KIM CƯƠNG ĐẢNH
NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG DU GIÀ
NHẤT THIẾT THỜI XỨ NIỆM TỤNG THÀNH PHẬT NGHI QUỸ

KINH SỐ 957

Hán dịch: Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Chùa Đại Hưng Thiện_Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

Cúi đầu lạy Phổ Hiền
Chư Phật, Chuyển Luân Vương
Hiện chứng Đại Bồ Đề
Nhận tên Kim Cang Giới (Vajra-dhātu)
Vì chuyển Giáo Sắc Luân
Từ nơi đảnh tuôn ra
Đại Kim Luân Minh Vương
Oai quang như chúng nhật (mọi mặt trời)
Bảy báu vây chung quanh
Làm hết thảy Phật Đảnh
Luân Vương của Luân Vương
Vừa hiện thân kỳ đặc
Các Thánh Chúng đều ẩn
Hơn hẳn, chẳng chung cùng
Chỉ một Thể của Phật
Tức Bà Già Phạm ấy
Dùng Tự Tánh Trí quang (ánh sáng của Tự Tính Trí)
Thành mặt trời uy diệu
Chiếu sáng khắp mọi nơi
Tồi hoại các tối tăm
Khiến Tâm Bồ Đề sanh
Lại dùng thân, khẩu, ý
Hết thảy Kim cang giới
Thành Phật Sự Nghiệp Luân
Lớn ngang bằng hư không
Khắp các cõi hữu tình
Chiếu sáng diệt tội chướng
Vọng Chấp, các Kiết Sử
Vì diễn Pháp Bất Cộng
Ban bảy báu Kế Châu
Khiến mau chứng Bồ Đề
Do đó xin quy y

_ Ta y Kim Cang Đảnh
Du Già Đại Giáo Vương
Vì người tu Du Già
Biên tập Vi Diệu này
Môn Lý Thú thành Phật
Tự tâm thành Đẳng Giác
Sâu mầu thấu năng lượng
Đủ dùng, khéo bày kỹ
Pháp Vô Tướng Vô Ngôn
Tỳ Lô Giá Na Phật
Nhất Tự Đảnh Luân Vương
Pháp bí mật thù thắng
Nghi niệm tụng Du Già
Người tu Tam Muội này
Hiện chứng Phật Bồ Đề

_ Truyền Pháp A Xà Lê
Trước lựa chọn đệ tử
Quyết định, tin trong sạch
Đầy đủ các căn lành
Giòng tộc, đủ tướng tốt
Đủ Đức: hiếu, trung, nghĩa
Tin giáo trọng Tam Bảo
Ham thích nơi Đại Thừa
Nghe gặp chư Bồ tát
Thuận phương tiện của đời
Tùy cơ mà hóa độ
Không sanh tâm nghi hoặc
Ham tu hạnh Bồ tát
Tiến mạnh, không khiếp nhược
Hộ Pháp, hành sáu Độ (sáu Ba La Mật)
Xả bỏ thân, mệnh, tài
Không che dấu lỗi lầm
Cầu học Du Già Giáo
Luôn đủ đại tinh tấn
Giáp thệ nguyện Đại Từ
Ham ba Môn giải thoát
Thích bốn Tâm vô lượng
Thương xót chư hữu tình
Tâm cứu tế không ngừng
Cho đến khiến thành Phật

_ Thầy Quán Đảnh nếu thấy
Như Thắng Pháp Khí này
Dùng mọi loại phương tiện
An ủi dỗ dành nói
Đại Thừa Bí Mật Môn
Các Như Lai ba đời
Đều nhân vào Pháp này
Mau được Nhất Thiết Trí
Khai thị mọi thứ xong
Dạy phát Tâm Bồ Đề
Trao cho Phật Tánh Giới
Kim Cang Kiên Cố Cấm
Nên dẫn vào Luân Đàn
Quán Đảnh, trao chức vị
Khiến ngắm nhìn Thánh Hội
Chỉ bày Tam Muội Gia (Samaya:bản thệ)
Từ nay đến thành Phật
Đừng bỏ Tâm Bồ Đề
Kính ngưỡng A Xà Lê
Như chư Phật Thế Tôn
Hết thảy lời dạy bảo
Cần phải phụng hành hết.
Không tìm lỗi của Thầy
Tuỳ thấy hành phiền não
Quán tham nhiễm vốn tịnh
Nơi các chốn đồng học
Không sanh tâm hiềm hận
Kính như Chấp Kim Cang (Vajra-dhāra)
Cho đến các hàm thức
Cũng không nên khinh não

_Các hàng Trời, Thần Tiên
Đều không nên làm lễ
Không khinh khi, chê bai
Tất cả vật nhìn thấy
Cũng không được leo lên
Vì đồng bên trong Đàn
Chỗ chư Thánh cầm giữ
Gần gũi A Xà Lê
Đối nhận các Nghi Quỹ
An Khế cùng Mật Ngôn
Tam Ma Địa vi diệu
Luân, chày Kim Cang, chuông
Với các Đạo Cụ khác
Vì cầu được thành tựu
Cho đến lên Phật Vị
Luôn giữ không tạm bỏ

