Bài Viết Lưu Trữ

Kinh Thanh Văn

KINH NHÂN QUẢ THIỆN ÁC

Đức Phật giảng kinh Nhân Quả Thiện Ác
Việt dịch: Thượng tọa Thích Giác Quả

 

Tôi nghe như vậy: Một thời đức Phật đang lưu trú tại nước Xá Vệ, trong vườn cây của thái tử Kỳ Đà và  ông Cấp Cô Độc. Bây giờ, đại chúng gồm vô lượng Bồ-tát, trời, người đang ngồi xung quanh đức Phật. Đức Phật thuyết pháp, đại chúng nhất tâm lắng nghe.

Lúc ấy, ngài A-nan vì chúng sanh mà bạch đức Phật rằng:

Bạch Thế Tôn! Hiện tại trong thế gian có vô số chúng sanh, xét riêng về loài người thì có người đẹp, kẻ xấu; người mạnh, kẻ yếu; người giàu, kẻ nghèo; người khổ, kẻ sướng; người sang, kẻ hèn; tâm ý, ngôn ngữ sai biệt. Lại có người sống đến trăm tuổi chưa chết, kẻ ba mươi đã mất, người mười lăm tuổi đã yểu mạng, kẻ chết từ trong bào thai. Có người tướng tốt đoan trang mà nghèo hèn, có kẻ tương xấu thô tháo lại giàu sang. Có người cương nghị mà địa vị hạ liệt, có kẻ nhu nhược mà ở địa vị cao quý. Có người nghèo khổ mà sống lâu, có kẻ giàu vui mà lại chết sớm. Có người làm lành mà gặp tai họa, có kẻ làm ác mà được lợi lộc. Có người mập trắng mà đôi mắt gian xảo, có kẻ gầy đen mà đôi mắt lại hiền từ. Có người thấp lùn mà đầy đủ ý khí, có kẻ cao lớn mà bị người sai khiến. Có người con cháu đông đúc, có kẻ lại cô đơn một mình. Có người xa quê lang thang đói lạnh tiều tuỵ, có kẻ được vào cung vua cơm áo dư thừa. Có người nhỏ thì nghèo hèn, về già lại được giàu sang. Có người sự thật là vô tội mà lại bị nạn tù đày. Có người cha hiền con hiếu đàm luận nghĩa Kinh. Có người anh em chống nhau, tranh cãi, gây sự. Có người định cư nhà cửa đầy đủ phương tiện, có kẻ du cư không nhà trôi nổi khắp nơi. Có người ở trên cây như chim, ngủ trong hang như nai, sống như cầm thú. Có người ăn lông ở lỗ, không biết chữ nghĩa. Có người ngồi không mà hưởng phước báo, có kẻ rong ruổi làm khách không nhà. Có người thông minh sáng suốt, có kẻ ám độn ngu si. Có người phải buôn bán mới được tiền tài, có kẻ không làm mà của cải tự đến. Có người giàu mà xan tham keo kiết, có kẻ nghèo lại ưa thích bố thí. Có người nói phô hoà kính, có kẻ phát lời gai gốc. Có người được thương kính, có kẻ bị xa lánh. Có người làm lành bảo vệ chúng sanh, có kẻ sát sanh không xiết. Có người tâm niệm rộng rãi được nhiều người thân cận, có kẻ bỏn sẻn bị thiên hạ bỏ rơi. Có những anh em thường ghét nhau, có những chị em dâu thường hoà thuận. Có người thích nghe Kinh pháp, có kẻ nghe Kinh lại buồn ngủ. Có người vũ phu vô lễ, có kẻ chuộng học lễ nghĩa.

Ngưỡng cầu Thế Tôn giảng rộng về nhân quả, đại chúng nghe hiểu sẽ nhất tâm hành thiện.

Đức Phật bảo A-nan: Như ông đã hỏi, sở dĩ đời này mọi người thọ báo không giống nhau, bởi lẽ đời trước họ dụng tâm sai khác nên khi lãnh thọ có ngàn sai vạn biệt:

* Đời này, người tướng tốt đoan chánh là do đời trước đã nhẫn nhục mà được, kẻ tướng xấu thô tháo là do sân hận gây nên.

– Người bần cùng là do xan tham, người cao quý là do lễ bái, kẻ hạ tiện là do kiên mạn.

– Người cao sang là do cung kính Tam bảo, kẻ thấp hèn là do khinh khi Phật pháp.

– Người hung dữ là do đời trước làm lang sói, kẻ đen gầy là do che ánh sánh của Phật.

– Người không có con cái là do giết hại chim non, kẻ nhiều con là do bảo vệ mạng sống cho chúng sanh.

– Người sống lâu là do lòng từ bi, kẻ chết sớm là do thường sát sanh.

– Người giàu to là do thích bố thí, kẻ nhiều xe ngựa là do dâng cúng xe ngựa cho Tam bảo.

– Người thông minh là do thường học hỏi, tụng Kinh; kẻ ám độn là do xuất thân từ súc sanh.

– Người làm tôi tớ là do quỵt nợ, kẻ hiếu động là do đời trước làm khỉ, vượn.

– Người bị ghẻ lở là do phá hoại Tam bảo; kẻ tay chân to nhỏ, ngắn dài không đều là do trói chân tay chúng sanh.

– Người sáu căn đầy đủ là do đã vâng giữ giới luật, kẻ sáu căn không đủ là do phá giới.

– Người có môi dính nhau là do nếm thức ăn trước khi dâng cúng.

– Người có mặt ửng đỏ là do tiếc nuối ánh sáng của lửa.

– Người có mắt như chim sẻ là do đã may mắt chim ưng.

– Người câm là do phỉ báng Phật pháp.

– Người điếc là do không thích nghe giảng Pháp.

– Người mũi tịt là do đốt hương hôi cúng Phật.

– Người sứt môi là do xỏ mang cá.

– Người tóc cháy là do quay heo.

– Người vành tai sức là do đâm lỗ tai.

– Người thân hình như rắn là do mặc quần áo mỏng đường đột đến trước tượng Phật.

– Người da đen là do để tượng Phật ở mái hiên bị khói xông.

– Người khập khễnh là do thấy Sư trưởng mà không đứng dậy.

– Người lưng gù là do mặc quần áo mỏng mà xây lưng với tượng Phật.

– Người trán vồ là do thấy Phật không lễ bái mà lấy tay vỗ trán.

– Người cổ ngắn là do thấy bậc Tôn trưởng lại rụt cổ rồi lánh đi.

– Người đau tim là do châm chích thân thể chúng sanh.

– Người bệnh cùi là do cướp đọat vật dụng của kẻ khác.

– Người bệnh suyễn là do mùa đông mà cho kẻ khác ăn thực phẩm nguội lạnh.

– Người bị bướu cổ là do ăn lén, ăn vụng.

– Người hơi thở hôi là do chửi rủa kẻ khác.

–  Người nam căn khiếm khuyết là do đã thiến chó.

– Người lưỡi ngắn là do ở chỗ vắng mắng lén bậc Tôn trưởng.

– Người có tánh xấu là do đời trước làm rắn, bò cạp.

– Người dơ bẩn là do đời trước làm heo.

– Người thích nhảy múa là do đời trước làm diễn viên

– Người tham lam nhiều là do đời trước làm chó.

– Người thường sân hận, kén ăn là do đời trước điên  cuồng.

– Người có đôi mắt bất chánh là do đời trước thường nhìn lén vợ con kẻ khác.

Đức Phật dạy tiếp:

* Người tà dâm với vợ hay con của kẻ khác chết đọa làm vịt, nguỗng.

– Người tà dâm trong vòng thân tộc, chết đọa làm chim sẻ.

– Người tiếc nuối Kinh sách, che dấu trí tuệ không cho kẻ khác, chết làm mối, mọt.

– Người thích mang cung tên, đi xe ngựa, chết đọa vào các nước man-di([16]), biên địa.

– Người thích săn bắn, sát hại, chết làm loài lang sói.

– Người thích cài trâm, giắt hoa, chết làm chim chào mào.

– Người thích mặc áo quần dài, chết đọa vào các loài đuôi dài.

– Người nằm mà ăn, chết đọa làm loài heo.

– Người thích mặc áo quần sặc sỡ, chết đọa làm loài chim nhiều màu sắc.

– Người giả giọng kẻ khác, chết đọa làm loài vẹt.

– Người hay trêu chọc, đùa giỡn, chết đọa làm loài trăn có nọc độc.

– Người hay làm kẻ khác phiền não một cách vô lý, chết đọa làm sâu bọ độc hại.

– Người hay báo những tin xấu, chết đọa làm chim cú.

– Người hay nói lời gây nên tai họa, chết đọa làm chồn, cáo.

– Người hay khủng bố kẻ khác, chết đọa làm hươu nai.

– Người hay mang guốc gỗ vào điện Phật, chết đọa làm các loài bị đóng móng chân.

– Người hay hạ phong, chết đọa làm con bọ hung.

– Người hay dùng chày cối của chúng Tăng, chết đọa làm con bửa củi.

– Người hay bớt xén thức ăn của kẻ khác, chết đọa làm côn trùng mổ gỗ.

– Người ăn trộm nước của chúng Tăng, chết đọa làm cá rùa.

– Người làm bẩn đất chúng Tăng, chết đọa làm côn trùng ở cầu tiêu.

– Người trộm cướp hoa quả của chúng Tăng, chết đọa làm côn trùng ăn bùn đất. Trộm cắp tài sản của chúng Tăng, chết đọa làm loài bò, lừa kéo cối xay. Cưỡng đọat vật dụng của chúng Tăng, chết đọa làm chim bồ câu. Mắng chửi chúng Tăng, chết đọa làm côn trùng ở cổ con bò. Ăn rau cải của chúng Tăng, chết đọa làm sâu ở cấy nghễ. Ngồi trên gường  chúng Tăng, chết đọa làm con giun đất. Dùng những vật liệu lặt vặt của chúng Tăng, chết đọa làm con thiêu thân.

– Người mang trâm bằng xương vào chùa chết làm chim mỏ dài. Vào chuà, xoa son, bôi phấn, chết đọa làm chim mỏ đỏ. Vào chùa, mặc áo quần sặc sỡ, chết đọa làm chim màu vàng. Vợ chồng ngủ trong Chùa, chết đọa làm côn trùng có mào màu xanh. Ngồi duỗi chân ở Tháp Phật, chết đọa làm lạc đà. Mang giày dép vào Tịnh Xá, vào Tháp chết đọa làm con ếch. Nghe pháp nói xàm, chết đọa làm con chim trăm lưỡi. Làm ô uế Tỷ-kheo ni thanh tịnh, chết đọa vào địa ngục hầm sắt, có ngàn vạn vòng đao cùng chặt chém thân thể.

Bấy giờ, ngài A-nan bạch đức Phật: Như lời Thế Tôn dạy, tội chướng của con người thật là sâu nặng. Như vậy, người đến Chùa cần phải làm gì để có công đức?

Đức Phật bảo: Những người đến Chùa có hai thứ tâm niệm, một là tâm thiện, hai là tâm ác.

Thế nào là tâm thiện?

– Người đến Chùa nếu thấy Phật thì lễ bái, thấy Tăng thì cung kính, thưa hỏi nghĩa Kinh, thọ Giới, sám hối, bỏ tài vật phụng sự Tam bảo, hộ trì đại Pháp không tiếc thân mạng. Người như vậy bước một bước là đến thiện xứ, đời sau được quả báo như cây Đề-ca. Đây gọi là người lành tối thượng.

Thế nào là tâm ác?

– Người đến Chùa kề cạnh chúng Tăng để xin vật này, mượn vật nọ; hoặc tìm điều hay điều dở của chúng Tăng để phá hoại. Hoặc dùng thức ăn của chúng Tăng không biết xấu hổ, hay lấy các thứ bánh trái, rau cải, thức ăn giấu giếm đem về nhà. Những người như thế, chết đọa vào địa ngục viên sắt nóng, nước sôi, lò than, núi đao, rừng kiếm. Đây gọi là người ác tột cùng.

Đức Phật bảo A-nan: Hãy răn dạy hàng đệ tử đời sau của Ta, phải cẩn thận đối với Tam bảo, chớ phạm những lỗi lầm trên, hết lòng chí thành sùng bái, chớ sanh tâm thối lui. Nếu nghe lời Ta, khi ngài Di Lặc xuất thế chắc chắn sẽ được hoá độ.

Đức Phật lại dạy tiếp:

*  Đời này lột áo kẻ khác, chết đọa vào địa ngục giá lạnh, sau đó lại sanh làm loài tằm bị luộc rồi kéo tơ.

– Đời này không thắp đèn để chiếu sáng Kinh Tượng, chết đọa vào địa ngục đèn tối của Thiết Sơn.

– Đời này nấu, giết, chặt  đứt thân mạng của chúng sanh, chết đọa vào núi đao, rừng kiếm.

– Đời này đuổi bắt chim, chó hoặc săn bắn, chết đọa vào địa ngục cưa sắt.

– Đời này làm nhiều hạnh tà vạy, chết đọa vào địa ngục giường sắt, cột đồng.

– Đời này cưới nhiều vợ, chết đọa vào địa ngục cối xay bằng sắt.

– Đời này lấy nhiều chồng, chết đọa vào địa ngục rắn độc.

– Đời này nấu, thiêu gà; chết đọa vào địa ngục sông tro.

– Đời này nấu, thiêu vịt, heo; chết đọa vào địa ngục nước sôi.

– Đời này thiến chó hoặc heo, chết đọa vào địa ngục đá nhọn.

– Đời này uống rượu say sưa, cuồng loạn; chết đọa vào địa ngục uống nước đồng sôi.

– Đời này chặt đứt thân mạng chúng sanh, chết đọa vào địa ngục bánh xe sắt.

– Đời này trộm trái cây của chúng Tăng, chết đọa vào địa ngục nuốt viên sắt nóng.

– Đời này ăn thịt heo, chó; chết đọa vào địa ngục phẩn, tiểu.

– Đời này ăn cá sống, chết đọa vào địa ngục núi đao, rừng kiếm.

– Đời này làm mẹ kế hà khắc con chồng, chết đọa vào địa ngục xe đốt nóng.

– Đời này nói hai lưỡi gây rối loạn, chết đọa vào địa ngục cày sắt.

– Đời này ác khẩu mắng người, chết đọa vào địa ngục rút lưỡi.

– Đời này nói láo nhiều, chết đọa vào địa ngục đinh sắt.

– Đời này sát sanh để dâng cúng quỷ thần, chết đọa vào địa ngục chày sắt.

– Đời này làm phù thuỷ nói dối gạt người lấy của, chết đọa vào địa ngục núi đá.

– Đời này làm phù thuỷ cố tình gạt người, nói rằng, lên trời tìm linh hồn người chết; người chết đọa vào địa ngục chặt lưng.

– Đời này làm phù thuỷ dạy người sát sanh đề cầu  thần linh, cầu thần hoàng, thổ địa hay cầu quỷ mị.v.v đều là dối gạt kẻ ngu; chết đọa vào địa ngục búa chặt; bị ngục tốt chém, bị loài chim mỏ sắt móc mắt.

