KIM QUANG MINH
TỐI THẮNG VƯƠNG KINH
Hán dịch: Đại Đường Tam Tạng Sa Môn NGHĨA TỊNH phụng chế dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

_QUYỂN THỨ MƯỜI_

BUÔNG XẢ THÂN MẠNG _PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đã vì Đại Chúng nói nhân duyên xưa kia của mười ngàn vị Thiên Tử này. Lại bảo Thần cây Bồ Đề (Bồ Đề Thụ Thần) với các Đại Chúng: “Ta ở quá khứ thực hành Bồ Tát Đạo (Bodhisatva-mārga) chẳng phải là chỉ cho nước với thức ăn cứu mạng của đám cá kia, cho đến cũng buông xả thân đáng yêu. Nhân duyên như vậy, có thể cùng nhau quán sát”.

Khi ấy, Đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, bậc tối tôn tối thắng trên Trời dưới Trời, phóng trăm ngàn ánh sáng chiếu mười phương giới, đủ Nhất Thiết Trí (Sarva-jñā), viên mãn Công Đức… đem các Bật Sô (Bhikṣu: Tỳ Kheo) với Đại Chúng đến thôn xóm Bát Già La (Pañcāla), vào trong một khu rừng, đất ở đấy ngay ngắn bằng phẳng, không có các gai góc, hoa đẹp thơm, cỏ mềm mại mọc đầy khắp chỗ ấy.

Đức Phật bảo Cụ Thọ A Nan Đà (Ānanda): “Ông có thể vì Ta trải bày chỗ ngồi ở dưới cái cây này”.

Thời A Nan Đà nhận lời dạy bảo, trải bày xong, rồi thưa bạch rằng: “Thế Tôn! Tòa ngồi ấy đã được trải bày xong, chỉ có bậc Thánh mới biết đúng thời”.

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền ngồi Kiết Già ở trên tòa, ngay thẳng thân chính niệm, bảo các Bật Sô: “Các ông có thích muốn thấy Xá Lợi (Śarīra) gốc của Bồ Tát tu Khổ Hạnh (Duḥskara) xưa kia không?”     Các Bật Sô nói: “Chúng con thích nhìn thấy”.

Đức Thế Tôn liền dùng bàn tay do trăm Phước trang nghiêm tướng tốt, đè lên đất ấy. Lúc đó, đại địa chấn động theo sáu cách, tức liền tách mở ra, thời Chế Để (Caitye: cái tháp) bảy báu đột nhiên trồi lên với mọi lưới võng báu trang nghiêm trên tháp ấy. Đại chúng thấy xong, sinh Tâm hiếm có.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, làm lễ, nhiễu quanh theo bên phải rồi quay về tòa ngồi của mình, bảo A Nan Đà: “Ông có thể mở cánh cửa của Chế Để này”.

Thời A Nan Đà liền mở cánh cửa ấy, thấy cái hộp bảy báu được trang sức bằng châu báu kỳ lạ, rồi bạch rằng: “Thế Tôn! có cái hộp bảy báu được trang sức bằng mọi vật báu”.

Đức Phật nói: “Ông có thể mở cái hộp”.

Thời A Nan Đà vâng theo lời dạy, mở ra thì thấy có Xá Lợi (Śarīra) trắng như Kha Tuyết (Hima: tuyết), hoa Câu Vật Đầu (Kumuda), liền bạch Phật rằng: “Hộp có Xá Lợi, màu sắc kỳ diệu khác thường”.

Đức Phật bảo A Nan Đà: “Ông có thể đem xương cốt của Đại Sĩ này đến đây”.

Thời A Nan Đà liền lấy xương cốt ấy dâng trao cho Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận xong, bảo các Bật Sô: “Các ông nên quán sát Xá lợi di thân của Bồ Tát tu Khổ Hạnh” Rồi nói Tụng là:

“Bồ Tát: Thắng Đức tương ứng Tuệ

Dũng mãnh, siêng năng tròn sáu Độ (Ṣaṭ-pāramitā: 6 Ba La Mật)

Thường tu chẳng ngưng, vì Bồ Đề (Bodhi)

Chẳng bỏ, bền chắc, Tâm không mệt”

Bật Sô các ông đều nên lễ kính Bản Thân của Bồ Tát. Xá Lợi này tức là nơi mà hơi thơm của vô lượng hương Giới Định Tuệ đã xông ướp, là ruộng Phước (Puṇya-kṣetra) tối thượng rất khó gặp gỡ”.

Thời các Bật Sô với các Đại Chúng thảy đều chí Tâm, chắp tay cung kính, đỉnh lễ Xá Lợi, khen chưa từng có!

Lúc đó, A Nan Đà tiến lên phía trước, lễ bàn chân của Đức Phật, rồi bạch Phật rằng: “Như Lai Đại Sư vượt qua tất cả, là nơi mà các hữu tình đã cung kính.

Do nhân duyên gì mà lễ thân cốt này?”

Đức Phật bảo A Nan Đà: “Ta nhân vào xương cốt này, mau chóng được Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề (Anuttarā-samyaksaṃbodhi). Vì báo đáp ân xưa nên nay Ta đến lễ”

Lại bảo A Nan Đà: “Nay Ta vì ông với các Đại Chúng đoạn trừ nghi ngờ, nói nhân duyên xưa kia của Xá Lợi này. Các ông hãy khéo suy nghị, nên một lòng lắng nghe”

A Nan Đà nói: “Chúng con vui thích nghe. Nguyện xin mở bày”.

_“Này A Nan Đà! Ở đời quá khứ có một vị quốc vương tên là Đại Xa (Mahā-ratha) rất giàu có, nhiều tiền của, kho tàng tràn đầy, quân lính uy vũ dũng mãnh, mọi nơi đều khâm phục, thường dùng Chính Pháp ban bố cảm hóa trăm họ (kiềm lê), người dân đông đúc, không có oán địch. Đại Phu Nhân của đất nước (hoàng hậu) sinh ra ba người con, dung mạo đoan chính, người ưa thích nhìn. Vị Thái Tử tên là Ma Ha Ba La (Mahā-praṇāda), người con thứ tên là Ma Ha Đề Bà (Mahā-deva), người con nhỏ nhất tên là Ma Ha Tát Đỏa (Mahāsatva).

Khi ấy, vị Đại Vương vì muốn đi du ngoạn, thưởng thức cảnh núi rừng. Ba vị Vương Tử (Rāja-kumāra) ấy cũng đều đi theo, vì tìm hoa quả nên tách rời khỏi cha, đi loanh quanh đến rừng tre lớn rồi nghỉ ngơi trong đó. Vị vương tử thứ nhất nói như vầy: “Hôm nay, Tâm của Ta rất kinh sợ, ở trong khu rừng này chẳng biết có loài thú mạnh nào gây tổn hại cho ta”

Vị Vương Tử thứ hai lại nói lời này: “Ta đối với thân của mình, trước đây đã không có luyến tiếc, chỉ sợ nơi mình yêu thích lại có khổ biệt ly” Vị vương tử thứ ba thưa với hai người anh rằng:

“Đây là nơi Thần Tiên cư trú

Em không sợ hãi, lo biệt ly

Khắp cả thân tâm sinh vui vẻ

Sẽ được các Công Đức thù thắng”

Thời các vị Vương Tử đều nói việc mà bản tâm mình đã nghĩ. Tiếp theo, lại đi về phía trước, thấy một con cọp (Vyāghrī: con cọp cái) sinh ra bảy đứa con, mới trải qua bảy ngày, các con vây quanh, bị đói khát ép bức, thân hình gầy ốm, chẳng lâu sẽ chết.

