Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Giảng Lục

IX/ Quán Thế Âm Thị Hiện 32 Hoá Thân Để Cứu Khổ Chúng Sanh

Chánh văn:

Ngài Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? Sức Phương tiện việc đó như thế nào?

Giải:

Phẩm này có hai phen vấn đáp. Từ trước đến đây là phen vấn đáp thứ nhất. Là giải thích nguyên do lập tên Quán Thế Âm. Đoạn này là vấn đáp thứ hai. Là hỏi vì lý do gì mà có Phổ môn thị hiện. Ngài Vô Tận Ý lại một lần nữa xin bẩm bạch Phật Thích Ca rằng: Quán Thế Âm Bồ tát ở Tây phương Cực lạc thế giới sau Phật A Di Đà sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật. Vậy là Ngài hiện nay một vị Bồ tát ở Tây phương, mà tại sao đến dạo đi khắp trong cõi Ta bà thế giới này? Chúng ta nương ở trên thế giới này gọi là Ta bà thế giới. TA BÀ là tiếng Ấn Độ, Tàu dịch là Kham nhẫn. Là nói chúng sanh kham năng nhẫn nhịn tất cả ngũ trược ác thế, ba khổ, tám khổ, tất cả khổ não. Lại thêm sống say chết mộng, đem khổ làm vui, chẳng tự giác ngộ, chẳng muốn rồi xong sanh tử. Cho nên gọi là Ta bà thế giới.

Phật pháp cốt muốn người thấu rõ các khổ sanh, lão, bệnh, tử mà xé phá cái bọc mê mờ của các người. Quán Thế Âm Bồ tát đến dạo đi Ta bà thế giới rốt ráo nói những pháp gì ư? Dùng Pháp phương tiện và việc giáo hóa chúng sanh lại như thế nào? Quán Thế Âm Bồ tát đến Ta bà thế giới là chẳng đến mà đến. Vì Quán Thế Âm ở Cực lạc thế giới thật chưa từng động, như ánh sáng mặt trăng trên trời. Quán Thế Âm ở Ta bà thế giới như trăng nước ngàn sông. Có Thần thông biến hóa trăm ngàn vạn ức hóa thân, mà bất động bổn tế, vẫn đến dạo đi cõi Ta bà, gọi là thân luân giáo hóa bất khả tư nghì. Quán Thế Âm Bồ tát, vì chúng sanh, vô thuyết mà thuyết: Đại, Tiểu, Quyền, Thật, Thiên, Viên các phương pháp Pháp môn, gọi là khẩu luân giáo hóa bất khả tư nghì. Tùy căn cơ ứng biến, gặp cơ duyên hóa hiện. Bởi tài năng thi thiết giáo pháp, như đối với các chứng bệnh mà đầu thang thuốc: nên dùng phương pháp nào mới được tiện nghi, tức dùng ngay phương pháp ấy mà hiện thân thuyết pháp. Gọi là ý luân giáo hóa bất khả tư nghì.

Quán Thế Âm Bồ tát như vị Đại Y Vương. Chúng sanh đều có thói quen, như mao bệnh tức bệnh nơi lông da, quyết phải nhân nơi tiện nghi mà lập ra phương pháp mới có thể trị trừ được chứng bệnh quen thói kia. Tóm lại mà nói, gọi là ba Luân giáo hóa bất khả tư nghì. Luân là nghĩa cái bánh xe, có công năng lăn chạy làm lợi ích cho người và vật. Ở tại chúng sanh gọi là ba nghiệp mà ở Quán Thế Âm Bồ tát thời thành ba Luân cũng gọi là ba Mật. Hoặc hiện Phật, hoặc hiện Bồ tát, hiện Tỳ kheo, hiện nữ thân v.v… do tam luân thân, khẩu, ý đến giáo hóa chúng sanh có thiên sai vạn biệt. Như một tấm gương lớn trong sáng dựng đứng trước, bản thể nó thanh tịnh, vốn không có một vật gì cả, nhưng tùy sở ngộ mà hiện ra vậy thôi.

Thuở xưa, ở Quí Châu, thuộc Tu Văn, nơi động Bạch Sơn, có một mỏ Thủy ngân chảy ra. Người làng đến nhóm họp trong động để tranh nhau lấy nước Thủy ngân. Về sau họ bèn lập nhà cửa ở luôn tại đấy, chừng hơn hai trăm gia đình. Cách động hơn vài dặm, lại có khe nước, nước cạn mà trong mát, rất tốt. Một hôm có một cô gái nhan mạo rất xinh đẹp, truồng trần lội tắm trong khe. Người làng, sẵn tánh háo kỳ, khi hay biết thế, tất cả bà con, nam nữ, lão ấu, đại tiểu cả số đông hơn hai trăm gia đình đều ào ra, tranh nhau lấn xem cho tận mặt cô tắm lạ kỳ mới chịu. Một gộp đá vĩ đại ở trên đỉnh động, bỗng thình lình sập nhào xuống. Dân cư nhờ xem tắm mà tự nhiên đều thoát nạn đá đè. Liền sau khi gộp đá sập xong, dân chúng chẳng còn thấy cô gái truồng trần tắm nữa! Mới đoán biết là Đức Quán Âm biến hiện mỹ nữ đến làm kế cứu nạn cho họ. Dân chúng ở đấy thật nhờ thiện căn cảm động được như vậy. Sau ba năm có một người đến chỗ gộp đá sập ấy tìm cây cỏ thuốc. Từ trong kẽ đá có tiếng vọng ra “Cứu tôi với” kẻ tìm thuốc khi nhận ra tiếng người, mới dám hỏi y, và được biết trước đấy ba năm, khi đá sập, y bị kẹt tại đây. Khi người làng được tin ấy, mới xúm nhau chạy đến cứu ra. Họ mới biết trước đấy ba năm, khi dân chúng chạy đi tranh xem mỹ nữ trần truồng tắm, riêng một mình y ở lại nhà tại xóm động, nên mới bị nạn này. Bởi nhờ những tảng đá to hòn sập gát chồng chập lên nhau, nên mới có kẽ trống, y ở trong kẽ trống chẳng bị đè chết, nhưng cũng chẳng làm cách nào ra được. Đến lúc bụng đói, y chẳng biết làm sao? Nhân nhờ nhớ lại liền niệm Đức Quán Thế Âm Bồ tát, chợt thấy một con chuột trắng, đôi mắt nó sáng như điện, soi sáng trên một tảng đá lớn có chữ đủ toàn phẩm Phổ môn. Con chuột bèn lấy lưỡi liếm ăn những chữ trên tảng đá ấy, y cũng bắt chước ngày ngày cũng liếm ăn chữ như chuột, thời chẳng cảm thấy nghe đói khát gì hết. Hãy còn thừa hai ba hàng chữ chưa liếm ăn tới. Sau khi bà con nghe y thuật lại như thế, họ liền đến chỗ y bị kẹt cạy đá ra, xem thấy quả thật chỉ còn thừa hai ba hàng chữ. Phẩm Phổ môn tức đang giảng hôm nay đây. Đấy là Từ bi phương tiện hiện các thứ thân mà thuyết các Pháp môn đều là bất khả tư nghì vậy.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Phật Để Nói Pháp

Chánh văn:

Phật bảo Vô Tận Ý Bồ tát: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói Pháp.

Giải:

Từ đây trở xuống chính giảng 32 ứng hóa thân của Quán Thế Âm Bồ tát. Thân thể chúng ta có tri có giác là hữu tình, gọi là Chánh báo. Sơn hà đại địa, thế giới quốc độ, áo mặc đồ dùng là vô tình gọi là Y báo. Chánh báo nương quốc độ và các thứ Y báo mà được tồn tại. Y báo cũng nương Chánh báo mà có. Chánh báo có phước thời Y báo được phong phú đầy đủ. Ngược lại, Chánh chẳng có phước, đương nhiên Y cũng xấu xa hèn kém. Chánh báo của chúng sanh có phân biệt ra mười cõi. Y báo quốc độ bởi đấy nên cũng có chia riêng nhiều vô lượng. Tựu trung có thể chia làm bốn thứ:

Một là cõi Phàm Thánh đồng cư, tức là chỗ nương ở của sáu phàm hữu lậu ngũ ấm chúng sanh. Như chúng ta ở cõi Ta bà thế giới, tuy là chỗ ở sáu đạo hữu lậu chúng sanh, nhưng như núi Phổ Đà là chốn đạo tràng của Đức Quán Thế Âm, núi Nga My là đạo tràng Đức Phổ Hiền Bồ tát, núi Ngũ Đài là đạo tràng Đức Văn Thù, núi Cữu Hoa lại là Thánh Địa của Đức Địa Tạng Bồ tát. Tuy là địa phương của phàm phu nương ở, nhưng đồng thời cũng là chỗ ứng hóa của bốn vị Đại Bồ tát. Lại như hai núi Thiên Thai, Nhạn Đảng đều là những chỗ ứng hóa của các vị La Hán. Đem mắt kẻ phàm phu mà xem đến, đấy bất quá là núi cao, chùa chiền thông thường mà thôi chẳng có gì quí lắm, nhưng với trí nhãn của Thánh nhân thời những thắng cảnh đặc biệt của các vị Bồ tát La Hán. Cho nên thế giới Y báo này, Phàm Thánh đồng cư, rồng rắn lẫn lộn. Chính như cõi Sắc giới thiên cũng có cung trời Ngũ bất hoàn tức chỗ nương ở của Thánh nhân quả thứ ba là A Na Hàm. Cho nên gọi là cõi Phàm Thánh đồng cư vậy.

