KINH A DI ĐÀ CỔ ÂM THANH VƯƠNG ĐÀ LA NI
Hán dịch: Mất tên người dịch. Nay phụ bản ghi chép của Đời Lương
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại ao Già Già Linh ở Đại Thành Chiêm Ba cùng với chúng Đại Tỳ Khưu gồm năm trăm người đến dự.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Khưu rằng:”Nay sẽ vì ông diễn nói. Thế Giới An Lạc (Sukha-vati) ở phương Tây hiện có Đức Phật hiệu là A Di Đà (Amṛta). Nếu có bốn Chúng hay chính thọ trì Danh Hiệu của Đức Phật ấy thời khi sắp chết, Đức A Di Đà liền cùng với Đại Chúng đi đến chỗ của người ấy, khiến cho nhìn thấy. Thấy xong, tìm sinh khánh duyệt (vui thích tốt lành), tăng thêm Công Đức. Do nhân duyên ấy nên chốn sinh ra, lìa hẳn hình vóc uế dục của thai tạng, thuần ở trong hoa sen báu xinh tươi màu nhiệm, tự nhiên hóa sinh, đủ Đại Thần Thông, ánh sáng chói lòa”

Khi ấy hằng hà sa chư Phật ở mười phương đều cùng nhau khen ngợi: “Thế Giới An Lạc đó có hết thảy Phật Pháp chẳng thể nghĩ bàn, Thần Thông hiện hóa mọi loại phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có kẻ hay tin việc như vậy, nên biết người đó chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp báo đã được cũng chẳng thể nghĩ bàn. Đức Phật A Di Đà cùng với hàng Thanh Văn đến dự”.

Đức Như Lai Ứng Chính Biến Tri có quốc thổ, hiệu là Thanh Thái. Đức Thánh Vương cư trú tại cái thành cao rộng mười ngàn do tuần, ở trong tràn đầy giòng Sát Lợi. Đức Phật A Di Đà có cha tên là Nguyệt Thượng Chuyển Luân Thánh Vương, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhan, đệ tử phụng sự tên là Vô Cấu Xưng, đệ tử Trí Tuệ tên là Hiền Quang, Thần Túc Tinh Tiến tên là Đại Hóa. Lúc bấy giờ Ma Vương tên là Vô Thắng, có Đề Bà Đạt Đa tên là Tịch Tính. Đức Phật A Di Đà cùng với Đại Tỳ Khưu gồm sáu ngàn người.

Nếu có người thọ trì Danh Hiệu của Đức Phật ấy, tâm ý bền chắc, ghi nhớ chẳng quên, mười ngày mười đêm trừ bỏ tán loạn, tinh tiến tu tập Niệm Phật Tam Muội, biết Đức Như Lai ấy luôn trụ ở Thế Giới An Lạc, ghi nhớ tương tục đừng để đoạn tuyệt, thọ trì đọc tụng Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni này mười ngày mười đêm, sáu Thời chuyên niệm, thọ trì đọc tụng, cúi năm vóc sát đất lễ kính Đức Phật ấy, chính niệm bền chắc đều trừ tán loạn. Nếu có thể khiến Tâm niệm niệm chẳng dứt thì trong mười ngày ắt được nhìn thấy Đức Phật A Di Đà ấy và nhín thấy Như Lai ở mười phương Thế Giới với cõi cư trú. Chỉ trừ người Độn Căn, chướng nặng… với chút Thời này thì chẳng thể nhìn thấy được. Tất cả việc Thiện thảy đều hồi hướng, nguyện được sinh về Thế Giới An Lạc. Ngay lúc lâm chung thì Đức Phật A Di Đà với các Đại Chúng hiện ra trước mặt người ấy an ủi, xưng thiện, tức thời người đó sinh vui thích, an thành thâm sâu. Dùng nhân duyên ấy, nhớ ước nguyện kia nên tìm được vãng sinh.

Đức Phật bảo các Tỳ Khưu: “Vì sao có thên là Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni? (Amṛta-duṇḍubhisvara-dhāraṇī: Cam Lộ Cổ Âm Thanh Đà La Ni). Nay Ta sẽ nói, các ông khéo nghe, vâng theo thọ giáo”.

