Khóa Thứ 10 Và 11 

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN 

DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI

Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo Luận 

Ngài Chơn đế Tam Tạng dịch chữ Phạn ra chữ Hán 

Sa môn Thích Thiện Hoa lược dịch và lược giải 

Giảng lần thứ nhất tại Phật Học Đường Nam Việt Ngày 12 tháng 9 năm Tân Sửu (11 10 61) 

 

BÀI THỨ NHẤT

CHƯƠNG THỨ NHẤT 

PHẦN NHÂN DUYÊN 

Nguyên nhân tạo luận. 

Giải thích tên Luận Đại thừa Khởi Tín. 

Nội dung của Luận này. 

Ngài Mã minh Bồ Tát tạo luận: 

  1. Lý lịch và tên 
  2. Nguyên nhơn ngộ đạo. 

Ngài Chơn Đế dịch luận. 

Lời nguyện cầu 

NGUYÊN NHÂN TẠO LUẬN NÀY 

Trong khoảng 600 năm, sau khi Phật nhập diệt, tại Ấn độ, phần thì phái Tiểu thừa nổi lên tranh chấp, không tin lý Đại thừa, phần thì ngoại đạo lập các tà thuyết phá hoại chánh pháp; tình trạng Phật giáo rất đen tối. 

Ngài Mã Minh Bồ Tát, trông thấy tình trạng ấy rất đau lòng, nên tạo ra luận này, để xô tà đỡ chánh: trừ những nghi ngờ của Tiểu thừa, phá các tà thuyết của ngoại đạo, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa. 

GIẢI THÍCH TÊN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN 

_ Luận. Luận là luận bàn lẽ tà chánh, quyết đoán điều nghi ngờ và lựa chọn những việc phải quấy. 

_Đại thừa. Chữ “Đại” là lớn, chữ “Thừa” là cởi. Đọc chữ “Thặng” nghĩa là cái xe. Theo đây phải đọc là “Thặng” mới đúng, song vì theo thói quen nên đọc là “Thừa”. 

Đại thừa có 5 nghĩa: 

  1. Vì đối với Tiểu nên gọi là Đại. 
  2. Quả Phật rộng lớn, thừa này sẽ đi đến quả Phật, nên gọi là Đại Thừa. 
  3. Chư Phật là bậc Đại nhân, song chẳng rời thừa này, nên gọi là Đại Thừa. 
  4. Các Bồ Tát là bậc Đại sĩ, đều y theo thừa này mà tu tập, nên gọi là Đại Thừa. 
  5. Vì thừa này rất rộng lớn, cứu độ chúng sanh đông nhiều nên gọi là Đại Thừa. 

LUẬN NÀY LẤY GÌ LÀM ĐẠI THỪA? 

Luận này lấy tâm chúng sanh làm Đại thừa. Bởi tâm chúng sanh: Thể nó lớn, Tướng nó to, Dụng nó đại, bao trùm tất cả các pháp thế gian, và xuất thế gian, nên gọi là Đại Thừa. 

Trọng tâm của luận này là nói: Thể, Tướng và Dụng của tâm chúng sanh. Vì tâm này là “Tổng tướng” (Tướng chung) của tất cả thánh phàm, mê ngộ, nhân quả …cho nên trong luận này cũng gọi là “Đại Tổng tướng pháp môn thể”. 

Tâm này có nghĩa “vận tải”: Các Đức Phật đều nương tâm này mà chứng Bồ Đề, Niết bàn. Bồ Tát nương tâm này mà rộng tu muôn hạnh: trên cầu quả Phật, dưới hoá độ chúng sanh. Chúng sanh cũng do tâm này mà trôi lặn trong dòng sanh tử luân hồi. Vì thế nên gọi tâm này là Đại thừa. 

Do ngộ lý này, nên cổ nhân có làm bài kệ: 

Dịch âm: 

Tam điểm như tinh tượng 

Hoành câu tợ nguyệt tà 

Phi mao tùng thử đắc 

Tổ Phật giả do tha. 

Dịch nghĩa 

Ba chấm như ngôi sao 

Uốn cong tợ trăng tà 

Chúng sanh từ đâu có 

Chư Phật cũng do đây. 

_Khởi tín. Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là “Đại thừa khởi tín”. Đáng lẽ phải nói: “Khởi Đại thừa tín”; nghĩa là khởi lòng tin Đại thừa; song vì chúng sanh sau khi thấu rõ Đại thừa rồi, mới phát khởi lòng khởi tin, nên gọi “Đại thừa khởi tín”. 

NỘI DUNG CỦA LUẬN NÀY 

Ngài Mã Minh Bồ Tát căn cứ theo kinh Lăng Già, kinh Tư Ích và các kinh Đại thừa mà tạo ra luận này. Nội dung của luận này là Phát minh lý Duy tâm hay Duy thức đem về nhất tâm, vạch rõ nguồn gốc mê ngộ, chỉ bày đường tắt tu hành, tóm các nghĩa lý sâu rộng của Phật nói, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa. 

NGÀI MÃ MINH BỔ TÁT 

LÝ LỊCH VÀ TÊN 

Ngài Mã Minh Bồ Tát, người xứ Ba la nại, phía tây Thiên trúc (Ấn Độ). Ngài là Tổ thứ 12 ở Thiên trúc, nối ngôi của Tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa Tôn giả. 

Vì có 3 nguyên nhân, nên gọi Ngài là Mã Minh: 

  1. Khi Ngài vừa sanh ra, thì các con ngựa trong xứ ấy đều buồn mà kêu to lên. 
  2. Ngài đàn rất hay, mỗi khi Ngài đàn thì những con ngựa được nghe tiếng đàn đều buồn mà kêu lên. 
  3. Khi thuyết pháp, các con ngựa nghe đến tiếng Ngài, đều rơi nước mắt kêu to lên và không ăn. Mặt dù người ta thử bỏ đói chúng vài ba ngày, rồi đến lúc Ngài thuyết pháp mới bỏ cỏ cho ăn, nhưng chúng cũng không ăn. Bởi thế nên gọi là Mã Minh (ngựa kêu). 

 

NGUYÊN NHÂN NGÀI NGỘ ĐẠO 

Khi gặp Tổ Phú Na Dạ Xa Tôn giả,  

Ngài hỏi: Làm sao biết Phật? 

Tổ đáp: Không biết là biết Phật. 

Ngài hỏi: Không biết làm sao biết là Phật? 

Tổ đáp: Không biết làm sao biết không phải là Phật. 

Ngài nói: Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa. 

Tổ nói: Nghĩa của ông là nghĩa cây. 

Tổ hỏi tiếp: Thế nào, ông nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa? 

Ngài đáp: Vì Tổ nói qua nói lại như cưa vậy. 

Ngài hỏi tiếp: Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây. 

Tổ đáp: Vì cây bị cưa vậy. Thế nghĩa của ông bị tôi phá rồi. Ngài nghe rồi liền ngộ đạo. 

Trong kinh Ma ha ma da, Phật có huyền ký (ghi trước) rằng: “Sau khi Như Lai diệt độ 600 năm, các ngoại đạo tà thuyết thịnh hành, huỷ diệt Phật pháp. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát ra đời tên là Mã Minh, nói pháp rất hay, phá trừ tà thuyết, hàng phục ngoại đạo”. 

Bởi thế nên biết Ngài Mã Minh, cũng là một vị Bồ Tát tái lai. Chúng ta nên học luận này, phải lấy làm hy hữu, gia tâm nghiên cứu, chớ nên xem thường. 

NGÀI CHƠN ĐẾ 

Luận này có hai nhà dịch: Ngài Chơn đế và Ngài Thật xoa Nan đà. Bản dịch này là của Ngài Chơn đế. Nguyên tiếng Phạn gọi là “Ba La Mạc Đà”; Tàu dịch là “Chơn đế”. Ngài ở nước Ưu thiền ni, phía Tây Ấn Độ. 

Ngài qua Tàu nhằm đời vua Nguyên Đế nhà Lương, niên hiệu Thừa Thánh, năm thứ ba (Mậu thìn). Ngài ở chùa Kiến Hưng, đất Hoàng Châu, dịch bộ Luận này. 

 

LỜI CẦU NGUYỆN 

CHÁNH VĂN

Kính lạy Phật, Pháp và Tăng, vì muốn cho chúng sanh bỏ chấp tà, trừ các nghi ngờ, khởi lòng tin Đại thừa, để cho giống Phật chẳng mất, nên con tạo ra luận Đại thừa Khởi tín này. 

LƯỢC GIẢI

Các vị Bồ Tát khi làm việc gì, trước nhất là để tâm qui kính Tam bảo; cũng như con hướng về cha, trò hướng về thầy, dân chúng hướng về vị lãnh tụ của nước; và nguyện cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của mình hợp với chánh pháp và kết quả viên mãn. 

Đoạn này là Ngài Mã Minh Bồ Tát trước khi tạo luận, nói bài kệ quy kính Tam bảo và nguyện cầu Tam bảo gia hộ. 

 

CHƯƠNG THỨ NHẤT 

PHẦN NHÂN DUYÊN 

CHÁNH VĂN

Vì tám nhân duyên sau đây nên tạo ra luận này: 

  1. Vì muốn cho chúng sanh xa lìa các khổ, đặng vui rốt ráo nên tạo luận này, không phải vì danh lợi ở thế gian, hay cầu người cung kính. 
  2. Vì muốn cho chúng sanh hiểu biết chân chánh, khỏi sự lầm lạc, nên tạo luận này để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai. 
  3. Muốn cho những chúng sanh căn lành đã thuần thục ( mãn Thập tín), lòng tin chẳng thối lui và có thể lãnh thọ pháp Đại thừa, nên tạo luận này.  
  4. Muốn cho những chúng sanh căn lành mỏng ít (chưa mãn Thập tín) tu tập tín tâm. 
  5. Vì bảo hộ đạo tâm của những chúng sanh ác nghiệp sâu dày, nên chỉ bày phương tiện, để chúng tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa các phiền não si, mạn …và ra khỏi lưới tà.  
  6. Vì muốn đối trị tâm niệm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa, nên chỉ bày cho họ tu tập Chỉ Quán. 
  7. Vì những chúng sanh căn tánh kém cỏi, nên chỉ bày phương tiện chuyên tâm niệm Phật, sanh về cõi Phật, để cho tín tâm quyết định không thối chuyển. 
  8. Chỉ bày lợi ích để khuyên người tu hành. 

Tóm lại, vì tám nhân duyên trên, nên tạo ra luận này. 

LƯỢC GIẢI

Luận này chia ra làm 5 phần, đây là phần thứ nhất, Ngài Mã Minh Bồ Tát vì tám nhân duyên sau đây nên tạo ra luận này: 

Nhân duyên thứ nhất: Chư Phật và Bồ Tát khi làm việc gì, đều do lòng từ bi, muốn cho chúng sanh khỏi khổ được vui. Tất cả chúng sanh vì mê bản tâm của mình mà thọ các khổ sanh tử, không được vui Niết bàn. Trong luận này, Ngài Mã Minh Bồ Tát chỉ rõ bản tâm, để cho chúng sanh tự tin mình có bản tâm thanh tịnh (pháp Đại thừa) là cái khả năng để thành Phật. Khi chúng sanh đã ngộ được bản tâm của mình rồi, thì sẽ hết khổ sanh tử, được vui Niết bàn. Vì thế nên tạo ra luận này. 

Nhơn duyên thứ hai: Các đức Như Lai đều y nơi “nhất tâm” tu hành mà được thành đạo chứng quả. Luận này nói về “nhất tâm” là nghĩa căn bản của Như Lai, để cho chúng sanh hiểu biết đường lối tu hành một cách chơn chánh, khỏi bị lạc vào tà kiến (chấp tà). 

Nhân duyên thứ ba: Luận chủ muốn cho hàng Thập tín Bồ Tát đối với pháp Đại thừa, lòng tin chắc chắn, không bị thối lui, để tiến đến bậc Thập trụ. 

Nhân duyên thứ tư: Vì những vị Bồ Tát chưa viên mãn Thập tín, muốn cho họ tu tập tín tâm được viên mãn. 

Nhân duyên thứ năm: Vì những chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, bị lưới tà làm chướng ngại, nên tạo ra luận này để chỉ bày phương tiện tu hành, như tụng kinh, sám hối …hầu diệt trừ các nghiệp chướng. 

Nhân duyên thứ sáu: Vì đối trị tâm lầm lỗi của phàm phu và Nhị thừa, nên Luận chủ tạo luận này, dạy tu “Chỉ” để trừ bệnh “Vọng tưởng tán loạn” của phàm phu; và dạy tu “Quán” để đối trị bệnh “Trầm không thú tịch” (tham luyến cảnh thiên không Niết bàn) của Nhị thừa. 

