HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

QUYỂN 06

Đời nhà Đường Sa môn Pháp Tạng thuật.

 

Phẩm 15: PHẬT THĂNG DẠ MA THIÊN CUNG TỰ TẠI

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI, có hai:

Một là tên gọi của Hội, dựa theo Xứ gọi là Hội Dạ-ma Thiên; dựa theo Pháp gọi là Hội Thập Hạnh, theo giải thích có thể biết.

Hai là tên gọi của Phẩm, Phật là Hóa chủ, dựa vào Thể khởi Dụng, đến với cơ nói là lên cao (thăng).

Ứng cảm nơi nào, đó gọi là Dạ-ma. Dạ-ma nếu đầy đủ thì nói là Tô-dạ-ma, Tô ở Trung Hoa nói là Thiện, Dạ-ma ở Trung Hoa nói là Thời, nghĩa là cõi trời này không có mặt trời-mặt trăng nhưng có thể biết thời gian. Vì vậy, kinh Đại Tập nói: “Nhìn hoa sen đỏ nở ra là ban ngày, hoa sen xanh nở ra là ban đêm.” Luận Câu Xá giải thích: “Gọi là Xướng Nhạc Thiên, cũng gọi là Đa Hý Lạc Thiên, Thiên là nghĩa về thanh tịnh, nghĩa về ánh sáng rực rỡ. Cõi trời này đắm say vui sướng hoàn toàn không nghĩ đến điều thiện, nhờ có Bồ-tát Khổng Tước Vương, và Thiên chủ cõi ấy tên gọi Mâu-tu-lâu-đà Thiên Vương, từng vì Thiên chúng giảng giải khuyên bảo, vì thế hoặc có vị trời thật sự mất bạn, đau buồn khóc lóc bày tỏ với nhà vua; hoặc có vị trời biến hóa rơi xuống nước, sợ hãi khiến cho sinh lòng chán nản.”

Hỏi: Trước sau đều là không rời xa mà lên cao, nên đều gọi là tự tại, vì sao chỉ riêng Hội này nêu về tự tại?

Đáp: Không lay động mà lên cao dạo khắp, cõi trời ở giữa hư không (không cư) này vượt qua cõi trời ở trên mặt đất (địa cư) trước đây, cho nên gọi là tự tại; bắt đầu vượt qua cõi trời ở trên mặt đất không giống như Đâu-suất, cho nên một mình nêu ra tên gọi. Lại dựa theo thực hành tiến vào sâu xa vượt qua hiểu biết trước đây, cho nên dùng tự tại để biểu thị cho điều đó. Lại bởi vì hiểu biết và thực hành nối liền với nhau, cho nên sau Đao-lợi rồi đến Dạ-ma, cùng là nội phàm không giống như Tín trước đây. Bởi vì cảm quả ở đây biểu thị cho hành lìa xa tướng, cho nên đến cõi trời Không này.

B. Ý đưa ra cũng có hai: Một- Đưa ra Hội, đó là bởi vì dựa vào hiểu biết phát khởi thực hành, bởi vì giải đáp câu hỏi về Thập Hạnh trước đây, cho nên đưa ra; hai- Đưa ra Phẩm, nói Minh Pháp là Trú cuối cùng của Hội trước, Thăng Thiên là nguyên do đưa đến của Hội này, sát nhau theo thứ tự, vì thế cần phải đưa ra. Lại Minh Pháp là hiểu biết sâu xa phát khởi tác dụng tiến vào thực hành, cho nên Thăng thiên, vì vậy cần phải đưa ra. Đây là dựa theo pháp mà phân rõ.

C. TRONG TÔNG THÚ cũng có hai: Một, Tông của Hội, dựa theo con người là Hóa chủ và Trợ hóa, dựa theo pháp là Giáo sự và Nghĩa lý, đều có Thể-Tướng-Dụng dung hòa với nhau vô ngại, dựa theo trước có thể biết, nhưng mà thực hành là khác; Hai, Tông của Phẩm, là trang nghiêm trú xứ thỉnh Phật Như Lai thuận theo cảm đến, là Phẩm này đã trình bày.

D. GIẢI THÍCH VĂN Hội này có bốn phẩm kinh, hai phẩm đầu là phần Tựa, hai phẩm sau là phần Chánh thuyết. Trong phần trước có hai: Đầu là Tựa về thỉnh Phật, sau là Tựa về ca ngợi Phật. Lại đầu là Đức Phật lên trên cõi trời, sau là Bồ-tát quy tụ, bởi vì Phật là Hóa chủ cho nên ở trước, Bồ-tát là bạn cho nên tiếp theo ở sau. Lại trước là quảsau là nhân, trước là Năng hóa-sau là Sở hóa.

Trong phần đầu phân định về văn, cùng giải thích giống như nói ở phần đầu của Hội trước. Lại giải thích có bảy: 1) Cây Bồ-đề và bậc Pháp Vương ở mười phương cùng hiện rõ; 2) Chư Phật ở mười phương đều lên trên cõi trời Dạ-ma; 3) Thiên Vương ở mười phương đều trang nghiêm pháp tòa cầu thỉnh Đức Phật; ) Chư Phật ở mười phương nhận lời cầu thỉnh lên trên cung điện; 5) Thiên Vương ở mười phương có được lợi ích ca ngợi chư Phật; ) Chư Phật ở mười phương cùng lên trên pháp tòa hoa sen; 7) Cung điện quý báu ở mười phương thảy đều rộng lớn. Vì sao đều đối với mười phương phân rõ như nhau? Bởi vì pháp môn Viên giáo luôn luôn rộng khắp pháp giới, hễ một pháp khởi lên thì chắc chắn tất cả cùng hiện rõ, cho nên sắp thuyết giảng về pháp này, bởi vì lý không phải là hạn chế thiên lệch, do đó dẫn đến mười phương vô tận cùng thuyết giảng, tức là một thuyết giảng-tất cả thuyết giảng như nhau.

Trong này có ba lớp vô ngại: 1) Một tức là nhiều, Phật dưới một tán cây tức là dưới tất cả tán cây; 2) Động tức là tĩnh, Phật dưới tán cây tức là lên trên cõi trời; 3) Động và tĩnh là một và nhiều, vì thế ở tất cả mọi nơi không lay động mà lên trên cõi trời. Đây là tướng của mười Phật đầy đủ đức viên dung vô ngại, không phải là do Tông khác mà phân rõ, suy nghĩ dựa theo điều đó.

Trong văn: Hai đoạn trước giống như giải thích ở Hội trước.

Ngay trong đoạn thứ ba là trang nghiêm cầu thỉnh có ba: Một là từ xa nhìn thấy duyên thù thắng, hai là trang nghiêm pháp tòa biểu thị cho căn, ba là cầu thỉnh Phật hiển bày về mong muốn. Trong phần hai là trang nghiêm pháp tòa: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Hội trước là một vạn, trong Hội này thì mười vạn, là biểu thị cho tướng tăng thêm của phần vị. Lại cung điện ở Hội trước không phải là vật báu, trong Hội này trang nghiêm bằng vật báu là hiển bày về tướng đầy đủ đức của hạnh đáng quý. Trong phần riêng biệt có 23 câu: Đầu là 7 câu phân rõ về Khí thế gian trang nghiêm, tiếp từ “Thập vạn Thiên tử…” trở xuống là 7 câu hiển bày về Chúng sinh thế gian trang nghiêm, sau từ “Thập phương Như Lai…” trở xuống là 9 câu về Trí chánh giác thế gian trang nghiêm. Lại giải thích: Đầu là 7 câu về trang nghiêm Y báo bên ngoài, tiếp là câu về trang nghiêm Chánh báo bên trong, sau là 10 câu về trang nghiêm pháp môn. Trong trang nghiêm pháp môn: Câu một là tướng của Nhân, hai là tướng của Quả, ba là tướng của Đức, bốn là tướng của Định, năm là tướng của Nguyện, sáu là tướng của Thắng, bảy là tướng của Pháp, tám là tướng của Dụng, chín là tướng của Diệu, mười là tướng của Giáo. Trong phần ba là cầu thỉnh Phật: Đầu là kết thúc phần trước, sau là chính thức cầu thỉnh.

Đoạn thứ tư là nhận lời cầu thỉnh lên trên cung điện, hiển bày về cơ duyên phù hợp với nhau, trước là trình bày về cõi này, sau là tương tự các phương khác.

Trong đoạn thứ năm là Thiên Vương có được lợi ích, cũng trước là phân rõ về cõi này, sau là tương tự các phương khác. Trong phần trước, đầu là lợi ích đạt được Định, sau là lợi ích phát sinh Tuệ. Trong Tuệ, trước là nhớ lại thiện căn của mình, sau là ca ngợi mười Phật xưa kia để hiển bày về thù thắng hôm nay. Lý thật thì tất cả chư Phật quá khứ đều cùng ở nơi này thuyết về pháp Thập Hạnh. Nhưng nay bởi vì biểu thị cho tướng của phần vị dần dần tăng lên, cho nên đối với mười Phật ở Hội trước, theo thứ tự về trước nêu ra danh xưng của Phật này giống như mười Phật để ca ngợi. Ca-diếp về sau giống như chư Phật khác về trước, tất cả đều đã từng như nhau ở nơi này thuyết về pháp Thập Hạnh.

Đoạn thứ sáu là lên trên pháp tòa, đoạn thứ bảy là cung điện rộng lớn, đều dựa theo trước có thể biết.

Phẩm 16: BỒ TÁT THUYẾT KỆ

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Tự Thể là nhân vi diệu, thực hành-tu tập đan xen lẫn nhau, giáo pháp mẫu mực hiển bày rõ ràng, cho nên nói là Bồ-tát Thuyết Kệ.

Nghĩa còn lại cùng với phần

B là Ý đưa ra và phần C là Tông thú, đều giải thích giống như trước.

D. GIẢI THÍCH VĂN: Ba nghĩa giống như trước.

Một là trong phần quy tụ chúng: Trước là cõi này, sau là tương tự nối thông. Trong phần trước: Đầu là hiển bày về nơi chốn bắt đầu đến đây, sau từ “Phật thần lực…” trở xuống là trình bày về Bồ-tát quy tụ đến. Trong phần đầu: Một, phần lượng xa gần là hiển bày về phần vị dần dần tăng lên, trước là một trăm, ở đây là mười vạn…, phạm vi giới hạn còn lại giống nhau, dựa theo như trên. Hai, chính thức hiển bày về tướng của ba thế gian ở trú xứ của mình. Thế giới cùng tên gọi là Tuệ, là bởi vì dùng Tuệ hiểu biết (Giải) trước đây làm chỗ dựa cho thực hành (Hành). Phật cùng tên gọi là Nhãn, là bởi vì biểu thị cho tâm thực hành thấy pháp rõ ràng, lại biểu thị về thực hành các Độ vốn là dẫn dắt cho thế gian. Bồ-tát cùng tên gọi là Lâm, là biểu thị về thực hành hạnh của pháp giới, thành tựu đức của pháp giới. Đức cao mới là cây, Hành nhiều gọi là rừng, mười Độ tươi tốt như thế đều tu, vạn hạnh sừng sững chen kín ngầm phát, pháp so sánh tương tự cho nên gọi là rừng. Văn còn lại có thể biết.

Hai là trong phần phát ra ánh sáng, ngón chân là nơi phát ra ánh sáng, nhưng ngón chân có hai năng lực đi và đứng, phẩm trước làm sáng tỏ về Trú, phẩm này hiển bày về Hạnh, vốn là khác nhau, còn lại giải thích giống như trước.

Ba là trong phần kệ ca ngợi, kệ của mười Bồ-tát tức là mười đoạn, đầu là một kệ tổng quát nói về Sự-Lý của Hội này, sau là chín kệ riêng biệt hiển bày về phần nghĩa thuộc đức của Phật.

Thứ nhất, Đức Lâm là nêu ra người thuyết riêng biệt, bởi vì là Hội chủ cho nên thuyết đầu tiên, nương theo thần lực của Phật hiển bày về chỗ dựa thuyết kệ ca ngợi. Quán sát rộng khắp mười phương, có bốn ý: Một, Địa Luận nói: Hiển bày về không có ngã mạn, không có tâm thiên lệch. Hai, hiển bày về pháp đã thuyết giảng khắp nơi mười phương. Ba, mười phương giáo hóa như nhau. Bốn, Dạ-ma ở mười phương cùng có thuyết về pháp này,cùng lúc hợp lại rồi mới nói thuyết giảng.

Mười một bài kệ phân hai: Đầu là bảy kệ tổng quát nêu ra sự việc trong Hội, sau là bốn kệ ca ngợi về đức tự tại của Phật.

Trong phần đầu: Đầu một kệ tụng về sự việc phát ra ánh sáng trong phẩm này, bởi vì gần cho nên hiển bày trước. Tiếp là hai kệ tụng về sự việc trong phẩm trước, trong đó trước là một kệ rưỡi tụng cõi này, sau là nửa kệ tụng về tương tự mười phương khác. Tiếp là ba kệ tụng về sự việc trong phẩm này, tức là tụng chung hiển bày rõ ràng khắp nơi mười phương. Tiếp là một kệ tụng về văn không rời xa cội cây Bồ-đề mà đến cõi trời Dạ-ma…, trong loài người là mỗi một cõi Diêm-phù trước đây, đạo tràng là dưới tán cây Bồ-đề trước đây.

Trong phần sau là bốn kệ ca ngợi về đức của Phật: Một kệ đầu là ca ngợi về Đức sâu-Dụng rộng của Phật, đều hiển bày trong nửa kệ. Tiếp là hai kệ giải thích về Dụng rộng trước đây: 1- Thuận theo thế gian-rời xa thế gian, cũng đều hiển bày trong nửa kệ; 2- Một và nhiều vô ngại, nửa kệ trước nêu ra, nửa kệ sau giải thích. Đây chính là hiển bày về một thân Lô-xá-na, hiện rõ dưới tất cả các tán cây Bồ-đề. Sau cuối là một kệ giải thích về Đức sâu trước đây, cũng nửa kệ trước nêu ra, nửa kệ sau giải thích, có thể biết.

Thứ hai, tỏ ngộ về lợi ích của nhân quả, cho nên gọi là Tuệ Lâm. Mười kệ phân hai: Đầu là một kệ nêu ra Chương, đó là nửa kệ trước nêu ra đức của Phật khó gặp trình bày về gặp được đáng mừng, nửa kệ sau nêu ra chúng khó gặp hiển bày về gặp được đáng vui, Đại Nhân lìa xa cấu nhiễm là Bồ-tát.

Sau là trong chín kệ giải thích: Đầu là một kệ giải thích về nguyên cớ khó gặp được chúng Bồ-tát, nửa kệ trước hiển bày về trí sáng suốt của mình, nửa kệ sau phân rõ về lợi ích thù thắng cho chúng sinh. Sau là tám kệ giải thích về nguyên cớ khó gặp được đức của Phật, trong đó: Sáu kệ đầu chính thức hiển bày về đức của Phật, hai kệ sau dựa theo hiểu biết để so sánh.

Trong sáu kệ: Kệ một trình bày về Phật là ngọn đèn phá tan bóng tối, kệ hai là sáu Độ chiếu rọi đầy đủ, kệ ba là Đức thù thắng vượt quá tình thức, kệ bốn là Dụng vắng lặng làm lợi ích cho chúng sinh, kệ năm là thấy nghe đạt được lợi ích, kệ sáu là nhân sâu quả dày.

Trong hai kệ sau là trình bày về lợi ích của hiểu biết, một kệ đầu dựa vào hướng đến cúng dường Phật để so sánh về lợi ích của hiểu biết, một kệ sau dựa vào hướng đến bố thí rộng rãi để làm sáng tỏ về tổn hại của mê lầm.

Thứ ba, do tỏ ngộ về pháp thù thắng, cho nên gọi là Thắng Lâm. Mười kệ phân hai: Đầu là bốn kệ ca ngợi về ánh sáng sâu rộng của Phật, sau là sáu kệ trình bày về chiếu rọi lý thấy Phật.

Trong phần đầu: Hai kệ trước là nêu ra dụ, hai kệ sau là pháp thuyết.

Trong hai kệ trước có tám câu: Câu một là dụ về lúc Phật thành Phật; hai là dụ về tâm Phật không còn cấu nhiễm chướng ngại; ba là dụ về thân Phật phát ra ánh sáng thanh tịnh, nói mặt trời là dụ cho thân Phật; bốn là dụ về ánh sáng chiếu rọi khắp nơi; năm là dụ về ánh sáng rộng nhiều; sáu là dụ về không biết được giới hạn; bảy là dụ về trí hãy còn không biết; tám là dụ về huống gì hạng ngu si.

Trong hai kệ sau là pháp thuyết: Một kệ đầu là hiển bày về ánh sáng rộng lớn, một kệ sau là hiển bày về ánh sáng rất sâu xa, bởi vì giống như pháp tánh.

Trong phần sau là sáu kệ: Đầu là ba kệ về lìa tướng, tiếp là một kệ về lìa tánh, sau cuối là hai kệ về giải thích nghi ngờ.

Trong ba kệ đầu: Một là lìa tướng ba đời; hai là lìa tướng sinh diệt, nửa kệ sau là trình bày về lợi ích của quán, các kệ sau đều dựa theo đây; ba là lìa tướng vốn có.

Tiếp là một kệ về lìa tánh, bởi vì từ duyên hư giả cho nên không có tánh, không có tánh cho nên không có gì cởi bỏ.

Tiếp là hai kệ về giải thích nghi ngờ, hiển bày về Vô sinh. Nghi ngờ rằng nếu duyên khởi không có tánh thì vì sao có sinh? Giải thích rằng bởi vì thụ động sinh, thụ động sinh tức là vọng tưởng, bởi vì vọng tưởng dựa vào duyên mà khởi cho nên gọi là thụ động sinh. Bởi vì chấp vào vọng tưởng này cho nên nói là có sinh, mà thật thì không có sinh, đây là dựa theo tánh Sở chấp.

Lại giải thích: Thụ động sinh là quả, do đối đãi với quả này mà nói là nhân chủ động sinh ra quả, đã dựa vào nơi khác không có nhân sinh ra, cũng không có đối đãi cho nên không sinh ra, đây là dựa theo tánh Duyên khởi.

Lại giải thích: Vốn nói đến có sinh là trình bày về nghĩa tùy duyên của Như Lai Tạng, bởi vì thụ động sinh là do chủ động xông ướp thường xuyên, cho nên tùy theo duyên. Chủ động xông ướp đã không thật, thụ động xông ướp không lay động, cho nên cũng không có sinh. Bởi vì chủ động xông ướp kia cũng là tâm thụ động sinh ra, cho nên gọi là thụ động sinh, đây là dựa theo tánh Viên thành. Kệ này là đối đãi với thụ động sinh làm phai mờ chủ động sinh, kệ sau tương tự chủ động loại trừ thụ động sinh, cho nên nói là quán về thụ động sinh cũng như vậy.

Thứ tư, do tin tưởng vui với lý sâu xa, không sợ nẽo ác, cho nênNgọi Vô Úy Lâm. Mười kệ phân năm:

1. Hai kệ đầu trình bày về nghe đến lợi ích tin vào pháp mà Đức Phật này đã thuyết, kệ trước là phân rõ về pháp đã nghe, xứ này là xứ Hoa Tạng này, lại là xứ mà Đức Phật này đã thuyết pháp, hai câu trước hiển bày về rộng lớn, câu tiếp phân rõ về tùy duyên, câu sau hiển bày về bất biến; một kệ sau hiển bày về nghe đến lợi ích tin vào pháp này.

2. Có hai kệ trình bày về nghe đến pháp của Phật ở phương khác có lợi ích, kệ trước trình bày về pháp đã nghe, nửa kệ đầu hiển bày về nghe nơi rộng lớn, câu tiếp là đã nghe sâu xa, câu cuối là nghe không quên; kệ sau làm sáng tỏ về lợi ích, nửa kệ trước nhắc lại pháp đã nghe trước đây, câu tiếp là dùng để cầu Phật, câu cuối trình bày về cầu nhất định đạt được, cho nên nói là cứu cánh…

3. Có hai kệ trình bày về nghe-tin vào pháp của Phật quá khứ có lợi ích, đều là nửa kệ trước nêu ra niềm tin, nửa kệ sau trình bày về lợi ích của niềm tin, có thể biết.

4. Có hai kệ, nghe-tin vào pháp của Phật hiện tại có lợi ích, trong đó câu đầu là chủ động tin, hai câu tiếp là Phật đã tin, câu cuối là pháp đã tin; kệ sau hiển bày về lợi ích, bởi vì khó được nghe. Lại giải thích: Kệ trước, nửa kệ đầu trình bày về tin vào Phật hiện tại, nửa kệ sau trình bày về lợi ích của niềm tin, nghĩa là vị ấy nhờ vào niềm tin này mà thành tựu Đẳng Chánh Giác…; kệ sau hiển bày về nghe pháp thù thắng là khó.

5. Có hai kệ, tổng quát dựa vào pháp của tất cả chư Phật trên đây để kết luận khuyến khích tu học. Trong đó: Kệ đầu là khuyến khích thọ trì-khuyến khích thuyết giảng, câu đầu là nhắc lại pháp trên đây, câu tiếp là khuyến khích thọ trì, câu tiếp là khuyến khích thuyết giảng, câu cuối là ca ngợi thù thắng để khuyến khích. Kệ sau là khuyến khích thọ trì-khuyến khích thực hành, nửa kệ trước là khuyến khích thực hành, do khuyến khích thực hành tu tập mà thành tựu hai trang nghiêm, câu tiếp là khuyến khích thọ trì cùng với trước khác nhau, trước do thọ trì cho nên có thể thuyết giảng, ở đây do thọ trì cho nên có thể thực hành, câu cuối là trình bày về lợi ích của tu hành, đó là đạt được Bồ-đề.

Thứ năm, rời xa phân biệt không có dần dần, cho nên gọi là Tàm Quý Lâm. Mười kệ phân hai: Trước là chín kệ riêng biệt ca ngợi về pháp của Phật, sau là một kệ cùng kết luận về hai phần trước.

Trong chín kệ trước: Đầu là một kệ ca ngợi về pháp mà Phật đã chứng, nửa kệ trước là pháp thù thắng, nửa kệ sau là lợi ích của niềm tin. Sau là tám kệ ca ngợi về trí chủ động chứng của Phật, có hai: Một

kệ đầu trình bày về chứng pháp đầy đủ tất cả, nửa kệ trước trình bày về tất cả chư Phật đều nói tự mình đã chứng, nửa kệ sau trình bày về tuệ chứng của một Đức Phật không có gì không cùng tận. Bảy kệ sau trình bày về Vô chứng là Chứng.

Trong đó một kệ đầu là nêu ra Chương, nửa kệ trước là Vô chứng, nửa kệ sau là Chứng. Trong nửa kệ trước có năm giải thích:

1. Dựa theo Trí đế giải thích, đây chính là chứng Trí vô phân biệt, không sinh ra từ Trí phân biệt của thế gian, cũng không sinh từ ngu si và sắc pháp…, cho nên Nhiếp Luận nói: “Trí này không phải là Trí-không phải là không phải Trí, không phải là Trí thì không phải là Trí phân biệt, không phải là không phải Trí thì không phải là sắc pháp.” Trong này, không phải là Trí dựa theo ngu si.

2. Dựa theo Cảnh để giải thích, đó là Trí đã chứng lý chỉ là Liễu nhân, vốn không phải là Sinh nhân, bởi vì ngu si không có Trí, SinhLiễu cả hai đều không phải, cho nên đều nói là không sinh.

3. Dựa theo Cảnh-Trí đích thực thông hiểu để giải thích, đó là Trí như Cảnh cho nên không phải là Trí, Cảnh như Trí cho nên không phải là không có Trí.

4.  Dựa theo Tịch-Chiếu để giải thích, đó là Trí tức là Tịch cho nên không phải là Trí, không mất đi chiếu rọi cho nên không phải là không có Trí.

5. Dựa theo bặt dứt đối đãi để giải thích, đó là tướng của Trí không còn cho nên không phải là Trí, không có Trí có thể đối đãi cho nên không phải là không có Trí.

Trong nửa kệ sau, như vậy Trí là không có Trí thì mới có thể chiếu rọi pháp diệt trừ tăm tối vốn là Chứng.

Trong sáu kệ sau: Năm kệ đầu giải thích về nửa Chương trước, một kệ sau giải thích về nửa Chương sau.

Trong năm kệ đều nửa kệ trước là nêu ra dụ, nửa kệ sau là pháphợp: Kệ (1) là dụ về tánh ngu-trí khác nhau; (2) là dụ về cùng thành hư vọng; (3) là dụ về hai tánh trái ngược nhau; () là dụ về duyên ngu-trí cách xa; (5) là dụ về Dụng không có tác thành lẫn nhau. Năm kệ này đều hiển bày về sự khác nhau giữa ngu-trí, đều không chân thật, mêngộ này bặt dứt, tướng của Trí không còn. Một kệ sau giải thích về Dụng thù thắng của Diệu Trí, trong nửa kệ trước là nêu ra dụ, Già-đà ở Trung Hoa nói là thuốc tốt, nghĩa là có năng lực loại trừ tất cả chất độc, nửa kệ sau là pháp-hợp có thể biết.

Sau là trong một kệ cùng kết luận, nửa kệ trước là kết luận về trí thù thắng của Phật, nửa kệ sau là kết luận về pháp thù thắng trước đây.

Thứ sáu, thường thường quán sát về Sự-Lý mà không có gì phân biệt, cho nên gọi là Tinh Tiến Lâm. Mười kệ tổng quát ca ngợi về trí soi chiếu không có sai biệt của Phật: Một kệ đầu là tổng quát, chín kệ còn lại là riêng biệt.

Trong kệ trước là tánh-tướng của các pháp không có nghĩa sai biệt, chỉ riêng Phật có năng lực nhận biết, nhưng nhận biết đầy đủ tường tận ngọn nguồn gọi là nhận biết phân biệt, câu tiếp là nhận biết đầy đủ, câu sau cuối là nhận biết sâu xa.

Trong chín kệ riêng biệt đều trước là dụ, sau là pháp:

1. Dụ về chân-vọng đan xen đến cùng, nghĩa là dựa vào chân khởi vọng, như vàng hiện rõ màu sắc. Không phải pháp là vọng dụ cho màu sắc của vàng, không có Thể tức là chân, cho nên tánh không có sai khác. Lại chân tâm tùy duyên là pháp-không phải pháp, tâm Thể không khác cho nên tánh không có sai khác. Vì vậy kinh Lăng Già nói: “Như Lai Tạng làm nhân thiện-bất thiện.” Lại kinh Niết Bàn nói: “Cùng với bất thiện đều gọi là Vô minh, cùng với pháp thiện đều nói là Minh, Minh và Vô minh tánh ấy không hai, tánh không hai tức là thật tánh.” Là nói đến nghĩa này. Lại phẩm Bất Nhị Pháp Môn trong kinh Duy Ma đều là nghĩa này.

2. Dụ về cả hai đều không có thật, nghĩa là chúng sinh dựa theo Chánh báo bên trong (nội báo) dụ cho pháp, không phải là chúng sinh dựa theo Y báo bên ngoài (ngoại khí) dụ cho không phải pháp, đều không có tánh nhất định, cả hai đều không có. Lại giải thích: Bởi vì chúng sinh tức là Vô ngã, cho nên chúng sinh không thật; Vô ngã không trở ngại chúng sinh, cho nên không phải là chúng sinh cũng không thật, lý-sự làm mất lẫn nhau cho nên đều không thật. Kinh nói: “Đối với Ngã-Vô ngã không hai là nghĩa về Vô ngã, lại bởi vì chúng sinh tức là không phải cho nên không phải tướng cũng lìa xa, do đó đều không thật. Pháp-hợp có thể biết.

3. Dụ về sinh không có tướng diệt, nghĩa là pháp sinh tức là không có sinh, giống như không có tướng diệt. Lại ngay nơi tướng vị lai này tức là không có, giống như vị lai không có tướng quá khứ.

4. Dụ về diệt không có tướng sinh, nghĩa là pháp sinh tức là không sinh, giống như pháp đã diệt. Lại pháp quá khứ tức là không có quá khứ, giống như không có hiện tại-vị lai.

5) Dụ về Thể của pháp lìa xa giữ lấy, nghĩa là Niết-bàn lìa xa tướng cho nên không thể nào giữ lấy, dựa theo nơi diệt hết báo chướng phiền não nói là còn lại-không còn lại, mà thật thì lý về diệt không có gì sai biệt.

6. Dụ về tánh không có sai biệt, nghĩa là kể ra pháp không khác, pháp cùng là tánh tróng rỗng.

7. Dụ về tùy duyên thành ra khác nhau, nghĩa là lấy số mười làm căn bản, tăng lên đến nhiều lần mười, trí tuệ ở trong đó dấy lên hiểu như trăm-ngàn…, cho nên nói là sai biệt, nhưng đối với số ấy đều là những số mười, vì vậy nói đều là số căn bản.Ví như chân lý ấy tùy duyên thành ra khác nhau, cầu tìm pháp khác nhau ấy không khác nhau mà hoàn toàn chân, lược qua không có pháp-hợp.

8. Dụ về Thể cứng không hủy hoại, nghĩa là tuy cùng hữu vi mà luôn luôn trong suốt.

9. Dụ về chấp khác nhau trái với giống nhau, có thể biết.

Thứ bảy, thông hiểu về thế gian Không gọi là Lực Thành Tựu Lâm, ý kệ trình bày về thông hiểu nhiễm-tịnh Không, hiển bày ca ngợi về Chân Phật. Mười kệ phân hai: Chín kệ trước là thông hiểu về cảnh, một kệ sau là thành tựu hạnh.

Trong chín kệ trước: Sáu kệ đầu dựa theo tánh Duyên khởi để hiển bày về Vô sinh, ba kệ sau dựa theo tánh Sở chấp để hiển bày về Vô tướng.

Trong sáu kệ đầu có hai: Bốn kệ trước hiển bày về pháp thế gian Vô sinh, hai kệ sau tương tự hiển bày về pháp xuất thế.

Trong bốn kệ trước: Hai kệ đầu là Sinh Không, hai kệ sau là Pháp Không.

Trong hai kệ đầu: Trước là một kệ rưỡi suy ra ngọn quy về gốc; nửa kệ sau lấy gốc để hiển bày ngọn, nghĩa là tâm tùy theo huân tập biến đổi mà làm chúng sinh, tâm đã như huyễn không thật, thì tâm chúng sinh lẽ nào có thể có thật?

Trong hai kệ sau: Đầu là bởi vì không biết thế gian hư giả, cho nên lại tiếp tục xoay vòng ở trong thế gian trống rỗng; sau là bởi vì không biết thế gian khổ đau, cho nên lại thường lưu chuyển ở trong thế gian khổ đau. Trong này, thế gian không phải là mình làm ra, không phải là người khác làm ra, có bốn lớp: Dựa theo ngoại đạo v.v…

Trong hai kệ sau tương tự hiển bày về pháp xuất thế: Kệ đầu là nêu ra, nghĩa là ngược lại với thế gian này gọi là xuất thế gian; thế gian đã trống rỗng, lẽ nào có xuất thế gian mà có thể giữ lấy hay sao? Vì vậy nói là cả hai đều không phải chân thật. Nửa kệ trước là lý chân thật, nửa kệ sau là tình hư vọng. Kệ sau là giải thích: Ba câu đầu giải thích để hiển bày về thế gian trống rỗng, câu sau không có thế gian để so sánh, cho nên xuất thế gian cũng không chân thật. Lại dựa theo văn này, chỉ ngăn chặn thế gian mà gọi là xuất thế gian, không biểu thị điều gì khác, cho nên cũng không trống rỗng.

Trong ba kệ sau dựa theo tánh Sở chấp để hiển bày về Vô tướng, cũng có hai: Đầu là hai kệ về thế gian trống rỗng, sau là một kệ tương tự xuất thế gian. Trong hai kệ trước, một kệ đầu là nêu ra tình, một kệ sau là hiển bày lý. Trong kệ đầu, câu trước là nêu ra Thể, câu tiếp là nêu ra Tướng, hai câu sau là trình bày về sai lầm mê muội của phàm phu. Trong kệ sau, nửa kệ trước trình bày về tình chấp không có, nửa kệ sau trình bày về lý tánh hiện rõ. Trong kệ sau là tương tự xuất thế gian, Phật và pháp là xuất thế gian, đều dựa theo tình chấp, cả hai không hề vốn có.

Một kệ sau cuối trình bày về thành tựu hạnh, nửa kệ trước là diệt vọng thấy chân, nửa kệ sau trình bày về Pháp Phật thường hiện rõ.

Thứ tám, chiếu rọi Pháp thân Phật gọi là Kiên Cố Lâm, ca ngợi về Thể vắng lặng của Pháp thân Phật. Mười kệ phân hai: Bảy kệ đầu hiển bày pháp, ba kệ sau thành tựu quán.

Trong bảy kệ đầu: Hai kệ trước nêu ra hai Chương về năng-sở, kệ trước là hiển bày về Thể vắng lặng đã ca ngợi, nghĩa là đất sinh ra cỏ cây, nhưng ở trong đất tìm hạt giống của cỏ cây thật sự không thể có được, dụ cho Phật ứng với cơ hiện bày có sai biệt, đối với Phật cầu tìm ý khác thì không thể có được, cho nên văn sau nói vô lượng thân không phải là Phật…; kệ sau hiển bày về chủ động ca ngợi bình đẳng, có thể thấy. Năm kệ sau trong giải thích rộng ra: Trước là ba kệ giải thích về chủ động ca ngợi Không trước đây, kệ một trình bày về nghiệp không phải là có, kệ hai bởi vì nghiệp giống như thân cho nên thân cũng không phải là có, kệ ba bởi vì nghiệp-thân giống như Thức cho nên Thức cũng không phải là có. Sau là hai kệ giải thích trong không phải là có đã ca ngợi trước đây, kệ đầu trình bày về Đại Dụng ứng với cơ, kệ sau trình bày về Thể không phải là bao nhiêu.

Trong ba kệ sau trình bày về lợi ích của hành, kệ một là lợi ích về chứng được thấy Pháp thân, kệ hai là phá tướng quy về chân, kệ ba là chứng thật sự lìa xa tướng.

Thứ chín, do quán sát về tâm Chân như, cho nên gọi là Như Lai Lâm. Mười kệ phân hai: Sáu kệ đầu trình bày về tâm làm ra phàm, bốn kệ sau trình bày về tâm sinh khởi Thánh.

