KIM CƯƠNG ĐỈNH DU GIÀ
THA HÓA TỰ TẠI THIÊN LÝ THÚ HỘI
PHỔ HIỀN TU HÀNH NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

Hán dịch: Đời Đường_Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh Tam Tạng Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch.
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Ta dùng ba Nghiệp tịnh

Vì lợi các chúng sinh

Khiến cho được ba Thân

Quy mệnh lễ Tam Bảo

 

Thân ngữ ý Kim Cương

Tràn khắp trong sinh tử

Bí Mật Kim Cương Giới

Đại Bi Y Hộ Giả

Hùng Mãnh A Súc Bệ (Akṣobhya: Bất Động Phật)

Tối Thắng Bảo Sinh Tôn (Ratna-saṃbhava: Bảo Sinh Phật)

Đại Bi A Di Đà (Amitāyus:Vô Lượng Thọ Phật)

Thành Tựu Bất Không Nghiệp (Amogha-sidhhi: Bất Không Thành Tựu Phật)

Các Tôn vô thượng này

Con đều cúi đầu lễ

 

Với Tát Đỏa Kim Cương (Satva-vajra)

Giáng phục ở tất cả

Thắng Thượng Hư Không Tạng (Ākāśa-garbha)

Hay trao các Quán Đỉnh

Cứu Thế Quán Tự Tại (Avalokiteśsvara)

Hiển Tam Muội Du Già

Xảo Tỳ Thủ Yết Ma (Viśva-karma)

Khéo làm phương tiện Mật

Các Thánh Tôn như trên

Con đều cúi đầu lễ.

 

_Người tu hành Pháp này

Thường trụ Bản Tôn Quán

Bước đạp trên hoa sen

Đến ở cửa Tinh Thất

Búng tay, ba xưng (xưng ba lần) Hồng (HŪṂ)

Mắt phải để chữ Ma (MA)

Mắt trái để chữ Tra (T)

Phải: mặt trời, trái: trăng

Lưu tán ánh Kim Cương

Vào cửa rồi ngoái nhìn

Dùng Kim Cương Quyền trái

Ngay tim dựng ngón trỏ

Tay phải cũng như vậy

Trên đỉnh chuyển ba vòng

Chỉ Không với Hạ Giới

 

_Tiếp chuyển vòng theo phải

Đều tụng Minh chữ Hồng (HŪṂ)

Tiếp nghĩ Phật thường trụ

Đến lễ Tam Bảo xong

Mới tụng Thanh Tịnh Minh Hai tay, sen chưa nở

Gia tim, trán, họng, đỉnh

“Án, toa phộc bà phộc truật đạc, tát phộc đạt mạt toa phộc bà phộc, thú độ hám”

 

Mật nghĩa Minh này là:

“Các Pháp tự tính tinh

Ta cũng tự tính tịnh”

Do gia trì đó nên

Ta người đều không dơ (vô cấu)

Liền ở trong tim mình

Quán Tính thành Kim Cương

Ba nghiệp dùng chuyển y

Thành ba môn bí mật

 

_Tiếp tác Phát Ngộ Khế

Hai quyền móc Đàn Tuệ (2 ngón út)

Tiến Lực (2 ngón trỏ) cùng trụ cạnh Rồi nâng như thế móc Tụng Bí Mật Ngôn này:

“Án, phộc nhật-lộ để sắt-tra”

 

Do Chân Ngữ Ấn này gia trì

Chư Phật chẳng tham vị vắng lặng

Đều từ Đỉnh khởi đến tập hội

Quán sát người hành, cùng nhiếp thọ

 

_Tiếp kết Kim Cương Trì Đại Ấn

Đàn Tuệ (2 ngón út) Thiền Trí (2 ngón cái) cài ngược nhau

Gối phải sát đất, để trên đỉnh

Tưởng thân tràn khắp trần sát hải

Kính lễ chân mỗi một Như Lai

Chân Ngôn là;

“Án, phộc nhật-la hốt”

 

Do Kim Cương Trì Ấn này nên

Tất cả Chính Giác đều tùy thuận.