(Quán nhân duyên sanh, thấy các pháp chẳng không: Thánh, Phàm đủ cả. Bởi có phàm phu nên phải tu đức đại bi để cứu đời; vì có Thánh, nên phải phát trí huệ, để cầu quả Phật). 

Nhân duyên thứ bảy: Vì những người lo sợ đời này tu hành nếu không chứng quả, thì trở lại đời sau bị nghịch duyên làm thối chuyển đạo tâm, hoặc không nhớ lại kiếp trước để tu hành, nên tạo luận này dạy phương tiện niệm Phật, để họ cầu sanh về cõi Phật, thường được nghe Phật thuyết pháp và Bồ Tát khuyên tu, làm cho hành giả tín tâm chẳng thối chuyển. 

Nhân duyên thứ tám: Vì những chúng sanh giải đãi, nên Luận chủ nói sự lợi ích tu hành, để khuyên người tiến tu. 

CHÁNH VĂN

Hỏi: _ Pháp Đại thừa, trong các kinh đã nói nhiều, cần gì phải lập trở lại? 

Đáp: _ Khi Phật còn trụ thế, vì ba nghiệp của Ngài đều thù thắng, nên một tiếng của Phật nói ra (nhất âm diễn xướng) tuỳ theo căn cơ của mỗi loài đều được hiểu cả, không cần phải tạo luận. Song sau khi Phật diệt độ, các chúng sanh trình độ không đồng đều, nhân duyên lãnh thọ giáo pháp cũng như sự lãnh hội của mỗi người có khác nhau: có chúng sanh chỉ tự lực học hỏi rất nhiều kinh điển mới hiểu ngộ; có chúng sanh cũng dùng tự lực học ít mà hiểu ngộ nhiều; có chúng sanh không thể tự lực mà phải nhờ xem các bộ đại luận, mới hiểu ngộ; có chúng sanh vì thấy các bộ đại luận rất phiền phức, nên muốn tóm lại văn ít mà thâu nhiều nghĩa. Vì thế nên Luận chủ tạo ra luận này, để tóm tắt giáo pháp quảng đại thậm thâm và nghĩa lý vô biên của Đức Như Lai. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này, Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải đáp nghi vấn của độc giả. 

Đại ý lời hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh luận đã nói nhiều, nay cần gì phải tạo luận nói lập trở lại? 

Đại ý lời đáp: Khi Phật còn tại thế do phước huệ song toàn, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thù thắng; và trình độ của chúng sanh thụ giáo cũng được ưu hạng, nên một lời của Phật nói ra (viên âm), tất cả các loài tuỳ theo trình độ của mình, đều hiểu được cả. Bởi thế nên không cần phải tạo luận. Song sau khi Phật nhập diệt, người thay thế Phật truyền giáo không được như Ngài, phần thì chúng sanh trình độ không đồng, nhân duyên ngộ đạo của mỗi người có khác: Có người nhờ xem kinh mà ngộ đạo, có người nhờ xem luận mà ngộ đạo, có người ưa nghiên cứu những bộ đại luận, có người chỉ muốn học những quyển luận, văn ít mà bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Vì muốn tóm tắt các nghĩa lý sâu rộng vô biên của Phật, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo ra luận này. 

 

CHƯƠNG THỨ HAI 

PHẦN ĐỊNH DANH NGHĨA 

CHÁNH VĂN

Chương này có hai phần: 

  1. PHÁP ĐẠI THỪA (Thể Đại thừa) tức là tâm chúng sanh. Tâm này tóm thâu hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian và nói lên được nghĩa Đại thừa. 

Tại sao vậy? _ Vì tâm này có hai tướng: 

  1. Tướng Chân như tức là cái Thể của Đại thừa. 
  2. Tướng nhân duyên sanh diệt tức là Thể, Tướng, Dụng của Đại thừa. 
  3. NGHĨA ĐẠI THỪA: “Đại” là lớn, lớn cả 3 phương diện: 
  4. Thể lớn: Chân như bình đẳng, bất tăng bất giảm. Bản thể của tất cả pháp. 
  5. Tướng lớn: Như Lai tạng chứa đầy vô lượng tánh công đức. 
  6. Dụng lớn: Vì nó sanh tất cả nhân quả lành của thế gian và xuất thế gian. 

“Thừa” là chiếc xe, tất cả chư Phật đều đi xe này (pháp Đại thừa); tất cả các vị Bồ Tát cũng đều đi xe này mà đến chỗ Phật. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về phần lập nghĩa, tức là xác định cái danh nghĩa Đại thừa. Phần lập nghĩa này chia làm hai: Pháp Đại thừa và Nghĩa Đại thừa. 

  1. Pháp đại thừa: là tâm chúng sanh. 

Tâm này có hai tướng: 

  1. Tướng Chân như tức là chỉ riêng về phần thể tánh chân tâm thanh tịnh; dụ như “tánh trong sạch” của nước. 
  2. Tướng nhân duyên sanh diệt tức là chỉ chung cho Thể, Tướng và Dụng của chân vọng hoà hợp; dụ như tánh “trong sạch” và “tướng nhơ đục” lẫn lộn của nước. 
  3. Nghĩa đại thừa: Đại thừa nghĩa là gì? 

“Đại” là lớn; “Thừa” (thặng) là chiếc xe: chiếc xe lớn. 

Tâm chúng sanh, Thể, Tướng và Dụng đều lớn. Thể thì bao trùm tất cả pháp, Tướng thì chứa đựng hằng sa công đức, còn Dụng thì xuất sanh tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. 

Khế kinh chép: “Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới, (không có một pháp nào chẳng từ tâm này mà lưu xuất, và cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm này). 

Tâm này bao trùm tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Các Đức Phật đều nương tâm này mà được thành đạo. Các vị Bồ Tát cũng nương tâm này để đến chỗ Phật. Chúng sanh cũng do tâm này mà luân hồi trong 6 đường. Tâm này cũng như chiếc xe lớn chở tất cả người và vật. Bởi thế nên gọi tâm này là pháp Đại thừa. 

Tại sao không nói: “Tâm phật” là pháp Đại thừa mà chỉ nói “Tâm chúng sanh”, là pháp đại thừa?_ Vì có hai lý: 

  1. Nếu nói “Tâm Phật” thì chỉ tóm thâu được pháp thanh tịnh vô lậu mà thôi; còn nói “Tâm chúng sanh”, lại tóm thâu được cả pháp hữu lậu, vô lậu, thế gian và xuất thế gian. 
  2. Nói Tâm chúng sanh là đứng về phần “nhân” mà nói; vì chưa phải nhiễm hay tịnh, nên mới có thể tuỳ nhiễm duyên khởi ra nhiễm pháp, tuỳ tịnh duyên khởi ra tịnh pháp. 

GIẢI DANH TỪ

Tướng chân như: Chữ “Chân” là chân thật không hư dối; chữ “Như” là bình đẳng như như, không sanh diệt, nghĩa là tướng chân thật bình đẳng như như không sanh diệt; tức là “Thật tướng” hay “Chân tâm” hay “Viên giác” đây là cái “Thể của Đại thừa”. Đoạn này gọi “Tướng chân như” tức là ở đoạn văn sau gọi ” Môn chân như”. 

Tướng nhân duyên sanh diệt: Vì nhân duyên sanh diệt, nên đủ cả các tướng: nhiễm, tịnh, thánh, phàm v.v…Đoạn này gọi “Tướng nhân duyên sanh diệt” tức là ở đoạn văn sau gọi “Môn sanh diệt”. 

Như Lai tạng, có 3 nghĩa: 

  1. Tánh Như Lai (tánh Phật) bị các phiền não phú tàng (che đậy), tức là chỉ cho chân như còn bị triền phược; như vàng còn ở trong khoáng. 
  2. Tánh Như Lai bao trùm tất cả pháp (nghĩa năng tàng) 
  3. Tánh Như Lai là chỗ xuất sanh ra vô lượng công đức (nghĩa sở tàng). 

Tánh công đức: Công đức sẵn có trong Như Lai tàng. Công đức này không phải do tu tập mà được; song phải nhờ sự tu tập làm trợ duyên nó mới hiện. Chúng sanh vì thiếu sự tu tập làm trợ duyên, nên tánh công đức này không phát hiện. 

Nhân quả lành_ Tại sao luận này chỉ nói “nhân quả lành” mà không nói đến “nhân quả ác”? 

_ Vì có ba nghĩa: 

  1. Nhân quả ác là thứ nhiễm ô hư vọng; vì tâm này chỉ bao trùm vô lượng hằng sa công đức, nên không hiệp với thứ nhiễm ô hư vọng. Dụ như nước có cả chất trong và đục; song “chất đục” không hợp với tánh nước, mà “chất trong” mới hiệp với nước; vì khi lóng bỏ bùn rồi thì chỉ còn chất nước trong. Cũng thế, pháp nhiễm ô không hiệp với tâm này, mà duy có nhân quả lành mới hiệp với tâm này. 

2.Ngài Mã Minh chỉ nói về “Nhân quả lành”, là vì để chúng sanh thấy tâm mình sanh ra các nhân quả lành, nên sanh tâm hâm mộ sự tu hành, mong cầu quả Phật. 

  1. Ngài Mã Minh Bồ Tát đã lên Thánh vị, nên trong A lại da thức của Ngài chỉ toàn nhân quả lành. Vì Ngài chỉ thấy thuần thiện, nên Ngài chỉ nói “nhân quả lành” mà không nói đến “nhân quả ác”. 

Nhân quả lành thế gian: Nhân quả thuộc về hữu lậu thiện, còn quanh quẩn trong ba cõi thế gian là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. 

Nhân quả lành xuất thế gian: Nhân quả thuộc về vô lậu thanh tịnh, ra ngoài tam giới.

 

BÀI THỨ HAI

  1. Nói về Tâm Chân như, có 2 nghĩa: 

Thật không (như thật không) 

Thật có (như thật bất không) 

 

  1. NÓI RÕ NGHĨA CHÁNH 

CHÁNH VĂN

Cái tâm này (chúng sanh tâm) có hai phần: I. Tâm chân như, II. Tâm sanh diệt. Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tất cả pháp. 

LƯỢC GIẢI

Chương này giải thích tâm chúng sanh là pháp Đại thừa. Pháp Đại thừa có hai phần: Chân như và Sanh diệt. Chân như là “thể” rộng lớn của tâm; Sanh diệt là “Tướng” và “Dụng” rộng lớn của tâm. Phải phân chia làm hai phương diện như vậy, mới rõ được Thể, Tướng và Dụng của tâm. 

Nếu đứng về “Thể chân như”, thì suy nghĩ không trúng, luận bàn chẳng nhầm, lìa các văn tự, ly tất cả tướng; như thế làm sao có các pháp sai biệt được. Bởi thế nên phải nói đến Tướng và Dụng là “môn sanh diệt” mới rõ được hành tướng sai biệt của “Tâm chúng sinh”. 

Chân như là “Thể”, còn Sanh diệt là “Tướng” và “Dụng”. Tướng và Dụng không rời Thể, Thể không rời Tướng và Dụng; cũng như nước không rời sóng, sóng không rời nước. Bởi Thể, Tướng và Dụng không rời nhau, nên mỗi một phần đều bao hàm được tất cả pháp. 

Vì Thể và Dụng không rời nhau, nên đứng về phần Chân như mà luận, thì tuy “thanh tịnh bất biến”, mà vẫn tuỳ duyên sanh diệt; còn đứng về phần Sanh diệt mà xem, thì tuy “tuỳ duyên sai biệt” mà vẫn như như bất biến. 

 

***

  1. Tâm chân như 

CHÁNH VĂN

Tâm Chân như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn bao trùm tất cả các pháp (nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể). 

Sở dĩ các pháp sai khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệm thì không còn các cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến giờ, không thể dùng danh tự để kêu gọi, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng tâm suy nghĩ được, không có biến đổi và cũng không phá hoại vì nó rốt ráo bình đẳng, chỉ có một “Tâm Chân như” mà thôi. 

LƯỢC GIẢI

Tâm Chân như này, tánh không sanh diệt và bao trùm tất cả nhân quả, thánh phàm, y báo chánh báo …Bởi thế nên nguyên văn chữ Hán gọi là “nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể”. 

Vì vọng niệm nên thấy có tất cả các pháp sai khác; cũng như vì mắt nhặm nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Nếu như lìa vọng niệm rồi, thì không có tất cả cảnh giới sai khác sai khác, mà chỉ còn một “Tâm Chân như”; cũng như mắt hết nhặm thì chỉ còn hư không một màu trong tịnh. 