Hai là cõi Phương tiện hữu dư, là chỗ ở của Nhị thừa Thánh nhân, La Hán, Duyên giác gọi là Nhị thừa chúng sanh. Lại xưng là vô lậu ngũ ấm chúng sanh. La Hán lấy Khổ – Tập – Diệt – Đạo bốn Đế làm cổ xe cởi đi. Duyên giác lấy Vô minh duyên Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, cho đến Sanh duyên Lão tử tất cả 12 nhân duyên làm xe chở đi. Nhị thừa đã dứt được kiến tư phiền não, và đã ra khỏi tam giới là cõi đồng cư phân đoạn sanh tử. Cho nên thế giới Nhị thừa trang nghiêm thanh tịnh. Nhưng lại phương tiện đạo tức con đường phương tiện. Kinh gọi là thành đô biến hóa vậy. Nhân vì chỉ liễu được một nửa phiền não sanh tử mà thôi, chứ chưa rốt ráo, lại còn dư thừa, nên gọi là cõi Phương thiện hữu dư.

Ba là cõi Thật báo trang nghiêm, là chỗ nương ở của các vị Bồ tát đang phá vô minh. Dùng nhân chân thật cảm quả chân thật: Đem nhân chân thật cảm báo chân thật. Sắc pháp, tâm pháp, y báo, chánh báo, đều trang nghiêm diệu hảo phi thường. Bởi vì Bồ tát là Đại Đạo tâm chúng sanh, phát tâm quảng đại độ thoát chúng sanh, chứa công nhóm đức và trồng hột giống Đại phước nghiệp. Cho nên được tự tại vô ngại: Nhỏ năng hóa lớn, ít năng hóa nhiều, chánh báo có thể làm y báo, ngược lại cũng vẫn được. Cho nên khi trong Kinh nói: Đầu một mảy lông năng hiện bảo vương sát hải, trong một hạt trần khả chuyển Đại Pháp Luân. Sợi lông nuốt chứa hết nước biển cả. Hạt cải đựng cả quả núi Tu Di Sắc, Tâm viên dung; Y, Chánh vô ngại. Đấy đều là nhờ trong nhân Bồ tát tụ đủ Lục độ vạn hạnh các món công đức mà được trang nghiêm. Cho nên gọi là cõi Thật báo trang nghiêm. Trước đấy là chín pháp giới của lục phàm tam thừa vậy.

Bốn là cõi Thường Tịnh Quang, là chỗ Phật nương ở. Phật là Vô thượng chúng sanh. Bởi vì Phật đã rốt ráo hết sạch sanh tử, không ai trên hơn được, nên gọi Vô thượng Tịch là Đại tịch diệt hải bất sanh bất diệt yên lặng thường hằng, tức là Giải thoát đức. Quang là Đại quang minh tạng thiêng liêng sáng suốt soi thông, tức là Bát nhã đức. Thường tức là Tịnh với Quang chẳng hai, suốt xưa suốt nay, tức là Pháp thân đức. Mà gọi tên cõi Thường Tịnh Quang, tức là Mật tạng của ba Đức ấy vậy. Đến ấy mới thật là cõi rốt ráo. Ba cõi Đồng cư, Phương tiện, Thật báo là sự. Duy cõi Thường Tịch Quang là lý.

Như quý vị đến giảng đường này nghe giảng Kinh. Nếu phân biệt người trai kẻ gái, cái bàn cái ghế; và với trong Pháp được nghe, khởi tâm tư lường phân biệt, đấy tức là cõi Thánh Phàm đồng cư. Nếu nhất tâm nghe Kinh, liễu đạt thấy không có một vật gì cả. Duy là Không Cảnh hiện tiền. Chẳng phân biệt nam nữ sắc tướng trong chính chúng này, tức là cảnh giới của cõi phương tiện hữu dư. Nếu trong đám ruộng tâm điền thanh tịnh trang nghiêm, phát quảng đại Từ bi tâm, hy vọng mọi người đều được lợi ích thù thắng. Xem thấy giảng đường trang nghiêm diệu hảo, tức là chỗ tuyển Phật đạo tràng, đủ sanh lòng kính mong. Đấy tức là cảnh giới trang nghiêm của cõi Thật báo. Nếu đem tâm bình đẳng bất nhị, đến nghe hiểu Kinh Pháp: năng, sở chẳng hai; y, chánh chẳng hai; tự tha chẳng hai; sắc, tâm chẳng hai. Nhất tâm thanh tịnh, khoáng thoát không dính vào đâu. Đấy là cảnh giới của cõi Thường Tịch Quang vậy. Đồng là một cái giảng đường, với kẻ trí thấy trọn vẹn là trí, mà kẻ nhân thấy hoàn toàn là nhân. Như khi Đức Phật thị tịch tại song lâm, mọi người đều thấy có bốn cái khác nhau chẳng đồng, tức là những lẽ đấy vậy.

Quán Thế Âm Bồ tát, quán thấy những chúng sanh quốc độ nào, có những cơ cảm gì, nên dụng những loại thân nào cho tương đương xứng tức thì liền hiện thân ấy mà vì nói Pháp. Như có một loại chúng sanh, căn cơ thành Phật đã thành thục, một khi được thấy tướng Phật, liền được thành tựu độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ tát liền tùy cơ duyên ấy hiện thân Phật để thuyết Pháp môn thành Phật ngay, khiến nó đoạn hoặc chứng chân là được giải thoát. Thân Phật có 32 tướng. Trên đỉnh đầu có tướng vô kiến đỉnh. Chặng giữa hai hàng lông mày, có tướng bạch hào, như Hào tưởng của Phật Thích Ca, dài hơn một trượng, chừng bằng ống kính nhỏ, trong ngoài suốt thấy, năng tung ra, năng cuốn lại. Trước ngực có tướng chữ.Dưới chân có tường Thiên bức luân. Lại có 80 vẻ đẹp tùy hình. Hiện thân là Thân luân. Thuyết pháp là Khẩu luân. Nên dùng thân nào hay pháp gì tức là Ý luân. Quán Thế Âm Bồ tát, trước đã thành Phật, sớm thành tam mật tướng hải rồi. Mà thị hiện Phật tướng tức là thị hiện bổn lai diện mục vậy. Cho nên Quán Thế Âm Bồ tát thị hiện ra tam luân, thật chẳng có thể đem tâm khẩu nghĩ bàn được.

Nhưng phải biết Pháp thân Quán Âm vốn là vô tướng. Kinh nói: Pháp thân khắp tất cả chỗ. Cũng không vì hình tướng mà khác được. Nhưng vì độ chúng sanh nên thị hiện Phật tướng. Kinh nói: Vô tướng mà phải có tướng. Kỳ thật phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Kinh Kim Cang nói:

Nếu do sắc thấy Ta,

Nơi tiếng tăm tìm Ta,

Người ấy hành tà đạo,

Chẳng thể thấy Như Lai.

Là đây vậy. Nhưng không sanh, không chẳng sanh, không tướng không chẳng tướng. Do đó nên tùy cơ hiện Phật tướng cũng là việc phải làm vậy. Cho nên phải nói thêm lại như vầy: Nếu chẳng do sắc thấy Ta, chẳng nơi tiếng tăm tìm Ta, người ấy hành tà đạo, chẳng bao giờ thấy Ta. Vì khám phá ra lối chấp không lưu tệ không ít, cho nên phải chuyển ngữ mới cứu vãng được vậy.

Thị hiện Phật tướng có bốn giáo nghĩa chẳng đồng:

1) Tạng giáo Phật:

Là Liệt ứng thân Phật. Cỏ tươi làm tòa ngồi dưới bóng cội Bồ đề. Thân chỉ có một trượng sáu thước. Tướng lão Tỳ kheo già, hoặc thấy cao tám thước. Nhãn quang của những kẻ phàm phu ngắn, tâm lượng nhỏ hẹp. Cho nên chỉ thấy một trượng sáu hay tám thước mà thôi.

2) Thông giáo Phật:

Là gồm Liệt thắng ứng thân Phật. Hoặc khi hiện một trượng sáu thước, hoặc hiện lớn như núi Tu Di. Năng đại năng tiểu. Nhân vì những người tu bên Thông giáo, căn tánh dung thông, tâm lượng khá lớn. Nhưng cũng có những người liệt căn nên vẫn thấy thân nhỏ.

3) Biệt giáo Phật:

Là viên mãn báo thân. Thân Lô Xá Na Phật cao một ngàn trượng. Những người có căn tánh Bồ tát, năng phát tâm quảng đại mới thấy được Viên mãn báo thân Phật này. Như khi Đức Phật Thích Ca đối với Bồ tát thuyết Kinh Hoa Nghiêm mới hiện ra thân này vậy.