Vị Vương Tử thứ nhất nói như vầy: “Thương thay! Con cọp này mới sinh được bảy ngày, bảy đức con vây quanh, không có dịp tìm thức ăn, bị đót khát ép bức, ắt phải ăn cọp con”

Vương Tử Tát Đỏa (satva) hỏi rằng: “Bình thường, con cọp này đã ăn vật gì?”

Vị Vương Tử thứ nhất đáp rằng:

Cọp (Vyāghra), beo (Tarakṣa), sói (Vṛkṣa), sư tử (Siṃha)

Chỉ ăn máu thịt nóng

Không ăn uống thứ khác

Cứu được gầy yếu này”

Vị Vương Tử thứ hai nghe lời này xong, thì nói như vầy: “Con cọp này gầy ốm, bị đói khát ép bức, sống không được bao lâu, Chúng ta làm sao tìm thức ăn uống khó được như vậy? Ai lại vì điều này mà tự buông xả thân mạng để cứu nỗi khổ bị đói ấy?!…”

Vị Vương Tử thứ nhất nói: “Tất cả điều khó buông xả thì không có gì khó hơn là buông xả thân của mình”.

Vương Tử Tát Đỏa (satva): “Nay chúng ta đối với thân của chính mình, đều sinh luyến ái, lại không có Trí Tuệ, chẳng thể hưng khởi việc lợi ích cho người khác. Nhưng lại có bậc Thượng Sĩ ôm giữ Tâm Đại Bi, thường vì lợi người, quên thân cứu vật”.

Lại tác niệm này: “Nay thân này của ta ở trăm ngàn đời từng bị vứt bỏ vì hư hoại thối nát, không có chỗ lợi ích. Tại sao ngày nay lại chẳng thể buông xả để cứu giúp nỗi khổ bị đói, như nhổ bỏ nước rãi?!…”

Khi các Vương Tử bàn bạc việc này xong, đều khởi Tâm Từ (Maitracitta), buồn bã thương xót cùng nhau quán sát con cọp gầy ốm chẳng nháy mắt, bồi hồi lúc lâu rồi cùng nhau bỏ đi.

Lúc đó Vương Tử Tát Đỏa liền tác niệm này: “Nay chính là lúc ta nên buông xả thân mạng. Tại sao thế?

“Xưa nay ta gìn giữ thân này

Đầy mủ hôi tanh chẳng đáng yêu

Cung cấp đầy đủ áo, thức ăn

Voi, ngựa, xe cộ, tiền, vật quý

Do Pháp biến hoại, Thể vô thường

Mong cầu khó đủ, khó gìn giữ

Tuy thường cấp dưỡng, ôm oán hại

Cuối cùng bỏ ta, chẳng biết ơn”

Lại nữa, thân này chẳng bền chắc, đối với ta không có ích, rất đáng sợ như giặc cướp, chẳng sạch sẽ như phân dơ. Ta ở ngày nay nên khiến thân này tu nghiệp rộng lớn, làm thuyền bè lớn ở biển sinh tử, vứt bỏ Luân Hồi khiến được Xuất Ly (Naiṣkramya: vượt thoát nỗi khổ của luân hồi sinh tử, thành biện Phật Đạo)”

Lại tác niệm này: “Nếu buông xả thân này tức buông xả vô lượng bệnh ác ung thư, trăm ngàn sự sợ hãi. Thân này chỉ có đại tiện tiểu tiện, chẳng bền chắc như bọt nước, nơi tụ tập của các loài trùng… mạch máu, gân xương cùng liên kết với nhau gìn giữ, rất đáng chán ghét. Thế nên, nay ta cần phải vứt bỏ để cầu Vô Thượng Cứu Cánh Niết Bàn, lìa hẳn sự lo lắng về Vô Thường, khổ não. Ngưng dứt sinh tử, chặt đứt các Trần Luỵ (nghiệp ác phiền não). Dùng sức Định Tuệ, viên mãn huân tu (tịnh tâm tu hành), trăm Phước trang nghiêm thành Nhất Thiết Trí (Sarva-jñā), Pháp Thân (Dharma-kāya) vi diệu là nơi mà chư Phật đã khen ngợi. Đã chứng đắc xong, ban cho chúng sinh vô lượng niềm vui của Pháp”

Lúc đó, Vương Tử dấy lên đại dũng mãnh, phát Thệ Nguyện rộng, dùng niệm Đại Bi tăng ích Tâm ấy. Lại lo nghĩ hai người anh vì tình cảm ôm giữ sự sợ hãi, cùng nhau gây cản trở, nên chẳng đạt được sự mong cầu. Tức liền bạch rằng: “Hai anh đi trước đi, em sẽ theo sau”

Bấy giờ Vương Tử Ma Ha Tát Đỏa quay trở lại trong rừng, đến chỗ của con cọp ấy, cởi bỏ quần áo treo trên cây tre, rồi nói lời này:

“Ta vì chúng sinh trong Pháp Giới

Chí cầu nơi Vô Thượng Bồ Đề

Khởi Tâm Đại Bi chẳng nghiêng động

Buông xả thân Phàm Phu yêu thích

Bồ Đề (Bodhi) không nạn, không nhiệt não

Nơi các bậc Trí đã yêu thích

Chúng sinh trong biển khổ ba cõi

Nay ta cứu giúp khiến an vui”

Lúc đó, Vương Tử nói lời này xong, liền đem thân nằm ở trước mặt con cọp. Do uy thế Từ Bi của Bồ Tát này, con cọp không thể làm gì được. Bồ Tát thấy vậy, liền lên núi cao lao thân xuống đất, thời các vị Thần Tiên nâng đỡ Vương Tử nên không có thương tổn.

Lại tác niệm này: “Nay con cọp gầy yếu chẳng thể ăn nuốt Ta”. Liền dứng dậy tìm con dao, lại chẳng thể tìm được. Liền lấy cây tre cứng đâm vào cổ cho chảy máu rồi đến sát bên cạnh con cọp. Khi ấy, đại địa chấn động theo sáu cách, như gió xoáy vào nước vọt lên chìm xuống chẳng yên, mặt trời không có ánh sáng như bị La Hầu (Rāhu) ngăn che, các phương mờ tối không có ánh sáng. Trời tuôn mưa hoa đẹp thơm, với bột hương màu nhiệm quấn quít nhau rơi xuống tràn khắp trong rừng.