Bởi tất cả pháp là “Tâm Chân như”, nên không thể phá hoại, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng danh tự để kêu gọi và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ được. Từ hồi nào đến giờ, nó rốt ráo bình đẳng, không có sai khác. Bởi thế nên trong Khế kinh chép: 

“Thị pháp trụ pháp vị 

Thế gian tướng thường trụ” 

Nghĩa là: Pháp nào vẫn an trụ địa vị của pháp nấy; tướng thế gian là tướng thường trụ. 

GIẢI DANH TỪ 

Tâm Chân như: Vì tâm này không hư ngụy, nên gọi là “Chân”, không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển dời, từ hồi nào đến giờ nó vẫn như thế, nên gọi là “Như”. Tâm Chân như cũng gọi là “Chân tâm” hay “Viên giác”. 

Nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể: Câu này nghĩa lý rất sâu rộng, xin giải sơ lược: Tâm Chân như là Thể chung của “Nhất pháp giới”._Chữ “Nhất” là chỉ cho sự bình đẳng bất nhị, thuộc về lời nói ngăn chấp, chớ không phải lời nói tiêu biểu. _Chữ “Giới” là chỉ cho “Tâm Chân như” này, nó là “nhân” là “giống” là “bản năng” sanh ra tất cả các pháp, nên gọi là “nhất pháp giới”. Nhất pháp giới là toàn tánh của vũ trụ. Ở nơi nhất pháp giới này, có thể phân ra tổng tướng (thể) và biệt tướng (muôn pháp sai khác). 

Tâm Chân như là “Tổng tướng” (tướng chung) của tất cả pháp; vì thể tánh nó bình đẳng song cũng tóm thâu tất cả tướng, nên gọi là “Đại”. 

Chữ “Pháp” nghĩa là:”giữ gìn tự tánh và làm cho người hiểu biết”. Chữ “môn” là nghĩa ra vào thông suốt. Tất cả chúng sanh có thể do pháp môn này tu hành, đến được mục đích cứu cánh; nếu rời “Đại tổng tướng pháp môn” này, thì không thể đạt đến quả vị Phật. Nói tóm lại:  

Nhất pháp giới là “Thể” của tâm Chân như. 

Đại tổng tướng là “Tướng” của tâm Chân như. 

Pháp môn là “Dụng” của tâm Chân như. 

CHÁNH VĂN

Tất cả những lời nói, đều do vọng niệm phân biệt mà sanh, chỉ do giả danh chớ không thật thể . Cho đến danh từ Chân như cũng không thực; chẳng qua là một danh từ túng cùng của lời nói, dùng để trừ bỏ các danh từ khác (vọng) mà thôi (nhân ngôn khiển ngôn). Song cái “Thể” của Chân như không thể trừ bỏ và cũng không thể dựng lập. Phải biết: Tất cả các pháp cũng không thể trừ bỏ vì đều là “Chân” vậy, và cũng không thể dựng lập, vì đều là “Như” vậy. Bởi tất cả các pháp đều là Chân như, nên không thể nói bàn và suy nghĩ được.  

LƯỢC GIẢI

Tất cả những lời nói phô, đều do vọng niệm phân biệt; danh từ chỉ là hư giả, chớ không có thật thể. Cho đến cái danh từ Chân như cũng là hư giả mà thôi. Danh từ Chân như hay Phật là danh từ túng cùng trong các danh từ tạm đặt ra như thế để trừ các danh từ vọng nhiễm của thế gian. Cũng như ông thầy giáo, tạm dùng tiếng gõ bảng để trừ tiếng ồn của học sinh (dĩ ngôn diệt ngôn). Đến khi tiếng ồn của học sinh hết, thì tiếng gõ bảng của thầy giáo cũng không còn. Cũng như khi vọng mất, chúng sanh hết, thì Chân như hay Phật cũng chẳng còn. 

Song, chỉ bỏ cái danh từ (Chân như) hư giả, chớ thể tánh chơn như thì không thể bỏ hay lấy. Cho đến các pháp cũng không thể bỏ và lấy được. Vì các pháp đều là “Chân”, nên không thể bỏ, và “Như” nên không thể lấy. Bởi các pháp đều chân như, nên không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm suy nghĩ đến được. 

Tóm lại, vì vọng niệm phân biệt, nên thấy có các pháp sai biệt. Nếu vọng niệm phân biệt hết, thì tất cả các pháp không còn những tướng sai biệt, mà đều là Chân như. Bởi các pháp đều là chân như, nên nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhầm và cũng không thể lấy hay bỏ được. 

CHÁNH VĂN

Hỏi: _Nếu “Chân như”, mà không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm suy nghĩ, thì chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộ nhận được? 

Đáp:_ Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà không có “năng nói” và “sở nói”; tuy có suy nghĩ, mà không có “năng suy nghĩ” và sở “suy nghĩ”, thì người ấy được tuỳ thuận Chân như. 

Còn người nào lìa các niệm (vọng niệm) thì người đó được nhập Chân như. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải thích sự nghi ngờ của độc giả. 

Hỏi: _ Nếu Chân như mà không thể dùng lời nói luận bàn và tâm suy nghĩ được thì, chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộ nhập Chân như? 

Đáp:_ Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói năng suy nghĩ, mà không chấp nơi nói năng suy nghĩ, thì người đó được tuỳ thuận Chân như. Tiến lên một tầng nữa, nếu người nào lìa các vọng niệm, thì người ấy nhập được Chân như. Nghĩa là “Vọng” hết, thì “Chân” hiện. Đoạn này đồng một ý nghĩa với bốn chữ “bất tuỳ phân biệt” trong Kinh Lăng Nghiêm. 

CHÁNH VĂN

Lại nữa, nếu căn cứ trên danh từ (ngôn thuyết) mà phân biệt, thì chữ Chân Như như có 2 nghĩa: 

1.THẬT KHÔNG(như thật không), tức là chỉ nói đến cái thể tánh rốt ráo chân thật của Chân như. Nghĩa là: từ hồi nào đến giờ, Chân như không có các tâm niệm hư vọng, không có tất cả các tướng sai biệt, nói chung là thật không có các pháp tạp nhiễm. 

Phải biết: Chân như phi tướng “có “, phi tướng “không”; phi tướng “chẳng phải có”, phi tướng “chẳng phải không”; phi tướng “cũng có và cũng không”; phi tướng “một”, phi tướng “khác”; phi tướng “chẳng phải một, chẳng phải khác”; phi tướng “cũng một cũng khác”. 

Nói tóm lại, vì chân như không có tất cả các vọng niệm phân biệt của chúng sanh, nên gọi rằng “thật không”. Nếu khi vọng tâm phân biệt hết rồi thì cũng không còn cái gì gọi là”không” nữa. 

LƯỢC GIẢI

Đứng về phương diện lý tánh tuyệt đối, thì Chơn như không thể kêu gọi là gì được (ly danh tự tướng), không thể dùng lời nói luận bàn (ly ngôn thuyết tướng) và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ được (ly tâm duyên tướng). Song, nếu căn cứ trên văn tự lời nói mà luận, thì Chân như có hai nghĩa: 1. Thật không và 2. Thật có. 

Đoạn này nói về nghĩa”thật không” (ly nhất thế tướng), tức là chỉ cho cái “thể Chân như”, từ hồi nào đến giờ, nó không có các vọng niệm, không có các nhiễm pháp và không có các tướng sai khác. Nó phi tất cả các tướng: Có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, cho đến phi tướng đồng, tướng dị và tướng không đồng không dị… 

Nói tóm lại là nó không có tất cả vọng niệm phân biệt của chúng sanh, và khi rời các vọng niệm rồi, thì cái gọi là “không” đó cũng không còn. 

CHÁNH VĂN

  1. THẬT CÓ (như thật bất không) 

tự thể Chân như, thật có đủ công đức vô lậu (tức nhất thế pháp). Bởi Chân như không có các vọng, nên tức là Chân tâm. Cái Chân tâm này thường còn không biến đổi và đầy đủ các pháp thanh tịnh; nên nói “thật có”(bất không). 

Nhưng cái cảnh giới “thật có” này, cũng không có hình tướng gì để nắm lấy được, vì nó lìa cả vọng niệm, nên chỉ có người tu chứng mới biết được mà thôi. 

LƯỢC GIẢI

Trong đoạn này nói: Chân như có hai nghĩa, tức là ý nói Chân như có hai thứ. _ Đoạn trên nói về phương diện “thể tánh” của Chân như, thì không có các vọng niệm, không có các pháp nhiễm ô, tức là “ly nhất thế tướng”, nên nói “thật không”. 

Đoạn này nói về phương diện “tướng dụng” của Chân như, thì đầy đủ vô lượng hằng sa công đức, thế là “tức nhất thế pháp”, nên nói “thật có”. Nhưng cảnh giới “thật có” này, không có hình tướng gì để chỉ bày ra được, vì đã lìa các vọng niệm phân biệt, nên chỉ có người chứng ngộ mới biết được thôi. 

 

BÀI THỨ BA 

CHƯƠNG THỨ BA 

PHẦN GIẢI THÍCH

  1. Tâm Sanh diệt (Thức A lại da) 

CHÁNH VĂN

Do Như Lai tạng (chân) mà có “Tâm sanh diệt”; nghĩa là Chân (không sanh diệt) Vọng(sanh diệt) hoà hiệp, không phải “một” không phải “khác” gọi là thức A lại da (tâm sanh diệt). Thức này tóm thâu tất cả các pháp và xuất sanh tất cả các pháp. Thức này có hai nghĩa “Giác” và “Bất giác” (mê). 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trước nói chỉ có một tâm mà chia ra làm hai phương diện: Tâm Chân như và Tâm sanh diệt. 

Đoạn này nói do Như Lai tạng mà có “Tâm sanh diệt” tức là thức A lại da. Vì thức A lại da là do chân vọng hoà hiệp, không phải một không phải khác, nên có hai nghĩa “Giác” và “Bất giác”. Thức này có công năng giữ gìn tất cả các pháp và sanh ra các pháp. 

Trên đây nói thức A lại đã có 2 nghĩa, không nên hiểu lầm thức A lại da có hai thứ “Giác” và “Bất giác” khác nhau; mà nên hiểu rằng: thức này có hai trạng thái, tuỳ nhiễm duyên thì trạng thái “Bất giác” hiện, tuỳ tịnh duyên thì trạng thái “Giác” hiện. Cũng như sáng với tối, chỉ là hiện tượng của thái hư mà thôi. 

Chúng ta cũng nên phân biệt ba danh từ: Chân như, Như Lai tạng và thức A lại da là đồng hay khác, và liên quan với nhau như thế nào. 

_” Chân như”là chỉ cho cái “Tổng thể” của tâm; “Như Lai tạng” là chỉ cho cái “Tổng tướng” của tâm, “thức A lại da” là chỉ cho cái “Thể, Tướng và Dụng” về nhiễm và tịnh hoà hiệp của tâm. 

Chân như, dụ như “tánh” ướt của nước; Như Lai tạng, dụ như “nước” (hình tướng của nước); A lại da, dụ như “sóng”(dụng của nước). Trong sóng gồm có cả tánh ướt và nước. Thế là thức A lại da (Tâm sanh diệt) gồm cả “Thể, Tướng và Dụng” về nhiễm và tịnh hoà hiệp của tâm. 

Tại sao không nói “do Chân như, có Tâm Sanh diệt” mà chỉ nói “do Như Lai tạng có Tâm Sanh diệt”? _ Vì Chân như là “Thể” của nhất tâm; Như Lai tạng là “Tướng” của nhất tâm; Chân như thì thanh tịnh không động, còn Như Lai tạng tuy rằng cũng chân tịnh, nhưng còn bị phiền não che phủ, làm nhơn cho động, nên chỉ nói “do Như Lai tạng có tâm sanh diệt là thức A lại da” mà không nói “do Chân như sanh ra thức A lại da” (Tâm Sanh diệt). 

Tâm Sanh diệt này có hai phần: 

  1. Sanh diệt về phần lưu chuyển sanh tử, 
  2. Sanh diệt về phần hoàn tịnh (trở lại bản tánh Niết bàn). 

GIẢI DANH TỪ 

Như Lai tạng, có hai nghĩa: 1. Như Lai tại triền, nghĩa là tánh Phật (Như Lai) còn bị chứa trong vòng phiền não nhiễm ô. 2. Như Lai xuất triền, nghĩa là tánh Phật (Như Lai) chứa đựng các pháp vô lậu thanh tịnh, đã ra khỏi phiền não nhiễm ô. 

Song, trong kinh luận nói đến Như Lai tạng, là phần nhiều dùng cái nghĩa “Như Lai tại triền” (tánh Phật bị chứa trong phiền não). 