– Đời này làm phù thuỷ chôn cất người, đoán điềm họa phước, cát hung của dòng họ, an định vườn nhà, yểm chết trùng, trù tai họa dối gạt kẻ ngu lấy của. Những người như thế, chết đọa vào địa ngục sắt đồng, có nhiều chim thú dữ bu quanh thân thể, khoét móc da thịt, gân xương, thống khổ vô cùng.

– Đời này làm thầy thuốc đoán sai bệnh, gạt kẻ khác lấy của; chết đọa vào địa ngục kim châm, toàn thân phát cháy.

– Đời này phá hoại Chùa, Tháp, hành hạ Tăng Ni, bất hiếu cha mẹ, chết đọa vào địa ngục A-tỳ. Trước hết phải trải qua tám địa ngục lớn, một trăm ba mươi sáu địa ngục nhỏ, sau đó rơi vào địa ngục A-tỳ một kiếp, hai kiếp hay năm kiếp mới được thoát ra. Nếu may mắn được gặp thiện tri thức để phát tâm Bồ-đề, trái lại bị rơi vào địa ngục.

– Đời này phá Tháp, huỷ Chùa, dấu tài sản của Tam bảo để  tiêu xài, chết đọa vào địa ngục A-tỳ. Ra khỏi địa ngục thì làm thân súc sanh, như chim bồ câu, chim sẻ, vịt, le le, chim két, chim sẻ xanh, cá, rùa, khỉ, nai, hươu. Nếu được sanh làm người thì làm dâm nữ hay bị lại cái (bán nam bán nữ).

– Đời này ưu thích sân hận, chết đọa làm rắn độc, sư tử, cọp, sói, gấu, mèo rừng, chim ưng, diều hâu.

– Đời này ưu thích nuôi heo, gà; chết đọa làm cai ngục.

– Đời này ngu si, không hiểu đạo lý; chết đọa làm voi, heo, bò, dê, trâu, chí, rận, kiến, muỗi.v.v.Nếu được làm người thì bị điếc, mù, câm, gù, cụt, què, các căn không đủ, không thể nghe Phật pháp.

– Đời này kiêu mạn chết đọa làm côn trùng ở nhà xí, hoặc làm lạc đà, lừa, ngựa, chó ngao. Nếu được làm người thì làm tôi tớ, bần cùng, ăn xin, bị người khinh khi.

– Đời này làm quan ỷ thế lấy tài sản của dân, chết đọa vào địa ngục núi da, trăm vạn người lột da để ăn.

– Đời này ưa thích bắt kẻ khác đứng để chết, khi chết đọa làm voi trắng, chân thẳng không nằm ngủ được.

– Đời này phá trai, ăn ban đêm, chết đọa làm ngạ quỷ, trăm ngàn vạn năm không được ăn uống, khi bước đi đầu lóng chân bốc lửa.

– Đời này ưa thích ngồi loã hình, chết đọa làm loài cú vọ.

– Đời này giấu thực phẩm trai phạn để ăn lén, chết đọa vào địa ngục sắt nóng; nếu được làm người thì bị bệnh nghẹt yết hầu, chết yểu.

– Đời này lễ Phật không sát đất, chết đọa vào địa ngục treo ngược; nếu được làm người thường bị kẻ khác lường gạt.

– Đời này lễ Phật không chắp tay, chết sanh vào vùng biên địa, làm gì thì mất nhiều công sức mà chẳng có thu hoạch.

– Đời này chấp tay cao lễ Phật, chết đọa vào địa ngục bị trói, bị treo; nếu được làm người thường gặp tai nạn bất ngờ.

– Đời này chắp tay, chí tâm lễ Phật sát đất, chết được sanh chỗ tôn quý, có nhiều điều vui.

– Đời này nghe chuông không ngồi dậy, chết đọa làm con rắn thân dài lớn, bị các loài côn trùng rúc rỉa.

– Đời này bênh vực vợ (chồng), mắng chửi cha mẹ, chết đọa vào địa ngục bị cắt lưỡi.

-Đời này thêm nước vào rượu để bán, chết đọa làm côn trùng trong nước; nếu được làm người thì bị trướng, chết ngạt.

Đức Phật dạy tiếp:

*  Người thân thể cao to, mạnh mẽ mà sân hận khó bỏ là do đời trước làm lạc đà.

– Người thích đi, ăn nhiều, gặp chỗ nguy  hiểm không tránh là do đời trước làm ngựa.

– Người chịu được nóng lạnh mà tâm vô ký là do đời trước làm bò.

– Người cống cao không biết xấu hổ, nghĩ nhiều về luyến ái, không biết phải quấy là do đời trước làm lừa.

– Người thích ăn thịt, làm việc không sợ sệt là do đời trước làm sư tử.

– Người thân cao lớn, mắt tròn, thích đi chỗ vắng vẻ, ganh ghét vợ (chồng) con là do đời trước làm cọp.

– Người lông dài, mắt nhỏ, không thích ở một chỗ là do đời trước làm chim.

– Người tánh tình lật lường, thích sát hại chúng sanh là do đời trước làm chồn, cáo.

– Người mạnh mẽ, ít dâm dục, không yêu thương vợ (chồng) con là do đời trước làm lang sói.

– Người không thích mặc đẹp, thường  bắt kẻ gian, giận nhiều, ít ngủ là do đời trước làm chó.

– Người dâm ô, thường bàn chuyện người yêu là do đời trước làm chim két.

– Người thích ở chỗ đông đúc, lời nói phần nhiều làm phiền não kẻ khác là do đời trước làm chim bồ chao.

– Người thân nhỏ, tính dâm, tâm không ổn định, thấy sắc đẹp bị mê hoặc là do đời trước làm chim sẻ.

– Người có mắt đỏ, răng ngắn, khi nói hay khạc nhổ, khi ngủ nằm cuốn tròn là do đời trước làm rắn.

– Người nói phô thường nóng giận, không hiểu nghĩa hay phát lửa sân là do đời trước làm bò cạp.

– Người sống riêng lẻ, ăn nhiều, đêm ít ngủ là do đời trước làm mèo rừng.

– Người thường đục tường ăn trộm, tham tài, không có thân thuộc là do đời trước làm chuột.

Đức Phật dạy A-nan: Ta đã nói rằng, tất cả những khổ đau đều do hành động (nghiệp) của mười điều ác. Nghiệp ác nặng nhất thì đọa vào địa ngục, nghiệp ác trung bình thì đọa làm súc sanh, nghiệp ác nhẹ hơn thì đọa làm ngạ quỷ.

Trong đây:

+ Tội sát sanh đẩy đưa chúng sanh đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là chết yểu, hai là nhiều bệnh.

+ Tội trộm cướp đẩy đưa chúng sanh đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là nghèo hèn, hai là tài sản bị tịch thu, không tiêu xài được.

+ Tội tà dâm cũng bị đọa vào ba ác đạo (địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ). Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là vợ (chồng) không trung thành, hai là vợ (chồng) tâm ý bất hoà, hay cãi lộn nhau.

+ Tội vọng ngũ cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là thường bị phỉ báng, hai là thường bị nhiều người lường gạt.

+ Tội nói hai lưỡi cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm thân người thị bị hai thứ quả báo: một là quyến thuộc bị phá hoại, hai là quyến thuộc hung dữ.

+ Tội ác khẩu cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là thường nghe tiếng dữ, hai là nói gì thường bị cãi lại.

+ Tội ỷ ngữ cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thị bị hai thứ quả báo: một là nói điều gì đúng cũng không được ai tin, hai là nói gì cũng không thông tình đạt lý.

+ Tội dâm dục cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thị bi hai thứ quả báo: một là tham của cải không biết chán, hai là ham muốn nhiều mà không được toại nguyện.

+ Tội sân nhuế cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thị bị hai thứ quả báo: một là thường bị kẻ khác moi móc, hai là thường bị kẻ khác não hại.

+ Tội tà kiến cũng bị đọa vào ba ác đạo. Nếu được làm người thì bị hai thứ quả báo: một là thường bị sanh vào gia đình tà kiến, hai là tâm thường siểm nịnh.

+ Các Phật tử! Đó là con đường mười tội ác, là nhân duyên hội tụ các điều đau khổ.

Bấy giờ, trong hội chúng có những người đã làm mười điều ác ấy, được nghe đức Phật dạy về những quả báo khổ đau ở địa ngục, đều rống khóc và bạch đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn

chúng con phải làm những việc lành gì để tránh khỏi những khổ đau ấy?

Đức Phật dạy: Nên bảo tất cả chúng sanh cùng làm việc phước. Thế nào là việc phước?

*   Nếu chúng sanh nào, đời này làm đại Hóa chủ như lập Chùa, xây Tháp thì đời sau chắc chắn sẽ làm Vua thống lãnh vạn dân, đi đâu cũng được mọi người phục tùng.

– Đời này làm Thị Trưởng trung chánh, làm Duy na([17]) hay Luận chủ([18]) thì đời sau sẽ làm Vương thần, Tướng soái thống lãnh

cả châu bộ, đầy đủ mọi y phục, xe ngựa; các phương tiện cần thiết tự nhiên sung mãn.

– Đời này  hướng dẫn mọi người làm các công đức thì đời sau sẽ làm trưởng giả giàu sang, được tôn kính, mọi việc làm đều thuận tiện, không bị trái chống.

– Đời này thắp đèn và bảo vệ ánh sáng thì đời sau sẽ được sanh lên cõi trời Nhật nguyệt, thân thể phát chiếu ánh sáng rực rỡ.

– Đời này ưa thích bố thí với tâm từ bi và bảo hộ chúng sanh, thì đời sau sẽ ở chỗ nào cũng được giàu sang, y phục thực phẩm đầy đủ.

– Đời này ưa thích bố thí thực phẩm cho mọi người thì đời sau sanh ở chỗ nào, thực phẩm tự đến, sức khỏe và sắc đẹp hoàn hảo, thông minh biện tài, tuổi thọ dài lâu. Nếu bố thí cho súc sanh thì phước báo gấp trăm lần. Bố thí cho Nhất xiển-đề([19]) thì phước báo gấp trăm ngàn lần. Bố thí cho Pháp sư giảng pháp Đại thừa, trình bày những tạng bí mật của Như Lai, giúp đại chúng phát khởi trí tuệ thì hưởng phước báo vô lượng. Bố thí cho đức Phật, Bồ-tát thì hưởng phước báo vô tận. Lại nữa, bố thí cho ba đối tượng này cũng hưởng được phước báo vô cùng tận. Đó là: thứ nhất, chư Phật; thứ hai, cha mẹ; thứ ba, người bệnh. Chỉ cần bồ thí một bữa ăn, phước báo đã vô lượng rồi, huống gì thường xuyên bố thí phước báo làm sao cùng tận được.

– Đời này ưa thích tán thán, đọc tụng Kinh pháp sẽ được giọng nói hoà nhã, diệu hiền, ai nghe cũng hoan hỷ.

– Đời này ưa thích trì giới sẽ được sanh vào gia đình đoan chánh hoàn hảo.

– Đời này ưa thích đào giếng nơi công cộng, đặt nước uống dọc đường, trồng cây gây bóng mát; đời sau sẽ được làm Vua, đồ ẩm thực trăm vị tùy sở thích, muốn là có ngay.

– Đời này ưa thích in chép Kinh điển, phổ biến cho mọi người đọc, sẽ được sanh làm người biện tài, Phật pháp vừa nghe liền thông đạt, thường được chư Phật, Bồ-tát hộ trì. Đây là người tối thắng, thường làm thượng thủ.

– Đời này ưa thích làm cầu, làm thuyền đưa người sang sông, sẽ được sanh vào gia đình đầy đủ bảy vật báu, mọi người ai cũng cung kính, chiêm ngưỡng, vui mừng, đi đâu cũng được mọi người hộ vệ.

Đức Phật bảo A-nan: Như Ta đã nói nhân quả của từng vấn đề trong Kinh để khuyên chúng sanh đọc tụng, tu hành nhằm thoát khỏi khổ đau, tai nạn. Nếu ai nghe Kinh này mà khinh chê thì lưỡi người ấy rụng liền trong đời này.

Bấy giờ, ngài A-nan bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh này gọi là gì? Làm sao để tu tập?

Đức Phật bảo A-nan: Kinh này tên là Nhân Quả Thiện Ác, Cũng gọi là kinh Bồ-tát phát nguyện Tu Hành; cứ như vậy mà thọ trì.

Khi đức Phật giảng kinh này xong, trong hội chúng có tám vạn người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trăm ngàn người nữ chuyển thành nam tướng, một ngàn hai trăm người ác độc chuyển thành người thiện lương, chứng quả Vô sanh nhẫn, luôn được an lạc tự tại. Những người sau này khi chết được sanh về các Tịnh độ, làm bạn với chư Phật, Bồ-tát.

Đến đây, tất cả đại chúng trở về trú xứ của mình và thực hành lời dạy của đức Phật.

 

Chú Thích:

[16] Hán Việt Từ Điển-Nguyễn Văn Khôn, trang 576. Man-di là những kẻ mọi rợ, mán rợ, thô lỗ

[17] Còn gọi là Đô duy na, Duyệt chúng, Tư hộ, Tri sự la chức vụ quản lý, điều hành và lo các việc của đại chúng trong chùa.

[18] Tác giả của một bộ luận, là người thông đạt nghĩa lý.

[19] Từ Điển Huệ Quang, tập IV, trang 3269: Nhất xiển-đề-ca, Nhất-điên-ca, Nhất-xiển-đề-ca, Xiển-đề – Hán dịch là: Đoạn thiện căn,Tín căn bất cụ, Cực dục, Đại tham, vô chủng tính, Thiêu chủng – người mất hết căn lành, không có điều kiện thành Phật.

 

Kinh Thiện Ác Nhân Quả

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trung Quán

 

 

Thay Lời Tựa 

Khi nói đến nhân quả nghiệp báo thì không ít người trề môi cười nhạt, họ quan niệm những điều đó như là chuyện cổ tích, luân lý khuyên người, chớ chẳng thực tế, không dính dáng gì với dời sống văn minh tiến bộ ngày nay. Đâu biết rằng khắp cả cuộc sống nhân gian, ngay chính bản thân đời sống của họ, cũng như mọi người không thoát ngoài nhân quả. Đến cả khoa học phát minh ngày nay cũng được xây dựng từ nhân quả. Bình tâm suy nghĩ chín chắn, ta thấy thành quả của khoa học khởi đi từ nhân quả thực nghiệm. Sự thăng trầm của kiếp sống chúng sanh nhân loại liên quan mật thiết với nhân quả thiện ác.