4) Viên giáo Phật:

Tức là thanh tịnh Pháp thân Tỳ Lò Giá Na Phật. Là Đại đạo tâm chúng sanh có lợi căn thành Phật mới thấy được. Pháp thân lấy hư không làm Tòa, thanh tịnh bản nhiên, đầy khắp pháp giới.

Tạng giáo Phật, Thông giáo Phật, lấy Chân không làm thể, gọi là Ứng hóa Phật. Biệt giáo Phật, lấy Diệu hữu làm thể, gọi là Báo thân Phật. Viên giáo Phật, lấy Trung đạo làm thể, gọi là Pháp thân Phật. Phật vốn không có phân biệt bốn tướng của bốn giáo, nhưng vì căn cơ chúng sanh có lanh, chậm, lớn, nhỏ. Cho nên chỗ thấy biết chẳng đồng đấy thôi. Ba thân của Phật, lấy trăng làm dụ dễ hiểu: Bản thể trăng là Pháp thân Phật. A?áng trăng là Báo thân Phật. Trăng dưới nước là Ứng hóa Phật. Ánh trăng trong lòng nước, có lớn có nhỏ, dụ cho thân Phật có Liệt ứng thân và Thắng ứng thân. Đấy là thị hiện thân Phật thứ nhất.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Duyên giác Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Duyên giác đặng độ thoát, liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói pháp.

Giải:

Đây là thị hiện thân Duyên giác thứ hai. Dưới Phật vốn có Bồ tát mà vì Quán Thế Âm là đã hiện thân tướng Bồ tát rồi nên không có hiện thân Bồ tát nữa. Duyên giác ra đời có Phật gặp Phật nên được lãnh thọ giáo pháp nhân duyên do Phật dạy. Lại gọi là Độc giác vì ra đời không có Phật không gặp Phật, độc tự giác ngộ. Như nay Thích Ca đã diệt, Di Lặc chưa ra đời. Sanh tại Phật tiền hoặc Phật hậu. Lại chẳng từng học nghe Kinh Pháp, riêng mình ở trong núi sâu rừng rậm, am tranh vách lá mà tỉnh tu Đạo nghiệp: Xuân xem trăm hoa nở, Thu thấy lá vàng rơi. Nhân đấy ngộ biết thế gian vạn pháp từ duyên sanh, do duyên diệt. Rồi cũng nhân đấy mà biết tự tánh không sanh cũng không diệt. Không Thầy, tự thông mà khai ngộ, gọi là Độc giác. Như khi Phật còn tại thế. Đương thời Phật nói giáo pháp 12 nhân duyên. Do nhân duyên sanh diệt, mà ngộ được lý bất sanh diệt chơn không, nên gọi là Duyên giác.

Chúng ta sanh tử do nơi VÔ MINH quá khứ. Vô minh tức ái phiền. Do ái gây nghiệp hành, cho nên vô minh duyên HÀNH. Hai chi phần này là nhân quá khứ. Do nghiệp hành nên có nghiệp thức đi đầu thai là hành duyên THỨC. Do đây nên mới có danh sắc trong mẫu thai. Lục nhập danh sắc, tức là sắc tâm trong bào thai. Lục nhập tức lục căn. Đây là thức duyên DANH SẮC. Danh sắc duyên LỤC NHẬP. Sáu căn đầy đủ, mười tháng mãn thai mới có xúc. Nhân lúc ra thai mới có cảm xúc lạnh nóng. Cho đến sáu căn cảm xúc sáu trần. Lại nhân sáu món giác xúc, sanh sáu lãnh thọ. Đây là lục nhập duyên XÚC. Xúc duyên THỌ. Từ Thức đến Thọ năm chi này là quả hiện tại. Do Thọ mà sanh ái dục, khởi ra chấp lấy, đây tức là Thọ duyên ÁI. ÁI duyên THỦ. Ái tức vô minh quá khứ. Do Ái với Thủ mà gây ra nghiệp, chắc chắn có nghiệp báo, tức Thủ duyên HỮU. Ba chi phần Ái, Thủ, Hữu này là nhân hiện tại, cảm sanh ra đời sau hai chi là LÃO và TỬ tức là quả. Kinh nói: Hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Vậy là biết chúng sanh bị sanh tử luân hồi là do nơi quá khứ vô minh phiền não mà có.

Vô minh tức ái tâm hiện tại. Ái là cội gốc của sanh tử, nên muốn xong sanh tử quyết phải dứt ái. Cho nên mới nói: ái bất trọng bất sanh Ta bà. Nếu quả thật dứt được ái tâm thời vô minh cũng diệt. Vô minh diệt là hành diệt theo. Hành diệt là thức cũng diệt luôn. Cho nên Sanh Lão Tử tất nhiên chẳng do đâu còn tồn tại được nữa. Như thế suy xét cùng cực, thuận sanh 12 nhân duyên, mà cùng tột đến ngược vòng lại cũng phải tiêu diệt 12 cái báo đời đó mới xong, đó là muốn xong sanh tử. Vậy biết duyên sanh duyên diệt, tức giác ngộ được lý chơn không bất sanh bất diệt, gọi là Duyên giác. Quả Duyên giác này cao hơn quả La Hán, vì La Hán chỉ dứt được chánh sử kiến tư phiền não. Mà Duyên giác kiêm dứt tập khí kiến tư. Mê lý khởi phân biệt là Kiến; đối với cảnh sanh ái tắng là Tư, tức là sai lầm do thấy và nghĩ. La Hán chỉ dứt được cái chánh sử. Chính như cái bình đựng rượu; rượu tuy đã rót hết, mà hơi rượu vẫn còn. La Hán cho nên còn hơi hám. Duyên giác chẳng những đã đổ hết rượu, lại đem chiếc bình ngâm để tẩy trừ hơi rượu. Nhưng cũng chẳng sạch hết được. Bất quá tạm cao hơn trên La Hán mà thôi.

Quán Thế Âm Bồ tát, quán sát loại chúng sanh này, nên dùng thân Duyên giác mà độ được, bèn thị hiện thân ấy đối với họ thuyết Pháp môn sanh diệt nhân duyên và bất sanh diệt, khiến cho liễu thoát được sanh tử, ra khỏi luân hồi.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Thanh văn Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Thanh văn đặng độ thoát, liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp.

Giải:

Đây là thị hiện thân Thanh văn thứ ba. Thanh văn tức là La Hán. Do nghe âm thanh, Tứ đế mà được ngộ Đạo, gọi là Thanh văn. Tứ đế là gì? Tức là biết khổ, dứt Tập, mộ Diệt. Khổ là quả Khổ của ba cõi sáu đường sanh tử. Hai thứ này là nhân quả khổ của thế gian. Khổ do tập nhân mà có khổ quả. Nhất định dứt Tập nhân mới mong ra khổ quả. Lại cần phải biết khổ mới dứt tập được. Cho nên “biết khổ” là cửa trước để tiến vào Đạo.

Thuở xưa có một vị lão Tăng, thích tu hạnh Đầu đà, nên ra đi phương xa để cầu Sư tham học. Nhân lúc vừa đói bụng, mới đi khất thực vào trong một xóm có đông nhiều người nữ Cư sĩ. Họ cũng là những người tu hành, mà đầu còn búi tóc. Các bà ấy, khi thấy vị lão Tăng đến họ mới nghĩ rằng vị Đại đức này, chẳng mấy khi Ngài đến xóm làng ta, mà hôm nay Ngài quang lâm đến thật là hân hạnh cho chị em mình biết bao, vì là nhất Tăng chí, như nhất Phật lai. Liền đấy các bà hớn hở cùng nhau sốt sắng sắm sửa làm cơm chay thượng đẳng đặc biệt; đồng thời họ cũng trần thiết một Pháp tọa và hương án đầy đủ hương hoa trầm trà quả trái rất là nghiêm trang. Khi đâu đấy xong, các bà tề chỉnh y phục, cung kính đảnh lễ và thỉnh lão Tăng thăng lên Pháp tòa để nhờ Ngài thuyết pháp khai thị cho chị em con chút Pháp nhũ giúp cho trong đường lối tu hành! Nào ngờ đâu lão Tăng này, từ bé đến giờ chưa từng thính Pháp văn Kinh gì hết, mà giờ đây biết lấy gì khai thị cho ai. Ngài đăng đàn rồi, cứ ngồi yên, toát mồ hôi, xamh mặt tím tai, tâm thần vô cùng lí bí, bực quá mới thốt ra lời tự thán: “Khổ thay!”. Rồi Ngài vẫn ngồi yên như một pho tượng mới vừa khai quang điểm nhãn.