Trong sáu kệ đầu: Bốn kệ rưỡi trước là nêu ra dụ, một kệ rưỡi sau là pháp-hợp. Trong phần trước: Hai kệ đầu là dụ về thợ vẽ họa ra bức tranh, dụ cho pháp hư vọng dựa vào chân thật; tiếp hai kệ trình bày dụ về tâm vẽ họa ra bức tranh, dụ cho vọng dựa vào tâm; nửa kệ sau trình bày dụ về thợ vẽ không biết tâm vẽ, dụ cho duyên khởi không có nhận biết. Trong này ý nói: Tất cả chúng sinh đều dựa vào duyên khởi chân thật, tâm của Thức vốn có tùy theo sự huân tập của Danh ngôn-Hữu chi-Ngã kiến…, có thân của sáu nẽo hiện bày, duyên khởi hư giả không ngăn ngại, không có gì không hủy hoại quả báo của chúng sinh(hữu), cho nên hội tụ thâu nhiếp vào hai môn ấy. Nếu hội tụ duyên thuận theo thật thì tướng sai biệt không còn, chỉ là một Chân như. Nếu thâu nhiếp ngọn quy về gốc thì hình thể sai khác trong sáu nẽo, chỉ do tâm mà chuyển. Dựa theo môn đầu thì duyên khởi không tồn tại, vốn là Chân như môn; dựa theo môn sau thì duyên khởi không hủy hoại, vốn là Sinh diệt môn. Vì vậy tồn tại và hủy hoại không hai mà chỉ một duyên khởi, hai môn vô ngại vốn chỉ là một tâm. Luận Khởi Tín nói: “Dựa vào pháp một tâm có hai loại môn, một là tâm chân như môn, hai là tâm sinh diệt môn, nhưng hai môn này đều tự nhiên thâu nhiếp tổng quát tất cả các pháp.” Là nói đến nghĩa này. Nay trong văn này, họa ra cũng có hai nghĩa: Một là dựa vào vách tường vốn chỉ có bằng phẳng, hai là dựa vào tâm khéo léo của thợ vẽ cho nên tựa như có cao thấp.

Hai kệ đầu trình bày về môn thứ nhất: Kệ đầu, nửa kệ trước dụ cho tùy theo huân tập khắp nơi khác nhau, câu tiếp hiển bày khác nhau do vọng tình, câu cuối là tướng không còn giống như chân, bốn Đại dụ cho chân tâm, sắc màu dụ cho tướng hư giả của duyên khởi. Kệ sau, nửa kệ trước trình bày về chân-vọng không ngay trong nhau, câu trước trình bày dụ về chủ động tạo ra không phải là thụ động tạo ra, thâu nhiếp chân của vọng không ngay trong vọng, bởi vì tánh chân thật, câu sau trình bày dụ về thụ động tạo ra không phải là chủ động tạo ra, dựa vào vọng của chân không ngay trong chân, bởi vì tánh hư giả; nửa kệ sau trình bày về vọng không lìa xa chân, nghĩa là bởi vì hư giả xuyên suốt chân, hư giả không còn thì chân hiện bày, cho nên nói là không lìa xa. Vì thế cho nên không lìa xa, không khác nhau, không ngay trong nhau, suy nghĩ điều này!

Hai kệ tiếp trình bày về hình vẽ dựa vào tâm vẽ dụ cho Sinh diệt môn, tâm thợ vẽ này dụ cho tâm chủ động biến hiện như Thức vốn có…, màu vẽ dụ cho báo thụ động biến hiện của thân năm Uẩn. Kệ đầu, nửa kệ trước trình bày về chủ động-thụ động không ngay trong nhau; nửa kệ sau hiển bày về gốc-ngọn không rời xa nhau, nghĩa là bởi vì tâm gốc-hình ngọn cho nên không ngay trong nhau, tâm biến hiện làm báo cho nên không rời xa nhau. Đây là trình bày về tâm chủ động biến hiện cảnh, Thể của không phải là cảnh; cảnh từ tâm biến hiện, tướng của cảnh không phải là tâm; từ nơi tâm biến hiện, cho nên cảnh không rời xa tâm; chủ động biến hiện cảnh, cho nên tâm không rời xa cảnh; vì vậy tuy không ngay trong nhau-không rời xa nhau, mà chủ yếu chỉ là Thức chứ không phải là chỉ riêng cảnh.

Hỏi: Kệ trước chỉ trình bày về màu sắc không rời xa bốn Đại, không trình bày về bốn Đại không rời xa màu sắc, vì sao cùng với kệ này không giống nhau?

Đáp: Kệ trước trình bày về chân không biến thành vọng, kệ này hiển bày về tâm biến hiện cảnh, cho nên không giống nhau.

Kệ sau, nửa kệ trước trình bày về tâm khéo léo của thợ vẽ dụ cho Thức chủ động biến hiện, không có dừng lại làm căn bản cho nên khó suy nghĩ; nửa kệ sau hiển bày về màu vẽ thụ động hiện ra dụ cho tướng thụ động biến hiện, đều từ nơi tâm hiện ra không có Thể để có thể nhận biết lẫn nhau.

Sau là nửa kệ về thợ vẽ không nhận biết hình vẽ này đều từ nơi tâm hiện ra, dụ cho các chúng sinh mê muội tâm lượng của mình.

Một kệ rưỡi sau cuối là pháp-hợp có thể biết.

Thứ hai là trong bốn kệ sau trình bày về tâm khởi Phật. Như tâm, Phật cũng như vậy, lấy phàm giống như Phật, như tâm tạo phàm, làm Phật cũng như vậy, đều từ nơi tâm khởi lên; như Phật, chúng sinh cũng như vậy, lấy Phật giống như phàm. Hai câu sau cuối hợp lại để hiển bày về giống nhau, nghĩa là tâm làm Phật, tâm-Phật không có gì sai khác; tâm làm phàm phu, tâm-phàm không có gì sai khác, chủ động-thụ động nương tựa giống nhau cho nên nói là không có gì sai khác. Lại giải thích: Đây là trong phần thứ hai kết luận khuyến khích tu học. Một kệ đầu dung hòa kết hợp gốc-ngọn, gốc-ngọn có ba: 1) Chỉ riêng gốc, đó là chân lý, bởi vì dựa vào tánh thanh tịnh của Bổn giác gọi là Phật; 2) Chỉ riêng ngọn, đó là chúng sinh thụ động biến hiện; 3) Cả hai, đó là tâm chủ động biến hiện, bởi vì dựa vào chân có thể biến hiện. Ba duyên khởi này dung thông vô ngại, tùy theo một loại thâu nhiếp đầy đủ hai loại còn lại, tánh không khác nhau cho nên nói là không có gì sai biệt. Một kệ tiếp là nêu ra lợi ích để khuyến khích tu tập, nửa kệ trước trình bày về Phật đã biết, nêu ra bậc trên để khuyến khích hạng dưới, câu tiếp là khuyến khích hạng dưới giống như bậc trên, câu sau cuối là kết luận trình bày về lợi ích của nhận biết. Một kệ tiếp là trình bày về thântâm không ngay trong nhau-không rời xa nhau, nửa kệ trước là thân-tâm khác nhau cho nên không ngay trong nhau, nửa kệ sau là dựa vào tâm hiện rõ thân cho nên không rời xa nhau. Một kệ sau cuối là khuyến khích tu tập, nửa kệ trước là nêu ra sự mong cầu, nửa kệ sau là khuyến khích dựa vào lý quán, nghĩa là hiểu được tâm này tiến vào thật tức là Như Lai, ngược lại với điều này vốn là mất đi. Lại giải thích: Cũng vốn là tâm biến thành tướng Phật mà hiện rõ ra.

Thứ mười, biết Thể-Dụng sâu rộng của Phật, cho nên gọi là Trí Lâm. Mười kệ phân ba: Ba kệ đầu ca ngợi về Pháp thân Phật lìa tướng, một kệ tiếp trình bày về chủ động ca ngợi Phật đạt được Đại công đức, sáu kệ sau ca ngợi về sắc-thanh ứng hiện của Phật.

Trong ba kệ: Một kệ đầu trình bày về lìa xa tướng của sáu trần, câu đầu lìa xa ba trần Hương-Vị-Xúc cho nên nói là không thể giữ lấy, câu tiếp là lìa xa Sắc trần, câu tiếp là lìa xa Thanh trần, câu sau cuối là lìa xa Pháp trần. Một kệ tiếp là lìa xa tướng Lượng-Vô lượng, Vô lượng là nhiều, Hữu lượng là ít, đều là vọng chấp, đều không thể giữ lấy. Một kệ tiếp là lìa xa tướng ngôn thuyết, có hai nghĩa: Một là như tám thời không nên nói mà nói, cho nên mình và người không có lợi ích; hai là không biết Pháp thân không phải là cảnh của ngôn thuyết, mà lại cho rằng như lời nói để nói cho người khác thì rơi vào có-không có. Bởi vì bốn loại bài báng…, cho nên lừa dối mình và người, chính là năm loại sai lầm như tùy theo tiếng giữ lấy nghĩa ở văn sau. Hai kệ trước trình bày về tâm hành xứ diệt của Pháp thân, kệ này trình bày về ngôn ngữ lộ tuyệt cho nên không thể nghĩ bàn.

Thứ hai là một kệ trình bày về ca ngợi công đức mà Phật đã đạt được, có thể biết.

Thứ ba là ca ngợi về đức ứng hiện của Phật. Sáu kệ phân hai: Ba kệ đầu trình bày về tướng thân của Phật, nghĩa là không có thân mà hiện thân, thân tức là không có thân. Ba kệ sau trình bày về tướng ngữ của Phật, nghĩa là không có thanh mà hiện thanh, thanh tức là không có thanh.

Trong ba kệ đầu: Kệ một dụ về thân đã hiện bày không phải là chân thật, nghĩa là như ngọc châu như ý dùng áo vàng soi vào thì trở thành màu vàng. Điều này có hai nghĩa: Một, ngọc châu không phải là màu vàng mà hiện ra màu vàng; hai, màu vàng đã hiện ra không phải là thật sự màu vàng, thân Phật cũng như vậy, cơ soi vào mà hiện ra. Hai nghĩa cùng dụ, cho nên câu sau hợp lại nói là Phật cũng như vậy.

Như kinh Trí Tuệ Trang Nghiêm nói rộng về dụ này, nên biết. Kệ hai dụ về chủ động hiện bày lìa xa thấy, nghĩa là dựa vào hư không hiện rõ màu sắc mà hư không không phải là có thể trông thấy, dụ cho Phật ứng với cơ hiện bày sắc, mà Phật không phải là sắc, không thể trông thấy. Kệ ba nêu ra pháp-hợp, nghĩa là Phật địa. Đại Trí có hai nghĩa: Một là nghĩa về viên minh, dụ trước hiển bày về nghĩa này; hai là nghĩa về lìa tướng, dụ sau hiển bày về nghĩa này. Đều có ứng với cơ mà hiện rõ sắc, nhưng không phải là sắc, cho nên nói là không ai có thể nhìn thấy. Dựa theo văn này, rõ ràng thân tự thọ dụng không có công đức thô thiển như Sắc… Như trong Phật Địa luận nói v.v…

Trong ba kệ sau trình bày về ngôn thanh của Phật: Một kệ đầu trình bày không phải là thanh-không phải là không thanh, đều là nửa kệ hiển bày, bởi vì dựa vào giải thích để hiểu về thật, cho nên nói là lìa xa thanh thì không nhận biết. Một kệ tiếp là ca ngợi sâu xa khuyến khích tu học, lợi ích của hướng đến chân thật trang nghiêm cho đạo Vô thượng, lợi ích của rời bỏ không thật lìa xa các pháp hư vọng. Một kệ sau trình bày không phải là thuyết giảng-không phải là không thuyết giảng, đều là nửa kệ hiển bày, có thể biết. Cũng là trong Phật Địa luận trình bày về không có thuyết giảng mà thuyết giảng thuộc về cơ duyên.

Phẩm 17: CÔNG ĐỨC HOA TỤ BỒ TÁT THẬP HẠNH

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Mười Độ làm lợi ích tưới nhuần Thể gọi là Công Đức, có công trang nghiêm cảm được như hoa kết trái, các hành tô điểm qua lại như hoa tích tụ. Lại nữa, Đức là Thể của hành, Hoa là Dụng của hành, Tụ là Tướng của hành, Bồ-tát là người có những đức ấy, đây là Hữu tài thích. Đây là tên gọi khác của Công Đức Lâm, tương tự như phẩm Kim Cang Tràng Hồi Hướng sau này. Thập Hạnh là pháp của phần vị là kèm theo số mà lập thành tên gọi. Thập Hạnh của Bồ-tát cũng dựa vào chủ mà có được tên gọi, người và pháp làm đề mục của chương.

B. Ý ĐƯA RA: Phần Tựa trước đây đã làm sáng tỏ, do đó phần Chánh tông cần phải hiển bày. Lại phần trước là chúng đã quy tụ, tiếp theo chính thức thuyết giảng truyền trao cho nên tiếp tục đưa ra.

C. TÔNG THÚ có ba:

  1. Trình bày dựa theo Tam thừa nương vào pháp của phần vị.
  2. Trình bày về pháp thuộc hạnh riêng biệt.
  3. Pháp của hạnh vị Phổ Hiền thuộc Nhất thừa.

Trong phần thứ nhất, các Thánh giáo nói phân tán ra nhiều môn, thâu nhiếp tổng quát có mười: Một là phần vị của Nhân Độ trong hai Độ nhân-quả; hai là thuộc về Tinh tiến hạnh tăng-kỳ trong ba tăng-kỳ của Địa tiền trong bảy A-tăng-kỳ; ba là thành tựu về hạnh Tam-muội phá hư không khí giới trong bốn hạnh của Địa tiền; bốn là thành tựu chủng loại Lạc đức-Liễu nhân trong bốn đức Liễu nhân của Pháp thân; năm là người Thập Hạnh thứ ba trong bốn người phương tiện của Địa tiền. Trên đây đều như Lương Nhiếp Luận… nói. Sáu là phần vị Tư Tuệ thứ hai trong sáu Tuệ; bảy là Hạnh Nhẫn trong sáu Nhẫn; tám là thuộc về tánh của chủng tánh trong sáu chủng tánh. Trên đây đều như kinh Bổn Nghiệp… nói. Chín là thuộc về Trì hạnh phương tiện trong ba Trì, như luận Du Già-Địa Trì nói; mười là thứ ba chế phục loại trừ sợ hãi khổ đau của Thanh văn, khiến cho đạt được quả báo của Ngân Luân Vương làm vua ba thế giới hệ, trong bốn chướng trừ bỏ của Địa tiền.

Thứ hai là trình bày về hạnh riêng biệt ấy, trong kinh Nhân Vương quyển thứ hai: “Phần vị tánh của chủng tánh có 10 tâm, đó là quán Thân-Thọ-Tâm-Pháp-Bất tịnh-Khổ-Vô thường-Vô ngã, ba thiện căn là Thí-Từ-Tuệ, ba ý chỉ đó là Nhẫn thuộc nhân quá khứ-Nhẫn thuộc nhân quả hiện tại-Nhẫn thuộc quả vị lai, đã vượt qua Tưởng về Ngã-NhânTri kiến-Chúng sinh…, và Tưởng điên đảo của ngoại đạo vốn không thể nào hủy hoại được.” Kinh Bổn Nghiệp cũng giống như vậy. Lại nữa, hạnh có hai loại: 1) Thông, đó là Thập Hạnh như Tín…; 2) Biệt, đó là Thập Độ này. Trong này trình bày về Biệt chứ không phải là Thông. Trong Biệt lại có hai, một là nhân, hai là quả. Trong này trình bày về nhân thuộc Ba-la-mật. Đây đều là dựa theo trong giáo Tam thừa nương vào pháp để hiển bày về hạnh.

Thứ ba là dựa vào Viên giáo để trình bày về hạnh Phổ Hiền, là trong Thập Hạnh này thâu nhiếp đầy đủ hạnh trong các phần vị trước sau, tất cả đều tận cùng. Vì thế cho nên lúc phần vị này đầy đủ thì đến phần vị cuối cùng, như Hạnh thứ mười đầy đủ nói là tự tại tiến vào pháp giới Nhân-đà-la võng, thành tựu vô ngại giải thoát của Như Lai, làm Đại Sư Tử Hống uy hùng giữa loài người, làm Pháp Luân Vương chuyển pháp luân vô ngại… Giải thích rằng: Đây là Bồ-tát trong phần vị cuối cùng hãy còn không phải là Phật, bởi vì ngay phần quả cho nên không thể nói được.

D. GIẢI THÍCH VĂN: Trong phần Chánh thuyết này có hai phẩm, phẩm đầu trình bày về những công hạnh ấy, phẩm sau hiển bày về những thành tựu ấy. Lại phẩm đầu là dựa theo hạnh cao thấp của phần vị, phẩm sau là tướng chung của hạnh từ đầu đến cuối. Lại phẩm đầu là phần vị, phẩm sau là công hạnh. Lại phẩm đầu là Tự phần, phẩm sau là Thắng tiến.

Ngay trong phẩm đầu có bảy phần giống như trước: 1) Phần Tammuội; 2) Phần gia hộ; 3) Phần phát khởi; 4) Phần căn bản; 5) Phần thuyết giảng; 6) Phần chứng thành; 7) Phần kệ tụng. Vì sao như vậy? Bởi vì muốn trình bày dựa vào Chứng phát khởi thuyết giảng cho nên trước phải nhập Định, hiển bày về pháp thù thắng cho nên Phật cùng gia hộ, lúc thuyết giảng sắp đến cho nên từ Định đứng lên, lời nói không lập tức sáng tỏ cho nên tóm lược nêu ra phần căn bản, không phải là tóm lược có thể đầy đủ cho nên sau giảng giải rộng ra, hiển bày về pháp đã nói hợp với tất cả cho nên kết luận về Chứng cứu cánh, đối với pháp đã nói để cho dễ dàng thọ trì vì vậy có phần kệ tụng.

Trong phần thứ nhất, vì sao nhập Định thì có sáu ý, giải thích giống như trước. Trong này có ba: Một, nêu ra người nhập Định, nghĩa là thực hành thành tựu công đức như rừng, nói là mười bởi vì không khác cho nên gọi là Nhập. Hai, hiển bày không phải là sức của mình, nghĩa là suy ra cảm hóa quy về Phật, cho nên nói là Thừa lực. Ba, chính thức trình bày đạt được Định, nghĩa là thần sắc kín đáo chứng thực phù hợp, cho nên nói là Nhập.

Bồ-tát là nêu ra người riêng biệt, pháp lựa chọn quả Phật. Định khéo léo điều phục là nêu ra năng lực hiển bày về khác lạ. Thiện có hai nghĩa, một là nghĩa về năng lực khéo léo, hai là nghĩa về thuận với lý. Phục cũng có hai nghĩa, một là nghĩa về chế phục, hai là nghĩa về điều phục. Một là dựa theo chướng có thể khéo léo chế phục, khiến vĩnh viễn không khởi lên cho nên nói khéo léo điều phục; hai là dựa theo hạnh tu tập thực hành thuận với lý, hạnh điều phục cho nên nói là khéo léo điều phục. Tam-muội giải thích giống như trước.

Thứ hai là trong phần Gia hộ, có ba: Một, Tổng quát hiển bày về năng lực gia hộ; Hai, Giải thích về gia hộ bằng việc làm; Ba, Chính thức phân rõ về tướng gia hộ.

1. Trong phần một có năm: 1) Trình bày về chư Phật hiện thân; 2) Làm sáng tỏ về Phật cùng chung tên gọi; 3) Ca ngợi đạt được Định này; 4) Trình bày về đạt được Định nhờ vào gia hộ; 5) Đức Phật ấy tự mình giải thích về nguyên nhân đã thực hiện gia hộ.

Trong phần một Hỏi: Chư Phật này là đang ở một nơi vượt ra ngoài vô số quốc độ (sát trần) của vạn Đức Phật nhập lại có bấy nhiêu Đức Phật, hay là đang ở phân tán?

Đáp: Là ở phân tán. Vì sao phân tán? Lại như từ phương Đông vượt ra ngoài trần số quốc độ thuộc thế giới của vạn Đức Phật, có một Đức Phật danh hiệu là Công Đức Lâm. Từ đây hướng về phương Đông lại vượt ra ngoài trần số quốc độ thuộc thế giới của vạn Đức Phật, lại có một Đức Phật danh hiệu là Công Đức Lâm. Như vậy hướng về phương Đông lần lượt chuyển tiếp số lượng đến thế giới của vạn Đức Phật, trần số chư Phật đều cách xa nhau, số cũng giống như trước; như phương Đông, chín phương còn lại cũng như vậy. Lại nhiều Đức Phật gia hộ là bởi vì tăng trưởng tâm cung kính người-tôn trọng pháp của Đại chúng. Lại vốn là hiển bày về lực của chư Phật hội tụ cùng thuyết giảng.

2. Phật cùng chung tên gọi, có bốn ý giống như trước: Một là bởi vì làm cho Công Đức Lâm thêm vui mừng; hai là bởi vì chư Phật cùng đạt được pháp này; ba là bởi vì hiển bày trong phần vị này có đủ hai đức của nhân-quả; bốn là ở môn này được Phật chủ động gia hộ, pháp vốn như vậy đều được tên gọi là Công Đức Lâm, vốn là nhờ vào pháp lực.

3. Trong phần ca ngợi đạt được Định này, mới có năng lực là nói về hiếm có vượt qua, hiển bày về năng lực tiến vào Định hiếm có này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Công Đức Lâm im lặng tiến vào Định này, Đại chúng đã không biết tiến vào là pháp gì, không có tâm khao khát ngưỡng mộ, không có thể nói cho biết, đợi Đức Phật khen ngợi hiển bày thì Đại chúng mới khởi tâm mong muốn ưa thích.

4. Đạt được Định này nhờ vào gia hộ, nghĩa là chư Phật từ các phương khác tự nói rõ ràng đã thực hiện gia hộ khiến cho vị ấy đạt được Định.

5. Trong phần giải thích về nguyên nhân tự mình đã thực hiện gia hộ, có ba câu: Một, Bởi vì nguyện lực vốn có của Phật Lô-xá-na, cho nên thực hiện gia hộ. Vì sao? Bởi vì Địa Luận giải thích: Lô-xá-na trong quá khứ từng thấy có một Đức Phật Lô-xá-na gia hộ Bồ-tát thuyết giảng về pháp Thập Hạnh này, Đức Phật chủ động gia hộ cùng tên gọi Công Đức Lâm, nhân đó liền phát nguyện: Nguyện cho con thành Phật cũng có sự việc này, nay thành tựu như xưa, cho nên gia hộ. Hai, Nói rằng cũng là uy lực của Phật Lô-xá-na hiện tại cảm ứng với nhau cùng gia hộ, cho nên gia hộ mà thôi. Ba-Nói rằng lại bởi vì lực thiện căn của các Bồ-tát nghe pháp này cảm được chư Phật cùng gia hộ. Lại nữa, trước là nói về Thập Trú thì nói bởi vì lực thiện căn của Pháp Tuệ, nay nói các Bồ-tát là hiển bày về trước yếu kém-ở đây hơn hẳn cho nên nhiều. Lại nữa, trước là hiển bày về Tự lợi tăng lên, ở đây hiển bày về Lợi tha rộng rãi. Lại nữa, là văn sơ lược phỏng theo hiển bày lẫn nhau, lý thật thì đều có như nhau.

Trong phần hai là trình bày về gia hộ bằng việc làm: Câu đầu là tổng quát, nghĩa là muốn giúp cho ông thuyết giảng rộng về Thập Hạnh pháp giới của Phổ Hiền, các phần vị trước sau và các nhân hạnh, không có gì không đến nơi này, không có gì không thâu vào nơi này, cho nên nói là rất sâu xa (thậm thâm). Rất sâu xa có chín loại:

1. Nuôi giữ quả sâu xa, nghĩa là nhân vốn có tăng lên khiến cho thành tựu quả, đây là dựa theo Trí của mình.

2. Chiếu rọi tánh sâu xa, nghĩa là phân tích chủng loại sai biệt về tánh của chúng sinh. Lại biết tánh chủng khác nhau. Lại giải thích rõ ràng thông suốt đối với Như Lai Tạng tánh của chúng sinh, cho nên nói là phân biệt. Lại biết một chúng sinh thì đầy đủ tất cả pháp môn và tất cả chúng sinh, bởi vì tánh dung thông mà phân biệt. Như trong Hạnh thứ tám ở văn sau nói: Không lìa một chúng sinh mà theo nhiều chúng sinh, không lìa nhiều chúng sinh mà theo một chúng sinh, không tăng thêm chúng sinh giới, không giảm bớt chúng sinh giới. Cho đến nói: Bồtát hiểu sâu xa về chúng sinh giới-pháp giới không có hai, trong pháp không có hai không có tăng thêm-không có giảm bớt, không có sinhkhông có diệt, là pháp tánh chân thật… Đây là dựa theo những điều đã nhận biết.

3. Trừ chướng ngại sâu xa, nghĩa là chướng dựa theo phiền não, ngại là dựa theo điều đã nhận biết, chủng tử hiện hành đang huân tập đều không còn, cho nên nói là lìa tất cả… Nếu theo Tam thừa thì trong này dựa vào điều phục chướng ngại tối tăm hiện hành, sợ hãi khổ đau của hàng Thanh văn.

4. Tiến vào pháp sâu xa, nghĩa là chứng thực tiến vào cảnh chân lý mà tâm không ngăn ngại, cho nên nói là vô ngại. Kệ sau nói: Đều tiến vào các pháp giới, tùy thuận đến bờ giải thoát, cuối cùng đạt được tự tại, luôn luôn thực hành giáo pháp. Lại cũng có thể tiến vào cảnh của pháp giới Đế võng ngay trong nhau-hòa vào nhau viên dung tự tại vô ngại. Văn sau nói: Tiến vào pháp giới Nhân-đà-la võng, tự tại thành tựu vô ngại giải thoát của Như Lai. Là nói đến nghĩa này.

5. Phương tiện khéo léo sâu xa, nghĩa là khéo léo dùng một pháp thâu nhiếp tất cả các pháp, lại khéo léo dùng một công hạnh-một phần vị đều thâu nhiếp tất cả, một thân hướng về với tất cả, có-không có đều không vướng mắc, nhiều môn khéo léo như vậy cho nên nói là thành tựu tất cả phương tiện. Văn sau nói là cùng tận biển rộng phương tiện của chư Phật.

6. Thành tựu quả sâu xa, nghĩa là có thể thành tựu quả của Chủng trí, trước nuôi giữ là dựa vào bắt đầu, ở đây thành tựu là dựa theo cuối cùng, vốn là Trí chủng như lượng phân biệt mà biết.

7. Lý trí sâu xa, nghĩa là như lý trí hiểu rõ tất cả các pháp đều một tánh như nhau.

8. Biết về căn sâu xa, nghĩa là khéo léo biết căn khí sai biệt của chúng sinh, lại biết thuần thục-không thuần thục khác nhau, lại biết cùng một tánh như nhau, lại biết một căn là tất cả các căn; như nói về các căn hải.

9. Nghe giữ sâu xa, nghĩa là thành tựu mười loại Đại Đà-la-ni, như nói trong Hạnh thứ chín ở văn sau.

Sau là một câu kết luận, nghĩa là nói rộng ra như trên, tổng quát và riêng biệt về mười loại pháp rất sâu xa là pháp của phần vị nào? Đó chính là Thập Hạnh của Bồ-tát.

Trong phần ba là tướng gia hộ, có ba: Một, một câu khuyến khích thuyết giảng là khẩu nghiệp gia hộ. Hai, trong ý gia hộ có hai: Trước là gia hộ, sau là giải thích. Đây đều là ngay lúc ấy có sự việc chứ không có thuyết giảng, người kết tập như sự việc mà kết tập lại. Trong phần trước có mười câu: Một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt.

Hỏi: Vì sao trong Hội này trao cho pháp, Hội trước thì trao cho trí?

Đáp: Đã trao cho là một, nhưng Hội trước là thành tựu về Giải, thấy lý tăng lên cho nên gọi là trí; trong Hội này là thành tựu về Hạnh, quỹ phạm tăng lên cho nên gọi là pháp.

Đầu là trong tổng quát, nghĩa là phát khởi thuyết giảng tự tại gọi là vô chướng ngại, lại trao cho Vô ngại biện tài để thuyết giảng không vướng mắc trở ngại. Sau là trong riêng biệt:

1. Đối với pháp không nghi ngờ, tình thức không có duyên gì khác, cho nên nói là an trú; lại trao cho trí Vô úy khiến cho lúc thuyết giảng, tâm được yên ổn không sợ người khác phá hoại.

2. Hiểu biết phát sinh từ bên trong, cho nên nói là không có thầy; lại trao cho trí giống như Phật, khiến cho ở trước Đại chúng thuyết giảng giống như Phật, vốn là không có thầy.

3. Thấy pháp rõ ràng, cho nên nói là không có si mê, bởi vì không xen tạp vô minh; lại khiến cho lúc thuyết giảng không có chướng ngại do nhận biết.

4. Thấy pháp theo thứ tự, cho nên nói là không rối loạn; lại không xen tạp Thừa khác và chương cú của thế gian…

5. Pháp đã hiểu biết thật sự đúng đắn, cho nên nói là thanh tịnh, lại Thể của trí không sai lầm.

6. Pháp đã hiểu biết nhiều rộng, cho nên nói là vô lượng, lại là phù hợp với pháp môn Pháp giới.

7. Pháp đã hiểu biết sâu xa thù thắng, cho nên nói là thù thắng nhất, lại tương ưng với pháp của quả.

8. Khiến cho lúc thuyết giảng không kiêu mạn-không nịnh bợkhông lười nhác-không tham lam, cho nên nói là vô cấu.

9. Pháp đã đạt được không quên, cho nên nói là không lui sụt, lại nói không có lui sụt mất đi, lại không có lui sụt đối với lý, lại không có lui sụt khuất phục.

Ba, giải thích về nguyên nhân gia hộ cùng với thân nghiệp gia hộ và phần phát khởi, đều giải thích giống như trước.

Trong phần bốn là phần Căn bản có hai: Một là Thể của hạnh, hai là Tướng của Hạnh. Trong phần một là Thể của Hạnh, hạnh nghiệp không suy nghĩ là nêu ra Thể để hiển bày đức, nghĩa là hạnh Phổ Hiền viên dung này đầy đủ đức vượt lên trên tình thức gọi là không thể nghĩ bàn. Hạnh không thể nghĩ bàn này gồm có mười loại:

1. Bởi vì rộng lớn, nghĩa là dùng tất cả các thân, ở tất cả mọi nơi, khắp tất cả mọi lúc, trong từng niệm niệm đều tu hạnh xứng với pháp giới, cho nên hạnh này gọi là không thể nghĩ bàn.

2. Bởi vì rất sâu xa, nghĩa là hạnh rộng lớn này thì không thể nào suy nghĩ kể ra, đều không có tự tánh, là giống với chân như, mà tướng của hạnh ấy rõ ràng không mất, là hạnh của tánh khởi, cho nên cũng không thể nghĩ bàn.

3. Bởi vì thù thắng, nghĩa là vượt quá Thừa khác, không phải là phần vị dưới mà tính toán được, cho nên cũng không thể nghĩ bàn.

4. Bởi vì thâu nhiếp phần vị, nghĩa là hạnh này ở Địa tiền có thể thâu nhiếp tất cả các phần vị trước sau, gọi là không thể nghĩ bàn.

5. Bởi vì chứng lý, nghĩa là hạnh này có thể chứng lý không thể nghĩ bàn, gọi là không thể nghĩ bàn.

6. Bởi vì đoạn trừ chướng ngại, nghĩa là hạnh này có thể lập tức đoạn trừ chướng ngại khó đoạn trừ không thể nghĩ bàn.

7. Bởi vì Lợi tha, nghĩa là hạnh này có thể trong một niệm làm lợi ích nhiều đến cùng tận chúng sinh giới, cho nên không thể nghĩ bàn.

8. Bởi vì viên dung, nghĩa là một hạnh tức là tất cả các hạnh, tất cả các hạnh tức là một hạnh, khó xác định số lượng cho nên gọi là không thể nghĩ bàn.

9. Bởi vì trở lại thành tựu, nghĩa là hạnh này đã thực hiện trùng trùng vô tận như Nhân-đà-la võng, cho nên không thể nghĩ bàn.

10. Bởi vì thành tựu quả, nghĩa là có thể thành tựu quả Phật không thể nghĩ bàn, cho nên cũng không thể nghĩ bàn.

Sở dĩ phân rõ về mười là muốn hiển bày về vô tận, như Đại Long đã thực hiện… trong kệ sau, dựa theo biết rõ. Đây là dựa theo Viên giáo phân rõ. Nếu dựa theo Tam thừa thì không có thể đưa ra giải thích như vậy, bởi vì hạnh này hãy còn là phần vị hữu lậu.

Rộng lớn như pháp giới-tận cùng như hư không, là hiển bày về tướng không thể nghĩ bàn trước đây. Nhưng pháp giới có mười, như văn sau nói. Nay đưa ra hai môn để giải thích về hạnh này, nghĩa là hạnh rộng lớn gọi là Quảng, hạnh sâu xa gọi là Đại, Quảng này-Đại này đều xứng tánh mà thành tựu, cho nên nói là như pháp giới. Hư không cũng có mười nghĩa, như nói ở phần Thân hư không của Địa thứ tám trong văn sau. Nay cũng đưa ra hai nghĩa: 1) Hạnh có thể phá tướng chứng nhập đến tận cùng pháp tánh hư không, cho nên nói là cứu cánh như hư không. 2) Hạnh có thể sinh ra vô lượng quả yêu quý, như dựa vào hư không hiện rõ màu sắc, màu sắc vô tận cho nên nói là cứu cánh như hư không.

Hai là trong giải thích: Trước là nêu ra, sau là giải thích. Bởi vì

hạnh này vốn là công hạnh của chư Phật ba đời, cho nên như vậy. Lại giải thích: Hạnh nghiệp trước đây là quán về tướng thiện quyết định, không nghĩ bàn là thiện chân thật, pháp giới là thiện thù thắng, như hư không là nhân của thiện, học ba đời… là không yếu hèn, còn lại giải thích giống như Hội trước.

Trong phần hai là Tướng của Hạnh: Một là nêu ra số để hiển bày chủ yếu, nghĩa là bởi vì chư Phật ba đời cùng thuyết giảng như nhau; hai là nêu ra tên gọi.

Nghĩa của Thập Hạnh này sơ lược đưa ra mười môn phân biệt: 1) Giải thích tên gọi; 2) Thể tánh; 3) Kiến lập; 4) Chủng loại; 5) Tướng của tu; 6) Xác định phần vị; 7) Hành tướng; 8) Thân đã dựa vào; 9) Chướng đã rời xa; 10) Quả đã đạt được.

1) Giải thích tên gọi có hai: Mười loại như Thí-Giới… thuận theo Thể của hạnh làm tên gọi, mười loại như Hoan Hỷ… dựa theo Dụng của hạnh làm đề mục. Nay phân rõ về tên gọi sau. Trong đó tên gọi chung như đầu phẩm giải thích. Tên gọi riêng: Một là Bố thí làm vui lòng mình và người gọi là Hoan hỷ, hoan hỷ do thực hành gọi là Hoan hỷ hạnh, đây là dựa theo tự mình vui mừng, là Trì nghiệp thích; lại cũng thực hành hoan hỷ gọi là Hoan hỷ hạnh, đây là dựa theo làm cho người khác hoan hỷ, thành tựu Tự hành vốn là Y chủ thích. Hai là giữ gìn ba tụ giới thanh tịnh làm lợi ích cho mình và người. Ba là năng lực nhẫn nhục dứt trừ sự giận dữ của mình và người. Bốn là luôn luôn chịu khó tu tập thâu nhiếp công đức thù thắng vô tận. Năm là Chỉ-Quán cùng vận dụng bặt dứt ngu si mê loạn ấy. Sáu là Bát-nhã chiếu rọi lý, pháp thiện hiện bày rõ ràng; lại quán sát Thật tướng của pháp, Bát-nhã hiện rõ trước mắt. Bảy là khéo léo phát khởi công hạnh thù thắng, không vướng mắc đối với Không; lại dùng tâm không đắm say để phát khởi các công hạnh. Tám là Đại nguyện vô ngại thâu nhiếp thiện căn thù thắng, sâu xa đáng tôn trọng. Chín là thông hiểu sâu xa về căn khí, khéo léo đối với pháp giáo hóa. Mười là lời nói và việc làm tương ưng, không nhận lấy tên gọi trống rỗng.