Chúng ta thử lắng động tâm tư nghĩ kỹ về đời sống con người cho đến sự hình thành hành hoạt của vạn vật có gì vượt ngoài luật nhân quả ? Từ đứa bé chăn trâu, người nông phu cày sâu cuốc bẫm, kẻ buôn bán cho đến vị thẩm phán nắm luật thế gian cũng không thể vượt ngoài nhân quả thiện ác nghiệp báo. Chẳng khác nào nhân loại vạn vật không thể thoát ra ngoài không gian mà sinh hoạt, vượt ra ngoài lớp không khí mà sanh tồn. Giống như thế đó, nhân quả thiện ác nghiệp báo tuy vô hình vô tướng, nhưng chùm khắp chi phối toàn diện tất cả mọi sinh hoạt thịnh suy thăng trầm vinh nhục hạnh phúc khổ đau của muôn loài. Dù đó là Thánh nhân, là Trời, là Thần linh, Thượng đế (nếu thật có) cũng không thể thoát ngoài luật nhân quả thiện ác nghiệp báo chi phối. Có hạng người hoặc nông nổi tự hào, hoặc cuồng tín Thượng đế, hoặc si mê chủ thuyết vô thần chẳng tin nhân quả, từ đó tạo ra vô vàn tội ác khổ đau cho mình và người, gây cho đời nhiều cảnh huống thảm khốc, để rồi đời đời chuốc lấy sự nguyền rủa oán hờn, tiếp theo bị luật nhân quả nghiệp báo mà phải rơi vào cảnh khổ, thọ lấy đời sống tối tăm. Thế gian lắm cảnh sai biệt giầu nghèo, tốt xấu, vinh nhục, thịnh suy tất cả đều do nhân quả chi phối. Tạo nhân nào nhất định chịu quả đó, không sai sót. Cổ đức nói : “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Nghĩa là lưới trời lồng lộng, sợi lông xíu cũng không xót lọt. Thế nên, người tin sâu nhân quả là người tỉnh thức biết sống tiến bộ hướng lên quang lộ thánh thiện, biết nhìn rõ sự thật, biết nhận lấy trách nhiệm của mình.

Muốn rõ nhân quả thiện ác nhiệp báo như thế nào, xin mời quý vị dù là Phật tử hay không Phật tử, dù là tin Phật hay không tin Phật, thử lần lượt lật trang kinh với cõi lòng vô tư tĩnh lặng từ từ đọc kỹ, hy vọng giúp cho quý vị nhìn rõ hành hoạt và thân phận của muôn loài chúng sanh, rồi lắng lòng suy gẫm, để từ đó xây dựng chánh kiến hướng về nẻo thiện sống hiên hòa sáng sủa hơn, ngõ hầu phản tỉnh quán chiếu để tự cứu mình thăng hoa thánh thiện trong ánh sáng giác ngộ, rồi ra còn có cơ giúp độ gia đình, quyến thuộc bằng hữu và đồng thời đem lại an lạc cho chúng sanh.

Nhân quả thiện ác nghiệp báo không phải dành riêng cho người tin theo đạo Phật mà cho khắp tất cả những ai muốn có được đời sống hạnh phúc tiến bộ, tránh khỏi trầm luân khổ lụy đọa đầy. Nhân quả là một sự thật, là định luật muôn đời, chi phối khắp cả trời người chúng sanh muôn loại, được tuệ giác đạt đạo của đức Thích-Ca Mâu-Ni thấu suốt chân lý vũ trụ vạn hữu nói ra một cách rành rẽ, để cho muôn loại chúng sanh hiểu rõ, ngõ hầu tự giác tránh gây nhân ác để hướng quả lành, thăng hoa đời mình trong ánh sáng hiền lương thánh thiện, tiến lên đời sống giác ngộ giải thoát của chư Phật Thánh Hiền.

Để kết thiện duyên Bồ-Đề cho những ai có tâm ý hướng thiện, có chí nguyện tiến lên quả vị giác ngộ giải thoát vòng luân hồi sanh tử, nay Phật-Học-Viện Quốc-Tế phát nguyện in quyển kinh Thiện Ác Nhân Quả này, với sự phát tâm hiến cúng tịnh tài của quý Phật tử gần xa để cho ai nấy thấy rõ thân phận nghiệp báo của mội chúng sanh.

Xin thành tâm hồi hướng công đức đến Dịch-giả và tán thán công đức quý Phật tử đã phát tâm hiến cúng tịnh tài làm trợ duyên cho kính này tái bản. Tôi thành tâm tùy hỷ công đức và khắp nguyện pháp giới chúng sanh đều được an lành lợi lạc với tâm thức tỏ ngộ khi đọc kinh này.

Hoa-Kỳ,  mùa Phật-Đản  2540-1996.

THÍCH-ĐỨC-NIỆM

 

Niệm Hương

(Cầm ba cây hương quỳ trước bàn thờ Phật niệm hương) 

NAM-MÔ  THẬP-PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM-BẢO TÁC ĐẠI CHỨNG MINH.  (3 lần)

Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn pháp chư Bồ-Tát,
Vô biên Thanh-Văn chúng,
Cập nhất thiết Thánh-Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác phật sự,
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ-Đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.

Nam-Mô  Hương-Cúng-Dường Bồ-Tát  (3 lần) 

TÁN PHẬT

(Đứng dậy chấp tay ngang ngực, nhìn Phật thành kính tụng) 

Pháp-vương vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất,
Thiên nhơn chi Đạo-Sư,
Tứ sanh chi từ phụ,
Ư nhứt niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp,
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.

QUÁN TƯỞNG

Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao năng tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Đế-Châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp tục quy mạng lễ.

LỄ  PHẬT

Chí tâm  đảnh lễ : Nam-mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam-Bảo. (1 lạy) 

Chí tâm  đảnh lễ : Nam-mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát, Hộ-Pháp Chư Tôn Bồ-Tát, Linh-Sơn Hội-Thượng Phật Bồ-Tát.  (1 lạy) 

Chí tâm  đảnh lễ : Nam-mô Tây Phương Cực-Lạc thế giới đại-từ đại-bi A-Di-Đà Phật, Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ Tát. (1 lạy) 

KỆ TÁN HƯƠNG

Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh,

NAM-MÔ HƯƠNG-VÂN-CÁI BỒ-TÁT. (3 lần)

 

CHÚ ĐẠI BI

NAM-MÔ  ĐẠI-BI HỘI-THƯỢNG PHẬT BỒ-TÁT

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bà ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà ra đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da, Giá ra gía ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật xá lợi. Phạt ra phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yềt tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ. Ta bà ha.

Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.

Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đà da, Ta bà ha.

NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT  (3 lần)

 

KHAI KINH KỆ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như-Lai chơn thật nghĩa.

NAM-MÔ THẬP-PHƯƠNG THƯỜNG-TRỤ TAM-BẢO (3 lần)

PHẬT NÓI KINH
THIỆN ÁC NHÂN QUẢ

Chính tôi được nghe một thời đức Phật ở nước Xá-Vệ, tại vườn ông Cấp-Cô-Độc, rặng cây Thái-tử Kỳ-Đà.

Khi bấy giờ  đức Thế-Tôn thuyết Pháp, có vô lượng Bồ-Tát, trời, người đại chúng vây quanh, yên lặng một lòng nghe nhận. Lúc ấy A-Nan tôi vì chúng sanh nên bạch Phật rằng :

Kính lạy đức Thế-Tôn ! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có người đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo người giầu, kẻ khổ người vui, kẻ sang người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giầu sang, kẻ rất khỏe mạnh mà thấp kém, có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ở triều ăn mặc tha hồ, có người lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giầu có sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con, hiếu luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không nhà không cửa nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như tổ quạ hang hươu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giầu mà tham sẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí.

Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại độ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi.

Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn trương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cúi xin đức Thế-Tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện !

Khi bấy giờ đức Thế-Tôn bảo A-Nan tôi rằng : Như người hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt. Người đời nay được tâm thân đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được.

Kẻ bị thân hình xấu xí, là do đời trước ở trong đạo người hay có tánh giận tức.

Người đời nay bị nghèo cùng, là do đời trước ở trong đạo người có tánh tham sẻn.

Người đời nay được cao quý, là đời trước hay lễ bái chư Phật mà được.

Người đời bị hà tiện, là do đời trước hay có tánh kiêu mạn.

Người to lớn, là do đời trước có tâm cung kính.

Kẻ bị lùn thấp, là do đời trước mạn Pháp.

Kẻ ngang tàng ương nghạnh, là do đời trước làm kiếp dê.

Kẻ bị đen xấu, là do đời trước che ánh sáng của Phật.

Kẻ bị cứng lưỡi, là do đời trước nếm trai thực cúng dường.

Kẻ bị đỏ mắt, là do đời trước sẻn tiếc ánh sáng.

Người đui mắt là do đời trước hay khâu mắt chim ưng.

Người đời nay câm ngọng, là do đời trước hay phỉ báng chánh Pháp.

Người đời nay điếc lác, là do đời trước chẳng vui nghe Pháp.

Người khuyết răng đời nay, là do đời trước ham ăn xương thịt.

Người tắc mũi đời nay, là do đời trước đốt hương bất hảo cúng dường Phật.

Người sứt môi đời nay, là do đời trước hay đâm thọc sâu thủng mang hoặc môi cá.

Người da vàng, là do đời trước hay cạo lông lợn.

Người căng tai, là do đời trước hay dùi thủng tai sanh vật.

Kẻ trần hình, là do đời trước hay mặc áo mỏng vào trong chùa đứng trước tượng Phật Bồ-Tát.

Người sắc đen đời nay, là do đời trước để tượng thờ Phật ở mái hiên làm khói xông tượng.

Người đời nay bị đi khèo chân, là do đời trước thấy bậc Sư-trưởng không đứng dậy.

Người đời nay bị lưng còng, là do đời trước mặc áo mỏng ra vào quay lưng vào tượng Phật.

Người bị trán thấp hoặc trớt, là do đời trước thấy Phật chẳng lễ lạy cầm tay gõ trán.

Người đời nay rụt cổ, là do đời trước thấy các vị Tôn-trưởng rụt đầu chạy trốn.

Người đời nay đau tim, là do đời trước hay đâm chém thân thể chúng sanh.

Người đời nay bị bệnh hủi, là do đời trước lừa gạt lấy tài vật của người ta.

Người đời nay bị bệnh ho xuyễn, là do đời trước ngày mùa đông gíá rét cho người thức ăn lạnh.

Người đời nay không có con, là do đời trước hay bắt các chim non giết thịt.

Người lắm con, là do đời trước hay nuôi dưỡng các sanh vật.

Người đời nay sống lâu, là do đời trước có từ tâm.

Người đời nay chết non, là do đời trước hay sát sanh.

Người đời nay giầu to, là do đời trước hay làm hạnh bố thí.

Người đời nay có xe ngựa, là do đời trước cúng dường Tam-Bảo bằng xe ngựa.

Người đời nay thông minh, là do đời trước ham đọc và tụng kinh.

Người đời nay ám độn, là do đời trước làm súc sanh.

Người đời nay làm tôi đòi, là do đời trước nghèo mà tham chứa dấu.

Người đời nay hay nhảy nhót xoay cuồng, là do đời trước làm kiếp khỉ.

Người đời nay bị bệnh hủi, là do đời trước phá hoại Tam-Bảo.

Người đời nay tay chân vặn vẹo, là do đời trước hay trói chân tay chúng sanh.

Người đời nay hay có ác tánh, là do đời trước làm kiếp rắn, rết, bọ cạp.

Người đời nay sáu căn được đầy đủ là do đời trước chuyên tâm giữ giới.

Người đời nay các căn tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý không được đầy đủ là do đời trước phá giới.

Người đời nay hay ăn ở bẩn thủi, là do đời trước làm kiếp lợn.

Người đời nay hay ham múa hát, là do đời trước làm nghề múa hát ả đào, phường chèo tái sanh.

Người đa tham đời nay, là do đời trước làm kiếp chó đầu thai.

Người đời nay có búi thịt đeo lủng lẳng ở cổ (bìu cổ), là do đời trước hay ăn một mình (ăn vụng).

Người đời nay bị mồm hôi thúi, là do đời trước hay mắng chưởi, rủa, hỗn hào.

Người đời nay không có nam căn, là do đời trước hay thiến chó, lợn.

Người đời nay ngắn lưỡi nói ngọng, là do đời trước ngồi ở chỗ vắng hay mạ nhục mắng nhiếc các bậc Tôn-trưởng.

Người đời nay ham thông dâm với phụ nữ người ta, chết đọa làm loài ngan, vịt.

Người đời nay hay thông dâm với chính họ, thân chết đọa làm loài chim công, chim sẻ.

Người sẻn tiếc kinh thư che giấu trí tuệ không chịu nói cho người, chết đọa làm loài trùng ăn đất ăn gỗ (con mọt).

Người hay đeo cung tên súng đạn, cưỡi ngựa, chết đọa trong loài Lục-di (mường mán mọi rợ).

Người ham sát sanh, chết đọa trong loài lang thú (hổ, báo, chó sói).

Người hay đeo tràng hoa, chết đọa vào loài trùng tải trắng (tức sâu trùng mình có hoa).

Người hay mặc áo dài lượt thượt, chết đọa làm con trùng đuôi dài.

Người hay nằm ăn, chết đọa vào loài lợn.

Người ưa thích mạc áo sặc sỡ các sắc lòe loẹt, chết đọa làm loài chim loang lỗ.

Kẻ hay nhái tiếng người hoặc hài hước điệu người, chết đọa làm loài chim vẹt.

Kẻ hay chế diễu người, chết đọa làm loài trăn, rắn ác độc.

Kẻ hay làm buồn não người, chết đọa làm loài trùng ảo não.

Kẻ hay tuyên truyền điều ác làm cho người ta tin, chết đoạ làm loài chim cú, chim cắt.

Kẻ hay nói làm cho người ta bị ương họa tù tội, chết đọa làm loài thú dã hổ.

Kẻ hay làm cho người ta sợ hãi kinh khủng, chết đọa làm loài hươu, nai.

Người đời trước đi guốc dép vào chùa, đời nay sanh loài có móng như móng ngựa.

Người đời trước ham phóng hạ khí, đời nay làm loài trùng khí hàn.

Kẻ đời trước buộc người phải ăn dè sẻn, nghĩa là bớt phần ăn của người, đời nay làm con mọt gặm gỗ.

Người đời trước dùng cối giã của tang chúng, đời nay bị làm loài trùng gật đầu.

Làm thân cá giải đời nay, là do đời trước lạm dụng nước của chư tăng.

Làm bẩn nước chúng tăng, phải đọa làm loài trùng ở chốn bẩn.

Lấy trộm quả trái của chúng tăng, phải đọa làm loài trùng ăn bùn đất.

Loài trâu, lừa kéo cối nghiến, là do đời trước làm người ăn trộm của chúng tăng.

Đời trước cưỡng xin của chúng tăng, đời nay làm loài chim bồ câu trắng.

Đời trước nhục mạ chúng tăng, đời nay phải làm loài trùng ở cổ trâu.

Lạm ăn rau của tăng, phải đọa làm loài sâu ở các thứ rau đắng.