Nãy giờ các bà quỳ trước Pháp tọa để đón nghe lời khai thị, ngoài tiếng KHỔ chẳng nghe Ngài ban lời gì nữa cả. Nhưng thán khí của một tiếng khổ bay ra trong cảnh bất giác bất tri có thần diệu phi thường khẩn thiết, nên đã lọt vào tai các bà nghe trọn vẹn. Do đấy các bà khởi nghĩ riêng thân phận của mọi người: Trước khi tu hành, lúc còn nhỏ dại chịu sự bó buộc của cha mẹ; khi lớn khôn đi lấy chồng, rồi sanh con nuôi cái, lo cho gia đình sanh sống, thiếu trước hụt sau, nhân tình thế thái lúc vầy lúc khác. Đến nay tuổi đã chừng này đầu bạc răng lay… Đã từng nếm đủ mùi ngọt chua cay đắng, đã trải qua biết bao cảnh vui buồn vinh nhục… Ngày quá khứ, các bà nghĩ đến đâu là cảnh khổ nó dàn ra đầy đủ rõ ràng nơi tâm trí. Chao ôi! Khổ ơi là khổ, khổ biết bao! Nghĩ sao cho xiết. Về ngày tương lai, các bà nghĩ thấy mù mịt mịt mù… thân thể gia đình, sống còn chết mất… ruộng dâu bãi bể nào ai dám bảo đảm cho ai được đâu! Nghĩ vậy, bất giác lòng bi ai nó hiện đến… Một bà khóc thút thít, rồi các bà tiếp theo ào khóc lên hung hu hu hu.

Lão tăng chẳng hiểu ất giáp mô tê nguyên do vì sao mà các bà khóc đến thế? Ngài Kinh hãi hoảng sợ, nhưng cũng chẳng làm sao mà thoát xuống Pháp tọa cho được. Các bà suy nghĩ cảnh khổ đến cực độ, cho nên vong cảnh vong tình, bất ngờ các bà chọn vào Khổ đế thiền định tam muội. Bấy giờ quang cảnh im lặng như nhà không người. Lão Tăng ta mới có dịp, sẽ lén xuống Tòa, lanh lẹ nhặt chiếc bình bát lên vai, chẳng có lời từ biệt, một mạch đi thẳng luôn, chẳng nghĩ gì đến cơm nước cả. Vài phút sau, các bà mới dần dần tỉnh dậy, thì lão Tăng đã xa lắm rồi. Các bà ân hận chưa kịp cúng dường và họ nói: Chẳng biết ngày nào Đại đức lão trở lại đây đặng bọn chúng mình cúng dường lên Ngài một bữa cho xứng đáng thỏa lòng, vì Ngài đã khai thị cho chị em ta một chữ KHỔ mà bọn mình thọ dụng chẳng biết bao giờ cho hết, thật là quý hóa thay!

Đấy là “Biết Khổ”. Còn biết bao chúng sanh hiện đang nhung nhúc lặn lội nổi chìm trong cơn biển khổ mênh mông không bờ bến, trọn đời mãn kiếp chịu khổ mà chẳng hề biết khổ. Trái lại đem khổ làm vui. Đấy tức là có Khổ mà không có Đế vậy. Chữ Đế là nghĩa chân thật chẳng hư dối. Nếu ai biết chân thật là khổ, mới quyết định cần tìm xét căn nguyên của khổ mà dứt cái tập nhân. Nếu chẳng thế, chẳng bao giờ dứt được phiền não tập nhân, là khổ quả trọn chẳng mất được.

Mà muốn dứt tập nhân phiền não, quyết phải thật hành Đạo đế là chân nhân xuất thế vậy. Đạo là gì? Là Giới Định Huệ vậy. Như nhất tâm niệm Phật, ba nghiệp thanh tịnh, chẳng Trì giới mà giới tự trì. Niệm đến nhất tâm bất loạn, yên yên lặng lặng vậy, tức là Định. Niệm được huệ chiếu hiện tiền, rõ ràng rõ ràng vậy, tức là Huệ. Tu hành Giới – Định – Huệ này, tức Đạo đấy. Mục đích đối trị tham, sân, si là tập nhân phiền não. Khổ nhân đã tiêu, thời khổ quả tự diệt, tức chứng được Diệu đế là chân quả xuất thế. Cho nên mộ Diệt thời phải tu Đạo. Y theo bốn Đế như thế, tu trọn là đoạn hoặc chứng nhân, gọi là La Hán Thanh văn.

Quán Thế Âm Bồ tát quán sát trong các loại chúng sanh, nên dùng thân Thanh văn mà độ được, tức hiện thân Thanh văn đối với họ thuyết Pháp Thanh văn Tứ đế, khiến họ được giải thoát. Từ trước đến đây, đã hiện ba ứng hóa, là hiện thân xuất thế Thánh nhân. Pháp đã thuyết ra tuy đều có chẳng đồng, nhưng mục đích rốt ráo, không đâu chẳng phải vì muốn đạt đến Diệu Pháp thành Phật quả vậy.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Phạm Vương Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.

Giải:

Cung trời Sắc giới có vị Đại Phạm Thiên Vương, quản lãnh đại thiên thế giới, không còn ái dục, sắc thân thanh tịnh, nên gọi là Phạm Thiên. Mà xưng Phạm Vương là chẳng những đoạn dục lìa ái, tu Ngũ giới Thập thiện đầy đủ, được định lực sơ thiền, mà còn tu Từ bi Hỷ Xả bốn món vô lượng tâm nữa. Như muốn sáng lập làm tất cả sự nghiệp từ thiện xã hội cho dân chúng để mưu cầu hạnh phúc cho điều vui cho chúng sanh, đấy là Từ. Vớt khổ cho chúng sanh là Bi. Mà phát tâm vui mừng là Hỷ. Đối với ba tâm Từ bi Hỷ này Phạm Vương làm xong xả mà đi, nhất tâm vào Định. Như thế là tu bốn vô lượng tâm, đủ đại phước huệ, mới được làm Đại Phạm Thiên Vương. Nếu chỉ dứt dục, tu sơ thiền là Phạm Thiên Tử. Mà gồm tu Từ bi Hỷ Xả, tự lợi lợi tha là mới đến địa vị Phạm Vương. Quán Thế Âm Bồ tát cũng vì nhân loại chúng sanh này nên dùng Phạm Vương mà độ được, tức hiện thân Phạm Vương, vì thuyết pháp lìa ái dứt dục, từ tâm nhập Định Pháp, khiến họ được giải thoát.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Đế Thích Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, liền hiện thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.

Giải:

Đế Thích, lại xưng Thích Đế Hoàn Nhân. Thế tục gọi là Ngọc Hoàng. Gia Tô giáo gọi là Thượng Đế, tức là Đạo Lợi Thiên Vương. Đế Thích tàu dịch là Năng tác chủ, tức là vị Thiên chủ của 33 cung trời, như ta thường gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Thuở xa xưa ở chốn nhân gian này có một cô gái bần nữ, vào thời Tượng pháp của Đức Phật Ca Diếp, trước Phật Thích Ca. Cô bần nữ này xem thấy pho tượng Phật Ca Diếp thếp vàng lâu năm nên vàng bị tróc rơi rụng, cô nghĩ tưởng nên làm công đức này cho pho tượng được trang nghiêm. Tội nghiệp cô sanh sống bằng nghề ăn mày, nên cô đi hành khất hằng ngày dành dụm được một ít tiền, đem mua vàng để thếp tượng Phật. Và cô lại thuê 32 người thợ đến làm việc sơn thếp. Sau khi công tác hoàn thành, những người thợ nhận thấy cô gái bần cùng mà làm một điều lành lớn lao, họ lấy làm kính phục và họ đều phát tâm cúng dường công tác, góp phần công đức với cô mà chẳng lấy tiền công. Nhờ nhân duyên này nên bọn thợ kia được làm 32 vị Thiên Tử ở 32 cung trời, mà người bần nữ làm vị Thiên Chủ của 32 cung. Các cung trời này đều ở trên đỉnh núi Tu Di. Bốn phương đều có cung trời, trung ương một cung tức là cung trời Đế Thích ngự, đấy là cô gái nhờ công đức thếp vàng tượng Phật là một nhà hảo tâm từ thiện nên mới được làm vị ấy. Người ta nói tất cả mọi người được lên trời hay xuống đất đều bởi do một đấng thiêng liêng chi phối? Kỳ thật những điều lành dữ của con người do người tự tác tự thọ: Thọ hay yểu, phúc hay họa, duy tự tâm vun trồng, đều do nghiệp thân đời trước cảm rước lấy quả ngày nay, chứ chẳng phải ai năng làm chủ cho ai được cả. Nếu tự mình chẳng thay cũ đổi mới lấy mình, mà chỉ một bề ỷ lại nơi đâu thời thật là một việc chẳng nên có.