Lúc đó Đức Thế Tôn liền nói Chú là:

1_ Đa địch tha
𑖝𑖟𑖿𑖧𑖞𑖯
TADYATHĀ
2_ Bà ly
𑖤𑖩𑖸
BALE
3_ A bà ly
𑖀𑖤𑖩𑖸
ABALE
4_ Sa ma bà ly
𑖭𑖦 𑖤𑖩𑖸
SAMA BALE
5_ Ni địa xa
𑖡𑖰𑖨𑖿𑖟𑖸𑖫
NIRDEŚA
6_ Ni xà đa nễ
𑖡𑖰𑖧𑖯𑖝𑖡𑖸
NIYĀTANE
7_Nê mậu để
𑖡𑖰𑖨𑖿𑖦𑖲𑖎𑖿𑖝𑖸
NIRMUKTE
8_ Nê mậu xí
𑖡𑖰𑖦𑖲𑖏𑖸
NIMUKHE
9_ Xà la, ba la xa đà nễ
𑖕𑖿𑖪𑖩 𑖢𑖿𑖨𑖭𑖯𑖠𑖡𑖸
JVALA PRASĀDHANE
10_ Tú khư ba đề, ni địa xa
𑖭𑖲𑖏𑖪𑖝𑖰 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖟𑖸𑖫
SUKHAVATI NIRDEŚA
11_ A di đa do bà ly
𑖀𑖦𑖰𑖝𑖯𑖧𑖲𑖨𑖿 𑖤𑖩𑖸
AMITĀYUR BALE
12_ A di đa xà già bà nê kha lệ
𑖀𑖦𑖰𑖝𑖯𑖧𑖲𑖝𑖿 𑖐𑖨𑖿𑖥 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖮𑖨𑖸
AMITĀYUT GARBHA NIRHARE
13_ A đi đa xà, ba la sa đà nễ
𑖀𑖦𑖰𑖝𑖯𑖧𑖲𑖨𑖿 𑖢𑖿𑖨𑖭𑖯𑖠𑖡𑖸
AMITĀYUR PRASĀDHANE
14_ Niết phù đề
𑖡𑖰𑖨𑖿𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠𑖸
NIRBUDDHE
15_ A ca xá, nê phù đà
𑖁𑖎𑖯𑖫 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠𑖸
ĀKĀŚA NIRBUDDHE
16_ A ca xá, nê đề xa
𑖁𑖎𑖯𑖫 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖟𑖸𑖫
ĀKĀŚA NIRDEŚA
17_ a ca xá, nê xà đề
𑖁𑖎𑖯𑖫 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖕𑖯𑖝𑖸
ĀKĀŚA NIRJĀTE
18_ A ca xá, cửu xa ni
𑖁𑖎𑖯𑖫 𑖎𑖲𑖫𑖩𑖸
ĀKĀŚA KUŚALE
19_ A ca xá, đạt xa ni
𑖁𑖎𑖯𑖫 𑖟𑖨𑖿𑖫𑖡𑖸
ĀKĀŚA DARŚANE
20_ A ca xá, đề tha nễ
𑖁𑖎𑖯𑖫 𑖝𑖰𑖬𑖿𑖙𑖡𑖸
ĀKĀŚA TIṢṬHANE
21_ Lưu ba, nê đề xa
𑖨𑖳𑖢 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖟𑖸𑖫
RŪPA NIRDEŚA
22_ Lỗ bả, đản nê thế
𑖨𑖳𑖢 𑖫𑖯𑖡𑖰𑖝𑖸
RŪPA ŚĀNITE
23_ Giá đỏa lị, đạt ma, ba la sa đà nễ
𑖓𑖝𑖿𑖪𑖯𑖨𑖰 𑖠𑖨𑖿𑖦 𑖢𑖿𑖨𑖭𑖯𑖠𑖡𑖸
CATVĀRI DHARMA PRASĀDHANE
24_ Giá đỏa lị, a lợi xà sa đế xà, ba la sa đà nễ
𑖓𑖝𑖿𑖪𑖯𑖨𑖰 𑖁𑖨𑖿𑖧-𑖭𑖝𑖿𑖧 𑖢𑖿𑖨𑖭𑖯𑖠𑖡𑖸
CATVĀRI ĀRYA-SATYA PRASĀDHANE
25_ Giá đỏa lị, mạt già ba na, ba la sa đà nễ
𑖓𑖝𑖿𑖪𑖯𑖨𑖰 𑖦𑖯𑖨-𑖥𑖡 𑖢𑖿𑖨𑖭𑖯𑖠𑖡𑖸
CATVĀRI MĀRA-BHANA PRASĀDHANE
26_ Bà la tỳ lê gia, ba la sa đà nễ