Câu “Chân vọng hoà hiệp, không phải một và không phải khác”: 

“Chân” là bản thể, còn “Vọng” là hiện tượng; bản thể và hiện tượng không rời nhau, nên nói “hoà hiệp”. Vì bản thể không phải là hiện tượng, nên nói “không phải một”; vì hiện tượng và bản thể không rời nhau, nên nói “không phải khác”. 

Trong đây nói chữ “Hoà hiệp”, không phải thật có hai vật riêng nhau, như sữa với nước hoà hiệp lại, mà chính là bản thể với hiện tượng không rời nhau, nên tạm gọi là “hoà hiệp”. 

A lại da: Trong luận này, chữ “thức A lại da”, chúng ta phải hiểu tức là “thức A đà na” mới khỏi ngại. Căn cứ theo luận Duy thức, khi đến quả A la hán hay Bát địa, thì thức A lại da không còn (A la hán vị xả); vì hai vị này đã trừ ngã chấp, nên thức này không còn là A lại da, mà chỉ gọi là thức A đà na (thức trì chủng). 

Còn trong luận này, thì nói: Từ phàm phu cho đến quả Phật, đều có thức A lại da, vì nó duy trì cả thánh và phàm. Vì thế nên chữ “A lại da”ở luận Khởi tín này, tức là thức “A đà na” trong luận Duy thức vậy. Trong luận Duy thức chép: “Thức A đà na có công năng duy trì chủng tử của các pháp nhiễm tịnh, thánh phàm …” 

NÓI VỀ NGHĨA “GIÁC” có 5 tên 

CHÁNH VĂN

“Giác” là chỉ cho bản thể chân tâm lìa các vọng niệm, nó khắp giáp tất cả, rộng lớn như hư không; cũng gọi là “Pháp thân bình đẳng của Như Lai”. Pháp thân này, tất cả chúng sanh sẵn có, nên gọi là “Bản giác” (tánh Phật sẵn có). 

Vì đối với “Thỉ giác” nên gọi là “Bản giác”; song Thỉ giác tức là Bản giác. Nghĩa là từ Bản giác mà có Bất giác (mê); do Bất giác nên có Thỉ giác (mới giác ngộ); giác ngộ chưa hoàn toàn thì gọi là Phần giác (giác ngộ từng phần); giác ngộ được hoàn toàn thì gọi là Cứu cánh giác. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về nghĩa “Giác” (sáng suốt) tức là tánh Phật sẵn có ở chúng sanh. Tánh Phật này ở nơi chúng sanh thì gọi là “Như Lai tạng” (Như Lai bị phiền não che giấu); còn ở nơi Phật thì gọi là “Pháp thân thanh tịnh”.

Tánh Phật tuy luân chuyển trong sáu đường, mà không bao giờ mất, vẫn vắng lặng thường còn và viên mãn. Chẳng qua chúng sanh vì bị mây vô minh che phủ, nên trăng Phật tánh này chẳng hiện được. 

Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, vì không rời vọng niệm, nên tuy trọn ngày ở trong tánh Phật mà chẳng tự biết; nếu khi rời vọng niệm rồi, thì tánh Phật này sáng soi, rỗng suốt khắp giáp tất cả như thái hư. Lúc bấy giờ chỉ còn tánh Phật thuần chân, gọi là “Pháp thân bình đẳng của Như Lai”. 

Vì căn cứ theo tánh Phật sẵn có của chúng sanh, nên gọi là “Bản giác”. Bởi thế nên Khế kinh nói:  

“Tất cả chúng sanh đã thành Phật từ lâu”, và nói: 

“Ta thành ngôi Chánh giác trong tâm của chúng sanh”. 

Song “Giác” có nhiều tên: Bản giác, Bất giác, Thỉ giác, Phần giác và Cứu cánh giác. Vì theo mỗi khía cạnh mà chia ra làm 5 tên, chớ không phải thật có 5 cái “Giác” khác nhau. 

GIẢI DANH TỪ 

Pháp thân bình đẳng: Dùng pháp giới tánh làm thân, nên gọi là “Pháp thân”. Vì Pháp thân này, ở tại phàm không bớt, ở nơi thánh không thêm, nên gọi là “Bình đẳng”. 

Bản giác: Sẵn có giác ngộ, tức là chỉ cho tánh Phật sẵn có của chúng sanh. 

Bất giác: Không giác ngộ (mê). Chúng sanh tuy có sẵn tánh Phật, nhưng không tự giác ngộ. 

Thỉ giác: Mới giác ngộ. Nhờ sự tu học, nên hành giả mới giác ngộ được tánh Phật. 

Phần giác: Giác ngộ từng phần. Hành giả tu hành trải qua từng bậc, được sự giác ngộ từng phần. 

Cứu cánh giác:Giác ngộ rốt ráo (tức là Phật). 

THỂ GIÁC CÓ 4 LỚP, TỪ THÔ ĐẾN TẾ 

CHÁNH VĂN

Hỏi: _ Nghĩa là thế nào? 

Đáp: _ Có 4 lớp như sau: 

  1. a) Giác ngộ “niệm DIỆT” 

chúng phàm phu (Tiểu thừa thì hữu học, Đại thừa thì Thập tín) giác ngộ vọng niệm trước đã khởi ác, nên ngăn dứt vọng niệm sau, không cho sanh khởi ác nữa (niệm diệt). Vì chúng phàm phu in như đã giác ngộ, nhưng thật ra chưa giác ngộ, nên gọi là “Bất giác”. 

  1. b) Giác ngộ “niệm DỊ”(hoại). 

Hàng sơ phát tâm Bồ Tát (Tam hiền) và Nhị thừa (vô học), dùng trí huệ quán sát, giác ngộ được “niệm Dị” (dị tướng vô minh) và không còn tướng “niệm Dị”. Hai vị này vì đã xả được tướng phân biệt chấp trước về phần thô trọng, nên gọi là “Tương tự giác”( tương tự như đã giác ngộ). 

  1. c) Giác ngộ “niệm TRỤ”. 

Hàng Thập địa Bồ Tát (Bồ Tát đã chứng Pháp thân) giác ngộ được “niệm Trụ” (trụ tướng vô minh) và không còn tướng “niệm Trụ”. Vị này vì đã lìa được tướng phân biệt về thô niệm, nên gọi là “Tuỳ phần giác” (Giác ngộ từng phần). 

  1. d) Giác ngộ “niệm SANH” 

Hàng Đẳng giác Bồ Tát (Địa tận Bồ Tát) do các phương tiện tu hành đã đầy đủ, nhất niệm hợp với chân tâm, nên giác ngộ được tâm sơ khởi (sanh tướng vô minh) và không còn tướng sơ khởi. Vì vị này đã xa lìa vọng niệm vi tế (vi tế vô minh) ngộ nhập chân tâm thường trụ , nên gọi là “Cứu cánh giác” (Giác ngộ rốt ráo). 

Bởi thế nên trong kinh chép:”Nếu chúng sanh nào quán “vô niệm”(không vọng niệm) thì chúng sanh đó đã hướng về trí Phật”. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Bồ Tát Mã Minh dùng bốn danh từ: Niệm sanh, Niệm trụ, Niệm dị, Niệm diệt để nói lên vô minh có thô tế, sâu cạn và chỉ rõ người tu hành ở địa vị nào mới diệt được thứ vô minh nào. 

Trong đoạn này nói “chúng phàm phu”, thật ra không phải hoàn toàn là phàm phu, mà chính là chỉ cho: bên Đại thừa thì hàng Thập tín, còn Tiểu thừa thì ba quả trước, thuộc về hữu học. Vì các vị này chưa được dự vào hạng Hiền (Tam hiền) và Thánh (Thập thánh) nên bị gọi là Phàm phu. 

Chúng phàm phu này giác ngộ được niệm diệt tức là phá trừ “Diệt tướng vô minh” (vô minh thô sơ bên ngoài). Nếu so với Lục thô, thì “Niệm diệt” này thuộc về hai món thô sau là: Khởi nghiệp tướng và Nghiệp hệ khổ tướng (sẽ giải ở bài thứ năm). Vì sự phá trừ vô minh này không thấm vào đâu, và đối với việc giác ngộ chân tâm còn xa xôi lắm, nên gọi họ là “Bất giác” (chưa giác ngộ). 

Hàng Nhị thừa và Bồ Tát ở vị Tam hiền (Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng) giác ngộ được “Niệm dị”, tức là phá trừ “Dị tướng vô minh” (vô minh thô). Nếu so với Lục thô thì “Niệm dị” này thuộc về hai món thô bậc trung là:Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng (sẽ giải ở bài thứ năm). Vì các vị này tương tự như giác ngộ được chân tâm và chứng được pháp thân thanh tịnh, nhưng chưa phải thật ngộ và thật chứng, nên gọi họ là “Tương tự giác”. 

Hỏi: _ Thế nào là giác ngộ “Niệm dị” và không còn tướng “Niệm dị? 

Đáp: _ Bồ Tát sơ phát tâm dùng trí huệ quán sát Ngã (thân tâm) và Pháp (vũ trụ) đều do nhân duyên sanh, nên đoạn trừ hai món vọng chấp phân biệt thật ngã và thật pháp về phần thô, đó là “Giác ngộ niệm dị”.đến khi Bồ Tát không còn thấy có tướng Ngã, tướng Pháp, thế gọi là “không còn tướng niệm dị”. 

Hỏi: _ Sao gọi là “Phân biệt chấp trước về phần thô trọng”? 

Đáp: _ Ngã chấp và Pháp chấp có chia ra làm hai phần: 1. Thô trọng, tức là phân biệt Ngã chấp và Pháp chấp, phần này dễ trừ. 2. Vi tế, tức là sanh Ngã chấp và Pháp chấp, phần này khó trừ. 

 

***

hàng Thập địa Bồ Tát vì đã chứng pháp thân thanh tịnh, nên cũng gọi là “Pháp thân Bồ Tát”. Các vị Bồ Tát này giác ngộ được “Niệm trụ”, tức là phá trừ “trụ tướng vô minh” (tế vô minh). Nếu so với Lục thô ở bài sau, thì thuộc về hai món thô đầu là: Trí tướng và Tương tục tướng. 

Bồ Tát phá một phần vô minh thì chứng được một phần Pháp thân, gọi là lên Sơ địa; phá hai phần vô minh thì chứng hai phần Pháp thân, gọi là lên Nhị địa; cho đến phá mười phần vô minh, thì chứng được mười phần Pháp thân, gọi là lên Thập địa Bồ Tát. Vì Bồ Tát phá vô minh từng phần và giác ngộ từng phần, nên gọi là “tuỳ phần giác”. 

Các vị Bồ Tát này, vì tâm niệm còn trụ ở năng sở đối đãi, chưa dứt trừ được, nên gọi là “Trụ tướng vô minh”. Đến khi Bồ Tát nhập Chân như, quán, chỉ nhất tâm chánh niệm Chân như, không còn tướng năng sở đối đãi, nên gọi “Không còn tướng niệm trụ”. Như thế là lìa được tướng phân biệt về thô niệm (vô minh thô). 

Sở dĩ gọi “Thô” là vì không tế nhị bằng “Sanh tướng vô minh” (vô minh rất vi tế); kỳ thật đây cũng là một thứ vô minh vi tế, rất khó trừ. 

Tóm lại, từ phàm phu (Thập tín) cho đến địa vị Pháp thân Bồ Tát (Thập địa), về sự phá trừ vô minh của mỗi bậc có thô và tế khác nhau: 1. Chúng phàm phu đối với cảnh, chấp có và thấy vọng niệm diệt rồi, đè nén không cho sanh khởi. 2. Hàng Nhị thừa và Tam hiền Bồ Tát, thì quán ngã pháp đều không, nhưng còn cái “Niệm không”. 3. Đến bậc Thập địa Bồ Tát, thì cái “Tâm niệm chấp không” cũng không còn; nghĩa là không còn cái “Năng Niệm”. 

Nói rằng bậc Đẳng giác Bồ Tát, giác ngộ được “niệm sanh” tức là nói vị Bồ Tát này phá trừ được “Sanh tướng vô minh” (vô minh rất vi tế). Nghĩa là các vị Bồ Tát tu hành, đến lúc chân cùng hoặc tận, tột bậc Thập địa, chứng lên vị Đẳng giác, khi ấy Bồ Tát dùng trí Kim Cang đoạn trừ “sanh tướng vô minh” (giác ngộ được niệm sanh) xa lìa các vọng hoặc rất vi tế, và nhất niệm hiệp với tâm thể Chân như, nên không còn “tướng sơ khởi”; khi đó Bồ Tát chứng lên quả Diệu giác (Phật) gọi là “Cứu cánh giác”. 

