Huyền Quang

Từ Điển Đạo Uyển

玄光; 1254-1334
Thiền sư Việt Nam, Tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Sư là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Ðầu Ðà (Trần Nhân Tông) và Pháp Loa, Sư được xem là một Ðại thiền sư của Việt Nam và người ta xem Sư và hai vị nêu trên ngang hàng với sáu vị Tổ của Thiền tông Trung Quốc hoặc 28 vị Tổ của Thiền Ấn Ðộ.
Theo Tam tổ thật lục (三祖實錄), mẹ của Huyền Quang là Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì đã 30 mà chưa có con. Ðầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy “các toà trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Ðức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: ›Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Ðông Ðộ và phải nhớ lại duyên xưa.‹” Năm ấy Lê Thị sinh Huyền Quang. Lớn lên Sư dung mạo dị thường, làm quan đến chức Hàn Lâm.
Một hôm, Sư cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, liền nhớ lại “duyên xưa”, xin xuất gia thụ giáo (có tài liệu nói Sư thụ giáo với Bảo Phác ở chùa Vũ Ninh). Sư được cử làm thị giả của Trúc Lâm Ðầu Ðà và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
Sau, Sư theo lời phó chúc của Trúc Lâm trụ trì chùa Vân Yên (nay là chùa Hoa Yên) trên núi Yên Yử. Vì đa văn bác học, tinh thông đạo lí nên tăng chúng đua nhau đến học. Niên hiệu Ðại Khánh thứ 4 (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa tịch (1330), Sư kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm nhưng vì tuổi đã cao nên Sư giao phó trách nhiệm lại cho Quốc sư An Tâm.
Sư đến trụ trì Thanh Mai Sơn sáu năm, sau dời sang Côn Sơn giáo hoá. Ngày 23 tháng 1 năm Giáp Tuất (1334), Sư viên tịch, thọ 80 tuổi. Vua Trần Minh Tông sắc thuỵ là Trúc Lâm Thiền Sư Ðệ Tam Ðại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Sau đây là một vài bài thơ của Sư:
1. Cúc hoa 菊花 – Hoa cúc:
忘身忘世已都忘。坐久簫然一榻涼
歲晚山中無歷日。菊花開處即重陽
Vương thân vương thế dĩ đô vương
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
*Quên mình quên hết cuộc tang thương
Ngồi lặng điều hiêu mát cả giường
Năm cuối trong rừng không có lịch
Thấy hoa cúc nở biết trùng dương
(theo Thơ văn Lý-Trần)
花在中庭人在樓。焚香獨坐自忘憂
主人與物渾無競。花向群芳出一頭
Hoa tại trung đình, nhân tại lâu
Phần hương độc toạ tự vong ưu
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
*Người ở trên lầu hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đoá hoa vừa mới nở tung.
(Bản dịch của Nguyễn Lang)
2. Ðịa lô tức sự 地爐即事 – Lò sưởi tức cảnh:
煨餘榾柮獨焚香。口答山童問短章
手把吹商和木鐸。從來人笑老僧忙
Ổi dư cốt đốt độc phần hương
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương
Thủ bả xuy thương hoà mộc đạc
Tòng lai nhân tiếu lão tăng mang
*Củi hết lò còn vương khói nhẹ
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thiên hạ cười ta cứ mặc tình
(Bản dịch của Nguyễn Lang)
Tác phẩm của Sư: 1. Ngọc tiên tập; 2. Chư phẩm kinh; 3. Công văn tập; 4. Phổ huệ ngữ lục.