệnh nhơn. Vậy bệnh khổ do ai tạo ra và ai làm cho ta hết bệnh khổ, thưa quý vị?

“Đời sau không còn lo âu” có hai nghĩa: 1/ Người có tâm thành chánh niệm tu hành thì dù chưa đắc đạo mà chết thì đời sau được phước đức sâu dày, được sanh cõi trời thân tâm an lạc hưởng phước báo. 2/ Nghiêm chỉnh tu hành đạo nghiệp thành tựu, minh tâm kiến tánh, đoạn hoặc chứng chơn, quả báo được sanh về cõi Phật, vĩnh viễn thoát ly luân hồi sanh tử. Đây mới là quả báo cứu cánh viên mãn, và cũng chính là điều mà đức Phật khuyên hàng đệ tử phải ngày đêm ghi nhớ thực hành. Là đệ tử Phật phải biết nghĩ nhớ ơn đức, để làm mô phạm cho trời người, và quyết lòng báo đáp thâm ân Phật bằng cách hoằng pháp, ngõ hầu làm ruộng phước điền cho chúng sanh. Nên biết nhơn đạo lấy huệ làm gốc. Trí huệ lấy phước đức làm nền. Về phương diện nầy, tôn giả A-Nan là tấm gương sáng để cho chúng ta noi theo. Như kinh văn nói: “A-Nan lãnh thọ giáo pháp của Phật, tự mình phụng hành đồng thời truyền bá khắp cho chúng sanh đều nghe”. Chúng sanh nhờ nghe giáo pháp mà biết phương pháp tu hành, phá mê khai ngộ, thoát khổ được vui. Từ trước đến đây đã được giải rõ lý do tại sao kính phụng Phật mà lại có quả báo kiết hung sai biệt rồi. Tiếp theo sau đây, tôn giả A-Nan thưa hỏi Phật về quả báo của tội sát sanh.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9