Lại trong mười loại này thích hợp được tên gọi có ba, đó là loại thứ tám thuận theo đức lập thành tên gọi, loại thứ ba-thứ năm-thứ bảy dựa theo lìa xa lỗi lầm mà được tên gọi, còn lại đều thuận theo công năng làm tên gọi, có thể biết.

2. Thể tánh có hai: Trước là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong tổng quát có ba môn: Một, Dựa theo nơi nương tựa, dùng Tam-muội Thiện Phục làm Thể, bởi vì dựa vào Định này để chứng Thể của Thập Hạnh, sau đó mới thuyết giảng. Địa Luận nói Tam-muội này vốn là Thể của pháp. Hai, Dựa theo căn bản, dùng hạnh nghiệp không thể nghĩ bàn… trong phần căn bản để làm tánh, đây là mười nghĩa về suy nghĩ kể ra rộng lớn… như trước giải thích, bởi vì căn bản là thuyết giảng về rộng lớn, cho nên lấy làm Thể. Ba là thâu nhiếp tất cả, dựa theo Cảnh là hai Đế cùng dung hòa, dựa theo Hành là Bi-Trí vô ngại; lại tâm-cảnh viên dung, pháp giới vô ngại, đầy đủ vô biên công đức để làm Thể tánh, suy nghĩ có thể thấy.

Hai là phân rõ riêng biệt về Thể tánh, tất cả đều như sau phân rõ ở phần giải thích văn (những môn còn lại cần phải riêng biệt đưa ra).

Trong phần năm là phần Thuyết giảng, giải thích về Thập Hạnh có hai phần: Một là phần quả, bởi vì cùng chung tánh hải bình đẳng không thể nào nói được, cho nên trong này không luận đến. Hai là phần nhân, dựa theo tùy duyên mà nói thì có bốn lớp: 1) Chỉ dựa theo hạnh của phần vị kề sát, như kinh Nhân Vương và kinh Bổn Nghiệp… nói. 2) Chỉ trình bày về tự Thể của hạnh Phổ Hiền, như phẩm Phổ Hiền Hạnh ở sau nói, ở đây không dựa vào phần vị. 3-Dùng hạnh thuộc tự Thể thuận theo phần vị mà nói, tức là như trường hàng đã nói trong này. -Hội tụ thâu nhiếp tướng của phần vị thuận theo hạnh viên dung của tự Thể, như trong kệ ở sau nói.

Nay trong phần thuyết giảng chỉ phân rõ về hai lớp sau, trong văn có hai: Đầu là trình bày về Thập Hạnh của một thế giới này, sau từ “Như thử…” trở xuống là trình bày về Thập Hạnh trong thế giới mười phương, bởi vì một thế giới này thuyết giảng thì tất cả các thế giới thuyết giảng, cho nên hợp lại làm một Bộ.

Trong phần đầu có hai: Một là chính thức phân rõ về Thập Hạnh, hai là mặt đất rung động… hiển bày về tướng lợi ích của thuyết giảng.

Trong phần một giải thích riêng biệt về Thập Hạnh, tức là làm thành mười đoạn.

Giải thích trong Hạnh thứ nhất là Bố thí Ba-la-mật, đưa ra sáu môn:

Một, Phân rõ về Thể tánh có ba: 1) Dựa theo Tùy tướng cũng có ba: a) Bởi vì thiện căn không tham; b) Căn ấy đi cùng tư duy; c) Cùng chọn lấy Vô biểu của ba nghiệp. Giả-thật cùng luận ba loại này làm tánh, đây là dựa theo Sơ giáo. 2) Dựa theo tánh thì hoặc là dùng chân như làm tánh, luận Khởi Tín nói: “Biết Thể của pháp tánh không có tham keo, tùy thuận tu hạnh Đàn Ba-la-mật, đây là hiển bày thuận theo công đức không tham giống như trong pháp tánh”. Đây là dựa theo Chung giáo. 3) Dựa theo thật thì theo văn sau ở trong Bố thí môn đã thâu nhiếp pháp giới viên dung vô tận làm tánh. Đây là dựa theo Viên giáo.

Hai- Trình bày về Chủng loại, Thí có ba loại, đó là Tài-Pháp và Vô uý thí. Trong Tài thí cũng có ba, đó là Ngoại-Nội và cả hai.

Trong Ngoại thí có hai: 1) Vật không có lỗi lầm tùy theo xin liền cho; 2) Vật có sai lầm, đó là dao gậy-lưới giăng-thuốc độc… đều không nên cho, bởi vì tăng thêm bất thiện.

Trong Nội thí cũng có hai: 1) Dựa theo tự mình phá tâm bủn xỉn đối với người ấy có ích thì liền giúp cho, nhưng cũng có hai: a) Thí cho sức lực của thân…; b) Thí cho từng bộ phận của thân thể… 2) Nếu tâm bủn xỉn của mình đã phá, đối với người ấy hoặc là tuy có an lạc mà không có lợi ích, hoặc là cả hai đều không có nhiều lợi ích an lạc giống như hữu tình khác thì không nên giúp cho; hoặc vốn là ma trời… muốn làm tổn hại Bồ-tát mà không giúp cho thì không phạm, bởi vì cứu giúp nghiệp ác kia. Trên đây đều như Du-già… nói. Hoặc là Bồ-tát sơ tâm chưa có năng lực chịu đựng khổ sở, tạm thời hứa mà không giúp cho thì cũng không phạm. Vì vậy luận Thập Trú nói rằng: Khiến cho nói kệ an ủi người cầu xin ấy, nói rằng đạo tâm tôi mới phát, thiện căn chưa thành tựu, nguyện cho tôi mau chóng thành tựu, sau này nhất định sẽ tự mình giúp cho.

Trong cả hai cũng có hai: 1) Thân và ngôi vua là Y báo-Chánh báo cùng xả bỏ, cho nên nói là Nội-Ngoại thí, nói như Thập Tạng. 2) Nhổ thức ăn và tóc móng cũng đều là Nội-Ngoại thí, nói như Du-già…

Hai là Pháp thí đến phần Hồi Hướng thứ mười sẽ phân rõ về điều đó.

Ba là Vô úy thí, hoặc là dùng Tài thí để cứu giúp nguy khốn, hoặc là dùng Pháp thí để giữ lại thân mạng, hoặc là giúp cho cả hai để tránh khỏi khổ đau, đều là Vô uý thí. Hoặc cả hai đều không phải, đó là đối với oán thù không đền trả…, hoặc là cứu giúp trừ hết khốn khổ. Nói tổng quát có hai loại: 1-Căn duyên tương ưng là cứu giúp; 2-Gây ra nghiệp nhận chịu quả báo, hai loại nhất định tạm thời rời bỏ.

Lại nữa, chủng loại về Vô úy thí này, trong Du Già và Địa Trì luận có chín môn, phẩm Thập Tạng và phẩm Ly Thế Gian đều có mười môn, Hồi Hướng thứ sáu có 120 môn, đều nói như trong những phần ấy. Ba, Thâu nhiếp có hai: 1) Dựa theo ba Đàn thâu nhiếp hành sáu Độ, nghĩa là Tài thí thâu nhiếp một Độ; Vô úy thí thâu nhiếp hai Độ, bởi vì Trì giới cho nên đúng ra phải giết mà không giết, bởi vì Nhẫn nhục cho nên đúng ra phải báo thù mà không báo thù; Pháp thí thâu nhiếp ba Độ, nghĩa là chịu khó thuyết giảng, một lòng thuyết giảng, thuyết giảng không trái ngược. Bởi vì bốn loại như phương tiện… giúp đỡ sáu Độ trước, cho nên Thập Hạnh chung quy là do loại thứ nhất thâu nhiếp. 2) Chỉ một Tài thí cũng là mười Độ và vạn hạnh…, như sau nói trong Địa thứ bảy, nên biết!

Bốn, Nhân quả có ba: 1) Tùy theo phạm vi của quả, đó là Đại-Tài v.v… 2) Phần vị của quả, đó là Địa tiền thuộc nhân, Địa thượng thuộc quả v.v… 3) Đạt được quả Phật, luận Phật Tánh quyển thứ hai nói: “Xả có hai loại: Một là do xưa kia xả vật để giúp cho người khác, cho nên nay đã giảm bớt tham ái. Hai là do xưa kia xả pháp giúp cho người, cho nên nay đã diệt bớt vô minh. Do xả này cho nên tham ái vô minh đều có phần giảm dần, nhờ vào nhân duyên này mà đạt được quả giải thoát.” Lại thành tựu Đại công đức tụ của Phật quả…, nói như phẩm Phổ Hiền.

Năm, Hạnh bí mật, kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Lại tiếp tục hỏi: Văn Thù Sư Lợi, ông lẽ nào bủn xỉn hay sao? Đáp rằng: Tôi thật là bủn xỉn. Lại hỏi: Vì sao? Đáp: Nếu tâm không xả thì đã gọi là bủn xỉn. Lại hỏi: Vì sao không xả gọi là bủn xỉn? Đáp: Tôi thường không xả pháp chúng của chư Phật mà không xả tất cả chúng sinh, bởi vì nghĩa này cho nên nói tôi là bủn xỉn.”

Sáu, Trong phần giải thích văn có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong giải thích có hai: Trước là trình bày về Tài thí, sau từ “Quán sát…” trở xuống là trình bày về Pháp thí.

Trong phần trước, Pháp sư Ý ở Bắc Đài nói: Trước là trình bày về Thể của hạnh, sau từ “Bồ-tát tu hoan hỷ hạnh thời…” trở xuống là Hạnh này sửa trị làm cho thanh tịnh.

Lại giải thích phân ba: Một, trình bày về hạnh thuận theo lý tự mừng vui hoan hỷ; hai, từ “Bồ-tát tu…” trở xuống là được vật như tâm mong cầu khiến cho người khác sinh lòng vui thích; ba, từ “Ly chư ngã tưởng…” trở xuống là trình bày về lìa ba Luân để thành tựu Đàn độ.

Trong phần một, trước là giải thích, sau là kết luận.

Trong giải thích có ba: Một là chính thức thực hành về hạnh bố thí; hai là lựa chọn điều đã lìa xa; ba là hiển bày về điều đã mong cầu.

Trong phần một có ba: 1) Thí chủ, luận Đối Pháp quyển thứ tám nói: “Làm Đại thí chủ, đây là hiển bày về nghĩa thường xuyên bố thí, do thói quen xuyên suốt trở thành tánh, luôn luôn chủ động bố thí cho nên làm chủ.” Lìa bỏ tất cả là giải thích hiển bày về nghĩa của chủ, tức là giải thoát buông xả tự tay mình bố thí. 2) Tâm bình đẳng…, là nghĩa về bố thí không có cố ý bênh che trong luận. 3- Thực hành thành tựu Đại Hỷ, cho nên nói là không ân hận gì.

Hai là điều đã lìa xa, là ý thích vô nhiễm trong Đối Pháp. Trong đó có bốn câu: 1) Không trông mong quả báo tiền của tài sản ở vị lai; 2) Không mong cầu danh tiếng ở hiện tại; 3) Không mong mỏi nơi chốn thù thắng của trời-người ở tương lai; ) Không hy vọng lợi dưỡng ở hiện tại.

Ba là điều đã mong cầu, đã không mong cầu quả báo… thì làm vì điều gì? Mười câu sau hiển bày về ý này: 1) Cứu giúp nỗi khổ nghèo khó ở hiện tại; 2) Thâu nhiếp làm cho hướng về đạo; 3) Lợi ích giúp cho tu tập thực hành hạnh của giải thoát. Ba loại trên đây là dùng bố thí chúng sinh để thâu nhiếp chúng sinh. ) Học tập công hạnh vốn có xưa kia của chư Phật, là bắt đầu thuộc Tự phần. 5) Đích thực nhớ lại, là cuối cùng thuộc Tự phần. ) Bắt đầu thuộc Thắng tiến; 7) Là cuối cùng thuộc Thắng tiến. Bốn loại trên đây là tùy theo chúng sinh mà thực hành. ) Hiển bày làm cho lớn mạnh, hạnh này làm cho người khác luyện tập bố thí. 9) Thực hành đầy đủ rồi thuyết giảng, khiến cho người khác tiếp nhận học hỏi. 10) Kết luận về ý truyền dạy. Ba loại trên đây là dùng thực hành để làm lợi ích cho chúng sinh.

Trong Hạnh thứ hai là Đối Duyên bố thí chúng sinh làm cho chúng sinh vui mừng, có hai: Một- Tổng quát để nêu ra; hai- Từ “Tùy phương…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về tướng ấy. Trong đó có hai: Trước là trình bày về phương tiện tu hạnh bố thí, sau từ “Ư niệm niệm…” trở xuống là chính thức trình bày về thành tựu hạnh.

Trong phương tiện, nơi nghèo khó là dựa vào thửa ruộng khốn khổ, nguyện sinh là dựa vào nguyện. Đối Pháp nói: “Dựa vào nguyện tu, nghĩa là bởi vì dựa vào nguyện lực vốn có mà tu tập Chánh hạnh đối với Ba-la-mật-đa.” Giàu sang là dựa vào quả báo để tu trong Đối Pháp, nhờ vào lực thù thắng của tự Thể mà tu tập Chánh hạnh đối với Ba-la-mật-đa; tiền của vô tận là dựa vào rất nhiều tài sản mà tu thành tựu hạnh bố thí.

Hai từ “Ư niệm…” trở xuống là trong phần chính thức trình bày về hạnh bố thí, theo trong Đối Pháp luận quyển thứ 12: “Bồ-tát dựa vào sáu loại ý thích để tu tập Ba-la-mật-đa: 1) Ý thích không chán ngán, nghĩa là các Bồ-tát trong một sát-na đối với một hữu tình, giả sử đem bảy báu trong khắp thế giới như số cát sông Hằng dùng để bố thí,

lại dùng thân mạng như số cát sông Hằng để bố thí, như vậy trải qua Đại kiếp như số cát sông Hằng; như đối với một hữu tình đã như vậy, cho đến tất cả hữu tình giới cũng như vậy, lúc bố thí đều khiến cho họ mau chóng được thành tựu tu hành đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề. Lúc bố thí sai biệt như vậy, ý thích của Bồ-tát hãy còn không thỏa mãn, đó gọi là ý thích không chán ngán của Bồ-tát đối với Bố thí Ba-la-mật-đa. 2) Ý thích rộng lớn, nghĩa là cho đến Bồ-đề mà hạnh bố thí không tạm thời ngừng lại… 3) Ý thích hoan hỷ, nghĩa là gặp được người tiếp nhận bố thí… 4) Ý thích ân đức, nghĩa là thấy người tiếp nhận bố thí đối với mình có ân bởi vì giúp cho mình thành tựu Bồ-đề. 5) Ý thích không nhiễm ô, nghĩa là tuy mang lại phước Đại thí cho hữu tình, mà không mong báo ân dị thục ở tương lai. 6) Ý thích tốt đẹp, nghĩa là quả của bố thí rộng lớn đều giúp cho hữu tình, lại dùng phước này cùng với các hữu tình hồi hướng Bồ-đề.” Nói đầy đủ như văn trong luận ấy.

Văn này có bốn: Một là trình bày về ý thích không chán ngán và ý thích rộng lớn, không có tài sản nói là nghèo khó, trống rỗng tất cả nói là khốn cùng. Hai từ “Bất dĩ cầu sách…” trở xuống là trình bày về ý thích hoan hỷ. Ba từ “Tác như thị niệm…” trở xuống là trình bày về ý thích ân đức, nghĩa là sinh ra phước của mình cho nên gọi là phước điền, khởi lên hạnh của mình cho nên gọi là thiện hữu, từ “Ngã kim…” trở xuống là kết luận báo đáp ân đức ấy. Bốn từ “Ngã ư tam thế…” trở xuống là trình bày về ý thích tốt đẹp, trong đó có ba: 1-Dùng hạnh thành tựu quả để cứu giúp chúng sinh; b-Bố thí phước cho chúng sinh giúp cho thành Phật trước; c-Sau đó mình tự đạt được, có thể biết.

Thứ ba là trình bày về lìa xa đắm trước ba Luân thành tựu Ba-lamật, trong đó có hai: Đầu là quán xét hiểu rõ phá chấp, sau từ “Như thị quán thời…” trở xuống là quán thành tựu về tướng xả. Lại giải thích: Đầu là gồm chung lìa xa hai chấp, sau là riêng biệt phai mờ ba Luân.

Trong phần đầu, bảy câu trước trình bày lìa xa chấp về Người, trong đó Phước-già-la thì Trung Hoa nói là Số Thủ Thú, nghĩa là bởi vì luôn luôn dẫn đến các nẽo, xưa phiên ra tên gọi là Người. Theo Du-già quyển thứ 3: “Có tám tên gọi: 1) Ngã, đó là đối với năm Uẩn khởi lên Ngã-Ngã sở, bởi vì thấy hành hiện rõ trước mắt. 2) Hữu tình, đó là các Hiền Thánh biết rõ ràng đúng như thật, bởi vì chỉ có pháp này lại không có gì khác, lại cũng bởi vì có ái trước đối với pháp ấy. 3) Ý sinh, đó là bởi vì đây là tánh chủng loại của ý. 4) Ma-nạp-phược-ca, đó là bởi vì dựa vào ý hoặc cao hay thấp. 5) Dưỡng dục, đó là bởi vì có thể tăng trưởng về nghiệp của các cõi, bởi vì có thể làm tất cả công dụng của sĩ phu. 6) Bổ-đặc-già-la, đó là bởi vì có thể luôn luôn hướng về chọn lấy các nẽo, không có gì thỏa mãn. 7) Mạng, đó là bởi vì tuổi thọ hòa hợp hiện đang còn sống. 8) Sinh, đó là bởi vì có đủ tất cả các pháp như Sinh…”

Theo Đại Bát Nhã có 13 tên gọi, tám tên gọi giống như Du-già, lại thêm vào năm loại: 1) Tác giả; 2) Thọ giả; 3) Kiến giả; 4) Tri giả; 5) Sĩ phu. Trải qua tra tìm ba bản giải thích trong luận Bát Nhã.

Hai từ “Pháp giới…” trở xuống là bảy câu trình bày lìa xa chấp về Pháp: 1) Đó là Chúng sinh giới trống rỗng cùng với pháp giới không có sai khác. 2) Thể trống rỗng không có giữ lấy cho nên nói là lìa dục. 3) Tánh không có nhất định là thật. 4) Tướng không hề vốn có. 5) Không có thể tự tại. 6) Không phải là nơi có thể dựa vào. 7) Duyên thành tựu lìa xa tạo tác.

Hai là trong phần quán thành tựu về tướng xả, có chín câu: Ba câu đầu là thấy ba sự Không, luận Trang Nghiêm nói: “Bố thí có ba chướng ngại, đó là tướng của mình-tướng của người khác-tướng của bố thí. Bố thí đắm vào ba tướng này là bố thí (đàn) thế gian chứ không phải là Ba-la-mật, bởi vì ở trong thế gian không thay đổi-không vượt ra; rời xa đắm trước ba tướng này gọi là xuất thế gian Ba-la-mật, bởi vì trong thế gian có thể thay đổi vượt ra.” Bốn là không thấy ruộng phước sinh ra. Năm là không thấy phước nghiệp đã sinh ra. Sáu là không thấy nhờ vào bố thí đạt được quả Dị thục. Bảy là không thấy đạt được quả Đẳng lưu. Tám là không thấy đạt được Đại quả của Phật địa. Chín là không thấy Tiểu quả đã đạt được ở trong Bồ-tát địa.

Trong phần thứ hai là Pháp thí, có hai: Một- Nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh bị làm hại; hai- Khởi lên ý làm lợi ích.

Trong phần một, đó là quán xét chúng sinh ba đời: 1) Do vô minh mà che khuất; 2) Do bốn trú mà ràng buộc, đây là đầy đủ nhân của khổ; 3) Nhận chịu quả khổ vô cùng; 4) Trình bày về thiếu sự cứu giúp chính đáng, nghĩa là không có được ba pháp kiên cố của Phật.

Từ “Ngã đương…” trở xuống là khởi lên ý làm lợi ích, trong đó: Một là tự mình tu theo nhân của Phật để cảm hóa người khác cùng luyện tập; hai là tự mình sẽ thành Phật giúp cho người khác cùng đạt được, làm cho thanh tịnh là đối với nhân của khổ trước đây, thuận theo diệt trừ là đối với quả khổ trước đây; ba là kết luận có thể biết.

Trong phần thứ hai là làm lợi ích cũng đưa ra sáu môn:

Một, Thể tánh có ba môn: 1) Tùy tướng môn, đó là ở trên tư duy giả lập về Vô biểu, cũng có ba sự: a) Tư duy; b) Vô biểu; c) Biểu nghiệp của thân-ngữ, cho nên luận nói Bồ-tát giới lấy ba nghiệp thiện làm tánh. 2) Dựa theo căn bản cũng lấy chân như làm tánh, luận Khởi Tín nói: “Như Thể của pháp tánh thanh tịnh không cấu nhiễm, tùy thuận tu hạnh Trì giới Ba-la-mật.” 3) Dựa theo thật thì lấy pháp giới vô tận làm Thể v.v…

Hai- Chủng loại thì có mười loại sai biệt: 1) Theo kinh Phạm Võng… thì có ba Quy giới của Bồ-tát. 2) Theo kinh Thiện Sinh thì năm giới là giới của Bồ-tát tại gia. 3) Theo kinh Văn Thù Vấn thì tám giới gọi là giới của Bồ-tát thế gian. 4) Cũng theo kinh ấy thì mười giới, đó là ngay Sa-di đã thọ trì thì gọi là giới của Bồ-tát xuất gia. 5) Theo kinh Phương Đẳng thì hai mươi bốn giới cũng là Bồ-tát tại gia thọ trì. 6) Theo kinh Anh Lạc-Phạm Võng thì mười giới vô tận gồm chung Bồ-tát tại gia và xuất gia thọ trì. 7) Theo luận Du-già và Địa Trì thì bốn giới Ba-la-di, quán xét về giới tướng này phần nhiều tựa như là xuất gia đã thọ trì, mà cũng gồm chung tại gia. 8) Kinh Thiện Giới và kinh Trùng Lâu Giới… có tám Trọng giới, đó là trên bốn Trọng của Thanh văn thêm vào bốn Trọng trong Du-già, cho nên trở thành tám. Văn này giới hạn là Bồ-tát xuất gia thọ trì, bởi vì trước phải thọ trì năm giới-mười giới-cụ túc giới mới được thọ giới Bồ-tát, vốn là như lầu đài bốn tầng dần dần thành tựu… 9) Theo Lương Nhiếp Luận Giới Học nói: “Như kinh Tì Nại Da Cù Sa Tỳ Phật Lược nói: Bồ-tát giới có mười vạn loại sai biệt.” 10) Theo kinh Hoa Nghiêm có mười-mười đều là Vô tận giới phẩm, như phẩm Thập Tạng và phẩm Ly Thế Gian nói.

Ba- Thâu nhiếp công hạnh, theo luận Du-già: “Bảy chúng đã thọ trì Giải thoát giới là Luật nghi giới của Bồ-tát thâu nhiếp, sáu Độ-mười Địa… là Nhiếp thiện pháp giới thâu nhiếp, bốn Nhiếp-bốn Vô lượng… là Nhiêu ích hữu tình giới thâu nhiếp.” Lại có nghĩa về thâu nhiếp, như trong Đối Pháp luận quyển thứ 12 nói.

Bốn- Đạt được quả cũng có ba: 1) Tùy theo phân vị đạt được quả, Nhiếp Luận gọi là Đại Sinh Nhiếp, vì vậy nói tức là do giới mà đạt được lợi ích thù thắng thuộc về nẽo thiện. 2) Do tư lương này sẽ đạt được quả báo thù thắng và tự tánh giới mà Địa thượng đã đạt được. 3) Đạt được quả Vô thượng Bồ-đề, đó là do Luật nghi giới mà đạt được quả Đoạn đức của Pháp thân, do Nhiếp thiện giới mà đạt được quả Trí đức của Báo thân, do Nhiêu ích chúng sinh giới mà đạt được quả Ân đức của Hóa thân.

Năm- Bí mật, Bồ-tát cũng phá giới, như kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Lại tiếp tục hỏi rằng: Như tôi suy nghĩ về Văn Thù đã nói, ông giờ đây cũng là phá giới?

Đáp rằng: Tôi cũng phá giới.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Nếu người phá giới thì người ấy rơi vào ba đường ác, tôi cố ý tư duy rơi vào đường ác để thành tựu chúng sinh, vì nghĩa này cho nên nói tôi là phá giới.”

Sáu- Trong giải thích văn có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong giải thích có hai: Một là sơ lược phân rõ lìa xa lỗi lầm để trình bày về Thể của hạnh; hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là đối với duyên mở rộng hiển bày về Dụng của hạnh kiên cố.

Trong phần một cũng có ba: Trước là nêu ra hạnh trì giới thanh tịnh, nghĩa là tự mình trì giới thanh tịnh không nhiễm trước sáu trần; tiếp là nói về là người hóa độ thành tựu hai hạnh Tự lợi và Lợi tha; sau là hiển bày về hai ý, đầu là trình bày về đã lìa xa, sau từ “Đản kiên trì…” trở xuống là trình bày về những việc đã làm.

Trong những việc đã làm đều không vì cầu quả báo thù thắng ở thế gian này, thì làm vì điều gì? Làm vì có bốn loại: 1) Bởi vì lìa xa lỗi lầm tai họa lớn của sinh tử, phiền não… là nhân của khổ, đau buồn khốn khổ… là quả của khổ, khổ này là do Luật nghi giới mà lìa xa. 2) Dưới đối với chúng sinh không làm trái Bi nguyện cho nên nói là không phụ, nghĩa là xứng với hoằng thệ vốn có mà cứu giúp thâu nhiếp, bởi vì điều này do Nhiêu ích chúng sinh giới mà thành tựu. 3) Trên thuận với ý của Phật vì thế khiến cho hoan hỷ, điều này là do Nhiếp thiện pháp giới mà thành tựu. Trên đây là nhân tròn vẹn. ) Bởi vì làm cho đầy đủ quả Bồ-đề.

Trong phần thứ hai là đối với duyên mở rộng hiển bày, có ba: Một là trình bày về khó giữ mà có thể giữ, là Luật nghi giới; hai từ “Tác thị niệm chúng sinh trường dạ…” trở xuống là trình bày về khó cứu mà có thể cứu, là Nhiêu ích chúng sinh giới; ba từ “Ngã đương xả ly…” trở xuống là trình bày về khó làm mà có thể làm, tức là Nhiếp thiện pháp giới.

Trong phần một có sáu: 1) Không phải là cảnh ấy bức bách; 2) Từ “Nhĩ thời Bồ-tát…” trở xuống là thấy rõ ràng về lỗi lầm ấy; 3) Từ “Thị cố…” trở xuống là trình bày về tâm kiên cố giống như Phật; 4) Không trái với phương tiện mà trong tâm càng kiên cố; 5) Từ “Bất vi…” trở xuống là giải thích hiển bày về tướng kiên cố, trong đó trước là giải thích thuận chiều, từ “Ninh xả…” trở xuống là giải thích ngược lại; ) Từ “Tự kiến Phật…” trở xuống là nêu ra nhẹ để so sánh nặng, nghĩa là bắt đầu từ xưa mới phát tâm đến nay gọi là đã thấy Phật, trong thời gian ấy đến nay chưa từng khởi lên Tưởng, là nêu ra nhẹ; huống hồ thuận theo sự việc là so sánh về nặng, nghĩa là Tưởng hãy còn không khởi lên huống hồ có hình tướng sự việc. Sau cuối là trở lại kết luận về không có điều ấy.

Trong phần hai là trình bày về Nhiếp sinh giới, có ba: 1) Nghĩ đến chúng sinh vì ham muốn làm cho ràng buộc; 2) Từ “Ngã kim…” trở xuống là thành lập chí nguyện nêu lên những lợi ích đã làm; 3) Từ “Quán nhất thiết Phật…” trở xuống là dựa vào nêu lên thuận với lý dùng pháp chính thức làm lợi ích.

Trong phần một có năm câu: a) Chưa đạt được suy nghĩ mong cầu gọi là ức niệm; b) Bắt đầu thấy ràng buộc vấy nhiễm gọi là tham trước; c) Đạt được ý vị sâu xa gọi là ái lạc; d) Ở lâu không rời bỏ gọi là thường lưu; e) Về sau không chán ngán gọi là vĩnh viễn chìm đắm không có thể ra khỏi.

Trong phần hai là nêu lên ý làm ích lợi, có hai: Trước là nêu lên những việc làm, sau từ “Hà dĩ…” trở xuống là giải thích hiển bày về ý ấy.

Trong phần trước có ba: Một, thiết lập về giới thanh tịnh của Địa tiền; hai, khiến cho đạt được Địa thượng không lui sụt; ba, thành tựu quả Bồ-đề Niết-bàn.

Trong phần sau là giải thích: Trước là nêu ra ý của người khác có điều ác đối với mình đâu vội vàng? Sau giải thích đây là nghiệp của mình, nghĩa là khiến cho chúng sinh vững vàng đối với giới thanh tịnh cho đến Niết-bàn, là pháp vốn như vậy trong gia nghiệp của các Bồtát, vì vậy cần phải làm. Chư Phật ba đời trong thời gian đầu ở nhân vị cũng cùng thực hiện điều này, an lập người khác trong giới thanh tịnh cho đến Niết-bàn, vì vậy nói là lìa xa những việc làm không đúng. Sau khi làm hại đã quá muộn mà không kịp thực hành, xưa nay không làm bởi vì mình không biết gì, nay mới bắt đầu làm hãy còn hối hận là chậm mà thôi.

Trong phần ba là dựa vào nêu lên thuận với lợi ích cũng có ba: a) Tổng quát trình bày về đạt được pháp bình đẳng pháp là nói đến loại trừ điên đảo; b) Từ “Bất ly chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về tướng điên đảo loại trừ, tức là bình đẳng; c) Từ “Ngộ nhất thiết pháp…” trở xuống là trình bày về lợi ích của quán xét hiểu rõ.

Trong phần b: Một, chúng sinh là tánh duyên khởi dựa vào nơi khác, điên đảo là tánh sở chấp do vọng tưởng, nghĩa là dựa vào tương tự mà chấp làm thật, không lìa xa chúng sinh có điên đảo; dựa vào chấp mà tương tự khởi lên, không lìa xa điên đảo có chúng sinh. Hai, điên đảo có thể khởi lên chúng sinh từ trong điên đảo không có chúng sinh, chúng sinh có thể khởi lên điên đảo từ trong chúng sinh không có điên đảo. Ba, điên đảo từ chúng sinh khởi lên mà không phải là chúng sinh, chúng sinh từ điên đảo mà có nhưng không phải là điên đảo. Bốn, ngay chúng sinh không phải là điên đảo, điên đảo không phải là bên trong, lìa xa chúng sinh không có điên đảo, điên đảo không phải là bên ngoài. Năm, chúng sinh cũng như vậy, dựa vào nhau-làm mất lẫn nhau đều không phải là bên trong-bên ngoài. Từ “Không vô sở hữu…” trở xuống là tương tự tất cả các pháp còn lại, đều là hư vọng không thật.

Trong phần c là lợi ích của quán xét: Trước là lợi ích của tự mình nhận biết, sau từ “Vị độ…” trở xuống là lợi ích về hóa độ người khác. Trong đó có chín câu: 1) Khiến cho vượt qua Khổ; 2) Khiến cho thoát khỏi Tập; 3) Trao cho Giới học; 4) Trao cho Định học; 5) Trao cho Tuệ học; 6) Khiến cho lìa xa mê hoặc thô thiển; 7) Tập khí vi tế cũng không còn cho nên nói là thanh tịnh; 8) Khiến cho đạt được Niết-bàn; 9) Đạt được Bồ-đề.

Trong phần thứ ba là Nhiếp thiện giới, có năm: 1) Phát khởi tâm nguyện tu tập pháp thiện, bởi vì thuận với trên do đó làm cho Đức Phật hoan hỷ; 2) Đưa ra những sự việc hoan hỷ, thành tựu nhân của Phật, an trú trong quả Phật; 3) Thành tựu về quán xét hiểu rõ, nghĩa là hiểu rõ chúng sinh bình đẳng, hiểu rõ về pháp cũng trống rỗng; ) Rời xa cấu nhiễm chướng ngại, trong đó lìa xa pháp ác là từ bỏ nghiệp chướng, còn lại là phiền não; 5) Thành tựu công đức thanh tịnh, câu đầu là nhân, từ “Tất đắc…” trở xuống là thành tựu quả; đầu đạt được Trí về Giáo, sau Không Tuệ là Trí về Chứng.

Hạnh thứ ba là không sân hận, tức là Nhẫn nhục Ba-la-mật, cũng đưa ra năm môn:

Một- Thể tánh, luận Du-già nói: “Nhẫn có ba loại: 1) Nhẫn nại nhận chịu oán hại, dùng Tuệ số tương ưng với thiện căn không sân làm Thể, duyên với chúng sinh làm cảnh; 2) An tâm nhẫn nại nhận chịu khổ đau, dùng Tuệ số tương ưng với Tinh tiến làm Thể, duyên với pháp làm cảnh; 3) Nhẫn nại tư duy về pháp hiểu rõ thù thắng, dùng hai số Định-Tuệ làm Thể, duyên với không có pháp làm cảnh, bởi vì Chánh trí tiến vào quán vốn là cảnh và trí giống như nhau.” Lại trong Thông Luận dùng bốn pháp làm Thể, đầu là không sân, tiếp là chịu khó, sau

30 là Tuệ và tư duy, vốn là ba nghiệp gồm chung trước đây. Lại trong luận Khởi Tín biết Thể của pháp tánh không sân lìa xa phiền não cho nên tùy thuận tu hạnh Nhẫn nhục Ba-la-mật.

Hai, Phương tiện tu Nhẫn là dựa theo Sơ Nhẫn, luận Trang Nghiêm nói: “Nhờ vào ba Tư-năm Tưởng thì có thể Nhẫn nại chịu đựng, ba Tư: 1) Nghĩ đến người khác chê bai mình là tự nghiệp của mình, nếu đáp trả thì lại tự mình tạo ra khổ chứ khổ không bởi vì người khác; 2) Nghĩ đến người ấy và mình cùng là hành khổ, bởi vì người ấy không hiểu biết từ khổ lại thêm khổ, nay mình có hiểu biết vì sao lại như vậy? 3) Nghĩ đến Thanh văn tự lợi ích cho mình hãy còn không làm khổ thêm cho người, Bồ tát làm lợi ích cho người lẽ nào có thể làm khổ thêm cho chúng sinh hay sao?