Trời Thiên Đế lấy một ngàn năm làm một tuổi thọ. Nhân gian một ngàn năm ở cung trời ấy là một ngày đêm. Tuổi thọ của người trời ấy so với người Tiên lâu dài hơn. Người ta nói các nhà tu Tiên đạo trường sanh bất tử. Kỳ thật sánh với sống lâu của người thường có phần lâu hơn mà thôi. Nhưng Thiên Đế và Tiên Đạo đều chưa liễu sanh tử được. Tuy là cung điện các cung trời trang nghiêm, trải qua chừng vài ngàn vạn vạn năm sau vẫn bị đọa lạc như thường. Bởi vì hữu lậu phước báo. Một khi quả báo hết phải đọa lạc trở lại vào trong ác thú. Cho nên cầu sanh lên nhà trời trọn vẹn chẳng được lâu dài mấy. Kìa như các Hội: Tam Thời, Vô Vi, Tiên Nhiên, Đồng Thiện Xã tuy đều khuyên người cải ác hướng thiện, nhưng vẫn còn có chỗ sở chấp, vẫn là chẳng phải pháp môn liễu sanh tử. Cho nên các người tu hành quyết phải thật già dặn niệm Phật cầu sanh Tây phương, qua một đời là thành Phật, hẳn chẳng trở lui, vì là Pháp môn rốt ráo vậy. Quán Thế Âm Bồ tát nhân vì nguyên do chúng sanh có tin Đế Thích, nên chẳng ngại gì hiện thân Đế Thích cho hợp với sở thích của nó. Nhiên hậu mới dắt dần dần vào Phật đạo. Cũng là làm phương tiện nhiếp thu dẫn dụ khiến nó được giải thoát.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Tự Tại Thiên Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

Trước nói bốn cung trời Thiên Vương Thiên và Nhật cung, Nguyệt cung đồng ngang nhau ở trên nửa lưng núi Tu Di… Lại lên trên đỉnh núi Tu Di, là cung trời Đao Lợi, đều là các cung trời còn nương ở nơi mặt đất. Lại lên trên nữa là có các cung trời: Dạ ma, Đẩu suất, Hóa lạc, Tha hóa tự tại. Nói Tự tại thiên tức Tha Hóa Tự tại thiên vậy. Trời này hay bắt các cung trời bàng cận chung quanh đến hóa hiện làm nhạc sĩ đánh nhạc cho vui để tự mình hưởng thú vui thích, thu nhiếp họ làm của riêng của mình, tự do vô ngại, nên mới gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên. Cũng tức là cung trời Ma vương. Quán Thế Âm Bồ tát, vì muốn giáo hóa loại ma Thiên này, tức hiện thân Tự Tại Thiên mà vì nói pháp khiến nó được giải thoát.

  1. Thị Hiện Đại Tự Thiên, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Đại Tự tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đại Tướng Quân đặng độ thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.

Giải:

Trên chót đỉnh Tứ thiền thiên là cung trời Ma Hê Thủ La, tức là Đại Ma Vương Thiên. Trời này có tám tay, ba con mắt. Ma này lực lượng rất dữ tợn. Thiên Đại Tướng Quân: Như Ngài Vĩ Đà Thiên Tướng, nguyên là một vị Đại Bồ tát hóa hiện đến để làm Thần Hộ Pháp. Tỳ Sa Môn là Bắc phương Thiên Vương một trong tứ Thiên Vương Thiên. Đông phương gọi là Trì Quốc Thiên Vương, Nam phương gọi là Tăng Trưởng Thiên Vương, Tây phương gọi là Quản Mục Thiên Vương, Bắc phương gọi là Đa Văn Thiên Vương. Tỳ Sa Môn tức là Đa Văn Thiên Vương là Thủ lãnh của Tứ Thiên Vương. Nói một, gồm cả ba kia là đủ bốn vậy. Quán Thế Âm Bồ tát hoặc hiện Đại Tự Thiên Vương, hoặc hiện Thiên Đại Tướng Quân, hoặc hiện Tứ Thiên Vương. Hiện các thứ thân, không một thứ nào chẳng phải tùy loại thị hiện mà giáo hóa chúng sanh. Thường gọi là hiện thân đồng loại, dạy chỉ pháp tương đương với các căn cơ mà giáo hóa vậy. Xét cho rốt ráo đều quy về một mục đích duy nhất khiến cho chúng sanh được thành Phật. Từ trước đến đây đã giảng xong sáu thứ thị hiện ứng hóa thân của Thiên Đạo.

  1. Thị Hiện Thân Tiểu Vương, Trưởng Giả, Cư sĩ, Tể Quan… Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Tiểu vương đặng độ thoát, liền hiện thân Tiểu vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng Giả đặng độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư sĩ đặng độ thoát, liền hiện thân Cư sĩ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tể Quan đặng độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà la môn đặng độ thoát, liền hiện thân Bà la môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di mà vì đó nói pháp.

Giải:

Văn này giảng thị hiện thân Nhân Đạo. Người nhân gian: có Quốc vương, Trưởng giả, có Tể quan bách tánh. Tiểu vương là Quốc vương thế gian. Chuyển Luân Thánh Vương xưng là Đại vương. Bình thường ông vua một nước đều xưng tiểu vương như Tổng Thống ngày nay, dân chủ thì Chủ Tịch v.v… đều là giàu có bốn biển, ngồi mà nắm đại quyền một quốc gia, vì địa vị ấy rất cao sang vậy. Nếu thu nắm hết đại quyền mà biết đem Phật pháp giáo hóa cho trăm họ, trên làm dưới bắt chước, thời cả thiên hạ ai mà giám khinh lờn coi nhẹ, chắc chắn tuân hành tin chịu theo mệnh lệnh răm rắp vậy. Như cổ thời nhà Đường có Đường Thế Tôn, nhà Nguyên có Nguyên Thế Tổ, nhà Lương có Lương Võ Đế đều là những vị ấy! Hiện Tiểu vương là thân luận. Dạy tam cương, Ngũ thường, Thập hiện là khẩu luân. Soi cơ nên dùng phương tiện nào cho thích hợp mà thuyết pháp là ý luân. Ở trên đời có những người chẳng chịu tin Phật pháp, nên đem địa vị cao cả của Đế Vương, Tổng Thống, Chủ Tịch mà giáo hóa họ mới khứng chịu tin theo. Nên Quán Thế Âm Bồ tát chẳng ngần ngại gì, tức hiện thân Tiểu vương đến thuyết pháp giáo hóa khiến nó được giải thoát.

Đại phàm những người: Đạo cao đức trọng, thấy nhiều hiểu rộng, niên xỉ đức độ đều cao cả, mới được cả làng nước láng giềng, bè bạn họ hàng đều suy tôn sùng kính, đều gọi là Trưởng giả. Ông Trưởng giả ấy đều được mọi người tôn kính suy sùng, thời khi nói ra một lời là được nhiều người phục tùng chắc chắn. Nếu có chúng sanh nên dùng thân ấy mà được độ, Quán Thế Âm Bồ tát tức khắc thị hiện thân Trưởng giả để khuyến dắt chúng, cảm hóa chúng và độ thoát chúng ngay.

Cư sĩ là người tại gia học Phật. Phật giáo Cư sĩ Lâm tức là nơi chỗ Cư sĩ học Phật nhóm hợp lại vậy. Như nhiều cây cối nhóm lại thành rừng, nên gọi là Cư sĩ Lâm.

Đại phàm những ai: Chẳng tham danh lợi, chẳng mộ phú quý, tự đạm bạc giữ đời, liêm khiết an ẩn tự cư xử, sáng suốt hiểu biết lẽ đời để bảo thân, nhân cách cao thượng. Hoặc thọ Tam quy, hoặc trì Ngũ giới, thanh tịnh tự tu, chẳng bị phiền não trói buộc, kham chịu đựng mọi điều khó nhọc. Lấy ngay nơi tự thân nêu ra lẽ phải cho thiên hạ biết, đều được gọi là Cư sĩ. Hoặc có chúng sanh, nếu nói việc gì khác mà chẳng phải đạo nghĩa thời chẳng đủ cảm động tâm lý chúng; như quả đối chúng giảng đạo đức dạy nghĩa lý, tất được chúng nghe theo. Quán Thế Âm Bồ tát cũng chẳng phòng ngại thị hiện thân Cư sĩ để hoằng pháp lợi sanh, khiến chúng được giải thoát.

Tể, tức là Quan lại. Là bá quan đại thần, như Quận trưởng, Huyện trưởng, Ủy viên, Chủ tịch, Chuyên viên. Quan tòa, Thanh triều, Tướng quốc, gọi là tể tướng. Bá quan đại thần thống xưng là Quan, đều là những kẻ sẵn có quyền thế trong tay, chức chưởng quản lý tất cả dân chúng. Những hạng người này, nếu được họ hoằng dương Phật pháp, thời chắc có lợi ích lớn lao lắm. Nam Thông Từ Chuyên Viên, ngày trước có ở Bản lâm này diễn giảng, ông đối với Phật pháp có nghiên cứu khá rộng rãi. Lại như Kim Huyện Trưởng cũng là người có thâm tín Phật pháp. Kìa như các bạn: Đái Quý Đào, Vu Hữu Nhậm, Cư Chánh, Trương Tỉnh Giang, Châu Tử Kiều, đều là được liệt vào hạng Tể quan cả. Vì họ đều có thâm tín Phật pháp, có lắm nhiều dân chúng nhờ đấy nên thượng hành, hạ bắt chước làm theo. Cứ như thế là khuyến hóa là được hiệu lực rất lớn lao. Và lối phương tiện thị hiện này lại có dùng Tể quan để giáo hóa Tể quan nữa là khác. Lệ như các Trưởng quan bên ngành Quân chánh, vì những người quân nhân chỉ nghe theo mệnh lệnh cấp chỉ huy chứ chẳng phải những người phổ thông tầm thường mà có thể giáo hóa họ được. Cho nên Quán Thế Âm Bồ tát tùy thuận cơ duyên chúng sanh thị hiện thân Tể quan, thuyết pháp để khuyến đạo khiến họ được giải thoát.

Bà la môn là quý tộc ở Ấn Độ. Nước Tàu có bách gia tánh. Ở Ấn Độ có tứ chủng tánh:

1) Sát Đế Lợi chúng tánh, là hệ phái vua chúa quý tộc.

