B. KHAI CHƯƠNG THÍCH VĂN
(phân ra làm hai)

  1. Lược Tiêu. Nêu 10 nguyên tắc.
    2. Tường thích. Giải rõ mười môn ấy.

1. LƯỢC TIÊU

Sắp giải kinh này chung nêu mười môn:

1. Giáo khởi sở nhơn: Cái nhơn vì giảng giáo.
2. Tạng giáo đẳng nhiếp: Gồm thâu tạng, giáo, phần.
3. Nghĩa lý thâm quảng: Nghĩa lý rất rộng sâu.
4. Sở bị giai phẩm: Thích hợp các giai phẩm.
5. Năng thuyên thể tánh: Chuyên bàn về thể tánh.
6. Tôn thú chỉ qui: Chỉ rõ về tôn thú.
7. Bộ loại sai biệt: Bộ loại sai khác nhau.
8. Dịch thích tụng trì: Người dịch, giải, tụng, trì.
9. Tổng thích danh đề: Chung giải tên kinh này.
10. Biệt giải văn nghĩa: Giải riêng nghĩa từ văn.

Chú Giải: Với sự giải kinh này so theo ý lời Sớ Kinh Hoa Nghiêm lược làm mười môn: Tám môn trước thuộc về nghĩa môn, hai môn sau là chánh thích về kinh văn. Lại nữa với việc chia 10 môn để giải đây đại đồng tiểu dị với “ngũ trùng huyền nghĩa” (51) của ngài Thiên Thai vì là chia ra thành 10 môn, thâu lại còn 5 môn, nên có chỗ nhiều và ít vậy thôi.

2. TƯỜNG THÍCH
(Giải thích rõ 10 môn trên)

      Trước từ Giáo khởi sở nhơn đến 10 là Biệt giải văn nghĩa.

      GIÁO KHỞI SỞ NHƠN (phân ra làm hai phần)

1. Tổng: Giải rõ phần chung.
2. Biệt: Giải rõ phần riêng.

1. TỔNG

Chánh Văn: Trước nói rõ phần Tổng là chỉ vì nhơn duyên của một việc lớn mà đức Như Lai, Ngài phải xuất hiện ra thế giới này. Giáo pháp của Ngài thuyết ra trong một đời, tóm chỗ đại ý: chỉ vì muốn khai thị cái tri kiến của Phật cho chúng sanh ngộ nhập. Nay kinh này cố ý chỉ ngay cho chúng sanh: dùng tâm niệm Phật để vào chỗ tri kiến của Phật.

Chú Giải: “Đại sự nhân duyên” (52) là dẫn câu văn trong kinh “Pháp Hoa”. Kinh kia nói lý do đức Như Lai ra đời, bổn ý Ngài muốn độ tất cả chúng sanh đều được thành Phật. Vì bất đắc dĩ mà Ngài phải quyền biến nói ba thừa, đến sau căn cơ của các đệ tử thuần thục, Ngài mới hội ba thừa qui về Nhứt Thật, mới vừa cái bổn ý của Ngài. Nên biết: Từ nói kinh “Hoa Nghiêm” về sau, kinh “Pháp Hoa” về trước, trong khoảng thời gian đó tuy Phật thuyết có nhiều pháp môn cao, thấp, không đồng; nhưng đâu chẳng phải vì một đại sự nhân duyên đây. Trừ ngoài một đại sự ấy, lại không có một đại sự thứ hai nữa.

Nay kinh này nói: “Hễ nhứt tâm trì danh hiệu của Phật A Di Đà, tức được bực bất thối chuyển”. Đây là chỉ ngay tự tâm của phàm phu rốt ráo được thành quả Phật. Nếu tin chắc như thế, cần gì phải trải qua ba thừa để học, lâu xa nhiều kiếp để tu, mà chỉ không vượt ra ngoài một niệm, mau chứng quả Bồ Đề, đâu không phải là đại sự hay sao?

2. BIỆT

Chánh Văn: Biệt là chuyên theo kinh này cũng có mười nghĩa:

1. Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, nên Phật nói kinh này để làm cầu bến cho đời mạt pháp.
2. Vì trong vô lượng pháp môn riêng rút ra một phương tiện tối thắng này.
3. Vì chê khổ khen vui để cho chúng phàm phu trong đường sanh tử dấy lòng ưa cõi vui, nhàm cõi khổ.
4. Vì giáo hóa dẫn dắt hàng nhị thừa chấp không chẳng tu Tịnh Độ.
5. Vì khuyên các người mới phát tâm hành Bồ Tát Đạo, nên gắng tới niệm Phật, để được gần gũi Như Lai.
6. Vì thâu nạp hết căn lợi, độn thảy đều được độ thoát.
7. Vì hộ trì người tu hành nhiều chướng nạn, để khỏi bị sa đọa.
8. Vì chính chỉ ngay nơi cái tâm hữu niệm, đặng chứng vào cái lý vô niệm.
9. Vì cách chỉ dạy rất khéo là nhơn cầu vãng sanh mà thật ra là ngộ quả “vô sanh”.
10. Vì chỉ rõ đường tắt tu hành, lại đường tắt trong đường tắt nữa.

Chú Giải: Với lời giải thích sẽ thấy văn sau mà mỗi bài nổi lên có lớp lang liên tiếp, dụ như sợi dây chuyền tròng kế nhau luôn.

1. Bởi chúng sanh mê đắm, Phật vì đó làm cầu bến.
2. Sở dĩ làm cầu bến được là vì nhờ có phương tiện tối thắng.
3. Sao là phương tiện tối thắng? Vì có cái tài độ chúng phàm phu.
4. Không những chỉ độ chúng phàm phu mà cũng độ cả hàng nhị thừa thánh nhơn nữa.
5. Chẳng những hàng nhị thừa mà cũng độ cả đến Bồ Tát kia.
6. Đâu những riêng độ trong loài người mà cũng phổ độ tất cả chúng sanh ở các loài.
7. Chẳng những chỉ độ chúng sanh lúc bình thường, cũng độ cả trong khi bị chướng nạn.
8. Tuy rằng độ sanh rộng lớn như thế, thật ra không ngoài một niệm của chúng sanh đặng vào lý “Vô Niệm”.
9. Đã nói hữu niệm đặng lý “Vô Niệm” thì cũng ngay nơi vãng sanh đặng chứng quả “Vô Sanh”.
10. Vì gồm suốt chín môn trước, để biết Pháp môn trì danh niệm Phật đây là đường tắt (trì danh) trong đường tắt (các pháp niệm Phật).

Lại do vì đường tắt trong đường tắt đây, mới có thể làm cầu, bến cho đời mạt pháp.
Thế là trước, sau thứ lớp; đầu, cuối xoay vần, cho nên nói: “Cũng như dây chuyền”.

Chánh Văn: Một: Vì lòng đại bi thương xót nên làm cầu, bến cho chúng sanh đời Mạt Pháp là khi Phật thành đạo đã đương thời ác trược, huống chi nhằm đời Mạt Pháp, chính ở vào thời kỳ đấu tranh kiên cố, lần hồi thảng mảng (mòn mỏi) sau lại càng sau, đều nhờ thần lực kinh này cứu vớt chúng – sanh sau đẻ muộn ở đời rốt, kiếp tàn; như vậy, đâu chẳng phải là lòng từ bi cực điểm dự phòng để pháp tế độ ư!

Chú Giải: Đã đương thời ác trược là thế giới này, đến khi mà con người ai cũng sống còn chỉ có hai vạn tuổi, tức đã bắt đầu vào cái thời kiếp trược. Thuở đức Thích Ca ra đời, người sống chỉ còn trăm tuổi, đã là khá thương! Vì trải qua đời ác trược đã lâu lắm!

“Chính vào thời kỳ đấu tranh” là: Năm trăm năm trước nhứt, về thời kỳ giải thoát kiên cố; dần dần mỗi số; năm trăm năm thứ nhì là thời kỳ tu Thiền định; 500 năm thứ ba, người thông thái học đạo; 500 thứ tư, dựng lập chùa tháp. Nay chính đương thời kỳ thứ năm là đấu tranh kiên cố (53) lại là đáng thương!

“Sau lại càng sau” là nhẫn đến khi mà thời kỳ pháp diệt hết, lại càng đáng thương hơn nữa. Thế nên Phật nói kinh này, lược kể lòng đại bi có ba điều cảm khái chí mật thiết:

1. Thưở Phật còn tại thế, vì rất thương chúng sanh trong số kiếp ngũ trược ác thế này, nên Ngài nói pháp trì danh niệm Phật là pháp mà chúng sanh lấy làm khó tin, đây là lòng đại bi thương xót chúng sanh lần thứ nhứt.

2. Sau khi Phật diệt độ về sau, kẻ tu hành phần đông là hạng phước huệ càng ngày càng kém, tội chướng mỗi bữa một thêm nhiều, làm gì mong thấy được Phật, nên Phật nói kinh này là để chúng sanh đời sau tuy không được thấy Phật và Phật đã diệt, nhưng pháp trì danh niệm Phật vẫn còn; hễ ai có lòng tín niệm, thì chóng khỏi đường sanh tử, được vãng sanh thấy Phật Di Đà. Đây là lòng đại bi thương xót chúng sanh lần thứ hai.

3. Như trong kinh Đại Bổn nói: Sau Phật diệt độ khoảng lâu xa đến cuối đời mạt pháp, các bổn kinh to dài dòng, và đạo pháp khó tu, đều lần hồi tiêu diệt hết, vì chúng sanh không đủ sức để học tu kinh pháp ấy! Chỉ riêng còn một bổn kinh này ở đời độ sanh, đến rốt sau mới diệt. Thế thì đủ biết: lúc nước ngập nhẫy trời, còn có thuyền từ cứu vớt, đêm khuya tăm tối hãy còn đuốc huệ sáng soi. Đây là lòng đại bi thương xót chúng sanh lần thứ ba vậy.

Ví như đấng cha lành lo nghĩ cho đoàn con dại, vì lòng thương vô hạn, dành để lại nghề nuôi sống, có thể với chắt chít sâu xa, dòng dõi thừa sót, đến nỗi gia sản điêu tàn, thân hình bần khổ cũng còn chỗ nhờ cậy. Nên nói lòng từ bi rất tột, phòng để pháp tế độ chúng sanh.

Chánh Văn: Hai: Đặc biệt là với vô lượng pháp môn đưa ra một môn phương tiện tối thắng.

Vào đạo có nhiều môn vốn không lựa chọn, nhưng với chỗ đèo cao, đồng bằng, đường cong, nẻo thẳng thì khó, dễ tự phân, nên ở trong vô lượng pháp môn, chỉ có một môn niệm Phật là phương tiện tối thắng, lược kể có bốn:

1. Phương tiện thứ nhất: Với kiếp không gặp Phật ra đời, song mà thường được thấy Phật.
2. Phương tiện thứ hai: Dầu chưa đoạn hoặc nghiệp cũng được thoát kiếp luân hồi.
3. Phương tiện thứ ba: Không nhọc công tu các hạnh khác mà đặng chứng pháp ba la mật.
4. Phương tiện thứ tư: Không phải trải qua nhiều kiếp mà chóng được giải thoát.

Chú Giải: Pháp môn là cái thể của đạo, nó kín nhiệm thậm thâm, phải từ cửa mới bước vào được. Mà lập pháp môn không đồng vì mỗi căn cơ khác nhau nên nói vô lượng; khéo léo dắt dẫn khiến được nhập môn, gọi là phương tiện. Mà nói chữ “Thắng” là phương tiện trong phương tiện. Tức trong “Quán kinh” chỗ nói rằng khác đó là đây.

“Nhiều môn” là: Có người hỏi rằng: Với những pháp môn khác đều có thể vào đạo được, hà tất riêng tu môn niệm Phật mới được vãng sanh?

Đáp: Các môn tuy nhiều nhưng có khó và dễ khác nhau, thế nên không ngại chi với cái không lựa chọn mà có thể nói lựa chọn.

Hiểm đường đèo ải gập ghềnh khó đi. Khúc đường quanh quẹo khó đến là dụ các pháp môn kia. Bằng thẳng thì dễ đi, là dụ như pháp môn niệm Phật, ai cũng có thể tu hành được. “Thẳng mau thì dễ đến” là dụ tu pháp môn niệm Phật mau vượt khỏi đường sanh tử. Như bà Vi Đề Hi xem khắp cả các cõi Phật trong mười phương mà chỉ muốn nguyện sanh về thế giới Cực Lạc Phật A Di Đà.

Thường được thấy Phật là trong “Khởi Tín Luận” đã chỉ rõ pháp “Chơn Như Tam Muội” (54) và hai môn Chỉ (55), Quán rồi. Lại nói có người mới học pháp quán nầy, tâm còn hèn nhát, cho rằng cõi Ta Bà không được thường gặp Phật. Sợ tín tâm không vững; đức Như Lai có phương tiện rất hay để nhiếp hộ tín tâm kia, bảo họ chuyên lòng niệm Phật liền đặng sanh về cõi Phật, thường được thấy Phật. Như trong tạng Kinh nói: “Chuyên niệm đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương, sẽ được vãng sanh không hề lui sụt”, còn kinh A Di Đà đây nói: “Bảy ngày nhứt tâm chắc được Phật hiện trước mặt”.

Cho nên biết rằng trên hội Linh Sơn, Phật Thích Ca đã nhập diệt, còn hội Long Hoa thì đức Di Lặc (56) chưa ra đời. Trong kỳ khoảng giữa không có Phật ra đời mà vẫn được thấy Phật, đây là pháp phương tiện tối thắng thứ nhất.

Được ra khỏi luân hồi là: do nơi vọng hoặc sanh hành nghiệp (57), có nghiệp cảm thụ quả báo, rồi phải trôi lăn qua lại trong sáu đường để chịu khổ mãi không thôi. Y theo pháp khác tu hành, đến chứng vọng hoặc hết, mới được thoát ly luân hồi. Nhưng mà trong thời kỳ tu tập đó, với những nỗi đầu thai chuyển kiếp giữa thế gian cũng chưa chắc giữ cho được khỏi cái khổ thăng trầm. Duy có pháp môn niệm Phật đây, dầu còn mang nghiệp cũng được vãng sanh. Vì: một là do sức niệm Phật của mình, hai là nhờ thần lực cao cả của Phật bảo đảm, nhiếp thọ. Một phen mà được sanh về nước kia liền vượt ra khỏi ngoài ba cõi, không còn bị luân hồi trong sáu thú. Nên kinh nói: Chúng sanh niệm Phật, được sanh về đó rồi đều chứng lên bực Bất Thối Chuyển. Đây là pháp phương tiện tối thắng thứ hai.

Đặng pháp Ba La Mật là các vị phát tâm hành Bồ Tát đạo, có vị đã trải qua trong hằng hà sa kiếp để tu pháp lục độ, vạn hạnh mà cũng chưa hoàn toàn công hạnh được! Thế mà nay đây chỉ có nhứt tâm niệm Phật: muôn việc trần tự nhiên dứt bỏ, tức là pháp “Bố Thí Ba La Mật”. Nhứt tâm niệm Phật, các việc ác tự dứt, tức là “Trì Giới Ba La Mật”. Nhứt tâm niệm Phật, lòng được nhu hòa mát dịu, tức là “Nhẫn Nhục Ba La Mật”. Nhứt tâm niệm Phật, vĩnh viễn không bị thối lui, đọa lạc, tức là “Tinh Tấn Ba La Mật”. Nhứt tâm niệm Phật, không sanh các vọng tưởng, tức là “Thiền Định Ba La Mật”. Nhứt tâm niệm Phật, chánh niệm rõ ràng, tức là “Bát Nhã Ba La Mật”. Suy xét cho cùng tột thì không ra ngoài nhứt tâm niệm Phật mà muôn hạnh được đầy đủ cả. Như trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng có phát nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, chúng hữu tình trong nước ta, nếu không được thần thông tự tại ba la mật thì ta không lãnh lấy ngôi chánh giác làm chi”. Đây là phương tiện tối thắng thứ ba.

“Chóng đặng giải thoát” là: Trong bộ “Trí Độ Luận” nói: Có các vị Bồ Tát tự nhớ mình thuở trước chê bai pháp Đại Bát Nhã nên đọa trong ba đường dữ, rồi ra đi tu, đã trải qua nhiều kiếp. Tuy hành các hạnh khác, nhưng không diệt được tội, sau gặp bạn tri thức dạy niệm danh hiệu Phật A Di Đà mới tiêu được tội chướng siêu sanh Tịnh Độ. Lại trong kinh “Thập Trụ”, đoạn kết có nói: Khi ấy trong pháp hội có bốn ức chúng Bồ Tát, tự biết mình lắm đời về trước đã chết đây lại sanh kia, liên miên không dứt, là bởi nguồn gốc do lòng tham muốn; nghĩ thế chán ngán, rồi muốn sanh về cõi nước nào không còn lòng ham muốn. Phật bảo: “Bên Tây phương cách đây vô số quốc độ có đức Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, dân chúng trong cõi kia rất thanh tịnh, không có lòng: dâm, giận, và ngu si, vì hóa sanh bằng hoa sen, chớ không do cha mẹ sanh đẻ như cõi này. Các ngươi hãy cầu sanh về cõi kia”. Thế nên trong kinh “Đại Bổn” nói: “Bồ Tát muốn làm cho chúng sanh kíp mau an trụ trong đạo quả Vô Thượng Bồ Đề đây thì cần phải phát triển cái nghị lực tinh tấn, để nghe tu theo pháp môn này”.

Nên biết rằng: Tu các pháp khác ví như con kiến bò lên núi; tu môn niệm Phật này cũng như thuyền đi thuận nước, xuôi gió (58); thế sự mau, chậm cách nhau như trời với vực. Bực cổ đức có nói: “Muốn tu chỉ một đời được chứng quả thì phải để tâm nơi pháp này”. Đây là phương tiện tối thắng thứ tư.

Chánh Văn: Ba: Vì chê khổ khen vui để cho chúng phàm phu trong đường sanh tử, sanh lòng ưa cõi vui nhàm cõi khổ.

Bởi các chúng sanh mê quên tự tánh, cam chịu luân hồi, đã từ nhiều kiếp đến nay mà cũng chưa tỉnh ngộ nên đức Phật mới chỉ bày hai cõi “Khổ”, “Vui”, mở lập hai môn “Chiết” và “Nhiếp”, chê khổ khen vui, khiến cho ưa vui, nhàm khổ, tâm Bồ Đề đã phát, tịnh nghiệp mới thành.

Chú Giải: Nếu cứ theo pháp môn bình đẳng mà luận thì có chi là sạch, có chi nhơ mà hòng ưa, nhàm. Thế làm gì có lập ra hai môn “Chiết” và “Nhiếp”? Nhưng, nay với chúng phàm phu còn ở trong sanh tử, mê mất chơn tâm rượt theo cảnh trần, trải lâu chịu đủ cách luân hồi, quay cuồng mãi không biết bao lần lên xuống, đành lòng cam chịu, chưa từng có một niệm giác ngộ tấn tu để cầu nguyện giải thoát. Nếu nay đã ngăn không giúp họ sự ưa vui, nhàm khổ mà lại muốn cho họ giác ngộ ngay nơi tự tâm thì có khác nào ếch ruộng, cá giếng (59), đã không cho thêm nước mà lại trách nó sao chẳng trồi lên… thì càng thêm chìm đắm, đối với sự trách có ích gì? Vì thế, nên chính trong cái lẽ không khổ, không vui mà đức Phật chỉ rõ ra có cảnh khổ cõi vui, dùng pháp “chiết phục” để diệt trừ mọi nỗi khổ, bày môn “nhiếp thọ” làm cho được an vui. “Chiết phục” là khuyến khích chúng si mê, làm cho họ sanh nhàm lìa; “nhiếp thọ” thì nưng dỗ những chúng biếng trễ khiến họ sanh lòng ưa muốn. Vậy sau những chúng đã ở lâu trong cảnh khổ bùn sình (ngũ dục) mới chê là cảnh nhơ nhớp, vừa nghe cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm mới phấn chấn cầu sanh. Chừng đó mới biết rằng: Cõi nầy là đống lửa lớn, cõi kia là ao nước mát. Thì lẽ tất nhiên là những chúng sanh đã bị lửa phiền não thiêu đốt từ lâu, nay há chẳng nên tránh cõi này mà về cõi kia ru. Phương tiện độ sanh lẽ phải như thế, đã sanh về nước kia thấy Phật nghe pháp, đặng Vô Sanh nhẫn mới ngộ bản tâm mình đây, xưa nay vốn bình đẳng.

Chánh Văn: Bốn: Vì để giáo hóa dẫn dắt hàng nhị thừa chấp không chẳng tu Tịnh Độ là bởi do hàng nhị thừa vừa chứng được lẽ “Ngã không” liền sanh lòng đắm trước (ưa thích), nghe nói đến việc làm cho cõi Phật thanh tịnh là phải giáo hóa chúng sanh thì lòng họ không ham muốn, nên nay khiến họ hồi bỏ tâm Tiểu Thừa, để hướng về Đại Thừa là phát ý niệm Phật cầu nguyện vãng sanh.