Năm Tưởng: 1) Tu tưởng về thân thích của mình, bởi vì tất cả chúng sinh từ xưa đến nay đều là thân thuộc; 2) Tu tưởng về pháp, bởi vì sự đánh mắng không thể nào đạt được; 3) Tu tưởng về Vô thường, bởi vì tánh chúng sinh là tử, pháp hãy còn không nên giận, huống gì làm hại; 4) Tu tưởng về Khổ, bởi vì chúng sinh không lìa xa ba khổ, chỉ nên làm cho họ lìa xa chứ không nên thêm nữa; 5) Tu tưởng về thâu nhiếp tiếp nhận, bởi vì bổn nguyện làm cho vui vẻ chứ không làm cho khổ sở.” Lại trong Trí Luận nói: “Nếu bị chê bai làm hại thì chỉ suy nghĩ về pháp đối trị chứ không nên nổi giận, như gặp phải gió mưa chỉ tìm cách che chắn chứ không nên nổi giận.” Rộng ra như Trí Luận có nhiều môn phân rõ.

Ba, Chủng loại: Hoặc là chỉ một, đó là Nhẫn độ. Hoặc là hai, Trí Luận nói một là Nhẫn chúng sinh, hai là Nhẫn pháp. Hoặc là ba, giống như trước. Hoặc là năm, đó là Tín Nhẫn… Hoặc là mười, như sau nói ở phẩm Thập Nhẫn và phẩm Ly Thế Gian.

Bốn, Bí mật, kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Lại hỏi Văn Thù: Ông có tâm nóng giận ư? Đáp rằng: Đúng như vậy. Lại hỏi: Vì sao? Đáp: Lẽ nào tâm không giận? Hỏi: Là không yêu quý ư? Đáp: Đúng như vậy. Văn Thù nói: Tôi không có ý niệm yêu quý gì đối với phiền não và Nhị thừa, bởi vì nghĩa này cho nên tôi có tâm nóng giận.” Những môn còn lại như nói riêng biệt v.v…

Năm, Trong giải thích văn, trong giải thích: Một- Nêu ra hạnh để hiển bày ý; hai- Từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống là đối duyên phân rõ về tướng.

Trong phần một: Đầu là một câu tổng quát để nêu lên, sau từ “Khiêm ti…” trở xuống là riêng biệt hiển bày. Trước là hiển bày về tự hành, sau là khuyên dạy cho người.

Trong phần trước: Trước là dựa theo tánh của ba nghiệp có tướng của Nhẫn, nghĩa là tự mình khiêm nhường kính trọng người khác là tướng Nhẫn thuộc tâm, sắc mặt hòa nhã là tướng Nhẫn thuộc thân, lời nói nhẹ nhàng là tướng Nhẫn thuộc khẩu. Sau là dựa theo lìa xa ba độc hiện rõ thành tựu tướng Nhẫn: Một là dựa theo lìa sân, đó là không tự làm hại mình… Tự mình có điều khổ sở không có thể an tâm nhẫn chịu, tự đày đọa làm hại mình…, trái với hạnh an tâm nhẫn nại khổ đau. Đối với oán thù không thêm, gọi là không làm hại người khác. Đây là nhẫn nại nhận chịu oán hại, cùng phân rõ về hai loại trước, cho nên nói là cả hai. Trí Luận có hai Nhẫn: “1) Đối với trái có thể Nhẫn; 2) Đối với thuận có thể Nhẫn.” Trên đây là Nhẫn với trái ngược. Hai là dựa theo lìa tham, đối với thuận có thể Nhẫn, đó là không vì danh lợi mà khởi lên kiêu mạn, tự cao ngạo đối với người khác và cả hai đều có thể biết. Ba là dựa theo lìa si, không nói đến mình là lìa xa kiêu mạn, không giả dối là người khác lìa xa nịnh bợ, cả hai lìa xa không đi cùng. Lại đối với điều mình đã làm không nói là đúng, đối với điều mình yêu quý không nói điều ấy là đúng, cả hai đều rời bỏ không nói cả hai là đúng. Đây là tướng Nhẫn nại tư duy về pháp. Lại giải thích: Dựa theo ba nghiệp, đầu là do sắc mặt hòa nhã cho nên không làm hại, tiếp là do khiêm tốn cho nên không cao ngạo, sau là do lời nói nhẹ nhàng cho nên không đúng.

Sau là khuyên dạy cho người cũng là hiển bày về ý, vì muốn khuyên dạy cho người đoạn ác thì trước phải tu tập về Nhẫn. Trong đó: Một là khuyên dạy lìa xa lỗi lầm; hai từ “Dĩ Đại Nhẫn…” trở xuống là thành tựu hành đối trị, nghĩa là đầy đủ ba Nhẫn đối trị ba độc…, cho nên nói là Đại Nhẫn.

Hai là đối với duyên phân rõ về tướng của hạnh Nhẫn, nghĩa là khó Nhẫn mà có thể Nhẫn. Trong đó có hai: Một là mở rộng nêu rõ về bôi nhọ làm hại, hai là đối với bôi nhọ có thể Nhẫn nhục.

Trong phần một có bốn: 1) Nhiều chúng sinh; 2) Nhiều mắng nhiếc bôi nhọ; 3) Nhiều tổn thương có hại; ) Trải qua nhiều kiếp. Đây là khó Nhẫn.

Hai là an tâm có thể Nhẫn nhục, trong đó cũng có bốn: 1) Nhẫn nại thấy rõ lỗi lầm của nóng giận; 2) Nhẫn nại suy nghĩ xưa để động viên nay; 3) Nhẫn nại về thân và khổ đều Không; 4) Nhẫn nại giống như Phật thâu nhiếp chúng sinh.

Trong phần một gặp phải khổ đau sinh tâm nóng giận, trở lại đưa ra không Nhẫn; sau làm sáng tỏ về lỗi lầm ấy có tám câu, bảy câu đầu là lỗi lầm mất đi công hạnh của mình, trong đó: Một là lỗi lầm không tự điều phục tâm mình. Hai là lỗi lầm không giữ gìn thân-miệng. Hai loại này là sai lầm vì không có giới. Ba là trình bày về không có Tuệ, bởi vì nóng giận che mờ tâm cho nên không thấy lý của pháp, gọi là không rõ ràng. Bốn là bởi vì tâm nóng giận rối loạn khiến cho không vắng lặng, đây là chướng ngại đến phương tiện tu Định. Năm là chướng ngại về tu Chánh Định. Sáu là lỗi lầm do hành giả dối chứ không phải là chân thật. Trên đây là sai lầm làm trở ngại đến pháp thiện. Bảy là lỗi lầm tăng thêm pháp ác, đó là bởi vì tự yêu quý thân mình, không chịu được sự xâm hại của người khác, cho nên dẫn đến nóng giận phiền muộn mà tăng thêm ác nghiệp.

Câu sau cuối trình bày về lỗi lầm mất đi lợi ích của người khác, làm sao có thể khiến cho hoan hỷ là trình bày về không có thiện bắt đầu, mà lại có thể giải thoát là trình bày về không có lợi ích cuối cùng.

Trong phần hai là suy nghĩ xưa để tự động viên mình, nghĩa là tự suy nghĩ từ xưa kia bởi vì bảo vệ thân tâm này, khởi lên tranh cải tạo ra nghiệp ác nhận chịu đau khổ vô cùng, nay nếu không Nhẫn nại thì lại chồng thêm khổ, nhiều kiếp không dừng được. Dùng điều này để tự động viên mình, khiến cho tâm hoan hỷ Nhẫn nại.

Lại giải thích: Bởi vì mình có thân tâm này là nhân của khổ, khiến cho người khác có thể có sự não hại, nguồn gốc khổ là do mình, sao không tự trách mình? Vì vậy kinh Niết Bàn nói: “Bởi vì tay-dao gậy cho đến thân mình cho nên có thể gọi là đánh, nay mình không nên nóng giận thô bạo đối với người khác, mà chính là thân mình tự chuốc lấy lỗi lầm này, ví như bởi vì có đích thì có mũi tên bắn trúng, mình cũng như vậy, bởi vì có thân thì có đánh.” Dùng điều này để tự động viên mình.

Lại giải thích: Mình ở xưa kia chưa từng không có thân tâm phàm ngu, hoặc là do ác nghiệp vào nơi địa ngục…, hãy còn trải qua vô lượng kiếp oan uổng nhận chịu khổ đau vô cùng, không có một điều gì lợi ích, huống gì nay nhận chịu nỗi khổ nhỏ bé này để thành tựu hạnh Đại Nhẫn của Bồ-tát hay sao? Dùng điều này để tự động viên mình, cho nên sinh tâm hoan hỷ.

Đối với Nhẫn ở môn trước để nói đến môn này là nặng, khuyến khích tâm không lui sụt, động viên tâm để tiến lên. Bởi vì thấy lợi ích này mà đối với sự bôi nhọ hoan hỷ nhận chịu, gọi là tâm hoan hỷ; điều phục tâm lìa xa nóng giận, thâu nhiếp không tạo ra điều ác, cho nên nói là điều phục thâu nhiếp.

Sau là giải thích về ý điều phục thâu nhiếp: Trước là nêu ra, sau là

giải thích. Bởi vì làm cho mình và người trú vào pháp Vô thượng, cho nên loại này cũng là an tâm Nhẫn nại nhận chịu khổ đau.

Trong phần ba là Nhẫn về thân và khổ đều Không, đối với hai môn trước nói là lại trải qua suy nghĩ. Kinh Tư Ích nói: “Các pháp diệt đi trong từng niệm, tánh ấy luôn luôn không tồn tại, trong đó không có mắng nhiếc làm nhục, cũng không có cung kính tôn trọng. Nếu cắt thân ra làm từng mảnh, tâm ấy luôn luôn không chuyển động, thì biết tâm không ở bên trong, lại cũng không ở bên ngoài thân, oán thù và dao gậy đều từ bốn Đại mà khởi lên, đối với đất-nước-gió-lửa chưa từng có thương tổn.”

Trong này, trước là Sinh Không, từ “Vô chân thật…” trở xuống là trình bày về Pháp Không, đây là Tự quán; từ “Chư Pháp Không…” trở xuống là trình bày về Lợi tha, còn muốn giảng giải về Không cho người khác, lẽ nào có thể tự mình mê muội không Nhẫn hay sao? Từ “Thị cố…” trở xuống là kết luận, có thể biết. Đây cũng là Nhẫn nại tư duy về pháp.

Trong phần bốn là Nhẫn nại giống như Phật thâu nhiếp chúng sinh: Trước có bảy câu về nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh, sau là một câu muốn cứu giúp che chở giống như Phật.

Trong bảy câu trước: 1) Thương xót chúng sinh có những điều ác; 2) Làm lợi ích giúp cho tu điều thiện; 3) Làm yên lòng với quả vui sướng ấy; 4) Không để cho đắm say vui sướng, cho nên nói là thâu nhiếp giữ lấy; 5) Mau chóng giúp cho đến Phật, cho nên nói là không rời bỏ, đây là giúp cho đến Địa tiền; 6) Khiến cho đạt được Địa thượng không lui sụt; 7) Khiến cho đạt được quả Bồ-đề cứu cánh.

Sau là trình bày về hạnh giống như Phật, nghĩa là chư Phật lúc ở nhân vị, tu tập thực hành pháp này, nay mình cũng giống như vậy đang làm lợi ích to lớn cho chúng sinh, lẽ nào không Nhẫn nại, mà lại làm não hại chúng sinh, cho nên nói là những công hạnh của Phật…

Hạnh thứ tư là Vô tận, tức là Tinh tiến Ba-la-mật, đưa ra bốn môn:

Một, Dùng hai pháp chịu khó-suy nghĩ làm Thể, theo luận Khởi Tín là biết pháp tánh…

Hai, Chủng loại, theo luận Du-già có ba loại Tinh tiến: “1) Bị giáp tinh tiến là bắt đầu tu; 2) Gia hạnh tinh tiến là tiếp tục tu; 3) Vô yếm túc tinh tiến là tu đến cuối cùng.” Dùng ba nghiệp thúc giục chịu khó làm tánh, dựa vào văn này và phẩm Ly Thế Gian ở sau, đều nói về mười loại Tinh tiến.

Ba- Bí mật, kinh Thương Chủ Thiên Tử nói: “Hỏi: Văn Thù, ông có lười nhác ư? Đáp rằng: Có. Lại hỏi: Vì sao? Đáp: Đã lười nhác thì không dùng thân-khẩu-ý phát khởi tu tập các hạnh, nay tôi như vậy, cũng không phát khởi thực hành, cũng không muốn thực hành, không rời bỏ-không giữ lấy. Bởi vì nghĩa này cho nên tôi gọi là lười nhác.”

Bốn- Giải thích văn, trong giải thích có hai: Trước là nêu ra hạnh để hiển bày về ý, sau từ “Bồ-tát thành tựu như thị tinh tiến…” trở xuống là đối với duyên phân rõ về tướng. Lại cũng trước là Thể của hạnh ở phần vị ấy, sau là khó thực hành mà có thể thực hành, hạnh này sửa trị làm cho thanh tịnh.

Trong phần trước có hai: Trước là nêu ra hạnh, sau từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là hiển bày về ý.

Trong phần trước có hai: Một là Thể của hạnh, hai từ “Bỉ Bồtát…” trở xuống là trình bày về lìa xa lỗi lầm.

Trong phần một: Câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt.

Trong riêng biệt: 1) Vượt qua phàm phu gọi là Thắng; 2) Vượt qua Tiểu thừa gọi là Tối; 3) Tu tập thiện hạnh cao nhất gọi là Đệ nhất; 4) Hạnh giáo hóa người khác cao nhất gọi là Đại; 5) Hạnh lìa xa lỗi lầm cao nhất gọi là Diệu; 6) Trên có thể vượt qua dưới gọi là Thượng; 7) Dưới không có thể thêm vào gọi là Vô thượng; 8) Dưới không có thể sánh bằng gọi là Vô đẳng; 9) Vượt qua dưới giống như trên gọi là Vô đẳng đẳng.

Trong phần hai là hạnh lìa xa lỗi lầm, lìa xa phiền não Đại-Tiểu, tất cả có mười loại, như văn v.v… Trên đây là Bị giáp tinh tiến cũng gọi là Cần dũng tinh tiến.

Trong phần sau là hiển bày về ý: Đầu là không muốn não hại chúng sinh là hiển bày về điều đã lìa xa; sau là chính thức hiển bày về việc đã làm.

Trong này có 20 phân ba: 3 câu đầu là đoạn trừ mê hoặc, 7 câu tiếp là nhận biết về giáo hóa thâu nhiếp chúng sinh, 10 câu sau là nhận biết về lý của pháp.

Trong phần đầu: Câu đầu là chế phục lìa xa hiện hành, câu tiếp là chính thức làm hại chủng tử, câu sau là lìa xa tập khí còn sót lại.

Trong phần tiếp là nhận biết về giáo hóa: Một câu đầu là tổng quát, câu còn lại là riêng biệt. Trong riêng biệt: Hai câu đầu là biết lỗi lầm của nhiễm ô, câu 1 là biết chuyển đổi quả báo của Khổ, câu 2 là biết nhân Tập của phiền não; bốn câu sau là biết căn khí tiếp nhận pháp, câu 1 là vui thích nhiều môn, câu 2 là phạm vi giới hạn sai biệt, câu 3 là căn có lợi-độn, câu là tâm đã suy nghĩ khác nhau.

Trong phần sau là nhận biết về pháp: Câu đầu là tổng quát, 9 câu còn lại là riêng biệt. Trong riêng biệt: Bốn câu đầu là biết về lý của pháp Phật, câu 1 là biết Như Lai Tạng có đủ hằng sa công đức thuộc Thật tánh Bất Không, câu 2 là biết Như Lai Tạng ở trong nhiễm ô mà tướng ấy bình đẳng, câu 3 là dựa theo nhân vị trước sau ba đời không khác nhau, câu là ở phần vị của quả thanh tịnh cũng bình đẳng vô sinh. Lại ba câu này cũng là ba loại Phật tánh: Đầu là dựa theo tự tánh an trú, tiếp là dựa theo dẫn dắt phát ra, sau là đến đạt được quả. Lại đầu là tự tánh Vô sinh trong Địa Luận, tiếp là thuộc số sai biệt về Vô sinh, sau là Phật quả tác nghiệp Vô sinh. Hai câu tiếp là chứng về pháp của quả, câu 1 là nêu ra, câu 2 là giải thích, nghĩa là dùng một môn trí khéo léo mở rộng thâu nhiếp về pháp của quả Phật. Hai câu tiếp là muốn biết về pháp thuộc Đại Dụng của quả Phật, câu 1 là biết về đức thần thông vô tận của Phật, câu 2 là biết về đức trí tuệ quyền-thật của Phật, phương tiện là quyền. Một câu sau cuối là biết về giái pháp của Phật. Lại cũng có thể: Bốn câu đầu dựa theo Gia Hạnh, hai câu tiếp dựa theo Chánh Thể, ba câu sau dựa theo Hậu Đắc. Lại trong 20 câu này, 3 câu đầu dựa theo Tự lợi, 17 câu sau dựa theo Lợi tha.

Trong Lợi tha, 7 câu đầu biết về căn khí đã giáo hóa, 9 câu tiếp biết về thuốc pháp để giáo hóa, 1 câu sau là chính thức dùng pháp trao cho căn cơ, có thể biết.

Thứ hai là đối với duyên khó thực hành hiển bày về hạnh kiên cố, trong đó có hai: Một là tạm thời nêu ra khổ sâu nặng để chủ yếu hỏi hiển bày về hạnh, trước là hai câu hỏi, sau là hai câu giải đáp; hai là tạm thời dùng trần hải để kể ra điều cần phải hiển bày, cũng trước là hỏi, sau là giải đáp. Trong giải đáp có hai: Đầu là khiến cho người khác tránh khỏi nỗi khổ vì lợi, sau là lợi ích về thành tựu quả của mình và người. Trên đây cũng là Tinh tiến khó hủy hoại trong Nhiếp Luận, Tinh tiến không thỏa mãn trong luận Du-già.

Hạnh thứ năm là lìa si loạn, tức là Thiền Ba-la-mật, cũng đưa ra bốn môn:

Một, Dùng Định trong biệt cảnh làm Thể, luận Khởi Tín là nhận biết pháp tánh…

Hai, Chủng loại, theo Du-già cũng có ba loại: Một là Hiện pháp lạc trú tĩnh lự, đó là tám Định…; hai là Nhiêu ích hữu tình tĩnh lự, đó là dựa vào đây khởi lên bốn Nhiếp, thâu nhiếp hữu tình…; ba là Dẫn thần thông công đức tĩnh lự, đó là có thể dẫn khởi 1 thần biến… Lại ở văn sau có 10 loại để hiển bày về Vô tận.

Ba, Bí mật, trong kinh Thương Chủ Thiên Tử: “Văn Thù nói: Tôi có tâm tán loạn, nguyên cớ thế nào? Bởi vì tâm tán loạn không có trú xứ, tâm tôi ở trong Thánh đạt được giải thoát, thành tựu tất cả chúng sinh, cho nên không có trú xứ. Bởi vì nghĩa này cho nên nói là tâm tôi tán loạn.”

Bốn, Giải thích văn, trong giải thích nhờ vào tu quán lìa xa tập khí ngu si, chấm dứt tán loạn. Lương Nhiếp Luận nói: “Các Bồ-tát ở trong các phần vị thường tu hai hạnh, một là không điên đảo, hai là không tán loạn, chính là hạnh này.”

Trong văn có ba: Một là Hiện pháp lạc trú thiền; hai từ “Bồ-tát thành tựu tịch tĩnh…” trở xuống là dẫn dắt sinh ra công đức thiền; ba từ “Bồ-tát văn thử…” trở xuống là lợi ích chúng sinh thiền.

Trong phần một có hai: Trước là tổng quát, sau là riêng biệt.

Trong phần trước có 11 câu: Hai câu đầu là nêu ra hai Chương, đó là câu đầu nêu ra lìa xa tán loạn, câu sau nêu ra lìa xa ngu si. Tám câu tiếp là trải qua pháp gồm chung phân rõ, thuận theo nhau làm bốn: Đầu là một câu dựa theo pháp đã thọ trì, tiếp là hai câu dựa theo lưu chuyển mà thọ thân. Đây là Bi nguyện giữ lại phiền não để thọ thân cho nên không ngu si tán loạn, sau trong Địa thứ sáu nói chết có hai loại tác nghiệp, một là bởi vì không biết, do đó khiến cho Sinh sau nối tiếp nhau, là dựa theo phàm phu mà nói. Lại trong kinh Đại Tập nói: “Phàm phu thọ thai, nam đối với mẹ sinh ra ái, nữ đối với cha sinh ra ái, vì thế cho nên tiến vào thai mà ngu si tán loạn. Lại ở trong thai thì tình thức rõ ràng, lúc ra vì bức ép khốn khổ mà liền mê mờ tán loạn, Bồ-tát khác với chúng sinh, tiến vào-sinh ra đều không có gì ngu si tán loạn…” Lại luận Du-già quyển thứ 2 nói: “Bốn loại tiến vào thai: 1) Đích thực nhận biết tiến vào mà không đích thực nhận biết an trú và sinh ra, đó là Luân Vương; 2) Đích thực nhận biết tiến vào và an trú mà không đích thực nhận biết sinh ra, đó là Độc giác; 3) Đều có thể đích thực nhận biết, đó là Bồ-tát; 4) Đều không đích thực nhận biết, đó là những hữu tình khác.” Tiếp là ba câu dựa theo tu đạo mà khởi hạnh, có thể biết; sau cuối là hai câu dựa theo tỉnh giác lìa xa ma sự, bởi vì lúc tu Chỉ-Quán phần nhiều bị tà ma quỷ mỵ… làm não loạn, cho nên phân rõ về điều này, như trong sớ Khởi Tín v.v… Một câu cuối là kết luận về nhiều kiếp tu.

Trong phần sau là riêng biệt phân rõ, có hai: Trước là trình bày về lìa xa ngu si, sau là trình bày về lìa xa tán loạn.

Trong phần trước: Đầu là nhắc lại phần trước; từ “Ư vô…” trở xuống là hiển bày phần sau, trong đó một là do lìa xa ngu si tăm tối mà nghe pháp không quên, hai từ “Hà dĩ…” trở xuống là giải thích về thành tựu.

Trong phần một có ba: 1) Tổng quát; 2) Từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt; 3) Từ “Bồ-tát văn thử…” trở xuống là kết luận.

Trong riêng biệt có 17 câu về pháp: 1) Thể sâu; 2) Tướng diệu, hai câu này là pháp thuộc Lý; 3) Đủ đức; 4) Nhiều đức, hai câu này là pháp thuộc Hành. 5) Pháp thuộc Giáo; 6)Pháp thuộc Nhân; 7) Pháp thuộc Quả; 8) Pháp thuộc Dục nguyện. 9) Ở thế gian lìa xa pháp nhiễm, 10) Khéo léo phân biệt đối với pháp thế gian, hai câu này là pháp thuộc Trí. 11) Đã nhận biết rộng rãi gọi là pháp rộng, 12) Đã nhận biết nhiều môn gọi là Vô lượng, 13) Phân tích rõ ràng về pháp, 14) Chân gồm chung gọi là Cọng, 15) Tục riêng biệt là Bất cọng, 16) Nhân vị đã biết là pháp có hạn lượng, 17) Quả vị đã biết là pháp không có phạm vi giới hạn.

Sau là kết luận, do lìa xa ngu si tăm tối cho nên tuy nghe nhiều pháp trải qua thời gian dài mà không quên.

Trong phần hai là giải thích, trước là nêu ra, sau là giải thích, có bốn câu: 1) Không làm trở ngại Định của người khác; 2) Thường bảo vệ Chánh pháp; 3) Không ngừng tu thiện; 4) Thường thực hành trí tuệ cho nên không quên.

Hai là trong giải thích về không tán loạn, có hai: Đầu là nghe nhiều tiếng, bởi vì không có chướng ngại của đời trước, cho nên không tán loạn; sau từ “Như thị đẳng…” trở xuống là nghe nhiều tiếng lớn, bởi vì khéo léo quán sát cho nên không tán loạn.

Trong phần đầu có ba: Trước là nghe sáu tiếng; tiếp là trình bày về 12 pháp không tán loạn; sau là không có bốn chướng.

Trong giải thích về 12 pháp: Đầu là tám pháp về Tự hành không tán loạn, sau là bốn pháp về Lợi tha không tán loạn.

Trong phần đầu: 1) Biết Thể của tiếng là Không cho nên ý niệm không tán loạn, nhưng Bồ-tát đối với cảnh của sáu trần đều có thể không tán loạn, bởi vì tiếng cao to là mạnh hơn trong sự tác động tán loạn, cho nên cố ý nêu ra; 2) Chánh Định không bỏ dở; 3) Sở duyên không sai lầm; 4) Tiến vào lý không sai lầm; 5) Thường thực hành Bố thí…; 6) Không quên mất tâm ban đầu, đó là huân tập hạnh nguyện Bồđề; 7) Nghĩ đến Định của Phật; 8) Chứng được lý chân thật.

Sau là trình bày về Lợi tha: 1) Sắp khởi lên trí giáo hóa; 2) Chính thức thành tựu sự giáo hóa; 3) Do giáo hóa mà thành tựu lợi ích; 4) Quán xét sự giáo hóa là Không, tuy nghe tiếng ấy mà không bỏ dở những việc này, thường thực hành những gì vốn có, cho nên nói là không tán loạn.

Sau là trong phần giải thích về nguyên cớ thành tựu, bởi vì không có bốn chướng, đó là hai câu trước không gây ra hai chướng của nghiệpphiền não, hai câu sau là cung kính đối với người-tôn trọng đối với pháp, cho nên đạt được như vậy.

Trong phần sau là nghe nhiều tiếng lớn mà không tán loạn, có hai: Một là tổng quát trình bày về nghe nhiều tiếng lớn không có thể tán loạn. Hai là giải thích về nguyên cớ không tán loạn, có ba: 1) Quán xét phương tiện tìm tòi suy nghĩ, trước là quán xét tướng của tiếng sinh diệt không ngừng, tiếp là quán xét tánh ấy cũng không thể có được, sau là quán xét duyên chủ động nghe hội tụ là nghe cũng không có người nghe; 2) Từ “Văn hảo ác…” trở xuống là trình bày về quán xét lìa nhiễm đúng như thật; 3) Từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là trình bày về quán xét pháp tánh chính thức chứng được. Trong đó, trước là trình bày về tướng không còn và pháp tánh…; sau là trình bày về tánh, hiển bày tiếng này không phải cứ như không có thể làm tán loạn hủy hoại chánh niệm của Bồ-tát, mà chính là làm cảnh tiến vào pháp tánh cho Bồ-tát, lại trở thành duyên tăng thêm đạo nghiệp chứ không phải là cảnh làm tâm tán loạn. Trong kinh Như Huyễn Tam Muội nói: “Giả sử dùng mặt đất làm trống, núi Tu-di làm dùi trống, ở bên tai Tu-bồ-đề đánh trống một kiếp, cũng không có thể khiến cho tâm tán loạn dù chỉ là một niệm bé nhỏ. Vì sao như vậy? Bởi vì tiến vào Không Định.”

Trong phần hai là dẫn dắt sinh ra công đức, dẫn dắt thành tựu sáu loại công đức dần dần tăng thêm: 1) Trình bày lìa xa tán loạn đạt đươc Định; 2) Lìa xa ngu si dẫn đến Trí; 3) Định tăng lên thâu nhiếp bạn; ) Trí tăng thêm Bi; 5) Định tròn vẹn không gián đoạn; 4) Trí đầy đủ hướng về quả.

Trong phần ba là Định làm lợi ích cho chúng sinh, có ba: 1) Lợi ích khiến cho lìa xa tán loạn; 2) Từ “Ư nhất thiết…” trở xuống là lợi ích khiến cho lìa xa ngu si, đây là giúp cho thành tựu nhân; 3) Từ “Cứu cánh…” trở xuống là lợi ích khiến cho đạt được quả.

Hạnh thứ sáu là Thiện hiện, tức là Bát-nhã Ba-la-mật:

Một, Dùng pháp thuộc Tuệ trong biệt cảnh làm tánh.

Hai, Chủng loại, luận Duy Thức nói có ba: “Một là Tuệ về Sinh Không, hai là Tuệ về Pháp Không, ba là Tuệ về Câu Không.” Luận Du-già cũng có ba: “Gia Hạnh, Chánh Thể, Hậu Đắc.” Lại có bốn Tuệ: Một là Năng chứng trí, hai là Hậu đắc trí, ba là Lợi tha trí, bốn là Câu sinh tuệ. Văn sau có mười Tuệ để hiển bày về Vô tận, như văn ấy nên biết. Lại Trí Luận nói: “Nếu không có Bát-nhã thì năm Độ như mù, là dùng mắt Tuệ dẫn dắt cho những Độ khác khiến cho có thể thành tựu Ba-la-mật.”

Ba, Bí mật, kính Thương Chủ Thiên Tử nói: “Văn Thù nói: Tôi là không có trí, vì sao như vậy? Bởi vì không có trí tuệ thì không sợ hãi sinh tử, không mong cầu Niết-bàn, cùng với chúng sinh mê hoặc, vui chơi chung một nơi; tôi cũng ở trong sinh tử Niết-bàn, không sợ hãi-không mong cầu, cùng với chúng sinh mê hoặc, an trú chung một nơi, vui chơi cùng với họ để mà thành tựu, cho nên nói là tôi không có trí tuệ.”

Bốn, Trong giải thích văn có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau; hai từ “Vô sở y…” trở xuống là chính thức trình bày về tướng của hạnh; ba từ “Thị Bồ-tát trú thử…” trở xuống là làm sáng tỏ về tác dụng lợi ích của hạnh.

Trong phần một có bốn câu: Hai câu đầu hợp lại nêu ra, nghĩa là Thể của ba nghiệp trống rỗng không hề có gì, Dụng của ba nghiệp trống rỗng không có gì để nêu ra rõ ràng; hai câu sau là tách ra giải thích, nghĩa là tách ra nhiễm-tịnh, nhiễm trống rỗng không có ràng buộc, tịnh trống rỗng không có giải thoát, giải thích về Thể trống rỗng trước đây, câu sau tách ra giải thích về Dụng trống rỗng. Bởi vì Thể-Dụng nhiễm tịnh này đều Không, cho nên gọi là nghiệp thân-khẩu-ý rỗng lặng. Muốn dựa vào đây khởi lên quán xét chiếu rọi đạt được lý sâu xa, cho nên trước phải nhắc lại để nêu ra.

Trong phần hai là hiển bày về hạnh, có bốn: 1) Trình bày về trí thuộc Gia Hạnh, suy ra tướng tiến vào Thật quán; 2) Từ “Bất sinh bất diệt…” trở xuống là trình bày về trí thuộc Chánh Thể, tướng không còn chứng được Thật quán; 3) Từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là trình bày về trí thuộc Hậu Đắc, dựa vào Thật khởi lên quán về tướng Thật vô ngại; ) Dùng Đại Bi tùy theo quán về tướng thâu nhiếp giáo hóa, bởi vì tướng này tức là Thật, cho nên chỉ có tướng cũng không có gì sai lầm.

Trong phần một: Đầu là ba câu trình bày về quán Duy thức Vô tướng, nghĩa là quán về tướng Không đã chọn lấy, bắt đầu không có chỗ dựa, cuối cùng không có chỗ trú, vì sao biết cảnh Không không có chỗ dựa-chỗ trú? Bởi vì tùy theo tâm mà trú, đây là trình bày chính thức trú vào Duy thức quán, đây tức là dựa vào Thức loại trừ cảnh vọng. Luận Biện Trung Biên nói: “Dựa vào Thức có Cảnh đã đạt được, không có Sinh đã đạt được.” Cựu Luận nói: “Bởi vì dựa vào Duy thức cho nên

0

nghĩa về cảnh không có Thể thành tựu.” Là nói đến nghĩa này. Tiếp là trình bày về quán Thức thể vô sinh, Vô lượng tâm… là quán về tâm tánh chủ động chọn lấy cùng với tất cả pháp tánh đã chọn lấy, giống như không có tánh tướng…, hãy còn như nhau, đây là dựa vào không có Trần để loại trừ Thức. Luận Biện Trung Biên nói: “Dựa vào Cảnh không có Thức đã đạt được, không có Sinh đã đạt được.” Cựu Luận nói: “Bởi vì Trần không có cho nên Thức vốn có đã không sinh.” Là nói đến nghĩa này. Thị hiện Tướng của Vô tướng tức là Không đã chọn lấy trước đây, nghĩa là bởi vì Tướng của Vô tướng hiện rõ trước mắt. Sâu thẳm không có đáy tức là chủ động chọn lấy Thức Không, bởi vì Thức Không làm gốc, Thức hết cho nên không có đáy. Như Như tánh là một cặp tức là hai Không, nghĩa là Tâm Như-Cảnh Như, cùng một chân tánh, tuy ở trong Như mà không có Tướng có thể khởi lên gọi là lìa xa nghiệp báo. Như vậy bởi vì Gia hạnh có thể khởi lên chính thức chứng được, cho nên nói là phương tiện khéo léo ra khỏi Sinh-lìa xa Sinh. Lìa xa Sinh tức là phần vị của Chứng, đó là tổng quát kết luận về Gia hạnh trước đây có công năng khởi lên Chứng.

Từ đây trở xuống là phần hai trình bày về chính thức Chứng trí, nghĩa là lý của Cảnh-Trí như nhau, không vì sinh diệt mà chuyển biến cho nên nói là không sinh diệt, phai mờ giống như chân lý cho nên nói là Niết-bàn…. Đây là trình bày về không có, không có tức là không không có cho nên nói không phải có mà nói là có. Có và không có đều bặt dứt nói năng, dựa vào không có khởi lên cho nên nói là đoạn dứt lộ trình của ngôn ngữ (ngôn ngữ đạo đoạn). Chọn lấy Chứng khác nhau để so sánh, nghĩa là trí thế gian chỗ dựa-chỗ trú, trong này không có nương tựa cho nên nói là lìa xa tất cả…

Từ đây trở xuống là hiển bày về lợi ích của Chứng, có năm câu: 1) Lợi ích tăng thêm thiện, đó là nhờ vào Chứng Chân mà làm cho pháp thiện đã phát khởi trước đây tăng trưởng rất nhiều, cho nên nói là trưởng dưỡng… Lại trí Vô lậu khởi lên trong sát-na đầu, bởi vì tiếp tục được xông ướp thành tựu mà làm cho trí ấy tăng thêm. 2) Trình bày về lợi ích của đoạn trừ chướng, nghĩa là thuận theo Chứng gọi là tiến vào, rời bỏ Vọng gọi là lìa xa, đoạn trừ chủng tử chướng ngại của phiền não gọi là không có ràng buộc, làm hại chủng tử chướng ngại của sở tri gọi là không có vướng mắc. 3) Lợi ích của Chứng Chân, nghĩa là chứng được chân lý mà xưa kia chưa chứng. 4) Lợi ích vượt lên trên phần vị, nghĩa là vượt qua thế gian. 5) Lợi ích về khởi lên trí, nghĩa là do chứng được lý này mà có thể khởi lên trí Hậu Đắc phân biệt về pháp thế gian.