***

Hỏi: _ Phải chăng trong một niệm, có sanh, trụ, dị, diệt; chúng phàm phu giác ngộ khi “Niệm diệt”; Nhị thừa giác ngộ khi “Niệm dị”; Thập địa Bồ Tát giác ngộ khi “Niệm trụ”; Đẳng giác Bồ Tát giác ngộ khi “Niệm sanh”? 

Đáp: _ Hiểu như vậy không được đúng lắm; đây nói sanh, trụ, dị, diệt là chỉ cho vọng niệm có phần thô và tế. Chúng phàm phu chỉ giác ngộ vọng niệm về phần thô bên ngoài gọi là “Niệm diệt”. Nhị thừa giác ngộ vọng niệm về phần tế hơn gọi là “Niệm dị”. Thập địa Bồ Tát giác ngộ vọng niệm lại tế hơn nữa, gọi là “Niệm trụ”. Đến bậc Đẳng giác Bồ Tát, giác ngộ vọng niệm lại rất vi tế, gọi là “Niệm sanh”. 

Thí như mặt nước bằng phẳng là dụ tâm thể thanh tịnh vô niệm. Mặt nước vừa dợn động, là dụ “Niệm sanh”. Sóng nổi lăn tăn là dụ “Niệm trụ”. Sóng nhấp nhô, dụ “Niệm dị”. Sóng nổi ba đào là dụ “Niệm diệt”. 

Chúng tôi đem 4 niệm trong bài này, phối hiệp với tam tế lục thô ở bài sau, để quý vị dễ hiểu. 

Niệm sanh  

  1. Vô minh nghiệp tướng 

Niệm trụ  

  1. Năng kiến tướng Tam tế 
  2. Cảnh giới tướng 
  3. Trí tướng 
  4. Tương tục tướng 

Niệm dị  

  1. Chấp thủ tướng 
  2. Kế danh tự tướng Lục thô 

Niệm diệt  

  1. Khởi nghiệp tướng 
  2. Nghiệp hệ khổ tướng 

 

***

Hỏi: _ Làm sao để được trí Phật? 

Đáp: _ Trí Phật thanh tịnh không các vọng niệm, muốn được trí Phật, hành giả phải “vô niệm”. Trong kinh Lăng già quyển hai có chép: “Nếu chúng sanh nào quán vô niệm, thì chúng sanh ấy sẽ hướng về trí Phật”. 

Ngài ĐứcThanh giải rằng: “Vô niệm là con đường tắt để thành Phật…” và “…không những Bồ Tát tu hành đoạn trừ phiền não, đến vô niệm mà gọi là “Cứu cánh giác”; tức như chúng sanh nào, ngày đêm quán vô niệm, thì chúng sanh ấy mỗi niệm đã hướng về trí Phật”. 

Trong luận này nói hai chữ “vô niệm” đồng với bốn chữ “bất tuỳ phân biệt” trong kinh Lăng Nghiêm chữ “vô niệm” nghĩa là không khởi vọng niệm. Nếu vọng niệm không khởi, thì tâm được định, do tâm định nên mới phát sanh ra trí huệ thanh tịnh của Phật. 

Chữ “Bất tuỳ phân biệt”, nghĩa là không theo trần cảnh khởi phân biệt. Không khởi phân biệt thì vọng niệm chẳng sanh; vọng niệm chẳng sanh thì chân tâm tự hiện ra. 

Bởi thế nên luận này nói chữ “Vô niệm”, Kinh Lăng Nghiêm nói “bất tuỳ phân biệt”; hai danh từ tuy khác, song đồng một ý nghĩa và đồng một con đường tắt, để đi đến quả Phật. 

VỌNG NIỆM HẾT (VÔ NIỆM) THÌ CHÂN TÂM HIỆN 

CHÁNH VĂN

Lại nữa, thật ra Tâm không có tướng sơ khởi, mà nói rằng “biết được tướng sơ khởi của tâm”, đó tức là được “vô niệm”. Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, vì chưa từng xa lìa vọng niệm tương tục (chưa được vô niệm), nên không được gọi là “Giác”, mà chỉ gọi là “Vô thỉ vô minh”. 

Nếu người được vô niệm (ngộ chân tâm) thì các tướng sanh, trụ, dị, diệt của tâm đều hết, chỉ còn một tâm thể vô niệm (chân tâm. Bởi thế nên Thỉ giác không khác với Bản giác. Vì vọng niệm nên bốn tướng: Sanh, Trụ, Dị và Diệt đồng thời nương nhau mà có, và đều không tự lập; khi vọng niệm hết, thời bốn tướng không còn, chỉ một tánh giác (chân tâm) xưa nay bình đẳng. 

LƯỢC GIẢI

Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do một niệm mê nên bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt nhất thời nương nhau khởi hiện, không có trước sau. Vì vọng niệm tương tục mãi, làm cho chúng sanh không ngộ được chân tâm (vô niệm) của mình, nên gọi là “vô thỉ vô minh”. Bởi thế nên có chia ra Bản giác và Thỉ giác. 

Trái lại, bậc Đẳng giác Bồ Tát, đã diệt hết vọng niệm, ngộ được chân tâm thường trú của mình, nên bốn tướng không còn, mà chỉ còn một tánh sáng suốt bình đẳng không vọng niệm, gọi là “Cứu cánh giác”. Bởi vậy nên “Thỉ giác” cũng tức là “Bản giác”. 

GIẢI DANH TỪ 

“Tướng sơ khởi” tức là chân tâm, mà chơn tâm thì vô tướng và vô niệm. Người được vô niệm tức là ngộ chân tâm; phải ngộ được chân tâm mới gọi là “Cứu cánh giác”. 

“Bản giác” tức là tâm tánh xưa nay vốn thanh tịnh sáng suốt, trái với vô minh bất giác (mê). 

“Thỉ giác” là mới giác ngộ. Hành giả dùng quán trí trừ các vọng niệm, mới vừa giác ngộ tâm thể không có bổn tướng, nên gọi là “Thỉ giác”. 

Nên biết, những danh từ trên đây đều giả lập: “Bản giác” là đối với “Thỉ giác” mà lập, “Thỉ giác” nhân “Bất giác” mà có, “Bất giác” lại nhân “Bản giác” mà sanh. Do đối đãi nhau nên giả lập ra có nhiều tên, thật ra chỉ có tánh giác mà thôi. 

(Đoạn này nói về “Thỉ giác”, đoạn sau nói đến “Bản giác”). 

BÀI THỨ TƯ 

CHƯƠNG THỨ BA 

PHẦN GIẢI THÍCH NÓI VỀ NGHĨA “GIÁC” 

(tiếp theo và hết) 

Nói về nghĩa “Giác” 

Bản giác có 2 tướng: 

  1. Tướng Trí tịnh 
  2. Tướng Nghiệp dụng bất tư nghị 

Bản giác có 4 tướng: 

  1. Như thật không 
  2. Nhân huân tập 
  3. Pháp xuất ly 
  4. Duyên huân tập 

CHÁNH VĂN

Bản giác có 2 tướng 

Lại nữa, do dứt các nhiễm duyên phân biệt, nên bản giác thành ra hai tướng: 1. Tướng trí tịnh. 2. Tướng nghiệp dụng bất tư nghị; hai tướng này không rời bản giác. 

  1. Tướng trí tịnh: (Thể): Hành giả nhờ sức huân tập và như thật tu hành, đến khi công phu tu hành đã viên mãn, phá trừ được thức A lại da (chơn vọng hoà hiệp) và diệt các vọng tâm tương tục, thì pháp thân thanh tịnh hiện ra, đặng cái trí thuần tịnh, nên gọi là “Tướng trí tịnh”. 

LƯỢC GIẢI

Nhờ dứt trừ các pháp nhiễm ô phân biệt, nên tánh giác hiện ra có 2 tướng: 1. Bản thể sáng suốt trong sạch, gọi là “Tướng trí tịnh”.2. Diệu dụng không thể nghĩ bàn, gọi là “Tướng nghiệp dụng bất tư nghị”. Vì thể và dụng không rời tánh giác, nên gọi “hai tướng không rời bản giác”. 

Bậc Tam hiền, bên trong nhờ sức chân như huân ra, bên ngoài lại nhờ chánh pháp huân vào, nên làm cho hành giả tự phát khởi tín tâm tu hành. 

Đến hàng Thập địa Bồ Tát, do nhờ sức tu tập, nên ngộ nhập được tâm chân như, rồi y như tâm chân như này mà tu, nên gọi là “Như thật tu hành”. 

Đến vị Đẳng giác Bồ Tát, thì sự tu hành, công đã thành quả lại mãn; lúc bấy giờ Bồ Tát phá trừ thức hoà hiệp và diệt tâm tương tục, nên pháp thân thanh tịnh hiện ra, đặng trí thuần tịnh, gọi là “Tướng trí tịnh”. 

GIẢI DANH TỪ 

“Thức hoà hiệp” _ Đoạn trước nói “Sanh diệt và bất sanh diệt hoà hiệp”, gọi là A lại da”, nay nói “phá thức hoà hiệp” tức là phá thức A lại da. Song chỉ phá cái “tướng hư vọng tạp nhiễm” của thức A lại da; không phải phá cái “thể tánh” của thức này. 

“Tâm tương tục”_ Tâm tương tục tức là 7 chuyển thức (từ nhãn thức đến Mạt ma thức). Diệt tâm tương tục, tức là diệt “tướng” hư vọng tương tục của 7 thức trước, không phải diệt cái “thể” của 7 chuyển thức. 

CHÁNH VĂN

Hỏi: _ Nghĩa này thế nào? 

Đáp: _ Tất cả tâm thức đều là vô minh; song cái tướng vô minh (vọng) không rời tánh giác (chân). Bởi thế nên không thể phá hoại (vì không rời tánh giác), và cũng không phải không phá hoại được (vì là tướng vô minh). 

Thí như trước biển cả (dụ tánh giác) vì gió (vô minh) nên nổi sóng (tâm thức); sóng và gió đều động và không rời nhau; song tánh nước chẳng động. Đến khi sóng đứng thì gió lặng; song tánh ướt của nước không diệt. 

Cũng thế, biển tâm thanh tịnh của chúng sanh, bị gió vô minh thổi động, nên sóng tâm thức nổi lên. Sóng tâm thức, gió vô minh đều động, lại không hình tướng và chẳng rời nhau; song biển chân tâm chẳng hề chao động. Nếu gió vô minh dừng, thì sóng tâm thức tương tục kia cũng lặng; song nước trí thuần tịnh (chân) không bao giờ diệt. 

LƯỢC GIẢI

Vì vô minh sanh ra các tâm thức hư vọng, nên các tâm thức không rời vô minh. Song vô minh lại không thật thể, chỉ nương tánh giác mà có, nên nó không rời tánh giác. Đến khi vô minh hết, thức tâm diệt, thì tánh giác hiện bày. Cũng như, vì gió thổi nên tánh sóng nổi lên; sóng và gió đều động và không rời nhau. Đến khi gió đứng sóng lặng thì tánh nước thanh tịnh bằng phẳng hiện ra. 

CHÁNH VĂN

Tướng nghiệp dụng bất tư nghị (Dụng). Do tướng trí tịnh đủ vô lượng công đức và thường không đoạn tuyệt, nên có thể tuỳ thuận theo căn cơ của chúng sanh, tự nhiên ứng hiện ra tất cả các cảnh giới mầu nhiệm thù thắng, để làm lợi ích cho chúng sanh. 

LƯỢC GIẢI

Từ chân như thể (tướng trí tịnh) khởi ra các diệu dụng (chân như dụng) không thể nghĩ bàn được (tướng nghiệp dụng bất tư nghị). Nhờ diệu dụng này mới có thể hiện ra được các cảnh giới thù thắng, tuỳ theo trình độ của mỗi loài, làm vô lượng công đức, để lợi ích cho tất cả chúng sanh không thể nghĩ bàn. 

Ngài Đức Thanh giải: Bản giác khi còn ở tại vỏ mê, thì chúng sanh nương nơi đó mà tạo ra vô lượng vô biên các nghiệp, nên kinh chép: “Nghiệp lực không thể nghĩ bàn”. Nay Bản giác đã ra khỏi vỏ mê, được thanh tịnh, thì có đủ tất cả thần thông diệu dụng, cũng không thể nghĩ bàn được. Và Bản giác này nghĩ ra các cảnh giới thắng diệu, làm vô lượng công đức, tuỳ theo căn cơ của mỗi loài, ứng hiện đủ cách, để làm lợi ích cho các chúng sanh; như Ngài Quán Thế Âm hiện ra 32 ứng thân, 14 món vô úy …nên gọi là “Nghiệp dụng bất khả tư nghị” (Diệu dụng không thể nghĩ bàn). 