_Ở trong Giáo Pháp này
Một chữ chẳng nên hướng
Người chưa Quán Đỉnh, nói
Các Giáo Pháp Bản Tôn
Trừ Bản Thọ Pháp Sư
Dầu là bạn đồng hành
Cũng không được nói ra
Giả sử đã thành tựu
Vừa nói, liền tan mất
Hiện lãnh các tai ương
Chết yểu, đọa Địa Ngục
Thế nên thường thủ hộ.
Tam Muội Gia Cấm này
Chư Phật cùng diễn nói
Chúng Thánh đều giữ gìn
Nên học, đừng trái vượt
Với tu Ngoại Nghi Thức
Tắm rửa, nhấm Xỉ Mộc
Đạm, Đậu Khấu, hương xoa
Khiến thân miệng sạch thơm
Không ăn món hôi dở (Huân tạp)
Rượu thịt, các đồ thừa
Thường ăn mặc sạch sẽ
Khiến trong ngoài không dơ
Không để móng dài nhọn
Chỗ dơ, ngược nơi dạy
Bên trong (nội) là sáu căn
Dùng ba Mật tịnh trừ
Ngoài (ngoại) là các Nghi Quỹ
Pháp nước thơm tắm gội
Hoặc duyên ngoài (ngoại duyên) chẳng đủ
Liền dùng Pháp tịnh trừ
Lý Thú tối thắng này
Nên quán niệm chữ Lam (RAṂ)
Như văn sau nói rõ
Tịnh trừ dơ trong ngoài (nội ngoại cấu)
Không tắm mà thành tắm
Luôn mặc quần áo sạch
Sạch sẽ như hư không
Không dơ như Pháp Giới (Dharma-dhātu)
Sự Lý đều tương ứng
Như Lai rất ngợi khen
Người tu tập Du Già
Theo Thầy nhận Bổn Tôn
Du Già Nghi Quỹ xong
Hiểu rõ không nghi hoặc
Sau đó cố gắng tu
Ở tất cả thời xứ
Niệm tụng đều thành tựu

_ Hoặc ở nơi nhàn tịnh
Danh sơn tùy ý muốn
Đảnh núi rất thù thắng
Hoặc các Giáo đã nói
Nơi chư Phật ngợi khen
Hoặc tháp xưa, đền miếu
Hoặc xây dựng tinh xá
Y Giáo tịnh trừ địa
Dùng phân bò xoa khắp
Làm cho thật sạch sẽ
Lại xoa Bạch Đàn Hương
Tô đắp Mạn Đà La
Vuông, tròn tùy lớn nhỏ
Xếp bày các Thánh Vị
Rải hoa mùa trang nghiêm
Tùy sức bày đồ cúng
Hương xoa, nước Ứ Già
Hương đốt, đèn, ẩm thực (thức ăn uống)
Phan, lọng, chuông treo đủ
Trần thiết bốn bên Đàn

_ Nếu có tượng Bổn Tôn
Trong Thất, mặt hướng Tây
Bậc Du Già hướng Đông
Khi mới vào Đạo Tràng
Tưởng Phật thường trụ đời
Cúi năm vóc sát đất
Như Giáo quy mạng lễ
Chân thật quán chư Phật
Tràn đầy cõi hư không
Nhiều như là hạt mè
Liền nên phát Tâm này
“Nay con lễ hiến khắp”
Liền lấy hương xoa tay
Kết Nhất Thiết Cúng Dường
Tối Thắng Xuất Sanh Ấn
Trước, như thường chắp tay
Để ngang trái tim mình
Các ngón, phải đè trái
Phần đầu trợ nhau giao
Thành Kim Cang Hợp Chưởng
Hết thảy các mật ấn
Đều từ đây mà ra
Nên gọi Hư Không Khố
Kết Ấn tụng Mật Ngôn
Để trên đảnh, vận tâm
Tưởng thân mình lễ khắp
Chân mỗi một Như Lai
Lại xả thân phụng hiến
Chư Phật, Bồ Tát chúng
Cầu thỉnh được gia trì
Tụng Nhất Thiết Kim Cang
Bất Không Tam Ma Gia
Chư Phật Sự Nghiệp Tâm
“Úm, tát phạ, vật”
Do Ấn Mật Ngôn này
Đẳng Lưu tự thân biến
Mười phương vô biên cõi
Trong đó như bụi nhỏ
Chư Phật Đại Hải Hội
Đều có thân của mình
Như Yết Ma Bồ Tát (Karma-bodhisatva)
Ở trước mỗi một Tôn
Cầm các thứ cúng dường
Bỏ thân mà phụng hiến
Đều mong được gia trì
Hối, Hỷ, Khuyến Thỉnh, Hướng
Y Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Du Già Hoa Nghiêm nói
Liền kết Già Phu Tọa
Toàn, Bán hoặc Luân Già
Đều lấy phải đè trái
Thân thẳng, chi tiết định
Tay trái ngửa trên Già
Ngửa tay phải để trên
Liền phát Tâm Đại Bi
Bạt tế, lợi an lạc
Khắp hữu tình không sót
Dùng Tánh này thành tựu
Bồ Đề Tâm Mật Ngôn
Tùy ý mà niệm tụng
Phát Bồ Đề Thắng Tâm
“A”
*) A
Do thích tụng Mật Ngôn
Phát Tâm Bồ Đề nên
Tồi diệt các tội chướng
Được các ý vui thích
Ngang bằng tất cả Phật
Vượt trội hơn chúng Ma
Không thể gây chướng ngại
Đáng được thọ Thế Gian
Sự cúng dường rộng lớn

_ Lại nên chân thật quán
Căn, Trần, Thức, các pháp
Tự Tánh vốn đều Không (Śūnya:trống rỗng)
Nghĩ nghĩa Già Đà (Gāthā: bài Kệ) này
Tất cả như hư không
Hư không cũng không tướng (vô tướng)
Các pháp tương ứng nên
Duỗi khắp ở tất cả
Tụng bốn câu Kệ này
Mỗi một cảnh đã thấy
Chiếu Không cũng là Không
Do hiểu rõ Thể Không
Tự thấy rõ Bổn Tâm
Trong sáng như trăng đầy
Lìa Năng Thủ, Sở Thủ
Ánh sáng Tự Tính thành
Thể Bồ Đề kiên cố
_ Lại từ trong vành trăng (nguyệt luân)
Vọt ra Đại Pháp Luân
Do Kim Cang tạo thành
Các căm đều nhọn bén
Màu sắc như vàng ròng
Tuôn khắp đại oai quang
Hơn cả ngàn mặt trời
Trụ trong mặt vành trăng
Kim Cang tức cực bền
Tròn (viên) hiển mãn Phước Trí
Bén (lợi) là không hý luận
Đoạn hoại các Vọng Chấp
Quang (ánh sáng) là Nhất Thiết Trí
Phá trừ các ngu tối.