Chú Giải: Vừa chứng được lẽ “Ngã không” là hàng Tiểu Thừa chỉ mới giác ngộ được trong thân ngũ uẩn không có cái Ngã làm chủ, chớ chưa biết cả ngũ uẩn cũng là không nữa nên mới chấp cảnh là có, rồi chỉ muốn tránh cảnh khổ ồn ào, trốn về cảnh vui vắng lặng. Nếu nghe nói đến cảnh Tịnh Độ để cho chúng sanh niệm Phật sanh về bằng cách hóa sanh thì lòng không ưa thích. Như các hàng Thinh Văn, không thấy được thần lực Phật Lô Xá Na và không được dự vào đại hội của các vị Bồ Tát, là vì bổn ý họ không hoan nghinh về chỗ nói công đức thanh tịnh các cõi Phật trong mười phương. Bực cổ đức nói: “Hàng Tiểu Thừa không nhận cái lối nói có cõi Phật khác” (Di Đà). Bên Đại Thừa thì nói có vô số cõi Phật. Đức Thế Tôn gọi bậc Tiểu Thừa là hàng “độc thiện kỳ thân”, (60) cũng kêu là bọn “độn căn A La Hán”. Cho nên Phật dạy họ quày tâm đoạn diệt (61), tu hạnh Tịnh Độ, mới biết lòng bi trí, sức hạnh nguyện của Phật, Bồ Tát rộng lớn như thế, vô cùng như thế. Tâm không ngại cảnh, cảnh chẳng ngại tâm, tất cả các pháp bổn tánh nó tự không, thành thử trọn ngày độ sanh, nhưng trọn ngày không chấp độ. Thế mà những kẻ chỉ riêng tu Thiền Định, không nguyện vãng sanh, thật là lầm lắm vậy!

Chánh Văn: Năm: Vì khuyên các người mới phát tâm hành Bồ Tát đạo nên gắng tu niệm Phật, để được gặp Như Lai là bởi bực mới phát tâm hành Bồ Tát đạo (62), tâm Đại Thừa ấy mới kiến lập nhưng sức thắng nhẫn chưa thành; cũng như chim con lông cánh còn yếu, chỉ nên chuyền cành và đứa con bé thơ, cần phải gần bên mẹ; khi mà Bồ Tát đã vào hội chánh định tụ gần gũi đức Thế Tôn, mới đặng nhẫn lực, chứng pháp “Vô Sanh” trọn thành quả Phật.

Bấy giờ ngồi thuyền đại nguyện vào biển khổ độ sanh. Như trong Trí Độ Luận đã nói: “Vả chăng tu Bồ Tát đã đến bực lục trụ mà còn thối mất tâm Đại Thừa, nhiều kiếp làm Thinh Văn”. Xem như “trứng cá”, “bông xoài” đủ làm gương soi rõ.

Nên biết pháp niệm Phật là cha của Bồ Tát vì sanh đẻ ra pháp thân; cho đến cả Thập Địa Bồ Tát trước sau chẳng lìa pháp niệm Phật thì bực sơ tâm Bồ Tát đâu nên tự cho là đủ, mà không nguyện vãng sanh ư?

Chú Giải: Bộ Trí Độ Luận nói: “Chúng cụ phược phàm phu (63) dẫu có lòng đại bi muốn sanh trong đời ác trược để cứu khổ cho chúng sanh, thật là vô lý. Vì sao? Vì phiền não quá mạnh, mà chưa được sức nhẫn, tâm duyên theo cảnh sắc, thinh ràng buộc, phần mình đã đọa trong tam đồ, thì đâu có thể cứu được người?”

Dầu cho được sanh trong loài người, nhưng đối với quả Phật cũng khó đặng. Vì nhờ có tu phước đức bố thí, trì giới từ kiếp trước, nay hoặc đặng làm vua, làm quan, bị cái phước giàu có bắt phải ham sướng mê vui! Ví dầu có gặp thiện tri thức cũng không chịu tin theo. Vì ngu mê phóng túng, tạo nhiều tội ác, do đây phải đọa lạc nữa.

Lại dụ như hai người đối với việc cứu kẻ bị đắm nước: một người vội nhảy ngay xuống nước để cứu thì cả hai bị chìm luôn. Một người biết dùng phương tiện: Đi lấy thuyền bè bơi ra cứu vớt, cả hai đều khỏi nạn. Người mới phát tâm Bồ Tát muốn độ sanh cũng lại như thế. Cần phải gần gũi Như Lai, được thuyền từ là pháp “Vô Sanh Nhẫn” rồi, mới có thể vào biển khổ cứu độ chúng sanh, như người kia được thuyền, cứu đặng nạn chết đắm.

Luận ấy nói: “Ví như đứa bé nếu mà lìa mẹ thì nó sẽ té xuống hầm, xuống giếng, hoặc khát sữa phải chết. Lại như chim con lông cánh còn yếu, chỉ nên nương cây chuyền cành, khi lông cánh đã cứng cáp rồi, mới có thể bay liệng giữa hư không thung dung tự tại được”.

Cũng như phàm phu chưa có sức nhẫn, chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà, cho được chánh định (tam muội). Lúc lâm chung được chánh niệm, quyết định vãng sanh, thấy Phật, đủ sức nhẫn rồi, trở lại trong cõi này để cứu độ chúng sanh.

“Chánh định tụ” là để lựa riêng biệt với tà định và bất định. Vì phàm phu, tà ma, ngoại đạo nhứt định không có phần đấy. Bực sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát, hoặc tấn lên Đại Thừa hay lui xuống Tiểu Thừa cũng chưa nhất định. Nay được An Dưỡng của Phật A Di Đà rồi, không luận phẩm vị cao thấp, đều đặng bực bất thối chuyển cả, mới gọi là chánh định. “Chữ “Tụ” là nhóm, tức là một nhóm người chánh định. Chính trong kinh nói: “Các người bực thượng thiện nhóm hội”. Vì rằng đã vào trong hội này là được thấy Phật nghe pháp.

“Bồ Tát lục trụ còn lui mất tâm Đại Thừa” là: ông Thân Tử phát tâm tu hạnh Bồ Tát, đã chứng được bực trụ thứ 6 (trong Thập Trụ) của Biệt giáo; nhơn gặp lúc người Bà La Môn xin tròng con mắt (64) nhẫn không được, liền thối tâm Đại Thừa, luân hồi trong năm đường (65).

“Nhiều kiếp làm Thinh Văn” là có nhiều vị như ông Xá Lợi Phất chẳng hạn, đã phát tâm từ đời Phật Đại Thông Trí Thắng, do nhẫn không được nên phải lui sụt tâm Đại Thừa, đọa xuống hàng Thinh Văn nhiều kiếp bằng số vi trần điểm đến nay.

Nên trong kinh nói: Bầy cá ròng ròng, bông xoài, Bồ Tát sơ phát tâm; ba sự đây trong cái nhơn thì nhiều, đến chừng kết quả chẳng còn bao nhiêu. Dẫn lời đây để chỉ rõ bực sơ tâm Bồ Tát cần phải gần gũi đức Như Lai đặng chỗ nương dựa vững vàng, để khỏi bị lui sụt vậy.

“Pháp niệm Phật là cha của Bồ Tát”: Trong kinh Hoa Nghiêm quyển thứ mười một nói: Ông Oai Quang đồng tử nhơn thấy tướng của đức Như Lai mà đặng mười món mợi ích. Món đầu nói: Đặng pháp niệm Phật tam muội (66) gọi là pháp môn “Vô Biên Hải Tạng”. Lời sớ kinh ấy nói: “Pháp niệm Phật tam muội là cha của Bồ Tát nên trước nhất nói đó”. Bởi do Bồ Tát dùng pháp phương tiện làm cha (67) mà pháp niệm Phật đây chính nhằm thật sự, vì đó là phương tiện; lại niệm Phật được thành Phật, vì đó là hột giống thân sanh (68).

“Thập Địa trước sau” là: Trong văn Thập Địa từ trước đến sau, địa nào cũng nói tất cả việc ra làm, không rời pháp niệm Phật. Lại nói bực “Viễn Hành” địa (69) Bồ Tát tuy biết tất cả cõi nước cũng như không có mà hay dùng hạnh thanh tịnh nhiệm mầu, để trang nghiêm cõi Phật (70). Trong kinh Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: Ông Bồ Tát đến lúc rõ biết chư Phật và tất cả pháp đều duy một tâm lượng thì đặng sức nhẫn tùy thuận (71), hoặc được vào bực Sơ Địa; đến khi bỏ thân liền sanh vào thế giới “Diệu Hỉ” (72), hoặc sanh trong cõi Cực Lạc thanh tịnh của Phật, nên ngài Long Thọ là do bực Sơ Địa (73) mới được vãng sanh. Ông Ma Ta Kiệt là do đắc pháp nhẫn mới được vãng sanh. Chí như đức Văn Thù, Phổ Hiền (74) v.v… cho đến hết thảy các vị đại Bồ Tát đông lắm không thể kể xiết mà cũng đều phát nguyện vãng sanh, huống chi bực sơ tâm Bồ Tát mà không cầu vãng sanh ư?

Ngài Vĩnh Minh nói: “Muốn gá thân nơi đài sen để lìa hẳn cái khổ bào thai nơi bụng mẹ, sanh về nước Cực Lạc là quốc độ của chư Phật, đã đắc pháp thần thông du hí (75) thì những người ấy đều là đã hiểu rõ được tự tâm rồi, không vị nào mà không dạy chúng vãng sanh”.

Ngài Thiên Như nói: “Các ngươi nếu giác ngộ được tự tâm rồi thì với việc vãng sanh về Tịnh Độ dẫu sức mạnh bằng ngàn trâu, không thể kéo lại được”. Thế thời ông Sơ phát tâm Bồ Tát tuy là hiểu rõ, nhưng còn cách Phật rất xa, nên chính phải cầu nguyện vãng sanh không nên trễ vậy.

Chánh Văn: Sáu: Vì thâu nhiếp cả các căn, lợi, độn cũng đều thoát là bởi các pháp môn khác, có môn quá cao thời kẻ hạ cơ không phần nhờ, có môn quá thấp thời không hợp với sức thượng căn, thế nên đức Phật ban đầu nói kinh Hoa Nghiêm, các bậc tiểu căn như đui như điếc. Ông Ưu Ba Ly đem trí như lửa đom đóm để xét, kết thêm tội cho hai thầy bí sô. Chỉ có một pháp môn niệm Phật này, thượng cơ hay hạ căn cũng được gồm thâu, vì đều thích hợp; khá gọi rằng: Như vị thuốc A Già chữa lành muôn chứng bệnh; lò lớn đúc thành ngàn món đồ; đâu không phải là cửa từ bi mở rộng, pháp phổ độ không bỏ sót một căn cơ nào?

Chú Giải: “Như đui” là: Đức Như Lai lúc ở trong rừng Thệ Đa (76) diễn nói kinh Đại Hoa Nghiêm, lúc ấy các bực thượng đức Thinh Văn như các ông Thân Tử, Mục Kiền Liên v.v… lãnh hội không nổi, dụ như đui như điếc, không thấy không nghe chi cả (77) cho đến bực Tích Hạnh Bồ Tát còn nói là phơi mang (78). Đấy rõ biết rằng vì pháp môn cao, đạo lý đại mà căn cơ thì tiểu.

“Kết thêm tội” là: Trong kinh Tịnh Danh nói: Có hai thầy bí sô phạm giới căn bản bằng trường hợp vô tâm, đến phát lồ sám hối; ông Ưu Ba Ly y luật Tiểu Thừa để định tội làm cho hai ông chẳng giải đặng lòng nghi (79). Ông Tịnh Danh quở rằng: “Ngài Ưu Ba Ly! Ngài chớ đem pháp thường làm nhiễu loạn tâm kia, chồng thêm tội cho hai thầy bí sô ấy”. Đức Vĩnh Gia (80) phê bình trí soi xét của ngài Ưu Ba Ly như lửa đom đóm, rằng đã không khai ngộ chỗ mê lầm của hai ông, mà trở lại làm tăng thêm nữa. Đây rõ biết rằng vì pháp môn thấp mà căn cơ thâm, giáo lý lại thiển.

Ngoài ra như đem pháp Bất Tịnh Quán lầm trao cho anh thợ rèn, pháp Sổ Tức đem dạy cho người giữ mồ (81) không lợi ích chi cả. Chỗ lập môn kia, đây (Đại Thừa, Tiểu Thừa) cũng lại đều khác; mà căn cơ có cao, thấp, có lớn, nhỏ, thế nó không hợp hết được.

A Già Đà (83) là tên vị thuốc bên Tây Vức; chỉ một vị thuốc ấy, có thể trị lành các chứng bệnh. Dụ như chỉ một pháp trì danh niệm Phật mà rồi các bịnh: ngũ dục, tam độc, vô lượng phiền não, cho đến những bệnh cố chấp chênh lệch của Tiểu Thừa, ngoại đạo đều tiêu trừ tất cả.

“Lò lớn” là: Trong một lò lớn, hầm đúc muôn món đều thành đồ cả. Dụ như: Chỉ một pháp trì danh niệm Phật, tùy theo căn cơ dầu lợi, dầu độn, là hạnh tu của mỗi người, chớ cũng đều được vãng sanh về trong chín phẩm, đều đặng bực bất thối cả.

“Rộng lớn” là: Trong sách Châu Dịch, quẻ Kiền nói là Đại Sanh, quẻ khôn nói là Quảng Sanh. Nay pháp môn trì danh niệm Phật không một chúng sanh nào mà chẳng độ. Dụ như trời khắp che, đất khắp chở, đều nuôi gồm chứa cả muôn loài. Lòng chí từ không phân biệt lựa chọn nên gọi là pháp “Phổ Môn”.

Chánh Văn: Bảy: Vì hộ trì người tu hành nhiều chướng nạn để khỏi bị sa đọa là: Bởi đời mạt pháp rồi nên người tu hành hay mắc nhiều chướng nạn; nếu một phen thiếu chánh kiến liền sa ngã vào các đường tà. Nhờ nguyện lực oai thần đức Phật kia gia hộ cho người tu, ở trong hào quang cao cả che chở, khỏi bị ma sự quấy rối và Phật Ngài hộ niệm cho mãi đến lúc Đạo thành. Cho nên biết rằng hễ chánh niệm phân minh, ma vương không quấy rối, ví như đồ hình con Bạch Trạch trừ quái, gương báu dẹp yêu (yêu không trốn đặng) (84).

Chú Giải: “Đa chướng nạn” là gì? Người tu hành trong khi ngồi thiền định, quán tưởng kích phát nên ngũ ấm nó hay sanh ma chướng (85). Như trong kinh Lăng Nghiêm có chỉ 50 thứ ma. Có câu: “Không sanh tâm tưởng Thánh, gọi là Thiện cảnh giới; bằng móng tâm tưởng Thánh liền mắc vào bọn tà”. Nên biết hễ tâm chánh kiến hơi kém thì tà ma lừng lên, đã không ích mà lại còn tổn hại, muốn tấn lên trở lại sa xuống. Do đây, những kẻ căn cơ thấp kém không dám học đạo (tham thiền).

Thế mà nay đây người niệm Phật sẽ nhờ đại nguyện, đại lực của Phật nhiếp thọ, hộ trì cho. Oai thần của Phật không thể so lường, không có thiên ma nào dám can phạm đến, dầu có ma sự sắp đến rồi thì nó cũng tự tiêu diệt.

Lại trong kinh nói: “Người niệm Phật có hào quang của Phật soi vào mình, ánh sáng chung quanh cách bốn mươi dặm, nên ma không thể xâm phạm được do vì nhờ sức Phật A Di Đà và mười phương Phật thường hộ niệm, mãi từ ngày phát tâm, cho đến khi thành Đạo, từ trước đến sau mỗi việc đều lành cả”. Bởi do chánh niệm phân minh, dầu ma có đến cũng dễ biết dễ trừ; chẳng phải sánh như hạng người đắm ưa ngồi tịnh, chấp lấy cảnh không, trong tâm không tự chủ, gặp ma không biết, để đến nỗi nhập tâm ấy vậy.

“Đồ hình Bạch Trạch” và “gương báu” là dùng hai dụ đây để rõ ý rằng: Chẳng những chỉ nhờ sức hộ trì của chư Phật mà là cần nhờ sức niệm của mình nữa. Có con thần thú (chúa yêu) tên Bạch Trạch biết nói tiếng người rõ được tánh tình muôn vật, các tà tinh hễ trông thấy bóng nó liền trốn mất. Nên nói: Nhà nào có đồ hình Bạch Trạch, quyết không có các loài yêu quái như vậy.

Lại con tinh trên núi, con quỉ ngoài đồng, chúng nó có thể biến đủ thứ hình (86) để dối gạt mọi người, nhưng nó không thể biến hiện hay là tàng hình trước gương báu được. Dụ như người niệm Phật: hễ chánh niệm hiện tiền, trí huệ sáng suốt, tất cả thiên ma, tâm ma (87) đều không dám khuấy phá được.

Chánh Văn: Tám: Vì chính chỉ ngay nơi cái tâm hữu niệm, đặng chứng vào lý vô niệm là: Tâm vốn vô niệm mà có niệm thì sai. Nhưng vì chúng sanh từ vô thỉ đến nay tập quán vọng tưởng quá ư lâu đời, chưa dễ gì vội dứt liền đi được, nay dạy cho chúng niệm Phật, chính như: Lấy thuốc độc nọ để giải thuốc độc kia và dùng binh ta để đẩy lui binh địch; bệnh lành, giặc yên, cũng như thân hết bệnh, lại không có thân mạnh nào khác; tức là: Nguyên kẻ giặc cướp chính là con ruột của nhà ta.

Chú Giải: Trong Khởi Tín Luận nói: “Tâm vốn ly niệm” mà khởi niệm lên để niệm Phật, đâu khỏi tự làm khuấy rối lại tâm mình ư? Trong Phật Tạng Kinh nói: “Không cảm giác không quán niệm gọi là: Niệm Phật. Không nghĩ tưởng, không nói năng gọi là niệm Phật”, mà khởi niệm để niệm Phật, đâu không trở lại trái với tâm Phật? Nay đây bảo rằng: Bặt các niệm giác quán (vọng niệm) là thiệt tướng niệm Phật, lý ấy rất đúng. Song tâm tuy ly niệm, nhưng mà đã bị vô minh nhiễm ô tâm thể, vọng niệm nối chuyền như chứng bệnh bảy năm (88), dân loạn lâu ngày nên gọi tập quán (thói quen). Nay muốn gắng gượng dằn ép khiến cho nó lập tức yên tịnh thì ra dứt động về tịnh, càng dứt càng động. Dầu thô niệm tạm ngừng, nhưng tế niệm vẫn còn tích tắc. Thế mà nhận cho là phải, đâu chẳng lầm lắm ư?

Đã còn địa vị phàm phu, chưa có thể dứt vọng lự, quên duyên trần (89), đâu không ngay nơi duyên lự ấy để tấn tu, cho nên dùng tâm niệm Phật để tấn công vọng niệm: Niệm một tiếng Phật đã cải đổi được trăm ngàn muôn ức các tạp niệm kia vậy. Huống chi vọng từ chơn khởi, như sóng do nước sanh; tức niệm tức không, rõ ràng bày nguyên bản thể vô niệm. Không phải ngoài vọng niệm mà riêng đặng quả Bồ Đề. Nên nói muôn pháp luống dối, chỉ là nhứt tâm, nếu ngộ được lý nhất tâm, thì mắt ngó đâu cũng đều là Bồ Đề cả.

Dụ như thân bệnh, khi lành rồi gọi đó là thân mạnh, dân loạn yên rồi gọi đó là lương dân. Nếu bỏ vọng niệm để riêng tìm chơn tâm thì khác nào thầy thuốc làm chết thân người bệnh rồi mới trị lành bệnh, và nhà chánh trị toan giết cả nước rồi mới an ninh cho dân; đâu có lẽ vậy ru?

Chánh Văn: Chín: Vì cách chỉ dạy rất khéo là nhơn cầu vãng sanh mà thiệt ra là ngộ lý vô sanh, bực Thất Địa Bồ Tát vừa gọi là đắc cái hiện tướng vô sanh nhẫn, bực Bát Địa mới đặng lý vô sanh. Nếu muốn diệt gấp sự hữu sanh để cầu lý vô sanh, càng cầu càng xa. Nay phải dùng pháp cầu sanh Tịnh Độ mới ngộ được lý vô sanh, vào chỗ có mà được chỗ không, tức nơi phàm thành bực thánh, khá gọi rằng : “Lời hay thấu đạo lý, thuốc quý đổi xác tiên”.