Trong phần ba trình bày về Hậu đắc trí, có hai: Một là trình bày về dùng Lý hiểu Sự làm phương tiện suy nghĩ tìm cầu; hai từ “Bồ-tát giải như thị…” trở xuống là trình bày về Lý-Sự vô ngại làm sáng tỏ hiểu biết đúng đắn như thật. Trước là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong riêng biệt có tám câu: 1) Hiểu về thế gian vắng lặng, biết Vọng là Thể Không; 2) Hiểu về pháp sâu xa của Phật, biết Chân là lìa tướng; 3) Nhiễm và tịnh cùng dung hòa vốn như nhau không có gì sai khác; 4) Ngay nơi nhiễm luôn luôn tịnh, pháp thế gian hòa vào Phật pháp; 5) Không nhiễm mà nhiễm, Phật pháp hòa vào pháp thế gian; 6) Môn nhiễm tịnh sai khác vốn không tạp loạn, nghĩa là toàn Thể ngay nơi tịnh mà vẫn có thể nhiễm, toàn Thể là nhiễm mà vẫn có thể tịnh, đó gọi là nhiễm-tịnh không hai mà hai; 7) Giải thích về nghĩa không xen tạp, bởi vì pháp thế gian hư giả cho nên không cần hủy hoại-không ngại tồn tại, bởi vì không cần hủy hoại cho nên chưa hề không phải là Phật pháp, bởi vì không ngại tồn tại cho nên chưa hề xen tạp với Phật pháp, cho nên nói là pháp thế gian không hủy hoại; 8) Bởi vì Phật pháp chân thật cho nên không thể phá hủy-không ngại thuận theo, không ngại thuận theo cho nên chưa hề không phải là pháp thế gian, không thể phá hủy cho nên chưa hề xen tạp với pháp thế gian, cho nên nói là Phật pháp chân thật…

Lại giải thích: Phật pháp tuy hòa vào thế gian mà không bị pháp thế gian làm cho hủy hoại. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì pháp giới chân thật không thể nào hủy hoại.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao không nói là pháp thế gian hòa vào Phật pháp, pháp thế gian cũng không hủy hoại?

Đáp: Bởi vì pháp thế gian hòa vào Phật pháp thì có thể có hủy hoại không còn, cho nên không luận đến. Bởi vì chân-vọng không giống nhau, cho nên như vậy. Sở dĩ chà đạp nhiễm-tịnh như vậy, là muốn thường xuyên nhiếp hóa ở thế gian mà luôn luôn trú trong Niết-bàn. Sau Đại Bi thâu nhiếp chúng sinh mà không trái với lý quán chính là pháp này.

Trong phần bốn là Đại Bi quán, có năm: Một là an trú ba đời…

trình bày về dựa vào Lý khởi Bi; hai là xây dựng chí nguyện thâu nhiếp chúng sinh; ba là vì mình mà thương xót chúng sinh; bốn là tự nhắc nhủ mình không rời bỏ; năm là đối với duyên đích thực cứu giúp.

Trong phần hai có năm câu: 1) Mình không thành tựu chúng sinh thì ai thành tựu giáo hóa khiến cho thành tựu pháp thiện; 2) Điều phục lìa xa nghiệp ác; 3) Phiền não diệt hết không còn; 4) Vui mừng đạt được 2 nhân thành tựu; 5) Thanh tịnh đạt được quả đầy đủ.

Trong phần ba vì mình mà thương xót chúng sinh, là một câu hiển bày về chính mình đã hiểu. Sau là đích thực thương xót chúng sinh đau khổ, có hai: 1) Trình bày về có đủ các nỗi khổ sâu nặng; 2) Từ “Bất ly tam chướng…” trở xuống là không có niềm vui giải thoát.

Trong phần một là pháp-dụ-hợp. Trong pháp thấy chúng sinh nhận chịu đau khổ là đang đau khổ, hướng về nẽo đường nguy hiểm là sẽ đau khổ, đây là quả của khổ; phiền não ràng buộc là nhân của khổ. Trong hợp-pháp, ân ái ràng buộc là nhân của khổ, ở trong sinh tử… là quả của khổ, đây là nghĩa về bốn nẽo ác v.v… Diêm-la vương ấy theo các Thánh giáo nói có năm loại: Một là thuộc về nẽo Địa ngục, như luận Du-già quyển thứ hai nói; hai là thuộc về nẽo quỷ, như Du-già Bồ-tát Địa nói, lại có kinh văn nhưng chưa thấy; ba là không phải thuộc về hai nẽo, như văn kinh này vốn có riêng nẽo của Diêm-la vương; bốn là biến hóa làm Diêm-la, như kinh Quán Phật Tam Muội quyển thứ 5 nói và luận Nhị Thập Duy Thức… nói; năm là Bồ-tát hóa làm Diêm-la, như luận Du-già quyển thứ 5 nói: “Viêm ma gọi là Pháp Vương, là làm lợi ích hay là làm tổn hại, nên nói là chỉ làm lợi ích.” Vì vậy biết là Bồ-tát. Lại trong kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Diêm-la vương vì người tội nói kệ rằng: Ông được thân người không tu đạo, như đến kho báu về tay không, nay ông tự làm thì tự chịu, kêu gào đau khổ mong được gì?”

Hỏi: Vua này là đoạn chúng sinh Trung hữu, hay là đoạn chúng sinh Bổn hữu?

Đáp: Đoạn chúng sinh Bổn hữu, bởi vì Trung hữu không ở trong địa ngục.

Trong phần hai là không có niềm vui giải thoát: Đầu là trình bày về có chướng ngại, nghĩa là không lìa xa phiền não-nghiệp-khổ là ba chướng; sau là trình bày về không có giải thoát, văn có ba cặp: Một, Không có nhân của giải thoát, ngu si tăm tối là có chướng ngại, không thấy chân thật rõ ràng là không có sửa trị; Hai, Không có quả của giải thoát, sinh tử không cùng tận là có chướng ngại, không được giải thoát cũng là không có sửa trị; Ba, Thành tựu hai cặp trước, đó là trước trình bày về có chướng ngại, không thấy Chánh đạo là trình bày về không có sửa trị.

Trong phần bốn là tự nhắc nhủ mình, chúng sinh có nỗi khổ sâu nặng này, nếu không giáo hóa họ trước mà tự mình thành tựu trước thì không hợp với đạo lý.

Trong phần năm là đích thực thâu nhiếp chúng sinh có ba câu,

đó là thành tựu pháp thiện, điều phục pháp ác, hóa độ khiến cho giải thoát.

Đoạn lớn thứ ba là lợi ích của hạnh, bởi vì hạnh Bát-nhã này hơn hẳn những hạnh khác, vì thế cho nên sau các hạnh trước đây đều không có lợi ích này, như văn có thể biết.

Hạnh thứ bảy là Vô trước, dùng tâm Vô trú quy tụ các thiện căn, lại dùng Bi-Trí dẫn dắt nhau khéo léo không có gì đắm theo vướng mắc. Hạnh là Vô trước, Vô trước là Hạnh, là Phương tiện độ, dùng Bi-Trí hậu đắc làm Thể.

Chủng loại có hai, luận Duy Thức nói: “1) Phương tiện hồi hướng, 2) Phương tiện cứu giúp.” Văn sau có mười loại, có thể biết.

Trong giải thích có ba: Một-Tu hạnh Vô trước trong hạnh thuộc Tự phần; hai-Từ “Bồ-tát ư chư Phật quốc…” trở xuống là tu trong hạnh Thắng tiến; ba-Từ “Ư nhất niệm…” trở xuống là trình bày về tu trong hạnh thành tựu đầy đủ.

Trong phần một có hai: 1) Trình bày về hạnh Đại Trí làm sáng tỏ Tự lợi Vô trước; 2) Từ “Bồ-tát như thị quán chân…” trở xuống là trình bày về hạnh Đại Bi hiển bày Lợi tha Vô trước.

Trong phần một có ba: a) Thấy tịnh không nhiễm; b) Thấy dơ không chê; c) Cùng giải thích hai mục trước.

Trong mục a có hai: Trước là riêng biệt giải thích, sau từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là nhắc lại để kết luận.

Trong phần trước có 14 câu: Một, Bốn câu về hạnh thành tựu Tịnh độ, ở trong niệm niệm là tu không gián đoạn. Trong đó, một là quán về quốc độ trang nghiêm không đắm trước; Hai là đến cúng dường Phật không đắm trước; Ba là tu tập thành tựu khéo léo không đắm trước, nghĩa là không có gì đã thực hành thì không đắm trước; Bốn là nghiệp đã thành không đắm trước, nói Tư là Thể của nghiệp phai mờ mà tiến vào chân thật, gọi là không trú vào pháp tư duy thì không đắm trước. Hai, Từ “Ư niệm niệm…” trở xuống là mười câu trình bày về hạnh của Pháp thân, trong đó: Ba câu đầu là thấy Phật Bảo không đắm trước. Hai câu tiếp là đối với Pháp Bảo không đắm trước, một câu đầu là nơi nghe pháp, một câu sau là chính thức nghe pháp. Ba câu tiếp là đối với Tăng Bảo không đắm trước, câu một là thấy trú xứ của Tăng, câu hai là thấy Thanh văn Tăng, câu ba là thấy Bồ-tát Tăng. Tám câu trên là đối với cảnh Tam Bảo mà tu hạnh Vô trước. Hai câu sau cuối là đối với chính mình thực hành tu hạnh Vô trước, một là tu ở trong hạnh nhiếp pháp, hai là tu thành tựu trong tu về Chánh hạnh.

Trong phần sau là nhắc lại để kết luận, có hai: Một- Nhắc lại hạnh Tịnh độ trước đây; hai- Từ “Kiến Phật…” trở xuống là nhắc lại hạnh Pháp thân trước đây.

Sau là kết luận đã thành tựu trang nghiêm, nghĩa là dùng những pháp này để trang nghiêm Tịnh độ ấy.

Kết luận riêng biệt thành tựu tổng quát hiển bày ở câu một.

Hai là ở trong nhiễm mà không đắm trước chỉ có một câu, là bởi vì pháp thanh tịnh thuận theo mong cầu dễ đắm trước-khó rời bỏ, cho nên dựa theo nhiều môn.

Ba là trong giải thích: Trước nêu ra câu hỏi: Tất cả người thế gian đều yêu quý thanh tịnh mà chán ghét dơ bẩn, vì sao Bồ-tát không như vậy? Sau trong giải thích: Đầu là đối với câu hỏi tổng quát giải thích, bởi vì quán xét về pháp nhiễm-tịnh rỗng lặng bình đẳng; sau từ “Vô tăng ái…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về sáu cặp pháp, đối đãi nhaulàm mất lẫn nhau, đều không có tự tánh cho nên không yêu-ghét.

Trong phần hai là hạnh Đại Bi: Đầu là nhắc lại phần trước hòa vào phần sau, nghĩa là nhắc lại trí quán pháp tánh trước đây, thì do thuận theo hòa vào trong tánh chúng sinh, bởi vì tánh giống nhau, cho nên hóa sinh mà luôn luôn không đắm trước. Sau là chính thức hiển bày về tướng có bảy: Một là không đắm trước đối với chúng sinh đã hóa độ. Hai là không đắm trước đối với Pháp hóa độ. Ba là không đắm trước đối với Tâm hóa độ, nghĩa là Đại Bi trú chung quả mà Phật đã trú. Bốn là không đắm trước đối với Giáo hóa độ, nghĩa là tùy theo ngôn ngữ địa phương khác nhau, cho nên nói là đủ loại ngôn ngữ… Năm là không đắm trước đối với Xứ hóa độ, nghĩa là sáu đường đều là nơi cư trú của chúng sinh; lại là không đắm trước thực hành hóa độ, nghĩa là bởi vì Tam thừa đều là nơi thực hành hóa độ cho nên nói là đạo. Sáu là không đắm trước đối với chỗ dựa khởi lên hóa độ, nghĩa là dựa vào Tam-muội khởi lên việc làm hóa độ người khác. Bảy là không đắm trước đối với quốc độ đã đi qua. Như vậy đều đối với các hạnh và việc làm khiến cho trí chuyển sang tròn vẹn mà không có gì đắm trước.

Trong phần hai là hạnh Thắng tiến, có ba: 1) Tự thành tựu công hạnh thù thắng; 2) Từ “Đắc thọ ký dĩ…” trở xuống là Đại Bi thâu nhiếp giáo hóa; 3) Từ “Bất trước thân…” trở xuống là Đại Trí chiếu rọi lý để hiển bày về Vô trước.

Trong phần một có chín câu: Một là ngộ Thật giáo, ở nơi quốc độ của chư Phật đã đi qua trước đây, dùng tâm không đắm trước tiếp nhận hiểu hết lý trong giáo của Phật thuyết ra, cho nên nói là Thật giáo. Hai là tìm theo giáo đạt được ý chỉ, cho nên vô ngại đối với đạo. Ba là dựa vào giáo lập hạnh, cho nên nói là đối với pháp đã lập. Bốn là nhờ vào tu hành thành tựu, cho nên nói là đầy đủ hạnh Bồ-tát. Năm là hạnh thành tựu không thay đổi, cho nên nói là trú vào tâm Bồ-tát. Sáu là dựa vào tâm thành tựu đức, cho nên nói là thành tựu giải thoát vắng lặng. Bảy là đức thành tựu lìa xa tướng, cho nên nói là không nghĩ đến việc đã làm. Tám là lìa xa tướng tiến vào chứng, cho nên nói là trú trong đạo thanh tịnh. Chín là chứng thành tựu thâu nhiếp quả, cho nên nói là thọ ký. Nghĩa về thọ ký nói đầy đủ như trong phẩm Ly Thế Gian sau này.

Trong phần hai là hạnh Đại Bi, có hai: Một là nghĩ đến chúng sinh không có thiện mà chỉ có ác; hai từ “Nhĩ thời Bồ-tát…” trở xuống là phát khởi tâm Bi cứu độ. Lại một là tăng trưởng Đại Bi, hai là tùy theo Đại Bi.

Trong phần một có ba: Một- Trình bày bởi vì si ái cho nên lưu chuyển trong sinh tử, nghĩa là không biết gì về Khổ, không thấy gì về Diệt, tối tăm không có niềm tin, không đoạn trừ về Tập, tâm không chân thật thì rời xa đạo. Trên đây là lỗi lầm của ngu si, thường thực hành pháp nhiễm là lỗi lầm của ái, lưu chuyển là bởi vì nghiệp của Tập khí si ái trước đây, cho nên quả khổ cứ nối tiếp nhau. Hai- Từ “Bất kiến Phật…” trở xuống là trình bày bởi vì tà kiến-kiêu mạn, cho nên nhận chịu đủ loại khổ đau, trong đó có hai: 1- Bởi vì chướng cho nên không gặp được người-pháp chính đáng, vì thế cho nên khởi lên tà kiến; 2- Từ “Bất cầu…” trở xuống là trình bày bởi vì kiêu mạn cho nên bài báng người-pháp chính đáng mà đi vào cảnh của tà ma. Trong đó: a- Không cầu thiện hữu; b- Nghe về Không sinh ra sợ hãi mà cự tuyệt không nghe Chánh pháp; c- Không tư duy đúng đắn cho nên bài báng; d- Từ bỏ… là trình bày về sự tu hành trái ngược; cuối cùng là trình bày bởi vì đắm theo tà kiến-kiêu mạn này mà có nhận chịu khổ đau. Ba-Từ “Nhĩ thời Bồ-tát kiến…” trở xuống là kết luận về tâm Bi tăng trưởng không đắm vào điều thiện của mình.

Trong phần hai là tùy theo Đại Bi, có ba: Trước là khởi tâm giáo hóa, tiếp là hiển bày về Vô trước, sau là thành tựu công hạnh giáo hóa.

Trong phần trước: Một, Tổng quát hiển bày về ý, nghĩa là vì nhiều chúng sinh đều trải qua nhiều kiếp, đều không có tạm thời lìa xa, không rời bỏ như đầu mảy lông, trình bày về tâm Đại Bi theo đuổi chúng sinh như trâu nghé đi theo trâu mẹ… Hai, Riêng biệt hiển bày về tâm Bi sâu sắc, nghĩa là một đời vì giáo hóa nhiều nơi đều nhiều thời gian, nhiều đời cũng như vậy. Trong từng niệm niệm không dứt là trình bày về tu không gián đoạn, sau mỗi một nơi chốn đầy đủ… trình bày về phát khởi thực hành giáo hóa, là tu trải qua thời gian dài.

Phần ba là Đại Trí chiếu rọi lý để trình bày về nguyên cớ của Vô trước, trong đó: Trước có mười câu thẳng thắn phân rõ về Vô trước; sau từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ thành tựu.

Trong giải thích: Trước nêu ra câu hỏi: Vì sao Bồ-tát không đắm trước tất cả? Sau trong giải thích dựa theo tám dụ để hiển bày: Một là tổng quát giải thích, bởi vì quán tất cả pháp giới duyên khởi không phải là có, vì có giống như huyễn, cho nên không đắm trước; sau là theo thứ tự loại bỏ nghi ngờ.

Hai, nghi ngờ rằng: Lửa huyễn của thế gian không có được công dụng đốt cháy, nay Đức Phật xuất thế làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, lẽ nào giống như điều ấy hay sao? Giải thích rằng: Như chớp điện cũng có tác dụng soi chiếu bóng tối…, lẽ nào là thật có? Nhưng chớp điện có ba nghĩa: 1-Nghĩa về bỗng nhiên có; 2-Nghĩa về soi chiếu bóng tối; 3-Nghĩa về mau chóng tắt đi. Quả Phật có ba nghĩa: 1-Ngay nơi Tịch khởi Dụng, là nghĩa về bỗng nhiên có; 2-Ngay nơi Dụng luôn luôn Tịch, là nghĩa về mau chóng tắt đi; 3-Tịch và Dụng vô ngại làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, là nghĩa về soi chiếu bóng tối. Đây là hiển bày về không đắm trước đối với Phật trên đây.

Ba, nghi ngờ rằng: Nếu Phật như chớp điện, vì sao Bồ-tát phát khởi công hạnh hướng đến mong cầu, nhân đã không trống rỗng thì quả lẽ nào không thật? Giải thích rằng: Công hạnh của Bồ-tát như mộng, lẽ nào có thể là thật? Nhưng mộng cũng có ba nghĩa: 1) Nghĩa về không có Thể; 2) Nghĩa về hiện rõ thật sự, vì vậy khiến cho trong mộng thấy có; 3) Nghĩa về có tác dụng, bởi vì làm duyên cho tỉnh giấc. Như trong mộng bởi vì đuổi chạy liền giật mình tỉnh giấc, nhìn lại không có đếnkhông chạy, nhìn thân mình vốn không chuyển động.

Bồ-tát đã chưa thành Phật, chưa hoàn toàn tỉnh ngộ đối với giấc mộng lớn của tự tâm, cho nên tu tập thực hành cũng có ba nghĩa: 1) Chứng lý vốn là Không; 2) Vô minh chưa hết vốn là thật; 3) Có thể thành tựu quả Phật vốn là tác dụng, nghĩa là ở trong giấc mộng của Vô minh, hăng hái chịu khó trải qua nhiều kiếp, bỗng nhiên Đại ngộ quả Phật hiện rõ trước mắt, nhìn lại trong giấc mộng đều không có gì đã làm, thuận theo nhìn lại bổn tánh thì khác nào đầy đủ công đức. Như phần sau trong Địa thứ tám dụ về giấc mộng vượt qua sông, dựa vào đây giải thích về không đắm trước đối với công hạnh của Bồ-tát ở văn trên.

Bốn, nghi ngờ rằng: Nếu công hạnh của Bồ-tát hạnh như giấc mộng không hề có gì, thì tại sao kinh nói đây là hạnh của Bồ-tát, đây là hạnh của Nhị thừa? Giải thích rằng: Pháp đã nghe như tiếng vang, tiếng vang cũng có ba nghĩa: 1) Nghĩa về bởi vì tiếng vang-hang trống… duyên nhau mà thành; 2) Nghĩa về không có gốc; 3) Nghĩa về ngôn từ giải thích.

Thánh giáo cũng có ba: 1) Cơ cảm đến Phật ứng hiện; 2) Thể ấy không có gốc; 3) Hợp với căn cơ giải thích nêu rõ. Vì thế cho nên giáo này là không nói mà nói. Như vậy trên đây là giải thích về không đắm trước đối với công hạnh của mình.

Năm, nghi ngờ rằng: Trước đây nói về hành của quả… có thể hạn hẹp là Không, sự việc về thế giới rộng rãi thì điều này phải là thật? Giải thích rằng: Như hóa hiện, hóa hiện cũng có ba nghĩa: 1) Thần lực duy trì phát khởi; 2) Thuộc về số Phi chúng sinh; 3) Có dụng của chúng sinh.

Thế giới cũng giống như vậy: 1) Tự Thức biến hiện khởi lên; 2) Tánh và tướng không có thật; 3) Chứa đầy hữu tình. Đây là hiển bày về tâm quán xét quốc độ tịnh-uế không có gì đắm trước ở văn trên.

Sáu, nghi ngờ rằng: Nếu quốc độ như hóa hiện không có thì vì sao nhân của quốc độ có thiện ác sai biệt? Giải thích rằng: Nghiệp báo khởi lên như Ma-nậu-ma Hóa thân. Cổ đức giải thích rằng: Đây gọi là thân trở lại hóa hiện, nghĩa là trên hóa hiện lại khởi lên hóa hiện, cho nên nhân quả vốn là đều hóa hiện. Nay lại hỏi Tam tạng sư: Ma-nậu-ma, Trung Hoa nói là Ý sinh, hoặc nói là Ý thành, tức là Ý sinh thân. Thân ấy lại khởi lên hóa hiện, cho nên còn nói là Hóa thân, thân này cũng có ba nghĩa: 1) Hai hóa hiện đều không phải là có; 2) Hai tướng hiện bày giống nhau; 3) Có dụng của nhân quả sinh khởi qua lại. Nghiệp quả có ba nghĩa giống như vậy, dựa theo đây biết rõ, vì thế cho nên ngay nơi có tức là không có.

Bảy, nghi ngờ rằng: Nếu nghiệp quả đều Không, thì chủng loại báo ứng của chúng sinh do đâu mà sai biệt? Giải thích rằng: Vốn là do tâm vẽ ra, vẽ ra cảnh tượng cũng có ba nghĩa: 1) Nghĩa về bình thường phai mờ, bởi vì giống như bức tường; 2) Nghĩa về có cao thấp, bởi vì thợ vẽ không thay đổi; 3) Nghĩa về không ngăn ngại, bởi vì thấp cao không ngăn ngại.

Chúng sinh cũng như vậy, ở trên bức tường chân như bằng phẳng, tâm vẽ ra thành cảnh tượng: 1) Là nghĩa về Không, bơi vì phai mờ cùng là chân; 2) Nghĩa về Hữu, bởi vì nghiệp quả không thay đổi, tâm tùy theo huân tập mà biến hiện; 3) Nghĩa về vô ngại, đó là Không-Hữu vô ngại. Bởi vì đều là tướng Không giống hệt nhau, hiển bày không hề có gì, cho nên thâu nhiếp giáo hóa không bỏ dở; luôn luôn không có gì giáo hóa, cho nên không đắm trước.

Tám, nghi ngờ rằng: Nếu chúng sinh như vậy thì tại sao Bồ-tát đến với cơ mà thuyết pháp? Giải thích rằng: Pháp đã thuyết giảng đúng như thật tế, nghĩa là ngay nơi ngôn từ thuyết giảng này luôn luôn giống như thật tế, không phải là nói không có ngôn từ mới là giống như thật tế. Trên đây là bốn môn giải thích về nghĩa không đắm trước trong hạnh Lợi tha trước đây.

Trong phần thứ ba là dựa vào hạnh thành tựu đầy đủ trình bày về Vô trước, trong đó có ba: Một là Tự hành, hai là Hóa tha, ba là giải thích về thành tựu.

Trong phần một có ba:

1. Hành rộng rãi: a) Niệm là thời gian nhanh chóng; b) Đầy khắp mười phương là nơi chốn rộng rãi; c) Hạnh to lớn; d) Như pháp giới là hiển bày về hạnh thù thắng; e) Như hư không là làm sáng tỏ về hạnh rộng rãi, nghĩa là do soi chiếu thấy rõ pháp tánh mà thành tựu hạnh xứng với tánh này.

2. Trình bày về hiểu rộng rãi, nghĩa là hiểu biết về tất cả phương tiện quyết định chứng lý của chư Phật.

3. Giải thích thành tựu hai loại trước để hiển bày về Vô trước, nghĩa là do nhận biết rõ ràng về tâm của mình mà nhanh chóng trong một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới, lập tức thành tựu hiểu biết thực hành như thành tựu trước đây. Lại biết tánh tùy duyên của tâm mình mà khởi lên, tức là cũng không khởi lên, lý-sự vô ngại không trú vào một nơi cố định, cho nên nói là xoay chuyển mau chóng. Vì vậy cho nên có thể xứng với pháp mà khởi lên Đại hạnh.

Trong phần hai là hạnh Đại Bi lợi tha: Trước là thực hành, sau từ “Nãi chí…” trở xuống là trình bày về Vô trước.

Trong phần trước có năm câu: 1) Thấy pháp thù thắng sinh tâm hoan hỷ; 2) Từ “Khởi Đại Từ…” trở xuống là mình và người không buồn lo; 3) Từ “Vị thành…” trở xuống là nêu ra ý giáo hóa của mình, nghĩa là thành tựu pháp thiện-điều phục pháp ác; 4) Từ “Viễn ly…” trở xuống là trình bày về phát khởi thực hành giáo hóa; 5) Từ “Nhược văn…” trở xuống là còn có chính thức giáo hóa, đó là: Một, ngôn âm không giống nhau; hai, tạo nghiệp đều khác nhau; ba, các phương pháp thì gọi là thi thiết; bốn, nhiếp chúng sai biệt cho nên nói là hòa hợp; năm, thú hướng không giống nhau cho nên nói là lưu chuyển; sáu, sự tu tập khác nhau gọi là các hạnh; bảy, phạm vi giới hạn sai biệt cũng là sở duyên; tám, đạt được phần vị cũng khác nhau; chín, hướng về quả không như nhau; mười, từ “Ngã đương…” trở xuống là khởi nguyện chính thức giáo hóa.

Phần ba là giải thích cả hai phần trước, có thể biết.

Hạnh thứ tám là Tôn trọng, đưa ra năm môn:

Một, Giải thích tên gọi, nguyện hạnh của Bồ-tát sâu rộng cao xa thù thắng đáng quý mà lập thành tên gọi.

Hai, Thể tánh, dùng Đại Nguyện làm Thể của hạnh, nhưng vốn là Hậu đắc trí. Trong luận Du-già quyển thứ 9 nói: “Mong cầu tánh thù thắng của trí ở sau mỗi một Địa, gọi là Nguyện Ba-la-mật-đa, lại dùng ba pháp là Tín-Dục-Thắng giải làm tánh.” Lại luận Khởi Tín nói v.v…

Ba, Chủng loại, trong luận Duy Thức nói: “Nguyện có hai loại: 1) Nguyện cầu Bồ-đề, 2) Nguyện làm lợi ích vui sướng cho người.” Hoặc là bốn Hoằng-năm Nguyện, như luận Du-già nói; hoặc là mười Nguyện như văn sau nói.

Bốn, Công năng, do Đại nguyện này có khắp tất cả các hành, nhờ vào sự giúp đỡ khiến cho cao xa thù thắng, từ công năng này mà gọi là hạnh Tôn trọng.

Năm- Giải thích văn, phân rõ trong tướng có hai: Trước là trình bày về hạnh thuộc Tự phần, sau từ “Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về hạnh thuộc Thắng tiến.

Trong phần trước có ba: Một, trình bày về chỗ dựa của hạnh phát khởi, đó là các thiện căn, thiện là nghĩa về thuận theo lý, căn là nghĩa về tăng thượng-nghĩa về sinh trưởng. Trong đó có chín câu, một câu đầu là tổng quát, tám câu còn lại là riêng biệt.

Trong riêng biệt: 1) Tâm khởi hạnh kiên cố; 2) Tình thức biểu hiện vượt lên cao; 3) Hạnh sâu xa khó lường; 4) Sinh ra công đức rộng nhiều; 5) Chứng được vắng lặng khó lay động; 6) Hạnh tuyệt diệu không có so sánh; 7) Không còn tâm giữ lấy-rời bỏ; 8) Hạnh rộng rãi giống như Phật. Đầy đủ các nghĩa này, cho nên gọi là Tôn trọng.

Hai, chính thức hiển bày về tướng của hạnh, trong đó có bốn: 1) Nội tâm kiên cố, đó là phát khởi hai niệm Nguyện-Hạnh; 2) Ngoại duyên thù thắng, đó là hai duyên thuận-nghịch, ma là nghịch duyên cũng có thể thành tựu hạnh; 3) Hạnh thành tựu tôn trọng, đó là hai hạnh thanh tịnh và chịu khó; 4) Nguyện thành tựu không lui sụt.

Ba, từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về hạnh thành tựu lợi ích, trong đó đã an trú vào hạnh tôn trọng là kết luận về hạnh thuộc Tự phần đã thành tựu; từ “Ư niệm niệm…” trở xuống là chính thức trình bày về hai Lợi. Trước là trong Tự lợi, đối với tai họa làm thay đổi rời xa, đối với công đức làm chuyển biến tăng thêm, lý thật gồm chung tăng thêm tất cả các hạnh nguyện. Dựa theo nguyện hiển bày thì bởi vì đây vốn là nguyện vượt qua phần vị. Sau là trình bày về Lợi tha, bởi vì Bồ-tát này bên trong có đủ thật đức, khiến cho bên ngoài thấy nghe đều không hư vọng.

Trong phần sau là hạnh thuộc Thắng tiến, có ba: Một, tu thành tựu về Tâm hạnh tôn trọng; hai, dựa vào Tâm tu thành tựu về Tuệ hạnh tôn trọng; ba, dựa vào Tuệ tu thành tựu về Bi hạnh tôn trọng.

Trong phần một cũng có ba: 1) Trình bày về tu Tâm hạnh vô ngại; 2) Từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là trình bày về tu Tâm hạnh vô tận; 3) Từ “Nhi Bồ-tát…” trở xuống là cùng kết luận về hai hạnh.

Trong phần một có hai: a) Dựa vào lý phát khởi giáo hóa là trình bày về hạnh vô ngại; b) Từ “Ư chúng sinh số…” trở xuống là trình bày về lý sự dung hòa tự nhiên của hạnh vô ngại.

Trong mục a là pháp-dụ-hợp.

Hỏi: Đã không hướng về sinh tử, không hướng đến Niết-bàn thì nên nói là lưu chuyển giữa hai nơi này không dừng lại, tại sao chỉ nói là lưu chuyển giữa sinh tử không dừng lại?

Đáp: Pháp sư Viễn giải thích rằng: Trước không hướng về hai nơi là lìa xa có, không dừng lại giữa dòng là lìa xa không có, nghĩa là sinh tử không có nơi chốn gọi là ngừng lưu chuyển giữa dòng; không dừng lại nơi không có này, cho nên nói là lưu chuyển giữa dòng không dừng lại. Nay lại giải thích như nước chảy về phía Đông, không dừng lại bờ Nam, không dừng lại bờ Bắc, cũng có thể nói là không ngừng lưu chuyển giữa bờ Bắc, bởi vì ở giữa không có Thể riêng biệt, dựa theo bờ mà phân định. Nếu như vậy thì bờ Nam cũng được, vì sao không nói là lưu chuyển giữa Niết-bàn? Giải thích: Bởi vì chúng sinh đã hóa độ vốn ở bờ bên này, cho nên chỉ dựa vào sinh tử mà luận, dựa vào bên kia cũng được.

Hỏi: Vì sao lìa xa bờ không có ở giữa riêng biệt?

Đáp: Như đối với tất cả chúng sinh, bởi vì Như Lai Tạng như nước là bờ bên kia, bởi vì vọng tâm như sóng là bờ bên này. Bởi vì nước tức là sóng, không phải là động cho nên bờ bên kia chứ không phải là bờ bên này. Bởi vì sóng tức là nước, không phải là tịnh cho nên bờ bên này chứ không phải là bờ bên kia. Bởi vì nghĩa này cho nên hai bờ đều tồn tại. Lại bởi vì nước không phải là động, tức là sóng cho nên bờ bên kia mà không phải là bờ bên kia; sóng không phải là tịnh, tức là nước cho nên bờ bên này mà không phải là bờ bên này. Không phải là bờ bên này, không phải là bờ bên kia, đó gọi là lưu chuyển giữa dòng, cho nên Bồ-tát ở giữa chưa hề không phải là bờ, phàm phu Tiểu thừa ở bên bờ chưa hề không phải là giữa dòng. Dựa vào nghĩa này, cho nên Bồ-tát là chủ động giáo hóa cuối cùng là không chủ động, chúng sinh là thị động giáo hóa cuối cùng cũng không có gì giáo hóa, bởi vì giữa dòng-bên bờ ngay trong nhau, chủ động-thụ động viên dung vô ngại, suy nghĩ điều này.

Trong mục b là lý-sự dung hòa tự nhiên, đưa ra hai cách giải thích: Một là dựa theo Tướng, hai là dựa vào Thật.

Trong một là dựa theo Tướng: Câu đầu là tổng quát gồm chung đối với tất cả; từ “Tâm vô sở trước…” trở xuống là trong riêng biệt hiển bày: Trước là thẳng thắn phân rõ có năm cặp-mười câu: 1) Trên đây nói không đắm trước, không phải là không đắm trước đối với một chúng sanh mà còn lại đều có đắm trước, cũng không phải là lìa xa nhiều mà đắm trước một, bởi vì tất cả đều không đắm trước. 2) Lợi ích bởi vì tu thiện không tăng thêm, giáo hóa khiến cho đoạn ác không giảm bớt, đây là hướng về phần vị nhân chưa thành tựu quả mà nói. 3) Thiện đầy đủ quả khởi lên mà không sinh, hoặc chướng vĩnh viễn không còn mà không diệt; lại công đức của quả đầy đủ mà không sinh, trú trong Đại Niết-bàn mà không diệt, đây là hướng về bắt đầu thành tựu quả mà nói. 4) Dù cho đều thành tựu quả, chúng sinh giới không tận cùng mà quả vị không tăng thêm, đây là hướng về sau khi đã thành tựu quả mà nói. 5) Tuy như trên nói không có tăng thêm-giảm bớt…, nhưng sự giáo hóa này thành tựu lợi ích không trống rỗng, sự giáo hóa tuy là không trống rỗng mà không trái với cách nói trước đây, cho nên cũng không hai. Đây cũng là kết thúc phần trước.