_ Đã thị hiện Luân Hình
Ngang bằng với hư không
Hư không các Như Lai
Đều vào hết trong Luân
Liền quán Trí Luân nầy
Biến thành Kim Luân Vương
Biến Chiếu Như Lai Thân
Hình, phục (áo quần) như trăng sáng
Tất cả tướng tốt đẹp
Dùng trang nghiêm Pháp Thân (Dharma-kāya)
Đội mão báu Kim Cang
Vòng hoa trang sức đầu
Mọi báu, vật trang nghiêm
Mang đầy đủ nơi thân
Trì Trí Quyền Đại Ấn
Ngồi ở toà Sư Tử
Nhật luân, tòa sen trắng
Trí Quyền Ấn như sau
Co Trung (ngón giữa), tiểu (ngón út), vô danh (ngón vô danh) co
Đầu Chỉ (ngón trỏ) để sau Đại (ngón cái)
Tức thành Kim Cang Quyền
Hữu (tay phải) nắm ngón trỏ trái
Một lóng, mặt nơi tim
Đây gọi Trí Quyền Ấn
Nên tụng Mật Ngôn này

“Bột-lỗ-úm” (do nước này không có chữ tương đồng, nên dùng tiếng của ba chữ hợp thành một chữ để hô gọi)
*) BHRŪṂ
Ba Mật vừa tương ứng
Thân mình đồng Bổn Tôn
Hay vào khắp Phật Trí
Thành Phật không có khó
Được Trí, sức thọ mạng
Được hết thảy Biến Hành
Hiện chứng Đại Bồ Đề
Nên gọi Giác Thắng Ấn

_ Nếu tu Du Già này
Dầu hiện tạo vô lượng
Các tội chướng cực nặng
Đều vượt khỏi nẻo ác
Mau chóng chứng Bồ Đề
Vì hiển Tối Thượng này
Nghĩa vi mật thâm sâu
Nên trụ Đại Ấn này
Quyền hay bền chắc giữ
Biển Pháp Trí của Phật
Bền vững chẳng tản mất
Hay thành hết thảy ấn
Nên gọi Kim Cang Quyền

_ Hữu (tay phải) nắm ngón trỏ trái
Trong cõi nước mười phương
Chỉ có một Phật Thừa (Buddha-yāna)
Đảnh Pháp của Như Lai
Đẳng Trì các Phật Thể
Nên gọi là Trí Quyền

_Lại quán Kim Cang luân
Trang nghiêm vành trăng tim (Tâm nguyệt luân)
Tiếp kết Đảnh Luân Vương
Thắng Thân Tam Ma Gia
An: tim, trán, họng, đảnh
Ấn ấy như trước làm
Bền Kim Cang Hợp Chưởng
Liền kèm dựng ngón giữa
Giống như cánh sen xanh
Co ngón trỏ đều an
Lóng trên lưng ngón giữa
Nên biết nghĩa Ấn Tướng
Ngón cái là Kiết Già
Ngón giữa là thân Phật
Danh (ngón vô danh), tiểu (ngón út) thành lửa sáng
Hai tay Nhật Nguyệt Luân
Cổ tay tòa Sư Tử
Nên gọi là Như Lai
Thắng Thân Tam Ma Gia
Rồi tụng Mật Ngữ này:
“Úm, bộc, khiếm”
Đây Mật Ngôn ba chữ
Tỳ Lô Giá Na Phật
Cùng một chữ không khác
Dùng Ấn Mật Ngôn này

_ An tim thành Kính Trí (Đại Viên Kính Trí)
Mau được Tâm Bồ Đề
Thể Kim Cang kiên cố

_ An nơi trán nên biết
Thành Bình Đẳng Tánh Trí
Mau được Quán Đảnh Địa
Nhóm Phước trang nghiêm thân
Mật Ngữ lúc ấn miệng
Thành Diệu Quan Sát Trí
Tức hay chuyển Pháp Luân
Được Phật Trí Huệ Thân (Thân Trí Huệ của Phật)

_ Tụng Mật Ngôn ấn đảnh
Thành Thành Sở Tác Trí
Chứng Phật Biến Hóa Thân (Thân biến hoá của Phật)
Hay phục kẻ khó phục

_ Do Ấn Mật Ngôn này
Gia trì thân mình thành
Pháp Giới Thể Tánh Trí
Tỳ Lô Giá Na Phật
Hư Không Pháp Giới Thân (Thân Hư Không Pháp Giới của Đại Nhật Phật)

_ Liền chia Ấn làm hai
Kim Cang Quyền từ trán
Dẫn dần đến sau ót
Liền thẳng hai ngón trỏ
Mỗi chỗ quấn ba lần
Liền buông từ ngón út
Như áo Trời rũ xuống
Tụng Nhất Thiết Quán Đảnh
Tam Ma Gia Bảo Tâm
“Đát-lam”
*) TRĀṂ
Do Ấn Mật Ngôn này
Liền mong cõi hư không
Hết thảy thế giới Phật
Dùng mão báu Kim Cang
Luân, vòng hoa, tơ lụa
Cho Quán Đảnh đầy đủ.