Chú Giải: “Vừa hiện tướng” là như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Mười địa, địa nào cũng đều có nói rằng đặng vô sanh; nhưng chánh thức là về bực Bát Địa mới thiệt đặng, còn Thất Địa chỉ nói là tịnh vô lượng, thân, khẩu, ý mới đặng Vô Sanh Pháp Nhẫn quang minh”.

Lời sớ giải thích văn trên của kinh ấy lại nói: Bát Địa Bồ Tát mới chính thức đặng vô sanh pháp nhẫn. Chứ đối với “vô sanh pháp nhẫn” của kinh kia thì ở đây bực Thất Địa Bồ Tát là mới được cái minh tướng của “Pháp nhẫn” nó hiện tiền, chứ thực ra là chưa thiệt đặng. Như lời sớ trong Quán Kinh nói: “Vô sanh tức thuộc bực Sơ Trụ”, ý lược đồng như đây. Nhẫn đến Bát Địa, lìa tất cả những điều phân biệt của tâm ý và ý thức, mới gọi là thiệt được bực vô sanh pháp nhẫn. Vậy nên biết: Với quả vô sanh nhẫn, bực Thánh như Thất Địa còn khó được, huống chi là chúng phàm ư?

“Càng xa” là: Nhàm chán sự sanh sống là khổ, vội muốn kíp diệt cái có sanh sống đó để về nơi cái không sanh, nhưng cái diệt đó nó không phải chơn diệt thì chỉ thêm hoài công nhọc nhằn, rốt rồi thành ra trôi lăn trở lại. Tỷ như cái định nghiệp làm trâu chưa hết, dầu phá cho hư cái xe nọ… chủ lại sắm nữa, lời xưa đã dụ rõ thế.

Kinh này nói: Chuyên lòng niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, đã sanh về nước kia rồi, hoa nở thấy Phật, tự biết được bổn tâm của mình vốn là không sanh thì dầu có phương tiện cầu sanh cũng chả ngại gì? Nên có câu: “Tưng bừng cầu sanh, mà không hề trái với lý vô sanh; trọn ngày nguyện sanh mà tâm vẫn chưa từng sanh”, thế mới gọi là thiệt được quả vô sanh.

Do nơi hữu sanh mà tỏ được lý vô sanh nên nói vào chỗ có mà đặng chỗ không; có sanh là thuộc về phàm phu, nhưng nhờ có sanh mới chứng đặng quả vô sanh, nên nói: Tức nơi phàm thành được Thánh. Tới đường về nhà, tiềm siêu mật độ (ai đi nấy đến bằng một cách ngầm kín), khó nghĩ khó bàn, nên nói: “Lời hay thấu lý đạo”; bỗng chốc đổi dời, như từ nơi đất bằng, bay lên cảnh tiên, người thường dân trở thành người sang cả, nên nói: “Thuốc quí đổi xác tiên”. Thế mà bỏ lời hay (lời Phật dạy niệm Phật), chấp lấy lời huống, bỏ thuốc tiên mà uống lấy thuốc độc, há chẳng đáng thương lắm ru?

Chánh Văn: Mười: Vì chỉ rõ đường tắt tu hành, lại là đường tắt trong đường tắt. Đây có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhứt là các môn học đạo, muôn dặm xa xôi; còn niệm Phật vãng sanh, xưa kêu là đường tắt. Song, một pháp niệm Phật lại có nhiều môn. Nay pháp trì danh đây thiệt là trong đường tắt, tắt mà càng tắt. Ví như: Chim hạc tung mình, đâu kịp đại bàng cất cánh, ngựa Ký ruổi vó, đâu bằng rồng chúa vươn bay; không gấp không đi mà mau, mà đến, là tắt trong đường tắt vậy.

Chú Giải: Hai nghĩa ấy: 1) So sánh với nhiều môn Tịnh nghiệp. 2) Là lựa kinh Tiểu Bổn, để riêng biệt với kinh Đại Bổn giữa Bổn Bộ, nên nói “đường tắt trong đường tắt”. Đường tắt là gì? Tức là con đường ngắn đi băng ngang mau đến, gọi là “tắt”. Đường ngắn là ví dụ pháp môn niệm Phật, sức làm rất dễ dàng; mau đến là ví dụ niệm Phật công thành rất mau chóng.

Ngài Thiện Đạo đại sư có làm bài kệ nói: “Duy có đường tắt tu hành là chỉ niệm A Di Đà Phật, thế thôi”. Nên nói: Tu các môn khác, gọi là: “Dọc ra ba cõi”, còn niệm Phật cầu vãng sanh, kêu là “ngang ra ba cõi”. Dụ như con kiến hay con mọt chẳng hạn, ở trong cây tre, đục bề dọc thì phải trải qua từng mắt, từng lóng khó thông, đục bề ngang thì một lỗ thấu phủng ra ngoài liền. Thế đem các môn tu khác so với môn tu niệm Phật này thì pháp môn niệm Phật rất là mau kết quả hơn cũng như thế.

Song pháp môn niệm Phật lại còn chia ra làm nhiều môn như trong văn sau sẽ giải: Từ thật tướng niệm Phật, có bốn môn, cho đến muôn hạnh hồi hướng v.v…

Với tánh “Pháp Thật Tướng”, dầu rằng mỗi người sẵn có, nhưng vì chúng sanh phần nhiều bị nghiệp chướng quá nặng, số người tỏ ngộ được tánh Phật ấy thì chỉ phần ít, nên sau đây kể ra vài môn như tu pháp niệm Phật bằng cách “quán tượng Phật”, đến lúc cất tượng đi, hoặc khi chẳng có tượng trước mắt thì lại không thấy cái nhơn tu ấy, thành ra gián đoạn. Tu pháp niệm Phật bằng cách “quán tưởng” thì tâm thô cảnh tế, diệu quán khó thành. Tu pháp niệm Phật bằng cách làm muôn hạnh thì sự làm quá ư bề bộn, chi cho khỏi nặng đâu sa đấy.

Duy có một pháp niệm Phật bằng cách trì danh đây là tiện lợi thẳng tắt. Hễ niệm Phật được nối luôn liền được vãng sanh. Cổ đức đã nói: “Miễn được thấy Phật A Di Đà, lo gì không tỏ ngộ Tánh Phật Thật Tướng”. Thế là không mong cầu ông “Phật Thật Tướng” mà ông “Phật Thật Tướng” hiện bày rõ rệt nên pháp môn niệm Phật là đường tắt của pháp tu hành, mà pháp trì danh lại là đường tắt trong pháp niệm Phật vậy.

Chim hạc liệng đã hơn chim thường mà đâu bằng chim đại bàng một phen cất cánh; ngựa Ký ruổi dong tuy hay hơn ngựa khác nhưng đâu kịp rồng bay. Hai vật trên đều dụ pháp niệm Phật, hai vật dưới đều dụ pháp trì danh niệm Phật vậy.

“Chẳng mau chẳng đi” là trong kinh Dịch, lời Hệ Từ nói: “Lý của kinh Dịch, không suy nghĩ, không tạo làm, là cái lẽ vắng lặng, không lay động. Hễ có cảm là liền thông suốt cả trong thiên hạ, nếu chẳng phải bực chí thần trong thiên hạ thì ai mà dự biết việc đây? Duy có bực chí thần mà thôi, vì bực Chí Thần không gấp mà mau chóng và không đi mà đến liền”. Ý nói gấp rồi mới mau, đi rồi mới đến là cái vật tầm thường.

Thể xủ quẻ cỏ thi là vẫn vắng lặng, không suy nghĩ, không tạo làm, nhưng hễ có cảm liền thông, thế mới gọi “không gấp mà mau, không đi mà đến”; có cái hay mầu nhiệm hơn muôn vật nên gọi “chí thần”. Dẫn lời kinh Dịch đây để chỉ rõ: Các pháp môn niệm Phật tuy đồng nói vãng sanh, nhưng vì sức tu hơi khó hơn và thời gian cũng lâu hơn, thế là tỷ phải đi gấp mới đến, mới mau được. Tu pháp trì danh niệm Phật này thì không kể năm, tháng, không luận nhiều công, miễn niệm làm sao chỉ trong bảy ngày cho được nhứt tâm, liền sanh về nước kia. Chả biết sao mà lẽ thần diệu hay đến tột bực như thế này!

Nên lời Sao trong Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: “Trong Đại Tạng có trên cả mấy bổn, hoặc kinh, hoặc luận cũng đều nói cái tu nhân niệm Phật”. Song đều dạy phải siêng tu, chứa công bồi đức cho nhiều, mới được vãng sanh. Kinh này chỉ dạy trì danh hiệu được nhứt tâm, liền lên bực bất thối, đâu không phải tắt mà lại tắt sao?

Chánh Văn: Nghĩa thứ nhì là trong Vô Lượng Thọ kể nhiều y báo, chánh báo, chép đủ các phép tu trì. Nay kinh Di Đà đây chọn chỗ giản tiện, bỏ chỗ phiền phức, lấy chỗ tóm tắt, bao gồm chỗ sâu rộng, không nói chi khác, chỉ dạy pháp trì danh, miễn sao niệm được nhứt tâm là liền sanh nước Cực Lạc. Nên nói: “Giản dị càng giản dị, nhiệm mầu càng nhiệm mầu, đường tắt trong đường tắt vậy”.

Chú Giải: Với kinh Vô Lượng Thọ sẽ thấy rõ trong hai môn Bộ Loại và Dịch Thích; bởi đối với kinh này nên người đời kêu kinh kia là Đại Bổn, vì bộ tuy đồng nhưng rộng hẹp có khác nhau. Kinh kia vì người ưa rộng, Phật nói rộng; kinh này vì người ưa hẹp, Phật nói hẹp. Nhưng lời tuy tóm tắt mà lý rất rõ ràng, sự dầu đơn sơ mà công được bội thắng. Như trong kinh Đại Bổn rộng luận việc làm các điều phước thiện, còn kinh này chỉ nói hễ chấp trì danh hiệu tức là đa phước đa thiện. Kinh Đại Bổn còn phân ba bực mà kinh này nói, hễ được sanh về nước kia đều được bực bất thối chuyển nơi quả Bồ Đề. Thế nên pháp trì danh niệm Phật chẳng những là chỗ thiết yếu trong các pháp môn niệm Phật, mà chính là chỗ rất thiết yếu trong bộ kinh Di Đà nầy. Nên nói: Pháp trong các pháp thậm thâm vi diệu, pháp nhiệm mầu trong các pháp nhiệm mầu, đường tắt trong những con đường tắt ấy vậy.

Chánh Văn: Như trên trong khoa Biệt nói mười nghĩa, lại lấy chín nghĩa trước là Thông (chung), một nghĩa sau là Biệt (riêng). Gồm luôn cả nghĩa của phần Tổng văn trước để làm sở nhơn lập giáo của kinh này.

Chú Giải: Thông là: Những kinh chung cùng nói rõ về pháp môn Tịnh Độ, đều vì đồng một nhơn đây. Biệt là: Riêng chỉ nói rõ về kinh này, chú trọng pháp trì danh, do vì dùng pháp trì danh làm nguyên nhân. Tổng là: Tức như văn trước, tóm nói rõ tất cả các kinh, đều vì một đại sự làm nguyên nhân.

Còn nói về cái ý mà Phật Thích Ca. Ngài nói ra kinh này là cốt vì: 1) Để dạy chúng sanh niệm Phật; 2) Để dạy chúng sanh trì danh niệm Phật; 3) Để dạy chúng sanh niệm Phật bằng cách trì danh mà được vào tri kiến của Phật, cho rõ nhứt tâm bất loạn, đây là một đại sự mà thôi; vậy nên đây hiệp lại ba cốt yếu trên để làm chỗ sở nhơn lập giáo của bộ kinh này.

TẠNG GIÁO ĐẲNG NHIẾP (phân ra làm ba phần):

1. Tạng Nhiếp: Kinh này thuộc về tạng nào?
2. Giáo Nhiếp: Kinh này thuộc về giáo nào?
3. Phần Nhiếp: Kinh này thuộc về phần nào?

1. TẠNG NHIẾP

Chánh Văn: Đã biết Phật nói kinh nầy có nguyên nhân như thế; nhưng chưa biết kinh đây đối trong Phần Tạng Giáo nó thuộc về đâu?

Nói về Tạng có hai: 1. Tam Tạng; 2. Nhị Tạng.

Trước nói: 1. Tam Tạng là:

A) Tạng Tu Đa La.
B) Tạng Tỳ Nại Da.
C) Tạng A Tỳ Đạt Ma.

Nay kinh đây (Di Đà) thuộc về Tạng Tu Đa La. Bởi các kinh cũng đều có thân thuộc lẫn nhau, nhưng kinh Di Đà đây không phải như các kinh kia.

Chú Giải: Tiếng Phạm nói: Tu Đa La. Tàu dịch: Khế Kinh, tức là tạng Kinh, sẽ giải thấy trong đề mục văn sau. Tỳ Nại Da, Tàu dịch là “Điều Phục”, tức là tạng Luật. A Tỳ Đạt Ma, Tàu dịch là: “Đối Pháp”, tức là tạng Luận.

Hai tạng trên đều có nhiều nghĩa, ở đây không cần lắm nên không dẫn giải. Thuộc về Tu Đa La là ở trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận, mà kinh Di Đà đây thuộc về tạng Kinh.

“Lẫn thuộc nhau” là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về tạng Kinh mà gồm cả tạng Luật và Luận, vì trong các phẩm Thập Tạng nói rõ về việc Giới Luật; còn các phẩm Vấn Minh nói rõ về Luận Nghị. Kinh Phạm Võng thuộc về tạng Luật mà gồm cả tạng Kinh, vì phần trên của phẩm Tâm Địa rộng nói ngôi bực của các vị Bồ Tát. Còn kinh khác so theo đây nên biết.

Kinh đây đã chẳng gồm giới luật lại cũng không kiêm luận nghị, vì từ đầu chí cuối, chuyên nói về pháp môn niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, nên nói kinh đây, không phải như các kinh kia.

CHÁNH VĂN: Nhị Tạng là:

A) Bồ Tát tạng.
B) Thinh văn tạng.

Nay kinh Di Đà đây thuộc về Bồ Tát tạng; các kinh cũng có lẫn thuộc nhau, nhưng kinh đây không phải như các kinh kia.

Chú Giải: Tạng Bồ Tát và Tạng Thinh Văn sẽ thấy rõ trong phần “Thích Văn” sau có giải. Tạng mà phân làm hai là do vì tạng Kinh có Đại Thừa, Tiểu Thừa nên phân ra làm hai hạng để thâu thuộc, đó là pháp. Nếu ước về người thì có ba bực (tam thừa), cũng phải phân ra ba tạng. Vì bực người Duyên Giác phần nhiều chẳng nương nơi kinh giáo nên gồm trong bực người Thinh Văn, cho nên chỉ có hai tạng.

Nay thuộc về Bồ Tát tạng là vì kinh đây diễn nói pháp Đại Thừa, như: y báo, chánh báo đều trang nghiêm, tín, nguyện vãng sanh v.v… tất cả đều là hạnh tự lợi, lợi tha, là bổn phận của Bồ Tát, để giáo hóa chúng sanh, làm cho cõi Phật được thanh tịnh.

“Lẫn thuộc” là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về tạng Bồ Tát, cũng gồm cả Thinh Văn tạng, vì kinh kia bao hàm tất cả các bực. Kinh Di Đà đây bực nhị thừa chẳng đặng vãng sanh (cõi Tịnh Độ) nên nói “không phải như các kinh kia”.

Có người hỏi: Thế sao trong văn kinh nói: Đức Phật Di Đà kia có chúng đệ tử Thinh Văn?

Đáp: Đây chỉ tạm có, chớ rốt thì không, đến sau trong phần Thích Văn sẽ biện rành.

Lại hỏi: Chán bỏ cảnh khổ, tìm về cảnh vui, dường như riêng về phần tự lợi, đâu phải hạnh Bồ Tát?

Đáp: Cầu sanh về Tịnh Độ chính là để thấy Phật nghe pháp, đặng vô sanh nhẫn rồi, trở lại cõi này cứu khổ chúng sanh; ấy là hành hạnh Bồ Tát, chớ không phải cái đạo của Thinh Văn như trong bộ Thập Nghi Luận ngài Thiên Thai đã nói.

2. GIÁO NHIẾP

Chánh Văn: Giáo là y theo Ngài Hiền Thủ định phân giáo pháp có năm phần là: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn và Viên. Nay kinh Di Đà đây thuộc về Đốn Giáo, mà cũng gồm cả hai giáo trước là Chung và Viên.

Chú Giải: Năm giáo là:

1. Tiểu Thừa giáo: Nói pháp chỉ chuyên nói “Nhơn Không”, (91) dầu có luận nói “Pháp Không” chút ít, nhưng cũng chẳng mấy rõ ràng; vì y nơi lục thức, tam độc để thành lập cái căn bổn Nhiễm, Tịnh, (92) nên chưa tột thấu nguồn gốc của “Pháp Không” (93).

2. Đại Thừa Thỉ Giáo: Do thời thứ hai chỉ nói “Pháp Không”, thời thứ ba nói cả ba thừa, nhưng không hứa “định tánh Xiển Đề” (94) được thành Phật, là lời thuyết pháp chưa tột chỗ cực điểm của bực Đại thừa, nên gọi là Thỉ Giáo. Trong đó có người thành Phật, có người không thành Phật, nên lại gọi là: Phần giáo. Với chỗ nói thì phần nhiều nói về Pháp tướng, ít luận đến pháp tánh. Dầu có nói tánh, cũng còn là con số tướng. Bởi y nơi tám thức sanh diệt để kiến lập ra các nghĩa loại có nguyên nhơn: Sanh tử và Niết Bàn.

3. Đại Thừa Chung giáo: Do chỉ ra lý diệu hữu của Trung Đạo nên nói “định tánh xiển đề” đều sẽ thành Phật, mới nói tột chỗ cực điểm của Đại Thừa, nên gọi là Chung giáo. Vì đúng với thật lý nên lại gọi là Thật giáo. Với chỗ nói thì phần nhiều luận về pháp tánh, ít luận đến pháp tướng. Dầu có nói đến “tướng” đi nữa, nhưng cũng hội về “tánh”. Bởi căn cứ nơi Như Lai Tạng tánh nó tùy theo vọng duyên của tám thức để thành lập ra các nghĩa.

4. Đốn giáo: Giáo này hoàn toàn không nói đến pháp tướng chỉ nói ròng về Chơn Tánh, hễ là nhứt niệm bất sanh tức gọi là Phật chứ không trải qua thứ lớp từng bực gì nữa.

5. Viên giáo: Giáo này thống nhứt cả bốn giáo trước, Sự, Lý hoàn toàn trọn vẹn. Bởi lập trường lý luận như thế này: Pháp giới nhiều vô cùng tận, biển tánh trọn vẹn hợp hòa, không ngăn ngại nhau; với nhơn duyên sanh khởi vì một tức tất cả; tất cả tức một, tướng tức tánh, tánh tức tướng, tánh tướng nhiếp lẫn nhau. Như cái lưới ngọc (95) của trời Phạm Vương mỗi ảnh chiếu trùng nhau, thay nhau làm chủ quan, khách quan bằng cách nhiều đến vô cùng vô tận.

Năm giáo nói trên rõ như trong lời Huyền Đàm kinh Hoa Nghiêm; ở đây sợ nhiều không dẫn.

Kinh này thuộc về “Đốn Giáo”. Trong môn nghĩa lý sau có giải.

Cũng gồm cả trước sau hai giáo là trước thông Chung giáo bởi do tất cả chúng sanh niệm Phật dù là định tánh Xiển Đề đều sẽ làm Phật.

Sau gồm “Viên giáo” là cũng trong môn nghĩa lý có giải.

3. PHẦN NHIẾP

Chánh Văn: Phần là mười hai phần giáo như phần Tu Đa La, phần Kỳ Dạ v.v… Nay kinh này thuộc về hai phần Tu Đa La và Ưu Đà Na.

Chú Giải: Phần là từng phần, bởi vì nhất đại thời giáo của Phật có chia ra từng phần, đều có chỗ sở thuộc.

“Kỳ dạ” Tàu dịch “trùng tụng”. Ưu Đà Na Tàu dịch “Vô vấn tự thuyết” trong 12 bộ, đây sợ nhiều, không dẫn (96). Nói thuộc hai phần: 1. Thuộc phần “Tu Đa La” vì là Khế kinh. 2. Thuộc phần “Ưu Đà Na” vì là không đợi ai thưa thỉnh mà đức Phật ngài tự kêu ông Thân Tử và chúng hội nói cho nghe.

NGHĨA LÝ THÂM QUẢNG (phân ra làm ba phần):

1. Nhiếp đốn (Gồm cả Đốn giáo)
2. Phần viên (Gồm một phần Viên giáo).
3. Bàng thông (Lan rộng các giáo).

1. NHIẾP ĐỐN

Chánh Văn: Đã biết rằng kinh này thuộc về Đốn giáo và có ít phần thuộc về Viên giáo; chứ chưa biết nghĩa lý hoàn toàn như thế nào.