Bấy giờ, hư không có các Thiên Chúng thấy việc này xong, sinh Tâm tùy vui, khen chưa từng có! Đều cùng nhau khen rằng: “Lành thay Đại Sĩ!”. Liền nói Tụng là:

“Đại Sĩ cứu giúp, vận Tâm Bi (Kāruṇa-citta)

Đều nhìn chúng sinh như con một

Dũng mãnh, vui vẻ, không tiếc lẫn

Xả thân cứu khổ, Phước khó nghĩ

Quyết đến nơi Chân Thường thắng diệu

Lìa hẳn ràng buộc của sinh tử  Chẳng lâu sẽ được quả Bồ Đề Vắng lặng, an vui chứng Vô Sinh (Anutpāda)”

Lúc đó, con cọp đói đã thấy máu từ cái cổ của Bồ Tát tuôn chảy xuống, tức liền  liếm máu, ăn hết thịt chỉ còn lưu lại xương cốt.

_Khi ấy, vị Vương Tử thứ nhất thấy động đất xong, bảo người em rằng:

“Đất đai, sông, núi đều chấn động

Các phương mờ tối không mặt trời

Mưa hoa rơi xuống khắp không trung

Quyết là em ta bỏ thân tướng.

_Vị Vương Tử thứ hai nghe anh nói xong, liền nói Già Tha (Gāthā: kệ tụng) rằng:

“Em nghe Tát Đỏa (Satva) nói Từ Bi

Thấy cop đói kia, thân gầy yếu

Đói khổ ràng buộc, sợ ăn con

Nay em nghi  em ấy bỏ thân”

Thời hai vị Vương Tử sinh buồn khổ lớn, khóc lóc buồn than,  liền cùng nhau quay lại chỗ của con cọp, thấy quần áo của em trên cành tre, hài cốt với tóc vương vãi ở chỗ ấy. máu chảy thành bùn thấm dơ đất ấy. Thấy xong, choáng váng chẳng thể giữ mình được, gieo thân trên đống xương, lâu sau mới tỉnh lại.

Liền đứng dậy giơ tay, buồn thương kêu gào khóc lớn. Cùng nhau than rằng:

“Em ta dáng đoan nghiêm

Cha mẹ yêu thương nhất

Vì sao cùng ra ngoài

Bỏ thân mà chẳng về

Nếu khi cha mẹ hỏi

Chúng ta đáp thế nào

Chẳng thà cùng mất mạng

Há lại giữ thân mình?!…”

Thời hai vị Vương Tử buồn khóc, áo não từ từ bỏ đi. Lúc đó, Tiểu Vương Tử là tướng theo hầu cần, cùng nhau nói là: “Vương Tử ở chỗ nào? Nên cùng nhau tìm kiếm”

_Bấy giờ, Quốc Đại Phu Nhân ngủ trên lầu cao, liền ở trong mộng thấy tướng chẳng lành: hai vú bị cắt, răng bị rụng xuống, được ba con chim bồ câu thì một con bị chim ưng bắt đi, hai con bị kinh sợ. Khi động đất thời Phu Nhân liền tỉnh giấc, Tâm rất buồn rầu phiền não, nói lời như vầy:

“Vì sao lúc này đại địa động

Sông ngòi, cây rừng đều chấn động

Mặt trời không sáng như bị che

Máy mắt, vú rung khác lúc thường

Như tên bắn tim, lo khổ ép

Khắp thân run rẩy, chẳng an ổn

Trong mộng, ta thấy điềm chẳng lành

Ắt có việc tai biến khác thường”

Đột nhiên hai vú của Phu Nhân tuôn ra sữa, nghĩ điều này ắt có biệc biến quái. Thời có Thị Nữ nghe người bên ngoài nói tìm kiếm Vương Tử nay vẫn chưa được, nên Tâm rất kinh sợ, liền vào trong cung bạch với Phu Nhân rằng: “Đại Gia biết không, bên ngoài nghe mọi người tản ra đi tìm Vương Tử ở khắp nơi, vẫn chưa tìm được”.

Khi Phu Nhân nghe lời này xong, rất lo lắng, mặt tràn đầy nước mắt, đến chỗ của Đại Vương, bạch rằng: “Đại Vương! Thiếp nghe người bên ngoài nói lời như vầy: “Đứa con nhỏ mà ta yêu quý  bị lạc mất rồi!…”

Đức vua nghe xong, kinh hoàng, buồn bã nghẹn ngào nói: “Khổ thay! Ngày nay lạc mất đứa con yêu quý (Priya-suta: ái tử) của ta”

Tức liền lau nước mắt, an ủi Phu Nhân rồi bảo rằng: “Này Hiền Thủ!

Khanh đừng lo lắng, nay ta cùng nhau ra ngoài tìm kiếm đứa con yêu quý”.

Đức vua, Đại Thần cùng với mọi người liền cùng nhau ra khỏi thành, mỗi mỗi đều phân tán tìm kiếm các nơi. Khoảng chưa lâu thì có một vị Đại Thần đến trước mặt, bạch với vua rằng: “Nghe nói Vương Tử vẫn còn. Nguyện xin đừng lo buồn, nay chưa tìm thấy vị Vương Tử nhỏ nhất thôi”.

Đức vua nghe lời này thì buồn than, nói rằng: “Khổ thay! Khổ thay! Lạc mất đức con yêu quý của ta!…”

“Lúc mới có con thời vui vẻ ít

Sau khi mất con thời lo khổ nhiều

Nếu khiến con ta còn thọ mạng

Dầu thân ta mất, chẳng hề khổ”

_Phu Nhân nghe xong, lo lắng ưu phiền như bị tên bắn trúng, rồi than thở rằng:

“Ba con của ta với người hầu

Đều đến trong rừng, cùng du ngoạn

Con yêu nhỏ nhất chẳng quay về

Quyết có việc trái ngang tai ách”

_Tiếp đó, vị Đại Thần thứ hai đi đến chỗ của Đức Vua. Nhà vua hỏi vị Đại Thần rằng: “Đứa con yêu quý của Ta ở đâu?”

Vị Đại Thần thứ hai áo não khóc lóc, cổ họng với lưỡi khô khốc, miệng chẳng thể nói, nên không có từ ngữ thưa đáp. Phu Nhân hỏi rằng:

“Mau báo đứa nhỏ nay ở đâu

Thân ta nóng bức thiêu đốt khắp

Choáng váng, mê man mất Bản Tâm

Đừng khiến ngực ta, nay rách vỡ”

_Thời vị Đại Thần thứ hai liền đem việc Vương Tử buông xả thân thưa trình đầy đủ cho đức vua biết. Đức vua với Phu Nhân nghe việc ấy xong, chẳng kềm được sự buồn thương uất nghẹn, hướng về nơi đức con buông xả thân, chạy vội tới phía trước, đến chỗ rừng tre, đến đất mà Bồ Tát ấy đã buông xả thân, thấy hài cốt vương vãi, cùng thời ngã xuống đất, choáng váng sắp chết, giống như gió mạnh thổi lật ngược cái cây lớn, Tâm mê đánh mất chính mình, đều không có hay biết.