GIẢI DANH TỪ 

“Tự nhiên ứng hiện” _ Nghĩa là ứng hiện một cách tự nhiên, không dụng công và cố ý. Thí như mặt trăng chiếu xuống ao, hễ nước trong thì trăng tự nhiên ứng hiện; trăng không có dụng công và cố tâm. 

CHÁNH VĂN

Bản giác có 4 nghĩa 

Lại nữa, Thể và Tướng của tánh giác (chơn tâm) giống như cái gương sáng sạch, và rộng lớn như hư không, bao trùm tất cả. Tánh giác này có 4 nghĩa: 

  1. Như thật không:Như cái gương lớn sáng sạch, không có hình ảnh của cảnh vật (thật không). Tánh giác (chân tâm) xa lìa các tướng của vọng tâm và vọng cảnh (ly nhất thế tướng); không có một pháp nào hiện ra cả; cũng như cái gương trống không. Đây là nói về nghĩa “Tịch” (vắng lặng) của tánh giác, không phải nói về nghĩa “chiếu”. 

LƯỢC GIẢI

Vì tánh giác viên mãn thanh tịnh, nên dụ như cái gương sáng sạch; vì tánh giác rộng rãi bao la, nên dụ như hư không rộng lớn. Nếu phân tách từng khía cạnh, thì tánh giác có 4 nghĩa; đoạn này nói về nghĩa thứ nhất: 

  1. Thật không: Đây là nói về nghĩa “tịch tịnh” của Chơn tâm. Vì Bản thể chơn tâm (tánh giác) vốn thanh tịnh, rộng rãi bao la và ly tất cả các tướng, không thể dùng tâm thức suy nghĩ hay lời nói luận bàn được, (cũng như cái gương sáng sạch, không có lưu một hình ảnh gì ở trong gương cả) tức là pháp thân thanh tịnh sẵn có của chúng sanh, không phải do tu mới được. 

CHÁNH VĂN

  1. Nhơn huân tập: Như cái gương sáng lớn, hiện đủ các cảnh (thật có). Trong tánh giác (chân tâm) đủ các pháp (tức nhất thế pháp); nghĩa là tất cả cảnh giới thánh, phàm đều hiện trong chân tâm thường trú này. Nó không xuất không nhập, không mất không hoại, vì tánh của các pháp là chân tâm vậy. 

Lại nữa, vì tánh giác không vọng động, nên các pháp nhiễm ô, không thể làm nhiễm ô được; trái lại nó đủ tất cả các pháp vô lậu và làm nhân huân tập cho chúng sanh vậy. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trước nói về “thể” của chân tâm, ly tất cả các tướng, cũng như cái gương sáng, không có một vật gì ở trong gương (như thật không). Đoạn này nói về Tướng và Dụng của chân tâm đủ tất cả pháp. Cũng như cái gương sáng, các cảnh vật đều hiện vào (như thật bất không). 

Tướng và Dụng của chân tâm có 2 nghĩa: 

  1. Đủ tất cả pháp: Tất cả chúng sanh đều sẵn có các pháp vô lậu thanh tịnh, cũng gọi là “bản hữu Phật tánh” hay “chánh nhân Phật tánh”. 
  2. Nhân huân tập: Tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh Phật; tánh Phật đủ vô lượng hằng sa công đức và thanh tịnh không động, nên các pháp nhiễm ô không làm nhiễm ô được. Tánh Phật này làm chánh nhân (chánh nhân Phật tánh) huân tập ở bên trong, khiến cho chúng sanh giác ngộ, nhàm chán khổ sanh tử, phát tâm cầu đạo giải thoát. 

CHÁNH VĂN

  1. Pháp xuất ly: Như cái gương đã sáng sạch, không còn bụi nhơ. Tánh giác (tánh Phật) đã sáng suốt thuần tịnh, ra khỏi hai chướng: Phiền não chướng, Sở tri chướng và xa lìa thức A lại da (Chơn, Vọng hoà hiệp). 

LƯỢC GIẢI

  1. Pháp xuất ly: tức là “Liễu nhân Phật tánh”, cũng gọi là “Chân như xuất triền”. Hành giả nhờ công phu tu tập, đoạn trừ phiền não chướng, sở tri chướng và phá thức hoà hiệp (A lại da), nên tánh Phật (Chân như) không còn bị triền phược và được sáng suốt thuần tịnh. 

CHÁNH VĂN

  1. Duyên huân tập: Như cái gương sáng, phản chiếu trở lại. Tánh giác (Phật tánh) đã ra khỏi vỏ triền phược rồi, trở lại chiếu soi khắp giáp tất cả, và tuỳ theo tâm niệm của mỗi loài mà hiện thân hoá độ, làm trợ duyên huân tập trở lại vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng sanh tu tập căn lành. 

LƯỢC GIẢI

  1. Duyên nhân Phật tánh: Do Chân như đã xuất triền, nên có diệu dụng không thể nghĩ bàn: Chiếu khắp tất cả và tuỳ theo tâm niệm của chúng sanh mà thị hiện các thân hình để hoá độ, làm trợ duyên, huân tập trở lại vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng sanh phát Bồ Đề tâm, tu theo chánh pháp. 

Công dụng cao cả và rộng lớn của Chân như (tánh giác), chỉ có thể thí dụ như hư không. Thể tánh sáng suốt thuần tịnh của Chân như (tánh giác), chỉ có thể thí dụ như gương: dầu có bụi hay không, song chất pha lê (gương) vẫn sáng suốt, thủy chung như một. 

(đoạn này đã nói nghĩa “Giác” rồi, tiếp theo sau đây sẽ nói đến nghĩa “Bất giác” của thức A lại da) 

 

BÀI THỨ NĂM 

CHƯƠNG THỨ BA 

PHẦN GIẢI THÍCH

NÓI VỀ NGHĨA “BẤT GIÁC” 

MỤC LỤC 

  1. Nói về nghĩa “Bất giác” (không giác ngộ: mê) 
  2. Nói về Tam tế 
  3. Nghiệp tướng (Vọng động) 
  4. Chuyển tướng (Tâm phân biệt, trực giác) 
  5. Hiện tướng (Cảnh bị phân biệt) 
  6. Nói về lục thô 
  7. Trí tướng (Vọng thức phân biệt) 
  8. Tương tục tướng (Vọng niệm tương tục) 
  9. Chấp thủ tướng (Chấp sự vật) 
  10. Kế danh tự tướng (Chấp danh tự) 
  11. Khởi nghiệp tướng (tạo nghiệp) 
  12. Nhiệp hệ khổ tướng (thọ, quả) 
  13. Nói về hai Tướng 
  14. Đồng (đồng bản chất) 
  15. Khác (khác hình tướng) 

 

CHÁNH VĂN

Do không thật biết pháp “Chân như” nên tâm bất giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là không có thực thể, nên chẳng rời Bản giác. 

Thí như người lầm phương hướng; vì có phương hướng nên mới lầm, nếu không phương hướng thì không có lầm. 

Chúng sanh cũng thế, do có “Giác” nên mới có “Mê”; nếu không có “Giác” thì cũng không có “Mê” (Bất giác) 

Song chúng sanh cũng nhờ có “Tâm vọng tưởng bất giác” này, nên mới biết phân biệt danh từ và nghĩa lý của các pháp. Và cũng nhờ thế mà chư Phật mới có thể vì chúng sanh nói ra “Chân giác” (tánh Phật). Nếu lìa “Tâm bất giác” thì cũng không thể chỉ bày cái “Chân giác” được (dụ như lìa sóng không có nước). 

LƯỢC GIẢI

Chúng sanh vì không ngộ được Phật tánh (bản giác) nên gọi là mê (bất giác). Song cái “mê” này không có thực thể, chỉ lấy Phật tánh làm thể, nên không rời Phật tánh (bản giác) được. Cũng như người lầm đường, do có con đường nên mới có lầm, nếu không có con đường thì cũng không có sự lầm lạc. Bởi thế nên, nếu rời Phật tánh (bản giác) thì cũng không có cái mê (bất giác). Cũng như bỏ sóng, không có nước. 

Sóng, cũng nhờ có cái mê vọng (bất giác) này, nên chúng sanh mới biết phân biệt các pháp chân vọng, thánh phàm và nhàm chán cảnh khổ sanh tử, ham mộ thú vui “Niết bàn”. 

Và cũng nhờ chúng sanh có biết phân biệt, nên chư Phật mới có thể thuyết pháp giảng dạy, chỉ bày Phật tánh (chân giác). Nếu không có tâm mê vọng bất giác phân biệt của chúng sanh, thì Phật cũng không làm sao chỉ bày Phật tánh (chân giác) cho chúng sanh được. 

Đọc qua đoạn văn này, chúng ta nên lưu ý đến câu: “Vì không ngộ được Phật tánh, nên gọi là mê” hay đổi lại cách nói “Tại sao có dại?” vì chưa khôn vậy”. Vậy thì cái mê dại (vô minh) này, sẵn có từ hồi nào đến giờ, vì từ hồi nào đến giờ chúng sanh chưa từng ngộ được Phật tánh. 

Nói tóm lại, chân như với vô minh đồng thời có, không phải chân như có trước, vô minh có sau. Khi chân như (Phật tánh) hiện, thì vô minh mất, cũng như khi “khôn” rồi, thì “dại” tự hết. 

GIẢI DANH TỪ 

“Bất giác”: không biết. Thật ra không phải là không biết; vẫn có biết, song cái “biết” ấy hư vọng, chẳng chân thật, nên cũng gọi là “vọng niệm” hay “vô minh” v.v.. 

“Không thật biết”: Chúng sanh vẫn biết được chân như hay Phật tánh; song chỉ biết suông trên văn tự, do ý thức phân biệt hư dối mà thôi; chứ không biết đúng như thật. 

(Đoạn này nói về căn bản vô minh (bất giác), tiếp sau đây sẽ nói đến chi mạt vô minh (tam tế, lục thô). 

  1. NÓI VỀ TAM TẾ 

CHÁNH VĂN

Và, do “Bất giác” (căn bản vô minh) nên sanh ra ba tướng rất vi tế (tam tế: chi mạt vô minh); ba tướng vi tế này không rời “Bất giác”. 

  1. Tướng nghiệp vô minh (nghiệp tướng): vì “Bất giác” (hoặc) cho nên tâm động, gọi đó là “Nghiệp”. Bởi thế nghiệp (nhân) nên có “khổ”(quả) . Trái lại, nếu “Giác” (không có hoặc) thì tâm không động (nghiệp nhân) nên cũng không khổ (quả). 
  2. Tướng năng kiến (chuyển tướng tức là kiến phần). Vì có “Động” (nghiệp tướng) cho nên sanh ra “Năng phân biệt” (năng kiến). Nếu không “Động” thì không có “Năng phân biệt” (không có nghiệp tướng thì cũng không có chuyển tướng). 
  3. Tướng cảnh giới (hiện tướng tức là tướng phần). Vì có “Năng phân biệt” (kiến phần) nên cảnh bị phân biệt (tướng phần) vọng hiện ra. Bởi thế nên rời “Năng phân biệt” (kiến phần) thì cũng không có cảnh bị phân biệt (nghĩa là nếu không có chuyển tướng thì cũng không có hiện tướng). 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói: Vô minh sanh ra 3 tướng rất vi tế: Nghiệp, Chuyển và Hiện; ba tướng này không rời vô minh. 

  1. Vì vô minh (bất giác) cho nên tâm động tức là “Nghiệp”. Đó là tướng vi tế thứ nhất, gọi là “Tướng nghiệp vô minh”, cũng gọi là “Hoặc, Chuyển”; bên Duy thức tôn gọi là “Tự chứng phần” của thức A lại da. 

Do “Hoặc” (vô minh) nên tạo “Nghiệp” (tâm động); bởi có “nghiệp” nên phải thọ “quả khổ”. Trái lại, nếu giác ngộ không mê hoặc (vô minh) thì không tạo nghiệp (vọng động); không tạo nghiệp nên chẳng có quả khổ. 

Tất cả quả khổ, không ngoài hai món sanh tử: Phàm phu thì bị khổ “Phần đoạn sanh tử”; Tiểu thánh thì bị khổ “Biến dịch sanh tử”. Song hai món quả khổ này, đều do “động niệm” tức là hướng về trí Phật (không vọng niệm thì chân tâm hiện). 