Trước nói kinh này thuộc về Đốn giáo đó, số là bảo: Pháp trì danh liền được vãng sanh, mau siêu, chóng chứng, vì không quanh co (lâu dài, chậm trễ) nên kinh Di Đà chính thuộc Đốn giáo.

Chú Giải: Chính thuộc nghĩa “Đốn” là: Vì tất cả kẻ phàm muốn chứng lên bực thánh, sự đó rất khó lắm! Vì đường đạo lý quá xa. Nay chỉ có một pháp trì danh liền đặng vãng sanh, đã vãng sanh rồi, tức thì đặng bực “Bất Thối”. Khá gọi rằng: Đời chỉ trọn thành, một đời đặng xong. Ví như đem ngôi báu trao ngay cho kẻ thường dân, chẳng trải qua gia cấp và cũng không phải như lối vòng vo của Tiệm giáo thì đâu sánh kịp, nên gọi kinh này thuộc về nghĩa “Đốn”.

Chánh Văn: Hoặc có người hỏi thắc mắc rằng: Kinh này Đốn giáo là tâm không sanh một niệm gì hết, tức gọi là Phật. Như năm pháp, ba tự tánh đều không tám thức, hai món vô ngã đều trừ. Thế mà nay Pháp trì danh niệm Phật đây thì lại có niệm; đã có niệm, thế nào gọi là “đốn” được?

Đáp: Do nhứt tâm bất loạn, chính gọi là vô niệm; nếu còn có niệm, chẳng gọi là nhứt tâm, nhưng đã được nhứt tâm rồi thì pháp nào là pháp chẳng vắng lặng?

Chú Giải: Năm pháp là: 1. Danh; 2. Tướng; 3. Vọng tưởng; 4. Chánh trí; 5. Như như (97).

Ba tự tánh là: 1. Danh tướng là tánh biến kế chấp, 2. Vọng tưởng là tánh duyên tha khởi. 3. Chánh trí như như là tánh viên thành thật (98).

Bát thức là: A Lại Da, Mạt Na và sáu thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) hiệp thành tám thức.

Hai vô ngã là nhơn vô ngã và pháp vô ngã (99).

Sắp về trước, cũng đều thuộc vào trong năm pháp cả. Rõ thấy trong kinh Lăng Già và các kinh, đều không, đều trừ. Cả năm pháp ấy có chỗ gọi rằng: Thân Phật là vô vi (không hình tướng) không mắc vào các con số, gọi là Phật Thân. Một niệm không sanh, tức gọi là Tâm Phật; ấy là tôn chỉ của “Đốn Giáo”. Nay nói niệm Phật thời niệm hiệu Phật thuộc về Danh, còn đối thân Phật thuộc về tướng, nhớ niệm Phật kia thuộc về vọng tưởng. Dầu cho tịnh niệm nối nhau, được vào pháp “Tam Ma Địa” (chánh định) đi nữa, nhưng cũng còn thuộc về danh từ “Chánh Trí Như Như”.

Vả lại phân biệt là Phật, thuộc về thức tình. Năng niệm là Tâm, sở niệm là Cảnh, thuộc về Nhơn và Pháp; thế còn chưa trừ được tướng hữu ngã, huống là với tướng vô ngã, lẽ nào trừ được ư?

Chỗ không, chỗ trừ của Đốn Giáo kinh này đều có cả. Do vì chỗ có niệm cho nên họ thắc mắc là chưa phải “Đốn”; chớ đây chính bảo là vô niệm kia mà! Bởi do nhứt tâm bất loạn thời chẳng chấp có tâm để niệm, chẳng chấp không tâm để niệm, chẳng chấp cái tâm bằng cũng có cũng không để niệm, và chẳng chấp cái tâm bằng chẳng phải có chẳng phải không để niệm. Vậy thử hỏi: lìa bốn câu ấy ra, lại có gì là niệm? Thế thì tuy gọi rằng niệm Phật, chớ vẫn niệm mà vô niệm vậy. Niệm mà vô niệm, thế mới gọi là nhứt tâm. Cái tâm như thế tâm nó cũng không tâm nữa kia, chỉ cưỡng kêu là Nhứt, chứ thật ra tướng Nhứt cũng còn không, đâu tìm được những con số mà người bảo: 5, 3, 8, 2. Thế thời lý nhứt tâm bất loạn đây, chẳng khác nào “nhứt niệm bất sanh” đâu nên nói kinh này chẳng phải là “Đốn”?

2. PHẦN VIÊN

Chánh Văn: Một phần thuộc Viên giáo là lập trường của Viên giáo, vì trong bốn món pháp giới, ba món trước chung lẫn cả các giáo, một món sau riêng thuộc về Viên giáo. Nay kinh này: Viên giáo toàn nhiếp, nó có một phần nhiếp thuộc về Viên giáo. Bởi vì nó chỉ có ít phần Viên giáo nên gọi thuộc “Phần Viên”.

Chú Giải: Bốn pháp giới là: 1. Sự pháp giới; 2. Lý pháp giới; 3. Sự lý vô ngại pháp giới. Với ba pháp giới này các kinh đều có; 4. Sự sự vô ngại pháp giới (100) đây, thì đặc biệt nhứt là riêng một kinh Hoa Nghiêm có thôi, nên gọi là “Nhứt thừa Biệt giáo”. Sự và Lý vô ngại thì đồng với “Đốn” và “Chung”. Còn sự sự vô ngại thì chẳng đồng hai giáo kia (Đốn và Chung) vì riêng ngoài nhứt thừa trong “đồng giáo” kia nên gọi là “Biệt” (riêng) chớ không phải là “Biệt giáo” trong bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên (101).

Nay kinh Di Đà đây có một phần thuộc Viên giáo là do kinh Hoa Nghiêm thì hoàn toàn là Viên giáo; còn kinh Di Đà đây chỉ có ít phần thuộc Viên giáo. Đối với phần ít ấy, xin sơ lược kể nói ra có 10 nghĩa:

1. Kinh Hoa Nghiêm nói: cả trong khí giới, từ mảy bụi, mảy lông đến một vật hữu hình, vô hình đều diễn nói pháp âm mầu diệu. Kinh Di Đà nói: Nước, chim, cây, rừng đều rao pháp “Ngũ căn”, “Ngũ lực”, “Thất giác chi”, Bát thánh đạo” các pháp môn (sẽ rõ ở sau).

2. Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong mảy vi trần đủ cả mười phương pháp giới huy hoàng vô tận. Đây thì như trong kinh Di Đà Đại Bổn nói: Với trong một cây “Bảo Thọ”, thấy 10 phương cõi Phật như bóng trong gương.

3. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chẳng hề cử động ra khỏi chốn Tịch Diệt đạo tràng mà đã đi khắp pháp giới, nên nói thể tướng vẫn yên lặng như xưa, vốn không hành động chút gì sai khác, thế mà các pháp giới nhiều như số vô đẳng vô lượng, đều đã đi khắp tất cả. Đây thì như trong kinh Di Đà Đại Bổn nói: Đức Phật Di Đà vẫn thường ở tại cảnh Tây phương Tịnh Độ, mà cũng có ở khắp cả cõi trong mười phương.

4. Kinh Hoa Nghiêm nói lời ví dụ rằng: “Cây thuốc chúa” (102) nếu ai thấy cây ấy, mắt được thanh tịnh, cho đến nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, cả sáu căn không căn nào mà chẳng thanh tịnh. Chúng sanh thấy Phật cũng lại như thế, là do thấy đức Phật Viên Giác, (103) nghe pháp Phổ Môn nhờ thần lực, sáu căn mới được thanh tịnh vậy.

Kinh Di Đà nói: Đức Phật A Di Đà ngồi nơi cây Bảo Thọ đạo tràng. Với cây báu ấy kẻ thấy, người nghe, sáu căn đều được thanh tịnh.

5. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chúng sanh trong tám nạn (104) đều siêu lên bực Thập Địa, kinh Di Đà nói: Các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, hễ có niệm Phật đều được vãng sanh.

6. Kinh Hoa Nghiêm nói: Một tức tất cả nên đức Như Lai có thể đối với một thân, để hiện ra nhiều đầu bằng số vi trần ở trong nhiều cõi Phật bằng số bất khả thuyết. Trong mỗi một cái đầu, hiện ra vô số lưỡi. Trong mỗi mỗi lưỡi thốt ra vô số tiếng tăm, cho đến nào văn, tự, câu, nghĩa đầy cả pháp giới. Kinh Di Đà thời như trong Đại Bổn nói: Nước Cực Lạc kia có vô lượng hoa báu, trong mỗi đóa hoa phóng ra ba mươi sáu ức na do tha trăm ngàn ánh quang minh; trong mỗi quang minh hiện ra 36 ức na do tha trăm ngàn thân Phật, khắp vì mười phương chúng sanh để thuyết tất cả pháp.

7. Kinh Hoa Nghiêm nói: Đức Lô Xá Na, Đức Thích Ca đều hiện ra hai tướng: Thắng Ứng thân và Liệt Ứng thân (105). Đây thì như trong Quán Kinh nói: Đức Phật A Di Đà hiện thân cao lớn bằng số 60 muôn ức na do tha hằng hà sa do tuần, mà lại thấy thân Liệt Ứng bằng một trượng sáu thước trên ao bát công đức thủy (sẽ giải rõ ở sau).

8. Kinh Hoa Nghiêm nói: Đức Lô Xá Na Phật làm giáo chủ. Đây thời như Ngài Thanh Lương nói: Đức Phật A Di Đà tức là đức Bổn Sư Lô Xá Na.

9. Kinh Hoa Nghiêm nói: Kinh Hoa Nghiêm là kinh “Đại Bất Tư Nghì” còn kinh Tịnh Danh và các kinh là “Tiểu Bất Tư Nghì”, mà kinh Di Đà thì lại là kinh “Bất khả Tư Nghì Công Đức” vậy thôi, chứ chả phân là Tiểu hay Đại gì!

10. Lập trường của kinh Hoa Nghiêm là nói: Chính nơi tâm phàm phu để thành ngay trí bất động của chư Phật. Kinh Di Đà đây nói: Không ngoài pháp niệm Phật bằng cách xưng danh mà được Phật hiện tiền. Thế thời kinh Di Đà bằng bực với kinh Tịnh Danh và các kinh… đồng một loại với kinh Hoa Nghiêm.

Vì Viên giáo trọn thâu kinh này (Di Đà). Kinh nầy một phần thuộc Viên giáo, bởi do nghĩa có ít phần thuộc Viên giáo, nên mới gọi là “Phần Viên”.

3. BÀNG THÔNG (phân ra làm hai phần):

1. Quán kinh.
2. Chư kinh.

QUÁN KINH

Chánh Văn: Trước nói kinh này thông đồng với kinh Thập Lục Quán đó là bởi có người chấp rằng 16 pháp quán gọi là Định Thiện, với chấp trì danh hiệu gọi là Tán Thiện. Nay vì lẽ thông đồng mà nói, thì trong đây có hai nghĩa: 1. Tổng 2. Biệt.

Trước nói Tổng là Kinh Thập Lục Quán cả 16 pháp diệu quán, đều chủ về lý nhứt tâm. Kinh Di Đà đây trọng về lý nhứt tâm, chính hiệp với ý kinh kia. Vì kinh kia nhứt tâm tác quán, kinh này nhứt tâm xưng danh; thế đâu đặng với cả hai đồng qui về LÝ NHỨT TÂM mà lại tán dương kinh kia, dằn ép kinh này. Rõ như trong lời Sớ ngài Tịnh Giác đã nói…

Chú Giải: “Bàng thông” là không phân biệt Đốn giáo hay Viên giáo, chỉ lấy nghĩa lý thông đồng nhau giữa các kinh Đại Thừa mà thôi. Do vì kinh Thập Lục Quán là kinh chuyên môn nói về Tịnh Độ nên dẫn để nói trước.

“Định Thiện, Tán Thiện” là: Ngài Cô Sơn phân phán ra cho 16 pháp quán là Định Thiện. Đối với kinh đây, pháp trì danh cho là Tán Thiện (106), chứ đây bảo rằng: “Nhứt tâm bất loạn” có sự, có lý, chính nơi “Sự nhứt tâm” đã chẳng phải hoàn toàn Tán Thiện thay, huống chi là “Lý nhứt”.

“Chính hợp với ý kia” là kinh kia dạy tu 3 pháp quán như vầy: Tâm quán không tức không, quán giả tức giả, quán trung tức trung, vượt hẳn lớp lang thế là đắc “tam quán nhứt tâm”. Kinh Di Đà này dạy tu niệm Phật bằng cách “chấp trì danh hiệu” đến khi đặng cái “Nhứt tâm bất loạn” thì cả năng trì, sở trì đều không thể có, đó gọi là “Không quán”. Chính đương lúc không mà năng, sở rõ ràng, đó gọi là “giả quán”. Chẳng phải giả, chẳng phải không mà thường không, thường giả, bất khả tư nghì, đó gọi là Trung Đạo quán. Bởi vì riêng giữ một danh hiệu Phật để niệm liền được nhứt tâm; đã nhứt tâm thì có gì thứ lớp! Đây chính là nghĩa ba quán viên tu. Thế thời kinh kia dùng nhứt tâm quán tưởng làm tôn, kinh đây dùng nhứt tâm trì niệm làm chủ, vì Quán tức là niệm, niệm tức là quán. Vậy hai kinh chỗ nói đã đồng nhứt tâm, sao riêng với kinh này chê là Tán Thiện!

Cho nên pháp môn này tên là pháp “Niệm Phật tam muội”, cũng tên là “Nhứt Hạnh tam muội”, cũng tên là “Chư Phật Hiện Tiền tam muội”, cũng tên là “Bát Nhã tam muội”, cũng tên là “Phổ Đẳng tam muội”. Nói “Tam Muội” nghĩa là Chánh Định. Kinh Di Đà này đã thông đồng với nhiều pháp tam muội như thế sao dám chê là Tán Thiện? Nói cho đúng lý: Tu quán tưởng nếu chẳng đặng nhứt tâm thì pháp quán ấy cũng thành là Tán; tu trì danh nếu được nhứt tâm, pháp trì danh ấy tức thành là Định. Đừng tính ở quán tưởng hay trì danh mà chỉ tính ở chỗ đặng nhứt tâm cùng không nhứt tâm mà thôi.

Như lời sớ của ngài Tịnh Giác nói: “Đối với Quán kinh, ngài Trí Giả đại sư cho ba món tịnh nghiệp (107) thuộc về Tán Thiện, 16 pháp diệu quán thuộc về Định Thiện”; chớ chưa nghe ngài chê pháp trì danh là Tán Thiện bao giờ! Ông Cô Sơn phê phán kinh Di Đà là Tán Thiện, theo ý tôi (Vân Thê) không nhận cái thuyết kia. Và như lời Sớ trong phẩm Phổ Môn giải rằng: “Nhứt tâm xưng danh có sự, có lý, chuyên niệm đức Quan Âm, lòng niệm không gián đoạn, gọi là Sự nhứt tâm. Nếu đạt được tâm này, bốn tánh (108) không sanh, vì tương ưng với pháp Không Huệ gọi là Lý nhứt tâm”. Trong phẩm Phổ Môn kia nói thiếu hai chữ “bất loạn”, ngài Trí Giả còn dùng hai chữ “Không Huệ” (huệ chơn không) để giải; huống chi kinh Di Đà nói: “Nhứt tâm bất loạn” thì đâu đặng chê là Tán Thiện? Theo ý ngu tôi xét: Ngài Trí Giả khi nhập diệt, còn xướng danh hiệu Tam Bảo, ngài Chương An khi lâm chung cũng niệm Phật A Di Đà và niệm hai vị đại sĩ Quan Âm, Thế Chí.

Hai thầy trò của ngài Trí Giả đồng “xướng danh, niệm danh”, như thế thì hẳn không đặng đem hai chữ “Tán Thiện” để gắn cho pháp trì danh của kinh này. Xét đó, càng thêm tin chắc.

Chánh Văn: Kế đây nói nghĩa riêng. Hoặc có người thắc mắc cho rằng:

1. Kinh Di Đà đây chỉ nghe danh suông của Phật.
2. Kinh Di Đà đây nói thân Phật là Liệt Ứng.
3. Kinh Di Đà đây nói hoa sen chừng bằng bánh xe.
4. Kinh Di Đà đây nói tội ngũ nghịch không được vãng sanh.
5. Kinh Di Đà đây thuộc về hạ phẩm.

Họ nạn như thế vì họ không biết hai kinh (Quán kinh với A Di Đà kinh) thật đồng một nghĩa và họ không biết kinh A Di Đà lại càng độc yếu hơn nữa.

Chú Giải: “Chỉ nghe danh suông” là có người thắc mắc cho rằng: Trong Quán kinh dạy tưởng tướng hảo của Phật, còn kinh Di Đà đây chỉ chấp trì bốn chữ danh hiệu suông, chớ không thấy thân tướng hảo của Phật nên họ cho là Tán Thiện.

Song trong kinh này đã nói: “Đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ở trước mặt người kia”. Đã nói Phật hiện thời đâu không tướng hảo? Huống cùng Thánh chúng, chủ và bạn đều hiện bày? Số là kinh kia do tác quán thấy Phật, kinh đây do trì danh thấy Phật, dù chỗ tu nhơn không đồng, chớ chỗ thấy Phật thì một.

“Thân Liệt Ứng” là có người nói mắc mỏ rằng: Trong Quán kinh nói thân Phật cao đến sáu mươi muôn ức na do tha, hằng hà sa do tuần (109), còn kinh này không nói, họ nghi là “Thân Liệt Ứng” cho nên gọi là Tán Thiện.

Song trong kinh Đại Bổn nói: Lúc bấy giờ đức Phật A Di Đà phóng hào quang lớn chiếu khắp tất cả thế giới. Ông A Nan thấy dung thể của Phật lớn cao vòi vọi như núi vàng ròng, cao vót lên trên tất cả thế giới. Thế thì trong Quán Kinh chỗ nói còn cuộc hạn trong một thế giới; nay kinh này nói tất cả thế giới là cao lớn hơn biết bao, đâu nên nói là thân Liệt Ứng!

Kinh Đại Bổn lại nói cây báu nơi đạo tràng (110) của Phật A Di Đà toàn dùng các món báu tự nhiên hợp thành, cây báu ấy, không phải thân trượng sáu ngồi dưới cội cây Bồ đề, thời đâu nên nói là thân Liệt Ứng!

Lại trong Quán kinh nói: Phật kia hoặc hiện thân một trượng sáu, hay tám thước; hoặc hiện thân cao lớn đầy giữa hư không. Thế là tùy cơ cảm của chúng sanh nên chỗ thấy có lớn nhỏ không nhứt định; thành thử cổ đức nói: “Dầu liệt ứng, dầu thắng ứng, dầu sanh thân, dầu Pháp thân, nhưng cũng không phải hai thân”. Huống chi trong kinh đây không thấy nói ra thân Phật lớn, nhỏ chi cả, sao dám quyết định đặt điều cho là thân Liệt Ứng?

“Hoa sen chừng bằng bánh xe” là có người bảo rằng: Trong Quán Kinh nói: “Hoa sen lớn mười hai do tuần”; còn kinh đây nói: “Hoa sen nhỏ hạng bằng bánh xe”, cho nên gọi là Tán Thiện.

Song họ đâu biết cái nghĩa bánh xe lớn nhỏ không nhứt định. Như trong kinh Đại Bổn nói bánh xe lớn đến trăm ngàn do tuần (111), đâu những “mười hai do tuần” mà thôi; rõ như trong văn sau có biện.

“Tội ngũ nghịch không được vãng sanh” là có người đưa ra nạn đề rằng: Trong Quán kinh nói tội ngũ nghịch được vãng sanh; còn kinh Đại Bổn nói: “Chỉ trừ tội ngũ nghịch không được vãng sanh”. Họ chê kinh này công tế độ hẹp hòi nên họ cho là Tán Thiện.

Nhưng họ đâu biết dưới câu: “Chỉ trừ tội ngũ nghịch” có thêm bốn chữ “phỉ báng chánh pháp”, mới bị trừ ra. Tuy người đủ tội ngũ nghịch (112) mà không “phỉ báng chánh pháp”, vị tất không được vãng sanh?

Bởi do “phỉ báng” thời không tin, vì không tin nên không được vãng sanh. Sở dĩ có câu: “Nghi thời hoa sen không nở”, thật thế.

Trong Quán Kinh không nói: “Phỉ báng chánh pháp”. Nếu như gồm có phỉ báng ấy cũng không được vãng sanh vậy. Lại trong Quán Kinh về phẩm “Hạ hạ”, trong văn ngũ nghịch nói: “Người phạm tội ngũ nghịch, khi lâm chung niệm danh hiệu phật mười tiếng liền được vãng sanh”. Thế là pháp Quán tưởng chưa thành chỉ nhờ mười niệm… Vậy tội ngũ nghịch cũng được vãng sanh đó chính là nhờ có niệm danh hiệu mới được vãng sanh mà thôi.