Lúc đó, các vị Đại Thần đem nước rải khắp lên Đức Vua với phu nhân, rất lâu mới tỉnh lại, giơ tay khóc lóc, than thở rằng:

“Ôi! Hại con yêu (ái tử), tướng đoan nghiêm

Do đâu chết khổ đến ép trước

Nếu ta được chết trước con yêu

Há thấy việc khổ lớn như đây”

Bấy giờ, Phu Nhân đang hôn mê, hơi tỉnh lại, đầu tóc rối tung, hai tay đấm vào ngực, lăn lộn trên mặt đất như con cá ở trên đất bằng, ngư con bò bị lạc mất con, buồn khóc nói rằng:

“Ai mổ cắt con ta?

Còn xương rải trên đất

Ta mất con yêu quý

Lo buồn chẳng chịu nổi

_Khổ thay! Ai giết con?

Gây việc ưu não này

Tâm ta phi Kim Cương (chẳng phải là Kim Cương)

Làm sao chẳng bị vỡ

Trong mộng ta đã thấy

Hai vú đều bị cắt

Răng đều bị rụng xuống

Nay gặp đau khổ lớn

Mộng thấy ba bồ câu

Một bị chim ưng bắt

Nay mất con yêu quý

Tướng ác chẳng hư dối”

_Khi ấy, Đại Vương, Phu Nhân với hai vị Vương Tử, buồn thương kêu khóc, bỏ chuỗi Anh Lạc…rồi cùng với dân chúng thu lấy Xá Lợi di thân của Bồ Tát, đặt trong Tốt Đổ Ba (Stūpa: cái tháp nhiều tầng) để cúng dường.

[ND: Phật Giáo Nepal ghi nhận cái tháp báu thờ Xá Lợi của Bồ Tát được xưng gọi là OṂ  NAMO  BUDDHA. Túc Sinh Truyện thuật lại tích truyện trên, ghi nhận thêm là cái tháp báu ấy có tên là NAMURA (tiếng gọi tắt của câu NAMO BUDDHA có nghĩa là quy mệnh Đức Phật). Tháp Namo Buddha nằm trên một ngọn đồi ở Panauti thuộc lãnh thổ của Nepal. Từ đây, có thể ngắm phong cảnh núi non hùng vĩ của dãy Himalaya].

_Này A Nan Đà! Các ông nên biết đây tức là Xá Lợi của vị Bồ Tát ấy”.

_Lại bảo A Nan Đà: “Ở thời xưa kia, Ta tuy đủ phiền não, tham, sân, si… hay ở trong Địa Ngục, Quỷ đói, Bàng Sinh, năm nẻo tùy theo duyên cứu giúp khiến cho (chúng sinh) được thoát lìa huống chi là lúc này, phiền não đều tận hết, không có tập khí dư sót nữa, hiệu là Thiên Nhân Sư (Śāsta-devamanuṣyāṇāṃ), đủ Nhất Thiết Trí (Sarva-jñā) mà chẳng thể vì tất cả chúng sinh trải qua nhiều kiếp ở trong Địa Ngục với nơi khác… thay họ nhận chịu mọi khổ, khiến cho họ ra khỏi sinh tử, phiền não, luân hồi sao?!… “

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này lần nữa nên nói Tụng là:

“Ta nhớ đời quá khứ

Vô lượng vô số kiếp

Có lúc làm quốc vương

Hoặc lại làm con vua

Thường thực hành Đại Thí

Buông xả thân yêu quý

Nguyện ra khỏi sinh tử

Đến nơi Diệu Bồ Đề

_Xưa kia có nước lớn

Quốc Chủ tên Đại xa (Mahā-ratha)

Vương Tử tên Dũng Mãnh (Mahā-satva)

Thường bố thí, không tiếc

Vương Tử có hai anh

Hiệu Đại Cừ (Mahā-praṇāda), Đại Thiên (Mahā-deva)

Ba người ra ngoài chơi

Dần đi đến núi rừng

Thấy con cọp bị đói

Liền sinh Tâm như vầy

Cọp bị lửa đói đốt

Lại không có gì ăn

Đại Sĩ thấy điều này

Sợ nó sẽ ăn con

Buông xả thân không tiếc

Cứu giúp cho khỏi chết

_Đất đai với các núi

Một thời đều chấn động

Sông, biển đều phun trào

Sóng dữ, nước chảy ngược

Trời đất mất ánh sáng

Mờ tối không nhìn thấy

Cầm thú ở rừng hoang

Bay, chạy mất chỗ ở

_Hai anh sợ chẳng về

Lo lắng sinh buồn khổ

Liền cùng với Thị Tòng (người theo hầu)

Tìm kiếm khắp rừng, đầm

Anh em cùng bàn bạc

Lại đến chốn núi sâu

Nhìn quanh không đâu có

Thấy cọp ở rừng vắng

Cọp mẹ với bảy con

Miệng đều có vấy máu

Còn xương tàn với tóc

Vương vãi trên mặt đất

Lại thấy có máu chảy

Rải rác ở rừng cây

Hai anh nhìn thấy xong

Tâm sinh rất sợ hãi

Choáng váng ngã xuống đất

Hôn mê chẳng biết gì

Thân lấm đầy bụi đất

Sáu tình (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét) đều mất niệm

_Người theo hầu Vương Tử

Khóc lóc, Tâm lo sợ

Rưới nước khiến tỉnh lại

Giơ tay, kêu gào khóc

_Lúc Bồ Tát xả thân

Mẹ hiền ở trong cung

Với năm trăm Cung Nữ

Cùng thọ hưởng Diệu Lạc

Hai vú của Phu Nhân

Đột nhiên tự chảy sữa

Khắp thân như kim chích

Đau khổ chẳng thể yên

Chợt sinh tưởng mất con

Khổ như tim trúng tên (mũi tên)

Liền bạch Đại Vương biết

Bày việc khổ não này

Khóc thương chẳng chịu nổi

Buồn thảm tâu với vua:

“Đại Vương! Nay nên biết

Thiếp sinh khổ não lớn

Hai vú chợt tuôn sữa

Ngăn cấm chẳng theo Tâm

Như kim chích khắp thân

Phiền não muốn vỡ ngực

Thiếp mộng thấy điềm ác

Ắt sẽ mất con yêu (Priya-suta: ái tử)

Nguyện vua cứu mạng thiếp

Biết con còn hay mất

Mộng thấy ba bồ câu

Con nhỏ là con yêu (ái tử)

Chợi bị chim ưng bắt

Buồn thương khó nói đủ

Thiếp chìm trong biển lo

Chẳng lâu chắc sẽ chết

Sợ mạng con chẳng còn

Nguyện mau chóng tìm kiếm

Lại nghe người ngoài nói

Chưa tìm được con nhỏ

Nay ý thiếp chẳng yên

Nguyên vua thương xót thiếp”

_Phu Nhân tâu vua xong

Thân té ngã xuống đất

Đau thương, Tâm mê man

Hôn mê chẳng còn biết

_Cung nữ thấy Phu Nhân

Hôn mê nằm trên đất

Đều cất tiếng khóc lớn

Lo sợ mất chỗ dựa

_Vua nghe nói như vậy

Lo lắng không chịu nổi

Liền sai các Quần Thần

Tìm kiếm con yêu quý

Cùng nhau ra ngoài thành

Truy tìm khắp mọi nơi

Khóc than hỏi mọi người:

“Vương Tử nay ở đâu

Nay còn sống hay chết

Ai biết nơi đã đi

Làm sao khiến ta thấy

Cởi bỏ Tâm thương lo?!…”

_Mọi người truyền cho nhau

Đều nói Vương Tử chết

Người nghe đều thương tiếc

Buồn than khổ khó lường

_Bấy giờ, vua Đại Xa

Khóc thương, liền đứng dậy

Đến chỗ của Phu Nhân

Rưới nước lên thân ấy

Phu Nhân nhờ nước rưới

Lậu sau mới tỉnh dậy

Thương khóc hỏi Đức Vua:

“Nay con thiếp còn chăng?!…”

_Vua bảo Phu Nhân rằng:

“Ta đã sai mọi người

Tìm Vương Tử khắp nơi

Vẫn chưa có tin tức”

_Vua lại bảo Phu Nhân:

“Nàng đừng sinh phiền não

Nên tự an ủi mình

Cùng nhau đi truy tìm”

_Vua cùng với Phu Nhân

Lên xe hướng trước tiến

Tiếng khóc vang thê thảm

Tâm lo như lửa đốt

_Trăm ngàn vạn dân chúng

Theo vua ra khỏi thành

Đều muốn tìm Vương Tử

Tiếng kêu khóc chẳng dứt

_Vua tìm con yêu quý

Mắt nhìn khắp bốn phương

Thấy có một người đến

Tóc rối, thân vấy máu

Khắp thể đầy bụi đất

Khóc thương đi ngược đến

Vua thấy tướng ác này

Sinh ưu phiền gấp bội

_Vua liền giơ hai tay

Thương khóc chẳng kềm nỗi

Có Đại Thần thứ nhất

Vội vã đến gặp vua

Trình tấu Đại Vương rằng:

“Nguyện xin đừng buồn thương

Con yêu quý của vua

Tuy nay chưa tìm được

Chẳng lâu sẽ đi đến

Cởi mối lo của vua”

_Vua lại tiến tới trước

Thấy Đại Thần kế tiếp

Đi đến chỗ của vua

Chảy nước mắt tâu rằng:

“Hai Vương Tử hiện tại

Bị lửa lo ép bức

Vị Vương Tử thứ ba

Đã bị Vô Thường nuốt

Gặp cọp đói mới sinh

Sắp muốn ăn thịt con

Vương Tử Tát Đỏa ấy

Thấy thế khởi Tâm Bi

Nguyện cầu Đạo Vô Thượng

Sẽ độ tất cả chúng

Cột Tưởng Diệu Bồ đề

Rộng lớn sâu như biển

Liền lên đỉnh núi cao

Lao thân trước cọp đói

Cọp yếu chẳng thể ăn

Dùng tre cắt cổ mình

Mới ăn thân Vương Tử

Chỉ còn sót hài cốt”

_Thời vua với Phu Nhân

Nghe xong đều hôn mê

Tâm chìm vào biển lo

Lửa phiền não thiêu đốt

_Đại Thần dùng nước hương (Chiên Đàn Thủy)

Rưới vua với Phu Nhân

Tỉnh lại đều thương khóc

Giơ tay đấm ức ngực

_Đại Thần thứ ba đến

Tâu trình vua như vầy:

“Thần thấy hai Vương Tử

Hôn mê ở trong rừng

Thần dùng nước lạnh rưới

Mới tạm hồi tỉnh lại

Ngó nhìn khắp bốn phương

Như lửa mạnh vòng khắp

Tạm dậy, lại ngã xuống

Thương khóc chẳng kềm nổi

Giơ tay thương xót nói

Khen Em thật hiếm có!

_Vua nghe nói như vậy

Lửa lo lắng tăng thêm

Phu Nhân gào khóc lớn

Cao giọng nói lời này:

“Con nhỏ của ta thương yêu nhất

Đã bị La Sát Vô Thường nuốt

Nay chỉ còn lại hai đứa con

Lại bị lửa lo lắng thiêu đốt

Nay ta mau chóng đến chân núi

An ủi khiến chúng giữ gìn mạng”

_Tức liền lên xe ngóng lối trước

Một lòng đến chỗ con xả thân

Trên đường gặp hai con đang khóc

Đấm ngực, áo não mất dung nghi

Cha Mẹ thấy xong, ôm thương lo

Đều đến núi rừng, nơi xả thân

_Đã đến đất Bồ Tát xả thân

Cùng nhau thương khóc, sinh khổ lớn

Cởi bỏ Anh Lạc, Tâm thương xót

Thu lấy xương tàn của Bồ Tát

Cùng với nhân dân đồng cúng dường

Cùng dựng Tốt Đổ Ba bảy báu”

_Lại bảo a Nan Đà:

“Vị Tát Đỏa thời xưa

Tức là Ta, Mâu Ni (Śākya-muṇi)

Đừng sinh nơi niệm khác

Vua là cha, Tịnh Phạn (Śuddhodana)

Hậu là mẹ, Ma Gia (Mahā-māya)

Thái Tử là Từ Thị (Maitreya)

Thứ: Mạn Thù Thất Lợi (Maṃjuśrī)

Cọp là Đại Thế Chủ (Mahā-prajāpatī)

Năm con: năm Bật Sô

Một là Đại Mục Liên (Mahā-maudgalyāyana)

Một là Xá Lợi Phất (Śāriputra)

_Ta vì các ông nói

Duyện lợi tha xưa kia

Hạnh Bồ Tát như vậy

Nhân thành Phật, nên học

_Khi Bồ Tát xả thân

Phát Hoằng Thệ như vậy

Nguyện xương tàn thân ta

Đời sau lợi chúng sinh

_Đây là nơi xả thân

Tốt Đổ Ba bảy báu

Trải qua vô lượng thời

Mới chìm sâu trong đất

Do sức Bản Nguyện xưa

Tùy duyên dấy tế độ

Vì lời cho người, trời

Từ dưới đất vọt lên”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói nhân duyên của tích xưa này thời vô lượng a tăng xí gia Người, Trời, Đại Chúng đều rất thương cảm, hoan hỷ khen là chưa từng có! Đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.

Lại bảo vị Thần cây: “Ta vì báo ân cho nên đến lễ kính”

Đức Phật thu nhiếp Thần Lực thì Tốt Đổ Ba (cái tháp) ấy quay trở lại ẩn trong lòng đất.