Trong phần sau là giải thích, có hai: Trong phần đầu là nêu ra câu hỏi, hiện tại giáo hóa chúng sinh có tăng thêm-có giảm bớt, vì sao lại nói không hai? Giải thích bởi vì chúng sinh giới giống như pháp giới, cho nên không có tăng thêm-giảm bớt, sinh-diệt đều không có đắm trước dựa vào, giải thích về không đắm trước một-nhiều… trước đây. Sau trong giải thích, trước nêu ra câu hỏi: Giả sử giống như pháp giới thì lẽ nào có thể không hai? Giải thích bởi vì pháp giới không hai do đó khiến cho chúng sinh giới cũng không có hai loại như tăng thêm-giảm bớt…

Hai là dựa theo Thật để giải thích: Câu đầu là hiển bày về tự tâm của Bồ-tát không nhiễm, bởi vì trí có đắm trước thì không có thể soi chiếu đến pháp vô ngại này; sau là hiển bày về tướng vô ngại. Đầu là trong năm cặp phân ba: Hai cặp đầu là một, hiểu về sự khiến cho dung hòa, một-nhiều không ngăn ngại, cặp trước là nêu ra-cặp sau là giải thích, đắm trước giống như đưa vào. Nghĩa là đối với một chúng sinh đưa vào nhiều chúng sinh, đối với một không tăng thêm, đối với nhiều không giảm bớt; đối với nhiều đưa vào một, ngược lại với trên có thể biết. Chúng sinh giới ấy là Như Lai Tạng, bởi vì tánh gồm chung-tướng dung hòa cho nên có thể sự tùy theo lý mà không ngăn ngại. Hai cặp tiếp là một, trình bày về sự đã giống với lý khởi lên đều không ngăn ngại, cũng một cặp là nêu ra-một cặp là giải thích, có thể biết. Một cặp sau cuối là cùng kết luận về hai phần trước, trình bày về lý-sự vô ngại, nghĩa là cùng chung chân lý mà không mất đi sự, cho nên nói là không hư giả; hiện rõ tướng của sự mà tức là chân thật, cho nên không hai.

Trong phần sau là giải thích, có hai: Trước là giải thích về sự giống với lý, sau là giải thích về dùng lý để thâu nhiếp sự. Kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Chúng sinh giới-Pháp giới không hai-không khác, tức là Pháp thân này bởi vì phiền não nhiễm ô, cho nên lưu chuyển trong năm đường gọi là chúng sinh.” Lại nói: “Pháp thân là chúng sinh, chúng sinh là Pháp thân. Pháp thân và chúng sinh một nghĩa mà khác tên gọi.” Lại nói: Nếu có người nói chúng sinh giới-pháp giới có hai-có khác, thì Ta nói người ấy gọi là Nhất xiển đề.”

Phần thứ hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là dựa vào Tâm vô tận tu đức vô tận, trong đó có hai: Trước là thẳng thắn hiển bày, sau là giải thích về thành tựu.

Trong phần trước: Đầu là dựa vào lý khởi hạnh, sau là đức thù thắng tự trang nghiêm. Đầu là hiển bày về phước thù thắng, từ “Thiện năng phân biệt…” trở xuống là trình bày về Tuệ sâu xa, bởi vì soi chiếu đến nguồn cội của pháp gọi là Đáo bỉ ngạn; từ “Nhị tất phân biệt…” trở xuống là trình bày về ứng hiện khắp nơi giáo hóa bên ngoài, trước là thân nghiệp hiện rõ khắp nơi, tiếp là ý nghiệp không nhiễm, sau là ngữ nghiệp thuyết giảng rộng rãi.

Trong phần sau là giải thích về thành tựu, có pháp-dụ-hợp. Trong pháp, nghĩa là tuy đối với tất cả pháp lìa xa bến bờ của các dục, mà không gián đoạn Đạo của Tự phần, không rời bỏ Hạnh của Hóa tha, cho nên dựa vào vắng lặng mà dấy khởi hạnh, hạnh đức vô tận, khiến cho tướng của đức Tự lợi-Lợi tha trước đây thêm thù thắng. Nói đến công đức vô tận là đức rộng lớn, tiến vào pháp giới thanh tịnh là chứng sâu xa. Trong hợp, hai Lợi có thể biết.

Phần ba là cùng kết luận, nghĩa là bởi vì dung hòa hai tâm trước đây làm một hạnh, cho nên hai tướng so sánh và làm mất nhau đều phai mờ. Trong đó có năm cặp-mười câu: Cặp đầu dựa theo Hạnh tu, nghĩa là cứu cánh thì tâm hạnh vô ngại, bởi vì tiến vào lý ngừng mong cầu cho nên không phải là cứu cánh thì tâm hạnh vô tận, bởi vì phát sinh công đức vô cùng tận, bởi vì phát sinh công đức thì tiến vào lý, tiến vào lý luôn luôn phát sinh công đức, cho nên cả hai đều không phải; sau đều dựa theo điều này. Cặp hai dựa theo Đoạn hoặc, nghĩa là chiếu rọi tánh của Hoặc trống rỗng thì không thể đoạn trừ-lìa xa, khác với soi chiếu gốc ngọn cho nên không phải là không lìa xa. Cặp ba dựa theo Chứng lý, nghĩa là bởi vì lý không có tướng, không phải là nơi có thể dựa vào, thì do chiếu rọi lý về không dựa vào này, khiến cho trí tròn vẹn sáng ngời không phải là không dựa vào. Cặp bốn dựa theo đã thành tựu, nghĩa là lúc chứng lý dựa theo nhiễm trống rỗng không có gì đáng rời bỏ, cho nên không phải là thế gian; tịnh không phải là mới có, cho nên không phải là Phật pháp. Vả lại, không có nhiễm nào đáng chán ngán, không có tịnh nào đáng vui mừng. Cặp năm dựa theo phần vị không phải là phàm phu-Tiểu thừa, nghĩa là đạt được quả đều là bốn quả thuộc Nhị thừa…

Từ đây trở xuống là phần hai dựa vào Tâm tu thành tựu về Tuệ hạnh tôn trọng. Trong đó câu đầu nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau, nghĩa là thành tựu tâm sâu nặng thì nhắc lại tâm trước đây. Tu tập hạnh Bồ-tát là chính thức trình bày dựa vào hạnh trí tuệ tu tập trước đây, trong đó có hai: Một là trình bày về trí soi chiếu hạnh tiến vào lý, hai từ “Thí như hư không…” trở xuống là trí dung hòa cả lý và hạnh.

Trong phần một: 1) Trình bày về Hóa hạnh Vô giáo, 2) Tự hành Vô niệm.

Trong phần 1: a) Năm cặp mười câu, chính thức hiển bày có thể biết; b) Từ “Hà cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu. Trong đó, không có thọ-không có chuyển, là không có Chánh pháp có thể tiếp nhận, không có tà hoặc có thể chuyển diệt. Lại không tiếp nhận duyên khác cho nên không có thọ, Chánh hạnh vững vàng tồn tại cho nên không có chuyển. Lại đối với các pháp Nhị thừa như năm cặp trên đây mà có thể không tiếp nhận, đối với Chánh lý không chỉ dạy mà có thể không chuyển đổi, xứng với lý mà khởi hạnh không có lui sụt ngừng lại cho nên nói là không lui sụt.

Trong phần hai là Tự hành vô niệm, có hai: Trước là chính thức

hiển bày, sau là giải thích về thành tựu.

Trong phần trước, lúc thực hành thì vắng lặng là nhắc lại phần trước. Không nhớ… là chính thức hiển bày về Vô niệm, hạnh này giống như hạnh không có công dụng của Địa thứ tám cho nên Vô niệm. Không lay động ý niệm vì mười pháp, đó là ba Thời-ba Khoa-ba Vị, bên trong là Chánh báo, bên ngoài là Y báo, bên trong-bên ngoài đầy đủ cả hai, lại ba pháp là Căn-Cảnh-Thức cũng được, một pháp sau cuối là dựa vào phần vị để kết luận, bởi vì trong phần vị này tuy là tu tập Đại nguyện mà cũng Vô niệm.

Trong phần sau là giải thích: Trước là giải thích vì sao Vô niệm, bởi vì thông hiểu rõ ràng trong các pháp bình đẳng không có trí hạnh, mà có thể hướng về duyên vốn có để thành tựu, cho nên Vô niệm. Sau là giải thích vì sao không hướng về, bởi vì chủ động hướng về-thụ động hướng về không hai, mà không hai cũng lìa xa, cho nên nói là không có không hai. Vả lại, đây cũng là giải thích phần trước sinh khởi phần sau, lý hạnh không hai là giải thích phần trước; tuy hợp lại mà không hai nhưng chủ động-thụ động rõ ràng, cho nên nói là không có không hai, đây là văn sinh khởi phần sau.

Trong phần hai là trí dung hòa cả lý và hạnh, có hai: 1) Chính thức trình bày về lý hạnh vô ngại; 2) Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về công thành tựu thì đức thiết lập.

Trong phần một có hai: a) Pháp dụ nêu ra phát khởi, nghĩa là Vô sai biệt hiển bày về hạnh giống như lý phai mờ tướng của hạnh, không phải là không thành tựu… trình bày về lý giống như hạnh giữ lại công của hạnh. Hai loại này là một hạnh, dựa theo trong dụ chỉ là không phải không có hư không Vô sai biệt này, không phải nghĩa là có vật khác. Vậy thì trong pháp không phải là không thành tựu Chánh giác Vô sai biệt này, không phải nghĩa là không sai khác dựa theo lý, thành tựu… dựa theo hạnh. Đây là trình bày về lấy không có thành tựu làm thành tựu, suy nghĩ điều này!

Trong phần b là giải thích: Trước là giải thích về hạnh của Vô hạnh, sau là giải thích về hạnh tức là Vô hạnh. Lại đầu là trình bày về lý không trái với hạnh, hạnh tiếp nhận lý mà thành tựu công đức; sau là trình bày về hạnh không trái với lý, lý phai mờ hạnh mà trở về vắng lặng.

Phần trước là giải thích về nghĩa đầu, nghĩa là hạnh tiếp nhận lý tuy là vạn hạnh mà luôn luôn vắng lặng, đây là hạnh của Địa thứ tám. Trong đó: Đầu là một câu chính thức hiển bày về Chân lý không trái với Chánh hạnh; sau là làm sáng tỏ về tướng của hạnh ngay nơi lý: Một là hạnh Tự lợi; hai từ “Điều phục…” trở xuống là hạnh Lợi tha. Không hủy hoại nhân quả là kết luận về hai hạnh, nghĩa là bởi vì không ngăn ngại tồn tại, bởi vì không cần phải hủy hoại. Phần sau là giải thích về hạnh không trái với lý, có thể biết.

Trong phần hai là trình bày về công thành tựu thì đức thiết lập, có hai:

Một là đối với Phật có thể sánh bằng, nghĩa là ba đời Như Lai đều cùng thành tựu hạnh Vô ngại này, nay cũng đạt được hạnh ấy cho nên giống nhau. Đây là tổng quát. Sau là riêng biệt phân rõ: a-Hiển bày về Bổn giác bên trong, cho nên nói là không đoạn mất Phật tánh; b-Hạnh tuy ngay nơi lý mà thành tựu tu luôn luôn dấy khởi, cho nên nói là không hủy hoại Chánh pháp, vì vậy sánh bằng Phật.

Hai là đối với Pháp có thể làm cho phát triển, câu đầu là tổng quát, từ “Biện tài…” trở xuống là riêng biệt hiển bày có ba: a-Biện tài Vô nhiễm làm cho pháp phát triển; b-Từ “An trú…” trở xuống là trình bày về trí Vô úy làm cho pháp phát triển; c-Từ “Bất xả…” trở xuống là trình bày về hạnh Vô trước làm cho pháp phát triển.

Thứ ba là dựa vào Tuệ tu tập thành tựu về Bi hạnh tôn trọng.

Trong đó: Đầu là trình bày nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau, Bồ-tát thành tựu trí tuệ tôn trọng như vậy là nhắc lại trí tuệ sâu xa đã thành tựu trước đây, tu tập Bồ-tát hạnh là dựa vào trí tuệ ấy để tu tập hạnh Đại Bi này. Sau là trong phần chính thức hiển bày có hai: 1) Tổng quát nêu ra ý của Bi hạnh, nghĩa là trước cảm hóa khiến cho thoát khỏi nghiệp chướng là giáo hóa thành tựu, sau cảm hóa khiến cho trú vào đạo. Lại trước là khiến cho thoát khỏi nạn nẽo ác đạt được lợi ích của trời người, sau là khiến cho thoát khỏi sinh tử đạt được lợi ích của giải thoát. 2) Từ “Như thị giáo…” trở xuống là dùng sự để xét tâm hiển bày về thành tựu Bi hạnh, trong đó có hai: Một, trình bày về tâm không có mong cầu gì khác; hai, từ “Đản dục điều phục…” trở xuống là chỉ vì lợi ích cho chúng sinh.

Trong phần một, trước là thẳng thắn phân rõ, sau là giải thích. Trong phần trước, đầu là người ác, sau là người thiện, nghĩa là giả sử người ác kia đều có thiện hữu trí tuệ sáng suốt đầy khắp thế gian, mình cuối cùng không vì danh lợi… mà tranh nhau cảm hóa để tu tập. Lại giải thích: Bồ-tát cuối cùng không đối với người ác tà kiến mà rời bỏ cảm hóa, bởi vì họ không biết đến ân nghĩa cho nên không có được danh lợi; đối với người thiện trí tuệ sáng suốt mà thâu nhiếp cảm hóa, bởi vì họ chú ý đến ân nghĩa cho nên có được danh lợi, vì vậy nói rằng mình không vì ở nơi người thiện có được danh lợi mà tu hạnh Bồ-tát. Sau là giải thích về không có mong cầu gì khác, một sợi tơ là nhỏ nhất trong Lợi, một lời yêu thương là ít nhất trong Danh, ít hãy còn không làm, huống hồ là nhiều.

Trong phần hai là chỉ vì lợi ích cho chúng sinh, cũng trước là thẳng thắn phân rõ, vì điều phục người khác là trao cho ba Học, thanh tịnh là khiến cho đoạn trừ phiền não, hóa độ là khiến cho đạt được quả. Sau là trong giải thích, trước nêu ra vì sao không mong cầu yên ổn cho mình, mà chỉ vì lợi ích cho chúng sinh? Giải thích rằng: Pháp của tất cả chư Phật như vậy, là nêu ra Phật giống như mình. Sau là làm sáng tỏ mình giống với Phật, trong đó một là tâm hóa độ giống nhau, hai từ “Dục linh…” trở xuống là lợi ích hóa độ giống nhau.

Trong Hạnh thứ chín là Thiện pháp, đưa ra bảy môn:

Một, Dùng trí lực khéo léo có được thuyết pháp cho căn cơ mà gọi tên.

Hai, Ý đưa ra, Đại nguyện dần dần thanh tịnh tăng lên thành tựu Lực độ, lại v.v…

Ba, Thể tánh, lại dựa vào Nhiếp Luận dùng Hậu đắc trí, Đại Bi vô biên trí, có năng lực làm Thể.

Bốn, Nghiệp dụng, dựa vào Nhiếp Luận có hai loại: 1) Lực của tư duy chọn lựa, có năng lực làm cho chướng ngại đã đối trị phải khuất phục như tất cả Chánh hạnh, khiến cho không khởi lên. 2) Lực của tu tập, có năng lực làm cho tất cả thiện hạnh kiên cố quyết định.

Năm, Chủng loại, hoặc là hai Lực như trước, lại có mười loại nói như từ đầu đến cuối.

Sáu, Sai biệt, phần vị này vốn giống như Vô ngại biện lực của Địa thứ chín. Bởi vì dựa theo Viên giáo, phần vị này sau khi đầy đủ thì liền thành Phật không cần gì khác, trong văn hiển bày về điều này có thể thấy.

Bảy, Trong giải thích văn có bốn: 1) Nêu ra; 2) Phân rõ; 3) Kết luận; 4) Ca ngợi.

Trong phần hai phân rõ về tướng, có hai: Trước là hạnh thuộc Tự phần, sau là hạnh thuộc Thắng tiến.

Trong phần trước: Đầu là tổng quát hiển bày về tướng ấy có ba câu: a) Dùng pháp làm lợi ích cho căn cơ, nghĩa là có thể dùng pháp thanh tịnh để loại trừ phiền não bức bách chúng sinh, gọi là hồ giáo pháp trong lành; b) Hoằng dương Chánh pháp, nghĩa là dùng chí nguyện rộng lớn duy trì thuyết giảng về Chánh pháp, gọi là giữ gìn bảo vệ; c) Lợi ích của hoằng pháp, nghĩa là dùng mười thân trải qua nhiều kiếp thuyết giảng hóa độ không ngừng, gọi là Phật chủng không đoạn mất. Vì vậy trong Trí Luận nói: “Làm cho Bát-nhã lưu hành ở thế gian, thì Phật chủng này không đoạn mất.” Là nói đến điều này.

Những điều này cũng là sơ lược hiển bày về tên gọi của hạnh Thiện pháp. Trong phần sau là riêng biệt phân rõ, có bốn: a) Trì thành tựu; b) Thuyết thành tựu; c) Vấn đáp thành tựu; d) Ngữ ích thành tựu.

Trong phần a nhờ vào giữ gìn pháp không quên mới có thể thuyết giảng rộng ra, cho nên trước là trình bày về điều này. Trong mười loại đều đầu là trình bày về Thể của Trì, sau là hiển bày về Dụng của Nghiệp. Bởi vì giữ gìn pháp rõ ràng cho nên nói là thanh tịnh, dựa vào đây thuyết pháp cho nên không có chướng ngại, đây là câu tổng quát. Chín câu còn lại là riêng biệt: Một là bốn Trì khởi lên bốn Biện. Năm là do hạnh tiến vào cảnh Phật, chư Phật thuyết cho nghe về Nhất thiết trí, dùng pháp Cam lộ rưới vào đỉnh tâm ấy, giữ gìn pháp này không quên, thuyết giảng hợp với căn cơ chúng sinh, do đó làm cho hoan hỷ. Sáu là do bên trong tự chứng pháp cho nên phát khởi biện luận vô tận giống như Chứng. Bảy là do biện luận giống như lý tiến vào cho nên văn nghĩa thuyết ra rộng nhiều vô tận. Tám là do phương ngữ chính xác khéo léo, cho nên có thể phân ra bàn luận khác nhau. Cùng với trước sai khác thế nào? Trước dựa vào lời nói tròn vẹn-ý nghĩa đầy đủ cho nên gọi là Chánh ngữ, lại là lời nói ngay nơi nghĩa ấy, cho nên khác với ở đây. Chín là có năng lực hiện thân giống như Phật, ca ngợi không thể cùng tận. Sau là hiển bày về Dụng của Nghiệp, có thể biết.

Trong phần b từ “Tùy sở ứng hóa…” trở xuống là trình bày về Thuyết thành tựu, có hai: Một là chính thức hiển bày về tướng Thuyết; hai từ “Tùy sở ứng ư nhất nhất…” trở xuống là trình bày về mở đầu giáo hóa vô ngại.

Trong phần một: Đầu là trình bày về cơ đã ứng, có ba câu: 1) Tùy theo nhiều căn cơ mà giáo hóa thuần thục; 2) Tất cả đều dùng căn cơ ấy mà hiểu rõ ngôn ngữ âm thanh; 3) Đều tùy theo căn cơ ấy thích hợp mà nghe sai biệt, sau mới chính thức tuyên thuyết cho nghe, thuyết giảng hợp với tâm giáo hóa gọi là không trái với Bi.

Trong phần hai là mở đầu giáo hóa vô ngại: 1) Nhiều âm thanh mở đầu giáo hóa không có chướng ngại; 2) Từ “Thiết hữu…” trở xuống là dùng một âm thanh mở đầu giáo hóa tự tại vô ngại. Lại trước là một trong nhiều, sau là nhiều trong một, hai loại này vô ngại là một âm thanh tròn vẹn.

Trong phần c từ “Nhĩ thời…” trở xuống là trình bày về Vấn đáp thành tựu, có bốn nghĩa vi tế hơn Thuyết thành tựu trước đây: 1) Trước chỉ nói đến thế giới mà chưa hiển bày về tự tại ở nơi vi tế, ban đầu tạm thời nêu ra, trong này đầu một mảy lông trong một niệm có vô lượng chúng; 2) Một niệm tương tự niệm khác cho đến tất cả kiếp quá khứ-vị lai; 3) Nói khác nhau-hỏi khác nhau; 4) Lời nói của Bồ-tát không sợ hãi gì, giả sử tất cả chúng sinh hỏi thì hãy còn giải đáp một lời, huống là một ít chúng sinh này mà lại dùng nhiều lời? Đây là trình bày về Trí lực biện tài có thừa tự tại, tự tại này thuộc về Địa tiền. Đạt được Trí lực tự tại này là phần vị Phổ Hiền trong Viên giáo, nếu như Tông khác thì chưa hẳn có thể như vậy, nói như luận Du-già…

Trong phần d là Ngữ ích thành tựu, hiển bày những lời đã nói trên đây có đủ năm câu về ý nghĩa lợi ích: 1) Câu đầu là tổng quát; 2) Lời nói có đủ Tuệ sâu xa; 3) Có thể thành tựu kho tàng của phước, nghĩa là thọ trì sinh ra phước; 4) Soi chiếu lý đầy đủ tất cả; 5) Có thể thành tựu về trí thuộc quả.

Trong phần sau là hạnh thuộc Thắng tiến, có hai: Trước là tổng quát nêu ra, sau từ “Như thử…” trở xuống là riêng biệt giải thích.

Trong phần trước: Đầu là nhắc lại phần trước, nghĩa là hạnh thuộc Tự phần thành tựu cho nên nói là an trú, giống như phần An trú địa trong Sơ địa sau này; tiếp là nêu ra hai Chương về hai Lợi.

Trong phần sau là giải thích, có hai: Trước là tóm lược, sau từ “Phật tử…” trở xuống là mở rộng.

Trong phần trước: Trước là giải thích về tự mình thanh tịnh, trong Tự phần trước đây chỉ nói hiện rõ ba nghiệp của Phật ở ba ngàn thế giới, nay hiển bày vượt qua số ấy cho nên nói là như ba ngàn thế giới cho đến Bất khả xưng số thế giới. Thân-khẩu có thể biết. Vô ngại đối với tất cả các pháp là trình bày về ý nghiệp thanh tịnh, làm Phật sự là trình bày về những việc đã làm của ba nghiệp này. Sau là giải thích về lợi ích, Tha nghĩa là ba nghiệp tự mình thanh tịnh trước đây có thể làm sự việc hóa độ người khác.

Trong phần sau là mở rộng giải thích, có hai: Trước là mở rộng về tự mình thanh tịnh trước đây, sau từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là mở rộng về Lợi tha trước đây.

Trong phần trước: Một là nêu ra số; hai là riêng biệt giải thích về mười thân đưa ra năm môn:

1. Phân rõ về Thể tánh, dùng ba pháp là Pháp giới thanh tịnh và Căn bản trí cùng với Hậu đắc trí làm Thể, như văn có thể thấy. Lại tổng quát chỉ riêng Cảnh-Trí làm Tánh, lại Cảnh-Trí cùng dung hòa chỉ một pháp giới làm Tánh.

2. Giải thích về Tướng, mỗi một thân đều trước là nêu ra-sau là giải thích. Trong một, lý không có gì không Chứng cho nên tiến vào vô biên pháp giới, thời gian(Thế) không lúc nào không vượt lên trên cho nên diệt tất cả thời gian, thời gian diệt-lý hiện bày là thân Pháp giới thân. Hai, lý không có thể vướng mắc cho nên hướng về đời vị lai, không nơi nào không sinh cho nên sinh ở tất cả các nẽo, trước thì vượt lên trên thời gian khiến cho tận cùng, ở đây thì tất cả thời gian cùng sinh. Ba, tuy cùng sinh ở tất cả các nẽo nhưng trú trong vắng lặng bất động cho nên nói là không sinh. Bốn, tuy ngay nơi sinh mà không sinh, nhưng trong nẽo ấy thân luôn luôn không diệt, đây là không khác không sinh mà không diệt, lời nói không đạt tới cho nên nói là đoạn tuyệt lộ trình của ngôn ngữ (ngôn ngữ đạo đoạn). Năm, thân lìa xa ngôn ngữ ấy không có hình dáng thật, bởi vì vốn là chân như; lại giải thích là lấy chân như làm thân, nhưng chân lìa xa tướng cho nên nói là không thật, bởi vì là lý tánh chân thật cho nên lìa xa thật. Sáu, lìa xa ngu si là Thể ra khỏi vọng nhiễm, tùy theo thích ứng là Dụng thanh tịnh vô ngại, như Dụng tự tại của mặt trời mọc chiếu rọi mây. Bảy, tuy khởi lên tác dụng thích ứng mà thường lìa xa cái chết không có đến-đi, như vậy giải thích về thành tựu, dựa theo đây nhất định ra khỏi Phần đoạn sinh tử. Tám, không phải chỉ là Dụng không có đến-đi, mà cũng là Thể không có biến hoại, cũng là duyên không có thể ngăn cản. Chín, không phải là dứt khoát không bị bốn tướng làm cho thay đổi, mà cũng là khéo đoạn tuyệt ba đời, cho nên không thể dùng ngôn từ như quá khứ-vị lai… mà đạt được. Mười, Vô tướng không ngăn ngại Tướng, bởi vì tất cả Danh Thân đều có nghĩa về nương tựa.

3. Thâu nhiếp lẫn nhau có hai môn: Một- Dựa theo ba thân, nghĩa là trong này Nhất tướng pháp giới-không thật-không hoại, bốn loại này là Pháp thân; Vô tướng không sinh-không diệt-không có đến-không có đi, bốn loại này là Thật Báo thân; vị lai-lìa vọng, hai loại này là Hóa thân. Hai- Dựa theo mười thân có ba: a) Dựa theo phẩm Ly Thế Gian sau này nói về mười thân v.v… b) Dựa theo mười thân trong kinh Thắng Thiên Vương v.v… c) Dựa theo mười thân trong kinh Pháp Tập v.v…

4. Nơi đạt được có bốn phần vị: Một, Hoặc là chỉ Địa thượng đạt được, như mười thân trong kinh Thắng Thiên Vương và kinh Pháp Tập, đây là dựa theo Tam thừa phân rõ. Hai-Hoặc là chỉ Địa tiền đạt được, như ở đây đã nói. Ba-Hoặc là cả hai nơi đạt được, như mười thân trong phẩm Ly Thế Gian sau này. Bốn-Hoặc không phải là Địa tiền-không phải là Địa thượng đạt được, như ba thân mười Phật đều đạt được ở phần vị của quả.

5) Xác định phạm vi giới hạn, nếu trong Tam thừa thì Bồ-tát Địa tiền chắc chắn là thân Phần đoạn, Địa thượng còn có thân Biến dịch thân, ngoài ra Hồi tâm Nhị thừa-Địa tiền cũng có, vì vậy mười thân này không phải là nơi ấy thâu nhiếp. Nếu trong Nhất thừa thì có hai cách nói, nếu nói phương tiện thâu nhiếp thì Địa tiền-Địa thượng đều có thân Biến dịch, bởi vì mỗi một phần vị cuối cùng đến Phật địa; nếu dựa vào Tự giáo mà nói thì đều là thân Phần đoạn, bởi vì Nhục nhãn có thể thấy khắp nơi lưới báu sáng ngời của Chuyển Luân Thánh Vương đều là Bồtát Thập Địa, như văn sau nói. Lại như Đồng tử Thiện Tài dùng thân Phần đoạn mà đến phần vị Phổ Hiền, nhưng đều là dựa vào pháp môn Phần đoạn cho nên không phải là sai lầm.

Phần sau là mở rộng về Lợi tha trước đây: Đầu là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau, đó là dựa vào mười thân này để cảm hóa dẫn dắt chúng sinh. Sau là câu riêng biệt có mười: Một là phát sinh điều thiện, hai là lìa xa đau khổ, ba là trú trong an vui; ba câu trên đây là lợi ích thuộc thế gian. Bốn là chỉ rõ cho họ con đường thoát ra, năm là khiến cho họ hướng đến tiến vào, sáu là khiến cho hiểu về Tục đế, bảy là khiến cho đạt được Chân đế, tám là khiến cho họ đoạn trừ phiền não, chín là khiến cho thành tựu phần vị của nhân, mười là nêu ra quả khiến cho hướng về.

Trong phần bốn là ca ngợi: Trước làm hồ trong lành là tổng quát ca ngợi, sau đạt được ngọn nguồn của Phật pháp là giải thích về nguyên cớ có thể làm hồ giáo pháp. Lại đầu là kết luận ca ngợi về Tự phần trước đây, sau là kết luận ca ngợi về Thắng tiến.

Trong Hạnh thứ mười là Chân thật, cũng đưa ra bảy môn:

Một, Giải thích tên gọi, dựa vào lời nói-dựa vào việc làm, thành tựu đức xứng với lời nói và việc làm không hư giả, cho nên nói là chân thật. Chân thật tức là hạnh, trì nghiệp mà được tên gọi.

Hai, Theo thứ tự, năng lực thực hành càng thêm thù thắng mà tiến vào Thật trí.

Ba, Thể tánh, lấy Dụng của Hậu đắc trí làm tánh, bao gồm cả Đại Bi…

Bốn, Nghiệp dụng, theo Lương Nhiếp Luận không trú trong sinh

tử và Niết-bàn là Dụng của Trí, lợi ích Thánh phàm là do Trí mà thành tựu sự việc.

Năm, Chủng loại có hai: 1-Trí soi chiếu căn cơ chúng sinh, 2-Trí trao cho thuốc pháp. Lại có mười trí như văn sau nói.

Sáu, Đã thành tựu, bởi vì phần vị này giống như tướng đầy đủ của Địa thứ mười sau này, cho nên tăng thượng về Trí Ba-la-mật. Tất cả Hạnh khác đều đầy đủ, cho nên phần vị này đầy đủ công hạnh rồi tiến vào cảnh giới vô biên của Phổ Hiền, do đó văn sau nói: Tiến vào pháp giới Nhân-đà-la võng, tự tại thành tựu Vô ngại giải thoát của Như Lai…

Bảy, Trong giải thích văn cũng có bốn: 1) Nêu ra; 2) Giải thích; 3) Kết luận; ) Ca ngợi.

Trong giải thích có ba: Một, Nêu ra lời thề ban đầu; Hai, Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là dựa vào lời nói thành tựu công hạnh; Ba, Từ “Đắc nhất thiết pháp…” trở xuống là công hạnh thành tựu thì đức thiết lập. Lại một là lời nói thật, hai là công hạnh thật, ba là lợi ích thật. Trong phần một cũng có ba: a) Tổng quát nêu ra; b) Sơ lược giải thích; c) Từ “Thử Bồ-tát thành tựu…” trở xuống là nêu ra sự mở rộng giải thích.

Trong phần a: Như thuyết giảng có thể thực hành, nghĩa là thực hành phù hợp với lời thề ban đầu mà thành tựu, hiển bày về lời nói thật trước đây. Như thực hành có thể thuyết giảng, là lời nói phù hợp cuối cùng thực hành thành tựu, hiển bày lời nói thật sau này. Bởi vì lời nói này chân thật trước sau không hai, cho nên gọi là lời nói chân thành bậc nhất. Như vậy hai lời nói thành thật trước sau, tổng quát có ba loại:

1. Dựa theo Tự hành, như Bồ-tát ban đầu thề rằng bố thí đôi mắt, nếu có người cầu xin đến thì như lời nói mà bố thí, có hỏi về nguyên cớ thì đáp là vì Bồ-đề. Lời này lấy gì chứng minh? Liền phát lời thề rằng: Nếu sự việc không hư dối thì khiến cho đôi mắt bình phục, biểu hiện không phải là lời nói dối. Đôi mắt thuận theo lời nói mà bình phục. Đây là lời nói ban đầu có thể phát khởi thực hành, lời nói sau có thể tăng thêm công hạnh.

2. Dựa theo hạnh Lợi tha, như Bồ-tát ban đầu thề cứu độ chúng sinh thì như lời nói mà cứu độ, cho dù Tự hành đầy đủ cũng không đến quả, mà cần phải xứng với lời thề ban đầu để tận cùng chúng sinh giới. Đây cũng là lời nói ban đầu có thể phát khởi, lời nói sau có thể đầy đủ.

3. Dựa theo nhân quả, nghĩa là như Bồ-tát ban đầu phát ra lời thành thật, cần phải tu vạn hạnh để được thành tựu quả Phật, như lời nói 2 sau khi thực hành đầy đủ thì thành tựu quả Phật, Sư Tử gầm lên rằng: Ta là tôn quý nhất… Đây tức là lời nói ban đầu phân rõ về nhân, lời nói sau hiển bày về quả. Sau nói Đại Sư Tử hống uy hùng giữa loài người…, chính là môn này. Trong ba nghĩa trên, ở trong hạnh này đầy đủ tất cả ba nghĩa, văn chỉ có hai nghĩa sau, có thể biết.

Trong phần b là sơ lược giải thích, có hai câu: Câu đầu giải thích về như thuyết giảng có thể thực hành, nghĩa là như lời nói phát khởi thực hành cho nên nói là thật ngữ, chứng nhập Thật tánh bình đẳng của chư Phật, phát khởi tiến vào Lý hành, thiện căn như nhau phát khởi duyên với Sự hành. Câu hai là giải thích về như thực hành có thể thuyết giảng, nghĩa là tuy thành tựu nhiều pháp thiện mà không trái với chí nguyện hóa độ, không thay đổi lời nói trước kia cho nên không có hai lời. Bởi vì cuối cùng không khác bắt đầu cho nên gọi là không hai, đây chính là ban đầu có thể thực hành cho nên chân thật, sau cuối không khác cho nên không hai. Đây đều là cùng thực hành thuận theo trí thuộc quả Phật của ba đời chư Phật, cho nên nói tùy thuận…

Trong phần c là mở rộng giải thích, có hai: Một là hạnh đức tuy cao mà không rời bỏ lời thề ban đầu; hai từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về ý không rời bỏ.

Trong phần một: Trước là thành tựu trí thuộc Thập Lực hiển bày về đức tôn quý cao vời; sau từ “Nhi bất xả…” trở xuống là trình bày về không rời bỏ lời thề ban đầu cứu giúp thâu nhiếp chúng sinh. Nghĩa về Thập Lực là hạnh của Bồ-tát, như ở phẩm Tịnh Hạnh đã giải thích. Kinh Tịnh Danh nói: “Tuy đạt được Phật đạo, chuyển vận Pháp luân, nhập Niết-bàn, mà không rời bỏ đạo của Bồ-tát, là hạnh của Bồ-tát.