Huống nữa trong kinh Đại Bổn nói: “Những tội đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng sanh về trong cõi của ta”. Những người đọa trong địa ngục đó không phải là người ngũ nghịch chớ gì?

“Chỉ thuộc về hạ phẩm” là có người thắc mắc rằng: Trong Quán kinh nói về ba phẩm hạ. Phẩm đầu nói đối với người trí thức, dạy bảo chắp tay, hoặc vòng tay để niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Về phẩm thứ ba nói, thiện hữu dạy rằng: “Nếu người kém trí thức không thể niệm Phật bằng cách chắp vòng tay thì nên chỉ niệm danh hiệu”. Thế thì pháp trì danh được vãng sanh đó dường như chỉ ở phẩm hạ! Họ đâu có biết pháp trì danh có Sự, có Lý. Lý lại có thấp có cao. Nay nói người vãng sanh về hạ phẩm đó chỉ là sự thiện, nếu thành lý quán thời đồng với ba quán viên tu của kinh kia, khế hiệp không hai, lo gì phẩm vị không cao. Huống chi trong văn hạ phẩm, chính chỉ cho người ác, người ngu có niệm Phật được về ở đó, chớ không phải nói về người thiện và người trí trì danh mà cũng ở phẩm hạ đâu. Nên biết hai kinh (Di Đà và Quán kinh) vẫn đồng một nghĩa.

“Độc yếu” là lược giải có ba ý:

1. Trong Quán Kinh chép rõ về thân Phật tuy nói rằng thân ấy tức là Báo thân, tức Pháp thân, nhưng mà với số na do tha (113) hằng sa đó không phải là không có con số để kể, với hóa thân (ứng hóa hay sanh thân) cao lớn bao nhiêu (114) còn đợi 13 lời vấn đáp để biện giải điều nghi sau. Kinh đây chỉ nói quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng. Thế thì không thuộc về các con số nào mà chỉ ngay về Pháp thân thôi, đây là món độc yếu thứ nhứt vậy.

2. Với 16 pháp diệu quán, tuy rằng: Tâm tức quán, quán tức tâm, nhưng mà trước phải quán mặt trời, kế quán đến nước, đến đất, đến hàng cây, đến bảo tọa, sau mới quán vào thân Phật. Thế thì không phải không thứ lớp, biết bao là bộn bề. Còn kinh này nói: Không cần tu các hạnh nghiệp đó, chỉ chuyên về một pháp trì danh, thoạt được nhất tâm, liền thấy Phật hiện trước mắt. Đây là món độc yếu thứ hai vậy.

3. Sanh về ba phẩm Thượng có thể dạo khắp mười phương, thừa sự chư Phật; còn hai phẩm Trung và Hạ không thấy dạy như thế. Chớ kinh đây nói: Trì danh được vãng sanh liền được mỗi sáng ra đi cúng dường chư Phật khắp mười phương rồi liền trở về nước kịp trong giờ ăn buổi mai. Đây là món độc yếu thứ ba vậy.

Người đời nghe nói hai kinh đồng một nghĩa còn sanh nghi thay, huống lại nghe nói kinh này độc yếu hơn càng thêm sợ hãi. Cho nên nói kinh này là pháp mà người đời “Nan Tín” (khó tin) và cũng nói kinh này là kinh “bất khả tư nghì công đức vậy”.

CÁC KINH

Chánh Văn: “Lại nói thông đồng trong các kinh” là ý nghĩa của kinh này cùng thông đồng nhau với các kinh Đại Thừa như kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa v.v… Song người mà đã thấy được chỗ lan rộng thông đồng nhau như thế thời mới biết nghĩa lý kinh này bao trùm, thâm thúy, rộng xa, chứ không nên coi như các kinh thiển cận (Tiểu thừa) mà tự mắc tội lỗi!

Chú Giải: Kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa v.v… Kinh đây nói: Nhứt tâm trì danh đặng sanh về nước kia (Cực lạc) tức là đồng với “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”. Đây là nghĩa kinh Tịnh Danh.

Lại kinh này nói: Nhứt tâm trì danh tức là đồng với “Dụng thân tâm niệm Phật”… nhẫn đến “một mình vào nhà người nhứt tâm niệm Nam mô Phật, đi khất thực không bạn cũng nhứt tâm niệm Phật, một tiếng niệm Nam mô Phật, đều đã thành quả Phật”. Đây là nghĩa trong kinh Pháp Hoa.

Chữ “Đẳng”v.v… là lược dẫn các kinh, như kinh Văn Thù nói tu pháp nhứt hạnh tam muội, kinh Đại Phẩm nói: “Nếu người tán tâm niệm Phật… Nhẫn đến hết khổ, được phước kia không hết”. Đây là nghĩa kinh Bát Nhã.

Như kinh nói: “Trong 21 ngày cúi đầu lễ niệm danh hiệu các đức Phật trong mười phương”. Đây là nghĩa kinh Viên Giác.

Như nói: Năm trăm (500) người con ông Trưởng giả xưng niệm danh hiệu của bảy lớp (7 đời) Phật (115) bèn đặng thấy thân Phật vàng chói, liền chứng quả A La Hán. Đây là nghĩa trong kinh Quán Phật tam muội.

Như nói: “Ông Bồ Tát tu sáu phép niệm (116) mà phép niệm Phật là thứ nhứt”. Lại nói: “Buộc lòng niệm nghĩ nhớ Phật, vì nhờ sức nhơn duyên ấy mà đoạn được phiền não”. Đây là nghĩa trong kinh Niết Bàn.

Như Phật bảo phụ vương rằng: “Ngày nay nên niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương thường cần tinh tấn, sẽ được quả Phật”. Lại nói: “Tu mười tâm để hồi hướng cầu vãng sanh, khi mạng chung ắt được sanh về cõi nước Phật kia (Phật A Di Đà)”. Đây đều là nghĩa trong kinh Bảo Tích.

Chí như kinh này cũng đồng nhau với nghĩa Viên của kinh Hoa Nghiêm thì đã thấy ở văn trước rồi.

Với nghĩa niệm Phật không thể kể xiết. Như trên là chỉ ngay đại ý của một bổn kinh mà nói thế thôi. Nếu bàn rộng về nghĩa kinh thời như kinh Tịnh Danh nói: Nơi phương trượng (thất) của ông Duy Ma dung nạp cả ba mươi hai ngàn (32.000) tòa sư tử. Nay kinh này nói: Cõi Tịnh Độ đức Phật A Di Đà, mười phương sanh về đó, nhiều như những hột mưa, đều sanh trong ao thất bảo không hề chật hẹp; tức là nghĩa kinh Tịnh Danh.

Trong phẩm Như Lai Thần Lực nói: Đức Phật Thích Ca cùng các Hóa Phật ở mười phương đồng hiện ra tướng lưỡi rộng dài cho đến cõi trời Phạm Thiên vì để khen ngợi kinh Pháp Hoa. Kinh này nói: Chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi khen ngợi đức Phật A Di Đà cũng lại như thế, tức là nghĩa kinh Pháp Hoa. Lược dẫn một phần ít đồng với các kinh Đại thừa, còn bao nhiêu nữa sợ nhiều không dẫn nói.

Lại luận Khởi Tín trong phần nhân duyên, lời Sớ nói: “Bực Thập Tín sơ tâm có bốn món cơ: Dùng sự lễ bái sám hối để diệt tội giúp cho bực sơ cơ (Thiên nhơn cơ). Dùng tu tập pháp chỉ quán để giúp cho bậc trung cơ (Thinh Văn cơ và Duyên Giác cơ). Dùng pháp cầu sanh Tịnh Độ để giúp cho bậc thượng cơ (Bồ Tát cơ). Cơ đầu là những chúng sanh nhiều nghiệp chướng. Cơ bậc trung là phàm phu, nhị thừa”. Thế thì biết pháp môn Tịnh Độ là pháp tu của bậc Đại Thừa Bồ Tát. Nghĩa lý bao trùm tổng kết văn trên. Chữ “Tội lỗi” là những người khinh chê kinh này, tức là khinh chê các kinh Đại Thừa mắc tội vô lượng.

SỞ BI GIAI PHẨM (phân ra làm hai phần)

1. Liệu giản (So chọn)
2. Tổng thâu (Tóm thâu)

1. LIỆU GIẢN

Chánh Văn: Đã biết kinh Di Đà đây văn dón, nghĩa đủ, lời gần, ý xa. Nhưng chưa rõ nó sẽ giúp cho căn khí nào và có bao nhiêu từng bậc?

Trước nói về cách (Liệu Giản) là so chọn để phân biệt, thì ban đầu (kế sau là giai cấp) là ba hạng người không phải căn khí: 1. Người vô tín; 2. Người vô nguyện; 3. Người vô hạnh; trái lại, đều là người có căn khí (căn cơ).

Chú Giải: Trước nói căn khí có phải, có quấy. Sau phân biệt giai cấp, có thắng (hơn), có liệt (thua), cốt yếu là muốn cho chúng sanh biết, đặng buông quấy, theo phải, bỏ liệt, dùng thắng.

Tín là tin rằng chúng sanh với Phật không hai; chúng sanh niệm Phật chắc đặng vãng sanh, rốt ráo thành Phật. Như trong kinh đã nói: “Các ngươi đều phải tin theo lời ta”. Phải vậy!

Nguyện là vì tin đây không phải chỉ tin suông. Mà phải như con nhớ mẹ, nhìn theo trìu mến, quyết muốn vãng sanh như trong kinh đã nói: “Nên phải phát nguyện, nguyện sanh về quốc độ kia”. Thật thế!

Hạnh là vì nguyện không phải chỉ nguyện suông, cần phải thường hành tinh tấn, mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Như trong kinh đã nói: “Phải chấp trì danh hiệu để niệm cho được nhứt tâm bất loạn”. Thật vậy.

Ba việc nầy gọi là “ba món tư lương”; tư lương chẳng đủ, không mong gì đi tới trước. Lại nữa ba món này như cái đỉnh có ba chơn. Hoặc đều không, hoặc có một thiếu hai; hoặc có hai thiếu một, đều không thể đứng vững được.

Lại dùng lời dụ để rõ: Ví như với năm giống lúa, người không tin là không tin ngay nơi hột giống lúa nầy, là bây giờ trồng bón giống đây, chắc sau đặng thành lúa.

Người có tín mà không nguyện: Tuy có biết giống tốt mà không có tâm mong cầu gì đến lúa. Người có nguyện mà không hạnh: Tuy có mong cho được lúa, mà không cần mẫn cày cấy. Với ba món này, hoặc toàn không, hay lẫn thiếu một hoặc hai; xét theo văn nói trên, nên biết (là không được).

Ba hạng người này, đều tỷ dụ như món đồ hư bể, không đựng được pháp vị cam lồ nên gọi là Phi Khí.

Lại nữa, người đời tuy làm các việc từ thiện, nhưng đối với cõi Phật kia, họ không có Tín, Hạnh, Nguyện, cũng gọi là hạng người Phi Khí. Mặc dầu người có tội lỗi, nhưng đối với cõi Phật kia có đủ Tín, Hạnh, Nguyện cũng gọi là người phải căn khí.

Với câu “Trái lại đều là căn khí”, như văn sau sẽ nói rõ.

Chánh Văn: Trong những món đồ phải căn khí lại còn tùy mỗi căn cơ mà có ra từ “Bối” từ “Phẩm” thành ba, thành chín; chín lại nhơn chín; ba lại nhơn ba, phân tích nhiều lần từ ngành ra nữa thì phải nhiều đến vô lượng. Như trong hai bộ nói rõ.

Chú Giải: Tiếp theo nói về giai cấp. “Bối” là trong kinh Đại Bổn nói ba bối. Phẩm là trong Quán kinh nói chín phẩm. Cho nên nói là ba, là chín.

Trong ba “bối”, mỗi “bối” có ba thì thành ra chín “bối”.

Trong chín phẩm, lại mỗi phẩm có chín thì thành tám mươi mốt (81) phẩm. Bối đã không cùng. Phẩm cũng không tột thì thành ra trăm nghìn vạn ức “Bối” và “Phẩm”, cho nên nói: “Cũng đến vô lượng”.

Đối với cái lẽ: Đều gọi tu niệm Phật, đồng được vãng sanh. Sở dĩ có phân ra nhiều Bối, Phẩm như vậy là do giữa giới tu niệm có sự, có lý, công hành trì hoặc trễ hoặc siêng, thành thử tùy theo nhơn nào thì kết quả nấy, nên với ngôi bực nó phải sai khác. Cho nên kinh Niết Bàn nói: “Cũng một pháp thập nhị nhơn duyên từng không hai pháp, nhưng mà người bậc hạ trí quán tu thì được đạo quả Thinh Văn. Người bậc trung trí quán tu thì được đạo quả Duyên Giác; người bậc thượng trí quán tu thì được đạo quả Bồ Tát. Người bậc thượng thượng trí quán tu thì được đạo quả Phật”.

Cũng như câu: “Đồng một thức ăn trong một bát, chư thiên thọ dụng có ngon dở khác nhau; cùng một dòng sông, 3 thú lội qua có sâu cạn không đồng” (117) đâu có dối được.

Vả lại ta tự phụ là người lợi căn (sáng suốt), nghe nói pháp niệm Phật, hoặc đem lòng khinh dễ, đâu biết Bối và Phẩm có cao có thấp là cốt ở nơi người mà thôi. Nếu quyết không niệm Phật thì phần ngu dốt để lại cho người vậy. Còn kẻ hiếu kỳ ỷ giỏi, xin bình tâm suy nghĩ lại!

2. TỔNG THÂU

Chánh Văn: Tổng thâu là cứ niệm danh hiệu Phật ắt được vãng sanh về nước kia: Thì ra hoặc cao, thấp, hoặc thánh, phàm; cho đến hoặc tin, nghi, khen, chê, miễn biết có đức Phật kia là thành được thiện căn rồi, dù lâu đến nhiều kiếp, nhiều đời, đều nhờ đó sẽ được giải thoát.

Chú Giải: “Hoặc cao, hoặc thấp” là do sanh phẩm thượng liền được quả Phật, còn sanh ở phẩm hạ, phước cũng hơn cung trời (118).

Thế thì phẩm vị tuy khác, nhưng cũng đều được bậc bất thối cả.

“Hoặc Thánh, hoặc phàm” là dù hạng phàm phu đủ điều ràng buộc (119) nhưng miễn được vãng sanh thời đồng ngôi với các vị Bồ Tát cu hội một nơi rồi, thế nào cũng sẽ thành quả Thánh. Đây là nói theo lối thuận.

Dưới đây nói tin, nghi, khen, chê gồm cả thuận và nghịch không một hạng nào mà chẳng được lợi ích.

Hỏi: Người tin, người khen được như thế là phải, còn người nghi, người chê vì sao cũng nói có căn lành?

Đáp: Ông Thường Bất Khinh Bồ Tát thọ ký cho mỗi người được làm Phật. Người nghi không tin đến nỗi đánh mắng ông, nhơn đó chúng bị đọa vào địa ngục. Từ trong địa ngục ra rồi, rốt cuộc cũng được thành đạo. Đây đâu chẳng phải đánh, mắng là từ nghi sanh ra? Nghi từ biết sanh ra? Biết từ nghe sanh ra? Vì nghe biết có Phật rồi mới sanh nghi. Nếu không nghe biết thì nghi từ đâu mà có? Nhơn vì nghe biết thì một chữ Phật, đã chứa trong tạng thức, như gieo giống xuống đất bỗng gặp mưa, sương thấm nhuần sẽ có ngày nứt mầm, mọc mộng. Người chê Phật cũng nghĩa như thế. Nên nói hễ biết có Phật đều thành thiện căn, rồi rốt cuộc cũng được giải thoát; nếu không nghe, không biết thì không thành hột giống lành.

NĂNG THUYÊN THỂ TÁNH (Phân ra làm bốn phần)

1. Tùy tướng: Theo tướng văn tự….
2. Duy thức: Chỉ có thức biến…
3. Qui tánh: Đều về tự tánh…
4. Vô ngại: Sự lý vô ngại…

1. TÙY TƯỚNG

Chánh Văn: Đã biết kinh Di Đà này trùm khắp các cơ, nhưng chưa rõ lý năng thuyên lấy gì làm thể tánh? Y theo xưa lần lượt chia ra làm mười môn. Xét tận gốc, tóm lại thành bốn môn. Trước nói Tùy tướng, trong ấy lại chia ra làm hai:

1. Thinh, Danh, Cú, Văn.
2. Nghĩa sở thuyên.

Do vì văn với nghĩa đều thuộc về tướng văn tự.

Chú Giải: Lần lượt chia ra mười môn (121) rõ thấy trong lời Huyền Đàm của kinh Hoa Nghiêm. Ngài Khuê Phong đối trong ấy tóm ghép lại làm thành bốn môn:

1. Thinh, Danh, Cú, Văn, là cứ theo kinh giáo Đại thừa, Tiểu thừa, hoặc có kinh dùng Thinh làm giáo thể; hoặc có kinh dùng Danh, Cú và Văn thân để làm giáo thể. Nay theo Ngài Thanh Lương đại sư dùng hết bốn món. Lấy Thinh làm giáo thể; Danh là thứ lớp, hàng ngũ để giải tự tánh của pháp; Cú là thứ lớp sắp đặt để giải sự sai biệt của pháp; Văn là thứ liên hợp, kết làm chỗ nương cho hai món trên. Danh, Cú, Văn ba món đây tráo trở cho tiếng nói hình dung tỏ rõ ra. Bởi chỉ có một Thinh thì không thể giải rõ nghĩa được; còn riêng Danh, Cú, Văn thì không có tự thể; cho nên gồm cả bốn món nầy mới đủ làm giáo thể, do gồm cả giả, thật, thể, dụng giúp nhau vậy.

2. Nghĩa sở thuyên là: Thinh, Danh, Cú, Văn bốn món này nếu không có nghĩa gì để làm chỗ sở thuyên (bị nói) thì đồng như thiên vận (122) suông, chớ không có ý vị chi cả. Còn nếu chỉ có nghĩa suông mà không có văn tự thời lý mầu do đâu để được hiển bày. Bởi thế cho nên văn tự tùy theo nghĩa, nghĩa tùy theo văn tự. Văn nghĩa lẫn giúp mới thành giáo thể.

Vì vậy cho nên kinh này từ câu “Như thị ngã văn” đến câu “Tác lễ nhi thối”, đó là cái thể của Thinh, Danh, Cú, Văn mà trong đây nói những y báo, chánh báo, tín, nguyện, vãng sanh v.v… là những nghĩa sở thuyên vậy. Dùng cả hai món này (văn nghĩa) nương lẫn nhau để làm giáo thể.

Chánh Văn: Lại nếu cứ mỗi pháp để hiển nghĩa thì không một pháp nào không phải là Phật sự, như cơm thơm, hào quang v.v… Nên biết mỗi pháp đều làm giáo thể được cả.

Chú Giải: Pháp hay hiển nghĩa thì mỗi pháp tự bày, chẳng đợi văn tự. Như kinh Hoa Nghiêm nói đài mây, lưới báu, mao khổng (lỗ chơn lông) hào quang đều có thể thuyết pháp cả. Kinh Tịnh Danh nói có thế giới Phật dùng cơm thơm làm Phật sự (123), có thế giới Phật dùng hào quang làm phật sự, cho đến một sắc, một cử, một động, không có một pháp nào mà không phải Phật sự v.v… Nay kinh Di Đà này thì nước, chim, cây, rừng, đều diễn tiếng pháp (pháp âm) vi diệu. Thế thì tùy lấy một pháp mà dùng cũng đều thành giáo thể cả.

2. DUY THỨC

Chánh Văn: Duy thức là văn đây, nghĩa đây đều do thức biến hiện mà có bổn ảnh cả bốn câu.

Chú Giải: Bốn câu là:

1. Duy có bổn chất, không có ảnh tượng (124) tức là Tiểu Thừa giáo. Vì hàng Tiểu Thừa không biết giáo pháp đều do thức biến hiện nên nhận rằng đức Như Lai có thuyết pháp.

2. Cũng bổn chất, cũng ảnh tượng, tức là Thỉ giáo. Vì do đức Phật tự diễn giảng nào văn, nào nghĩa đều từ nơi Diệu Quán Sát trí (125) của tịnh thức thứ sáu hiện ra gọi là “bổn chất giáo” (126). Người nghe thì từ trên thức biến ra nghĩa, gọi là “ảnh tượng giáo” (127). Vì chư Phật và chúng sanh lẫn nhau làm tăng thượng duyên (128).

3. Chỉ có ảnh tượng, không có bổn chất, tức là Chung giáo. Vì lìa tâm chúng sanh, thì không có Phật, duy dùng lòng đại bi, đại trí làm tăng thượng duyên, khiến trong tâm chúng sanh căn cơ đã thuần thục kia, hiện ra Phật thuyết pháp. Thế nên Phật giáo toàn là ảnh tượng trong tâm chúng sanh.