Bất kính ngồi giường của tăng, phải đọa làm loài lươn, loài lịch.

Lạm dùng các đồ vật của tăng, phải đọa làm loài thiêu thân.

Nhổ khạc trong đất chùa, đời nay phải đọa làm chim dài mỏ.

Mặc áo vằn khói, bôi phấn đánh môi son vào chùa, đời nay phải đọa làm chim mỏ đỏ.

Mặc áo mầu sặc sỡ vào chùa, đời nay đọa làm loài chim lệ.

Đời trước vợ chồng nằm ngủ với nhau ở trong chùa, đời nay phải đọa làm loài chim trùng Thanh.

Đời trước ngồi trên hoặc đạp vào tháp thờ Phật, đời nay phải đọa làm loài lạc đà.

Đời trước đi giầy dép vào chùa hoặc tịnh xá, đời nay phải đọa làm loài ếch, nhái, chuột bọ vân vân.

Đời trước nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm ồn, đời nay bị làm loài chim bách thiệt.

Làm ô uế tịnh hạnh của tăng ni, chết đọa vào địa ngục Thiết-Quật, có trăm muôn vòng dao bay xuống một lần chém tan thân thể.

Khi đó A-Nan tôi bạch Phật rằng : “Lạy đức Thế-Tôn ! Theo như lời Phật nói phạm vào của chúng tăng thật là tội rất nặng, nếu như thế thì bốn chúng đàn việt làm sao đến chùa mà cung kính lễ bái được ?”

Phật nói : “Người đến chùa tăng có hai thứ tâm : một là thiện tâm, hai là ác tâm.

Thế nào là thiện tâm ? Người đến chùa tăng thấy Phật thì lễ bái, thấy tăng thì cung kính, thỉnh kinh hỏi nghĩa và thọ giới sám hối, bỏ tiền của ra xây cất chùa chiến, kiến lập Tam-Bảo, không tiếc thân mạng, hộ trì chánh Pháp. Những người như thế cất chân một bước tức là bước lên thiên đàng, đời vị lai hưởng phúc như cây Đề-Gia, đó gọi là người tối thượng thiện.

Thế nào là ác tâm ? Có những chúng sanh khi tới chùa, chỉ dòm ngó xin chúng tăng như là đòi mượn tiền mượn của, hoặc chỉ trích chư tăng, vạch tỏ những lỗi lầm chuyên chủ phá hoại mà thôi, hoặc ăn của tăng không có tâm hổ thẹn, nào bánh quả rau đậu, cắp mang về nhà, những con người như thế chết đọa vào địa ngục Thiết-Hoàn, vạc nước sôi, lò than, núi dao, rừng kiếm phải bị trừng phạt, đó tức là kẻ tối dạ ác nhân !”

Phật lại dặn A-Nan tôi rằng : “Phải răn bảo cho đệ tử của đời mai sau, khi đến chùa phải cẩn thận chớ phạm của Tam-Bảo, phải gắng sức tôn sùng thành thật, chớ có thoái tâm, nghe theo lời Phật, tới khi Ngài Di-Lặc xuất thế quyết định được độ thoát không nghi ngờ”.

Phật nói : Đời nay cướp lột áo của người ta, chết đọa vào địa ngục Hàn-Băng, sau đọa làm loài tầm bị người nung nấu kéo tơ.

Đời nay chẳng muốn đốt đèn soi kinh, cúng tượng, chết đọa vào địa ngục Hắc-Ám trong núi Thiết-Vi.

Đời nay làm kẻ đồ tể mổ giết chúng sanh, chết đọa vào trong địa ngục Đao-Sơn Kiếm-Thụ.

Đời nay ham đi săn bắn, huýt chó thả chim ưng làm mồi, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Cứ.

Đời nay hay làm hạnh tà dâm, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Đồng-Trụ, Thiết-Sàng.

Đời nay chứa nhiều vợ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Khải.

Đời nay chứa nhiều chồng, sau khi chết đọa vào địa ngục Độc-Xà.

Đời nay hay thui luộc gà, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hôi-Hà.

Đời nay hay cạo lông lợn, nhổ lông gà, sau khi chết đọa vào địa ngục Hoạch-Thang.

Đời nay hay hoạn thiến chó lợn, sau khi chết đọa vào địa ngục Tiêm-Thạnh.

Đời nay hay uống rượu say, sau khi chết đọa vào địa ngục uống nước đồng.

Đời nay hay cắt chém chúng sanh, sau khi chết đọa vào địa ngục Thiết-Luân.

Đời nay lấy trộm quả trái của tăng chúng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Hoàn.

Đời nay hay ham ăn ruột thịt chó lợn, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Phân-nước-giải.

Đời nay hay ăn gỏi cá, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Đao-Lâm Kiếm-Thụ.

Đời nay làm mẹ ghẻ cay nghiệt với con chồng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hỏa-Xa.

Đời nay hay nói lưỡi đôi chiều làm cho người ta ẩu đả nhau, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Lê.

Đời nay hay nói đâm thọc mạ nhục người, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Bạt-Thiệt.

Đời nay hay nói dối, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Châm.

Đời nay hay sát sanh cúng tế tà thần, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Đối.

Đời nay làm bà đồng khi lên đồng, giả làm lời nói của quỷ thần để dối lừa người ta lấy tiền của, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Nhục-Sơn.

Đời nay làm bà đồng nhắm mắt nhìn xuống đất dối người lên trời lấy thần hồn, kẻ đó sau khi chết đọa vào trong dịa ngục Trảm-Yêu (chặt ngang lưng).

Đời nay làm bà đồng bảo người ta sát sanh cúng tế để cầu ông thần lớn hoặc họa ngũ đạo, Thổ-Địa, Thổ-Công, ông hoàng bà chúa, tất cả như thế đều là lừa dối kẻ ngu lấy tiền, sau khi chết đọa vào địa ngục Chước, bị quân ngục tuốt băm chém, mổ xẻ thân thể, lại bị con chim mỏ sắt mổ moi hai mắt.

Đời nay làm thầy bói phù thủy, ông đồng hoặc thầy địa lý chôn cất mồ mả, xem gia trạch, đoán cát hung, năm họ tiện lợi, an long giận mạch trấn át suy họa để lừa dối kẻ ngu lấy tiền, nói càn những điềm tốt xấu, các bọn người này sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết-Đồng, có rất nhiều giống chim đậu trên mình kẻ đó để mổ móc thịt ăn, ray rỉa gân xương chịu khổ vô cùng.

Đời nay làm thầy thuốc lừa dối chữa bệnh người không lành để lấy tiền, sau khi chết đọa vào địa ngục Châm-Chích, toàn thân bị thiêu đốt.

Đời nay làm kẻ phá tháp phá chùa, lường gạt chư tăng, bất hiếu với cha mẹ, sau khi chết đọa vào đại địa A-Tỳ qua tám địa ngục lớn và các địa ngục nhỏ, một trăm ba mươi sáu sở, lâu một kiếp, hai kiếp, cho đến năm kiếp, rồi sau đó mới được ra, nếu gặp bậc thiện-trị-thức giáo hóa phát tâm bồ-đề, bằng không lại đọa địa ngục.

Phật nói : Làm thân người rất hôi thối dơ bẩn, đầy lòng giận tức khó gỡ bỏ, phải biết kẻ đó kiếp trước đã làm giống lạc đà nay được tái sanh.

Người hay đi đây đi đó ăn khỏe, không tránh nguy hiểm khó khăn, kẻ đó trước làm giống ngựa được tái sanh.

Người hay xông pha đi nắng đi rét tâm không ghi nhớ, kẻ đó trước làm giống trâu được tái sanh.

Người nói to hồm hỗm, không biết hổ thẹn, nhiếu ái niệm không phân biệt phải trái, kẻ đó trước làm giống lừa được tái sanh.

Người hay tham ăn thịt, làm gì cũng không sợ, kẻ đó trước làm giống sư tử được tái sanh.

Người thân cao lớn, mắt tròn, tánh hay lẩn tránh những nơi đồng ruộng và ghét bỏ vợ con, kẻ đó trước làm giống hổ được tái sanh.

Người lông trên mình dài, mắt nhỏ, không muốn ở yên một chỗ, kẻ đó trước làm giống chim được tái sanh.

Người có tánh phản phúc, lại hay sát hại sâu trùng, kẻ đó trước làm giống dã hồ mà tái sanh.

Người có lực khỏe mạnh cường tráng ít dâm dục, không yêu vợ con, kẻ đó trước làm giống chó sói mà tái sanh.

Người không ham mặc áo đẹp, tánh hay rình bắt kẻ gian phi và ít ngủ, đa sân nộ, kẻ đó trước làm giống chó mà tái sanh.

Người ham dâm dục và hay nói, lại được nhiều người yêu, kẻ đó trước làm giống chim vẹt mà tái sanh.

Người hay vui trong nhân chúng, lời nói nhiều phiền phức, kẻ đó trước làm loài chim yểng mà tái sanh.

Người thể vóc bé nhỏ ham dâm dục ý chẳng chuyên định, thấy sắc đẹp sanh tâm say mê, kẻ đó trước làm loài chim sẻ được tái sanh.

Người mắt có sắc đỏ răng ngắn, khi nói thì sùi bọt mép như xà bông, nằm thì cuộn mình lại, kẻ đó trước làm loài trăn rắn được tái sanh.

Người lời nói ra có tánh giận tức, không quan sát nguyên do ý nghĩa, miệng thở ra lửa độc, kẻ đó trước làm giống bọ cạp, rết, mọt gỗ được tái sanh.

Người hay ngồi một mình ăn, đêm ít ngủ, kẻ đó trước làm loài hồ được tái sanh.

Kẻ hay đào tường khoét vách ăn trộm, tham của đầy lòng oán giận không có tình thân sơ, kẻ đó trước làm loài chuột được tái sanh.

Phật nói : “Kẻ phá hoại chùa tháp, cất dấu của Tam-Bảo làm riêng của mình để ăn dùng, chết đọa vào địa ngục A-Tỳ, từ địa ngục được thoát ra lại đọa làm thân súc sanh, như chim bồ câu, chim sẻ, chim uyên ương, chim oanh vũ, chim thanh tước, cá, giải, khỉ, vượn, hươu, nai, nếu được làm người phải đọa thân hoàng môn hoặc con gái hai căn, không căn hay kẻ dâm nữ.

Làm người hay giận tức, chết đọa làm loài rắn độc, sư tử, hổ, báo, gấu bi, mèo, hồ, chim ưng, gà, nếu được làm người hay nuôi gà lợn, kẻ đồ nhi (mổ giết trâu lợn) kẻ săn bắn, kẻ chài lưới bắt cá và quân canh ngục.

Làm người gặp Phật pháp mà ngu si chẳng hiểu đạo, khi chết đọa làm loài voi, lợn, trâu, dê, trâu nước, rận, chí, ruồi, muỗi, kiến, các thân hình, nếu được làm người thì mù điếc câm ngọng, gù còng, các căn không đủ, không hay thọ giáo Pháp.

Làm người hay kiêu mạn, chết đọa làm loài bọ trong đống phân, hoặc làm lừa chở nặng, loài chó loài ngựa, nếu được sanh làm người phải đọa làm thân nô tỳ nghèo cùng ăn mày, bị mọi người khinh rẻ.

Làm người mà được chức vị quan quyền lại tham lấy của dân, chết đọa vào trong địa ngục Nhục-Sơn, lúc đó có trăm ngàn muôn quỷ thủ lại cắt thịt mà ăn.

Đời nay phá trai ăn đêm, sau khi chết đọa làm loài quỷ đói, trăm ngàn muôn năm không được ăn uống, lúc bước đi trên đầu phun ra lửa.

Đời nay ham cởi trần ngồi, sau khi chết đọa làm loài trùng hàn vọ.

Đời nay hay mang cắp đồ trai dư về ăn uống, chết đọa vào trong địa ngục Nhiệt-Thiết, sau khi  sanh vào cõi nhân gian mắc chứng bịnh yết hầu và chết non.

Đời nay lễ Phật đầu chẳng sát đất, chết đọa vào địa ngục Đảo-Huyền, sau khi sanh vào cõi nhân gian phần nhiều bị lừa dối.

Đời nay lễ Phật không chấp tay, sau khi chết sanh nơi biên địa, làm nhiều thu hoạch ít.

Đời nay nghe tiếng chuông không ngồi dậy, sau khi chết đọa vào trong loài trăn, thân to dài bị vi trùng moi rúc ăn.

Đời nay chấp hai tay vùng lại với nhau để lễ Phật, chết đọa vào địa ngục Phản-Phọc, sau sanh trong đạo người gặp nhiều việc ác.

Đời nay chấp tay mà năm thể rạp xuống đất chí tâm lễ Phật, đời sau thường được sanh vào nhà tôn quý thụ hưởng khoái lạc.

Người ưa giận và buồn phiền, là do đời trước có bệnh điên cuồng.

Người bị con ngươi lệch về một bên (mắt lắc), là do đời trước hay nhìn trộm phụ nữ.

Người đời nay bênh vợ mắng cha mẹ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Trảm-Thiệt.

Đời nay lấy nước đổ vào rượu rồi bán cho người ta, sau khi chết phải đọa làm loài trùng trong nước, khi sanh cõi nhân gian mắc chứng bệnh thủng và đoản khí mà chết.

Phật lại bảo A-Nan tôi rằng : “Như trên ta đã nói rất nhiều các sự đau khổ, đều do nghiệp thập ác mà ra, thượng là nhân duyên địa ngục; trung là nhân duyên súc sanh; hạ là nhân duyên ngạ quỷ.

Tội sát sanh khiến cho chúng sanh dọa vào địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là chết non, hai là nhiều bệnh.

Tội trộm cắp cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là nghèo cùng, hai là chung của không được xài tự do.

Tội tà dâm cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là vợ không trinh lương, hai là hai vợ tranh nhau không theo ý mình.

Tội nói dối cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là phần nhiều bị người phỉ báng, hai là thường bị người ta lường gạt.

Tội lưỡng thiệt cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là bị họ hàng phá hoại, hai là bị anh em họ hàng tệ ác.

Tội ác khẩu cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là thường phải nghe tiếng ác, hai là có nói ra điều gì tranh cãi kiện tụng.

Tội ỷ ngữ cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là nói phải chẳng ai tin, hai là lời nói không được rành rọt.

Tội tham dục cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là tham tài không chán, hai là cầu nhiều không toại ý.

Tội sân giận cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là thường bị người ta chỉ trích tội lỗi, hai là thường bị người ta làm não hại.

Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, sau được sanh làm người phải hai thứ quả báo : một là thường sanh vào nhà tà kiến, hai là tâm thường nịnh hót không được ngay thẳng. Các Phật tử nên biết nghiệp thập ác như thế, đều là mọi sự đau khổ, chứa chất một nhân duyên lớn.