_ Làm vui cho Thánh Chúng
Hai tay để trước tim
Ngang chưởng vỗ ba lần
Nên tụng Mật Ngôn này
“Cốc” (hác)
*) HOḤ
Do Nghi Phách Chưởng (vỗ tay) này
Luân Vương với quyến thuộc
Vui thích mà yêu thuận
Mau mãn việc Du Già
Ý nguyện Tất Địa Quả
Sẽ được Thể bền chắc.

_ Tiếp bày Nghi Cúng Dường
Dâng Bổn Tôn, Thánh Chúng
Làm Kim Cang Hợp Chưởng
Nghi thức như trước nói
An trên đảnh đầu mình
Tụng Hư Không Khố Tạng
Đại Bồ Tát Mật ngôn
Nên suy nghĩ như vầy
Từ trong Ấn tuôn ra
Các mây biển cúng dường
Ứ Già, các nước thơm
Chư Thiên các kỹ nhạc
Nhóm Ca, Vu, Hy Hý
Đồ Hương, hoa, Thiêu Hương
Ăn uống, đèn, Hiền Bình
Kiếp Thọ, các loại báu
Phất trắng, lọng, đài, gác
Phướng báu, phan, chuông, bội (vật đeo)
Châu (chuỗi ngọc), Anh (chuỗi Anh Lạc), trướng, vòng hoa
Cung điện, Trời nam nữ
Với hết thảy tất cả
Vật dụng của Người, Trời
Ở Thiệm Bộ Châu này
Với mười phương cõi Phật
Hoa trên bờ dưới nước
Trời, Người đều ưa thích
Phước cảm kèm biến hóa
Hoa, gái đẹp ưa mang

_ Lại dùng nơi Trời Người
Hết thảy hương bổn thể
Hương hoà hợp, biến dịch
Hương đốt, xoa, hương bột
Mọi thứ loại khác nhau
Thơm phức rất thích ý

_ Lại hiến các Trời Người
Hết thảy Bổn Thể Quang (ánh sáng của bổn thể)
Tự tánh với sai biệt
Sáng thù thắng vừa ý
Trong ba cõi ba đời
Tất cả Trời cúng dường
Có nhiều loại khác nhau
Như Kinh Kim Cang Đảnh
Với các Bí Mật Giáo
Tất cả chúng Đại Thừa
Nhóm Khế Kinh đã nói
Vật cúng dường rộng lớn

_ Trước phụng hiến Bổn Tôn
Cùng các quyến thuộc xong
Tiếp dẫn dần vòng khắp
Các Thế Giới mười phương
Tận Hư Không Pháp Giới
Trong cõi như bụi nhỏ
Chư Phật Đại Hải Hội
Trước mỗi một Thánh Chúng
Cúng dường khắp rồi trụ

_ Lại quán sát mười phương
Phát lời Nguyện như vầy:
“Nay con thỉnh chư Phật
Đấng chưa chuyển Pháp Luân
Nguyện mau chuyển Pháp Luân
Đấng muốn vào Niết Bàn
Nguyện thường trụ tại đời”

_ Lại khởi niệm như vầy:
“Vô biên các Hàm Thức
Chìm đắm trong sáu nẻo
Do tự tâm hư vọng
Cảm các thứ nghiệp báo
Hủy Phật Tánh, chẳng biết
Thật là rất đáng thương
Nay con làm sao cứu ?!…”

_ Sau đó lại suy nghĩ:
“Con đã gom Phước Nghiệp
Nên dùng cứu giúp họ
Do con hiến Đồ Hương (hương xoa bôi)
Nên được năm Pháp Thân
Nguyện từ nhóm này tuôn
Năm Đồ Hương Vô Lậu
Xoa sáng kẻ nóng nảy
Phá nát các Địa ngục
Tất cả sự nóng bức”
_ Hiến Hoa nên sẽ được
Băm hai (32) tướng Đại Nhân
Lại hồi hướng Phước này
Thành đài hoa Diệu Giác
Duỗi sáng chiếu chạm khắp
Cảnh giác nẻo Trời, Người
Tham đắm các cảnh Dục
Bị tám Khổ bao vây
Thiên Lạc (niềm vui của cõi Trời) biến hoá Khổ
Nguyện các Trời, Người ấy
Tâm Bồ Đề rộng tốt (phu vinh)
Được Phổ Hiền Thường Lạc

_ Do con dâng Phần Hương (hương thiêu đốt)
Được Phật Vô Ngại Trí (Trí không ngăn ngại của Phật)
Sạch vui (duyệt trạch) đủ đoan nghiêm
Hồi thí mây hương này
Thơm tho khổ nước lạnh

_ Hiến Thực (thức ăn uống) được Pháp Hỷ
Vị Thiền Duyệt giải thoát
Hồi thí cho ngạ quỷ
Tuôn mưa các vi diệu
Thức ăn uống, Cam Lộ
Nguyện ăn thức gia trì
Thảy đều được đầy đủ
Lìa hẳn khổ đói khát
Tham lam, các nghiệp ác

_ Hiến Đèn được ngũ nhãn (năm loại mắt)
Chiếu sáng A Tu La (Asura)
Đoạn dứt tâm kiêu ngạo
Sân Si ham đấu tranh
Bàng Sanh bị đánh đập
Ăn nuốt hại lẫn nhau
Nguyện được Tâm Từ Bi
Thường sanh nẻo Trời, Người
Cõi Trời Sắc, Vô Sắc
Tham đắm vị Tam Muội
Nguyện thoát trói buộc này.