 

_Vì muốn phụng sự các Như Lai

Xả thân phụng hiến A Súc Phật

Kim Cương Hợp Chưởng duỗi trên đỉnh Toàn thân sát đất dùng tim lễ Chân Ngôn là:

“Án, tát phộc đát tha nghiệt đá bố nho ba sa-tha na dạ đát-ma nam, nễ lý-dạ đa dạ nhĩ , tát phộc đát tha nga đa, phộc nhật-la tát đỏa địa sắt-tra toa-phộc hàm hồng”

 

Do Chân Ngôn Thân Ấn này nên

Liền được viên mãn Tâm Bồ Đề

 

 

_Tiếp nên kính lễ Bảo Sinh Tôn

Vì phụng Quán Đỉnh, thừa sự nên

Kim Cương Hợp Chưởng xuống ngang tim Để trán sát đất mà phụng hiến Chân Ngôn là:

“Án, tát phộc đát tha nghiệt đa bố nhạ tỳ sái ca dạ đát-ma nam, nễ lý-dạ đa dạ nhĩ, tát phộc đát tha nghiệt đa, phộc nhật-la la đát-na tỳ săn tả hàm, đát-lạc”

 

Do xả thân cúng dường này nên

Liền được Quán Đỉnh Pháp Vương Vị

 

_Vì muốn cầu thỉnh chuyển Pháp Luân

Xả thân cúng dường Vô Lượng Thọ (Amitāyus)

Kim Cương Hợp Chưởng để trên đỉnh Để miệng sát đất, dâng thân ấy Chân Ngôn là:

“Án, tát phộc đát tha nghiệt đá bố nhạ, bát-la mạt đa na dạ đát-ma nam, nễ lý-dạ đa dạ nhĩ , tát phộc đát tha nghiệt đa phộc nhật-la đạt ma, bát-la mạt đá dã, hàm, hột-lý”

 

Do Chân Ngôn cầu thỉnh này nên

Liền được Trí chuyển Diệu Pháp Luân

 

_Tiếp nên kính lễ Bất Không Vương

Vì cầu cúng dường Yết Ma nên

Kim Cương Hợp Chưởng để trên tim Để đỉnh sát đất mà cầu thỉnh Chân Ngôn là:

“Án, tát phộc đát tha nghiệt đa bố nhạ yết ma nê, a đát-ma nam, nễ lý-dạ đa dạ nhĩ, tát phộc đát tha nghiệt đa phộc nhật-la yết ma, cú lỗ hàm, ác”

 

Do hiến thân thành thỉnh đó nên

Liền hay thị hiện mọi loại thân

 

_Tiếp tưởng thân mình trước Phật Hải

Sám Hối, tùy thời, khuyến thỉnh, hướng (hồi hướng)

 

Như vậy kèm y lược Du Già

Liền vào Bản Tôn Tam Muội Gia

Kiết Già, thẳng thân vào Chính Thọ

Bốn tâm vô lượng, tận Pháp Giới

Tu tập vận dụng như Pháp Giáo

 

.)Đại Từ Chân Ngôn là:

“Án, ma ha muội đát-lệ, sa-phả la”

 

Lúc tụng Chân Ngôn đó

Diễn tâm khắp ba cõi (tam giới)

Thí khắp chúng sinh vui

 

.)Đại Bi Chân Ngôn là:

“Án, ma ha ca lỗ noa, sa-phả la”

 

Lúc tụng Chân Ngôn đó

Tâm tràn chúng sinh giới

Phổ Môn làm cứu giúp

 

.)Đại Hỷ Chân Ngôn là:

“Án, tát phộc truật đà bát-la mô na, sa-phả la”

 

Tùy loại giúp cứu xong

Dùng Minh này gia trì

Tất cả loài hữu tình

Đều trao cho Bồ Đề

Như vậy lợi lạc xong

Mới quy Pháp Giới Tính

 

.)Đại Xả Chân Ngôn là:

“Án, ma hộ bế xoa, sa-phả la”

 

Lúc niệm Chân Ngôn đó

Tâm trụ ở bình đẳng

Chẳng thấy có Ta, Người

Chỉ một Tính Tướng này

Tức là Tính Phổ Hiền

Tâm của Đại Bồ Đề.