Khi bấy giờ trong đại chúng, có người đã tạo nghiệp thập ác, nghe Phật nói khổ báo của địa ngục như thế, tự kêu khóc sợ hãi mà bạch Phật rằng:

“Lạy đức Thế-Tôn, đệ tử chúng con phải làm hạnh lành gì mà được thoát khổ ấy, cúi xin đức Thế-Tôn chỉ bảo cho ?”

Phật nói : “Các ngươi hãy giáo hóa cho hết thảy chúng sanh chung làm nghiệp phước, thế nào là tu phước ?

Nếu có chúng sanh nào đời nay làm một người Đại hóa chủ đứng ra xây cất chùa, tháp, tinh-xá, đời vị lai được phước làm quốc- vương thống lãnh vạn dân khắp nơi đều quy phục.

Đời nay làm Ấp vương trung chánh, duy na, luân chủ, đời sau sẽ được làm vương thần, phụ tướng, châu quận đầy đủ tôn sang.

Đời nay khuyến hóa nhiều người làm các việc công đức, đời vị lai sẽ được làm người trưởng giả giàu sang, mọi người kính nể bốn đường khai thông.

Đời nay hay đốt đèn nối sáng, đời sau sanh vào cung trời Nhật-Nguyệt Quang-Minh tự chiếu soi.

Đời nay hay làm việc bố thí và từ tâm nuôi dưỡng sanh mạng, đời sau sanh nơi giầu có ăn mặc tự nhiên.

Đời nay hay cho người thức ăn uống, đời sau nơi sanh bếp trời tự đem lại, sức lực đầy đủ, thông minh trí tuệ, biện tài, thọ mạng lâu dài.

Cho thức ăn loài súc sanh được bách bội báo, cho thức ăn kẻ nhứt-xiển-đề được ngàn bội báo.

Cúng dường thầy tỳ-kheo trì giới được vạn bội báo, nếu cúng dường các vị Pháp-sư lưu thông Đại-thừa giảng tuyên tạng bí mật của Như-Lai, khiến cho đại chúng khai thông tâm mắt được vô lượng báo. Cúng dường Bồ Tát, chư Phật thọ báo vô cùng. Cúng dường ba bậc người phước báo vô tận : một là chư Phật, hai là cha mẹ, ba là bệnh nhân. Một lần cúng món ăn mà được phước báo vô lượng như thế, nếu hay thường thường cúng dường thì phước ấy bao giớ cùng tận được ?

Đời nay xối nước tắm cho chúng tăng, đời sau sanh chốn áo mặc tự nhiên, có mọi người kính nể, thân hình đoan chánh, mặt mắt tươi đẹp.

Đời nay hay tán dương Phật và ham đọc tụng kinh Pháp, sanh thân đời sau tiếng nói hòa nhã nhiệm mầu, ai nghe tiếng cũng vui mừng.

Đời nay hay giữ giới, sanh thân đời sau đoan chánh oai nghi, là bậc tối thắng trong loài người.

Đời nay hay đào giếng hoặc để chum, để thùng nước cho người qua lại dùng, trồng cây bên đường cho người nghỉ mát, đời sau sanh xứ nào cũng làm nhân vương, trăm mùi ăn uống nghĩ tới là có đưa lại.

Đời nay hay viết chép kinh Pháp cho người đọc, đời sau sanh xứ nào miệng biện đa tài, học pháp gì, nghe qua một lần đã thấu hiểu, chư Phật Bồ-Tát thường thường gia hộ, là tối thắng trong loài người và thường làm bậc Thượng-Thủ.

Đời nay hay bắt cầu, hoặc chở thuyền cho người qua sông, đời sau sanh xứ nào đều có đầy dủ bảy báu, mọi người khen kính và chiêm ngưỡng, đi lại ra vào được người nâng đỡ.

Phật bảo A-Nan tôi rằng : Các chỗ trong kinh như ta nói nhân quả khuyên chúng sanh đọc tụng tu hành được qua khỏi khổ nạn, nếu nghe kinh này sanh lòng phỉ báng, kẻ đó ngay đời hiện tại, lưỡi sẽ bị rơi rụng.

Khi đó A-Nan tôi bạch Phật rằng : “Lạy đức Thế-Tôn, kinh này tên gọi là gì và khuyến phát thế nào cúi xin Ngài chỉ giáo”.

Phật bảo A-Nan tôi rằng : “Kinh này tên là Thiện-Ác Nhân-Quả, cũng gọi là kinh Bồ-Tát Phát-Nguyện Tu Hành, Thọ Trì Như Thế”.

Khi Phật nói kinh xong, trong chúng có tám vạn người, trời phát tâm A-nậu đa-la tam-miệu-tam bồ-đề và có trăm ngàn người con gái chuyển nữ thành nam. Một ngàn hai trăm ác nhân bỏ ý ác biết đời trước của mình. Vô lượng trời người được vô sanh nhẫn, thường được hưởng khoái lạc. Vô lượng thính giả sanh trong cõi Tịnh-Độ cũng được làm bạn với chư Phật Bồ-Tát. Hết thảy đại chúng về nhà làm phước, hoan hỷ phụng hành.

Phật nói kinh Thiên-Ác Nhân-Quả.  

 

MA-HA BÁT-NHàBA-LA-MẬT-ĐA TÂM-KINH

Quán-Tự-Tại Bồ-Tát, hành thăm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệt, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệt vô lão tử tận ; vô khổ, tập, diệt, đạo ; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-Đề tát đỏa y Bát-nhã ba-la-mật đa cố, tâm vô quái ngại vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát-nhã ba-la-mật đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam bô-đề.

Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết : Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.   (3 lần)

BẠT NHỨT THẾ NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN-BỔN ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-LA-NI

Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ,
Đa địa dạ tha,
A di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tì ca lan đế,
A di rị đa tì can lan đa,
Dà di nị dà dà na,
Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)

TÁN PHẬT

A-Di-Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới, Đại-Từ Đại-Bi A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (108 lần)
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (3 lần)
Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát. (3 lần)
Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát. (3 lần)
Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ-Tát. (3 Lần)

SÁM THẬP PHƯƠNG

Thập phương Tam-thế Phật,
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng sanh,
Oai đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy y,
Sám hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tân dụng hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây phương cảnh,
Phân minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-Lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh tử,
Như Phật độ nhứt thiết,
Vô biên phiền não đoạn,
Vô lượng pháp môn tu,
Thệ nguyện độ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.
Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng,
Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

HỒI HƯỚNG

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-Tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-Hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.

TAM QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (3 lần)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (3 lần)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (3 lần)

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.

 

NHÂN QUẢ LUÂN HỒI
TẠP  LỤC

THÍCH – THIỀN – TÂM

Ai nói luân hồi chuyện vẩn vơ,
Người, dê chuyển kiếp lẹ không ngờ (1)
Đốt lò hương hỏi niềm xưa cũ,
Nghe giọng triều âm tỉnh giấc mơ.

MẠNH PHU NHƠN

Điền-Canh-Dã, làm quan Đề-Đốc tỉnh Quảng-Tây, vợ là Mạnh phu nhơn, bẩm tánh hiền lương, nhưng chẳng may mất sớm. Khi Điền-Canh-Dã trên thuyền ngắm cảnh ở trấn Lương-Châu, đêm trăng ngồi một mình nơi nha dinh, bỗng mơ màng như vào mộng, thấy phu nhơn dung mạo cực đẹp, từ trên ngọn cây phơi phới bay xuống. Điền-Canh-Dã mừng rỡ cùng nhau hỏi chuyện hàn huyên như thuở bình sanh.

Phu nhơn bảo : “Thiếp vốn là một vị thiên nữ, do túc duyên đời trước nên nay làm bạn với tướng công, duyên trần đã mãn, lại trở về nơi cũ. Nay bởi còn chút duyên thừa nên mới đến viếng thăm”.

Điền-Canh-Dã hỏi : “Tôi kết cuộc ở quan tước nào ?”

Phu nhơn đáp : “Quan vị còn tăng, không phải chỉ chừng ấy mà thôi”.

Tôi thọ được bao lâu?

Đáp : Cơ trời khó nói, tướng công lúc chết không về nơi hương lý, không ở chốn quan nha, không tại quán dịch bên đường, cũng không mất giữa chiến trận, thời đến sẽ tự rõ.

Hỏi : “Sau khi tôi chết, còn được thấy nhau nữa chăng ?”

Đáp : “Việc này đều do tướng công, nếu cố gắng tu, khi sanh lên cõi trời tất sẽ được gặp, bằng không chắc sẽ khó hy vọng”.

Sau Điền-Canh-Dã đi chinh phạt giặc Miêu trở về già, yếu chết dưới trướng binh.

LAI-TINH-HẢI

Lai-Tinh-Hải còn có tên là Lai Phục, người ở Tam-Nguyên xứ Hiệp-Tây. Ông thi đỗ tiến sĩ vào khoa Đinh Mùi, niên hiệu Vạn Lịch. Cha ông là Lai-Thiếu-Sâm, tánh điềm đạm khiêm nhường cũng là một bậc tiến sĩ.

Khi ông Lai-Tinh-Hải chưa sanh, trong làng có một vị tăng pháp danh Lai Phục, dốt chữ, chỉ nhờ người dạy học thuộc lòng được phẩm Phổ-Môn và Bát-Nhã Tâm-Kinh, ngoài ra không biết chi cả. Cách làng hơn mười dặm, có khoảng sông cạn đầy cát, đến mùa mưa nước tràn ngập, người đi lại rất lấy làm khổ sở. Sư Lai Phục không hề nhọc nhằn, tự thân đứng ra đắp đường làm cầu, có ai quyên trợ cũng đều từ tạ. Do đấy, xa gần đều gọi sư là Phật Hòa-Thượng. Có người thấy sư khổ hạnh, dốt nát, gọi là Chuyết Hòa-Thượng (Hoà-Thượng quê vụng). Cũng có kẻ hiềm sư không chịu đi đám tụng kinh, nên gọi là Lại Hòa-Thượng (Hòa-Thượng làm biếng). Duy tiến-sĩ Lai-Thiếu-Sâm kính trọng sư, nên gọi là Hữu-Hạnh Hòa-Thượng.

Sư tánh không thích cầu cạnh người, Lai-Thiếu-Sâm biết ý, thỉnh thoảng đến chùa nghe sư tụng hai thứ kinh và cúng dường vải gạo cùng các thức ăn.

Một hôm Lai-Thiếu-Sâm đang ngồi ở thính đường xử việc chợt thấy Lai Phục đi vào. Lai-Thiếu-Sâm vội vã đứng lên đón rước, nhưng sư không đoái hoài đến, đi thẳng vào nhà trong ; kêu hỏi cũng chẳng đáp, Lai-Thiếu-Sâm đang lấy làm lạ, thì giây lát có tin truyền ra là phu nhơn sanh được một bé trai. Ông vội cho người đến chùa hỏi thăm, mới hay sư vừa hóa kiếp. Lai-Thiếu-Sâm biết sư đã thác sanh làm con mình, nên đặt ký danh là Lai Phục.

Thuở niên thiếu, Lai Phục cực thông minh, đọc rất nhiều sách, tinh cả nghề thuốc và bách công kỹ nghệ. Lớn lên thi đỗ đi làm quan các nơi, kẻ nghe biết đến cầu trị bệnh, cứu được rất nhiều người. Khi lớn tuổi, ông cáo bệnh về quê, thường nói với người rằng : “Ta vốn là kẻ xuất gia, đi trên đường hoạn lộ đã lâu ; e quên mất tánh bản lai, biết làm sao đây ?”

Lúc sắp chết ông lại nói : “Nay ta muốn trở về để nối thành công nghiệp cũ”. Nói xong liền qua đời.

HẠ-PHÙNG-THÁNH

Quan Tướng-Quốc đời Minh là Hạ-Phùng-Thánh, rong niên hiệu Sùng-Trinh, cùng gia nhân từ miền quê lên Kinh sư. Thuyền vừa đến mũi Tầm-Ngư, thuộc dòng Cửu-Giang, sóng to gió lớn chợt nổi lên. Hạ-Phùng-Thánh vội mặc triều phục, cầm hốt ra trước thuyền khấn vái. Khi ấy người trên thuyền thấy giữa hư không có vị thần mặc áo lục đỏ, xách xon quỉ đen liệng xuống nước, liền đó, sóng gió dừng lặng. Hạ-Phùng-Thánh cho thuyền ghé vào bờ, thiết lễ cúng nơi miếu Đại-Vương ở bên sông, để đáp ơn thần phù hộ. Do duyên sự này, từ đó về sau dân chúng càng tin tưởng, đem hương đèn, dê lợn dâng cúng nơi miếu mỗi ngày thêm nhiều.

Năm Sùng-Trinh thứ mười ba, Kỳ-Thân-Vương muốn phục hưng đạo tràng Quy-Ngưỡng, cho rước Tam-Muội-Quang luật sư vào đất Sở. Thuyền qua Cửu-Giang, Tam-Muội-Quang mơ thấy một vị áo mão trang nghiêm đến thưa rằng : “Tôi là Tống Đại-Vương, thủy thần ở sông Cửu-Giang. Kiếp trước tôi cùng Tam-Muội-Quang và Hạ-Phùng-Thánh, hai người là bạn đồng tu ở chốn thâm sơn. Tam-Muội-Quang không mê là chánh nhơn, nên đời nầy là bậc cao tăng. Hạ-Phùng-Thánh do phước duyên, lên đến ngôi Tể-Tướng. Còn tôi, vì một niệm sai lầm, trở thành vị thần hưởng huyết thực. Trước đây, Hạ-Phùng-Thánh bị con yêu nơi cây đại thọ ở mũi Tầm-Ngư nổi sóng muốn lật thuyền, tôi vì nghĩ đến tiền duyên nên ra tay giúp đỡ. Không ngờ do sự việc đó mà dân chúng sát sanh đến cúng tế ngày càng thêm nhiếu, e rằng tương lai tất bị đọa vào vô gián địa ngục. Ngày mai Tam-Muội-Quang đi ngang qua đây, xin ghé vào miếu, từ bi thọ lý cho. Lại xin công bố việc này cho bốn phương hay biết, để về sau dân chúng đừng sát sanh cúng tế nữa. Như thế, niềm hân cảm mối thâm ân sẽ vô hạn!: Sau khi tỉnh dậy Tam-Muội-Quang ghi nhớ và nhứt nhứt làm y theo lời.

Từ đó về sau, giang thuyền qua lại mũi Tầm-Ngư, quanh năm đều được yên ổn, kẻ lữ hành chỉ dùng trai thực quả cúng tế mà thôi. Chuyện này cùng với việc thần hồ Cùng-Đinh thác mộng cho vị sư con vua nước An-Tức cầu cứu độ, có phần tương đồng. (Trích lục Trì Bắc Ngẩu Đàm).

TĂNG CHUYỆN VỊ LÃO

Thế gian diễn hứa bi hoan sạ
Dục nhập tham thiền vạn kiếp không.