_ Hiến nước thơm Ứ Già
Chứng Bình Đẳng Tánh Trí
Làm Pháp Vương ba cõi
Hồi thí tuôn rót xuống
Nước Kim Cang Cam Lồ
Quán rửa loài dưới nước (thuỷ cư giả)
Lìa hẳn nẻo Bàng Sanh
Mau được Tịnh Pháp Thân
Dưới suốt đến Vô Gián (địa ngục vô gián)
Hết thảy các Địa Ngục
Khổ cụ (vật dụng gây khổ) nát như bụi
Đều thành đất trong mát (thanh lương)
Các loài bị thọ khổ
Giải thoát, sanh Tịnh Độ

_ Dâng Hy (Hy Hý) thường được vui
Dâng Tiếu, Phật thương xót
Dâng Ca được Pháp Âm
Cúng Vu được thần thông
Dâng Bình được Hiền Bình
Hay mãn Nguyện ưa thích
Hiến Bảo được mọi báu
Do hiến Cây trang nghiêm
Được Phật y Giác Thọ (cây giác ngộ)
Dâng Tràng được vũ bảo (tuôn mưa báu)
Hay cứu giúp kẻ nghèo
Cúng Phan vượt hơn Ma
Hiến Linh (chuông) mọi người theo
Dâng Anh (chuỗi Anh lạc) được nghiêm cụ (vật dụng trang nghiêm)
Hiến Man (vòng hoa) được mão báu
Dâng Hoa được Phật dung (dung mạo của Phật)

_ Lại dùng nhóm Phước này
Hồi thí cõi hữu tình
Không tận không dư sót
Bốn loài (tứ sanh) trong sáu nẻo
Cho đến dùng thân mình
Tâm, miệng ba Kim Cang
Cõi đất nước lửa gió
Vòng khắp nơi vô biên
Ngang Hư Không Pháp Giới
Ban cho các Hàm Thức
Thọ dụng sự vui thích Trụ Vô Duyên Bi này
Thường cứu bạt lợi lạc
Đều cùng hồi hướng hết
Nguyện thành Đại Bồ Đề
Ứng Nhất Thiết Trí Trí
_ Sau đó lại quan sát
“Tất cả Pháp đều Không (trống rỗng)
Ba Luân Thể chẳng có
Nên biết không chỗ được (vô sở đắc)”
Trụ Tam Ma Địa này
Hay chân thật bạt tế
Được Phước Lợi vô hạn
Chỗ làm mau thành tựu
Lúc tác Quán Niệm này
Tụng Tối Thắng Xuất Sanh
Chủng Chủng Cúng Dường Tạng
Quảng Đại Nghi Như Lai
Nhất Thiết Cúng Dường Tâm
“Úm” *) OṂ
Do Mật Ngữ Ấn này
Gia trì oai lực nên
Dẫu Quán Tưởng chẳng thành
Nơi chư Phật Hải Hội
Đều có như bên trên
Các mây biển cúng dường
Chân thật thành tựu đủ
Do chư Phật thành đế
Pháp Nhĩ đã thành nên
Tiếp nên tụng Bổn Tôn
Nhất Bách Bát Danh Tán (Bài tán 108 tên)
Làm Kim Cang Hợp Chưởng
Bên trái tim, cúi đầu
Đây là Nghi Kính Lễ
Nên dùng lời đẹp hay
Xướng Kim Cang Ca này

_ Lại tụng Hy Hý Mật
Ngôn, Ấn dùng Ấn trước
“Úm, phạ nhật-la tát đỏa, tăng nghiệt-la, hạ”

_ Không đổi Kim Cang Chưởng
Hợp tý (cánh tay) duỗi an trán
Đây là hiến Hoa Man (vòng hoa)
Đọc nhẹ nhàng ngợi khen
“Phạ nhật-la, la đát-nẵng, ma nổ, đá lam”

_ An trên từ nơi rốn
Đưa dần lên đến miệng
Là tấu Ca liền tụng
“Phạ nhật-la, đạt ma, nga dã nại”

_ Bên phải tim, xoay chuyển
Kim Cang Hợp Chưởng xong
Lại an ở trên đảnh
Là tấn Kim Cang Vũ
Như trên tụng, lại xướng
“Phạ nhật-la, yết ma, ca lộ, bà phạ”

_ Do bày Bí Mật này
Du Già, Ca, Vịnh, Tán
Khen ngợi Như Lai nên
Thành Phật còn chẳng khó
Huống chi cầu thành tựu
Nên biết vì sao vậy
Ấy là tất cả Lạc (niềm vui)
Chẳng như Bạc Già Phạm
Kim Cang Tát Đỏa Lạc
Cho nên mau thành tựu

_ Tiếp dùng Bổn Bộ Mẫu
Phật Nhãn Ấn Mật ngôn
Ngang tim tụng bảy biến
An bốn hoặc năm chỗ
Bốn: tim, trán, họng, đảnh
Năm: trán và hai vai
Tim. họng, xả trên đảnh

Mỗi chỗ tụng một biến ấn này làm như trên

Kim Cang Hợp chưởng xong
Kèm co hai ngón trỏ
Hợp móng, kèm dựng Đại (ngón cái)
Đều đè cạnh ngón trỏ
Là Phật Nhãn Mật Ngôn

“Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam. Úm, một đà, lộ giả nễ, sa-phạ ha”

Do Bộ Mẫu gia trì
Bổn Tôn và quyến thuộc
Đều cùng vui, yêu nhớ
Tu Du Già dẫu có
Vi phạm thiếu các Pháp
Xót thương không chấp lỗi
Cũng chẳng ép điều khác
Người trì các Mật Ngôn
Nếu chẳng làm Pháp này
Không được để thiếu sót
Huống chi phạm Bổn Thệ (tam ma gia: Samaya)
Nếu không y Du Già
Làm sự pháp niệm tụng
Không đối Đàn, Xá Lợi
Phi thời xứ (chẳng đúng thời, đúng chỗ), bất tịnh
Nếu kết ấn tụng trì
Nhất định bị tai ương