 

MƯỜI PHƯƠNG BỒ TÁT KHEN NGỢI _PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẢY_

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nói Kinh này thời, ở mười phương Thế Giới có vô lượng trăm ngàn vạn ức các Chúng Bồ Tát đều từ cõi nước của mình đến núi Thứu Phong (Gṛdhra-kuṭa), chỗ của Đức Thế Tôn, cúi năm vóc sát đất lễ Đức Thế Tôn xong, một lòng chắp tay, khác miệng đồng âm, khen ngợi rằng:

“Thân Phật màu vàng ròng vi diệu

Ánh sáng chiếu khắp như núi vàng

Thanh tịnh mềm mại như hoa sen

Vô lượng màu tuyệt đẹp nghiêm sức

Ba mươi hai tướng trang nghiêm khắp

Tám mươi vẻ đẹp đều tròn đủ

Ánh sáng chói lọi không gì bằng

Lìa dơ giống như trăng tròn sạch

_Tiếng trong trẻo thật là vi diệu

Như sư tử rống, tiếng sấm nổ

Tám loại vi diệu ứng Quần Cơ (vạn vật)

Hơn hẳn nhóm Ca Lăng Tần Già (Kalaviṅka)

_Diệu tướng trăm Phước, nghiêm dung mạo

Ánh sáng thanh tịnh, không vết bẩn

Trí Tuệ lặng trong như biển lớn

Công Đức rộng lớn như hư không

_Hào quang tràn khắp mười phương giới

Tùy duyên cứu khắp các hữu tình

Phiền não, Ái nhiễm đều trừ hết

Luôn thắp đuốc Pháp chẳng hề tắt

_Thương xót, lợi ích các chúng sinh

Hiện tại, vị lai hay ban vui

Thường vì họ nói Đệ Nhất Nghĩa (Paramārtha)

Khiến chứng Niết Bàn, chân tịch tĩnh

_Phật nói Pháp Cam Lộ thù thắng

Cho nghĩa vi diệu của Cam Lộ

Dẫn vào thành Niết Bàn Cam Lộ

Hưởng niềm vui Cam Lộ, Vô Vi

_Thường ở trong biển lớn sinh tử

Giải thoát khổ cho các chúng sinh

Khiến họ hay trụ đường an ổn

Luôn cho vui như ý khó bàn

_Biển Đức Như Lai rất sâu rộng

Chẳng phải nơi thí dụ hay biết

Ở Chúng thường khởi Tâm Đại Bi

Phương tiện siêng năng, luôn chẳng nghỉ

_Biển Trí Như Lai không bờ mé

Tất cả người, Trời cùng đo lường

Giả sử trong trăm ngàn vạn kiếp

Chẳng thể biết được chút ít phần

_Nay con lược khen Công Đức Phật

Ở trong biển Đức chỉ một giọt

Đem nhóm Phước này cho quần sinh

Đều nguyện mau chứng quả Bồ Đề”

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo các Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông khéo hay khen Công Đức của Phật như vậy, lợi ích cho hữu tình, rộng hưng vượng Phật Sự, hay diệt các tội, sinh vô lượng Phước”.


 

DIỆU TRÀNG BỒ TÁT KHEN NGỢI _PHẨM THỨ HAI MƯƠI TÁM_

Bấy giờ, Diệu Tràng Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, rồi nói Tán rằng:

“_Mâu Ni viên mãn tướng trăm Phước Vô lượng công Đức trang nghiêm thân

Thanh tịnh rộng lớn, người thích nhìn

Giống như ngàn mặt trời chiếu sáng

Màu lửa vô biên sáng rực rỡ

Như nhóm Diệu Bảo, tướng đoan nghiêm

Như mặt trời mọc chiếu hư không

Hồng, trắng rõ ràng xen vàng rực

Như ánh sáng núi vàng chiếu khắp

Đều hay vòng khắp trăm ngàn cõi

Diệt vô lượng khổ của chúng sinh

Ban cho vô biên vui thắng diệu

Các tướng đầy đủ, đều nghiêm tịnh

Chúng sinh thích nhìn không biết chán

Đầu tóc mềm mại màu xanh biếc

Giống như ong đen (hắc phong) gom diệu hoa

_Đại Hỷ, Đại Xả, Tịnh trang nghiêm

Đại Từ, Đại Bi đều đầy đủ

Mọi tướng tốt đẹp làm nghiêm sức

Nơi thành của Pháp Bồ Đề Phần (Bodhyaṅga)

_Như Lai hay cho Chúng phước lợi

Khiến họ thường được an vui lớn

Mọi loại Diệu Đức cùng trang nghiêm

Ánh sáng chiếu khắp ngàn vạn cõi

_Hào quang Như Lai rất tròn đầy

Như mặt trời hồng khắp hư không

Phật như Tu Di (Sumeru) đủ Công Đức

Hiện bày hay vòng khắp mười phương

_Kim Khẩu Như Lai diệu đoan nghiêm

Răng trắng khít đều như Kha Tuyết

Diện mạo Như Lai không ai bằng

Tam tinh: Hào Tướng (Ūrṇa: sợi lông trắng) xoay bên phải

Ánh sáng trắng tươi như Pha Lê

Giống như trăng tròn ở hư không”

Đức Phật bảo Diệu Tràng Bồ Tát: “Ông hay khen ngợi Công Đức chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật như vậy, lợi ích cho tất cả, khiến người chưa biết tùy thuận tu học”


 

THẦN CÂY BỒ ĐỀ KHEN NGỢI _PHẨM THỨ HAI MƯƠI CHÍN_

Bấy giờ, Thần cây Bồ Đề cũng dùng Già Tha (Kệ Tụng) khen Đức Thế Tôn là:

“Kính lễ Tuệ thanh tịnh của Phật (Tathāgata: Như Lai)

Kính lễ Tuệ thường cầu Chính Pháp

Kính lễ Tuệ hay lìa Phi Pháp

Kính lễ Tuệ luôn không phân biệt

Hiếm có Hạnh vô biên của Phật (Bhagavaṃ: Thế Tôn)

Hiếm có hoa Ưu Đàm (Udumbara) khó thấy

Hiếm có như biển trấn Sơn Vương

Hiếm có Thiện Thệ Quang (ánh sáng của đấng Thiện Thệ) vô lượng

Hiếm có Từ Nguyện lớn của Phật (Damya-sārathi: Điều Ngự)

Hiếm có Thích Chủng (Śākya-kula: dòng tộc Thích Ca) sáng hơn Nhật (Sūrya: mặt trời)

Hay nói báu trong Kinh như vậy

Thương xót, lợi ích các quần sinh

Mâu Ni (Muṇi) vắng lặng, các Căn định

Hay vào thành Niết Bàn vắng lặng

Hay trụ Môn Tịch Tĩnh Đẳng Trì 

Biết cảnh giới thâm sâu vắng lặng

Lưỡng Túc Trung Tôn (Dvipadottama) trụ Không Tịch (Śūnyatā: Tính trống rỗng)

Thân Thanh Văn Đệ Tử cũng Không (Śūnya: trống rỗng)

Thể Tính (Prakṛtya) tất cả Pháp đều Không

Tất cả chúng sinh đều Không Tịch (trạng thái vắng lặng của sự xa lìa các Pháp Tướng)

_Con thường nghĩ nhớ đến chư Phật

Con thường thích thấy các Thế Tôn

Con thường phát khởi Tâm ân trọng

Thường được gặp mặt trời Như Lai

_Con thường đỉnh lễ Đức Thế Tôn

Nguyện thường chẳng buông Tâm khát ngưỡng

Buồn khóc tuôn lệ không gián đoạn

Thường được phụng sự chẳng biết chán

_Nguyện xin Thế Tôn khởi Tâm Bi

Khiến con thường thấy vẻ mặt hiền (Saumya-rūpaṃ:hình sắc cực tốt lành)

