Không Lộ

Từ điển Đạo Uyển


空露; ?-1119 Thiền sư Việt Nam, thuộc đời thứ 9 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Sư sinh năm nào không rõ, chỉ biết là tịch năm 1119. Ông cha theo nghề chài lưới, đến đời Sư mới bỏ nghề, xuất gia theo Phật. Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), đời Lí Thánh Tông, Sư xuất gia với Thiền sư Hà Trạch, kết bạn với Thiền sư Giác Hải và Ðạo Hạnh. Sư có khuynh hướng tu Mật giáo, tương truyền rằng Sư có phép lạ như bay trong không trung, đi trên mặt nước, hàng phục cọp beo. Ngày 3 tháng 6 năm Hội Trường Ðại Khánh thứ 10 (1119), đời Lí Nhân Tông, Sư viên tịch, môn đồ thu xá lợi thờ tại chùa Nghiêm Quang. Chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang (1167) nguyên ở hữu ngạn sông Hồng đã bị bão lụt huỷ hoại. Năm 1630 dân dựng lại chùa ở tả ngạn sông Hồng, nay thuộc xã Vũ Nghĩa, tỉnh Thái Bình, được gọi là chùa Keo dưới. Sư có để bài kệ Ngôn Hoài và bài thơ Ngư Nhàn sau: Thơ Ngư Nhàn: 萬里青江萬里天。一村桑柘一村煙 漁翁睡著無人喚。過午醒來雪滿船 Vạn lí thanh giang, vạn lí thiên. Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên. Ngư ông thuỳ trước vô nhân hoán, Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền. *Muôn dặm sông dài, muôn dặm trời, Một làn dâu giá, một làn hơi. Ông chài mê ngủ không người gọi, Tỉnh giấc quá trưa tuyết đầy thuyền. Kệ Ngôn Hoài (Ngô Tất Tố dịch): 擇得龍蛇地可居。野情終日樂無餘 有時直上孤峰頂。長嘯一聲寒太虛 Trạch đắc long xà địa khả cư Dã tình chung nhật lạc vô dư Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư *Lựa nơi rồng rắn đất ưa người Cả buổi tình quê những mảng vui Có lúc thẳng lên lầu núi thẳm Một hơi sáo miệng lạnh bầu trời. Có sách cho rằng sư Không Lộ là Nguyễn Minh Không, nhưng theo Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ thì hai vị hoàn toàn khác nhau. Nguyễn Minh Không sinh năm 1076, mất năm 1141, là người trị bệnh hoá hổ cho Lí Thần Tông.