Thời Trung-Hoa Dân-Quốc cư sĩ Uông-Hiểu-Viên một hôm ra chợ, thấy vị lão tăng đứng ngó sững vào hàng thịt rưng rưng nước mắt, cư sĩ lấy làm lạ hỏi duyên cớ. Lão tăng đáp :

Câu chuyện rất dài xin lược thuật phần đại khái. Tôi nhớ được hai kiếp về trước. Đời thứ nhứt, tôi là một tên đồ tể. Hơn ba mươi tuổi mãn phần, hồn bị người bắt trói đưa đi. Minh-Quan trách là nghiệp sát nặng, cho quỷ áp giải đến Ty-chuyển-luân để thọ ác báo. Lúc bị xô xuống con sông đen tối, tâm thức tôi hoảng hốt mơ màng, thoạt tiên thật nóng như lửa đốt khó nhẫn, kế đó cảm hơi mát mẻ ; tỉnh ra thì mình đã sanh kiếp súc vật trong chuồng heo. Sau khi dứt sữa, thấy thức ăn không được sạch, lòng cũng biết nhàm gớm, nhưng vì đói quá gan ruột còn cào, nên bất đắc dĩ phải nhắm mắt nuốt vào. Sau lần lần thông tiếng nói của loài heo, thường cũng hỏi han nhau, trong đồng loại cũng có lắm kẻ nhớ biết kiếp trước của mình, xong không thể nói cho người hiểu được. Đại để đều nhận thức mình sẽ bị giết, nên có lúc rên rỉ, đôi mắt ướt, là tỏ dấu bi sầu. Loài heo thân thể thô nặng, vào mùa hạ rất nóng khổ, chỉ tìm vũng bùn nằm vùi mới đõ, xong cũng không thường có được. Bởi lông thưa và cứng, nên mùa đông lại khổ vì lạnh, thân thể giá buốt, thấy loài dê chó lông nhuyễn dày, hằng mơ ước, xem như loài thú tiên. Đến lúc bị bắt tự biết mình không khỏi, nhưng sợ quá nhảy chạy càn mong kéo hưỡn mạng sống được phút nào hay phút nấy. Khi bị trói rút bốn chân khiêng đi, dây khuyết đau đến tận xương. Lúc người bỏ lên xe chở về, thân hình cùng đồng loại chồng chất đè lên nhau, máu huyết ứ đọng, gần như muốn đứt. Khi đến nhà lò, bị liệng xuống đất, gan ruột tựa hồ tan nát. Nhìn thấy dao bén, chảo vạt để hai bên, lòng bắt đầu run sợ, không biết đến khi bị giết sẽ đau đớn như thế nào ?! Lúc thọt huyết, thân tâm sảng sốt rụng rời, thấy ánh dao chớp lên liền nhắm mắt không dám nhìn thẳng. Khi đồ tể ấn lưỡi dao vào cổ, rung lắc mạnh cho huyết chảy xuống bồn, ban đầu còn kêu la, sau chỉ rên nhỏ trong cổ họng cho đến máu chảy đến tắt hơi, sự đau khổ thật không thể hình trạng !

Bây giờ hoảng hốt mê ly như say như mộng, chừng tỉnh dậy thấy mình đã thành hình người. Minh-quan xét thấy kiếp trước còn có nghiệp lành, nên cho chuyển sanh làm người, tức là thân đời nay đây. Vừa rồi, tôi thấy loài heo bị giết thương nó đau đớn, nhớ lại kiếp trước mình đã chịu khổ độc, rồi tiếc cho người đồ tể này tương lai cũng bị nỗi khổ đó, ba mối niệm giao cảm, bất giác thương tâm không biết rơi lệ từ lúc nào !

Nói xong, quay mặt bỏ đi. Lúc ấy, người xung quanh nghe nói, chỉ trỏ bàn tán phân vân. Bác hàng thịt được biết câu chuyện, sanh lòng sọ hãi, từ đó về sau đổi nghề đi bán rau đậu. (Trích lục Phật-Học Chỉ-Nam).

THÁI-THÚ  HỌ NGƯU

Miền Tích-Châu, có Uông-Tả-Viên tiên sinh,biệt hiệu là Sĩ-Khang. Trong niên hiệu Gia-Khánh, Uông-Tả-Viên thi đỗ tiến-sĩ, được bổ làm huyện lịnh ở Tứ-Xuyên. Dưới quyền quản lãnh của tiên sinh có viên Thái-Thú họ Ngưu, vốn là hàng đồng niên và đã chiếm Á-Nguyên ở bản tỉnh.

Quan Thái-Thú nầy, bàn tay mặt là tay người, còn bên trái lại là móng ngựa. Ông nhớ rõ việc ba kiếp trước, tường thuật với tiên sinh rằng :

Đời trước tôi là một vị tướng, vì đánh giặc Miêu tàn sát quá nhiều, nên Minh-Quan phạt cho chuyển kiếp làm ngựa. Khi sanh ra đã đổi thành thân ngựa ở trong tàu, tự bị thưòng la ré nhảy cắn, không ăn mà chết. Minh-ty quở là cưỡng lệnh, đánh phạt, rồi cũng cho chuyển sanh làm ngựa như cũ. Lần này, vì sợ bị trách phạt, nên không dám cầu chết, khi lớn lên được một vị tướng quan chọn lựa để cỡi. Viên tướng này tánh tình nóng nảy hung bạo, nên thân mình thường bị roi vọt, trăm điều thống khổ.

Một hôm vị tướng đánh giặc thua quân địch đuổi theo rất gấp. Tôi chở chủ tướng bôn đào, thoạt chạy đến một khe núi rộng ước hơn trượng, bờ bên kia là đá nhọn dựng chập chồng. Lúc ấy tôi nghĩ : “Nếu nhẩy qua mình sẽ phải chết, xong chủ tướng có thể đào sinh. Như không vượt qua, tất chủ bị binh giặc theo giết”. Nghỉ xong, liều mình cố hết sức nhẩy qua khe núi, bụng bị đá nhọn đâm, rách ruột mà chết. Vị tướng nhờ đó mà thoát nạn.

Sau khi tôi chết, Minh-ty khen là trung nghĩa, hứa cho chuyển làm thân người lại là văn quan, lên đến bậc tứ phẩm. Trước kia lúc tôi sắp làm ngựa, quỷ tốt lấy da ngựa khoác vào mình ; đến khi trở làm người, lại lột da ngựa ấy đi. Nhưng vì tôi đã hai kiếp làm ngựa, da dính khắn vào thân, quỷ dùng dao lột da, đau đến tận xương tủy. Khi dao dọc đến móng lại càng đau đớn, không thể nhẫn, nhân mới lén lút dấu móng chân đàng trước. Quỷ tốt cũng không để ý phát giác. Chẳng ngờ vì duyên cớ đó, mà lúc chuyển sanh, bàn tay ta lại thành móng ngựa.

Kể chuyện xong, Thái-Thú bảo Uông-Tả-Viên rằng : “Lộc vị của tôi chỉ đến chừng này, mạng sống cũng chẳng còn bao lâu, đến ngày tháng ấy … sẽ từ trần”. Sau việc quả nhiên.

Dung Ai bút ký

GIẾT DÊ HẠI VỢ

Lưu-Đạo-Nguyên làm quan huyện tại Bông-Khê, lúc giải chức trên đường về ở trọ nhà họ Tần. Đêm ấy ông mộng thấy một thiếu phụ đến khóc thưa : “Tôi vốn là vợ của họ Tấn nhà này. Vì lỡ tay đánh chết người thiếp, nên bị Minh-Quan  xử phạt đền mạng, lại phạt làm dê. Nay tôi ở trong chuồng, sáng sớm sẽ bị giết để đãi ông. Tôi chết vẫn không tiếc, nhưng vì trong bụng hiện mang thai dê con. Nếu nó nhân đó mà chết theo, thì tội lỗi tôi càng thêm nặng”.

Lưu-Đạo-Nguyên đợi đến sáng thuật lại, thì dê cái đã bị giết. Cả nhà nghe nói khóc rống, nhét dê con trở vào bụng dê cái rồi đem đi chôn.

PHẠM DÂM TRẢ QUẢ

Trần-Sanh ở Động-Đình nhà rất nghèo, nên đen vợ và em trai đi di cư đến Châu-Kinh. Nơi đây thương khách tới lui tấp nập. Trần-Sanh tánh hay chiều chuộng nịnh bợ lại khéo mua bán, nên chẳng mấy năm gia tư có đến ngàn lượng vàng.

Một hôm ông bỗng vướng bệnh nằm liệt vài ngày, rồi chổi dậy bảo vợ cùng em rằng : “Ba người chúng ta kiếp trước đều là tu sĩ, chung nhau gian dâm một thiếu phụ, rồi giết người chồng. Kẻ cầm dao giết chính là tôi. Nay Minh-Vương cho quỷ đến bắt, oan trái tất phải đền trả. Bây giờ tôi đi trước còn hai người chắc cũng không thoát khỏi đâu !” Nói xong tự nhổ râu tóc, lấy dao cắt lưỡi mình ; lại dùng lấy hai ngón tay móc đôi tròng mắt lòi ra, giây phút liền tắt thở.

Cô vợ và người em mấy ngày sau cũng chết.

BẤT HIẾU ĐỌA LÀM HEO

Hầu-Nhị ở Kim-Đơn vốn là kẻ bất hiếu. Bà Mẹ đem gạo giúp đỡ người ăn xin, Hầu-Nhị trông thấy nổi giận đánh mẹ và đuổi ra khỏi nhà. Vợ con khóc lóc can gián, y cũng không nghe. Chẳng bao lâu khắp người Hầu-Nhị sanh ghẻ độc lở lói, hành hạ đau nhức cho đến lúc mãn phần.

nghịch bất hiếu nên bị trừng phạt đọa làm heo ở nhà Trương-Nhị nơi cửa Tuyên-Võ tại Kinh-Sư. Con nên qua đó mà chuộc mạng cha, nếu để trẽ e không kịp !”

Thức dậy đức con y theo lời tìm đến nhà Trương-Nhị, quả có heo nái vừa mới sanh ra mấy con heo con. Trong đó một heo con mình thú mặt người, có râu mép, trạng mạo giống cha mình. Đứa con thương khóc thuật lại duyên cớ, nguyện đưa ra mười vạn lạng xin chuộc đem về. Nhưng Trương-Nhị không nghe đem heo con ra giết.

Việc này xẩy ra vào niên hiệu Khang-Hy thứ 39 đời Thanh.

VÙI TRONG BẾP LỬA

Bên nhà một phú ông ở Hoa-Đinh có thân cây khô rất to. Ông sắp đốn, thì đêm lại mộng thấy một lão nhân dẫn nhiều người tới, xin hãy thong thả chậm lại ít hôm cho dời đi. Phú ông biết trong cây có vật lạ, sai người trèo lên nhìn xem, thì thấy cây đó bọng ruột. Trong bọng cây vô số rắn lạ nằm khoanh. Ông liền bảo đầy tớ chất củi đổ dầu đốt cháy cây ấy. Lúc đó hơi tanh hôi bay xa cả dặm, phú ông đắc ý vỗ tay cả người.

Không bao lâu, ban đêm thấy có đám lửa to bay vào nhà. Ông gọi gia nhân thức dậy đến cứu chữa, nhưng lại tịnh nhiên không có chi cả. Việc như thế xảy ra nhiều lần rồi đều lặng lẽ, cả nhà không thấy làm lạ. Đêm nọ đứa tớ gái trộm củi đem nấu đồ riêng, bỗng lửa cháy phát đỏ. Phú ông và tất cả gia nhân đều cho là trạng thái cũ, nằm nghỉ luôn không thức dậy. Nhưng lần này nhà cháy thật, cả gia quyến đều bị vùi thân trong lửa.

 

Phật Nói Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi

Việt dịch: Thích Chúc Hiền

 

Chính tôi nghe như vầy! Một hôm Đức Phật ở giữa hai cây Sa-la, bên bờ sông Bạt-đề. Ngài độ cho nguời đệ tử cuối cùng là Tu-bạt-đà-la xong. Khi đó,Các đại Bồ-tát, các đại đệ tử Thanh Văn, các đại Phạm Vương cùng trời, rồng, quỷ thần, các Quốc Vương.v.v…tất cả chúng sanh, ai nấy đều trang nghiêm, không tán loạn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại chúng: “ Đại-bát-niết-bàn đã nói xong,truớc đó, ta đã nói rõ muời phương các cõi nuớc Phật cho Bồ Tát Phổ Quảng. Giờ đây, trong chúng đây, các ngươi có điều gì còn nghi ngờ thì hãy mau hỏi. Pháp báu vô thuợng không bao lâu sẽ diệt.

Bấy giờ, nghe Đức Phật nói lời ấy, cả đại chúng không nén đuợc cơn xúc động, buồn tủi than khóc, chỉ có các bậc chứng đắc, giải thoát thì không còn vướng mắc đau buồn. Khi đó, trong chúng có một vị Bồ-tát tên là Thuờng Thí, nương vào oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chấp tay, huớng về Phật mà thưa rằng: “ Thưa Đức Thế Tôn!Có điều con muốn hỏi nhưng sợ làm phiền lòng Ngài, xin Đức Như Lai không cho đó là lỗi !” Phật bảo Thuờng Thí: “ Như Lai đã độ tám pháp ở thế gian, cần nghi ngờ gì?”. Bồ Tát Thuờng Thí cung kính thưa Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn Như Lai! Vào đời sau, tất cả chúng sanh không còn nhìn thấy sắc thân của Đức Như Lai, không còn nghe giáo pháp chân thật. Vào đời vị lai, thời kỳ tuợng pháp, Pháp lành càng ngày càng suy yếu, Pháp ác càng ngày càng mạnh mẽ, lúc đó, nên dạy cho chúng sanh làm phuớc đức gì tốt nhứt?” Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thuờng Thí rằng: “ lành thay! Lành thay! Thật rất đáng xót thương cho chúng sanh ở đời sau. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh siêng năng khổ nhọc tu hành mà không gặp đuợc chánh lý, làm phước nhiều nhưng được phước báo rất ít.”

Này thiện nam tử! Trong đời vị lai, các tỳ kheo, tỳ kheo ni, Phật tử nam, Phật tử nữ, vua chúa, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn.v.v… mà khinh rẻ giáo pháp ta, không có lòng chân thật kính tín Tam Bảo thì dù cho có làm phước thì cũng chỉ khéo cầu danh, cầu lợi, cầu hơn nguời khác mà thôi. Vì vậy, họ không có một tâm niệm xuất thế.

Này thiền nam tử! Vào đời vị lai,trong thời tượng pháp, xảy ra vô số các việc tai ương, xấu ác. Vì sao? Vì tất cả Tăng tục không biết luật lệ, phép tắc. Đàn việt thì mở hội thỉnh Tăng,nhưng lại sai nguời gìn giữ cửa nẻo, ngăn tỳ kheo không chấp nhận vào hội, hoặc giả có nguời nghèo cùng muốn vào xin ăn cũng không cho. Mở hội như thế chỉ là để ăn uống, chứ hoàn toàn không có phuớc lành gì. Lại có chúng sanh chỉ muốn riêng mình làm thiện mà không giáo hóa cho chúng sanh khác(tr5), thấy nguời khác làm thiện không chịu vui theo trợ giúp ít nhiều, bọn nguởi như thế phước đức kém cõi.