_ Tu hành các Tôn Giả
Trong năm trăm do tuần
Tôn đều không giáng phó
Cũng chẳng ban Tất Địa
Do oai đức Luân Vương
Đoạn hoại tất cả pháp
Bởi thế hết thảy Thời
Trước làm gia trì này
Làm Sự Pháp Nghi nào
Chẳng hứa phi thời xứ (chẳng đúng thời, đúng chỗ)
Niệm tụng cầu thành tựu
Làm Luân Vương Oai Đức
Tối Thắng Vô Cực Tôn
Chẳng cần vô hạn ước (không có hạn ước)
Giáng phó phi thời xứ
Thuần tịnh, không hý luận
Giáo Mạng chẳng thể phạm
Cho nên không mất kỳ (hạn kỳ)
Liền xưng tụng, khải thỉnh
Du Già Lý Thú Môn
Tự tim đã dựng lập
Tự thân làm Bổn Tôn
Gom các Thể Như Lai
Gia trì làm thân mình
Khắp cả hư không giới
Làm cung điện an trụ
Thân mình ở bên trong
Trụ Bổn Tôn Du Già
Thánh quyến thuộc vây quanh
Thành Đại Mạn Đà La
Do đây nên vô ngại

_ Lại vì các hành giả
Chưa đạt Không, Vô Tướng
Thể Tánh Như Lai nên
Giáo Vương trong Du Già
Chỉ một bình đẳng, tịnh
Quán thân biết Không Tướng (Tướng trống rỗng)
Tức là Bổn Tôn mình
Do Thắng Giải này nên
Ở tất cả thời xứ
Niệm tụng được thành tựu

_ Lại làm Trí Quyền trước
Tụng Mật Ngôn một chữ
Thân quán như trước nói
Luân Tề (trục bánh xe) trong trăng tim
Hiện một chữ màu vàng
Đầu lưỡi cũng như vậy
Tức chữ đó là Luân
Luân ấy làm Chuyển Luân
Màu sắc như vàng ròng
Đủ bảy báu vây quanh
Ngay trước báu Bảo Luân (Ratna-cakra)
Báu khác xoay theo phải
Ngọc báu (Mani-ratna) cùng vô lượng
Chúng Ma Ni vây quanh

_ Tiếp Bảo Nữ (Strī-ratna) cũng cùng
Vô biên Cung Nữ đến
Ngựa báu (Aśva-ratna) với voi báu (Hasti-ratna)
Chủ khố tàng (Ratna-garbha-kuṇḍali), Thần báu (Puraṣa-ratna: Bề tôi báu)
Thống lãnh quyến thuộc mình
Vô lượng chúng đứng hầu
Binh báu (Khaḍga-ratna: Tướng Quân báu) cầm Kim Cang
Vô Năng Thắng làm soái
Phật Nhãn Như Lai Mẫu
Cùng báu ở tám phương
Như Thế Kim Luân Vương (Kim Luân Vương của đời)
Đủ bảy quyến thuộc báu
Như Lai Đảnh Luân Vương
Dùng Phật Vô Thượng Bảo (báu vô thượng của Phật)
Làm quyến thuộc vây quanh

_ Khi làm quán niệm này
Tụng Bổn Tôn Mật Ngữ
Mỗi biến chân thật quán
Từ đây thành thân Phật
Khắp thể, trong chân lông
Tuôn ra khắp tất cả
Thế giới như bụi nhỏ
Thân Như Lai duỗi khắp
Tận các cõi hữu tình
Bạt tế ,lợi, an lạc
Vì chuyển Chánh Pháp Luân
Hiện Thần Thông Du Hý
Tồi phục tất cả Ma
Khiến hiện chứng Tất Địa
Vui vẻ mà thọ dụng
Quay lại, vào thân mình
Trụ Tam Ma Địa Niệm
Cho đến khi mỏi mệt
Hoặc trăm tám (108), bảy, ba

_ Lại kết Thắng Thân Ấn
Tụng Mật Ngôn ba chữ
Hăm mốt (21) tuỳ theo Nghi
Liền lấy chuỗi Bồ Đề
Để trong lòng bàn tay
Ngang tim, tụng Mật Ngữ
Ba biến hoặc bảy biến
Nâng Châu (tràng hạt) an trên đảnh
Tụng Kim Cang Ngữ Tâm “Lãm”
*) RAṂ
Do dùng Mật Ngữ này
Gia trì Niệm Châu (tràng hạt) nên
Tôn Mật Ngữ đã tụng
Một biến lần một châu (hạt châu)
Một thành một ngàn biến
Hai tay ngang trước tim
Đều nhóm tụ năm ngón
Đầu tiên từ Mẫu Châu
Một biến lần một hạt
Cùng Mật Ngôn bằng nhau
Đến Mẫu Châu quay lại
Không được qua Mẫu Châu
Sẽ bị tội vượt Pháp
Vạn, ngàn hoặc trăm tám (108)
Một số làm thường định
Chẳng nên có thêm bớt

_ Số hạn đã xong rồi
Lại nâng hợp gia trì
Để ở chỗ sạch sẽ
Kính châu (tràng hạt) như kính Phật
Không được khinh chê bỏ
Du Già Châu Kinh nói
Châu là quả Bồ Tát
Trong đây Lậu đã hết
Chỉ xâu là Quán Âm
Mẫu (mẫu châu) là Di Đà Phật
Do đó chẳng nên vượt
Do Châu tích Công Đức
Mau chóng được thành tựu