 

_Tiếp, hai tay xoay múa, tác Kim Cương Hợp Chưởng Ấn, cùng giao phần đầu của mười ngón tay. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-lan, nhạ lý”

 

_Dùng Ấn này liền cột buộc bền chắc (kiên cố phộc), gọi là Thắng Thượng Kim Cương Phộc. Tất cả Khế đều từ đây sinh. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la mãn đà”

 

 

_Liền đem Thiền Trí (2 ngón cái) vào mãn nguyệt (lòng bàn tay), Tiến Lực (2 ngón trỏ) trụ lưng ấy, gọi là Kim Cương Quyền Đại Tam Ma Gia Ấn. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la mẫu sắt-chi, hàm”

 

 

_Tiếp chia làm hai, tác Bản Tôn Tam Ma Gia Khế. Chân Ngôn là: Hộc , phộc nhật-la tát đỏa, tố la đá tát-đát-tông

 

Vừa kết Bản Thệ Ấn Chân Ngôn

Thân ở Nhật Luân (vành mặt trời) đồng Bản Tôn

 

_Tiếp trình Duyệt Hỷ Tam Ma Gia

Hay khiến chúng Thánh đều hoan lạc

Phộc Ấn, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) Giới (ngón vô danh) mãn nguyệt (lòng bàn tay)

Đàn Tuệ (2 ngón út) Thiền Trí (2 ngón cái) cùng hợp dựng Chân Ngôn là:

“Án, tam ma gia, cốc, tố la đát, tát-đát-tông

 

 

_Tiếp nên mở cửa tim

Quán ở trên hai vú

Phải Đát la, trái Tra 

Ba kéo (3 lần kéo mở) Kim Cương Phộc Ngay tim như mở cửa Chân Ngôn là:

“Án, Phộc nhật-la, mãn đà, đát-la tra”

 

 

_Quán trước mặt một khuỷu

Chữ Ác màu sáng trắng

Thiền Trí (2 ngón cái) vào nguyệt chưởng (lòng bàn tay)

Đem hai độ Tiến Lực (2 ngón trỏ)

Vịn, tự an trong tim Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la phệ xá, ác”

 

 

_Dùng Quyền Ấn Minh trước

Che đóng cửa điện tim

Đóng kín cửa tim xong

Chia hai ngay trước tim

Xưng Hồng (HŪṂ), nâng hữu hư (nâng bên phải thở ra)

Tiếp Hồng (HŪṂ), nâng đồng tả (bên trái)

Ba Hồng cùng móc kết

Hồng Phát (HŪṂ PHAṬ) duỗi Tiến Lực (2 ngón trỏ)

Chuyển trái, lãnh Tịch Trừ

Xoay phải thành Kết Giới

 

Lúc muốn tác Pháp này

Trong trụ Tâm Đại Bi

Ngoài bày đại uy nộ

Bốn mặt dựng nanh bén

Tám tay cầm lợi giới (khí giới bén nhọn)

Khắp thân phát lửa mạnh

Tác tướng quát hét lớn

Chúng Mật Tích Kim Cương

Thọ giáo rồi đứng hầu

 

_Tiếp kết Liên Hoa Tam Muội Gia

Bản Phộc, dựng Đàn Tuệ (2 ngón út) Thiền Trí (2 ngón cái)

Do Chân Ngôn Mật Ấn này nên

Tu tập Tam Muội mau hiện tiền

“Án, phộc nhật-la, bát na-ma, tam ma gia, tát-đát-phạm”

 

 

_Tiếp trừ tâm chuyển bên

Khiến quy Bình Đẳng Trí

Ấn trước, giao Đàn Tuệ (2 ngón út)

Chữ cuối của Chân Ngôn Liền kéo Mật Ấn mở Chân Ngôn là:

“Hồng, trích chỉ tát-bố tra dã, ma ha vĩ la nga, phộc nhật-lam, phộc nhật-la đà la, tát đế-na tra”

 

 

_Vừa tác Minh Ấn này Nhị Thừa phát Bi cứu

Phàm phu vào cõi Phật

Phật ra, độ chúng sinh

Đều do gia trì đó Đắc được tâm Phổ Hiền Chân Ngôn là:

“Án, tố la đá, phộc nhật-lam, nhược, hồng, hàm, cốc_ Án, ma ha tốc khư, phộc nhật-lam toa đà dã, tát phộc tát để-phệ biều, nhược, hồng, hàm, cốc”

Do Chân Ngôn đó nên

Đều trụ Tâm Đại Bi

Thánh Phàm đồng thích nhận

Tên là Đại Phàm Nhị

 

_Tiếp triệu từ vô thủy

Nghiệp đã sinh vọng kiến

Phộc, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như kim

Dạng tội như hình Quỷ

Ngược Ấn hướng tim triệu

Tụng lời thành thật này

“Án, tát phộc bá bả, yết sái noa, vĩ thú đà na, tam ma dã phộc nhật-la, hồng nhược”

 

Do ba Mật Môn đó

Gom hết nghiệp ta người

Xưng Hồng (HŪṂ) Tiến Lực (2 ngón trỏ) trụ

Sách (sợi dây) dẫn vào chưởng

 

_Tụng Hàm (VAṂ) Nội tương xoa (Nội Phộc, cài chéo các ngón bên trong)

Duỗi Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như phướng

Bày chữ Đát La, Tra

Quán thành chày Kim Cương

Cùng vỗ như phá núi

Câu cáu giận, hình giận

Hay tịnh các nẻo ác

Tụng MInh, vỗ Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) Hoặc ba, hoặc bảy biến Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la bá nê, vĩ tắc-bố tra dã – Tát phộc bá gia mãn đà na nễ, bát-la mô xoa dã- Tát phộc bá gia nghiệt đế tỳ-dược, tát phộc tát đát-vãn, tát phộc đát tha nghiệt đá, phộc nhật-la tam ma dã, hồng đát-la-tra”

 

Do Pháp tương ứng này

Ba nghiệp đã gom tội

Chướng cực nặng vô thủy

Tác đây, tồi hoại xong

Giống như Kiếp Hỏa đốt

Nhóm cỏ khô, hạt mè…

Như Lai Đại Bi nên

Mở Môn Cực Bí (rất bí mật) này

 

_Tiếp kết Bí Mật Ấn

Tán hoại Nhhiệp Chướng Luân (vòng xoay của nghiệp chướng)

Mà thành sự nghiệp Phật

Kim Cương Án Nhạ Lý (VAJRA-AṂJĀLI:Kim Cương Chưởng)

Co Tiến Lực (2 ngón trỏ) hợp lưng

Thiền Trí (2 ngón cái) đè cạnh ấy (cạnh ngón trỏ) Chân Ngôn là:

“Án, Phộc nhật-la yết ma, vĩ thú đà na, tát phộc phộc la noa nễ, một đà tát đế na, hồng”

 

_Vì muốn hiển phát Tự Tính nên

Nên dùng Liên Hoa Tam Muội Ấn

Để bên trái đầu, tụng Minh này

“Án, tán đốt-lộ đa lệ, tam mạn đá bạt nại-la kế la nê, ma ha phộc nhật-lý nê, hồng”

 

Do Pháp này gia trì

Ba độc đều tiêu hết

Tự Tâm, Đại Bồ Đề

Ngay đó liền thành tựu

 

_Tiếp vào Diệu Quán Sát Trí Định

Phộc Ấn ngửa để trên Già Phu

Tiến Lực (2 ngón trỏ) chung lưng dựng hợp đầu

Thiền Trí (2 ngón cái) cùng trụ đè Tiến Lực (2 ngón trỏ)

Đây tên Quán Tự Tại Vương Ấn

Ngồi ngay ngắn thân không lay động

Lưỡi trụ vòm họng, hợp môi răng

Tâm trụ Đại Không không phân biệt

Phật tràn hư không đến cảnh giác

Bảo rằng: “Ngươi chứng một Đạo Tịnh

Chưa chứng Kim Cương Du Già Định”

Liền ở trong Định lễ chân Phật

Văn khác rộng y theo Kinh Du Già đã nói. Tụng Chân Ngôn đó, trước tiên chữ Ác (珆- AḤ) ở bên trong trái tim, từ chữ tuôn ra vô lượng ánh sáng đỏ, chuyển xoay theo bên phải thành mặt trời. Chân Ngôn là: “Án, chất đa bát-la để phệ năng ca lỗ nhĩ”

 

Do Chân Ngôn đó gia trì cho nên trái tim của mình như mặt trời

 

_Vì chưa rõ ràng, lại tụng Chân Ngôn này là:

“Án, mạo địa chất đa mẫu đát-bả na dạ nhĩ”

 

Do Chân Ngôn đó gia trì giống như vành mặt trời trong mùa hè tràn đầy ánh sáng chiếu chói mắt.

