Không, Không tính

Từ điển Đạo Uyển


空,空性; S: śūnya (tính từ), śūnyatā (danh từ); nghĩa là “trống rỗng”, “rỗng tuếch”; Khái niệm trung tâm của đạo Phật, quan trọng nhất và cũng trừu tượng nhất. Trong thời đạo Phật nguyên thuỷ, kinh điển đã nhắc rằng, mọi sự vật là giả hợp, Hữu vi (s: saṃskṛta), trống rỗng (s: śūnya), Vô thường (s: anitya), Vô ngã (s: anātman) và Khổ (s: duḥkha). Trong Tiểu thừa, tính Không nhằm nói về thể tính của con người và được sử dụng như một tính từ (s: śūnya). Ðại thừa đi thêm một bước nữa, sử dụng Không như một danh từ (s: śūnyatā), xem Không là vạn sự, vạn sự là Không, tức mọi hiện tượng thân tâm đều không hề có tự tính (s: svabhāva). Mọi pháp đều chỉ là những dạng trình hiện (呈現; e: appearance; g: erscheinung), chúng xuất phát từ tính Không, là không. Tính Không vừa chứa tất cả mọi hiện tượng, vừa xuyên suốt các trình tự phát triển sự vật. Tuy thế, người ta cần phải tránh quan điểm hư vô (e: nihilism) dễ có khi luận về tính Không như vừa kể trên. Phải hiểu là sự vật không phải là không có, chúng có, nhưng chỉ là những dạng xuất hiện, là những trình hiện của một thể tính. Kể cả tư tưởng cũng là trình hiện của thể tính đó nên không thể dùng tư tưởng để tiếp cận ngược lại nó. Vì vậy tiếp cận tính Không là nội dung của các phép tu học, nhất là Thiền tông. Tính Không được Ðại thừa cho là thể tính tuyệt đối, tối thượng, không bị hạn lượng của nhị nguyên. Vì tính chất trừu tượng và chỉ nhờ trực ngộ mà thấy nên tính Không luôn luôn là đối tượng tranh luận trong các tông phái Phật giáo xưa nay. Ðại thừa dùng ẩn dụ sau đây để minh hoạ sự khác biệt trong quan điểm của Tiểu thừa và Ðại thừa về tính Không: Tiểu thừa xem sự vật như một cái thùng trống rỗng, Ðại thừa phủ nhận luôn sự hiện hữu của cái thùng đó, chủ trương một quan điểm vô ngã tuyệt đối. Trong bộ kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, tính Không được xem là cái chung nhất của tất cả mọi hiện tượng mâu thuẫn lẫn nhau; kinh này cho rằng Sắc và Không không hề khác nhau (Ma-ha bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh). Trung quán tông thì cho mọi sự vật đều trống rỗng, chúng chỉ dựa lên nhau mà có (Mười hai nhân duyên). Thể tính của toàn thế giới là Không, nó là “cái tĩnh lặng của thiên hình vạn trạng”. Tính Không là thể tính của mọi khái niệm, kể cả khái niệm “tính không” bao trùm ngôn ngữ. Vì vậy không thể dùng ngôn ngữ, dùng khái niệm nói về Không. Trung quán tông cho rằng, Tính Không có ba chức năng: nguồn gốc của tất cả mọi sinh thành của chúng sinh, của sự hoại diệt của chúng, đồng thời tạo cho chúng điều kiện thoát khỏi Luân hồi. Một khi con người dùng trí Bát-nhã kiến ngộ được Không là con người đạt Niết-bàn. Ðối với Duy thức tông (s: yogācāra, vijñānavāda) thì mọi sự đều trống rỗng vì chúng chỉ xuất phát từ Tâm (s: citta). Trong trường phái này thì Tâm và tính Không là một. Tại Tây Tạng, quan điểm tính Không cũng đóng một vai trò quan trọng trong khi truyền giáo lí Trung quán qua xứ này. Luận sư Ấn Ðộ Liên Hoa Giới (s: kamalaśīla) và Hoà thượng Ðại Thừa, đại diện của Thiền tông Trung Quốc tranh cluận nhau, liệu con đường giác ngộ chân lí phải qua từng cấp bậc (Tiệm ngộ) hay chỉ là một trực nhận bất ngờ (Ðốn ngộ). Cuối cùng, tại Tây Tạng, người ta chấp nhận con đường “từng cấp” và vì thế kể từ khoảng thế kỉ 11, người ta bắt đầu thiết lập nhiều phép tu và quan niệm triết học về tính Không, còn được ghi lại trong những tác phẩm gọi chung là Tất-đàn-đa (s: siddhānta). Tất cả mọi trường phái của Trung quán đều lấy quan điểm “hai chân lí” của Long Thụ làm gốc: Chân lí quy ước (s: saṃvṛti-satya), có giá trị trong đời sống bình thường, có giá trị cho các hiện tượng do Mười hai nhân duyên tạo nên, nhưng thật ra chúng không tồn tại thật sự; Chân lí tuyệt đối (s: paramārthasatya), là tính Không, là thể “nằm ngoài tồn tại hay không tồn tại”, là thể không thể nghĩ bàn – chỉ có thể thông đạt được qua sự trực nhận. Tất cả các điểm khác nhau giữa các phái thuộc Trung quán là hiểu thế nào về hai chân lí đó và làm sao mà tiếp cận, trực ngộ được tính Không. Các phép tu của Phật giáo Tây Tạng dần dần không chỉ tự giới hạn nơi những quan điểm triết học mà còn đi sâu vào các phép Tan-tra để tiếp cận tính Không. Ðặc biệt là phép tu Ðại thủ ấn (s: mahāmudrā) và Ðại cứu kính (s: atiyoga; t: dzogchen) chỉ rõ cho hành giả cách thể nhập kinh nghiệm về tính Không. Với thời gian, người ta có thể nhận ra một điểm khác biệt giữa Trung quán tông nguyên thuỷ và các giáo pháp Trung quán của Tây Tạng: nếu Trung quán chỉ nói tới tính Không bằng cách phủ nhận cái “đang là” thì các giáo phái này xem tính Không là một cái gì đó có tính chất khẳng định (e: positive) có thể nắm bắt được, tính Không này mang một tính chất “rộng mở”, có một mối liên hệ với Cực quang (s: ābhāsvara, ánh sáng rực rỡ, Na-rô lục pháp).