_ Tiếp bày cúng dường trước
Lại kết Trí Quyền Ấn
Vào Tam Ma Địa trước
Quán niệm ở một chữ
Suy nghĩ nghĩa chữ ấy
“Các pháp vốn không hoại
Không bụi cũng không nhiễm
Thanh tịnh như hư không
Vì trong sạch như không (hư không)
Tất cả Pháp không hoại
Vì các Pháp không hoại
Tất cả Pháp vốn Tịnh
Các Pháp vốn tịnh nên
Tất cả Pháp không nhiễm
Các pháp chẳng nhiễm, nên
Không, Tịnh chẳng thể được”
Quán nghĩa chữ tương ứng
Tâm duyên trụ ở Lý
Chẳng duyên ở chữ ấy
Đồng một Thể thanh tịnh
Vòng khắp nở Pháp Giới
Đắc được Vô Hý Luận
Luân Vương Thật Tướng Định
Cho đến ở một niệm
Tịnh Tâm tương ứng nên
Được Vô Thượng Chánh Trí
Vô thỉ tích tội chướng
Mau diệt, không dư sót
Các Như Lai mười phương
Bổn Tôn đều hiện tiền
Mãn mọi sự mong cầu
Thế gian, xuất thế gian
Tất cả đều ban cho
Cho đến trong hiện đời
Thành tựu thân Bổn Tôn

_ Lại kết Thân Thắng Ấn
Tụng Mật Ngôn ba chữ
Liền quán Tâm Bồ Đề
Suy nghĩ môn chữ A
“Các pháp vốn chẳng sanh”
Mỗi lúc tác Quán Niệm
Nên cùng vận Định Huệ
Nếu như quán chữ A
Vừa quán liền hiểu thấu
Các Pháp vốn chẳng sanh
Biến vốn chẳng sanh nên
Gọi là Xa Ma Địa (Śamatha:Chỉ)
Đế Quán (chân thật quán) Thể chữ ấy
Là Tỳ Bà Xá Na (Vipaśyana:Quán)
Đây gọi là Song Vạn
Các quán đều như vậy

_ Lại kết Thắng Thân Ấn
Ở tim, trán, họng, đảnh
Một lần kéo Ấn mở
Tụng Giải Thoát Tâm này
“Bột-lỗ-úm, mục” *) BHRŪṂ
Do Ấn Mật Ngôn này
Thánh Chúng được lìa phược (sự cột trói)
Đều trở về Bổn Cung
Người tu tập Du Già
Đến nơi đất giải thoát
_ Lại kết Phật Nhãn Ấn
Tụng Phật Mẫu Mật Ngôn
Như trước gia trì thân
Lại dùng trong Bổn Bộ
Vô Năng Thắng Minh Vương
Mật Ngôn ấn thân mình
Năm chỗ như Pháp trước
Tám ngón hai bàn tay
Giao nhau trong bàn tay
Ngón cái mở hơi co
Hơi cách cạnh ngón trỏ
Tụng Tâm Mật Ngôn này “Hồng”
*) HUṂ
Do làm Gia Trì này
Ở tất cả thời xứ
Ma oán chẳng thể xâm
Cọp, sói, các trùng độc
Người tâm ác, Phi Nhân
Đều không dám lấn hiếp
Như Lai mới thành Phật
Ở dưới cây Bồ Đề
Dùng Ấn Mật Ngôn này
Tồi hoại quân Thiên Ma

_ Nếu vào nơi tiêu tiểu (nhà xí)
Dùng Xúc Thân Phẫn Nộ
Ô Sô Sa Ma Ấn
Tay phải nắm làm quyền
Thẳng ngón cái gia trì
Năm chỗ như trước nói
Tụng Tâm Mật Ngôn này
“Úm, đặc-lật ca”
Do làm gia trì này
Vào mọi nơi dơ uế
Ma chướng không được tiện (không có dịp hãm hại)

_ Tiếp bày Thời Niệm Tụng
Trong Du Gà Giáo Vương
Như Lai đã ngợi khen
Không có thời, hướng, chỗ (thời phương xứ)
Nên biết không gián đoạn
Bốn Thời hoặc ba Thời
Hai Thời đến một Thời
Không gián đoạn mọi Thời
Ba là sáng, trưa, chiều
Thêm nửa đêm là bốn
Hai Thời là sáng, tối
Một Thời tùy ý chọn
Từ đầu cho đến cuối
Đều y Nghi Quỹ này
Nếu không Đàn, Tịnh Thất
Tùy chỗ làm Niệm Tụng

_ Trước nên quán chữ Lam ( RAṂ)
Tịnh thân và tịnh xứ (nơi chốn)
An chữ nơi trên Đảnh
Phát lửa Trí thiêu đốt
Thân, xứ không tro tàn
Thanh tịnh như hư không
Vừa trụ Tam Muội này
Trăm kiếp chứa tội nặng
Một niệm mau trừ sạch
Phàm vào Tam Ma Địa
Chẳng tính thân, tâm, tướng
Với hình sắc phân biệt
Chỉ chuyên quán một cảnh
Do Pháp đấy gia trì
Tịnh hai giới không không

_ Liền ở trong hư không
Quán chữ A thành điện
Như cung Trời Đao Lợi
Lại ở trong điện báu
Như quán niệm đầu tiên
Chữ A thành Tâm Nguyệt (vành trăng ở trái tim)
Thứ tự chẳng sai khác
Là Phật Bất Không Thể (Thể chẳng trống rỗng của Phật)
Chỗ nghi ngờ không sạch
Đều quán chữ Lam (RAṂ) đốt
Do Pháp Giới Tâm này
Oai lực của Mật Ngôn
Đều sạch như Pháp Giới
Nên biết nghĩa chữ Lam (RAṂ)
Ấy là Tất cả Pháp
Vốn tịnh không cấu nhiễm
Do các pháp thanh tịnh
Tịnh, Nhiễm chẳng thể được