_Lại ở trong vành mặt trời, quán hoa sen trắng, để chữ của Tâm Bản Tôn có ánh sáng màu trắng tinh, thành Bản Tôn Khế, ắt là Trí Kim Cương. Chân Ngôn là:

“Án, để sắt-xá, phộc nhật-la”

Do Chân Ngôn đó gia trì nên một phần tâm trí của mình được sáng rõ.

_Lại tụng Chân Ngôn này là:

“Án, phộc nhật-la đát-ma cú hàm”

 

Mật Nghĩa này là: “Ta là Kim Cương, ắt ba nghiệp đã thành Kim Cương vậy” Lại nói rằng: “Ta là thân Kim Cương”

Lúc tác Quán này thời Kim Cương này phô bày vòng Pháp Giới, tất cả chư Phật đều vào Kim Cương này, hợp đồng một Thể.

_Lại gia trì khiến cho bền chắc. Chân Ngôn là:

“Án, nễ-lý đồ để sắt-xá phộc nhật-la”

 

Do gia trì đó rất bền chặt chẳng thể nghiêng động, ắt tự biết thành Thân chẳng thể hoại của Kim Cương.

_Vì muốn thành tựu Thân Bản Tôn, tụng Chân Ngôn này là:

“Án, dã tha, yết ma, câu lộ đà tát-đát tha hàm”

_Tiếp dùng Bản Tôn Tam Ma Gia Ấn Chân Ngôn lúc trước gia trì trái tim, vầng trán, cổ họng, đỉnh đầu.

_Tiếp tác Pháp Quán Đỉnh. Dùng Kim Cương Giới Tự Tại Ấn mà để trên đỉnh đầu, tiếp trên vầng trán, tiếp bên trái ở phía sau. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la tát đỏa”

_Tiếp bên phải đỉnh đầu. Bảo (Ratna) là:

“Án, phộc nhật-la, la đát-na”

_Tiếp phía sau, Pháp (Dharma) là:

“Án, phộc nhật-la đạt ma”

_Tiếp bên trái, Nghiệp (Karma) là:

“Án, phộc nhật-la yết ma”

 

Mật Ấn. Bản Phộc, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như cây đao, Tiến Lực (2 ngón trỏ) phụ ngón giữa.Do gia trì đó xong thì mão Ngũ Như Lai ở ngay trên đỉnh đầu.

_Liền chia làm hai quyền đến phía sau đỉnh đầu đem Tiến Lực (2 ngón trỏ) cùng quấn nhau ba lần rồi bung xuống dưới như thế rũ lụa. Đấy gọi là Man Quán Đỉnh, ắt đem dùng cột buộc dây lụa lìa dơ bẩn. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la ma lệ, a tỳ săn tả hàm”

Liền đem hai tay nắm Quyền, duỗi Tiến Lực (2 ngón trỏ) , ở mặt ngón Tiến (ngón trỏ phải) tưởng chữ Án (輆- OṂ), mặt Lực Độ (ngón trỏ trái) để chữ Châm (趐– ṬUṂ) màu xanh lục, ánh sáng trắng như rút sợi tơ của ngó sen làm sợi dây tơ mềm trắng, từ trái tim quấn quanh ba lần, sau lưng cũng vậy, tiếp lỗ rốn với eo lưng, hai đầu gối. Lại lỗ rốn, eo lưng, trái tim, cổ họng, sau cổ, trước trán, sau đỉnh đầu đều quấn quanh ba lần rồng bung xuống dưới như rũ áo khoác ngoài. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la ca phộc tế, phộc nhật-lý cú lộ, phộc nhật-la phộc nhật-la, hám”

 

Tác gia trì đó ắt dùng để mặc giáp trụ Đại Thệ Trang Nghiêm Từ Bi của Như Lai. Tất cả Thiên Ma chẳng thể gây chướng, ắt hay tồi hoại tất cả quân Ma, làm các việc Phật, lợi lạc hữu tình.