Trong phần hai là giải thích về ý, có ba: 1) Giải thích ngược lại, đó là nêu ra sai lầm, làm trái lời thề tự khuyên nhủ mình không nên. 2) Từ “Ngã đương…” trở xuống là giải thích thuận theo, đó là thực hiện thành tựu bổn nguyện theo lý tự nhiên thông suốt. 3) Từ “Hà dĩ…” trở xuống là giải thích xoay vòng, đó là nhớ lại ý niệm ban đầu nay làm cho tâm hăng hái mạnh mẽ. Trong đó có hai: a) Nhớ lại ban đầu, đó là lời nói phát ra từ bên trong, lẽ nào lại tự quên mất hay sao? Điều này sợ rằng sai lầm làm trái lời thề ban đầu; b) Từ “Thị cố…” trở xuống là nghĩ đến hôm nay, đó là do mình vì người chứ không phải là người khác đã cầu thỉnh mà có thể bỏ dở, vì vậy khiến cho đức của mình thành tựu thù thắng. Nay nếu rời bỏ cứu giúp thì trái với đức này, điều này sợ rằng sai lầm làm trái với đức hiện có, nhờ vào trước phát khởi sau, cho nên nói là vì thế cho nên.

Lại giải thích: Mình đối với chúng sinh thì có đức thù thắng, có thể cứu độ cho chúng sinh, nếu rời bỏ không không cứu độ thì trái với đức này. Trong đó có sáu câu, đều trước là nêu ra-sau là giải thích: Một, không đắm trước cho nên thù thắng; hai, có thể điều phục cho nên lên cao; ba, hiểu rõ về Không mà lìa xa tăm tối; bốn, nguyện đầy đủ đã đạt được; năm, có đủ đức có thể thay đổi; sáu, nghĩ đến Phật có thể thâu nhiếp.

Trên đây là thành lập Bổn thệ, hiển bày không thể nào làm trái.

Từ đây trở xuống là phần hai, dựa vào lời thề ban đầu mà thành tựu công hạnh giáo hóa, trong đó có ba câu: 1) Do không rời bỏ lời thề trước đây mà đạt được trí tuệ Vô thượng cứu độ chúng sinh này; 2) Từ “Tùy nhất thiết…” trở xuống là chính thức trình bày về cứu độ; 3) Tùy theo những chúng sinh ấy là trình bày về thành tựu đầy đủ Bổn nguyện, nghĩa là như lời nói mà thực hiện thì không có gì không đến cuối cùng, cho nên nói là đã đầy đủ.

Từ đây trở xuống là phần ba, công hạnh thành tựu thì đức thiết lập, nghĩa là phần vị này thành tựu đầy đủ đức tròn vẹn sáng ngời tự tại của pháp giới Phổ Hiền. Trong đó có hai: Trước là thành tựu đầy đủ về nhân, sau từ “Ma-ha-tát trú Đại Bi…” trở xuống là trình bày thành tựu đầy đủ công đức về quả.

Trong phần trước có ba: 1) Nêu ra hai Lợi; 2) Giải thích hiển bày về thành tựu đầy đủ; 3) Từ “Thử Bồ-tát nghĩa thân…” trở xuống là kết luận về đức vô tận.

Trong phần một, đạt được trí tự tại là nêu rõ Tự hành đầy đủ, làm cho chúng sinh thanh tịnh là nêu rõ Lợi tha tròn vẹn.

Trong phần hai là riêng biệt giải thích, có hai: Một là hiển bày về tự tại trước đây cũng có hai: a) Trình bày về thân không có nơi nào không đến giống như hư không pháp giới, vô lượng vô ngại là trình bày về hiện rõ ở một nơi tức là hiện rõ ở tất cả mọi nơi, không có chỗ dựa là trình bày về thân phát khởi không có nguồn gốc cho nên được tự tại. b) Trình bày bên trong thân chứa đựng tất cả không có gì không dung nạp, nghĩa là tất cả ba thế gian đều hiện rõ ở trong thân, bởi vì thân pháp giới này dọc thì hàm chứa ba phần vị, ngang thì bao gồm chín đời, cho nên chư Phật vị lai cũng hiện rõ trong đó.

Hai từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là hiển bày về làm cho chúng sinh thanh tịnh trước đây, trong đó có ba: a) Nhận biết căn khí hóa độ; b) Từ “Tùy kỳ…” trở xuống là hiện thân thuyết pháp, cũng là chúng sinh hóa hiện ở trong thân mình; c-Đối với hóa độ không đắm trước, nghĩa là

dùng các pháp huyễn ảo hóa độ chúng sinh trong mộng, vì vậy tuy hóa độ nhưng luôn luôn là không có hóa độ.

Trong phần ba là kết luận về đức vô tận, có hai: Một là do bên ngoài hóa độ đầy đủ trước đây hiển bày về Lượng trí vô tận; hai từ “Nhập chư Tam-muội…” trở xuống là nhờ vào nhân hạnh tròn vẹn hiển bày về Lý-Trí không hai, chúng sinh dựa vào hai pháp này là nêu ra phàm để hiển bày về Thánh. Trên đây là phần đức thuộc về nhân, giống như phần vị Đẳng Giác. Trong luận Trí Độ quyển thứ 0 nói: “Lại nữa, Bồ-tát Thập Trú so với Phật không có gì sai biệt, như Biến CátVăn Thù Sư Lợi-Quán Thế Âm…, đầy đủ những công đức như Thập Lực… của Phật mà không làm Phật, bởi vì cứu độ nhiều chúng sinh.”

Cho đến nói: “Các Bồ-tát này đối với Bồ-tát khác là lớn nhưng so với Phật thì không có thể nhận biết tất cả, như ánh sáng của mặt trăng tuy lớn nhưng so với mặt trời thì không hiện rõ được.” Giải thích rằng: Luận ấy dựa theo Thập Địa để nói về Thập Trú, là Địa thứ mười, giống như Dụng của nghiệp trong Hạnh thứ mười này.

Trong phần sau là giống như Dụng của đức thuộc về quả: MộtNhắc lại phần trước phát khởi phần sau; hai-Từ “Đắc Phật…” trở xuống là chính thức hiển bày về đã thành tựu, đây là giống như phần vị Diệu Giác.

Trong văn bao gồm thành tựu về trí thuộc mười loại công đức của Như Lai: 1) Trí đạt được Thập Lực viên minh của Phật; 2) Trí tiến vào pháp giới Đế võng; 3) Trí thành tựu Giải thoát vô ngại của Phật, đó là Bất tư nghị giải thoát, như phẩm Bất Tư Nghị nói có mười loại; 4) Trí thành tựu Vô úy hùng mạnh giữa loài người, đó vốn là Thật đức của Sư Tử hống; 5) Trí đạt được chuyển Đại pháp luân, đó vốn là Pháp Vương thuyết pháp; 6) Trí thành tựu Vô ngại của Phật, hiển bày về không còn Vô minh vi tế làm trở ngại; 7) Từ “Tuyệt sinh tử…” trở xuống là trí thành tựu Vô cấu của Phật, hiển bày về không còn Vô minh vi tế đắm trước, cũng hiển bày về xứ sở của Biến dịch không còn; 8) Trí làm nhiều lợi ích cho chúng sinh; 9) Trí phát khởi hộ trì Chánh pháp; 10) Trí không dụng công nhiếp hóa, đó là có thể hoàn toàn giống như phương tiện nhiếp hóa của Cổ Phật.

Sau là phần ba phần bốn là kết luận và ca ngợi, có thể biết.

Trên đây là phần Chánh thuyết, xong.

Từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày về lợi ích riêng biệt của thuyết giảng, có hai: Một, Mặt đất rung động là công đức của sinh Tín, hai-Rưới mưa cúng dường… là công đức của kính trọng, có bốn: 1) Rưới mưa cúng dường; 2) Trỗi nhạc tấu khúc về Thập Hạnh; 3) Trời tỏa ánh sáng; 4) Tiếng trời ca ngợi công đức của Thập Hạnh.

Toàn bộ trên đây là nói về Thập Hạnh trong một thế giới, xong.

Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ hai trình bày về Thập Hạnh đã nói trong vô tận thế giới khắp mười phương, cúng dường… cũng như vậy, cùng với nơi này hoàn toàn như nhau, hợp lại làm thành một Bộ, nghĩa là một Thập Hạnh vốn chính là tất cả Thập Hạnh.

Trên đây là một thuyết giảng tức là tất cả thuyết giảng, tổng quát trình bày về phần Thuyết giảng, xong.

Từ đây trở xuống là phần sáu trình bày về phần Chứng thành, trong đó có hai: Đầu là trình bày về Chứng ở xứ này, sau là trình bày về Chứng ở tất cả các xứ.

Trong phần đầu có bốn: Một là trình bày về Bồ-tát đến quy tụ; hai là ca ngợi về pháp đã thuyết giảng; ba là đều đưa ra sự việc về Chứng; bốn từ “Thị cố…” trở xuống là thuật lại ý thành tựu về Chứng.

Hỏi: Đã nhờ vào hành pháp viên dung khiến cho chư Phật và thế giới của Bồ-tát ấy cùng tên gọi Công Đức, vì sao Phật ở nơi này và thế giới không gọi là Công Đức?

Đáp: Trong kinh này tất cả thụ động Chứng thảy đều như nhau là Phật Lô-xá-na, thế giới như nhau là Ta-bà thuộc Hoa Tạng, Bồ-tát thuyết pháp ấy tức là từ pháp mà được tên gọi; tất cả chủ động Chứng tất nhiên cùng tên gọi của pháp, bởi vì chủ-bạn khác nhau. Nếu ở nơi này hướng về nơi kia thì nơi này là chủ động Chứng, tức là tên gọi nơi này giống như nơi kia, tên gọi nơi kia giống như nơi này, quả là trong kinh này quán xét thể lệ rộng lớn đến mức trở thành như vậy.

Trên đây là mười phương đều có mười vạn quốc độ cùng thuyết về Thập Hạnh, toàn bộ thuộc về bạn của một chủ này, hãy còn tự mình không phải là chủ thâu nhiếp mười phương, vì vậy về sau lại kết hợp với mười phương, trình bày về tất cả các xứ cùng Chứng.

Trên đây là một Chứng thì tất cả đều Chứng, tổng quát trình bày về phần Chứng Thuyết, xong.

Trong phần bảy là phần Trùng tụng, có hai: Trước là thuật về ý, sau là chính thức tụng. Trong phần trước, câu riêng biệt có mười: 1) Quán sát mười phương hiển bày về cùng thuyết giảng; 2) Từ “Quán quyến thuộc linh đồng văn…” trở xuống là chính thức hiển bày về ý thuyết giảng; 3) Vì làm cho quả tiếp nối; 4) Vì làm cho nhân thanh tịnh; 5) Nguyện kiên cố; 6) Hạnh nối tiếp. Trên đây là Tự phần. 7) Thắng tiến thâu nhiếp Phật. Trên đây là đức thuộc Tự phần, sau là trình bày về Lợi tha. 8) Thuyết về Thập Hạnh do thiện căn sai biệt của chúng sinh, khiến cho chúng sinh luyện tập học hỏi; 9) Tùy theo căn khí trao cho pháp; 10) Tổng quát để kết luận. Những câu trên đều dựa theo phần Nhân mà nói, cho nên cùng gọi là Chủng, lại vốn là phần vị của chủng tánh.

Trong phần chính thức trùng tụng, bảy chữ-năm chữ trong Phạm bản không có sai khác, đều dùng bốn câu làm một tụng, tổng cọng có 101 kệ mà thôi. Trong này, kệ tụng cùng với trường hàng trước đây có trạng thái văn không như nhau, sơ lược luận về năm trường hợp:

1. Trước thì dựa theo phần vị từ đầu đến cuối trải rộng ra mà nói, nay thì tụ lại dung hòa với trước mà nói khiến cho không còn đầu cuối, vì vậy trong mỗi một hạnh có đủ tất cả các hạnh.

2. Trước dựa theo hành riêng biệt, ở đây trình bày về hành rộng khắp, bởi vì hai văn rộng khắp và riêng biệt vô ngại hiển bày lẫn nhau.

3. Trước chỉ dựa theo nhân, ở đây gồm chung hành của quả, bởi vì nhân quả viên dung là pháp môn Pháp giới của hạnh này.

4. Trước dựa theo Đồng giáo thâu nhiếp căn bậc Trung ấy, nay hiển bày về Biệt giáo phủ khắp căn thông hiểu bậc Thượng này, bởi vì Đồng-Biệt vô ngại vốn là một Viên giáo.

5. Trước dựa theo biện tài không xen tạp, ở đây dựa theo biện tài tùy ý, thuyết giảng không cần thứ tự, ngôn từ không gián đoạn.

Trong văn có hai: Một, Có năm kệ ca ngợi công đức của Phật khiến cho người nguyện cầu; Hai, Từ “Thập phương nhất thiết…” trở xuống là tụng về hạnh của Bồ-tát khiến cho người luyện tập học hỏi, hiển bày trong phần vị này vốn có đủ hai hạnh thuộc nhân quả. Lại là do Phật gia hộ mà thuyết giảng, cho nên trước là ca ngợi Phật do hạnh mà thuyết giảng, sau là tụng về hạnh.

Trong phần một có hai:

1. Hai tụng ca ngợi Phật Lô-xá-na, vốn là Hóa chủ nơi này. Trong đó đầu là một kệ ca ngợi về trí Vô cấu-Vô quái ngại của Phật; tiếp là hai câu ca ngợi về đức thù thắng rộng lớn của Phật; sau cuối là hai câu ca ngợi Phật chứng hạnh tròn vẹn thanh tịnh.

2. Ca ngợi chư Phật mười phương, bởi vì là giúp đỡ gia hộ. Trong đó đầu là một kệ hiển bày về quả đầy đủ hai trang nghiêm, nghĩa là Giải chân thật-Tuệ sâu xa, phước thù thắng không gì sánh bằng, quả đầy đủ nhanh chóng đến cùng; tiếp là một kệ về Bi chân thật làm lợi ích rộng rãi; sau cùng là một kệ hiển bày về Trí đức và Đoạn đức bằng nhau.

Trong phần hai là tụng về hạnh của Bồ-tát, có ba: 1) Sáu kệ bảy chữ tụng về hạnh nghiệp không nghĩ bàn, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không trong phần Căn bản trước đây; 2) Từ “Cú cú quảng phân biệt…” trở xuống tụng về Thập Hạnh sai biệt trong phần Thuyết giảng trước đây; 3) Bốn kệ cuối cùng là kết luận ca ngợi hiển bày về thù thắng.

Trong phần một là sáu kệ hiển bày về sáu loại hạnh nghiệp đều không thể nghĩ bàn: Một kệ đầu là hạnh về thấy Phật lìa xa hư vọng; hai là hạnh về thấy lý thành tựu đức; ba là hạnh về không dụng công rộng lớn; bốn là hạnh về Tịch-Dụng vô ngại; năm là hạnh về Nguyện kiên cố tôn quý thù thắng; sáu là hạnh về thâu nhiếp phần vị nhiều môn hạnh; đều là một kệ tụng hiển bày có thể biết.

Trong phần hai là tụng về mười hạnh trước đây: Đầu là một kệ tổng quát nói về mười hạnh. Sau là trong hiển bày riêng biệt:

Thứ nhất có sáu kệ tụng về hạnh Hoan Hỷ, trong đó: Đầu là ba kệ về Vô úy thí, một là lìa bỏ giết hại làm lợi ích cho chúng sinh, hai là cứu giúp nghèo khổ khiến cho yên vui, ba là lời nói và ý nghĩ chịu đựng phiền muộn. Tiếp là hai kệ về Pháp thí, một là suy xét nghĩa lý, hai là giảng giải khuyên dạy. Sau là một kệ về Tài thí. Trăm phước, trong kinh Niết Bàn nói: “Năm phẩm Hạ-Trung-Thượng-Thượng Trung-Thượng Thượng trong tâm đều tu mười thiện, thì trở thành 50, bắt đầu tu là 50, tu đến cuối cùng cũng như vậy, cho nên có 100 phước, 100 phước trang nghiêm một tướng.”

Thứ hai từ “Thiện nhập…” trở xuống có năm kệ tụng về hạnh nhiêu ích, trong đó: Đầu là 1 kệ tụng về Luật nghi giới, đó là lỗi lầm không thể nào lay động. Tiếp là hai kệ tụng về Nhiếp thiện pháp giới, một là thuận theo pháp hành, hai là lìa xa hai hành. Tiếp là một kệ rưỡi tụng về Nhiếp chúng sinh giới, một là nơi giáo hóa, nửa kệ là hạnh giáo hóa. Sau cuối là nửa kệ tổng quát kết luận về ba Tụ.

Thứ ba từ “Trí tuệ bất khả lượng…” trở xuống có bốn kệ tụng về hạnh không sân hận, trong đó: Đầu là một kệ về Nhẫn nại tư duy pháp hiểu biết thù thắng. Tiếp là hai kệ về Nhẫn nại yên tâm chịu đựng khổ sở, đó là lúc tự mình tu hành có những khổ đau có thể chịu được; một là Nhẫn nại nỗi khổ của tâm, nửa kệ trước nêu ra pháp đã tu, tâm không lười nhác là trình bày về Nhẫn nại làm cho tâm yên ổn; hai là Nhẫn nại nỗi khổ của thân, cũng nửa kệ trước nêu ra pháp đã tu, thân thực hành không trở ngại là trình bày về Nhẫn nại làm cho thân yên ổn. Tiếp là một kệ về Nhẫn nại người khác không làm lợi ích, nửa kệ trước nêu ra cảnh đã Nhẫn nại, Bồ-tát đều cứu giúp là nêu ra lợi ích trở thành có hại chính thức trình bày về có năng lực Nhẫn nại.

Thứ tư từ “Tu tập Phật pháp…” trở xuống có năm kệ tụng về hạnh Vô tận, trong đó: Đầu là hai kệ về Gia hạnh tinh tiến, một là tụng về mười câu như chịu khó tu tinh tiến… trước đây, hai là tụng về muốn biết rõ Căn-Dục-Tánh… của chúng sinh cho nên tu hành tinh tiến trước đây. Tiếp là một kệ về Bị giáp tinh tiến, tụng về vì chúng sinh nhận chịu khổ đau của địa ngục… trước đây. Sau là hai kệ về Vô yếm túc tinh tiến, một là ánh sáng trí tuệ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, hai là thần lực thường làm lợi ích cho chúng sinh mà không hề đầy đủ.

Thứ năm “Thiện giải…” trở xuống có hai kệ tụng về hạnh lìa xa si loạn, trong đó: Đầu là một kệ về Hiện pháp lạc trú thiền, nửa kệ trước là gia hạnh, tụng về phân biệt sắc pháp thế gian trước đây, như kinh luận…; nửa kệ sau là trú trong Định trình bày về Tuệ làm sáng tỏ lìa xa ngu si, không lay động là hiển bày về lìa xa tán loạn. Sau là một kệ dẫn đến công đức của thiền, Vô tận địa là tụng về nghe và tiếp nhận Chánh pháp cho đến nhiều kiếp không lui sụt quên mất… trước đây.

Thứ sáu từ “Vô lượng…” trở xuống có hai kệ tụng về hạnh Thiện hiện, trước là Chánh Thể của gia hạnh lược qua không tụng; trong Hậu đắc trí, một là Đại Trí thuộc Tự hành tụng về nhưng cũng không rời bỏ tâm Bồ-đề… trước đây, hai là Đại Bi thuộc Lợi tha tụng về không rời bỏ giáo hóa chúng sinh tăng thêm Đại Từ… trước đây.

Thứ bảy từ “Phật cam lộ…” trở xuống có bốn kệ tụng về hạnh Vô trước, trong đó: Đầu là một kệ tụng về được thật sự thọ ký trước đây, bởi vì Phương tiện độ đầy đủ trong này, cho nên nói là cứu cánh. Tiếp là một kệ tụng về Bi niệm chúng sinh… trước đây. Sau là hai kệ tụng về tâm không đắm trước đối với ngôn ngữ đạo lý trước đây.

Thứ tám từ “An trú…” trở xuống có tám kệ tụng về hạnh Tôn trọng, trong đó: Đầu là một kệ tụng về hiểu sâu xa Pháp giới trú-Vô tướng trú trước đây; tiếp là một kệ tụng về ở vô lượng kiếp thực hành Bồ-tát đạo không nghĩ đến những khổ đau mà sinh tâm lo buồn… trước đây; tiếp là hai kệ về dùng ánh mắt rộng khắp thấy Phật, cũng là tụng về giống như chư Phật ba đời… trước đây; tiếp là một kệ về giải thoát nhanh chậm, là Giải thoát Bất tư nghị cũng được, tụng về không phải là cứu cánh-không phải là không cứu cánh… trước đây; tiếp là một kệ tụng về nếu có chúng sinh nào thấy nghe cung kính thì đều được an trú không thối chuyển… trước đây; tiếp là một kệ tụng về tâm thường yêu thích diệu pháp của chư Phật trước đây; sau cuối là 1 kệ tụng về không lìa xa một chúng sinh-đắm theo nhiều chúng sinh… trước đây.

Thứ chín từ “Cụ túc trí…” trở xuống có ba kệ tụng về hạnh Thiện pháp, trong đó: Đầu là một kệ tụng về Trì thành tựu hồ pháp trong lành…; tiếp là một kệ tụng về Thuyết và Vấn đáp thành tựu…; sau cuối là một kệ dựa vào Định hiện thân tụng về thân sắc vàng ròng và mười thân… trước đây.

Thứ mười từ “Cứu cánh…” trở xuống có kệ tụng về hạnh Chân thật trước đây, trong đó phân năm:

Một, Có ba kệ tụng về tổng quát, đầu là một kệ về Nhẫn trí vượt qua tất cả; tiếp là hai kệ về thân-độ vô ngại, một kệ về Như ý thông, một kệ về Huyễn thông.

Hai, Có bảy kệ tụng về lời nói và việc làm tương ưng trước đây, trong đó: Đầu là ba kệ tụng về Trí của Thập Lực đã thành tựu, tiếp là một kệ tụng về lời nói và việc làm đích thực không hư dối, sau là ba kệ tụng về tiến vào Phật tánh ba đời và thiện căn…

Ba, Từ “Thâm nhập trí hải…” trở xuống có 12 kệ tụng về dựa vào lời thề phát khởi thực hành, như lời nói thâu nhiếp chúng sinh trước đây. Văn trên tóm lược, trong này mở rộng. Trong đó: Đầu là ba kệ trao cho pháp nhãn-pháp vũ; tiếp là hai kệ về Tín kiên cố biết tâm giáo hóa; tiếp từ “Bất tư…” trở xuống là bốn kệ hiển bày về ba nghiệp tự tại giáo hóa; tiếp là hai kệ về biết căn trao cho pháp; sau cuối là một kệ kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng.

Bốn, Từ “Bỉ trí vô dữ đẳng…” trở xuống có chín kệ tụng về nhân đã thành tựu đức đầy đủ trước đây, trong đó: Đầu là bốn kệ về hai trang nghiêm-hai Lợi đầy đủ; sau là năm kệ về ba nghiệp-hai Dụng cao nhất, một là thân, hai là ý, ba là ngữ, bốn là Dụng của thân, năm là Dụng của ngữ dụng. Như thứ tự nên biết, văn trên đây là Nghĩa thân-Vị thân không thể cùng tận của Bồ-tát này.

Năm, Từ “Tu tập Phật giải thoát…” trở xuống có 15 kệ tụng về đức của quả Phật đã thành tựu trước đây, trong đó có hai: Đầu là bảy kệ riêng biệt tụng về văn trên; sau là tám kệ gồm chung tụng về đức ấy.

Trong phần đầu: Đầu là một kệ tụng về thành tựu Vô ngại giải thoát-Vô úy hùng mạnh giữa loài người… của Như Lai trước đây; tiếp là một kệ tụng về đoạn tuyệt dòng chảy sinh tử, hòa vào biển trí tuệ, làm lợi ích cho chúng sinh…; tiếp ba kệ về tám tướng luôn luôn vắng lặng là tụng về tận cùng biển rộng phương tiện của chư Phật trước đây; tiếp là một kệ tụng về quán sát không hai nơi… trước đây; tiếp là một kệ tụng

70 về bảo vệ Chánh pháp của ba đời chư Phật trước đây.

Trong phần sau gồm chung tụng về đức của hạnh này, trong đó có tám kệ: Đầu là bốn kệ về hai Lợi thành tựu đầy đủ đức, trong ba kệ trước về Tự lợi, đầu là một kệ ca ngợi về Sắc căn thù thắng, chỉ ca ngợi về mắt-tai và thân, bởi vì là tánh chung mà không bàn đến mũilưỡi; tiếp là hai kệ ca ngợi về tâm thù thắng, một kệ về Tuệ, một kệ về Định; lại kệ đầu ca ngợi chung là ca ngợi về trí, kệ sau ca ngợi về Định-ca ngợi về Tuệ. Sau cuối là một kệ về Lợi tha. Tiếp từ “Nhất thiết tri kiến…” trở xuống là bốn kệ về đức thù thắng của ba nghiệp, một là nơi sinh thù thắng, hai là ngôn tự biện tài thù thắng, ba là ánh sáng nơi thân thù thắng, bốn là ứng với cơ thù thắng.

Trong phần ba là bốn kệ cuối cùng tổng quát kết luận về Thập Hạnh, ca ngợi để hiển bày về thù thắng, có thể biết.

Phẩm 18: THẬP VÔ TẬN TẠNG

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Nêu ra người phân biệt với pháp cho nên nói là Thập Tạng của Bồ-tát; không phải là người và pháp kết lợp làm đề mục, nghĩa là mười loại này là pháp đã thực hành của các Bồtát. Thập Tạng của Bồ-tát, là dựa vào chủ mà lập thành tên gọi.

Một, Dựa vào số tròn vẹn đầy đủ thì nói là Thập, hàm chứa thâu nhiếp tích tụ sinh ra gọi là Tạng, trong mỗi một Tạng này hàm chứa Thể của pháp giới không có phạm vi giới hạn, cho nên nói là Vô Tận.

Hai, Mỗi một Tạng đều thâu nhiếp tất cả hành tướng, cho nên nói là Vô Tận. Ba-Mỗi một Tạng đều có thể sinh ra quả đức không hề có cạn hết, cho nên nói là Vô Tận. Vô Tận tức là Tạng, là Trì nghiệp thích. Dựa theo mười Đới số, Bồ-tát là Y chủ thích, ba cách giải thích có thể biết.

B. Ý ĐƯA RA có năm nghĩa:

1. Bởi vì giải đáp câu hỏi về Thập Tạng ở Phổ Quang Đường.

2. Trước đây trình bày về Chánh vị, nay dựa vào phần vị phát khởi thực hành, giống như phẩm Phạm Hạnh ở phần trên.

3. Trước đây trình bày dựa theo hạnh riêng biệt của phần vị, nay phân rõ tất cả hạnh từ đầu đến cuối.

4. Trước đây thành lập phần vị của hành, nay phân rõ đối trị làm cho hành ấy thanh tịnh, giống với Thập Hạnh như Tín… ở Thập Địa.

5. Trước đây là Tự phần cứu cánh, nay Thắng tiến hướng về sau, giống như phẩm Minh Pháp ở phần trên, dựa theo câu hỏi nên ở sau Hồi Hướng. Nay ở đây phân rõ thì Tạng chỉ có hai nghĩa, dựa theo nghĩa về tích lũy thì ở sau Thập Hạnh, dựa theo nghĩa về sinh ra thì ở sau Hồi Hướng, nghĩa gồm chung hai nơi, hỏi đáp hiển bày lẫn nhau.

C. TRONG TÔNG đưa ra hai môn: Một- Phân rõ chung về nghĩa của Tạng, hoặc một giống như một pháp giới Tạng; hoặc hai đó là ĐạiTiểu; hoặc ba đó là Khế kinh… cùng với Tam thừa…; hoặc bốn là thêm Tạp Tạng; hoặc năm đó là Danh Tướng…; hoặc sáu đó là Đại-Tiểu đều có ba; hoặc chín đó là Độc giác cũng có ba; hoặc mười như phẩm Ly Thế Gian sau này; hoặc vô tận như phẩm này. Hai- Riêng biệt hiển bày về Tông này, thì trong này chính là mười loại hành pháp bao gồm trọn vẹn trước sau, đầy đủ hành đức pháp giới Phổ Hiền làm Tông của Phẩm này.

D. TRONG GIẢI THÍCH VĂN, tất cả văn và nghĩa tổng quát đưa ra sáu môn: Một, Nêu ra số lượng; Hai, Giải thích tên gọi; Ba, Thể tánh; Bốn, Thâu nhiếp hạnh; Năm, Giải thích về tướng; Sáu, Kết luận ca ngợi.

Một, Trong phần một: Công Đức Lâm thuyết giảng bởi vì vốn là Hội chủ, lại vốn là biểu thị cho kiến lập về các đức của hành pháp này. Ba đời cùng thuyết giảng, nghĩa là Phật xuất hiện tuy khác mà cùng thuyết giảng về Thập Tạng, hiển bày về mười loại hạnh của pháp giới này, như đường đi của Đại Vương, ba đời không có gì thay đổi, cho nên nói là cùng thuyết giảng.

Hai, Giải thích tên gọi: Tên gọi tổng quát như trước. Trong riêng biệt: Một, Tín là đối với Thật đức có năng lực nhẫn nại sâu sắc, mong muốn vui với tâm thanh tịnh là tánh; đối trị không tin, vui với thiện là nghiệp. Vì vậy hàm chứa thâu nhiếp sinh ra các đức, cho nên gọi là Tạng, là Trì nghiệp thích. Xuống dưới đều giống như vậy. Hai, phòng ngừa điều sai trái gọi là Giới, ba nghiệp thiện là tánh; ngăn điều ác làm điều thiện là nghiệp. Ba, Tàm là dựa vào lực của tự pháp, kính trọng Hiền thiện là tánh; đối trị Vô tàm, chấm dứt làm ác là nghiệp. Bốn, Quý là dựa vào lực của thế gian, dễ dàng cự tuyệt bạo ác là tánh; đối trị Vô quý, chấm dứt làm ác là nghiệp. Năm, nuôi dạy học rộng biết nhiều, Văn Tuệ là tánh; thông minh nhanh nhạy là nghiệp. Sáu, bỏ của mình giúp cho người, không tham lam suy nghĩ là tánh; phá bỏ keo kiệt là nghiệp. Bảy, Tuệ là đối với cảnh sở quán, chọn lựa là tánh; đoạn trừ nghi ngờ là nghiệp. Tám, Niệm là đối với cảnh đã từng luyện tập, khiến cho tâm ghi nhớ rõ ràng không sai lạc là tánh, Định dựa vào là nghiệp. Chín, Trì là do duy trì giữ gìn mà ghi nhớ, Niệm Tuệ là tánh; trải qua thời gian dài không quên là nghiệp. Mười, Biện là khéo léo nói ra điều đã duy trì, lấy Tuệ làm tánh; tùy theo căn cơ là nghiệp. Trong mười loại trên đây, Tín-Tàm-Quý-Niệm-Tuệ, năm loại này đều ngay nơi Thể mà được tên gọi, năm loại còn lại thuận theo công năng mà được tên gọi, đó là Giới-Thí lấy Dụng của Hành mà lập thành tên gọi, Văn-Trì-Biện lấy Dụng của Trí làm tên gọi.

Ba, Trong Thể tánh có hai môn: 1) Dựa theo Tướng, Tín-TàmQuý là ba pháp trong 11 pháp thiện đều ngay nơi tự Thể làm tánh, Niệm-Tuệ là hai pháp trong năm biệt cảnh cũng ngay nơi tự Thể làm tánh, Giới lấy Tư thiện của ba nghiệp và Biểu-Vô biểu làm tánh, Thí lấy Tư tương ưng với Vô tham làm tánh, dựa vào Trí Luận thì Trì lấy Định-Tuệ làm tánh, hai loại Văn-Biện đều lấy Dụng của Tuệ làm tánh. 2) Dựa theo Dung thông thì toàn bộ là hạnh của một pháp giới, tùy theo nghĩa nói thành mười: Một là nghĩa về tánh pháp giới tự lắng trong như Thanh Thủy châu. Hai là nghĩa về tánh pháp giới tự lìa xa lỗi lầm. Ba và bốn đều là nghĩa về tánh pháp giới có năng lực diệt trừ lỗi lầm. Năm là nghĩa về pháp giới thâu nhiếp đức rộng nhiều. Sáu là nghĩa về tự tánh pháp giới buông xả. Bảy là nghĩa về tự tánh pháp giới hiểu biết thông suốt. Tám là nghĩa về tự tánh pháp giới soi chiếu rõ ràng. Chín là nghĩa về tự Thể pháp giới tùy ý duy trì. Mười là nghĩa về pháp giới tùy duyên ứng cơ. Vì thế cho nên một pháp giới là tánh.

Bốn- Thâu nhiếp hạnh đưa ra bảy môn:

1. Dựa theo Tự lợi-Lợi tha để phân biệt: Luận riêng biệt thì chín loại trước là Tự lợi, một loại sau là Lợi tha; luận tổng quát thì đều có đủ hai hạnh.

2. Dựa theo căn bản-đầu ngọn để phân biệt: Một loại đầu là hạnh căn bản, cho nên trước đây nói Tín là căn bản của đạo, mẹ của công đức…, còn lại đều dựa vào mà thành tựu vốn là đầu ngọn.

3. Dựa theo Chánh-Trợ để phân biệt: Tuệ là Chánh, còn lại là Trợ.

4. Dựa theo giúp đỡ-dẫn dắt để phân biệt: Tuệ là có năng lực dẫn dắt, còn lại là thụ động được dẫn dắt; còn lại là có năng lực giúp đỡ, Tuệ là thụ động để giúp đỡ.

5. Dựa theo tài sản-canh giữ để phân biệt: Bảy loại trước tức là bảy Thánh tài, do Niệm-Trì canh giữ bảo vệ khiến cho không tổn thất, do Biện mua bán khiến cho được tăng trưởng.

6. Dựa theo hành tướng để phân biệt: Bốn loại trước là hạnh lìa xa lỗi lầm, một là căn bản, hai là phòng ngừa lỗi lầm chưa khởi lên, ba và bốn là diệt hết lỗi lầm đã khởi lên; sáu loại còn lại là hạnh tu tập pháp thiện, Văn là bắt đầu tu, Thí-Tuệ là tiếp tục tu, sáu Độ là đều tu, nêu ra loại đầu-nêu ra loại sau, những loại trung gian có thể biết. Ba loại sau là tu đến cuối cùng, hai loại đầu là Tự thuần thục, một loại sau là Hóa tha.

7. Dựa theo thứ tự sinh khởi để phân biệt: Tín là ban đầu tiến vào pháp, cho nên trước phải phân rõ. Dựa vào Tín khởi Hạnh, lìa xa lỗi lầm là trước tiên, cho nên tiếp theo trình bày về Giới. Giới hoặc có phạm vào thì sinh tâm Tàm-Quý sâu sắc, trang nghiêm giới hạnh khiến cho sáng ngời, vì thế nói là có hai pháp thiện có thể cứu giúp lỗi lầm của chúng sinh. Đã phòng ngừa lìa xa mong mỏi tăng thêm phẩm thiện, thì cần phải lấy sự nghe rộng biết nhiều làm đầu tiên. Bởi vì mong cầu được nghe, thì cần phải buông xả trong ngoài của mình. Đã quên mình vì pháp, thì chắc chắn Chánh Tuệ hiện rõ trước mắt. Chánh Tuệ đã hiện rõ, thì nhất định Chánh Niệm phải sáng tỏ thêm. Chánh Niệm đã sáng tỏ, thì nhất định ghi nhớ giữ gìn phải làm cho lâu dài. Giữ gìn đã không quên, thì nhất định phải biện luận giảng giải cho người khác, khiến cho Tự lợi-Lợi tha tròn vẹn mới là cứu cánh.