_ Chữ A Tâm Bồ Đề
Cội nguồn (bổn nguyên) của Chủng Trí
Mẹ của tất cả chữ
Ba đời mười phương Phật
Đã nói tất cả Pháp
Đều từ Thể chữ này
Vừa niệm tức đồng xưng
Hết thảy Pháp Như Lai
Ở mắt, quán chữ này
Liền hay thành Thiên nhãn
Bốn Tất (Tất Địa) khác đầy đủ
Các căn khác cũng vậy
Cho đến chỗ sắt, đá
An bày, Đế Quán Niệm (chân thật quán niệm)
Năng động với thành vàng
Tánh này thành Mật Ngôn
Ba đời Giáo Pháp Phật
Đều nói rõ chữ này
Nghĩa ấy nói không cùng
Đại khái nói chút ít
Ấy là các chữ khác
Đều xem ở chữ Phạn
Chẳng phải chữ phương này

_ Niệm Tụng đã xong rồi
Hồi Thí nhóm Phước ấy
Khiến khắp các hữu tình
Như Ta không có khác
Lại kính lễ Tam Bảo
Hối, Hy, Khuyến Thỉnh, Hướng
Ra ngoài chuyển Đại Thừa
Cho đến một, bốn câu
An tháp tu các Thiện
Gom chứa Phước Nghiệp này
Gia trì làm tư lương
Tất Địa mau hiện tiền

_ Lại diễn Lược Nghi Quỹ
Như trước tụng chữ A
Dùng phát Tâm Bồ Đề
Tả Phu (mu bàn chân trái) đề Hữu Cổ (Đùi vế phải)
Chân phải đè đùi trái
Là Như Lai Kiết Già
Liền kết Trí Quyền Ấn
Thân Thang với Quán Đảnh
Vỗ tay xong, lại bày
Nghi Kim Cang Hợp Chưởng
Tụng chữ Úm (OṂ) cúng dường

_ Lại Bộ Mẫu gia trì
Trụ Trí Quyền niệm tụng
Xong rồi, như Nghi trước
Lại nói Lược Nghi Quỹ
Trước dùng Nhất Thiết Phật
Bộ Tâm Ấn Mật Ngôn
An năm chỗ hoặc bốn
An kia dùng tám ngón
Phải đè trái xoa nhau
Giao hợp trong lòng tay
Kèm thẳng hai ngón cái
Dính cạnh ngón trỏ phải
Tụng Nhất Thiết Phật Tâm
“Úm, nhĩ nẵng, nhưng” *)

_ Nên dùng Ấn, Minh này
Lúc gia trì thân mình
Liền đồng thân chư Phật
Tụng Bộ Mẫu gia trì
Làm Trí Quyền niệm tụng
Như trước ngồi Toàn Gìa
Hoặc làm Luân Vương Toạ
Tréo chân hoặc thòng một
Cho đến thẳng một gối
Luân Vương: ba cách ngồi
Hoặc làm Phổ Hiền Toạ
Tay trái duỗi gối phải
Chân phải chận đùi trái
Thành Phổ Hiền Già Tọa
Cách ngồi tùy ý chọn
Tức Kim Cang Hợp Chưởng
Tụng chữ Úm cúng dường
Số biến xong, lại bày
Trí Quyền tụng Nhất Tự
Ngày dùng Bộ Tâm Ấn
Đêm dùng Phật Nhãn Ấn
An năm chỗ gia hộ

_ Tiếp nữa, lại diễn mở
Nghi niệm tụng đơn giản
Vì người tu Du Già
Không ưa thích nhiều Pháp
Hoặc việc đời cấp bách
Dùng Pháp rộng, sợ thiếu
Trước kết Trí Quyền Ấn
Tức Thắng Thân gia trì

_ Tiếp bày Nghi cúng dường
Liền làm Pháp niệm tụng
Không có chỗ thiếu sót
Nếu như bị cấp bách
Sợ bị thiếu thời gian
Chỉ làm Trí Quyền Ấn
Tụng Bổn Tôn Mật Ngôn
Bảy biến hoặc ba biến
Sau đó đi, đứng, ngồi
Tùy ý mà niệm tụng

_ Nếu cầm chuỗi (Châu) đếm số
Một trăm tám (108) chưa đủ
Khoảng giữa không được nói
Nếu cần nói nên quán
Chữ Lam (劣_ RAṂ) ở trên lưỡi
Khiến không bị gián đoạn
Hoặc chỉ kết Thắng Thân
Đại Tam Ma Gia Ấn
Rồi niệm tụng cũng được
Chi phần đều không thiếu

_ Vì sao hai Ấn này
Dùng một, thành đủ Pháp?
Do vừa kết Trí Quyền
Hay nhiếp chư Như Lai
Tùy thuận vào trụ xứ
Thắng Thân Tam Ma Gia
Khi kết Ấn này thời
Tất cả Ấn đã thành
Ba đời mười phương Phật
Đã nói ra Mật Ấn
Ở hết trong Ấn này
Lại tất cả Như Lai
Đồng một nhóm Mật Hợp
Thành một Pháp Thân này
Khiến không có hai Tướng
Chư Phật đều tùy vui
Bồ Tát đều kính phụng
Trời, Rồng, Người, Phi Nhân
Nhiếp phục mà quy mạng
Do nghĩa như vậy nên
Không chờ các Ấn trợ
Một thành tất cả Ấn

_ Nếu như thường niệm tụng
Nên y Nghi Quỹ rộng
Chẳng nên chấp nghĩa này
Mà sanh Tâm lười biếng
Ta ở các Du Già
Trong Kinh Đại Bí Mật
Gom góp điều cần yếu
Lược tập Kim Luân Vương
Lý Thú mau thành Phật
Du Già Nghi Quỹ hết.

NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG DU GIÀ NIỆM TỤNG NGHI QUỸ
_MỘT QUYỂN (Hết)_

Trường Khoan, Quý ba, tháng năm, ngày ba mươi
Ở chùa Khuyến Tu, viện Tây Minh viết xong_ Phạm Thừa một lần xem xét hiệu đính xong.
01/01/2010