  1. Vì tâm động (nghiệp tướng) cho nên mới có phân biệt. Đó là tướng vi tế thứ hai, gọi là “tướng năng kiến” (phần năng phân biệt), cũng gọi là “Chuyển tướng”; bên Duy thức tôn gọi là kiến phần của thức A lại da. Nếu tâm không vọng động, thì cũng không do đâu mà phát sanh ra phân biệt được. Nghĩa là: Nếu không có “nghiệp tướng”; thì cũng không có “chuyển tướng”; hay nói cách khác: nếu không có “Tự chứng phần” thì cũng không có “Kiến phần”. 
  2. Vì có tâm năng phân biệt, nên mới vọng hiện ra cảnh giới bị phân biệt. Đó là tướng vi tế thứ ba, gọi là “Tướng cảnh giới” (phần bị phân biệt) cũng gọi là “Hiện tướng”; bên Duy thức tôn gọi là “Tướng phần” của thức A lại da. Bởi tâm và cảnh không rời nhau, nếu lìa tâm năng phân biệt thì không có cảnh giới bị phân biệt. Nghĩa là: rời “Chuyển tướng” thì không có “Hiện tướng”; hay nói cách khác: rời “Kiến phần” thì không có “Tướng phần”. 

Từ thể tánh chơn tâm, không có năng sở (bỉ, thử); song vì mê nên tâm động (nghiệp tướng) mà sanh ra có năng phân biệt (chuyển tướng) và cảnh giới bị phân biệt (hiện tướng). Nếu giác cảnh giới bị phân biệt (hiện tướng). Nếu giác ngộ không mê, thì tâm không động, không sanh, và cảnh bị phân biệt chẳng hiện. 

Đoạn này xin lưu ý độc giả: Trong luận này nói “Do nghiệp tướng sanh ra chuyển tướng, do chuyển tướng sanh ra hiện tướng”. Nói như thế, là lấy theo nghĩa “tương quan, tương sanh” mà nói. Kỳ thật ba tướng này, đồng thời sanh khởi; nghĩa là một pháp vừa động, thì tất cả pháp đều động, không phải có thứ lớp tuần tự như vậy. 

Tóm lại, ba tướng “Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng: này, ở các kinh khác, cũng thường gọi là “Hoặc, Nghiệp và Khổ”, hay trong Duy thức gọi là “Tự chứng phần, Kiến phần và Tướng phần của thức A lại da. 

GIẢI DANH TỪ 

Bất giác và vô minh: “Vô minh” là không sáng suốt, “Bất giác” là không giác ngộ. Bởi thế nên bất giác cũng tức là vô minh. 

Tướng nghiệp vô minh: Vô minh vọng động thành ra tướng nghiệp, gọi tắt là “Nghiệp tướng”; tức là “Tự chứng phần” của thức A lai da. 

Tướng Năng kiến: Phần năng phân biệt, cũng gọi là “Chuyển tướng”; tức là “Kiến phần” của thức A lại da. 

Tướng cảnh giới: Cảnh giới bị phân biệt, cũng gọi là “Hiện tướng”; tức là “Tướng phần” của thức A lại da. 

Phần đoạn sanh tử: Sanh tử do sự biến đổi. Như vị Tu đà hoàn, khi chứng lên quả Tư đà hàm (sanh) thì xả vị Tu đà hoàn (tử); khi lên vị A na hàm, thì bỏ quả Tư đà hàm v.v…Thí như người Lính, khi lên Cai thì bỏ Lính, lên Đội thì bỏ Cai v.v… 

Tự chứng phần_ Duy thức tôn nói: Mỗi người có 8 món Tâm vương và 51 món Tâm sở. Mỗi một Tâm vương hay Tâm sở đều có 4 phần: 1. Phần bị phân biệt (tướng phần), 2. Phần năng phân biệt (Kiến phần); Hai phần này thuộc về Dụng, ở bên ngoài. 3. Phần tự chứng và 4. Phần chứng tự chứng; hai phần này thuộc về thể, ở bên trong và làm chỗ nương cho hai phần ngoài. 

Tương quan tương sanh: Liên quan với nhau và sanh cùng nhau, có cái này thì phải có cái kia. 

  1. NÓI VỀ LỤC THÔ 

CHÁNH VĂN

Do đã có cảnh giới hiện ra (Hiện tướng) nên tiếp tục sanh sáu tướng sau này: 

  1. Tướng Trí (Trí tướng: Phân biệt): Do có cảnh giới hiện ra nên sanh tâm phân biệt (trí) thương,ghét 
  2. Tướng tương tục (Tương tục tướng: Vọng niệm tương tục): Do tâm phân biệt thương ghét, cho nên tiếp tục sanh ra các niệm khổ vui, mừng lo v.v…không dứt. 
  3. Tướng chấp thủ (chấp thủ tướng: chấp sự vật): Do các niệm tương tục phân biệt những cảnh khổ vui, cho nên tâm mới vướng mắc, chấp lấy nơi sự vật (cảnh). 

4.Tướng chấp danh tự (kế danh tự tướng: chấp danh tự): Do phân biệt vọng chấp nơi sự vật, nên giả đặt ra những danh tự để kêu gọi. 

  1. Tướng khởi nghiệp (khởi nghiệp tướng: tướng tạo nghiệp): Do chấp theo danh tự tốt xấu đó, rồi tạo ra các nghiệp lành hay dữ. 
  2. Tướng nghiệp hệ khổ (Nghiệp hệ khổ tướng: Thọ quả khổ): Do tạo ra các nghiệp, nên bị các nghiệp kéo dẫn đi lãnh thọ quả khổ, không được tự tại. 

Tóm lại, phải biết: Gốc từ vô minh (căn bản vô minh) sanh ra các pháp nhiễm ô (chi mạt vô minh) nên các pháp nhiễm ô đều là vô minh (bất giác). 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về 6 món thô (lục thô). Do từ vô minh vọng động (Tự chứng phần của thức A lai da) khởi ra tâm (Kiến phần của thức A lại da) và cảnh (Tướng phần của thức A lại da) là ba món vi tế, rồi tiếp tục sanh khởi 6 món thô sau này: 

  1. Vì có cảnh giới (hiện tướng) nên tâm phân biệt tốt xấu, rồi sanh ra thương (tham) ghét (sân) v.v…gọi là “Tướng trí”, chữ “Trí” là biết phân biệt tốt xấu. 
  2. Do tâm biết phân biệt tốt xấu v.v…nên các niệm thương ghét, mừng giận, khổ vui v.v…tiếp tục sanh khởi không gián đoạn, gọi là “Tướng tương tục”. 
  3. Do các niệm thương ghét, mừng giận, khổ vui, nên sanh tâm chấp lấy: Cái gì vui thích thì tham luyến, còn buồn khổ thì sân hận, gọi là “Tướng chấp thủ”. 
  4. Do sanh tâm chấp cảnh, nên giả đặt ra những danh từ để kêu gọi, cái này đẹp, cái kia xấu v.v…gọi là “Tướng kế danh tự”. 
  5. Do có những danh tự kêu gọi đẹp xấu v.v…nên sanh tâm tham lam, giận ghét, và vì thế mà tạo ra cái nghiệp, gọi là “Tướng khởi nghiệp”. 
  6. Do tạo các nghiệp, nên bị nghiệp kéo dẫn sanh tử luân hồi trong 3 cõi, để thọ quả báo, không được tự tại, gọi là “Tướng nghiệp hệ khổ”. 

Tóm lại, do “mê hoặc” nên “tạo nghiệp”; nhơn “”tạo nghiệp” nên phải thọ “quả khổ” trở lại “mê hoặc” nữa; nhơn “hoặc” lại tạo “nghiệp” thọ “quả khổ”, mãi mãi không biết bao giờ cùng tận, như cái vòng tròn không mối, nên gọi là “Luân hồi”. 

Bởi do vô minh vọng niệm sanh ra tất cả các pháp phiền não tạp nhiễm, nên các pháp đều là vô minh. Nếu người được “vô niệm” (không vọng niệm), thì tất cả các pháp phiền não sanh tử đều hết. 

Trong 3 món Tế và 6 món Thô này, về phàm phu thì đủ cả; Tiểu thừa về 3 quả trước, thì đủ 3 món Tế và 4 món Thô trước; A la hán thì có 3 món Tế và 3 món Thô trước; hằng Pháp thân Bồ Tát (từ Bát địa trở lên) chỉ còn 3 món Tế. 

Xin xem biểu đồ sau đây: 

  1. Phàm phu (có đủ 9 món) 

3 món Tế  

  1. Nghiệp tướng (vọng động) 
  2. Chuyển tướng (trực giác) 
  3. Hiện tướng (cảnh) 

6 món Thô  

  1. Trí tướng (phân biệt) 
  2. Tưng tục tướng ( vọng niệm tương tục) 
  3. Chấp thủ tướng (chấp sự vật) 
  4. Kế danh tự tướng ( chấp danh tự) 
  5. Khởi nghiệp tướng (tạo nghiệp) 
  6. Nghiệp hệ khổ tướng (thọ quả) 
  7. Tiểu thừa, 3 quả trước, có 7 món 

3 món Tế 

  1. Nghiệp tướng 
  2. Chuyển tướng 
  3. Hiện tướng 

4 món Thô 

  1. Trí tướng 
  2. Tương tục tướng 
  3. Chấp thủ tướng 
  4. Kế danh tự tướng 

III. A la hán có 6 món 

3 món Tế  

  1. Nghiệp tướng 
  2. Chuyển tướng 
  3. Hiện tướng 

3 món Thô 

  1. Trí tướng 
  2. Tương tục tướng 
  3. Chấp thủ tướng 
  4. Pháp thân Bồ Tát chỉ có món Tế  
  5. Vô minh nghiệp tướng (nghiệp tướng) 
  6. Năng kiến tướng (chuyển tướng) 
  7. Cảnh giới tướng (hiện tướng) 

c.NÓI VỀ HAI TƯỚNG 

CHÁNH VĂN

Lại nửa, “Giác”(chân) với “Bất giác” (vọng) đều có 2 tướng: Đồng và Khác. 

Thế nào là “Đồng”?_ các sự nghiệp huyễn hoá của “Giác” (vô lậu) và “Bất giác” (vô minh) đều đồng một thể tánh chân như. Thí như các món đồ gốm đều đồng một chất đất. 

Bởi thế nên trong Khế kinh chép: “Tất cả chúng sanh, từ hồi nào đến giờ, vẫn thường ở trong Bồ Đề Niết bàn; không phải do tu mới có, do làm mới được; rốt ráo không có gì gọi là “chứng” cả, và cũng không hình tướng gì có thể thấy được. 

Song, chúng sanh thấy sắc thân Phật, có 32 tướng tốt, có 80 vẻ đẹp v.v…là do tuỳ tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà huyễn hiện, không phải tánh chân như có các hình tướng ấy; vì tánh chơn như không có thấy được vậy. 

Thế nào là khác?_ Do tuỳ tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà hiện ra các huyễn tướng sai khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Ví như các thứ đồ gốm, hình tướng khác nhau. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này lấy hai mặt “đồng” và “bất giác”, để chỉ sự tương quan tương phản của hai thứ ấy. Đứng về bản thể của các pháp mà luận, thì “nhiễm” và “tịnh” đều là chân như. còn đứng về hiện tượng của các pháp mà nói, thì “nhiễm” và “tịnh” có sai khác. 

Bởi “giác” và “bất giác” đều là Chân như, cũng như các thứ đồ gốm (đồ kiểu hay đồ đá) đều bằng đất, nên nói tất cả chúng sanh từ hồi nào đền giờ, vẫn thường ở trong Chơn như. Tánh Chơn như này không phải do tu mới được, hay làm mới có; rốt ráo không có sở đắc, và cũng không có hình tướng gì có thể chỉ bày được. 

Song, chúng sanh thấy có Phật hiện thân độ sanh; đó là tự tâm của chúng sanh, tuỳ nghiệp huyễn hiện, chứ không phải tánh Chơn như có những hình tướng như thế. 

Câu: “Tuỳ tâm vọng nhiễm của chung sanh mà hiện ra các huyễn tướng sai khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Nghĩa là nói: Không phải ở đâu khác, mà  chính ở tâm chúng sanh, có thể đổi các phiền não nhiễm ô, ra các công đức thanh tịnh. Khi tâm vọng động thì sanh ra vô lượng hằng sa pháp tạp nhiễm, khi tâm hết vọng động thì hiện ra vô lượng hằng sa công đức thanh tịnh. Tất cả đều tuỳ tâm của chúng sanh mà hiện ra các tướng nhiễm, tịnh. Các tướng này đều như huyễn. 