Năm, Trong giải thích về tướng: Giải thích về mười Tạng này tức là mười đoạn.

Ngay trong đoạn thứ nhất là Tạng Tín có bốn, đó là nêu ra-giải thích-kết luận-ca ngợi.

Trong giải thích có hai: Trước là trình bày về tướng tu, sau từ “Thành tựu như thị vô lượng…” trở xuống là trình bày về tu thành tựu. Trong phần trước có ba: Một là trình bày về đối với pháp khởi Tín; hai là trình bày nhờ vào Tín cho nên nghe pháp không sợ hãi; ba từ “Hà dĩ…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ không sợ hãi. Lại giải thích: Đầu là tin về Lý pháp, tiếp là tin về Giáo pháp, sau là tin về Quả pháp.

Trong phần một, Tín có mười pháp, trong đó: Đầu là ba Tín thuộc Sở chấp Vô tướng, Không nghĩa là tình có mà lý không có gọi là Không, Không không có tướng Không gọi là Vô tướng, Vô tướng cho nên không có gì nguyện cầu. Tiếp là ba Tín thuộc Y tha Vô sinh, một là Duyên khởi vô tác, hai là Như huyễn không thật, ba là không có Thể tự giữ lấy. Sau là bốn Tín thuộc Viên thành Vô tánh, một là tánh đức Vô lượng, hai là thù thắng cho nên Vô thượng, ba là sâu xa không thể đến được, bốn là thường không thể sinh ra. Lại trong phần đầu là tất cả pháp, lượng không thể đạt được, trên cũng không thể đạt được tướng trên, văn nói tướng trên không thể đạt được cho nên gọi là Vô thượng; là nói đến nghĩa này.

Trong phần hai là nhờ vào Tín cho nên nghe pháp không sợ hãi, trong đó có mười câu: Đầu là hai câu không sợ hãi đối với pháp thù thắng trên cao, tiếp là bốn câu không sợ hãi đối với pháp rộng nhiều. Thế nào là đã giáo hóa? Đó là chúng sinh giới. Dùng pháp gì để giáo hóa? Đó là pháp giới. Giáo hóa nơi nào? Đó là tận cùng hư không giới. Giáo hóa đưa vào nơi nào? Đó là Niết-bàn giới. Sau cuối là bốn câu không sợ hãi đối với pháp xa rộng, đó là ba đời hòa vào kiếp làm mười đời. Không nghĩ bàn trong mười câu này có hai nghĩa: Một là không hề có gì mà nói là có, vì vậy không phải là có thể có, không có gì có thể nghĩ bàn; hai là mười pháp như vậy đều vô biên vô tận, không phải là trí của phần vị khác có thể biết được, cho nên nói là không nghĩ bàn. Cũng nhờ vào hai Tín cho nên nghe mà không kinh sợ: Một là nhờ vào Tín thông hiểu về lý của ba Tánh-ba Vô tánh, cho nên nghe môn thứ nhất mà không kinh sợ; hai là nhờ vào Tín trí Phật bình đẳng vô lượng vô biên, đây đã là trí Phật nhận biết thì mình cũng tùy theo Tín, cho nên nghe môn thứ hai mà không kinh sợ. Nghĩa thứ nhất như trước hiển bày, nghĩa thứ hai trong giải thích làm sáng tỏ.

Trong phần ba là giải thích: Trước là nêu ra, sau là giải thích.

Trong giải thích, một câu đầu hiển bày về tâm tin Phật kiên cố, câu tiếp trình bày về mười pháp trước đây là do trí Phật nhận biết, cho nên nói là Phật nhận biết như vậy. Cảnh rộng lớn ấy Đức Phật làm sao nhận biết? Bởi vì trí Phật cũng vô tận vô biên như cảnh ấy, cảnh ấy Đức Phật đã nhận biết, Bồ-tát tin theo Phật cho nên không kinh sợ.

Từ “Thập phương…” trở xuống giải thích về trí Phật là nguyên cớ đáng tin: Một là Đại Dụng không hư rỗng cho nên đáng tin; hai từ “Bỉ chư Phật…” trở xuống trình bày về Thể không có thêm bớt cho nên đáng tin. Trong đó có mười pháp hay không? Văn này hiển bày về trí Phật không phải là pháp sinh diệt giống như vô vi.

Trong phần sau là tu thành tựu Tướng, có hai: Một, một câu tổng quát về nương theo Như Lai thừa hướng đến quả Phật. Hai, trong riêng biệt hiển bày có hai: Trước là thành tựu Thể của hành có tám câu: 1) Xứng với Tín cho nên vô biên, 2) Thể kiên cố không lui sụt, 3) Tín không xen tạp cho nên gọi là không rối loạn, 4) Duyên không có thể ngăn cản, 5) Tín sâu sắc lìa xa tướng, 6) Tín từ Tuệ phát khởi. Kinh Niết Bàn nói từ Văn Tuệ phát sinh. Lại nữa, Tín có Tuệ gọi là có căn, Tín mà không có Tuệ thì lớn thêm Vô minh, Tuệ mà không có Tín thì lớn thêm Tà kiến, cho nên Tín và Tuệ đầy đủ thì mới có thể tiến vào pháp. Lương Nhiếp Luận quyển thứ 11 nói: “Bởi vì Bồ-tát tự chứng về Thí cho nên thực hành về Thí, không bởi vì tin theo người khác mà thực hành về Thí. Tín trước có căn cho nên trở thành Tín, Tín sau không có căn cho nên không trở thành Tín.” 7) Thuận theo giống như Cổ Thánh, 8) Pháp của gia nghiệp vốn như vậy.

Sau là hiển bày công năng của hạnh, có bốn câu: 1) Có năng lực bảo vệ Chánh pháp; 2) Có năng lực tăng thêm về nhân; 3) Có năng lực thuận theo quả; 4) Đức từ Phật sinh ra.

Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận. Từ “Trú thử…” trở xuống là ca ngợi có hai Lợi, có thể biết.

Trong đoạn thứ hai là Tạng Giới có ba, đó là nêu ra-giải thích-kết luận.

Trong giải thích có hai: Trước là đưa ra mười chương, sau là nhắc

lại từng chương một để mở rộng giải thích.

Quang Thống nói: “Một chương đầu là Nhiếp chúng sinh giới, tám chương tiếp là Nhiếp thiện pháp giới, một chương sau là Luật nghi giới.”

Lại trong chương thứ hai, không thọ các giới quạ gà nai chó… của ngoại đạo.

Trong chương thứ tư, bởi vì trước không phạm cho nên sau không có nghi ngờ hối hận. Dựa theo văn này, tựa như người cố tình phạm tất cả giới, xưa kia đã từng gây ra năm tội nghịch mà đến, đó là tập khí ác của họ.

Lại kinh Niết Bàn nói: “Vì sao trì giới? Bởi vì không hối hận. Vì sao không hối hận? Bởi vì hoan hỷ. Vì sao hoan hỷ? Bởi vì vui thích, cho đến bỏi vì đạt được Đại Niết-bàn.”

Trong chương thứ năm, không ăn bơ-muối… bởi vì trải qua tạo lập; lại đoạn tuyệt gạo mè chỉ nuốt không khí… đều là pháp của ngoại đạo chế lập.

Trong chương thứ bảy, nếu dùng Đoạn kiến-Thường kiến để trì giới, thì tức là xen tạp Vô minh, cho nên gọi là phạm giới.

Trong chương thứ tám, tà mạng hoặc có bốn loại: Một là Phương khẩu thực, hai là Ngưỡng khẩu thực, ba là Duy khẩu thực, bốn là Hạ khẩu thực.

Lại luận Thập Trú quyển thứ 2 nói: “Thế nào gọi là năm pháp tà mạng? Một là cố ý làm khác người, hai là tự mình gần gũi, ba là làm cho xao động, bốn là ghìm xuống nâng lên, năm là dựa vào lợi mong cầu lợi.

Một là cố ý làm khác người, có người bởi vì tham cầu lợi dưỡng, cho nên hoặc ở chốn A-luyện-nhã, hoặc mặc nạp y, hoặc thường khất thực, hoặc một lần ngồi ăn, hoặc thường ngồi, hoặc sau bữa trưa không uống nước đặc, thọ những hạnh Đầu-đà như vậy, dấy lên nghĩ rằng: Người khác thực hành những hạnh này được cung kính cúng dường, mình thực hành những hạnh này có lẽ cũng được điều đó. Bởi vì lợi dưỡng cho nên thay đổi oai nghi, gọi là cố ý làm khác người.

Hai là tự mình gần gũi, có người vì tham lợi dưỡng mà đến nhà Đàn việt nói rằng: Như cha mẹ-anh chị em-thân thích của tôi không khác, nếu có cần thiết thì tôi có thể qua lại với nhau, nếu có việc làm thì tôi làm cho, tôi không kể xa gần có thể đến thăm hỏi, tôi ở đây là vì tướng chính đáng mà thôi. Bởi vì tham cầu cúng dường, đắm theo Đàn việt, mà luôn luôn dùng lời nói hoa mỹ dắt dẫn tâm người, như vậy đều gọi là tự mình gần gũi.

Ba là làm cho xao động, có người không nghĩ đến tội lỗi của tham, mong muốn có được tiền bạc đồ vật, dấy lên ý tưởng có được đồ vật mà nói như vậy: Bình bát này đẹp, hoặc y phục đẹp, hoặc móc cửa đẹp, hoặc tọa cụ đẹp, nếu mình có được thì có thể thọ dụng. Lại nói tùy ý có thể giúp cho. Người này khó có được, lại đến nhà Đàn việt nói ra lời này: Nhà ông cơm canh bánh thịt thơm ngon, y phục lại đẹp, nên cúng dường cho tôi. Mình vì gần gũi đã lâu, chắc chắn sẽ được cho. Hiện bày rõ ràng tướng tham như vậy, thì gọi là làm cho xao động.

Bốn là ghìm xuống nâng lên, có người vì tham lợi dưỡng cho nên nói với Đàn việt rằng: Ông thật là keo kiệt, hãy còn không thể nào giúp cho cha mẹ-anh chị em-vợ con thân thích của mình, thì ai có thể có được đồ vật của ông? Đàn việt hổ thẹn vội vàng đem cho. Lại đến nhà khác nói ra lời này: Ông có phước đức có được thân người không trống rỗng, A-la-hán thường ra vào nhà ông, cùng đứng ngồi trò chuyện với ông. Dấy lên ý nghĩ này, Đàn việt hoặc sinh khởi tâm này: Lại không có người nào khác ra vào nhà mình. Nhất định nói là chính mình. Đây gọi là ghìm xuống nâng lên.

Năm là dựa vào lợi mong cầu lợi, có người lấy đồ vật sinh hoạt được giúp đỡ như bình bát, y Tăng-già-lê hoặc là tọa cụ…, mang ra chỉ rõ nói với người: Như vua chúa quan lại và những người cao quý cho tôi vật này. Dấy lên nghĩ rằng: Đàn việt hoặc có thể sinh tâm, vua chúa quan lại và những người cao quý kia hãy còn có thể cúng dường, huống gì là mình mà không tặng cho người này hay sao? Dựa vào lợi này lại cầu lợi khác, cho nên nói là dựa vào lợi mong cầu lợi.”

Trong chương thứ chín, kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu thấy người phá giới thì không nói lỗi lầm xấu ác của họ, nên nghĩ rằng người ấy về lâu dài cũng đạt được đạo.

Hỏi: Kinh Niết Bàn nói: “Thấy người phá giới thì cần phải trách mắng đuổi ra ngoài trú xứ, nên biết người này có được phước vô lượng.” Văn này vì sao lại che chở không trách mắng, lẽ nào là vì thâu nhiếp chúng sinh?

Đáp: Kinh ấy dựa theo tâm Từ trách mắng khiến cho ăn năn hối lỗi, bởi vì căn khí thuần thục; văn này dựa theo che chở người ấy, sợ rằng lại tăng thêm tâm ác, bởi vì căn chưa thuần thục. Văn còn lại có thể biết.

Đoạn thứ ba-thứ tư là Tạng Tàm-Tạng Quý, kinh Niết Bàn nói: “Tàm là thẹn với trời, Quý là thẹn với người; Tàm là tự mình không làm ác, Quý là không dạy người khác làm ác; Tàm là bên trong tự mình hổ thẹn, Quý là hướng về người mà bày tỏ lỗi lầm.” Lại luận Câu Xá nói: “Vô tàm là nếu bị người thiện trách mắng, ở trong đó không thấy sợ hãi, thì gọi là Vô tàm; Vô tu là không tôn trọng đối với công đức và người có công đức, tâm không có kính sợ, gọi là Vô tu.” Vô tu ấy là Vô quý. Kinh Bộ nói: “Quán xét tự thân do lỗi lầm không hổ thẹn gọi là Vô tu, quán xét thân khác do lỗi lầm không hổ thẹn gọi là Vô tàm.” Lại luận Du Già-Đối Pháp-Duy Thức v.v…

Trong Tạng Tàm giải thích có ba: Một, nghĩ đến lỗi lầm Vô tàm của mình và người xưa kia, trong đó trước là mình-sau là người, lục thân đó là cha mẹ-anh em-vợ con là sáu. Hai, từ “Tự duy…” trở xuống là nêu ra lỗi lầm tự nhắc nhủ mình. Ba, từ “Thị cố…” trở xuống là đích thực tu tập hạnh Tàm. Trong Tạng Quý có ba nghĩa, giống như Tàm có thể biết.

Đoạn thứ năm là Tạng Đa Văn, trong giải thích có hai: Trước là pháp đã học, sau từ “Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về ý của Học.

Trong phần trước cũng có hai: Trước là đưa ra mười chương, sau là lần lượt giải thích.

Trong mười chương, bốn chương đầu dựa theo 12 duyên sinh (tra tìm trong Du-già), lý thật thì xuất thế gian cũng có lúc không có giữ lấy năm uẩn, nay thì giữ lấy uẩn tích tập gánh nặng của khổ, cho nên là thế gian. Lại dựa theo Tiểu thừa cũng được. Lại năm phần Pháp thân vượt qua năm uẩn trước đây, cho nên là xuất thế. Lại lý thật thì hữu vi trải qua tất cả phần vị khác, nay giữ lấy ba cõi và chúng sinh đều là việc làm của hoặc nghiệp, cho nên là hữu vi.

Ở trong pháp Vô vi: 1) Khai hợp, hoặc chỉ nói là ba, đó là Hư không-Trạch diệt và Phi trạch diệt, đây là dựa theo Tiểu thừa. Hoặc nói là bốn, thêm vào Chân như, như luận Chưởng Trân nói. Hoặc nói là sáu, thêm vào Bất động…, là Thiền thứ tư và Diệt định, như luận Bách Pháp… nói. Hai loại này dựa theo Sơ giáo ban đầu mà nói. Hoặc nói là tám, ở trong Chân như tách ra Chân như thuộc pháp thiện, Chân như thuộc pháp bất thiện, Chân như thuộc pháp vô kí, như Du Già-Đối Pháp nói. Đây là dựa theo Sơ giáo cuối cùng mà nói. Trong bốn loại, Trạch diệt có hai nghĩa: Một, diệt trừ Hoặc chướng gọi là Trạch diệt; hai, diệt trừ Định chướng gọi là Bất động và Diệt định, vì thế cho nên tổng quát thâu nhiếp ở trong Trạch diệt. Trong tám loại, bởi vì muốn dần dần mở rộng tất cả pháp đều là Chân như, cho nên tách ra ba tánh như thiện… để hiển thị về môn giải thích. 2) Giả thật, chỉ riêng Chân như Vô vi là thật, còn lại đều là giả, bởi vì đối với giả mà kiến lập như trên, như luận Phật Địa nói v.v…

Lại trong Chân như cũng có hai: 1) An lập bởi vì là Tướng phần; 2) Không phải là an lập bởi vì không phải là Thức hiện bày. Đầu là giả, sau là thật.

Ba nghĩa chuyển đổi khác nhau thì như sáu Vô vi trong văn này: 1) Sự không có nơi chốn gọi là hư không; 2) Quả của tánh thanh tịnh gọi là Niết-bàn; 3) Do đạo Vô gián thường xuyên đoạn kiết mà đạt được gọi là Số duyên diệt; 4) Duyên khác không khởi lên gọi là Phi số duyên; 5) Mười hai nhân duyên là Vô vi, theo luận Câu Xá-Tăng Kỳ Bộ-Độc Tử Bộ đều nói mười hai nhân duyên là pháp Vô vi, bởi vì Như Lai xuất thế hay không xuất thế thì pháp này vẫn thường trú. Sư thuộc Kinh Bộ phá bỏ như thuyết của bộ phái ấy. Vả lại, Pháp sư Viễn dẫn ra kinh Niết Bàn giải thích, ngay nơi con người luận về ba đời lưu chuyển thì đó là Hữu vi, rời bỏ con người bàn về pháp thì pháp tướng thường xác định, cho nên nói là Vô vi. Như mười hai nhân duyên, Ấm-Giới-Nhập… tất cả đều như vậy, như kinh Niết Bàn nói. Nay giải thích, bởi vì duyên khởi này đều không có tự tánh, đều không có tạo tác, cho nên gọi là Vô vi. Kinh Niết Bàn nói: “Mười hai nhân duyên tức là Phật tánh.” Lại kinh Đại Phẩm nói: “Bồ-tát quán xét mười hai nhân duyên giống như hư không, không thể cùng tận…” 5) Pháp giới là Thể của Như Lai Tạng, thật sự không sinh diệt, cho nên là Vô vi.

Lại đối với một nghĩa về Chân như thiết lập sáu loại này: 1) Nghĩa về Vô tướng; 2) Nghĩa về Sở chứng; 3) Nghĩa về Hoặc không còn; 4) Nghĩa về Tánh thanh tịnh; 5) Nghĩa về Tùy duyên; 6) Nghĩa về Bất biến, cũng là nghĩa về làm nhân.

Trong Hữu ký, bốn Đế… là dựa theo pháp thiện thuận với lý có thể ghi nhớ. Trên đây phần nhiều là pháp Tiểu thừa.

Sau trong Vô ký, bởi vì pháp hư vọng cho nên không thể ghi nhớ. Trí Luận nói mười bốn nạn, trong này có mười sáu loại. Trong luận Câu Xá nói: “Có ngoại đạo tên gọi Úc-chi-ca, Trung Hoa nói là Năng Thuyết, hỏi Đức Phật về bốn loại như thế gian Hữu biên-Vô biên…, đây là dựa theo Thỉ-Chung để hỏi; bốn loại như Thường-Vô thường…, là dựa theo Đoạn-Thường mà hỏi, cho nên không đáp. Nếu người ấy đã chấp Ngã là thế gian thì bởi vì Ngã không có, cho nên đáp không đúng lý. Nếu chấp tất cả sinh tử gọi là bốn thế gian thì đáp cũng không đúng lý. Nếu thế gian thường trú thì không có một người nào đạt được Niết-bàn. Nếu không phải là thường trú thì tất cả đều đoạn diệt mà tự nhiên Niết-bàn. Nếu có đủ hai loại thì nhất định một phần không đạt được Niết-bàn, một phần tự nhiên Niết-bàn. Nếu không phải là Thường, không phải là không Thường, thì lẽ ra không phải là đạt được Niết-bàn, không phải là không đạt được Niết-bàn.”

Hỏi: Nếu tự nhiên đạt được Niết-bàn thì có gì sai?

Đáp: Nếu tự nhiên đạt được thì từ Niết-bàn mà đến, bởi vì đạt được tùy thuộc vào đạo, do đó như Ni-càn-tước-ác không thể nhất định đáp.

Hỏi về Như Lai có bốn loại như Dị-Tử…, đây là dựa theo buộc vào-cởi ra mà hỏi, bởi vì ngoại đạo chấp Phạm Vương và thầy của mình đã đạt được giải thoát, gọi là Như Lai. Do quán xét ý của người hỏi, cho nên Đức Phật không đáp, bởi vì người ấy chấp đã giải thoát Ngã gọi là Như Lai, đã chấp có Ngã cho nên Đức Phật không đáp. Ngoài ra tra tìm trong Trí Luận quyển thứ 2, thứ 17, Du-Già, Câu Xá, Xá-lợi-phất A-tỳđàm cùng với Chánh sớ thì toàn bộ có thể có đưa ra điều này.

Trong bốn câu thứ ba, trong bốn câu như đi-không như đi…, Như Lai là như từ trước đến nay, về sau này cũng như vậy, cho nên nói là Như Lai, không phải là Phật. Bốn câu sai khác thế nào? Có người chấp Thần ngã và Ấm như nhau, Ấm diệt thì Ngã cũng diệt, nếu nói đi vẫn như lúc đến, thì lời này không chấp nhận. Hai là chấp Ngã và Ấm khác nhau, Ấm diệt mà Ngã không diệt, nếu nói đi không như lúc đến, thì điều này cũng không chấp nhận. Ba là chấp Thể của Ngã thường còn như hư không, nói có đến-đi đều không chấp nhận. Bốn là chấp Ngã có thô-tế, nói không có đến-đi cũng không chấp nhận, nghĩa là Ngã thô và Ấm như nhau, cùng diệt cho nên như đi; Ngã tế và Ấm khác nhau, không cùng diệt cho nên không như đi, không chấp nhận.

Trong bốn câu thứ tư, Ngã là Thể-chúng sinh là Dụng, do Ngã mà có chúng sinh, dựa vào Thể mà có Dụng. Hai là trái lại với điều này. Ba là giữ lại cả hai. Bốn là trái lại với cả hai. Văn còn lại có thể biết.

Đại khái là pháp đã học trên đây đều bởi vì nhận biết về pháp của Tiểu thừa và pháp của ngoại đạo…, vì muốn dựa vào đây để thâu nhiếp chúng sinh, cho nên sau là trình bày về ý của Học, có thể biết.

Trong đoạn thứ sáu là Tạng Thí, trong giải thích: Trước là đưa ra mười môn, sau là lần lượt giải thích từng môn một. Mỗi một môn đều có ba, đó là nêu ra-giải thích và kết luận.

Trong môn thứ nhất, do thói quen vốn có từ lâu cho đến tự mình ăn uống, cũng có tâm bố thí, nghĩa là rời bỏ mạng sống cần thiết nhất mà nhận lấy sự chết yểu, tiếp cận bên cái chết gọi là tai nạn cuối cùng. Lại vốn là ở sau cuối trong các loại bố thí. Trong bố thí thuộc phần bên trong, Luân Vương trẻ trung là trình bày về khó rời bỏ mà có thể rời bỏ. Bố thí thuộc phần bên trong-bên ngoài, theo Du-già thì cắt tóc-xỉa răng-nhổ thức ăn… là thuộc phần bên trong-bên ngoài. Trong này gồm chung y báo và chánh báo, chỉ trừ ra vợ con. Trong tất cả bố thí cùng có vợ con vốn là riêng biệt.

Trong môn thứ bảy là bố thí quá khứ: 1) Nêu ra cảnh của tham lam; 2) Từ “Văn dĩ…” trở xuống là dùng lý chính thức quán xét, trong đó trước là thẳng thắn quán xét về Không mà không sai lạc phương tiện, sau là so sánh về sự lụi tàn ấy; 3) Từ “Bồ-tát…” trở xuống là đích thực thành tựu hạnh Xả. Bố thí ba đời này chỉ xả bỏ tâm tham của mình, tương ưng với thiện căn không tham, thu nhận đưa vào trong này.

Lại luận chung về bốn câu: 1) Xả mà không phải là Bố thí, như bố thí ba đời, 2) Bố thí mà không phải là Xả, như tự mình ăn uống bố thí cho trùng trong thân… 3) Cũng Bố thí cũng Xả, như môn trước; 4) Không phải là Bố thí cũng không phải là Xả, như Tạng Tín… Vị lai-hiện tại cũng đều có ba nghĩa, giống như trên có thể biết. Trong tham ở hiện tại, trong pháp thanh tịnh chỉ nêu ra Nhị thừa, bởi vì duyên hiện tại của Phật Bồ-tát thành tựu không phải là không mong cầu, vốn không giống như quá khứ chưa tàn lụi và vị lai chưa đến bởi vì không có duyên khởi, cho nên không giống như trước.

Trong môn thứ mười có bốn: Một là người cầu xin đến; Hai là Bồtát vui mừng; Ba là quán xét lỗi lầm tai họa của thân; Bốn là ý thông suốt thành tựu Bố thí, nghĩa là dù cho vật tốt đẹp mà mình hãy còn thuận theo xả bỏ, huống gì vật xấu xa này? Lại dù cho không có lợi ích gì mà mình hãy còn thuận theo bố thí, huống hồ còn khiến cho mình đạt được ba pháp kiên cố, thân thể và tài sản tự tại hay sao?

Trong đoạn thứ bảy là Tạng Tuệ, giải thích có ba: Một, Trình bày chiếu rọi pháp thành tựu về Tuệ; Hai-Từ “Bồ-tát thành…” trở xuống là trình bày về tướng thành tựu lợi ích của Tuệ; Ba, Hiển bày về nghĩa vô tận.

Trong phần một có hai: Trước là trình bày về Tuệ tự chiếu rọi pháp, sau là trình bày về chính thức thuyết giảng cho người khác.

Trong phần trước: 1) Tổng quát nêu ra pháp đã nhận biết; 2) Giải thích về thành tựu năng lực nhận biết sâu xa tuyệt diệu.

Trong phần một dùng bốn Đế trải qua nhận biết về mười pháp, đó là năm Uẩn-Vô minh-Ái và Tam thừa. Năm Uẩn dựa theo quả nhiễm, Si-Ái dựa theo nhân, bảy loại này đều ngay nơi tướng là Khổ, duyên thành tựu là Tập, Vô tánh tức là Diệt, hiển bày về Diệt là Đạo, dùng làm môn giải thích để hiển bày về Diệt. Lại là Bồ-tát khéo léo hồi hướng thành đạo đầy đủ công dụng, cho nên như luận về các Hoặc thành tựu Giác phần, sinh tử là Niết-bàn. Ba loại sau dựa theo thanh tịnh, Thanh văn là người, bốn Đế là pháp, Đạo phẩm đã thực hành là Tập, quả đã thành tựu là Niết-bàn, mười hai duyên là pháp của Duyên giác, vô biên pháp giới là pháp của Bồ-tát. Lại giải thích: Biết Thanh văn tức là biết Khổ, bởi vì Khổ của Thanh văn là đã biết, cho nên chỉ nêu ra phần vị ấy. Hai là pháp mà họ đã thực hành tức là Đạo đế. Ba là Tập khí phiền não… của họ chưa hết tức là Tập đế. Đã có đoạn trừ cho nên sau pháp mới nói về điều đó, Niết-bàn là Diệt. Duyên giác và Bồ-tát dựa theo đây có thể biết.

Trong phần hai là giải thích về năng lực nhận biết: Đầu là ý hỏi, nhận biết có hai loại, một là tùy theo tướng nhận biết như người Tiểu thừa, hai là hợp với lý nhận biết như hàng Bồ-tát. Nay chỉ nói về nhận biết, ở trong hai loại này thì loại nào nhận biết? Vì vậy nói là nhận biết thế nào? Sau là giải thích, chính là hợp với lý. Nhận biết có sáu câu: 1) Tổng quát nêu ra nhân phát khởi; 2) Từ “Phi ngã…” trở xuống là hai câu hiển bày về không có hai Ngã, câu trên trình bày về tướng không thật, câu dưới là Thể trống rỗng không có; 3) Từ “Bất thủ…” trở xuống là ba câu trình bày về đối với pháp lìa xa nhiễm, một là không giữ lấy kiên cố đối với câu trên trước đây, hai là không giữ lấy vốn có đối với câu dưới trước đây, ba từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ không giữ lấy.

Trong phần sau là thuyết giảng cho người khác: Một là câu nêu ra; hai từ “Vân hà…” trở xuống là giải thích.

Trong giải thích có ba: 1) Tổng quát; 2) Từ “Hà đẳng…” trở xuống là riêng biệt, đối với mười pháp trước đây sơ lược nêu ra chín môn, bởi vì tức là cùng Như cho nên không thể hủy hoại; 3) Từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là đưa ra nguyên cớ. Trước là nêu ra hiện tại thấy sắc… là có thể phá hoại, vì sao nói là không hủy hoại? Giải thích bởi vì từ duyên khởi, mình và người cùng nói đều không đến, cho nên sắc-tâm cùng lìa xa.

Hai, Từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống là trong phần thành tựu lợi ích của Tuệ, có hai câu: 1) Công ít mà đạt được nhiều; 2) Tự mình ngộ chứ không phải là người khác.

Ba, Trong phần hiển bày về nghĩa vô tận, trong mười câu: Ba câu đầu là Tự phần, trong đó hai câu trước là Tự lợi, một câu sau là Lợi tha; bảy câu sau là Thắng tiến, trong đó bốn câu đầu là Tự lợi, ba câu sau là Lợi tha.

Trong đoạn thứ tám là Tạng Niệm, giải thích có ba: Một-Đối với cảnh trình bày về Niệm; hai-Từ “Bồ-tát…” trở xuống là hiển bày về tướng thù thắng của Niệm; ba-Từ “Bồ-tát tác thị…” trở xuống là làm sáng tỏ về tướng lợi ích của Niệm.

Trong phần một có mười câu: 1) Nhớ lại một đời quá khứ cho đến nhiều đời; 2) Nhớ lại một kiếp quá khứ cho đến nhiều kiếp; 3) Nhớ lại một Đức Phật cho đến vô lượng; 4) Nhớ lại một Đức Phật thọ ký cho đến vô lượng; 5) Nhớ lại một Đức Phật xuất thế cho đến vô lượng; 6) Nhớ lại từ một Đức Phật tiếp nhận kinh điển cho đến vô lượng, mười hai bộ kinh như chương khác; 7) Nhớ lại một Hội-một Thời thuyết pháp cho đến vô lượng;8 ) Nhớ lại một căn thuộc pháp khí cho đến vô lượng; 9) Nhớ lại một phiền não đã đối trị cho đến vô lượng; 10) Nhớ lại một Tam-muội cho đến vô lượng.

Phần hai là hiển bày về tướng thù thắng của Niệm, có mười câu: 1) Niệm tuyệt diệu là tuyệt diệu vượt quá người khác; 2) Niệm thanh tịnh là đã ghi nhớ rõ ràng; 3) Niệm không hỗn loạn là không xen tạp tối tăm chướng ngại; 4) Niệm thanh tịnh khắp nơi là đối với pháp đều rõ ràng; 5) Niệm lìa xa trần cấu là đối với sự việc đã ghi nhớ không sinh tâm tham nhiễm; 6) Niệm lìa xa các loại trần cấu là không phát sinh những kiết khác; 7) Niệm lìa xa cấu nhiễm là không chấp vào năng lực của mình; 8) Niệm soi chiếu sáng ngời là soi chiếu rộng đến vô cùng tận; 9) Niệm vui thích là vui với tu tập không ngừng; 10) Niệm không ngăn ngại là ý phát khởi liền nhận biết không cần phải suy nghĩ.

Trong phần ba là làm sáng tỏ về lợi ích của Niệm, có bốn câu: 1) Thế gian khổ đau không hỗn loạn; 2) Căn thanh tịnh không cấu nhiễm; 3) Niệm kiên cố không hủy hoại; 4) Duy trì pháp không sai lầm.

Trong đoạn thứ chín là Tạng Trì, giải thích có mười một pháp: 1) Một phẩm kinh cho đến vô lượng; 2) Danh hiệu của Phật; 3) Tên gọi của thế giới; 4) Tên gọi của kiếp; 5) Phật thọ ký; 6) Một bộ kinh cho đến nhiều bộ kinh; 7) Tên gọi của Hội; 8) Thuyết pháp; 9) Căn cơ; 10) Phiền não; 11) Tam muội.

Trong phần sau là kết luận ca ngợi, chỉ riêng cảnh Phật vốn là hiển bày về nhân sâu xa thấu suốt quả.

Trong đoạn thứ mười là Tạng Biện cũng có bốn: Nêu ra-giải thích-kết luận-ca ngợi.

Trong giải thích có hai: Trước là nêu ra Thể của Biện, đó vốn là

Hậu đắc trí vô cùng sâu xa; sau là hiển bày công năng của Biện có hai: Một là Tự phần; hai từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là Thắng tiến.

Trong Tự phần: Đầu là mở rộng nói về không trái với kinh điển là tổng quát hiển bày; sau là riêng biệt phân rõ, trong đó có hai: Một là trình bày về thuyết giảng tự tại, nói về mười pháp đã duy trì trước đây; hai từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ tự tại.

Trong phần hai là Thắng tiến có hai: Một, tổng quát hiển bày đó là ánh sáng của pháp phân rõ diễn giảng về pháp sâu xa; hai từ “Dĩ quảng trường…” trở xuống là riêng biệt phân rõ. Trong đó có hai: Trước là thuyết giảng vô ngại, có bốn câu: 1) Trình bày về lợi ích của thuyết giảng; 2) Từ “Thiện nhập…” trở xuống là tự tại đối với giáo; 3) Từ “Nhập phổ chiếu…” trở xuống là tự tại đối với nghĩa; ) Từ “Bất xả…” trở xuống là trình bày về không sai lạc Tự hành. Sau từ “Hà dĩ…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ vô ngại, nghĩa là phần vị này tức là phần vị cứu cánh cho nên thành tựu Pháp thân thanh tịnh đầy khắp pháp giới hư không này, là Chân thân vô cấu cho nên nói là thanh tịnh.

Trong phần ca ngợi có mười câu: 1) Vô lượng là bởi vì nhiều môn; 2) Không có phạm vi giới hạn là mỗi một loại đều vốn là vô biên; 3) Nhiều môn không gián đoạn; 4) Dung hòa xen nhau không hủy hoại; 5) Tự Thể không đoạn mất; 6) Không bị duyên đoạn mất bởi vì không phải là pháp có thể đoạn mất; 7) Nói không có gì run sợ; 8) Xa xăm sâu thẳm; 9) Rộng rãi không cùng tận; 10) Thâu nhiếp pháp giải thích thành tựu.

Sáu, Kết luận ca ngợi về mười Tạng: Đầu là một câu kết luận, sau là ca ngợi về thù thắng. Trong phần ca ngợi về thù thắng: Đầu là một câu kết luận ca ngợi, nghĩa là vốn khiến cho chúng sinh đạt được Bồ-đề; sau là mười môn riêng biệt hiển bày. Riêng biệt giải thích chỉ có bảy câu, đều là nêu ra và giải thích: Một là ca ngợi về lợi ích thực hành; hai là thực hành thường xuyên; ba là thực hành rộng rãi; bốn là thực hành khéo léo; năm là thực hành nhiều; sáu là thực hành vững vàng; bảy là thực hành tiến vào lý.

Từ “Thị danh…” trở xuống là tổng quát kết luận ca ngợi. Sau phần này lẽ ra có phần Chứng thành và phần Kệ tụng…, nhưng văn không đủ, hoặc là bởi vì lược bớt mà thôi.

Trên đây là toàn bộ Hội thứ tư, xong.