Phật với chúng Thanh Văn thanh tịnh

Nguyện thường cứu giúp khắp người, Trời

_Thân Phật vốn tịnh như hư không

Như lửa huyễn hóa, trăng trong nước

Nguyện nói Pháp Niết Bàn Cam Lộ

Hay sinh tất cả nhóm Công Đức

_Mọi cảnh giới Tịnh của Thế Tôn

Từ Bi, Chính Hạnh khó nghĩ bàn

Thanh Văn, Độc Giác chẳng lường nổi

Đại Tiên, Bồ Tát chẳng thể đo

_Nguyện xin Như Lai thương xót con

Thường khiến nhìn thấy Thân Đại Bi

Ba nghiệp không mệt, phụng Từ Tôn

Mau rời sinh tử, về Chân Tế (địa vị chân thật)” 

Khi ấy, Đức Thế Tôn nghe Tán này xong, dùng Phạm Âm (Brahmasvara) bảo vị Thần cây rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nữ Thiên! Ngươi hay đối với Pháp Thân thanh tịnh, chân thật không hư dối của Ta, lợi mình lợi người tuyên dướng tướng màu nhiệm. Do Công Đức này khiến cho ngươi mau chứng Bồ Đế tối thượng, điều mà tất cả hữu tình đã đồng tu tập. Nếu người được nghe, đều nhập vào Pháp Môn Cam Lộ Vô Sinh


 

ĐẠI BIỆN TÀI THIÊN NỮ KHEN NGỢI _PHẨM THỨ BA MƯƠI_

Bấy giờ, Đại Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvatī-devī) liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, dùng ngôn từ ngay thẳng, khen Đức Thế Tôn rằng:

“Nam mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác

Thân màu vàng ròng

Họng (cổ họng) như vỏ ốc (loa bối)

Mặt như trăng đầy

Mắt như sen xanh

Môi miệng đỏ đẹp

Như màu Pha Lê

Mũi cao ngay thẳng Như cắt thoi vàng

Răng trắng khít đều

Như hoa Câu Vật Đầu (Kumuda)

Thân sáng chiếu khắp

Như ngàn mặt trời

Màu ánh sáng chiếu

Như vàng Thiệm Bộ

Điều đã nói ra

Không có sai lầm

Bày ba Môn Giải Thoát

Mở ba đường Bồ Đề

Tâm thường thanh tịnh

Ý thích cũng thế

Nơi Phật đã trụ

Với cảnh đã hành

Cũng thường thanh tịnh

Lìa chẳng uy nghi

Độ chúng sinh khổ

Khiến về bờ kia (bờ giải thoát)

Thân tướng viên mãn

Như cây Câu Đà 

Huân tu sáu Độ (6 Ba La Mật)

Ba nghiệp không mất

Hết thảy tuyên thuyết

Thường vì chúng sinh

Nói chẳng hư dối

Ở trong Thích Chủng (Śākya-kula)

Làm Sư Tử lớn

Dũng mãnh bền chắc

Đủ tám Giải Thoát

_Nay con tùy sức

Khen ngợi Như Lai

Chút phần Công Đức

Giống như con muỗi

Uống nước biển lớn

Nguyện đem Phước này

Rộng với hữu tình

Lìa hẳn sinh tử Thành Vô Thượng Đạo” Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Biện Tài Thiên rằng: “Lành thay! Lành thay! Ngươi tu tập đã lâu, đủ Đại Biện Tài. Nay lại đối với Ta rộng bày khen ngợi, khiến cho ngươi mau chứng Pháp Môn vô thượng, tướng tốt tròn sáng, kợi khắp tất cả”


 

PHÓ CHÚC _PHẨM THỨ BA MƯƠI MỐT_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo khắp vô lượng Bồ Tát với cá người, Trời, tất cả Đại Chúng: “Các ngươi nên biết, Ta ở vô lượng vô số kiếp siêng tu Khổ Hạnh, được Pháp thâm sâu, Nhân chính đúng của Bồ Đề… đã vì ngươi nói. Các ngươi, ai hay phát Tâm dũng mãnh cung kính thủ hộ, sau khi Ta vào Niết Bàn, đối với Pháp Môn này rông tuyên lưu bày, hay khiến cho Chính Pháp trụ lâu ở Thế Gian”

Khi ấy, trong Chúng có sáu mươi câu chi các Đại Bồ Tát, sáu mươi câu chi chư Thiên Đại Chúng… khác miệng đồng âm nói lời như vầy: “Thế Tôn! Chúng con đều có Tâm mừng vui, đối với Nhân chính đúng của Bồ Đề, Pháp vi diệu thâm sâu mà Đức Phật Thế Tôn ở vô lượng Đại Kiếp siêng tu Khổ Hạnh đạt được… đều cung kính hộ trì chẳng tiếc thân mạng. Sau khi Đức Phật vào Niết Bàn, đối với Pháp Môn này sẽ rộng tuyên lưu bày, sẽ khiến cho Chính Pháp trụ lâu dài ở Thế Giaṅ

_Lúc đó, các Đại Bồ Tát liền ở trước mặt Đức Phật, nói Già Tha (Kệ Tụng) là:

“_Thế Tôn nói chân thật

An trụ ở Pháp thật

Do chân thật ấy nên

Hộ trì nơi Kinh này

_Đại Bi làm giáp trụ

An trụ ở Đại Từ

Do sức Từ Bi ấy

Hộ trì nơi Kinh này

_Phước tư lương (Puṇya-sambhāra) viên mãn

Sinh khởi Trí tư lương (Jñāna-sambhāra)

Do đủ tư lương (Saṃbhāra) nên

Hộ trì nơi Kinh này

_Giáng phục tất cả ma (Mārā)

Phá diệt các Tà Luận

Đoạn trừ Ác Kiến nên

Hộ trì nơi Kinh này

_Hộ Thế và Thích, Phạm

Cho đến A Tô La

Hàng Rồng, Thần, Dược Xoa

Hộ trì nơi Kinh này

_Trên đất với hư không

Trụ lâu ở nơi này

Phụng trì Phật Giáo nên

Hộ trì nơi Kinh này

_Bốn Phạm Trú tương ứng

Bốn Thánh Đế nghiêm sức

Giáng phục bốn Ma nên

Hộ trì nơi Kinh này

_Hư không thành chất ngại

Chất ngại thành hư không

Nơi chư Phật hộ trì

Không có thể nghiêng động”

_Bấy giờ, bốn Đại Thiên Vương nghe Đức Phật nói hộ trì Diệu Pháp này, đều sinh Tâm tùy vui ủng hộ Chính Pháp, một lúc đồng thanh nói Già Tha (Kệ Tụng) rằng:

“Con đối với Kinh này

Với nam nữ quyến thuộc

Đều một lòng ủng hộ

Khiến được rộng lưu thông

Nếu có người trì Kinh

Hay làm Nhân Bồ Đề

Con thường ở bốn phương

Ủng hộ mà thừa sự”

_Khi ấy, Thiên Đế Thích chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Chư Phật chứng Pháp này

Vì muốn báo ân nên

Nhiêu ích chúng Bồ Tát

Ra đời diễn Kinh này

Con đối với chư Phật

Báo ân thường cúng dường

Hộ trì Kinh như vậy

Cùng với người trì Kinh”