Câu: “…Các sự nghiệp chuyển hoá của vô lậu (giác) và vô minh (mê), có nghĩa là: Tánh giác đã có nghiệp dụng, hiện ra tất cả cảnh giới thù thắng vi diệu, không thể nghĩ bàn, thì vô minh cũng có nghiệp lực hiện ra Tam tế, Lục thô, tất cả sanh tử khổ vui, cũng không thể nghĩ bàn. Bởi thế nên Chơn và vọng đều là huyễn cả. Khế kinh chép: “sanh tử và Niết bàn đều như mộng huyễn”. 

QUYẾT NGHI

Hỏi:_ Chúng snh đã vốn là Phật, tại sao không thấy chúng sanh có Báo thân và Hoá thân Phật? 

Đáp:_ Khi nói chúng sanh vốn là Phật, là đứng về phương diện bản thể Phật tánh mà nói, chứ không phải đứng về phương diện hiện tượng Phật tướng mà nói vậy. Về bản thể thì các chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng về hiện tượng thì chúng sanh có Báo thân và Hoá thân. 

Hỏi:_ Chân như Phật tánh đã không có sắc tướng, tại sao chư Phật chứng được, và có tướng Báo thân và Hoá thân? 

Đáp:_ Sắc thân của chư Phật, chỉ tuỳ theo tâm của chúng sanh mà hiện ra, không phải trong thể tánh chân như có những hình tướng ấy. 

Đã nói về “Tâm sanh diệt” dưới đây sẽ nói “Tướng Nhân duyên sanh diệt” 

 

BÀI THỨ SÁU 

CHƯƠNG THỨ BA 

PHẦN GIẢI THÍCH 

NÓI VỀ NGHĨA “BẤT GIÁC” (Tiếp Theo) 

MỤC LỤC 

Nói về nghĩa “Bất giác” (tiếp theo) 

  1. Nói về “ý tương tục” có 5 thứ: 
  2. Nghiệp thức (nghiệp tướng) 
  3. Chuyển thức (chuyển tướng) 
  4. Hiện thức (hiện tướng) 
  5. Trí thức (trí tướng) 
  6. Tương tục thức (tương tục tướng) 
  7. Nói về “ý thức” 

Cảnh giới này duy có Phật mới biết được rốt ráo. 

  1. NÓI VỀ “Ý” TƯƠNG TỤC, có 5 thứ 

CHÁNH VĂN

Trên đã nói “Tâm sanh diệt”, (thức A lại da) tiếp theo đây sẽ nói “cái “Ý” làm nhân duyên sanh diệt”. 

Tất cả chúng sanh đều từ nơi tâm (A lại da) mà sanh ra món (Mạt ma) và ý thức (thức thứ 6). Nghĩa là do thức A lại da có vô minh bất giác (nghiệp tướng) nên sanh ra Năng kiến (chuyển tướng) và Năng hiện (hiện tướng) rồi tiếp tục sanh ra các niệm (lục thô), chấp lấy cảnh giới v.v…gọi là “Ý”. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về sự quan trọng của “ý”. Trong các nơi khác, khi nói đến “ý” thì thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt na, là thức sanh diệt tương tục thắng hơn các thức. Nhưng chữ “ý” ở luận này là chỉ chung cho cả 8 thức; vì cả 8 thức đều có nghĩa “sanh diệt tương tục”. 

Thức A lại da là gốc của sanh diệt, thức Mạt na làm nhân duyên cho sự sanh diệt tương tục; còn ý thức thì khởi hoặc tạo nghiệp, làm cho chúng sanh nhiều kiếp sanh tử không dứt. 

CÁI “Ý” CÓ 5 THỨ 

CHÁNH VĂN

Cái “Ý” này lại có 5 thứ: Nghiệp thức (nghiệp tướng), Chuyển thức (chuyển tướng), Hiện thức (hiện tướng), Trí thức (trí tướng) và Tương tục thức (tương tục tướng). 

  1. “Nghiệp thức” là sự vô minh bất giác làm cho tâm vọng động (tức là Tự chứng phần của thức A lại da) 
  2. “Chuyển thức” là phần Năng phân biệt (Kiến phần của thức A lại da) do tâm vọng động chuyển sanh ra. 
  3. “Hiện thức” là sự hiện bày của cảnh giới ngũ trần bị phân biệt (Tướng phần của thức A lại da). Cảnh giới này không có trước sau, trong tất cả thời, mặc tình sanh khởi, thường hiện ở trước. 

(3 thức này thuộc về Tam Tế) 

  1. “Trí thức” là cái biết phân biệt các pháp nhiễm tịnh. 
  2. “Tương tục thức” là niệm niệm sanh diệt tương tục không gián đoạn. 

(2 thức này thuộc về 2 món. Thô trước, trong 6 món Thô) 

năm thứ “ý” này, giữ gìn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá khứ vô lượng kiếp về trước, cho đến ngày nay cũng không mất (trì chủng). Nó lại có công năng làm cho thành thục tất cả quả báo khổ vui về hiện tại cũng như tương lai, không sai mất (chấp thủ căn thân, thế giới và kiết sanh tương tục). Và nó công năng nhớ việc đã qua, nghĩ những việc hiện tại và suy tính những việc chưa đến (vị lai). 

Bởi thế nên ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) đều hư ngụy, duy tâm tạo ra. Nếu rời tâm thì không có cảnh giới sáu trần này (ba cõi). 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về nghĩa chữ “ý”, là chỉ cho một dòng sanh diệt tương tục không gián đoạn. Từ vô minh vọng động, sanh ra 3 món Tế, là Nghiệp tướng (nghiệp thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện tướng (hiện thức) và hai món Thô là Trí tướng (trí thức) và Tương tục tướng (tương tục thức). 

Năm cái “ý” này có công năng giữ gìn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và vị lai, làm cho không mất (đó là công năng trì chủng chấp thọ thân căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na); nhớ nghĩ những việc đã qua và lo tính những điều chưa đến (đó là công năng của thức thứ 6), và một dòng sanh diệt, tiếp tục từ trước đến sau không gián đoạn, gọi đó là “ý”. Bởi thế nên chữ “ý” này là chỉ chung cho cả 8 thức. 

Tóm lại, từ vô minh vọng động, sanh ra thức A lại da. Từ thức A lại da lại tiếp tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau làm nhân làm duyên, lại thành ra một dòng sóng thức, sanh diệt tương tục vô tận, gọi đó là “ý”. Cũng vì rõ nghĩa này, nên Cổ nhân làm bài thơ có câu rằng: “…Nhất ba tài động vạn ba tuỳ …” (một lượng sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi theo). 

Nào ba cõi, nào 6 trần đều từ 8 thức này biến hiện. Bởi thế nên các pháp đều hư dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, thì các cảnh giới đều không còn. 

CHÁNH VĂN

Nghĩa này thế nào?_ Do tất cả pháp đều từ vọng tâm của chúng sanh mà sanh khởi, nên tất cả sự phân biệt tức là phân biệt trong tự tâm. Nhưng tâm không có hình tướng gì cả, nên không thể thấy được nó. Phải biết, tất cả cảnh giới ở thế gian, đều do vô minh vọng tâm của chúng sanh mà được tồn tại, nên tất cả các pháp, đều không có thực thể, mà chỉ vọng tâm huyễn hiện, như bóng trong gương. 

Nếu vọng tâm sanh khởi, thì các pháp đều sanh khởi; vọng tâm diệt thì các pháp đều diệt (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp diệt). 

LƯỢC GIẢI

Tất cả các pháp đều do tâm của chúng sanh sanh ra, nên chúng sanh phân biệt các pháp, tức là phân biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm chép: “Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp” (tự tâm chúng sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng sanh; tâm không phải huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn). 

Tất cả các pháp đều không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn tại, như hoa trong gương, như trăng dưới nước. Nếu tâm động thì các pháp sanh, tâm tịnh thì các pháp diệt. Trong Khế kinh chép: “tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp diệt” là vậy. Tổ Qui Sơn nói: “Nhất tâm không sanh thì muôn pháp đều dứt” (Nhất tâm bất sanh vạn pháp câu tức). Bởi thế nên đoạn trước nói “Người quán vô niệm (không vọng niệm) thì hướng về trí Phật”. 

Đoạn này đã nói về “ý tương tục” rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ý thức. 

  1. NÓI VỀ “Ý THỨC” 

CHÁNH VĂN

Trên đã nói về “ý” rồi, tiếp theo đây nói về “ý thức”. Ý thức tức là “thức tương tục”. Bởi chúng phàm phu chấp trước rất nặng nề nơi Ngã và Ngã sở, nên khởi ra các món vọng chấp, leo chuyền theo sự vật, phân biệt cảnh giới sáu trần, gọi đó là “ý thức” (thức thứ sáu). Cũng gọi đó là “Phân ly thức”, hay gọi “Phân biệt sự thức”. Thức này nương nơi kiến (kiến hoặc) và ái (tư hoặc) phiền não mà được nuôi lớn. 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về “ý thức”. 

So với 5 món “ý” nói trên, thì ý thức này thuộc về món thứ năm là “Tương tục thức”; trong Lục thô nó thuộc về Thô thứ hai là “Tương tục Tướng”; trong 8 thức nó thuộc về thức thứ 6. 

_ Bởi thức này, niệm niệm tương tục, chấp Ngã và Ngã sở, leo chuyền theo các trần cảnh, phân biệt các sự vật, vọng chấp đủ điều, nên gọi là “Thức tương tục”. 

_ Bởi thức này phân biệt 5 trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc) mỗi cảnh riêng nhau, nên gọi là “Phân ly thức”. 

_ Bởi thức này phân biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là “phân biệt sự thức”. 

_ Lại nữa, thức này nhờ 2 món phiền não là “Kiến” và “Ái” mà được nuôi lớn, “kiến” tức là kiến hoặc, thuộc về phân biệt hoặc. “Ái” tức là Tư hoặc, thuộc về Cu sanh hoặc. Do hai món phiền não này, nên ý thức mới khởi hoặc tạo nghiệp, quanh quẩn trong sanh tử luân hồi. 

***

Trong “Môn sanh diệt” có 2phần, trên đã nói về phần thuận dòng vô minh (lưu chuyển), sanh ra các pháp sanh tử tạp nhiễm; sau đây sẽ nói, chính nơi pháp tạp nhiễm lưu chuyển đó, để chỉ sự trở lại thanh tịnh (hoàn tịnh) tuỳ theo trình độ của người, hoặc mau hay chậm không đồng. 

CẢNH GIỚI NÀY DUY PHẬT MỚI BIẾT ĐƯỢC RỐT RÁO 

CHÁNH VĂN

Do vô minh huân tập sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể biết được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng không thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền (Trụ Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít; bực Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng phần; cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy có Phật mới biết được rốt ráo. 

Tại sao vậy?. _ Vì tâm này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh, không có vô minh; song bị vô minh làm nhiễm ô (bất biến tuỳ duyên), vì thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới có thể biết được cảnh giới này. 

Tóm lại, chân tâm (tâm tánh) vì thường không vọng niệm, nên gọi là “bất biến” (chân như). Song chúng sanh vì không ngộ nhập được chân tâm (nhất pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là “vô minh”. 

LƯỢC GIẢI

Người đang chiêm bao không bao giờ biết được chiêm bao; phải thức giấc rồi mới biết đó là cảnh chiêm bao; chúng sanh đang ở trong vòng vô minh vọng thức, không thể biết được vô minh vọng thức; bao giờ giác ngộ hoàn toàn, mới biết được rốt ráo cảnh giới của vô minh vọng thức. 

Do vô minh huân tập vào chân như, nên chân vọng hoà hiệp biến thành thức A lại da. Chúng phàm phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên không bao giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy dùng trí huệ quán sát, phá được ngã chấp; nhưng mây pháp chấp hãy còn dày bịt và che lối chân tâm, nên cũng không thể thấy được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá được đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít về cảnh giới này. Đến bậc Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một phần vô minh, chứng được một phần pháp thân, thì thấy được một phần của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến khi nào phá được 10 phần vô minh, thì chứng 10 phần pháp thân và biết được cả 10 phần của cảnh giới này. (Thập địa Bồ Tát, do phá vô minh, chứng được pháp thân, nên gọi là “Pháp thân Bồ Tát”). Bực Đẳng giác Bồ Tát, vì còn vi tế vô minh, nên đối với cảnh giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả vị Phật, do phá vô minh đã sạch hết, nên mới hoàn toàn biết được cảnh giới này; cũng như người đã hoàn toàn thức tỉnh, mới biết được rốt ráo cảnh mê mộng. 

***

Trên đã nói nhân duyên trở lại bản tâm thanh tịnh rồi, dưới đây sẽ lược nói đến địa vị nào, mới đoạn được hoặc gì, để trở lại bản tâm thanh tịnh.