𑖤𑖩 𑖪𑖱𑖨𑖿𑖧 𑖢𑖿𑖨𑖭𑖯𑖠𑖡𑖸
BALA VĪRYA PRASĀDHANE
27_ Đạt ma thân tha nễ
𑖠𑖨𑖿𑖦 𑖫𑖯𑖡𑖿𑖝𑖯𑖡𑖸
DHARMA ŚĀNTĀNE
28_ Cửu Xá ly
𑖎𑖲𑖫𑖩𑖸
KUŚALE
29_ Cửu xá la, nê đề xa
𑖎𑖲𑖫𑖩 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖟𑖸𑖫
KUŚALA NIRDEŚA
30_ Cửu xa la, ba la đề tha nễ
𑖎𑖲𑖫𑖩 𑖢𑖿𑖨𑖝𑖰𑖬𑖿𑖙𑖡𑖸
KUŚALA PRATIṢṬHANE
31_ Phật đà cửu xa ly
𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠 𑖎𑖲𑖫𑖩𑖸
BUDDHA KUŚALE
32_ Tỳ phật đà, ba la ba tư
𑖪𑖰𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠 𑖢𑖿𑖨𑖥𑖭
VIBUDDHA PRABHASA
33_ Đạt ma, ca la nễ
𑖠𑖨𑖿𑖦 𑖎𑖨𑖡𑖸
DHARMA KARANE
34_ Nê chuyên đề
𑖡𑖰𑖨𑖿𑖕𑖯𑖝𑖸
NIRJĀTE
35_ Nê phù đề
𑖡𑖰𑖨𑖿𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠𑖸
NIRBUDDHE
36_ Tỳ ma ly
𑖪𑖰𑖦𑖩𑖸
VIMALE
37_ Tỳ la xà
𑖪𑖰𑖨𑖯𑖕𑖸
VIRĀJE
38_ La xà
𑖨𑖯𑖕
RĀJA
39_ La tư
𑖨𑖯𑖭𑖸
RĀSE
40_ La sa kỳ
𑖨𑖭𑖯𑖐𑖿𑖨𑖸
RASĀGRE
41_ La sa già la, bà ly
𑖨𑖭𑖯𑖐𑖿𑖨 𑖤𑖩𑖸
RASĀGRA BALE
42_ La sa già la, a địa tha nễ
𑖨𑖭𑖯𑖐𑖿𑖨 𑖀𑖠𑖰𑖬𑖿𑖙𑖡𑖸
RASĀGRA ADHIṢṬHANE
43_ Cửu xá ly
𑖎𑖲𑖫𑖩𑖸
KUŚALE
44_ Ba la đề cửu xá ly
𑖢𑖿𑖨𑖝𑖰𑖎𑖲𑖫𑖩𑖸
PRATIKUŚALE
45_ Tỳ cửu xá ly
𑖪𑖰𑖎𑖲𑖫𑖩𑖸
VIKUŚALE
45_ Tha đề
𑖟𑖯𑖡𑖿𑖝𑖸
DĀNTE
47_ Tu đà đa, chí đề
𑖭𑖲𑖟𑖯𑖡𑖿𑖝 𑖓𑖰𑖝𑖿𑖝𑖸
SUDĀNTA CITTE
48_ Tu ba la xá đa, chí đề
𑖭𑖲𑖢𑖿𑖨𑖫𑖯𑖡𑖿𑖝 𑖓𑖰𑖝𑖿𑖝𑖸
SUPRAŚĀNTA CITTE
49_ Tu ba la đề si đề
𑖭𑖲𑖢𑖿𑖨𑖝𑖰𑖬𑖿𑖙𑖰𑖝𑖸
SUPRATIṢṬHITE
50_ Tu ly
𑖫𑖲𑖨𑖸
ŚURE
51_ Tu mục xí
𑖭𑖲𑖦𑖲𑖏𑖸
SUMUKHE
52_ Đạt mê
𑖠𑖨𑖿𑖦𑖸
DHARME
53_ Đạt đạt đề
𑖭𑖟𑖿-𑖠𑖨𑖿𑖦𑖸
SAD-DHARME
54_ Ly ba
𑖨𑖸𑖪
REVA
55_ Giá bà la
𑖕𑖿𑖪𑖩𑖸
JVALE
56_ A vấn xá bà ly
𑖀𑖡𑖲𑖫𑖧 𑖤𑖩𑖸
ANUŚAYA BALE
57_ Phật đà ca xá, nê cừu nễ, phật đà ca xá, cửu nễ
𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠-𑖀𑖎𑖯𑖫 𑖡𑖰𑖨𑖿𑖐𑖲𑖜𑖸 _ 𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠-𑖀𑖎𑖯𑖫𑖨𑖿𑖐𑖲𑖜𑖸
BUDDHA-AKĀŚA NIRGUṆE _ BUDDHA-AKĀŚARGUṆE
58_ Sa bà ha
𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
SVĀHĀ