_Vì thích Chúng Thánh mau được thành tựu. Đem hai tay cùng vỗ nhau ba lần.

Chân Ngôn là:

“Án phộc nhật-la, đổ sử-dã, cốc”

 

Do dùng Phách Ấn gia trì nên Tất cả Chúng Thánh đều vui vẻ.

_Tiếp lại trước quán Tâm Bản Tôn

Biến làm thân Diệu Tướng Bản Tôn

Như trước tự quán, nay cũng vậy

Vì hiển Thể Pháp Trí không hai

Quán năm Tướng trước đã thành tựu

Ấy là Pháp Thân của Tự Tính

Bổn Phộc, Thiền Trí vào ở Nguyệt (lòng bàn tay).

Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la tát đỏa ác. Phộc nhật-la tát đỏa nễ-lý xả dã”

Do gia trì đó nên

Thân Tôn ắt hiển rõ

Liền triệu vào thân mình

Tiếp ở nơi cư ngụ

 

_Lại quán A Tự Môn

Thành Diệu Cao Sơn Vương (núi Tu Di)

Trên có lầu gác báu

Ở trong cung điện đó

Lại an thân Bản Tôn

Quyến thuộc đều vây quanh

Mọi loại vật cúng dường

Hết thảy vật Pháp Giới

Thảy đều đầy trong đó Tác Quán Niệm đó thời Tụng Chân Ngôn này là:

“Án, nga nga na, tam bà phộc, phộc nhật-la, cốc”

 

Do uy đức Chân Ngôn này nên

Tất cả vật cúng đều tràn đầy

Chỗ muốn đều từ Không Khố (kho tàng ở hư không) sinh

 

_Vì muốn phụng sự Bản Tôn nên

Nên qua Thành Sở Tác Trí Định

Như vậy quán niệm gia trì xong

Nên dùng Bất Không Vương triệu tập chúng Thánh

Định Tuệ hai tay Kim Cương Quyền

Giao tay ôm ngực co Tiến Lực (2 ngón trỏ)

Búng tay thành tiếng tràn Thế Giới

Đế quán Phật Hải vân tập khắp.

“Án, phộc nhật-la tam ma nhạ, nhược”

 

Do dùng Chân Ngôn Mật Ấn nên

Bản Tôn cùng với hàng Chúng Thánh

Giáng lâm đến đầy trong hư không

 

_Tiếp trụ Bình Đẳng Tính Trí Định

Cầm dâng Át Già, mọi nước thơm

Tắm thân Vô Cấu của Chúng Thánh

Nên dùng Kim Cương Hợp Chưởng Ấn

Gia trì nước thơm, tụng Chân Ngôn

“Án, bả la ma tốc khư xả dã, toa la lý đa na ma đái la na, ma nhĩ đái nga vãn, nhược, hồng, hàm, cốc. Hứ bát-la để sai , câu lô ma nhạ lăng na thác”

_Liền dùng Sắc triệu Thánh Giả vào Trí Thân bên trong Điện. Dùng Tam Thế Ấn, Tiến (ngón trỏ) triệu mời như móc câu. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la lỗ bế nhạ”

_Triệu xong, lại dùng tiếng dẫn vào Trí đồng nhất. Đem Tiến Lực (2 ngón trỏ) cùng trụ nhau như sợi dây. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la nhiếp nê, hồng”

_Đồng nhất, hợp kín đáo xong. Lại dùng hương chỉ đứng, đem Độ Tiến Lực (2 ngón trỏ) móc kết như sợi xích (Liên Tỏa). Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la hiến đệ hàm”

_Cột buộc xong, lại dùng mùi vị ưa thích, đem Tiến Lực (2 ngón trỏ) cùng hợp mặt ngón. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la, la tế, cốc”

 

Nên dùng ngữ ngôn để làm ca vịnh.