2) Bà la môn chủng tánh, như Đạo giáo ở Trung Quốc. Chỉ tu hành thanh tịnh, chẳng muốn làm việc gì cả, chuyên ưa thanh nhã.

3) Tỳ Xá chúng tánh, tức là bọn buôn bán đổi chác.

4) Thủ Đà chủng tánh, là hạng nông phu cày trồng và bọn tôi tớ.

Ấn Độ dùng hai dòng Sát Đế Lợi và Bà la môn làm tôn quý. Nếu có những người đi ở nơi núi cao hang thẳm, tu Tiên luyện Đạo, như bản thân những vị Hòa thượng chẳng hạn, đến họ mà thuyết pháp, chắc là bị trở ngại, chổng chảng chẳng nghe nhau. Nếu thị hiện đồng loại bằng thân Bà la môn, thuyết pháp đồng loại tương đương để dẫn dụ họ ngõ hầu có thể giáo hóa thành công. Cho nên Quán Thế Âm Bồ tát, tức hiện thân Bà la môn mà thuyết pháp khiến họ được giải thoát.

Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di là bốn chúng đệ tử của Phật giáo, Tỳ kheo là tiếng Ấn. Trung Quốc có ba ý nghĩa, cho nên dịch âm mà chẳng dịch nghĩa vì cả ba dịch không gọn:

1) Khất sĩ: Đồ đệ của Phật giáo nên mang bình bát đi khất thực thì tốt hơn. Như các nước Tích Lan, Miến Điện, Xiêm La đều nhất luật y theo lời di giáo của Đức Phật. Nhưng ở Trung Quốc phong khí ấy chưa khai thác được. Cho nên chẳng thi hành chế độ này. Bên trong khất xin Phật pháp lấy nuôi huệ mạng; bên ngoài khất xin uống ăn lấy dưỡng thọ mạng. Cho nên trong phạm vi bốn mươi dặm, có giảng Kinh, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nhất định phải đi đến nghe giảng. Ví như không có lý do chính đáng mà chẳng đi nghe là chẳng cầu xin Phật pháp, tức là phạm giới, tức chẳng biết thế nào là dụng công tu hành, đâu đủ để thành tựu huệ mạng ư?

2) Phá ác: Tỳ kheo nên phá hủy 10 điều ác. Nếu chẳng phá nổi ác đó, bèn là kẻ tục đầu láng lẫy chớ chẳng phải Tăng nhân.

3) Bố ma: Tỳ kheo năng khiến Ma sanh lòng khiếp sợ. Nhân vì Thầy Tỳ kheo bước lên Đán Tỳ kheo để trải qua bốn phen thưa thỉnh, gạn hỏi rồi mới được lãnh thọ giới Tỳ kheo. Khi đó các vị Thần Hộ Pháp đều nhóm đến ủng hộ giới Đàn. Địa Hình Dạ Xoa báo cáo lên Không Hành Dạ Xoa. Cứ như thế truyền nhau lên đến trời Tứ Thiên Vương Thiên, trời Lục Dục, cho đến trời Ma Vương. Thời bấy giờ trời Ma Vương phát sanh lo sợ, bởi vì người đời làm ác đều là con Ma cháu Ma thuộc giòng họ của Ma chớ chẳng thể vượt khỏi ngoài phạm vi nó được vậy.

Nếu ai năng: đầu đội trời, chân đạp đất, lãnh thọ giới, giữ gìn giới, tu niệm Phật, giải quyết xong vấn đề sanh tử. Quay trở lại giáo hóa chúng sanh, xé quách phạm vi Ma Vương, đập đổ cung điện của Ma Vương làm cho chấn động cả hoàn vũ. Đó mới là kẻ trượng phu xứng đáng phần nào vậy. Bởi cung điện và Ma Vương đều ở trong tâm chúng sanh. Mà tâm bất chính là cùng với Ma Vương tương thân tương thức tức là tiếp cận với nó. Nếu tâm chính mà trau dồi sửa sang cho thành tựu kho tàng Đại quang minh, thời cung điện của Ma Vương bị lung lay và sụp đổ hoàn toàn. Cho nên đấy nên Ma Vương rất sanh lòng khiếp sợ.

Như hiện nay nhất tâm nghe giảng Kinh, tức là khất sĩ cầu Pháp. Trì giới tu hành, tức là phá ba nghiệp ác. Tức có thể làm cho Ma Vương run sợ. Đầy đủ ba điều kiện này mới được xưng là Tỳ kheo. Đâu những người xuất gia tu như thế, tức như các ông bà Cư sĩ, nhất tâm nghe giảng Kinh, cấu Pháp yếu của Phật, tức là khất sĩ. Trì giới không phạm tức là phá ác. Trì giới niệm Phật, tức ma phải sợ hãi. Thân tuy tại gia, nhưng tâm thật xuất gia, tức là tại gia Tỳ kheo. Bất quá các Thầy Tỳ kheo thọ trì 250 giới điều cụ túc nên mới hơn vậy thôi.

Tỳ kheo ni. Chữ Ni tức chữ Nữ là gái. Đại phàm người gái xuất gia phải thọ trì 350 giới điều cụ túc, gọi là Tỳ kheo ni.

Ưu bà tắc là Ngũ giới nam. Ưu bà di là Ngũ giới nữ. Tức là nam nữ Cư sĩ thọ trì Ngũ giới. Lại dịch xưng là Cận sự nam, Cận sự nữ. Nghĩa là những người ấy hay gần gũi kham chịu phụng sự ngôi Tam bảo vậy.

Đức Quán Thế Âm Bồ tát tùy theo từng loại mà hiện thân: hoặc hiện tướng Tỳ kheo, hoặc hiện tướng Ni tăng mà giáo hóa cho bằng pháp thanh tu tịnh hạnh. Hoặc thị hiện Ưu bà tắc, Ưu bà di trì Ngũ giới mà giáo hóa cho bằng phương pháp vẫn ở lại đời mà học được Đạo. Nhưng Quán Âm vốn chẳng phải bốn tương Tăng, Ni, Tắc, Di gì cả. Nhưng vì giáo hóa chúng sanh, nên chẳng phòng ngại tùy loại thị hiện. Ví như kịch viên nơi sân khấu, bất luận hoặc nam hoặc nữ, đều có thể xoa son đánh sáp, rồi thượng lên diễn đàn, múa nhảy giỡn cợt đủ thứ. Đến khi hạ hồi vẫn là không phải gì hết. Bồ tát cũng như thế. Cho nên Kinh nói: Chẳng động chân tế, diệu ứng không phương, khắp hiện pháp giới, bản tánh vắng lặng.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Nữ Nhân Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn đặng độ giải thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Giải:

Quán Thế Âm Bồ tát hiện thân nữ nhân chỉ một đoạn này. Trước đó nói sau sẽ nói đều là hiện thân nam tử. Do đấy đủ biết Quán Thế Âm Bồ tát vốn chẳng phải nữ tướng, bất quá tùy theo từng loại mà thị hiện một phen vậy thôi. Hoặc hiện bà phu nhân của ông trưởng giả, hoặc hiện bà phụ nữ của ông Cư sĩ, hoặc hiện phu nhân của vị Tể quan, hoặc thị hiện phụ nữ vợ ông Bà la môn. Hiện các thân phụ nữ quí tiện bất nhất định. Tại Trung Quốc, Quán Thế Âm Bồ tát thị hiện thân nữ nhân có: Quán Âm xách giỏ cá, Quán Âm mặc áo trắng, Quán Âm bồng con nít, hiện ra nhiều lắm lắm nhiều. Bởi vì chúng sanh thế giới Ta bà nặng tình ái dục. Nên gọi ái chẳng nặng, chẳng sinh Ta bà. Dùng thân cô gái mà giáo hóa, rất dễ lãnh thọ được lợi ích lớn lao, như trước đã nói sự tích Quán Âm xách giỏ cá, tức là nhờ nữ nhân mà giáo hóa vậy. Các bà nữ Cư sĩ đã được thâm tín Phật pháp rồi đem thấm nhuần cho: con cái, chồng, dòng họ, nội, ngoại và bè bạn gần xa, thu được hiệu lực lại càng vĩ đại biết bao! Quán Thế Âm Bồ tát Từ bi phương tiện chứ vốn chẳng phải phụ nữ thân, mà chẳng phòng ngại phương tiện thị hiện thân phụ nữ để giáo hóa khuyến dắt khiến chúng được giải thoát.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Đồng Nam Đồng Nữ Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người dùng thân Đồng nam Đồng nữ đặng độ thoát, liền hiện thân Đồng nam Đồng nữ mà vì đó nói pháp.

Giải:

Thế gian cũng có lắm nhiều nam nữ, với tình ái dục lợt lạt mỏng nhẹ, trọn đời ôm chủ nghĩa độc thân: Trai tơ chẳng lấy vợ, gái lứa chẳng dùng chồng. Hoan hỷ thanh tịnh tu hành. Đều là hạng người đời trước đã trồng cội đức. Tập tục ở tỉnh Quảng Đông có một loại nữ tử cho việc lấy chồng nuôi con là khổ sở, nên họ nguyện chẳng muốn dùng chồng, thủ trinh tiết trọn đời. Hạng người này đều là khuê nữ, trinh bạch tiết tháo ở vậy gọn gàng, gọi là Đồng nữ. Cũng tỉnh ấy có số nam tử, ưa thanh tịnh, ôm chủ nghĩa độc thân, gọi là Đồng nam.