4. Không phải bổn chất, không phải ảnh tượng, tức là Đốn giáo. Chẳng những ngoài tâm không Phật, mà ảnh tượng trong tâm chúng sanh cũng không; do vì chơn tánh vốn dứt hẳn văn tự, ngôn thuyết, tức là giáo mà không có giáo. Như câu: “Tôn giả (Tu Bồ Đề), không thuyết pháp; tôi (Đế Thích) cũng không nghe” (129). Kẻ thuyết và người nghe đều không, chỉ có duy thức mà thôi. Nên lấy thức làm giáo thể vậy.

Nay kinh này căn cứ theo hai giáo Chung và Đốn thì trong tâm chúng sanh ưa xuất ly cõi khổ, tự trong tâm thấy có Phật giảng thuyết nào y báo, chánh báo, tín, nguyện, vãng sanh, Cực Lạc mà kỳ thuật không thuyết, không nghe, nên dùng thức làm giáo thể.

3. QUI TÁNH

Chánh Văn: Qui tánh là trước lấy môn cảnh nơi sở biến để qui về tám thức nơi năng biến. Nay đem tám thức sở hiện qui về nhứt tâm năng hiện. Thế là lấy tánh làm giáo thể.

Chú Giải: Nhứt tâm là gì? Tức là tự thể Chơn Như. Vậy từ Chơn Như đây lưu xuất ra các giáo pháp nên hội các tướng về một tánh (Chơn Như). Thời chỗ gọi rằng: Phần Trùng Tụng vẫn Chơn Như, phần Thọ Ký cũng Chơn Như, luôn 12 phần giáo tất cả đều Chơn Như. Sắp về trên lần lựa xét tầm giáo lý chơn thật, rốt ráo tột đến nơi đây. Ví như cảnh vật không lìa chiêm bao, chiêm bao không lìa người ngủ.

Lời Sớ kinh Viên Giác nói: “Chúng sanh và giáo pháp vốn không. Tất cả duy có thức biến; thức lại như huyễn thuật, như mộng mị, chỉ là nhứt tâm”. Thế là dùng tự tâm làm giáo thể.

Nay kinh này, Y, Chánh, Nguyện cả các pháp, nào văn, nào nghĩa rốt ráo đều về lý “Nhứt Tâm Chơn Như”. Cho nên bực cổ đức nói: “Các kinh đại thừa đều dùng một “Thật Tướng” để ấn chứng làm giáo thể của kinh”. Kinh này dùng “nhứt tâm bất loạn” tức là Thật Tướng tức là Chơn Như. Thế thì hiệp lại hai môn (Tùy Tướng, Duy Thức) trước lại hội qui về Nhứt Tâm để làm giáo thể.

4. VÔ NGẠI

Chánh Văn: Vô ngại là Tâm, Cảnh, Sự, Lý vốn tự thông suốt lẫn nhau. Cảnh và Sự gọi là Tùy Tướng. Tâm là Duy Thức. Lý là qui tánh, đều giao triệt với nhau.

Chú Giải: “Giao triệt” là do một tâm vẫn có; hai môn là sanh diệt và Chơn Như, vì Chơn Như tức là sanh diệt, cho nên Lý nó không ngại gì với Sự, cảnh và tâm sanh diệt tức là Chơn Như, cho nên Sự, Tâm và Cảnh không ngại gì với Lý.

Nay kinh nầy nói Tâm tức là Độ, thời vẫn một niệm vô vi mà không ngại gì với Ao, Lầu, Chim, Cây khắp bày, bủa giăng, hễ chúng sanh tin ưa, tùy nguyện vãng sanh. Độ tức là Tâm thì đủ cả thất bảo trang nghiêm mà cũng không ngại với toàn thể không tịch (vắng lặng), chẳng dính mắc một mảy trần, thật không có chúng sanh, sanh về nước kia. Thế là dùng cả tâm, cảnh, sự, lý dung nhiếp lẫn nhau làm giáo thể.

TÔNG THÚ CHỈ QUI (phân ra làm ba phần):

1. Tổng trần (Chung bày tông thú)
2. Dị giải (Giải riêng tông thú)
3. Chánh ý (Chính tông thú kinh nầy)

1. TỔNG TRẦN

Chánh Văn: Đã biết kinh đây về cái thể Năng Thuyên của nó bao trùm như thế, nhưng chưa biết chỗ tông thú của kinh như thế nào? Luận rằng: Chỗ trọng của lời nói gọi là tông, chỗ qui về nơi tông gọi là thú, nhưng có Thông (chung) và Biệt (riêng). Luận về Thông thời Phật giáo lấy chữ nhơn duyên làm Tông. Biệt, thời y theo xưa chia ra mười môn (130): 1. Từ môn “Ngã pháp cu hữu” đến môn thứ mười là “Viên dung cụ đức”. Sau lại sau; trước; thứ lớp có cao và thấp, cho nên kinh nào cũng đều có Tông và Thú.

Chú Giải: “Trọng” là chuộng. Vì thánh nhơn lập giáo lời lẽ trong một bộ kinh, chuộng trọng về chỗ nào thì chỗ chuộng trọng ấy là Tông. Qui là đến, đến chỗ lập ra Tông (lập trường) đây để cầu việc gì? Xét chỗ về đến của Tông gọi là Thú.

Nhơn duyên là lựa khác với không nhơn và tà nhơn. Giáo pháp của đức Phật nói ra trong 49 năm không ngoài hai chữ “nhơn duyên”. Như nói: “Vì nhơn duyên nên sanh diệt; vì nhơn duyên nên tức không, vì nhơn duyên nên tức giả, vì nhơn duyên nên tức trung”. Vậy biết với tông chỉ của Phật giáo duy có hai chữ “nhơn duyên” đã bao gồm hết cả nên gọi là Thông (phần chung).

Mười môn là:

1. Tông “Ngã pháp cu hữu”. Trong chấp có ngã ngoài chấp có pháp (131) gọi là tông của ngoại đạo nương theo Phật Pháp (132).

2. Tông “pháp có, ngã không” thời khác với ngoại đạo, tức là tông của Tiểu Thừa.

Do đây từ trước đến sau; từ thấp đến cao, nhẫn đến tôn thứ mười là “viên dung cụ đức”. Mười môn phân biệt rõ đủ trong lời Huyền Đàm kinh Hoa Nghiêm. Nếu tóm lại thời thành năm môn, song không ngoài những Tông: Hữu, Vô, Pháp Tướng, Pháp Tánh và Viên Dung.

Nay kinh nầy tôn trọng về Pháp. Do y báo, chánh báo, tín, nguyện, vãng sanh về Tịnh Độ v.v… đều qui về Lý Nhứt Tâm. Vì nhứt tâm bất loạn tức là pháp tánh.

DỊ GIẢI

Chánh Văn: Kinh Di Đà đây xưa có nhiều nhà giải; có nhà nói dùng Tín, Nguyện làm Tông; có nhà nói vượt khỏi ba cõi, hai món đều thanh tịnh làm Tông, khiến cho chúng sanh đặng quả vị “bất thối chuyển” là Thú.

Chú Giải: Tín, Nguyện làm Tông là các nhà giải phần nhiều đồng ý với nghĩa đây. Do vì trong kinh thường nói: “Nếu có người tin, nên phải phát nguyện, nguyện sanh về cõi nước kia”.

Hai món thanh tịnh là gì? Như trong luận nói: “Cực Lạc thế giới, y, chánh hai báo (133) thanh tịnh trang nghiêm, chẳng phải y, chánh hai báo trong ba cõi nầy bì kịp” nên lấy hai món thanh tịnh đây làm Tông, mà cốt yếu chỗ về của nó là vì khiến cho chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc thanh tịnh kia. Sanh về nước kia rồi liền đặng quả vị Bất Thối Chuyển. Lấy đây làm Thú.

CHÁNH Ý (phân ra làm hai phần):

1. Tổng cử: Tông thú chung của kinh nầy.
2. Biệt minh: Tông thú riêng của kinh nầy.

TỔNG CỬ

Chánh Văn: Kinh đây trọng về Pháp Tánh, với trong Pháp Tánh lại chia có Tổng và Biệt, gồm hiệp chung lại thì là “Y chánh thanh tịnh” và “Tín, Nguyện vãng sanh” lấy đó làm Tông Thú.

Chú Giải: Dùng cả hai thuyết trước, hiệp lại thuyết sau để nói đó, chung làm Tông Thú vì thuyết trước không gồm y báo, chánh báo, thuyết sau chưa rõ Tín, Nguyện, nên phải hiệp chung lại mới khỏi thiếu sót. Bởi vì do cả y, chánh, tín, nguyện, gồm giúp lẫn nhau mới được vãng sanh mà cũng không ngoài một cái tự tâm.

Chung làm Tông Thú là gì?

So theo như kinh Hoa Nghiêm vì kinh kia cũng gồm chung cả các thuyết “nhơn quả, duyên khởi” và “Thật lý pháp giới”, lấy đó làm Tông và Thú. Nếu muốn phân ra thì câu trên làm Tông, câu dưới làm Thú; nghĩa cũng tự rõ. Bằng muốn thêm thì kinh Hoa Nghiêm kia thêm câu “bất tư nghì”, kinh Di Đà đây cũng thế.

BIỆT MINH

Chánh Văn: Lại phân biệt mà nói, thì thành năm pháp đối:

1. Giáo nghĩa; 2. Sự lý; 3. Cảnh hạnh; 4. Hạnh tịch; 5. Tịch dụng.

Dùng làm Tông và Thú, (mỗi một đối là một tông thú, cả 5 đối là 5 tông thú).

Chú Giải: Một: “Giáo nghĩa một pháp đối” là sao? Là dùng Giáo làm Tông, để cho rõ Nghĩa làm Thú. Nói cái giáo tôn trọng pháp niệm Phật vãng sanh đây, ý đó ra sao? Chính là vì muốn cho chúng sanh hiểu rõ lời nói trong kinh đây là, y báo, chánh báo của Phật A Di Đà rất thanh tịnh trang nghiêm, đặng sanh lòng tin niệm Phật và phát nguyện sẽ được sanh về nước kia. Trong kinh giáo có nghĩa như thế, đó là Thú; chớ không phải chỉ là ngôn ngữ văn tự suông mà thôi.

Hai: “Sự lý một pháp đối” là gì? Là dùng Sự làm Tông, khiến người ngộ Lý làm Thú. Nương nơi văn trên lời nói dạy trong một bộ kinh đều ước về nghĩa sở thuyên, mà trong nghĩa ấy lại có sự và lý. Rằng tôn trọng những sự y báo, chánh báo, tín, nguyện v.v… ý đó ra sao? Chính là muốn rõ bày trong sự có đủ lời chí lý, đó là Thú; chớ không phải chỉ nói những tích sự duyên suông mà thôi.

Ba: “Cảnh và Hạnh một pháp đối” là gì? Dùng Cảnh làm Tông, khiến ra Hạnh làm Thú. Cảnh tức là Lý sở quán, đối với trí năng quán nên gọi là cảnh. Nói “tôn trọng lý đây”, ý đó ra sao? Đã biết tự tánh sẵn có Phật Di Đà, nơi tâm vốn có cõi Tịnh độ, chính muốn tức nơi đó dùng làm chơn cảnh mà khởi ra quán hạnh, chấp trì danh hiệu để niệm đến nhứt tâm bất loạn, đó là Thú; chớ không phải chỉ thông hiểu suông lý đấy mà thôi.

Bốn: “Hạnh Tịch một pháp đối” là gì? Dùng hạnh làm Tông, khiến đến chỗ không tịch làm Thú. Nay tôn trọng pháp niệm Phật và quán hạnh đây ý nó ra sao? Bởi do tâm thể ta tuy vắng lặng, nhưng huân tập thói nhiễm ô nhiều đời, nên nay hễ chạm cảnh thì sanh tình, nếu không tu quán hạnh thì dầu miễn cưỡng, dằn ép vọng tâm, rốt cuộc không phải là đắc pháp định huệ bình đẳng (134). Nay y pháp chánh quán và chấp trì danh hiệu, đến chỗ nhứt tâm thời trở lại cái bản thể Không Tịch; đó là Thú; chớ chẳng những làm cái vọng kế có tạo tác mà thôi.

Năm: “Tịch Dụng một pháp đối” là gì? Dùng bản thể Không Tịch làm Tông, khiến sanh trí diệu dụng làm Thú. Nói tôn trọng cái thể vắng lặng đây, ý nó ra sao? Bởi vì vọng tưởng chấp trước không do đâu được giải thoát, nay chuộng cái vắng thì vọng hết, tâm qui nhứt, tịch tịnh đến cùng tột, tâm thể sáng suốt. Dụ như bụi hết, gương sáng, hình ảnh nào mà không chiếu hiện? Chỗ gọi rằng: Đã sanh về nước kia, chứng đặng vô sanh nhẫn, rồi trở vào đường sanh tử, dùng vô số phương tiện, làm Phật sự lớn lao diệu dụng độ thoát chúng sanh rất nhiều đó là Thú, chớ không phải chỉ đắm chấp nơi chỗ vắng lặng suông mà thôi.

Như vậy mười môn lần lựa sanh khởi làm Tông và Thú.

BỘ LOẠI SAI BIỆT (phân ra làm ba phần)

1. Minh bộ (Đồng bộ với kinh nầy)
2. Minh loại (Đồng loại với kinh nầy)
3. Phi bộ phi loại (chẳng phải bộ loại nhưng cũng niệm Phật)

1. MINH BỘ

Chánh Văn: Đã biết kinh Di Đà đây, Tông Thú rộng sâu, nhưng chưa biết đồng với bộ nào, loại nào và có mấy thứ? Trước nói rõ về bộ. Bộ có hai thứ:

1. Đại bổn; 2. Kinh Di Đà này.

Chú Giải: Bộ là các bổn đồng qui về một bộ, mà văn nghĩa có rộng và hẹp. Rộng là kinh Đại Bổn, hẹp là kinh đây (Di Đà).

Đại bổn có sáu tên:

1. Vô Lượng Bình Đẳng Thanh Tịnh Giác kinh; đời Hậu Hớn, ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch (135).

2. Vô Lượng Thọ kinh; đời Tào Ngụy, ngài Khương Tăng Khải dịch.

3. A Di Đà kinh đồng một tên với kinh đây; đời Ngô, ngài Chi Khiêm dịch.

4. Vô Lượng Thọ Trang nghiêm kinh; đời Tống, ngài Pháp Hiền dịch.

5. Rút trong kinh Bảo Tích, quyển thứ 18, tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội; đời Đường, ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch.

6. Tên Phật Thuyết Đại A Di Đà kinh; đời Tống, huyện Long Thơ, cư sĩ Vương Nhựt Hưu, tóm rút của bốn nhà dịch trước, so sánh làm một bộ, duy trừ bộ Bảo Tích, ông chưa kịp xem.

Song năm nhà dịch trên, lẫn nhau có khác và đồng, như: đời Hán, đời Ngô hai nhà dịch ấy, với 48 lời nguyện, chỉ còn phân nửa là 24 thôi, còn bao nhiêu lời văn đại đồng, tiểu dị (phần lớn đồng nhau, chỉ khác là phần nhỏ).

Ông Vương Nhựt Hưu chung lấy văn của năm nhà dịch, so sánh lấy chỗ giản dị và rõ ràng, lưu thông đời nay, lợi ích rất lớn. Nhưng ông không theo bản chữ Phạm, chỉ châm chước theo văn Tàu nên chưa đúng phép dịch. Phải chi ông dùng bản chữ Phạm để dịch lại thì thành sáu nhà dịch, không ai phê bình được. Vì thế, nên ông không nói dịch mà chỉ nói giảo chánh thôi. Lại trong đó có chỗ bỏ chỗ dùng, ông theo văn xưa, nhưng cũng có chỗ lấy chưa hết.

Như ba bực vãng sanh, theo bản dịch đời nhà Ngụy, đều nói “Phát Bồ Đề tâm” mà Ông Vương Nhựt Hưu chỉ nói bậc trung mới phát Bồ Đề tâm, bực hạ không phát, bậc thượng hoàn toàn không nói đến. Thế thì trên dưới mất thứ lớp. Vả lại trong văn, nói: “Người có nhiều thiện căn là hoàn toàn chỉ cho người phát tâm Bồ Đề”. Ba bực tuy không đồng, nhưng vẫn đồng một điều là có phát tâm ấy, làm điểm chính của sự vãng sanh, thế mà ông lại bỏ đi, nên nói ông có chỗ lấy chưa hết.

Song nay giải lời Sớ Sao kinh này, với chỗ viện dẫn, về nghĩa thì gồm thâu cả năm nhà dịch, về lời lẽ thời phần nhiều theo văn của ông Vương Nhựt Hưu, bởi vì bản dịch của ông ấn hành được lưu thông, người đời thường dùng, ai ai cũng quen thấy. Còn năm bản kia chỉ rút chút ít, phần đại khái thì lấy kinh Đại Bổn làm mục tiêu. Nên với cả sáu món trên, đều gọi là ĐạI Bổn, kinh Di Đà đây kêu là Tiểu Bổn. Dù văn có nhiều và ít, chớ nghĩa không hơn không kém, nên cho thuộc về đồng bộ.

2. MINH LOẠI

Chánh Văn: Minh loại là gì? Nó có ba thứ: 1. Quán kinh; 2. Cổ Âm Vương kinh; 3. Hậu Xuất A Di Đà Kệ kinh.Chú Giải: Loại là gì? Loại nghĩa là không đồng bộ, nhưng đồng một loại. Thí dụ như anh em chú bác, tuy không đồng một cha mẹ, mà đồng một ông nội, bà nội, cũng gọi là anh em ngang vai, anh em ngang hàng, nên nói là đồng loại.

Quán Kinh là gì? Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói đủ 16 pháp diệu quán và nhứt tâm tam quán, rõ như lời Sớ Sao của bổn kinh ấy nói.

Khi Phật ở tại Chiêm Ba Đại Thành, nơi ao Dà Dà Linh, cùng với 100 thầy Bí Sô nói kinh Cổ Âm Vương. Trong kinh ấy nói: “Nếu có bốn chúng thọ trì danh hiệu của Phật A Di Đà, đến khi mạng chung, sẽ được Phật và Thánh chúng tiếp dẫn vãng sanh” v.v…

Kinh Hậu xuất Kệ là kinh gì? Kinh nầy từ đầu chí cuối, chỉ toàn là nói bằng kệ (136) nên gọi là bộ Dà Đà. Trong bộ ấy nói: “Người phát nguyện dụ như chư Phật”; mà với 48 lời thệ nguyện, chỉ còn phân nửa là 24 lời nguyện, cũng đồng với hai nhà dịch đời Ngô, đời Hớn. Nhưng 48 lời nguyện từ xưa đến nay tuyên truyền đã lâu; 24 lời nguyện ấy hoặc là bản chữ Phạm đứt, thiếu cũng chưa biết chừng?

Có người hỏi: “Kinh cổ Âm Vương cũng nói trì danh, vì sao không đồng bộ với kinh nầy?”

Đáp: Do vì lời chú kinh kia tuy cũng có nói pháp trì danh, nhưng mà trọng về pháp trì chú hơn.

3. PHI BỘ PHI LOẠI

Chánh Văn:Xét, rõ “phi bộ phi loại” là những bổn kinh không phải đồng bộ và đồng loại, nhưng cũng nói kèm về pháp môn Tịnh Độ như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa và Luận Khởi Tín v.v… Lại dầu không phải bộ loại, nhưng mà trong ấy cũng nói về pháp chuyên trì danh hiệu như kinh Văn Thù Bát Nhã.

Chú Giải: “Cũng có nói kèm” là gì? Ngoài những kinh đồng bộ đồng loại ra, còn có những kinh tuy không chuyên nói về pháp môn Tịnh Độ, nhưng trong ấy cũng có nói đến lời khuyến tán vãng sanh Tịnh Độ, như kinh Hoa Nghiêm phẩm Hạnh Nguyện đã nói mười lời đại nguyện lớn và rốt sau lại nói cũng do mười nguyện chúa ấy, để dẫn dắt về nước Cực Lạc ấy vậy.

Trong kinh Pháp Hoa nói: “Người nào tụng kinh này (Pháp Hoa) khi mạng chung (chết) sẽ được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Thật vậy, về Luận Khởi Tín, như trong khoa Giáo Khởi trước đã nói, hai chữ vân vân (v.v..) là: Như kinh Quán Phật tam muội, kinh Thập Trụ về đoạn kết và các kinh đều có nói đến pháp môn Tịnh Độ trùng trùng không phải một như lời tạp dẫn trong văn sau sẽ rõ. Với kinh Văn Thù Bát Nhã, cũng sẽ nói rõ trong văn “chấp trì danh hiệu” sau.