_Tiếp kết Bản Tôn Ấn với Chân Ngôn. Lại dùng hai tay như thế bắn, tên Ý Sinh là:

“Án, ma nỗ na-bà phộc, phộc nhật-la, nhược”

_Lại giao hai cánh tay như thế ôm , Tuệ (tay phải) che Định (tay trái), tên Xúc là:

“Án, phộc nhật-la kế lý chỉ la, hồng”

_Lại đem Tuệ Trửu (Khuỷu tay phải) rất an định Thiền Tiến (Ngón cái phải, ngón trỏ phải), tên Ái Phộc là:

“Án, tắc nê hạ, phộc nhật-la hàm”

_Lại đem hai tay ở bên eo lưng, tên Ý Khí là:

“Án, phộc nhật-la nghiệt phộc cốc”

_Lại dùng hai tay như Nhuyễn Xạ lúc trước, tên Ý Sinh Nữ là:

“Án, ma nỗ na-bà phộc, phộc nhật-lý hứ”

_Lại như Xúc lúc trước, tên Thích Duyệt Nữ là:

“Án, phộc nhật-la kế lý chỉ lệ, hồng”

 

_Lại như Ái Phộc lúc trước, tên Ái Kết Nữ là:

“Án, tắc-nê hạ, phộc nhật-lý nê, hạ”

_Lại dùng Ý Khí lúc trước, tên Tự Tại Chủ Nữ là:

“Án, phộc nhật-la nhiệt vĩ, hồng”

_Lại đem Chỉ Quán (2 tay) ngửa lê trên như hoa, tên Xuân là:

“Án, mạt độ phộc nhật-lý, cụ-án, cụ-án”

_Lại đem Chỉ Quán (2 tay) che bên dưới như hương, tên Hạ là:

“Án, phộc nhật-la mê kỳ-duệ tra tra”

_Lại đem hai tay gia con mắt, tên Thu là:

“Án, xả lạt phộc nhật-lý, ác ác”

_Lại để hai hai tay chuyển ngang trái tim, tên Đông là:

“Án, phộc nhật-la thế thủy lệ, ác ác”

Bốn Nhiếp như trước y theo thứ tự mà dùng

Tiếp lại dùng bốn Minh triệu mời Tôn nhập vào thân xong.

_Lại kết Bản Tôn Tam Ma Gia Đại Khế , tụng Ma Ha Diễn Bách Tự Chân Ngôn

Do gia trì đó thời được Vô Thượng Bồ Đề còn chẳng khó huống chi các thành tựu khác. Vừa mới tụng thì tiêu diệt không dư sót. Tại sao thế ? Do Bản Tôn trụ bền chắc nơi thân của mình. Chân Ngôn là:

“Án –Phộc nhật-la tát đỏa, tam ma dã ma nỗ bá la dã, phộc nhật-la tát đỏa để-phệ nỗ bá để sắt-tra, nễ-lý đồ-điểu nhĩ bà phộc, tố đổ sử dữu nhĩ bà phộc, a nỗ la cật-đố nhĩ bà phộc, tố bổ sử-dữu nhĩ bà phộc, tát phộc tất địa-dựng, bát-la dã sai, tát phộc yết ma tố tả mê, chất đa, thất-lệ dược củ lỗ hồng, ha, ha, ha, ha, hộc- bạc nga vãn, tát phộc đát tha nghiệt đa, phộc nhật-la, ma, minh , muộn tả, phộc nhật-lợi bà phộc, ma ha tam ma gia, tát đỏa, Ác”

_Tiếp dùng Nội Ngoại Cúng Dường. Cúng Dường Mật Ngôn Vương cho nên Phộc, dựng Thiền Trí (2 ngón cái) tên Hy Hý Bồ Tát là:

“Án, ma ha la để”

_Vừa tác Minh Ấn, Ma Ha La Để Nữ Thích Duyệt Khế chư Thánh, liền duỗi cánh tay hướng về phía trước hợp cổ tay, tên Man Bồ Tát là:

“Án, lộ ba tuất tỳ”

Do Ấn Chân Ngôn đó, Trì Man Nữ Sứ tràn khắp Phật Sát Hải, múa tán vòng hoa Kim Cương.