Đồng nam, Đồng nữ mà vì đó nói pháp. Như Kinh Hoa Nghiêm có Thiện Tài đồng tử, tức thành đồng nam mà thành Phật đạo. Kinh Pháp Hoa có Long Nữ lên tám tuổi mà thành Phật, tức là loại ấy. Từ trên đến đây hiện thân nhân đạo là xong.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Cà Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Cùng Phi Nhơn Nữ Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Cà thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhơn, cùng phi nhơn đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Giải:

Bồ tát giáo hóa chúng sanh có pháp tứ nhiếp:

1) Bố thí nhiếp:

Tức đem của vật Bố thí chúng sanh, thời chúng sanh mà được lãnh của thí, tâm sanh vui mừng bèn lãnh thọ giáo hoá dễ dàng. Ví như trẻ con, dùng kẹo, quả, của, vật đem cấp cho nó, rồi mới nhiếp thu nó, nó bèn vui mừng, nhân đấy tùy cơ khai đạo, tức dễ tin vào. Cho nên đối với tất cả chúng sanh đều nên tùy theo sở thích của nó mà khéo léo dụ dẫn, khiến chúng dần dần vào nơi Phật đạo.

2) Đồng sự nhiếp:

Như công với công, thương với thương, giáo viên với giáo viên… đem tình quen biết đồng sự với nhau mà nhiếp thu khuyến hóa lẫn nhau là sanh lòng tin dễ dàng.

3) Ái ngữ nhiếp:

Người đời đều thích nghe những lời ưa đẹp. Ưa người ta khen ngợi mình. Bởi vậy trước phải tán mỹ cái đã, rồi mới thu nhiếp và khuyến hóa họ.

4) Lợi hành nhiếp:

Ta thường đem những việc lợi ích, khiến họ mang ơn huệ, nhiên hậu họ mới chịu phục tùng. Như Trương Sắc ông dựng lên một xưởng thợ mộc, đắp một con đường mã lộ rật có lợi ích lớn lao cho mọi người. Cho nên, nói ra một lời, tức được nhiều người nghe theo. Quán Thế Âm Bồ tát đối với Trời Rồng tám bộ chúng, với dị loại Quỷ thần, Súc sanh cũng tùy theo từng loại mà thị hiện, tức là Đồng sự nhiếp.

Trời là những người trời ở dưới cung trời Tứ Thiên Vương Thiên. Rồng, có những Rồng trời, giữ cung điện cho Trời, có Rồng biển, giữ cung điện cho Rồng biển, Rồng mưa bủa mây rưới mưa. Rồng kho tàng giữ kho tàng báu. Chủng loại lắm nhiều. Phước báo rất lớn, nhưng nghiệp chướng cũng nặng. Nhân vì đời trước nhiều giận dữ, cho nên bị đọa làm thân Rồng. Loại chim Đại Bằng, rất ưa ăn Rồng, như ăn bánh bột, hai cánh nó rẽ rạch được nước biển cả thấy sát đáy, bắt Rồng mà ăn. Rồng chúa rất Kinh sợ nó. Một hôm, nhân khi Đức Phật đang ngồi bên bờ biển, Rồng chúa đến xin cầu cứu. Đức Phật cấp cho nó một tấm áo cà sa. Rồng chúa mừng quýnh đem tấm áo cà sa về phân phát cho mỗi đứa Rồng dân được một sợi chỉ bằng tơ của cà sa. Từ đấy về sau khỏi bị nạn chim Bằng bắt ăn thịt nữa.

Dạ xoa, hình thù rất dễ sợ, mỗi khi đi chạy rất nhanh và khoái.

Càn thát bà gọi là Khứu Hương Thần. Vị Ngọc Hoàng Thượng Đế ở cung trời Đao Lợi thích nghe âm nhạc, nên mỗi khi đốt hương lên tức Càn thát bà liền đến đánh nhạc, là nhạc thần của trời Đao Lợi.

A tu la, dịch là không đoan chính, tướng mạo xấu xí. Mà loại gái diện mạo dung nhan rất mỹ lệ. Theo thứ tự loại này là dưới nhân đạo. Nương ở trong những núi sâu ở bên bờ biển cả. Họ có Thiên phước nhưng không có Thiên đức. Thường cùng trời Đao Lợi chiến nhau. Đế Thích tuy làm chúa, vẫn còn ưa gái đẹp vì chưa rời cõi Dục vậy. Nên khi thấy con gái của A tu la vương tên là Xả Chỉ, nhan mạo đẹp đẽ cực kỳ, liền cưới về là vợ.

Một hôm nọ, Đế Thích mời nhạc phụ là A tu la vương đến viếng Thiên cung cho biết. Khi nhạc phụ trở về trần gian, Đế Thích giàn thiên binh, thiên tướng ra hai bên tống đưa cho tôn nghiêm sự thể. Tính chất A tu la hay sinh nghi kỵ. Nhân thấy thế cho là chàng rể Ngọc Đế này mời đến, dụng ý đem binh tướng nhà Trời ra để dương oai với mình nên ôm lòng bất mãn.

Lại một hôm khác, Ngọc Đế sửa soạn giáng hạ trần gian để nghe nhà Tiên Gia Đạo sĩ giảng Kinh. Hoàng hậu là con gái A tu la vương nghi ngờ là Ngài có yêu thầm nàng nào dưới hạ giới chăng, nên mới đến ngai Ngọc Đế tấu nài xin đi theo. Ngọc Đế đem sự thực bảo cho nàng biết. Nhưng nàng không tin, nài xin nhất định đòi đi với dụng ý là để trinh sát chứ chẳng phải nghe Kinh. Buộc lòng Ngọc Đế Ngài mới phán rằng: Thể diện Trẫm xuống dưới trần gian mà đem đàn bà con gái theo lè kè một bên coi không đẹp, tốt hơn Hoàng Hậu nên ở nhà. Giờ đây nàng lại thêm nghi ngờ lợi hại hơn nữa. Nhờ nàng có phép thuật thần diệu, chờ khi Ngọc Đế lên long xa, nàng liền ẩn mình thót lên cùng theo Ngài giáng hạ trần gian.

Sẵn sàng chờ sẵn, khi Ngọc Đế ngự xuống long xa, nàng cũng từ trên xe xuất hiện. Sau khi thiên hạ đón rước tưng bừng nào là trống đánh, cờ bay, nhạc trổi, hoan hô, nào là lệnh bắn, pháo nổ, hương trầm nghi ngút, hoa tung tưng bừng. Sau một hồi náo nhiệt, Đức Ngọc Đế mới nghỉ nghiêm, ngó nghiêng, chợt thấy bà Hoàng Hậu đứng thù lù một bên, Ngài câu mày hơi tức giận, sẵn trong tay nắm bó Hoa sen cộng dài của đám rước vừa hiến dâng, Ngài giáng mấy cái xuống bà Hoàng Hậu và thốt lời: Con yêu! Ngăn bảo ở nhà không nghe đòi theo cho được. Đồ yêu báo đời. Bà vừa tức vừa thẹn trợn mày, nổi lên: Thằng Quỷ, sao đánh lên mặt ta đau điếng và bà thét lên om sòm. Thế là con yêu với thằng Quỷ hai đằng đánh nhau mắng nhau inh ỏi chẳng còn sự thể của thượng giới nữa. Bởi vì, khi mà sân si đen tối nó nổi lên, và choán mất hao cõi lòng sáng suốt kia rồi, thời còn đâu là phải quấy, thể diện gì nữa!

Nhân đấy nên cũng là đã gây thêm một tội lỗi là mất tinh khiết nữa, là tiếng tăm của bạn nữ kiều, khi nào thốt ra cũng như tiếng chim oanh thỏ thẻ trên cành liễu mai. Trong đám người danh dự đi tham dự đám rước Ngọc Đế vẫn có mặt. Vị Tiên Nhân là người chủ trì việc giảng Kinh cho Ngọc Đế nghe. Khi từ trên long xa ngự xuống, Tiên Nhân cũng đã đứng sẵn đâu đó. Tiếp đến xảy ra việc không lành, hai ông bà ẩu đả, mắng nhiếc lẫn nhau, thời tiếng chim oanh Hoàng Hậu đã vô tình bay lọt thẳng vào tai Tiên Nhân làm Ngài “mất đạo” nghĩa là đứt Thần thông và quên hết Kinh pháp. Bởi vì tiếng sân si vì ái tình, phát ra có sức phá hoại khá mạnh mẽ, nếu sự tu luyện chưa được vững vàng. Chủ trì giảng Kinh mà quên Kinh mất; Ngọc Đế và Hoàng Hậu là thính giả mà giữa đường xảy ra việc không đẹp như thế, thử hỏi còn ai giảng và ai nghe nữa. Thế là cuộc giảng Kinh thất bại hoàn toàn, không phương cứu vãn được vậy. Và cũng bởi đó mà làm cho Ngọc Đế lại càng nổi xung nhiều lên.