Dịch Thích Tụng Trì (phân ra làm 5 phần)

1. Minh dịch (nói việc phiên dịch)
2. Minh thích (nói việc giải thích)
3. Minh tụng (nói việc tụng có ích)
4. Minh trì (nói trì danh có linh nghiệm)
5. Kết khuyến (lời kết để khuyên)

1. MINH DỊCH

Chánh Văn: Đã biết kinh nầy, nào bộ, loại, rộng, nào hẹp, đồng, khác với nhau như thế rồi, nhưng chưa biết kinh này dịch về thời đại nào, có bao nhiêu nhà dịch? Cho đến người chú thích mở rộng là ai? Những người đọc tụng thọ trì có linh nghiệm gì?

Trước hết nói rõ có hai nhà dịch: 1. Đời Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch bộ kinh “Phật Thuyết A Di Đà” tức bộ kinh này.

Chú Giải: Chữ Dao Tần, nghĩa là thuở đời Châu có nhà Dinh Tần; Nam Bắc Triều có nhà Phù Tần và Dao Tần (137). Nay nói Dao Tần là để phân biệt với Phù Tần và Dinh Tần kia.

Tam Tạng, tức là người học thông ba tạng: tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận, thêm giỏi cả tiếng Hoa (Tàu) tiếng Phạm (Brahma) nữa.

Chữ “Pháp Sư” nghĩa là người nhận lãnh được Phật pháp, diễn giảng dạy bảo, làm mô phạm trong chúng.

Cưu Ma La Thập là tiếng Phạm, đọc đủ là: Cưu-ma-la-kỳ-bà Thập; năm chữ trên, dịch là “Đồng Thọ” (tuổi trẻ đức cao); chữ Thập là người thông thạo các món văn tự của phương đây (Tàu) hiệp cả Tàu và Phạm chung kêu là “La Thập”.

“Dịch” là đổi. Nghĩa là đổi tiếng Phạm thành tiếng Tàu, theo sách Châu Lễ nói: ‘Chủ quản tiếng nói thuộc về bốn phương, mỗi phương đều có ông quan thông thạo tiếng phương ấy. Như ông quan phương Bắc nói là Dịch”. Do kinh nầy từ xứ Tây Thiên Trúc đem sang nước Đông Độ mà nói rằng “dịch” là vì đời nhà Hớn ông quan phía Bắc (nước Tàu) gồm thông cả tiếng Tây Thiên Trúc nữa nên khi đức Ma Đằng bên Tây Trúc mới đến Tàu, ông bèn gọi là “dịch”. Nay cũng căn cứ theo đây.

Xét bổn truyện của ngài Pháp sư La Thập, chính là người nước Trung Thiên Trúc. Cha Ngài tên là Cưu Ma La Viêm dòng dõi làm chức Tướng Quốc (quan thừa tướng) lại bỏ chức, đi du lịch qua nước Ku Che (Cưu Ty); Vua nước ấy (138) đem gả em gái, sanh ra ngài. Khi ngài vừa sanh sẵn có tinh thần sáng suốt; năm lên bảy tuổi, một hôm theo mẹ vào chùa, thấy cái bát bằng sắt ngài lấy đội thử lên đầu, thoạt nghĩ: Bát này nặng quá làm sao ta đội nổi. Tức thì bát ấy quá nặng bội phần, ngài không thể đội được. Ngài liền tỏ ngộ được lý “vạn pháp duy tâm”, học rộng nhớ dai, không ai sánh kịp. Bởi còn tuổi trẻ mà đức hạnh cao cả nên gọi là “Đồng Thọ”.

Đã học thông ba tạng từ phương Đông vua nước Ku Che (Cưu Ty). Vua nầy mới lập pháp tòa sư tử bằng vàng mời ngài ngồi lên thuyết pháp. Bấy giờ chúa Phù Kiên chiếm lấy nước Tần, sắp đem binh qua đánh lấy Tây Vức. Bỗng gặp quan Thái Sử vào tâu: “Bẩm chúa thượng, tiểu thần xem thiên văn thấy hiện một ngôi sao lạ bên Tây Vức, chắc có bậc đại đức trí nhơn vào giúp Trung Quốc”. Chúa Phù Kiên nói: “Trẫm nghe bên nước Ku Che (Cưu Ty) có ngài La Thập, phải chăng là ngôi sao ấy?” Rồi liền sai tướng soái Lữ Quang (139) đi đánh nước Cưu Ty. Khi sắp hành binh, chúa Phù Kiên bảo Lữ Quang rằng: “Trẫm đây không phải ham muốn đất đai mở rộng biên cương mà dùng binh đâu, chỉ vì Trẫm nghe ngài La Thập là người hiểu sâu pháp tướng của Phật, có thể làm giềng mối cho kẻ hậu học. Nếu khanh đánh thắng được nước Cưu Ty rồi phải lập tức chạy trạm để hộ tống đưa ngài La Thập về đây cho Trẫm gấp”.

Bấy giờ, Lữ Quang chiến thắng nước Cưu Ty, bèn chở ngài La Thập về. Nhưng đi mới nửa đường nghe tin chúa Phù Kiên bị Dao Trành làm hại, nên Lữ Quang không về nước mà ở lại Lương Châu. Ngài La Thập vì thế nên không được đến nước Tần.

Sau Dao Trành cũng nghe danh tiếng ngài qua thỉnh, nhưng Lữ Quang không cho. Dao Trành chết, con Dao Trành là Dao Hưng cố thỉnh, song Lữ Quang cũng không cho. Nhơn đó Dao Hưng cử binh đi đánh, cháu Lữ Quang thua, đầu hàng nước Tần. Bấy giờ mới rước được ngài La Thập vào ải, tôn kỉnh ngài lên làm chức Quốc Sư.

Ngài xem kinh cũ, nghĩa phần nhiều sai lạc, không hiệp với bổn chữ Phạm. Ngài bèn triệu tập các thầy sa môn như ông Tăng Triệu, Tăng Duệ, tất cả hơn 800 người, mới dịch ra kinh, luận trên 390 quyển đều thấu suốt nguồn tâm, mở bày lý nhiệm.

Trước khi sắp tịch, ngài nhóm chúng lại nói: “Tôi nguyện những kinh của tôi dịch, lưu truyền đời sau được thông dụng khắp cả, nay đối truớc chúng, tôi phát lời thệ thành thật: Nếu kinh sách của tôi dịch không sai lầm thì sau khi đốt thân, cuống lưỡi tôi không cháy nát”.

Ngài tịch ở đất Trường An, nhằm niên hiệu Hoằng Thỉ, năm thứ 11 (140) tháng 8, ngày 20. Sau khi làm l trà tỳ, củi cháy hết, xác ngài tiêu, mà cuống lưỡi vẫn còn nguyên vẹn như lúc sống.

Nay kinh này ngài La Thập dịch, cuống lưỡi không hư, cùng với chư Phật tướng lưỡi rộng dài để khen ngợi kinh đây, hiệp lại mà quán xét thì lời Phật nói thật không sai; do nơi đây lại càng thêm tin.

Chánh Văn: Hai: Kinh “Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ”, đời Đường, ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.

Hai kinh hiệp lại so sánh, phần lớn đồng nhau, chỉ khác chút ít, người đời yêu chuộng phần nhiều đều theo bản nhà Tần.

Chú Giải: Ngài Huyền Tráng pháp sư nguyên là con nhà họ Trần, người ở huyện Hầu Thị, xuất thân tại châu Lạc Dương, đời nhà Đường (141). Thuở nhỏ gặp nhiều hoạn nạn theo anh trưởng là ông Kiến pháp sư xuất gia ở chùa Tịnh Trụ. Năm lên 11 tuổi tụng kinh Duy Ma và Pháp Hoa bỗng nhiên giác ngộ (phát huệ) người đời không ai sánh kịp. 21 tuổi giảng bộ Tâm Luận, không cần xem văn tự mà nói thông như nước chảy. Người đời tặng ngài là Thần Nhơn (người hay nhứt).

Hoàng hiệu Trinh Quán năm thứ ba (142) ngài qua Tây Vức (Ấn Độ) thỉnh kinh, gặp đủ mọi sự nguy hiểm, đường gian nan, trải qua một trăm năm mươi nước mới đến nước Xá Vệ (143) thỉnh hơn 600 bộ kinh.

Đến năm hoàng hiệu Trinh Quán thứ 19, (144) trở về kinh đô nước Tàu, ở tại đền Ngọc Hoa, phiên dịch kinh, luận, tổng cộng 1.330 quyển.

Khi ngài đã già bệnh, nằm thấy có bông sen trắng lớn và tướng hảo của Phật. Ngài nằm nghiêng bên hữu, chồng chơn lại mà tịch; xác để hai tháng mà diện mạo như lúc còn sống (145).

Nhắc lại ngày trước, khi ngài qua Tây Vức thỉnh kinh, ngài vỗ cây tòng ở chùa Linh Nham, ngài thệ và dặn rằng: “Ta đi qua phương Tây, ngươi cũng ngả về phương Tây, lúc ta trở về phương Đông, ngươi cũng ngả về phương Đông nhé”. Dặn thế rồi Ngài đi thì cây tòng y lời dặn của ngài, ngả về phương Tây dài đến hai trượng. Một hôm bỗng nhiên nó ngả trở lại phương Đông (146) đệ tử mừng nói rằng: “Thầy sắp về!” Quả nhiên ngài về thật. Người đời gọi cây Tòng ấy là “ma đảnh tòng” (147).

Xét lời thệ nguyện của ngài chơn thật nên muốn chi được nấy, không sai. Như vậy cuống lưỡi của ngài La Thập không hư, cùng với tướng lưỡi rộng dài của chư Phật vẫn đồng một ý. Nên với kinh ngài dịch đây, đâu chẳng tin ư?

“Hiệp lại so sánh”: Là nghĩa hiệp trước sánh sau mà dịch trùng lại vậy. Đại đồng, tiểu dị là tiếng Phạn có hơi khác và lời nói có nhiều ít, như chữ Hằng Hà, có bổn dịch là Căng Già (148) và sáu phương, hoặc nói là mười phương chẳng đồng nhau. Nhưng đại ý vẫn một (không trái nhau).

Phần nhiều theo bản nhà Tần là kinh Pháp Hoa có ba nhà dịch, mà bản dịch của nhà Tần thạnh hành hơn. Kinh này hai nhà dịch cũng lại như thế.

2. MINH THÍCH

Chánh Văn: Kế đây nói người giải thích kinh này. Về Luận thì có ngài Thiên Thân Bồ Tát làm ra bộ Vô Lượng Thọ Kinh Luận. Giải thì có ngài Từ Ân làm lời Thông Tán, ngài Hải Đông làm lời sớ, ngài Cô sơn làm lời sớ, cho đến ngài Đại Hựu làm bộ Lược Giải v.v…

Chú Giải: Ngài Thiên Thân Bồ Tát thường nhập pháp định “Nhựt Quang” (149) lên nội viện cung trời Đâu Suất tham bọc với đức Từ Thị (Di Lặc), rồi viết ra bộ “Vô Lượng Thọ kinh Ưu Bà Đề Xá”. Ưu Bà Đề Xá Tàu dịch: Phân Biệt Nghĩa. Ngài Từ Ân pháp sư tên là Khuy Cơ, cháu ông Uất Trì Kỉnh Đức; ngài Huyền Tráng độ cho đi xuất gia, học thông kinh Đại Thừa, Tiểu Thừa, làm lời sớ giải các kinh, tính hơn 100 quyển. Giải bộ kinh “Di Lặc Hạ Sanh”, trong ngòi bút đặng 27 hột ngọc Xá Lợi. Ngài có viết một quyển kinh “Di Đà Thông Tán” để chỉ bày nghĩa cốt yếu Tây phương Tịnh Độ.

Ngài Hải Đông pháp sư tên Nguyên Hiểu, sớ giải kinh nầy đại khái căn cứ theo luận làm chủ. Ngài Cô Sơn Viên Pháp làm lời sớ cả mười bộ kinh để lưu thông (15) mà lời sớ kinh đây là một phần trong ấy.

Các ngài: ngài Nghĩa Uyên, ngài Tịnh Giác, ngài Việt Khê v.v…, nhiều ngài giải thích lắm nhưng mà phần nhiều lạc mất. Đến đời nhà Nguyên, ngài Đại Hựu pháp sư mới có làm bộ Lược Giải. Nay đây duy còn những lời Sớ của ngài Hải Đông, ngài Việt Khê và ngài Đại Hựu mà thôi.

Lâu đời, người mất, kinh lạc giáo lờ, thành thử làm cho pháp môn rộng lớn sâu xa như thế mà mỗi người không nhận hiểu được, đâu không buồn ư?

Chánh Văn: Hoặc luận những kẻ xa vâng ý Phật, mở rộng tôn mầu, như là làm Luận làm Văn, làm Tập, làm Lục, làm Truyện, làm Kệ, làm Phú, làm Thi, lẫn nhau khen ngợi, số ấy không những số ức (151), đâu chẳng đinh ninh khẩn cáo, cảm khái, bi ca, khuyến cả chúng mê lưu đồng về con đường giác ngộ. Vậy chúng ta một phen xem đến, đâu chẳng ghi lòng!

Chú Giải: Văn trước chỉ những người chú giải kinh này, văn đây nói đa số người có những lời khen ngợi cõi Tịnh Độ không thể biên đủ.

Làm Luận như các bộ “Thập Nghi Luận”, “Bảo Vương Luận” (152) v.v… làm Văn như “Văn của Ngài Long thơ”, “Văn của Ngài Vô Tận” (153) v.v… làm Tập như “Tập Quyết Nghi”, “Chỉ Qui” v.v… Làm Lục như bộ “Tịnh Độ Tư Tín” v.v… Làm Truyện như bộ “Tịnh Độ Lược Truyện” v.v… làm Kệ như “Kệ Kỉnh Lộ Tu Hành” v.v… (154) Làm Phú như bài “Thần Thê An Dưỡng” (155) v.v… Làm Thi như “Thi Chư Gia Hoài Tịnh Độ” (156) v.v…

“Cáo” mà nói rằng “Khẩn” là lời chơn thành, trông mong ai nấy tín thọ vâng lời làm theo.

“Ca” mà nói rằng “Bi” là lời buồn thảm, hoặc vì quá cảm khích mà thốt ra.

Chữ “lệ” cũng như số “chẳng những số ức” là nói số quá nhiều không thể dùng số ức để tính kể cho hết. Đây là bực Hiền, Thánh khen ngợi pháp môn Tịnh Độ, ngàn vạn lời không nhàm, lặp đi lặp lại nhiều lần, mục đích muốn đem hết chúng sanh trong biển sanh tử để về cõi Phật mà thôi.

Vậy chúng ta nay phải mang ơn báo đức, khắc cốt ghi lòng, lần lữa lưu thông, thay nhau khuyến dẫn. Nếu cứ cất kỹ không xem, xem mà không tin, những hạng ấy chẳng nói là lời dạy trẻ thơ, thời cũng nói là lý luận ký ngụ (nhảm nhí). Những hạng như thế, thôi đành cam phận, chớ biết làm sao?

3. MINH TỤNG

Chánh Văn: Kế nói sự lợi ích của người tụng kinh này như “cuống lưỡi không hư, nhạc trời rước về Tịnh Độ”, vừa giải oan, vừa vãng sanh. Tụng chưa hết quyển mà ngồi tịch; về Cực Lạc như vào Thiền Định; khi chết thấy hoa sen trắng, đài bạc đổi thành đài vàng, nhạc dở qua rồi, nhạc hay tiến đến.

Chú Giải: “Cuống lưỡi không hư” là: Trong bộ Trí Độ Luận nói: Có vị bí sô tụng kinh Di Đà, khi sắp lâm chung nói với các đệ tử rằng: “Có Phật A Di Đà và các vị Thánh chúng đến rước ta kia”. Sau khi hỏa thiêu thân cháy mà cuống lưỡi không nám, sắc tướng tự nhiên.

“Nhạc trời rước về Tịnh Độ” là: Đời Tống, ông Đường Thế Lương tụng kinh Di Đà mười muôn biến. Một hôm bảo người nhà rằng: “Phật đến rước ta”. Nói rồi lạy Phật, ngồi mà qua đời. Đêm ấy có người đi buôn, nghỉ trên núi Đạo Vị, nằm mộng thấy phương Tây có hào quang lạ và tràng phan, hương hoa lăng xăng, tiếng nhạc véo von, trên không có tiếng kêu rằng: “Ông Đường Thế Lương đã sanh về Tịnh Độ”.

“Vừa giải oan, vừa vãng sanh” là: Đời Tống đất Thượng Ngu có tên Phùng Mân, lúc trẻ ưa đi săn bắn, thấy con rắn lớn, cầm nác (dao) muốn tới đâm. Lúc ấy con rắn ở dưới gộp đá muốn mổ (cắn) con bò ghé (con). Ông Phùng Mân lăn đá trên gộp xuống đè rắn đến chết. Rắn thường biến làm loài yêu quái để hại Phùng Mân. Nhưng Phùng Mân nhờ tu pháp sám hối, niệm Phật nhiều năm, rắn không làm hại đuợc. Một hôm Mân mời các bạn đồng tu trong hội “Tịnh Độ” tụng kinh Di Đà, rồi Mân chấp tay niệm Phật mà qua đời.

“Tụng chưa hết quyển ngồi tịch” là: Đời nhà Tần, có ngài Trí Tiên pháp sư hiệu Chơn Giáo ở chùa Bạch Liên, ngài xây mặt về hướng Tây, tu pháp Thập Niệm 13 năm, một ngày 12 thời, không tạm nghỉ.

Một hôm ngài hơi bệnh, bảo tên quán đường hành nhơn tụng kinh Di Đà, tụng chưa hết quyển, ngài ngồi an nhiên mà qua đời.

“Về Cực Lạc như vào Thiền định”: Đời Tống ngài Thích Xử Khiêm tinh tấn tu pháp Tịnh Độ, một hôm tụng kinh Di Đà xong và khen ngợi pháp Tịnh Độ, ngài bảo trong chúng rằng: “Ta dùng bản tánh vô sanh mà sanh về Tịnh Độ”. Nói rồi ngài ngồi ngay thẳng như vào Thiền định, thoạt vậy mà tịch.

“Lúc chết thấy hoa sen trắng”: Đời Tống có bà Chung Ẩu người ở quận Gia Hòa, mỗi ngày tụng mười biến kinh Di Đà, niệm Phật không thôi. Một hôm bà bảo các con rằng: “Ta thấy hoa sen trắng vô số, các vị thánh đến rước ta”. Bà nói vừa dứt lời liền ngồi ngay thẳng mà tắt thở.

“Đài bạc đổi đài vàng”: Ngài Hoài Ngọc Thiền sư, người ở đất Thai Châu, thân mặc áo vải, mỗi ngày ăn một bữa, thường ngồi, không nằm, tinh tấn niệm Phật. Ngài tụng 30 muôn biến kinh Di Đà. Một hôm ngài thấy thánh chúng bên Tây phương Tịnh Độ nhiều như số cát sông Hằng, có một vị tay bưng đài bạc từ cửa sổ đi vào. Ngài Hoài Ngọc than rằng: “Suốt đời tôi tinh tấn thề được đài vàng. Vì sao nay được cái nầy?” Nói thế đài bạc liền mất. Ngài Hoài Ngọc quá cảm khích lại càng tinh tấn bội phần. 21 ngày sau, thấy Phật đầy giữa hư không, ngài liền bảo đệ tử rằng: “Đài vàng đến rước ta sanh về Tịnh Độ”. Rồi ngài nói bài kệ mỉm cười mà tịch. Quan thái thú ở quận ấy tên Đoàn Công lấy làm lạ, mới làm bài thi khen ngợi, có câu: “Chi đê chỉ vị, quải kim đài” (157).

“Nhạc dở đi rồi, nhạc hay tiếp đến”: Đời Nguyên có ông Tử Hoa thiền sư, trong niên hiệu Đại Lịch năm thứ chín (158) ở chùa Quan Âm, tại đất Nhuận Châu, tụng kinh Di Đà ròng sáu tháng. Một hôm ngài cảm bệnh, đêm đó nghe mùi hương và tiếng nhạc trên hư không có tiếng bảo rằng: “Nhạc dở qua rồi, nhạc hay tiếp đến, người sẽ vãng sanh”. Thế rồi ông niệm Phật giây lâu mà tịch. Mùi hương lạ suốt ngày chưa tan.

Chánh Văn: Lại như biên chép kinh này thì cảm hóa được mọi người; diễn giảng thì có điềm lành chim Bạch Hạc.

Chú Giải: “Biên tả”: Đời Đường có ngài Thiện Đạo Đại sư hễ được tiền của ai cúng, ông dùng để tả kinh Di Đà được mười vạn quyển, khuyên người thọ trì. Ngài cũng có khi tụng đến mười vạn biến, hoặc có khi tụng đến năm mươi vạn biến, kẻ tăng người tục (cư sĩ) đều qui kỉnh. Có người cảm quá đến đỗi đốt thân cúng duờng. Có những người đặng pháp niệm Phật tam muội không thể kể xiết!