Lại có chúng sanh thấy chùa, tháp, hình tuợng cũ , cho đến kinh điển hư hoại cũng không chịu sửa sang, cho rằng đó chẳng phải do ta tôn tạo truớc kia nên đầu cần sửa chữa làm gì, thà rằng tự mình tạo dựng cái mới. Này thiện nam tử! Tạo dựng cái mới phước đức không bằng tu sửa cái cũ, tu sửa cái cũ phuớc đức rất nhiều.(tr-6)

Lại có chúng sanh thấy nguời khác gôm nhóm làm các việc phước lành, do vì muốn mình cũng được nỗi tiếng, nên đem gia sản ra để bố thí. Còn đến khi thấy nguời nghèo cùng, hay người già cô quạnh không nơi nương tựa đến xin thì lại mắn chửi, xua đuổi, không hề có một mảy may cứu giúp. Các chúng sanh như thế là do vì danh tiếng làm điên đảo mà làm thiện hay vì danh tiếng làm cho si cuồng mà tu phuớc, chứ không phải thực sự làm phuớc. Nguời như thế thật đáng thương xót! Sử dụng tài sản thật nhiều mà đuợc phuớc đức rất ít.

Này thiện nam tử! có lần ta bảo với đại chúng rằng: “Nếu có người ở trong A-tăng-kỳ, đem thân cúng duờng muời phương các Đức Phật, các vị Bồ-tát, và các vị Thanh Văn thì không bằng có người đem cho loài súc sanh một bữa ăn uống, phước của người này hơn nguời kia gấp vô luợng vô biên trăm ngàn vạn lần.

Này thiện nam tử! Trong các Kinh điển ta đã đề cập đến việc bố thí là muốn cho người xuất gia, tại gia tu tập tâm từ bi. Bố thí cho nguời nghèo cùng túng thiếu,nguời già cô quạnh không nơi nương tựa, hay kể cả bố thí cho loài chó đói. Các đệ tử của ta không hiểu ý ta nên chỉ chuyên bố thí kính điền mà không thí bi điền. Kính điền tức là Phật, Pháp, Tăng.(tr_8) Bi điền chính là những nguời nghèo, nguời già cô quạnh không nơi nương tựa, cho đến loài kiến. Hai loại ruộng phuớc này, thì Bi điền là hơn hết.

Này thiện nam tử! có nguời từ khi sanh ra cho đến lúc về già, suốt đời đem tài vật làm việc bố thí, lại có nhiều người không giống nhau, nghèo giàu sang hèn, hoặc tăng hoặc tục cùng tương trợ muốn giúp đỡ nguời khác nên thuờng xuất ra rất ít tiền của, gôm tập một nơi, tùy nghi bố thí cho nguời nghèo, nguời già cô quạnh không nơi nương tựa, hay nguời bị bệnh tật hiểm nghèo thì phuớc đức ấy rất lớn. Giả sử không có của bố thí nhưng trong từng tâm niệm muốn bố thí thì cũng được công đức không thể cùng tận (tr-9). Còn như chỉ riêng mình hành bố thí thì phuớc rất ít.

Này thiện nam tử! Trong đời vị lai, các đệ tử của ta thuờng ưa thích y phục đẹp, ăn những món ăn mùi vị ngon, ham cầu lợi duỡng, chất chứa tham lam, không tu tâm từ, chuyên làm việc sân giận, thấy nguời khác làm việc thiện ganh ghét cơ hiềm.

Tóm lại, những nguời ấy thuộc về tà mạng, dối gạt để mưu cầu danh lợi, nếu thấy có người bố thí cho nguời nghèo cùng xin ăn, thì sanh lòng sân giận, nghĩ như vầy. Nguời xuất gia đâu cần bố thí, chỉ tu thiền định, trí tuệ (tr-10), đâu cần làm những việc rối rắm vô ích. Nghĩ như vậy là quyến thuộc của ma. Nguời ấy mạng chung rơi vào địa ngục chịu khổ vô cùng, từ địa ngục ra lại rơi vào hàng ngạ quỷ thọ khổ không cùng. Từ ngạ quỷ ra, 500 đời sanh làm thân chó, thoát đuợc kiếp chó, 500 đời thuờng sanh vào chỗ nghèo hèn, luôn bị bệnh hoạn, đói khổ bức bách, không có lúc nào tâm được thong thả tự do. Vì sao? Do vì khi thấy nguời khác bố thí không sanh lòng tùy hỉ.(tr-11)

Này thiện nam tử! Ta nghĩ nay ta sỡ dĩ được thành Phật là do trải qua vô số kiếp làm việc bố thí, giúp đỡ các chúng sanh nghèo cùng khốn khổ. Muời phương chư Phật cũng từ bố thí mà đuợc thành Phật. Thế nên, trong hầu hết các kinh đều nói sáu Ba-la-mật thì bố thí là đứng đầu.

Này thiện nam tử! Ví như có người bị cụt hai chân, dẫu muốn đi xa cũng không thể đi đuợc. Tỳ kheo cũng như thế.(tr12) Dù trải qua hằng sa kiếp tu năm Ba-la-mật mà không tu bố thí thì cũng không đến được bờ bến bên kia Niết-bàn.

Này thiện nam tử! Không hành bố thí thì giới không thuần, giới không thuần thì không có tâm từ bi, không có tâm từ bi thì không thể nhẫn nhục, không nhẫn nhục thì không tinh tấn, không tinh tấn thì không thiền định, không thiền định thì không có trí tuệ, không có trí tuệ thì thuờng bị vô luợng khách trần làm cho phiền não. (tr13)

Này thiện nam tử! Pháp môn bố thí này ba đời chư Phật đều kính trọng. Thế nên, trong tứ nhiếp pháp(1) thì tài nhiếp (bố thí nhiếp) là hơn hết.

Này thiện nam tử! Ta có lúc khen ngợi trì giới, có lúc khen ngợi nhẫn nhục hoặc có lúc lại khen ngợi thiền định, hoặc có lúc lại khen ngợi trí tuệ, hoặc có khi khen ngợi hạnh đầu đà, hoặc có khi khen ngợi hạnh ít muốn biết đủ, hoặc có khi khen ngợi hàng Thanh Văn, hoặc có khi khen ngợi Bồ-tát. Đó là do tuỳ theo căn cơ của chúng sanh không đồng. (tr-14) Các ác tỳ kheo trong đời vị lai không hiểu ý của ta nên đều chấp ngã, từng thấy tuớng đó.Người như thế là phá hủy Pháp ta. Các ác tỳ kheo cũng ngồi diễn nói kinh pháp nhưng không thấu hiểu được thâm ý của ta, theo văn, chấp nghiã trái với chơn pháp thật tuớng vô thuợng, miệng thuờng tự khen nghiã lý mình nói điều hợp với ý Phật. Còn các Pháp sư khác thì dối làm mê hoặc Tăng tục. Nguời nói lời như thế mãi chìm trong biển khổ. Các ác tỳ kheo thấy các nguời khác tu thiền định thì lại nói rằng nguời này ngu si, giống như cây khô, không biết kinh luận nào để tu hành. Người nói lời ấy mắc phải tội báo trong nhiều kiếp. Các ác tỳ kheo vì danh lợi, cho nên luân phiên hủy nhục nhau, các ác tỳ kheo hoặc tu phước mà không nương vào kinh luận, tự theo tư kiến lấy trái làm phải, không phân biệt được tà chánh, huớng vào khắp Tăng tục mà nói lời rằng: “Thấy biết của ta là đúng”. Nên biết rằng người ấy chóng làm tiêu diệt giáo pháp ta. Các ác tỳ kheo cũng trì luật, nhưng, đối với tạng luật không thông hiểu nghiã lý sâu mầu, mà còn nói lời như vầy(tr-16): “Trong tạng luật, Đức Phật chấp nhận cho ăn thịt.”

Này thiện nam tử! Nếu ta giải nói nghiã ăn thịt là điều mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát điạ hạ còn mê mờ. Vì thế,Tỳ kheo phàm phu nghe vậy đem lòng chê bai. Tạng Luật chấp nhận việc ăn thịt là điều không thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Ta từ khi mới thành đạo cho đến nay, có các đệ tử nơi nơi nhận ăn thịt. Người phàm phu thật sự thấy ăn thịt, lại có chúng sanh thấy các tỳ kheo thị hiện ăn thịt(tr-17). Lại có chúng sanh khi biết các tỳ kheo ăn thịt nhưng vào sâu vô luợng các các môn đối trị, vô luợng tỳ kheo đoạn thuợng phần phiền não(1), vô luợng tỳ kheo đoạn trung phần phiền não, vô luợng tỳ kheo đoạn hạ phần phiền não, độ thoát vô luợng chúng sanh, khiến vào Phật đạo. Việc giáo hóa của Như Lai không thể nghĩ bàn. Ta từ khi thành đạo cho đến nay, các đệ tử của ta chưa từng ăn thịt chúng sanh. Ta ở trong tạng luật chấp nhận ăn thịt(tr-18) là vì nhất định biết thịt ấy không từ bốn đại sanh, không từ thai sanh, không từ trứng sanh, không từ nơi ẩm thấp sanh, không do biến hóa sanh, cũng không hợp với thức, không hợp với mạng. Nên biết thế gian đều không có thịt này.

Này thiện nam tử! Các ác tỳ kheo trong đời vị lai ở các nơi giảng nói kinh luật, theo văn chấp nghiã, không biết những điều sâu kín ẩn tàng của Như Lai nói.

Này thiện nam tử! Đức Phật thị hiện ở đời mà khiến các đệ tử ăn thịt chúng sanh thì (tr-19) thật ra không có điều đó. Nếu ăn thịt thì sao gọi là bậc Đại Bi. Này thiện nam tử! Nay trong Pháp tịnh này có số chúng nhiều vô luợng nhưng mỗi nguời đều có cái nhìn khác nhau. Có nguời thấy Như Lai vào Niết-bàn, có nguời thấy Như Lai trụ một kiếp, có nguời thấy Như Lai trụ vô luợng kiếp, có nguời thấy Như Lai có thân cao sáu truợng, có nguời thấy thân nhỏ, có nguời thấy thân lớn, có nguời thấy báo thân ngồi trên biển Thế Giới Liên Hoa Tạng, hóa ra ngàn trăm ức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp môn tâm địa. Có nguời thấy pháp thân đồng với hư không, không phân biệt, vô tuớng, không có ngăn ngại trùm khắp pháp giới.(tr-20) Có nguời thấy đất rừng Sa-la chỗ này đều là đất cát, cỏ cây, đá sỏi. Có nguời thấy chỗ này là vàng bạc bảy báu thanh tịnh trang nghiêm. Có nguời thấy chỗ này là chỗ tu hành của bà đời chư Phật. Có nguời thấy chỗ này là cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư Phật.

Này thiện nam tử! Chư Phật ra đời, du hoá, dừng trụ mọi nơi thảy đều xa lìa tuớng thế gian, cũng không lìa thế gian mà hiển bày pháp thật tuớng. Giáo pháp của Đức Như Lai gồm thâu vạn Pháp (tr-21). Khi Đức Phật diễn thuyết một chữ, một câu, một tiếng có thể khiến cho tất cả chúng sanh tùy theo căn tánh chủng loại mà hiểu khác nhau. Pháp bất cộng của Như Lai chẳng phải là chỗ hiểu biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Như Lai dùng sức tự tại tùy theo căn cơ trình độ mà giáo hóa chúng sanh. Vào thời tuợng pháp, các ác tỳ kheo không hiểu ý ta, chấp vào sở kiến của mình mà diễn thuyết mười hai thể loại kinh (tr-22) Theo văn lấy nghiã tạo nên thuyết nhất định. Nên biết nguời này làm oan cho ba đời chư Phật, chóng làm tiêu diệt giáo pháp của ta. Này thiện nam tử! Các Đức Phật thuyết Pháp thường y vào hai Đế ( tục đế và chơn đế ), chỉ gần để nêu xa, mượn hình tuợng để hiển bày nghiã lý sâu mầu. Các ác tỳ kheo ở nơi nghiã này không thể hiểu rõ, bài xích không tin, theo tướng lấy nghiã nên phải chịu tai ương nhiều kiếp. (tr-23) Các tỳ kheo này cũng lại tự xưng là Pháp sư, ta là Luận sư, ta là Thiền sư, chính ba hạng học nhơn này làm tiêu diệt Pháp ta chứ không phải nguời nào khác. Ba hạng nguời này đua nhau nói lỗi, đua nhau bài xích. Ba hạng nguời này sa vào trong địa ngục giống như tên bắn.

Bấy giờ, Bồ Tát Thuờng thí cung kính thưa Phật rằng: “ Thưa Đức Thế Tôn! Các tỳ kheo đó khi nào mới thoát đuợc?”. Này thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ khoảng ngàn năm Pháp ác dần dần dấy khởi.Sau một ngàn một trăm năm, các ác tỳ kheo, tỳ kheo ni đầy khắp Diêm phù đề, nơi nơi sung túc, nhưng, không tu đạo đức, đa số cầu tài vật, chuyên hành phi pháp, phần nhiều nuôi tám vật bất tịnh, chính họ không đủ mười đức mà nuôi hai hạng Sa-di ( Sadi và Sa-di ni), chính họ chưa đầy mười hạ lạp mà độ nguời làm Sa-di.Vì nhân duyên ấy, khiến cho mọi nguời thế tục coi rẻ Tam Bảo. Từ đó về sau, tất cả Tăng Tục đua nhau cất tháp xây chùa đầy khắp thế gian, chùa tháp, hình Tượng nơi nơi đều có, còn như ở núi sâu, đồng vắng hoặc ở ven đuờng, hoặc hang cùng ngỏ hẻm, những nơi xú uế, bị hư sụp đổ nát thì không người sửa chữa. Bấy giờ, Tăng Tục dù có xây chùa cất tháp cúng dường Tam Bảo, nhưng không sanh lòng cung kính, thỉnh Tăng đến ở Chùa nhưng lại không cúng dường cơm nuớc, y phục đồ nằm, thuốc thang, trái lại mượn cớ lấy xin đồ ăn của Tăng, không sợ một mai rớt vào ba đuờng khổ. (tr-26) Bấy giờ, hết thảy người tục, bất luận sang hèn chỉ muốn trong Tăng làm điều bất lợi, xâm tổn não loạn, không muốn ủng hộ. Bọn người như thế mãi đọa trong tam đồ.