_Lúc đó, Đổ Sử Đa Thiên Tử chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Phật nói Kinh như vậy

Nếu có người hay trì

Sẽ trụ Bồ Đề Vị

Sinh lên Đổ Sử Thiên

Thế Tôn! Con vui thích

Buông quả báo cõi Trời

Trụ ở Thiệm Bộ Châu

Tuyên dương Kinh Điển này’

_Bấy giờ, Sách Ha Thế Giới Chủ Phạm Thiên Vương chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Các Tĩnh Lự (Dhyāna: Thiền Định) vô lượng

Các Thừa (Yāna) với Giải Thoát (Vimukti)

Đều từ Kinh này ra

Thế nên diễn Kinh này

Hoặc nơi nói Kinh này

Cũng thường làm ủng hộ”

_Khi ấy, con của Ma Vương tên là Thương Chủ chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Nếu có người thọ trì

Nghĩa chính tương ứng Kinh

Chẳng tùy chỗ Ma hành

Tĩnh trừ nghiệp Ma ác

Con đối với Kinh này

Cũng sẽ siêng thủ hộ

Phát ý đại tinh tiến

Tùy nơi, rộng lưu thông”

_Lúc đó, Ma Vương chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Nếu có trì Kinh này

Hay giáng phục phiền não

Loại chúng sinh như vậy

Ủng hộ khiến an vui

Nếu có nói Kinh này

Các Ma chẳng thuận tiện

Do Uy Thần của Phật

Con ủng hộ người ấy”

_Bấy giờ, Diệu Cát Tường Thiên Tử ở trước mặt Đức Phật, nói Già Tha là:

“Chư Phật, Diệu Bồ Đề

Ở trong Kinh này nói

Nếu người trì Kinh này

Là cúng dường Như Lai

Con sẽ trì Kinh này

Vì câu chi Thiên nói

Người cung kính lắng nghe

Khuyên đến chốn Bồ Đề”

_Khi ấy, Từ Thị Bồ Tát chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Nếu thấy trụ Bồ Đề

Cùng làm bạn chẳng thỉnh

Cho đến bỏ thân mạng

Hộ giữ Kinh Vương này

Con nghe Pháp như vậy

Sẽ về Đổ Sử Thiên

Do Thế Tôn gia hộ

Rộng vì người, Trời nói”

_Lúc đó, Thượng Tọa Đại Ca Diếp Ba (Mahā-kāśyapa) chắp tay cung kính, nói Già Tha là:

“Phật ở Thanh Văn Thừa

Nói con ít Trí Tuệ

Nay con tùy sức mình

Hộ trì Kinh như vậy

Nếu có trì Kinh này

Con nhiếp nhận người ấy

Truyền sức Từ Biện (biện luận hay khéo) ấy

Thường tùy khen lành thay

_Bấy giờ, Cụ Thọ A Nan Đà (Ānanda) chắp tay hướng về Đức Phật, nói Già Tha là:

“Thân con theo Phật nghe

Vô lượng mọi Kinh Điển

Chưa từng nghe như vậy

Vua trong Pháp thâm diệu

Nay con nghe Kinh này

Đích thân nhận trước Phật

Các người thích Bồ Đề

Vì họ rộng tuyên thông”

Khi ấy, Đức Thế Tôn thấy các Bồ Tát, Người, Trời, Đại Chúng mỗi mỗi đều phát Tâm đối với Kinh Điển này lưu thông, ủng hộ, khuyên tiến Bồ Tát, rộng lợi chúng sinh, nên khen rằng: “Các ngươi hay đối với Kinh Vương vi diệu như vậy, chân thành lưu bày, cho đến sau khi Ta Bát Niết Bàn (vào Niết Bàn) chẳng khiến cho tan diệt, tức là Nhân chính đúng của Vô Thượng Bồ Đề, Công Đức đạt được ở hằng hà sa kiếp, nói chẳng thể hết.

Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca với kẻ trai lành, người nữ thiện khác… cúng dường, cung kính, viết chép, lưu thông, vì người giải nói thì Công Đức đạt được cũng lại như vậy. Thế nên, các ngươi nên siêng năng tu tập”

_Bấy giờ, vô lượng vô biên hằng sa Đại Chúng nghe Đức Phật nói xong, đều rất vui vẻ, tin nhận, phụng hành.

 

KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH

_QUYỂN THỨ MƯỜI (Hết)_

Dịch xong một Bộ gồm 10 quyển vào ngày 01/11/2014


 

MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH PHÁP, TƯỢNG PHẬT

1_ Những nghiệp chướng lỗi lầm từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ

2_ Thường được các vị Thiện Thần ủng hộ. Tránh được tất cả tai ương, hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa. trộm cướp, đao binh, ngục tù.

3_ Vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán thù oan trái của đời trước cũng như đời này.

4_ Các vị Hộ Pháp, Thiện Thần thường gia hộ nên những loài Dạ Xoa, Quỷ ác, rắn độc, cọp, beo tránh xa không dám hãm hại.

5_ Tâm được an vui, ban ngày không gặp việc nguy hiểm, ban đêm không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ, an lành, việc làm thuận lợi được kết quả tốt.

6_ Chí thành hộ Pháp, tâm không cầu lợi, tự  nhiên quần áo đầy đủ, gia đình hoà thuận, phước lộc đời đời.

7_ Lời nói, việc làm đều được Người, Trời hoan hỷ. Đi đến đâu cũng được mọi người kính mến khen ngợi.

8_ Ngu mê chuyển thành Trí Tuệ, bệnh lành, mạnh khoẻ, nghèo túng chuyển thành thịnh đạt. Nhàm chán thân nữ, đời sau sẽ được thân nam.

9_ Vĩnh viễn xa lìa đường ác, sinh vào cõi Trời, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.

10_ Hay vì tất cả chúng sinh gieo trồng căn lành. Lấy tâm mong cầu của chúng sinh làm ruộng Phước cho mình. Nhờ công đức ấy nên đạt được vô lượng quả Phước thù thắng. Sinh ra nơi nào cũng được thấy Phật, nghe Pháp, Phước Tuệ rộng lớn, chứng đạt sáu Thông, sớm thành Phật Quả.

Ấn Quang Tổ Sư dạy rằng: “Ấn tống Kinh Pháp, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên nhân dịp có lễ chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát được hiểm nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, cầu tiêu trừ nghiệp chướng… Hãy dũng mãnh phát Tâm Bồ Đề, ấn tống Kinh Pháp để trồng cội Phước Đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc…”

***

KỆ HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này
Tiêu trừ nghiệp xưa nay
Tăng trưởng các Phước Tuệ
Viên thành căn thắng thiện
Bao nhiêu kiếp đao binh
Cùng với nạn đói khát
Đều diệt sạch không còn
Nhân danh tập lễ tán
Tất cả giúp thành người
Người xoay chuyển lưu thông
Quyến thuộc nay an lạc
Tiên vong được siêu thăng
Mưa gió thường thuận hòa
Nhân dân đều khang ninh
Pháp Giới các hàm thức
Đồng chứng Đạo Vô Thượng.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10