“Diễn giảng”: Đời Tống có ông Thẩm Tam Lang, tuổi già hồi tâm niệm Phật. Nhơn lúc bệnh, ông thỉnh chư Tăng giảng kinh Di Đà; ông thay áo mà qua đời; bỗng co chơn muốn trỗi dậy. Hai người con chấp theo nhà danh giáo (đạo Nho) cho sự đổi hòm là khó, mới kéo chơn ông ra cho thẳng khi sắp sửa liệm. Ông bỗng cất đầu ra khỏi áo, mền; vùng mình ngồi dậy. Cả nhà kinh hãi. Hai người con lật đật tới trước dìu đỡ, ông bèn lấy cánh tay hất ra, còn nói: “Để cha ngồi mà đi chớ”. Rồi ông ngồi ngay thẳng chết lại.

Lúc làm lễ trà tỳ ông, có 29 con chim bạch hạc bay đảo liệng mãi và kêu trên mây; giây lâu rồi bay thẳng về phương Tây cõi Tịnh.

Chánh Văn: Cảm ứng hiện tiền thời xa thấy đất báu; quyết được vãng sanh thời kinh Niết Bàn chẳng sánh. Sự cảm ứng như đây, xưa nay thường thấy.

Chú Giải: “Ở xa thấy đất báu”: Đời Đường ngài Đại Hạnh thiền sư ban đầu tu pháp sám của đức Phổ Hiền, sau vào trong Đại Tạng, tùy theo tay hễ rút lấy ra một quyển nào sẽ tụng theo kinh ấy thì nhằm quyển kinh Di Đà. Thế rồi ngày đêm ngài tụng niệm, đến ngày thất thứ ba, ngài thấy trên đất toàn là ngọc lưu ly. Phật Di Đà và đức Quan Âm, Thế Chí, hai vị Đại Sĩ hiện trước mặt. Vua Hy Tông nghe việc này, mời ngài vào cung, ban cho ngài hiệu là Thường Tinh Tiến Bồ Tát. Sau lại thấy trên đất toàn là ngọc lưu ly một lần nữa, liền ngày ấy ngài qua đời. Mùi hương lạ nghe thơm cả tuần; nhục thân của ngài không hoại (159).

“Kinh Niết Bàn chẳng sánh”: Đời Lương có ngài Đạo Trân pháp sư giảng kinh Niết Bàn. Trong hoàng hiệu Thiên Giám (160) dừng gậy tích (161) ở núi Lô sơn, Ngài rất mộ pháp tu Tịnh Độ của ngài Viễn Công. Nhơn khi thiền định, ngài bỗng thấy trong biển có vài trăm người ngồi trên thuyền báu đi ngang trước mặt, ngài bèn hỏi đi đâu đó vậy? Người trong thuyền đáp: “Chúng tôi về nước Cực Lạc”. Ngài yêu cầu cho quá giang. Nhưng mấy người trong thuyền kia nói: “Pháp sư tuy có giảng kinh Niết Bàn rất hay, cũng thật là bất khả tư nghì, công đức rất lớn. Nhưng mà ngài chưa tụng kinh Di Đà thì đâu được cùng với chúng tôi về nơi Cực Lạc!”

Từ đó pháp sư nghỉ giảng kinh Niết Bàn, bắt đầu niệm Phật và tụng kinh Di Đà đến hai vạn biến. Khi sắp lâm chung, cuối ngày thất thứ tư, ban đêm vào canh tư, ngài thấy phương Tây có người bưng đài bạc đến, giữa hư không sáng rực như ban ngày. Có tiếng kêu rằng: “Pháp sư lên ngồi đài nầy để mà vãng sanh”.

Lúc ấy cả đại chúng đều nghe nhạc trời và mùi hương lạ. Những mùi hương quí nầy mấy ngày vẫn còn thơm. Đêm đó chúng tăng ở chùa Phong Đảnh xa xa thấy trong miệng hang có vài mươi ngọn đuốc chói sáng suốt đêm. Ngày sau mới biết pháp sư đã qua đời.

Những sự tích nêu trên đây đều do là người tu nhơn được chứng quả; đây cảm thì kia ứng, thường thấy thường nghe, từ xưa đến nay chưa dễ gì nêu ra cho hết.

4. MINH TRÌ

Chánh Văn: Nói sự linh nghiệm của người trì danh hiệu Phật hoặc một niệm trong miệng bay ra một đạo hào quang, hoặc một tiếng trong miệng bay ra một vị Phật, hoặc niệm vang động cả rừng, hang, hoặc tiếng niệm thấu đến cung vua hoặc sáu thời kế tiếp niệm mà y báo, chánh báo đầy hư không, hoặc gạch chữ thập để nêu tâm mà được thánh hiền vào hội, cho đến đời nay có những danh lưu tiếp tục.

Chú Giải: Đây chính là nói rõ pháp tu chấp trì danh hiệu Phật vậy. Đối với những bậc thánh hiền tu Tịnh nghiệp thành tích rất nhiều, không thể thuật hết. Ở đây chỉ kể lại một vài việc mà người đời đã được nghe thấy rõ ràng, để làm bằng hay làm gương đặng khuyến khích.

“Niệm Phật bay ra hào quang” là đời Đường có người hỏi ngài Thiện Đạo đại sư rằng: “Niệm Phật có được sanh về Tịnh Độ không?”

Ngài đáp: “Cứ như ngươi sở niệm thế nào thì được toại sở nguyện cũng thế”. Khi đó ngài Thiện Đạo tự niệm một câu “A Di Đà Phật” liền có một đạo hào quang từ trong miệng bay ra. Ngài niệm luôn mười câu đến trăm câu hào quang cũng vẫn cứ bay ra như vậy, thành ra cả nhà đầy hào quang. Nghe được sự linh nghiệm ấy nhà vua sắc tứ cho chỗ ngài ở là “Quang Minh Tự”. Sau ngài lên cây liễu ngồi ngay thẳng mà tịch.

“Niệm Phật bay ra vị Phật” là ngài Thiếu Khương pháp sư ở núi Ô Long, kiến thiết đạo tràng Tịnh Độ, khuyên người niệm Phật. Trong chúng thấy ngài niệm Phật một tiếng, trong miệng bay ra một vị Phật sáng, cho đến mười tiếng niệm, đều có đủ mười vị Phật thứ lớp bay ra như xâu chuỗi. Đến ngày lâm chung có mấy đạo hào quang đoanh quanh nơi miệng, thoạt vậy mà tịch (162).

“Tiếng niệm Phật vang động cả rừng, hang” là đời Đường, ngài Đạo Xước Thiền sư, thường ngày vì trong chúng giảng kinh Vô Lượng Thọ gần 200 biến. Mỗi người tay lần chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật; khi tan hội, mà tiếng niệm còn vang động cả khu rừng.

“Tiếng niệm Phật thấu đến cung vua” là đời Đường ngài Pháp Chiếu ở đất Tinh Châu lập 5 hội niệm Phật, cảm đến hoàng đế Đại Tông ở đất trong cung nghe tiếng niệm Phật, vua liền sai sứ đi tìm. Thấy sư khuyến hóa người niệm Phật rất thạnh hành, vua liền mời vào cung. Những người ở trong cung nhờ Sư dạy niệm Phật cũng đến năm hội; vua phong hiệu Sư là “Ngũ Hội Pháp Sư”.

“Sáu thời kế niệm” là đời Tấn, ngài Huệ Viễn pháp sư ở Lô Sơn, chế tạo cái đồng hồ bằng hoa sen để phân giờ tu niệm sáu thời niệm Phật (163), lắng lòng nối tưởng; 19 năm sau, đến đêm 30 tháng 7, ở trong nhà Bát Nhã đang ngồi thiền định vừa đứng dậy, thấy thân Phật A Di Đà đầy cả hư không. Trong hào quang bóng tròn có vô lượng hóa Phật và các chúng Bồ Tát; nước chảy, hào quang đều diễn nói pháp mầu.

Phật nói: “Ta do sức bản nguyện đến an ủi ngươi, bảy ngày nữa ngươi sẽ sanh về nước ta”. Đúng ngày nói trên, Sư ngồi ngay thẳng mà qua đời.

“Gạch chữ thập để nêu tâm” là đời Tống, ngài Tông Trách Thiền sư ở chùa Trường Lô, tỏ ngộ lý Thiền, Tông, Thuyết gồm thông (164) mà vưng theo qui củ ngài Viễn Tổ ở non Khuôn Lư, lập Liên Hoa thắng hội. Kỷ luật hội đó: mỗi ngày niệm Phật A Di Đà, hoặc một ngàn tiếng, muôn tiếng chẳng hạn, cứ đến mặt trời lặn thì gạch tréo chữ Thập để ghi nhớ (165). Một hôm nằm mộng, ngài thấy một cậu trai, đầu bịt khăn đen, mặc áo trắng, dung mạo thanh bai, đến bảo ngài Lô Trách rằng: “Tôi muốn vào hội Di Đà của ông, xin ông ghi cho một tên”. Ngài Lô Trách hỏI: “Ông tên chi?” Người ấy đáp: “Tôi tên Phổ Huệ”; rồi lại nói: “Anh tôi tên Phổ Hiền cũng xin đăng tên”. Nói rồi liền ẩn mất. Ngài Lô Trách thức dậy thuật lại điềm chiêm bao, các vị tôn túc đều nói rằng: “Trong kinh Hoa Nghiêm về phẩm Ly Thế Gian có hai tên vị Bồ Tát ấy”; mới biết thánh hiền thầm giúp. Ngài liền ghi tên hai vị đại sĩ ấy vào đầu sổ (tiêu biểu hai vị hội trưởng của hội niệm Phật).

“Chiêu đại” là đời nay vậy, như ngài Tây Trai, ngài Không Cốc, ngài Thiên Kỳ, ngài Độc Phong (166) v.v… Các ngài đây đều là bậc cao tăng đời nay, dốc tín; tinh tu, sánh với cái lành đời trước, nối nhau không dứt, đều chép rõ trong tập Vãng Sanh.

Số là trong ngàn muôn truyện, chỉ ghi chép lại một vài truyện thôi.

Chánh Văn: Đến như cảm được cứu hộ thời oan nghiệp đời trước cũng độ được, quỉ dữ chẳng dám xâm; đặng linh ứng thời như mắt mù sáng lại, kẻ tù được thoát nạn.

Chú Giải: “Oan nghiệp đời trước cũng độ được” là: Đời Đường có cậu Thiệu Bưu, người ở Trấn Giang; lúc còn làm học trò, nằm mộng thấy đi đến chốn công phủ. Người chủ ở đó hỏi: “Ngươi có tự biết vì sao mà đi thi không đậu?”

Bưu nói: “Dạ không biết”. Nhơn đó sai người dẫn Bưu đi đến trước vài bước, thấy trong chảo lớn có loài ốc sò biết nói tiếng người, kêu tên Thiệu Bưu, Bưu hoảng sợ liền niệm A Di Đà Phật, ốc sò biến thành chim huỳnh tước bay đi. Thiệu Bưu sau thi đậu, làm quan đến chức An Phủ Sứ.

“Quỉ dữ không dám xâm” là: Thuở Phật còn tại thế, có một nước ở gần gũi La Sát. Quỉ này ăn thịt người vô độ. Vua trong nước ấy giao ước với nó: “Từ nay trong nước ta, mỗi nhà dưng một người, thứ lớp đem đến cho ngươi dùng, vậy ngươi đừng bắt ngang nữa”.

Có nhà kia thờ Phật, chỉ sanh được một con trai, đến phiên nạp thịt cho quỉ, cha mẹ thương khóc, dặn con rằng: “Con phải chí tâm niệm Phật”. Người con vâng lời thành tâm niệm Phật. Nhờ oai thần của Phật, quỉ không dám lại gần. Sáng ngày đến xem, thấy con còn sống, cha mẹ mừng rỡ đem về. Từ đây nạn La Sát ăn thịt người đã dứt.

“Mắt mù sáng lại” là: Đời Tống, con gái bà Sùng Thị mù hai con mắt, niệm Phật ba năm, tinh cần không bỏ lãng, cặp mắt sáng lại như xưa.

“Người tù được thoát nạn”: Cuối đời Nguyên, có chúa Trương Sĩ Thành (167) chiếm lấy Hồ Châu, đánh nhau với quan thừa tướng miền Giang Tích, bắt đuợc 40 tù binh nhốt trong xe chở đi giết. Đêm hôm đó, xe tù ngủ nhờ nơi chùa Ô Khoa đất Tây Hồ. Bọn tù thấy ngài Đại Du Mưu thiền sư đi dạo dưới hiên Tây tụng niệm có vẻ nhàn nhã, nhơn đó xin ngài cứu giúp. Sư dạy phải chí tâm niệm Nam mô cứu khổ cứu nạn A Di Đà Phật. Trong đám có ba người tin theo lời sư; miệng niệm không ngớt. Đến sáng mở tù, đổi gông xiềng, tới ba người này, đồ gia hình không đủ, chỉ buộc bằng dây. Tra xét ra là lương dân bị bắt lầm, liền được tha bổng.

Chánh Văn: Lại nữa, người ác siêu là như ông Trương Thiện Hòa niệm mười tiếng Phật, tướng địa ngục hiện trước mắt liền tiêu mà được hóa, Phật rước ở giữa hư không.

Loài súc sanh như chim cù dục xưng danh hiệu Phật mà hình hài chôn rồi, sau trên mộ mọc hoa sen. Huống chi là thân người không tội ác mấy! Và được phước báu gọi là tối linh; thêm đủ Tín và Nguyện đều tu; đâu thành luống bỏ.

Chú Giải: “Người ác” là đời Đường có ông Trương Thiện Hòa làm nghề hàng trâu, khi sắp chết, thấy bầy trâu đến đòi thường mạng cho nó. Lúc ấy ông hoảng sợ, kêu vợ nói: “Mau rước thầy niệm Phật cho tôi”. Nhà sư đến dạy rằng: “Trong kinh nói, khi lâm chung tướng ác (168) hiện ra, nên chí tâm niệm Phật thì sẽ được vãng sanh”.

Ông Trương Thiện Hoà nói: “Địa ngục đến gấp, mau đem lư hương đây!” Rồi tay hữu bưng lửa, tay tả cầm hương đốt, day mặt về hướng Tây, chuyên thiết niệm Phật, chưa đầy 10 tiếng, ông tự nói: “Phật đến rước ta”; dứt lời liền tắt thở.

“Loài súc sanh niệm Phật” là đời Tống, tại non Huỳnh Nham, chùa Chánh Đẳng, sư cụ Quán Công nuôi chim cù dục (sáo). Ngài thường dạy nó niệm Phật không ngớt. Mới hôm đứng chết trong lồng. Ngài Quán Công thương xót đem chôn. Sau trên mộ nó mọc lên đóa sen hồng. Đào đất xem thử thì hoa sen ấy từ trong chót lưỡi của chim cù dục mọc ra (loài sáo trâu: Toàn sắc đen, khi bay cánh nó điểm trắng).

Ngài Linh Chi Chiếu luật sư làm bài thi khen ngợi, có câu:

[[“Chim lồng giam hãm không chi lạ;
Đứng chết, mọc sen mới rất kỳ”! (169)]]

Như trên đây đã thuật lại những sự tích trì danh niệm Phật. Từ sự tích: Niệm Phật trong miệng bay ra hào quang và trong miệng bay ra vị Phật, đến đây số là cũng trong muôn ngàn sự tích mà nay chỉ biên có một vài truyện thôi.

Chữ “Thắc” nghĩa là cái ác còn giấu ở trong tâm khảm.

Chữ “tối linh” là nói loài người khôn ngoan hơn muôn loài (170).

Sau rốt kết luận rằng: Người ác niệm Phật còn được vãng sanh, huống chi cái ác chưa ắt bằng như ông Trương Thiện Hòa và súc sanh niệm Phật còn được vãng sanh thay, huống chi hạng tối linh mà gọi là nhân loại. Lấy đó so sánh, biết chắc là niệm Phật được vãng sanh, vậy quyết chắc rằng người niệm Phật, mà hẳn có cả Tín và Nguyện gồm tu thì chỗ làm đâu có hư hỏng!

5. KẾT KHUYẾN

Chánh Văn: Thế nên một lời vừa xướng, ngàn Phật đồng khen. Bực tam học cao tăng, trang cửu lưu danh đức, hoặc u hoặc hiển, hoặc Thánh, hoặc phàm, như muôn sông đâu lại chẳng chảy về biển Đông; cũng ví như các ngôi sao thảy đều về chầu sao Bắc Đẩu (171). Sánh với đường tắt, gọi là Phổ Môn, lời đâu có dối. Vậy phải quyết chí cầu sanh, không nên nghĩ nghị gì nữa.

Chú Giải: Văn đây tổng kết pháp môn Tịnh Độ, là chỗ nương về của tất cả chúng sanh. Chữ “Xướng” là dạy. Chữ “Canh” là nối. Chữ “thủy xướng” là: Đức Thích Ca chỉ bày cõi Tây phương Tịnh Độ chúng sanh mới biết tu Tịnh nghiệp (niệm Phật). Ấy là dắt mà dẫn đường đi.

Chữ “đồng khen” là: Sáu phương Phật đồng khen ngợi, rõ như trong kinh văn nói, ấy là lời nối mà họa vần theo vậy. “Tam học” là Thiền, Giáo, Luật ba tông. Thiền như ngài Vĩnh Minh là bực thạch trụ (172) trong Tông môn mà được sanh về bực thượng thượng phẩm (173); ngài Viên Chiếu riêng giữ theo pháp đơn truyền “Giáo ngoại biệt truyền” mà được danh nêu bên Liên Cảnh (174). Giáo như ông Tăng Duệ rộng giúp ngài La Thập dịch kinh mà hoa sen mọc trong giường (175); ngài Tứ Minh (176) trùng hưng giáo pháp ngài Thiên Thai (tông Thiên Thai) mà day mặt về Tây ngồi tịch.

“Luật” như ngài Linh Chi (177) khi sống hoằng luật Tỳ Ni mà lúc chết được vãng sanh về nước An Dưỡng; ngài Thanh Chiếu (178) mở rộng môn học Luật, mà chết nói bài kệ về Tây phương. Nếu nói rộng ra thì không thể kể xiết.

“Cửu lưu”: Nho lưu, Đạo lưu, Nông lưu, Công lưu, Y lưu, Bốc lưu (179) v.v… Nho lưu như ông Văn Lộ Công (180) đức nghiệp đầy triều mà còn kết duyên với 10 vạn người đồng sanh Tịnh Độ.

Ông Tô Trưởng Công văn chương đức hạnh tuyệt vời mà cũng có làm thuyết Tây Phương Công Cứ.

Đạo lưu: ông Cát Tế Chi (181) bỏ học đạo tiên mà hồi tâm tu Tịnh nghiệp; ông Đàm Loan pháp sư đốt kinh Tiên mà chuyên tu kinh Thập Lục Quán (182). Cho đến ông Tử Chương học nghề thuốc của ông Kỳ Bá, Huỳnh Đế (183) mà cũng để tâm niệm Phật.

Ông Trương Thuyên làm nghề cày bừa mà cũng xưng danh hiệu Phật.

Chốn U Minh như xưa vua Minh Quân còn kỉnh lễ (184), quỉ La Sát nguôi lòng (185).

Bực Thánh như đức Văn Thù cầu “Sanh”, đức Phổ Hiền nguyện “Vãng” (186); huống chi cõi dương thế với người phàm tục, không đợi luận nói vậy.

“Chảy về biển Đông” nghĩa là: Nhóm về đến chỗ cùng tột. “Chầu sao Bắc Đẩu” nghĩa là: Noi theo về gốc chủ. Dụ như cõi Tịnh Độ là chỗ về chơn thật. Thế tất nhiên phải hướng mặt về đó chớ không phải như miễn cưỡng hay là bắt buộc phải làm vậy đâu?

“Đường tắt gọi là pháp Phổ Môn”: Đã giải ở đoạn văn trước; đây nhắc lại để kết luận, rõ ràng không phải luống, dư vậy.

“Quyết chí” là kinh Đại Bổn nói: ‘Dầu có đống lửa to đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, người tu cũng cần phải vượt qua khỏi lửa ấy”. Muốn sanh về cõi nước kia, thì phải lập chí quyết định, tiến mãi không hề khiếp nhược và thối lui đối với thế giới lửa kia!

“Không cần nghĩ nghị” là kinh Dịch nói: “Nghĩ xét rồi sau mới nói; bàn luận rồi sau mới làm”. Nay bảo chẳng cần nghĩ bàn là người xưa có nói: “Bói để giải quyết tâm nghi, không nghi bói làm gì?” (187). Niệm Phật vãng sanh, miễn tin chắc không nghi là được, đâu còn nghĩ bàn làm chi nữa?