_Đem Ấn từ rốn đến miệng rồi bung tán, tên Ca Cúng Dường Bồ Tát là:

“Án, truật lộ đát-la tảo khế”

 

Do Mật Ấn với Chân Ngôn đó, Kim Cương Ca Nữ có số Kỹ Nhạc Nữ nhiều như bụi nhỏ trong tất cả Thế Giới. Dùng âm thanh mỹ diệu vòng mười phương cõi để làm cúng dường, đắc được Như Lai Vô Ngại Biện.

_Liền đem hai tay xoay múa, Kim Cương Hợp Chưởng bung tán trên đỉnh đầu,tên Vũ Bồ Tát là:

“Án, tát phộc bố nhi”

 

Do cúng dường đó được sáu Thần Thông.

_Tiếp đem Phộc hạ xuống, tên Phần Hương Bồ Tát là:

“Án, bát-la hạ-la nễ nễ”

Do Pháp đó cho nên được mây hương vòng khắp tất cả cõi Phật.

_Lại đem bung trên đỉnh đều như hoa, tên Hoa Bồ Tát là:

“Án, pha la ga nhĩ”

Do đó được mây hoa vòng khắp tất cả cõi Phật, được 32 tướng của Như Lai.

_Đem Thiền Trí (2 ngón cái) ép Kim Cương Phộc, tên Đăng Bồ Tát là:

“Án, tô để nhạ ngật-lý”

 

Do đó được ánh sáng Trí chiếu khắp cõi Phật để làm cúng dường, được năm loại mắt của Như Lai.

_Đem Phộc để ngang trái tim như thế xoa bôi hương, tên Đồ Hương Bồ Tát là:

“Án, tô hiến đãng nghĩ”

Do Giới Hương đó, xoa bôi khắp cõi Phật cho nên được năm phần Pháp Thân Trí.

_Lại dùng Kim Cương Hợp Chưởng để ở trên đỉnh đầu. Tụng Hư Không Khố Chân Ngôn lúc trước, sinh ra tất cả biển mây cúng dường để làm cúng dường.

Lại qua Nghi Tắc Yết Ma của Bản Tôn, tùy sức niệm tụng.

Tiếp cầm tràng hạt, chắp tay nâng ở trên đỉnh đầu. Tụng Bản Minh gia trì ngay trái tim, mỗi mỗi cùng với câu văn của Chân Ngôn đều cùng độ lượng, hoặc vạn trăm ngàn, ngày đêm bốn thời tinh tiến tu

Niệm tụng xong rồi, lại dùng Ấn của tám Cúng Dường với Phổ Cúng Cường… Cúng dường xong, lại kết Án của Bản Tôn với quyến thuộc.

Lại bày Tam Ma Gia với nhóm Phát Nguyện.

_Lại Giáng Tam Thế, chuyển bên trái giải Giới. Dùng Phộc Ấn, duỗi Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như cây kim, kéo mở trên trái tim rồi hợp chưởng trên đỉnh đầu. Tưởng Thánh Chúng quay về Bản Cung Quán, gọi là Giải Thoát Ấn. Chân Ngôn là:

“Án – Cật-lý đố phộc, tát phộc tát đỏa la-tha tất địa nỗ, đa dã tha , nỗ nga nghiệt sai đặc-vãn, một đà vĩ sái diệm, bổ na la nga ma na dã đổ , An, phộc nhậtla tát đỏa mục”

 

Tác Pháp đó xong. Lại như trước gia trì Quán Đỉnh, Bị Giáp, lễ bốn Như Lai, Phát Nguyện, Sám Hối…. Thân trụ Bản Tôn Quán, không gián đoạn Tâm Bồ Đề rồi mới rời Đạo Trường, tùy theo tâm chuyển Kinh, ấn Tháp với Tượng, tùy ý Kinh Hành.

 

KIM CƯƠNG ĐỈNH DU GIÀ THA HÓA TỰ TẠI THIÊN LÝ THÚ HỘI

PHỔ HIỀN TU HÀNH NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

_Hết_ Hiệu chỉnh xong vào ngày 21/04/2013