khuất đà ca ni ca da

Phật Quang Đại Từ Điển

(屈陀迦尼迦耶) Pàli:Khuddaka-nikàya. Hán dịch: Tiểu bộ, Tiểu ni ca da. Cũng gọi: Khuất đà ca ni kha da. Bộ thứ 5 trong 5 bộ kinh bằng tiếng Pàli thuộc hệ thống kinh điển Nam truyền. Đại thể bộ kinh này do thu tập các truyền thuyết, kệ tụng, cách ngôn, v.v… trong 4 bộ Ni ca da: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ứng bộ kinh và Tăng chi bộ kinh mà thành. Vì chỉ gồm những thiên ngắn nên gọi là Tiểu bộ; hoặc có chỗ cho rằng do thu chép những tạp văn (Pàli:Khuddka-pàỉha, Tiểu tụng) làm đầu nên gọi là Tiểu bộ. Về nội dung kinh này có nhiều thuyết khác nhau. Cứ theo Thiện kiến luật tì bà sa quyển 1, thì Khuất đà ca ni ca da gồm 14 bộ: Pháp cú (Pàli:Dhamma-pada), Dụ (Pàli:Apadàna) Ẩu đà na (Pàli:Udàna), Y đế Phật đa già (Pàli:Ftivuttaka). Ni ba đa (Pàli:Sutta-nipàta), Tì ma na (Pàli: Vimàna-vatthu) Ti đa (Pàli: Petavatthu), Thế la (Pàli:Thera-gàthà), Thế lợi già đà (Pàli:Therì-gàthà), Bản sinh (Pàli:Jàtaka), Ni thế bà (Pàli:Niddesa), Ba trí tham tì đà (Pàli:Paỉisambhidà), Phật chủng tính (Pàli:Buddha-vaôsa) và Nhã dụng tạng (Pàli:Cariyà piỉaka). Còn trong bộ Nhất thiết thiện kiến (Pàli: Samantapàsàdika), bài tựa Trường bộ kinh chú (Pàli:Sumaígala-vilàsinì) và Tam tạngPàli của Tích lan thì thêm Tiểu tụng nữa mà thành 15 bộ. Tam tạng Pàli của Miến điện lại thêm Di lan đà vấn (Pàli: Milinda-paĩha), Kinh tập Pàli:Suttasaôgaha), Côn lặc luận (Pàli: Peỉakopadesa) và Chỉ đạo luận (Pàli: Netti) nữa mà thành 19 bộ. Tam tạngPàli Thái lan thì chỉ có 8 bộ trong 15 bộ do Tích lan truyền là: Pháp cú, Dụ, Ẩn đà na, Y đế Phật đa già, Ni ba đa, Ni thế bà và Ba trí tham tì đà. Nay nói qua về 15 bộ kinh của Tích lan như sau: 1. Tiểu dụng: Có 9 thiên, 4 thiên đầu nói về việc người mới vào đạo Phật cần phải tu học 3 qui y và 10 học xứ, 5 thiên sau thì ghi chép những nghi thức tán tụng. Cho đến nay, tín đồ Phật giáo của Tích lan vẫn noi theo nghi thức này. 2. Pháp cú: Có 26 chương, 423 bài tụng, các cách ngôn đạo đức Phật giáo, tương đương với kinh Pháp cú và Pháp cú thí dụ bản Hán dịch. 3. Ẩu đà na: Có 8 phẩm, 80 kinh, dùng văn vần(kệ tụng)và văn xuôi(trường hàng) khen ngợi quả A la hán và Niết bàn… 4. Y đế Phật đa già: Có 4 chương, 11 phẩm, cũng dùng văn vần và văn xuôi để nói rõ về pháp tu nhân đắc quả, tương đương với kinh Bản sự do ngài Huyền trang dịch. 5. Ni ba đa: Có 5 phẩm: Xà phẩm (Pàli: Uraga-vagga), Tiểu phẩm (Pàli:Cùơavagga), Đại phẩm (Pàli:Mahà-vagga), Bát phẩm (Pàli:Aỉỉhaka-vagga), Ba la diên phẩm (Pàli:Pàràyana-vagga); 4 phẩm đầu có 45 kinh, phẩm Ba la diên có 16 bài thơ, trong đó bao hàm những kinh điển ở thời kì sớm nhất. 6. Tì ma na. 7. Tì đa, cùng với Tì ma na đều là những thiên ngắn giải thích về tư tưởng nghiệp lực. So với các kinh khác trong Thánh điển Pàli, thì Tì đa và Tì ma na là những kinh xuất hiện muộn hơn. 8. Thế la: Thu chép những bài kệ của các vị Trưởng lão, gồm 107 chương, 1279 bài tụng. 9. Thế lợi già đà: Thu chép những bài kệ của các trưởng lão ni, gồm 73 chương, 522 bài tụng. 10. Bản sinh: Có 546 phẩm, viết về sự tích của bản sinh của đức Phật, ghi chép nhiều truyền thuyết ngoài Phật giáo. 11. Ni thế bà: Sách chú thích Tiểu phẩm trong Ni ba đa. 12. Ba trí tham tì đà: Thuộc về tạng Luận. 13. Dụ: Thu chép giáo thuyết của các vị đệ tử Phật và trưởng lão ni đã chứng quả A la hán, là những tác phẩm xuất hiện muộn nhất trong Thánh điểnPàli. 14. Phật chủng tính kinh: Có 25 chương, tường thuật sự tích của 24 vị Phật ra đời trong 12 kiếp quá khứ. 15. Nhã dụng tạng: Kể lại sự tích của đức Phật ở đời quá khứ khi còn là Bồ tát tu các hạnh Ba la mật. [X. Winternitz: Geschichte der indischen Literatur, Bd.II. (Diebuddhische Literatur); FourÀgamas in Chinise (Tỉ kì Chính trị)].