Này thiện nam tử! Ở đời vị lai, hết thảy quan lại thế tục không tin tội phuớc, đánh thuế cuớp đoạt Tăng vật, hoặc thuế súc sanh, lúa gạo, kể cả vật nhỏ như tơ hào cũng đánh thuế nốt, hoặc sai sử những nguời phục vụ Tam Bảo, hoặc cởi trâu ngựa của Tam Bảo. Theo phép hết thảy quan lại thế tục không đuợc ức hiếp đánh đập súc sanh, cũng như những nguời phục vụ Tam Bảo, cho đến không được nhận sự lễ bái của nguời phục vụ Tam Bảo(tr-27)Nếu nhận sự lễ lạy đều bị tội họa, huống gì xua đuổi đánh đập. Báo cho các quan lại rằng nếu có thâu thuế thì hãy đề phòng lưới sắc, cẩn thận đừng thâu thuế tỳ kheo. Nếu ham thâu thuế nguời xuất gia thì chịu vô luợng tội lỗi. Này thiện nam tử! Đương thời, tất cả Tăng tục nếu gieo tạo phuớc lành thì nên bố thí cho những nguời già cô quạnh không nơi nương tựa, những nguời bần cùng đau ốm. Kế đến nên sửa chữa chùa tháp, hình tượng bị hư hoại, bất luận của mình hay của nguời (tr-28) tùy theo khả năng mà sửa chữa, thì công đức nguời đó không thể nghi bàn, chỉ nên sửa cái cũ, không cần tạo thêm cái mới. Này thiện nam tử! Vì cớ gì mà vào đời vị lai tất cả nguời tục coi rẻ Tam Bảo? Chính vì tỳ kheo, tỳ kheo ni không như Pháp, thân mặc pháp phục mà coi thuờng đạo lý, duyên vào trần tục, hoặc mua bán nơi chợ búa để làm kế sống, hoặc dong ruổi đó đây để buôn bán cầu lợi, hoặc làm nghề họa sư vẽ vời tinh xảo, hoặc coi tuớng nam nữ tốt xấu, ăn uống ca múa say sưa, bấn loạn, sáng tác âm nhạc, hoặc chơi vi kỳ(1), (2) lục bát.

 

Hoặc có tỳ kheo nói Pháp để mong cầu được ý người, hoặc tụng chú thuật để trị bệnh cho người khác, hoặc tu thiền nhưng không thể tự nhứt tâm đuợc, dùng pháp tà định xem coi tốt xấu, hoặc châm cứu, bốc thuốc để mong cầu áo mặc cơm ăn. Vì nhân duyên đó, khiến cho nguời đời đâm ra không kính trọng, chỉ trừ các vị Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sanh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Thuờng Thí rằng: “Này thiện nam tử!(tr-30) Vào đời vị lai, trong hàng tăng tục, có những người tạo lập hình tuợng ta và hình tuợng các vị Bồ Tát rồi đem bán mua đổi lấy tiền của để làm mưu kế sinh nhai, hết thảy Tăng tục không biết tội phuớc, bán mua hay nhận sự cúng dường cả hai đều mắc tội lỗi, trong năm trăm đời, thường bị nguời khác bán mua. Nầy thiện nam tử! Vào đời vị lai tất cả chúng sanh tạo lập hình tượng, đều không thành tựu đầy đủ các tướng tốt, hoặc tạc tượng bán thân, hoặc tạc tượng không đầy đủ tay chân, tai, mũi, mắt, miệng đều không giống, hoặc chỉ ảnh huởng sơ sài mà thôi, hoặc tạo chùa tháp mà không an trí hình tuợng. Nếu có chùa tháp, tượng Phật hư hoại thì không tu sửa. Bọn người như thế mắc vô lượng tội. Này thiện nam tử! Vào đời vị lai, các tỳ kheo.v.v… chỗ ở tự cùng nhau xuớng chế, ngăn cấm Tăng bốn phương, hợp làm hạn định bửa ăn, hoặc một ngày, mười ngày, hoặc năm, bốn, ba ngày, thậm chí một bửa. Các tỳ kheo ấy mạng chung đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ vô cùng.

Lại có tỳ kheo hoặc sa-di lấy đồ vật của chúng Tăng coi như mình có, tỳ tiện lấy dùng(tr-32),hoặc cùng bè bạn ăn uống phi thời.

Các tỳ kheo, sa-di ấy nhẫn đến một ngàn Đức Phật ra đời, họ mãi mãi không được nghe Pháp, thường qua lại trong Tam đồ, không thể sám hối.Nếu cùng với nguời ấy ở chung, làm các việc tác Pháp yết ma, Bồ Tát đều không thành tựu, đều phải mắc lấy tội báo.

Này thiện nam tử! Nếu có nguời phạm đủ bốn trọng, năm nghịch còn dễ cầu Sám hối, còn như xâm tổn một mảy tơ, một hạt gạo, ăn uống phi thời, tự do lấy dùng thì mãi chìm trong biển khỗ, không khi nào ra. Hoặc hiện đời chịu các suy não, nếu cùng nguời ấy ở chung, đem ngày mắc tội. Này thiện nam tử! Vào đời vị lai có những nguời đời không biết tội phuớc, vì cha ông hoặc bản thân mình mà tạo tượng Phật, kinh sách, tràng hoa đem bán cho nguời khác để nuôi vợ con thì không nên mua.(tr-34)

Khi ấy, quan lại nguời có thế lực bắt được người đó cần phải trừng phạt nặng nề, đuổi ra khỏi nước.

Này thiện nam tử! Vào đời vị lai, tỳ kheo, tỳ kheo ni, Phật tử nam, Phật tử nữ, vua chúa, đại thần hoàng hậu, hoàng phi trong cung, hủy phạm giới cấm, không biết hổ thẹn, không biết sám hối. Vì nhân duyên này, khiến cho giáo pháp ô nhiễm. Này thiện nam tử! Vào đời vị lai, các ác tỳ kheo, chấp chặc vào chỗ ở giống như người đời, giữ gìn phòng nhà của mình, không y theo thời hạn 3 tháng dời đổi một lần,(tr-35) thấy có tỳ kheo y bát tùy thân chỗ ở của họ đầy chín muời ngày thì lại dời đổi. Các ác tỳ kheo đều nói lời này: “Tâm tánh tỳ kheo ấy bất định, làm những việc rối rắm, cuồng loạn, mất trí, toan tính đổi dời.” Người nói lời ấy mắc phải tội báo vô cùng, vô tận. Này thiện nam tử! Vào đời vị lai, khi các pháp ác dấy khởi, hết thảy Tăng tục cần phải tu hạnh đại từ, đại bi, nhẫn chịu sự não hại của nguời khác, nên nghĩ như vầy: “Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ cho đến ngày nay là cha, mẹ ta, hết thảy chúng sanh từ vô thỉ cho đến ngày nay đều là anh em, chị em, bà con, quyến thuộc của ta. Vì nghiã này, nên từ bi thương xót đối với tất cả chúng sanh, tùy tâm lực mà cứu giúp. Nếu thấy chúng sanh khốn khổ thì tạo các phương tiện chẳng tiết thân mạng. Khi ấy, nếu là bậc vua chúa, đại thần, hoặc là chủ thành ấp, xóm làng, hoặc trưởng giả có thế lực hoặc là Bà la môn.v.v… hoặc tỳ kheo có năng lực thì nên khuyên can khích lệ người ấy, đừng để họ lui sụt, (tr-37) trợ giúp thế lực cho họ đừng cho người ác làm cho họ phải khốn khó, đừng để cho người ác xâm đoạt tài vật của họ. Người trợ giúp như thế có công đức không thể nói hết. Khi ấy, có người nào khởi lòng thưong tuởng bố thí cho nguời nghèo cùng, trẻ mồ côi, nguời già cô quạnh không nơi nương nhờ, thậm chí bố thí cho cả loài kiến thì phước ấy rất mầu nhiệm. Này thiện nam tử! Nếu ta nói cặn kẽ về công đức của việc bố thí cho nguời nghèo cùng, trẻ mồ côi, hay nguời già bệnh tật không nơi nuong tựa thì cùng kiếp nói cũng không hết. Giờ Niết Bàn đã đến, nay ta chỉ nói sơ lược cho ông hiểu thôi.

Bấy giờ, tất cả đại chúng nghe Phật thuyết các loại tai biến vào cuối thời tuợng pháp trong đời vị lai(tr-38). Từng sợi lông trên người đều dựng đứng, không ngăn được dòng xúc động, ai nấy đều gào khóc thảm thiết!

Phật bảo đại chúng rằng: “Thôi đừng khóc nữa! các Pháp thế gian là như vậy. Có thiện ắt có ác. Có thạnh ắt có suy”. Phật bảo Bồ Tát Thuờng Thí rằng: “Hãy nên sắp xếp việc ấy, ông dùng tuớng gì Quán Như Lai, dùng tuớng gì Quán chúng sanh?” Bồ-tát Thường thí cung kính thưa Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn! Con Quán Như Lai không từ mé trước, không đến bờ kia, không trụ khoảng giữa, chẳng có, chẳng không, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc (tr39), chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, giống như hư không, pháp tánh bình đẳng. Từ khi mới thành đạo cho đến Niết-bàn, trong khoảng thời gian ấy, không thấy Như Lai nói một câu Pháp, còn các chúng sanh thì thấy Như Lai có sanh có diệt, có nói Pháp, có độ người. Cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn, không thể dùng nhận thức mà biết đuợc, không thể dùng trí mà biết đuợc, vượt thoát ba đời mà chẳng lìa xa ba đời.(tr-40) Chỉ có Như Lai tự biết pháp này, con Quán như vậy, kính thưa Đức Thế Tôn! Con nay Quán tuớng tứ đại của chúng sanh như mây nỗi trên hư không, như khí nóng thì nóng, như thành Càn-thát-bà, như huyển như hóa, như thôn xóm ở trên không, như ảnh trong gương, như bóng trăng dưới nước, như tiếng vang trong hang trống, thọ tuởng hành thức đều như vậy. Kính thưa Đức Thế Tôn tướng tâm của chúng sanh không thể nghĩ bàn, chẳng phải chỗ hiểu biết của các Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát địa hạ. Kính thưa Đức Thế Tôn! Tướng của chúng sanh chẳng đến, chẳng đi (tr41) chẳng có, chẳng không, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, đến thì không từ đâu đến, đi thì không đi về đâu, mà thường lưu chuyển, hư vọng thọ khổ, đều do vì chúng sanh từ vô thỉ cho đến ngày nay vướng mắc sâu vào ngã kiến, vì vướng mắc vào ngã cho nên làm tăng trưởng lòng khát ái, mười hai nhân duyên, chịu khổ đêm dài không có cùng tận. Tướng của chúng sanh xưa nay rỗng lặng. Do nhân duyên này, hàng Bồ-tát khởi lòng đại bi. Kính thưa Đức Thế Tôn! Tất cả nghiệp thiện, nghiệp ác của chúng sanh chỉ do tâm tạo, chứ không có pháp nào khác(tr-42). Con Quán tướng mạo của chúng sanh như thế.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Thuờng Thí rằng: “ tốt thay! Tốt thay! Ta rất vui khi nghe ông nói Pháp này. Những gì ông nói hôm nay, chư Phật cũng nói như vậy. Bồ-tát hành tứ nhiếp pháp, lục độ Ba la mật thì nên Quán tướng chúng sanh như thế.

Này thiện nam tử! Khi Bồ Tát bố thí không quán phước điền và phi phuớc điền. Nếu thấy chúng sanh nghèo khổ đều thí cho họ. Khi hành bố thí nên Quán như vầy: “Không thấy nguời nhận, không thấy người cho(tr-43), không thấy có vật để cho. Ba việc đều rổng không, bình đẳng, không hề có sự vướng mắc”. Vì sao? Vì tất cả các Pháp khi hành bố thí không có ta và cái của ta, không mong phưóc báo hiện đời, không mong hưỏng phước báo sung suớng trời nguời ở đời vị lai, chỉ vì chúng sanh cầu đại Bồ-đề, vì muốn cho vô luợng chúng sanh được an lạc cho nên hành bố thí. Vì muốn nhiếp phục các chúng sanh ác khiến cho họ trụ vào pháp lành mà hành bố thí. Lại Quán như vầy(tr-44). Tuớng cảnh giới Bồ-đề, tuớng cảnh giới chúng sanh cả hai đều rổng lặng, y vào văn tự cho nên thấy có độ chúng sanh đắc Bồ-đề. Còn trong pháp chân thật, không có đắc, không có chứng. Này thiện nam tử! Như nguời nằm mộng thấy đủ thứ chuyện, hoặc thấy mình bị quan lại trói giam vào ngục chịu các thứ khổ, sanh lòng lo buồn, sau được thoát khỏi, rồi lại mộng thấy làm vua có oai lực lớn, nghĩ như vầy.(tr-45) Ta đêm qua chịu khổ như thế, nay lại đuợc tự do huởng nhiều khoái lạc. Nghĩ như thế rồi, chợt tỉnh giấc, không còn biết việc khổ vui, nên việc nằm mộng chẳng phải có, chẳng phải không. Tất cả các pháp cũng lại như thế. Quán như thế gọi là chánh Quán. Khi nói pháp này, có vô số Bồ-tát đắc quả vị Phật. Vô luợng Bồtát được vào nhất sanh bổ xứ, vô luợng Bồ-tát, mỗi vị tùy theo sở tu của mình đều được sự thăng tiến. Vô lượng trời người đắc bốn đạo quả. Vô lượng Thanh Văn vào giai vị Bồ Tát, vô lượng tạp loại chúng sanh phát tâm Bồ-đề.

Này thiện nam tử! Vào đời vị lai. Nếu bốn chúng đệ tử được nghe kinh này, sanh lòng hoan hỉ thì sẽ đuợc vô luợng vô biên công đức. Phật bảo A-nan và đại chúng, các ông nên khéo thọ trì, cẩn thận đừng quên! Kinh này tên là Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi, cũng gọi là Kinh Cứu Giúp Nguời Cô Độc, cứ như vậy mà thọ trì. Bấy giờ, đại chúng nghe những gì Phật thuyết, một lòng cung kính vâng lời đảnh lễ Phật rồi đi, ai nấy cũng đếu nhận chân được lẽ thật, lo chu toàn lễ trà tỳ, đất trời cảm động tiếc thương!

 

1)Vi kỳ: Là một loại cờ mà vào thời Xuân Thu Chiến Quốc,có Quan ghi chép về Vi Kỳ. Vào thời nhà Hán trong các vật chôn cất ở mộ phát hiện có bàn đá chế làm bàn cờ, đến đời Tuỳ thì truyền sang Nhật Bản, gần đây lại tryền đến các nuớc ở Âu Mỹ. Xưa kia trên bàn cờ có ngang dọc mỗi bên 11 đuờng. 15, 17 đuờng. Từ thời nhà Đương trở về sau ngang dọc mỗi bên 19 đuờng, giao nhau thành 361 điểm theo cách dùng thông thuờng thì con cờ màu trắng và con cờ màu đen đối nhau ( Hán Ngữ Đại Từ Điển, Quyển.3 thuợng, trang 651)

2) Lục bát.

 

Kinh Tuợng Pháp Quyết Nghi (hết)

Ventura, California,ngày 5 tháng 11 năm 2009 Thích Chúc Hiền (cẩn dịch)