Bà Hậu nhân vì khí sát ấy, tuy bên ngoài có bề lắng dịu, nhưng bề trong vẫn sôi gan tức giận, nên đi thẳng về chỗ thân phụ tức A tu la vương tố trần sự việc vừa xảy ra giữa hai vợ chồng cho thân phụ nghe biết. A tu la vương cũng nhân việc ngày trước Ngọc Đế dùng thiên binh thiên tướng để tống đưa nhau, hiểu lầm nghi là dương oai dọa nạt mình. Nay lại thêm việc này nữa. Do đấy A tu la vương tức tốc điều động binh tướng nhiều vô số và vận chuyển ngay để đi lên đánh phá Thiên cung của Ngọc Đế. A tu la vương dùng sức Thần thông, chân đạp sát đáy biển cả, tay dương lên lung lay tòa Thiên cung. Chiến cuộc thật dữ dội. Ngọc Đế bị thua bại, bỏ Thiên cung trốn chạy.

Chạy đến chỗ Đức Phật với mục đích là cầu viện cứu. Sau khi thi lễ, Ngọc Đế khúm núm đứng nép một bên. Đức Phật dùng thường tình thế tục hỏi: Ngọc Đế! Từ xa đến có việc gì! Thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con có chút việc, xin Thế Tôn Từ bi cho con thưa. Ngươi cứ nói, Đức Phật dạy. Ngọc Đế thuật lại đầu đuôi tự sự từ khi khởi thủy cho đến hiện tình, nhưng cũng có chỗ còn giấu diếm quanh co lấp ẩn chứ chưa thật ngay thẳng. Và cuối cùng Đế thưa: Lạy Đức Thế Tôn tái sanh cho con một lần này con xin đội ơn vạn kiếp!

Với Đức Phật Ngài đã thừa hiểu, nhưng hỏi là hỏi vậy thôi. Cho nên Phật chẳng quở trách lắm mà Ngài dạy dỗ và an ủi nhiều hơn: Ta vẫn biết các người còn nhiều tội lỗi lắm, nguyên do bởi: Ngu si, tham dục, nghi ngờ, ghen tương, sân giận, đánh đập, nghe lời con và cuối cùng chém giết lẫn nhau để gọi là giải quyết vấn đề, toàn là những việc không đâu cả, chung qui là do ngu si thì thật là các ngươi ngu si đến mức. Vậy thì đầu đuôi bởi ngu si. Ta nay dạy cho Ngọc Đế ngươi nên thọ trì Kinh Ma Ha Bát nhã Ba la mật Đa thời nhờ đấy mọi việc đều được yên xuôi tất cả. Và Ngài quở: Sự việc đã xảy ra to như hư không mà bảo “chút việc”. Ngọc Đế mừng quýnh, vâng lãnh Kinh ấy về, thời A tu la liền đại bại và chạy chốn vào trong lòng ngó sen. Kinh ấy, là nghĩa Đại trí huệ rốt ráo. Ngu si chỉ có trí huệ mới trừ được thôi. Với sự việc kể trên, cho chúng ta thấy người đời tuy tu công đức, làm việc từ thiện, nhưng phần nhiều hay nghi ngờ nhau, ưa tranh giành lẫn nhau. Nhiều khi ra mặt háo thắng hơn người cho kỳ được mới nghe. Do đó, sau khi chết mới đọa loài A tu la.

Ca lầu la tức loài chim Đại Bàng. Một phen bay xa đến chín vạn dặm. Tánh nó ưa ăn thịt Rồng. Khi Đức Phật cấp cho Rồng tấm áo cà sa, do đấy chim Đại Bằng chẳng ăn Rồng được nữa. Nó mới đến xin lòng Từ bi Phật mà nói: Đức Thế Tôn cứu Rồng như thế ấy, còn bọn chúng tôi thì chịu chết đói sao? – có ý bất mãn. Phật liền khiến dạy Đại Bằng quy y ngôi Tam bảo và thọ Trì giới bất sát. Và khiến dạy các đệ tử Phật rằng mỗi khi cúng Phật rồi thọ thực phải dùng cơm hoặc cháo tối đa là bảy hột mà xuất sanh tức Bố thí cho các loại chim Đại Bằng, các Quỷ thần nơi đồng nội, và mẹ con Quỷ la sát, khiến cho thảy đều được nhờ đấy mà sống còn tính mạng.

Khẩn na la, đầu có một cái sừng, giống như người mà chẳng phải người, tên là Nghi Thần, cũng là nhạc thần của cung trời Đao Lợi. Mỗi khi Ngọc Đế muốn nghe âm nhạc, thời nhạc thần này đến đánh nhạc cho Ngài ngự nghe.

Ma hầu la già, là thần rắn Đại mãng xà, từ đầu đến bụng dài mà thô lớn lắm. Bà Hy Thị là vợ của Lương Võ Đế, chẳng tin Tam bảo, bà phá hoại chùa miễu. Sau khi bà chết đoa làm rắn Mãng xà. Cũng không xong, cầu cứu với Lương Võ Đế. Để thỉnh Ngài Chí Công Thiền Sư, nhờ Ngài soạn bộ Lương Hoàng Sám. Mới thay thế cho Hy Thị mà tu sám hối. Bà Hy Thị nhờ đấy mà thoát thân rắn Mãng xà, và được sanh lên cung trời. Người, là chỉ cho Nhân đạo trong bốn châu thiên hạ. Chẳng phải người, là chỉ cho các loại Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục thảy.

Quán Thế Âm Bồ tát vì muốn cứu độ Trời, Rồng, Quỷ, Súc thảy tám bộ chúng sanh nên cũng thị hiện các thứ thân ấy, để vì họ mà thuyết pháp khiến họ đều được giải thoát. Chính rõ là Bồ tát Từ bi phổ độ chẳng phân biệt giai cấp chủng loại nào cả.

  1. Quán Thế Âm Bồ tát Thị Hiện Chấp Kim Cang Thần Để Nói Pháp

Chánh văn:

Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp.

Giải:

Chấp Kim Cang Thần là Thần Hộ Pháp của Phật giáo. Phật giáo lấy Từ bi làm bản loài. Nhưng những người ác thế gian thường nghĩ muốn phá Phật pháp. Thần Kim Cang tay cầm dùi chày bằng chất báu, chuyên môn đánh những đứa ác mà bẻ gãy ác tâm nó để nhờ giúp việc ủng hộ Phật pháp. Cho nên Phật giáo với chỗ nên dùng Từ bi thì dùng Từ bi mà nhiếp thọ; chỗ nên dùng oai mãnh để bẻ gãy nó thì dùng oai mãnh đối với nó. Có oai có đức hai mặt đầy đủ mới xong việc

Quá khứ vô lượng kiếp về trước, có một vị Quốc vương lấy hai bà phu nhân. Bà Đại phu nhân sanh ngàn người con, bà thứ hai chỉ sanh được hai người. Ngàn cậu con bà lớn mở cuộc bắt thăm để định coi ai thành Phật trước và sau. Kết quả Thích Ca được thành Phật vào thứ bốn, Lầu Chí thành Phật cuối cùng. Hai người con của bà thứ lại phát nguyện: anh trưởng: Ngàn anh thành Phật tôi nguyện làm Phạm Vương chuyên cầu thỉnh thuyết Pháp. Chú em cũng nguyện tôi xin làm Lực sĩ hộ pháp. Cho nên Đức Phật ra đời do Phạm Vương được trước tiên thỉnh Phật thuyết Pháp, lại có Hộ Pháp Thần thay Phạm Vương lo việc hộ Pháp.

Kết Luận Về 32 Ứng thân Của Quán Thế Âm Bồ tát

Chánh văn:

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng đường Quán Thế Âm Bồ tát.

Quán Thế Âm đại Bồ tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự Vô úy, cho nên cõi Ta bà này gọi Ngài là vị Thí Vô Úy.

Giải:

Đây là những đoạn văn tổng kết. Quán Thế Âm Bồ tát đem ứng 32 ứng hóa thân thị hiện ở khắp mười phương tất cả các quốc độ mà độ thoát chúng sanh. Do đó Đức Phật mới bảo Vô Tận Ý rằng: “Quán Thế Âm Bồ tát đã trọn nên công đức dường ấy, cho nên các ngươi nên nhất tâm nhất ý cúng dường vị Bồ tát này. Với những khi gặp phải cấp nạn lo sợ, Bồ tát Quán Thế Âm năng đem cho sức Vô úy để giải cứu tai nạn kia”. Quán Thế Âm Bồ tát đủ Đại oai thần, có Đại thế lực, thời chúng sanh cũng có bảy nạn, ba độc và bao nhiêu những lo sợ, Kinh hãi, khổ não mà năng trì niệm Thánh hiệu, để cảm với Bồ tát thời chắc được Bồ tát đem cho oai mãnh Vô sở úy, khiến được giải thoát. Ngàn chỗ khẩn cầu ứng ngàn chỗ. Không cảm nào mà chẳng thông. Cho nên Đức Quán Âm còn có biệt hiệu là Thí Vô Úy giả nữa vậy. Từ trước đến đây đã giảng xong 32 ứng thân.