Đây là A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni. Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Thanh Tín, Sĩ Nữ thường nên chí thành thọ trì đọc tụng, như Thuyết tu hành, hành trì Pháp này thì nên ở nơi nhàn tịch, tắm rửa thân thể, mặc áo mới sạch, ăn uống bạch tố, chẳng ăn thịt uống rượu với dùng Ngũ Tân, thường tu Phạm Hạnh. Dùng hương hoa tốt cúng dường cúng dường Đức A Di Đà Như Lai với Đạo Trường của Phật, chúng Đại Bồ Tát. Thường nhên như vậy chuyên tâm buộc niệm, phát cầu sinh về Thế Giới An Lạc, tinh tiến chẳng lười, như ước nguyện ấy ắt được sinh về Thế Giới của Đức Phật đó.

Thời Đức Phật A Di Đà với các Đại Chúng ngồi trên hoa sen báu. Cõi đất ấy có nhiều rừng cây, hoa quả tươi tốt xen kẽ điểm tô. Lại có cây vua (Thụ Vương) khi gió Xuân thổi nhẹ thì phát ra âm thanh hòa nhã, thuần nói Pháp Vô Thượng chẳng thể nghĩ bàn. Lại có hương màu nhiệm tên là Quang  Minh, hoặc có hương xoa bôi cũng là hương báu.

Đức Phật A Di Đà (Amṛta) ngồi Kiết Già trên hoa sen báu lớn. Có hai vị Bồ Tát, một vị tên là Quán Thế Âm (Avalokiteśvara), vị thứ hai tên là Đại Thế Chí (Mahāsthāmaprāpta). Đây là hai vị Bồ Tát đứng hầu hai bên phải trái, vô số Bồ Tát vây vòng chung quanh, ở trong Chúng này.

Nếu có bốn Chúng thọ trì đọc tụng Danh Hiệu của Đức Phật ấy cho đến không có bị sợ hãi về nước, lửa, thuốc độc. Cũng lại không có bị sợ hãi hàng Dạ Xoa. Trừ kẻ có nghiệp chướng tội nặng ở đời quá khứ thì bảy đời mới có Quả ước nguyện.

Đức Phật nói A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni thời vô lượng chúng sinh thảy đều phát nguyện, chí cầu sinh về Thế Giới An Lạc đó.

Lúc  ấy Đức Thế Tôn khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Như ông ước nguyện, ắt được sinh về cõi đó”.

Khi nghe Đức Phật nói xong thời tám Bộ Trời Rồng đều hớn hở vui mừng, làm lễ rồi phụng hành.

 

KINH A DI ĐÀ CỔ ÂM THANH VƯƠNG ĐÀ LA NI (Hết)