HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

QUYỂN 04

Đời nhà Đường Sa môn Pháp Tạng thuật.

Phẩm 3: DANH HIỆU

Cũng đưa ra bốn môn phân biệt: A- Giải thích tên gọi; B- Ý đưa ra; C- Tông thú; D- Giải thích văn.

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI có ba:

1. Tên gọi về Phần vị, từ đây trở xuống trình bày về phần thứ ba là tu nhân hợp với quả phát sinh hiểu biết. Nghĩa là từ đây cho đến Hội thứ sáu, phân rõ nói về nhân tròn vẹn của năm phần vị đã tu, thành tựu quả đầy đủ của mười thân, khiến cho các Bồ-tát hiểu rõ về tướng nghĩa này, cho nên lấy làm tên gọi.

2. Tên gọi về Hội, gọi là Phổ Quang Pháp Đường Hội. Nhưng giải thích có năm nghĩa:

3. Dựa theo Sự, nghĩa là Đức Phật phát ánh sáng chiếu rọi khắp nơi ở bên trong Đường, cho nên gọi Đường này là Phổ Quang; ở trong đó thuyết pháp, lại gọi là Pháp Đường, đây là Y chủ thích.

1) Dựa theo Pháp, nghĩa là Chân-Tục đầy đủ tất cả gọi là Phổ, diệu trí chiếu rọi rõ ràng gọi là Quang, cảnh-trí quy phạm sâu xa là Pháp, Phổ Quang này tức là Pháp. Lại giải thích về pháp của Phổ Quang, thuyết giảng ở trong Đường này, là dựa vào chủ làm tên gọi, Pháp gồm chung hai cách giải thích, Đường chỉ riêng Y chủ thích.

2) Dựa theo Cảnh, nghĩa là Phổ là Thể-Quang là Dụng, Pháp gồm chung giáo-nghĩa.

3) Chỉ dựa theo Trí, cũng nói như Cảnh.

4) Dựa theo Thật, nghĩa là pháp giới vô ngại, một Trần-một Hành đều trùng trùng hiện bày rõ ràng khắp nơi Nhân-đà-la võng, cho nên gọi là Phổ, tức là tròn sáng rực rỡ khắp nơi; lại gọi là Quang, bởi vì không có gì không chuẩn mực đích thực, cho nên cũng gọi là Pháp, là pháp thuận theo duyên trở thành bóng mát làm Đường, đều là Trì nghiệp thích. Như dùng ba Không làm môn…, dựa theo ví dụ có thể biết.

Lại Tín đầy đủ sáu phần vị gọi là Phổ, diệt trừ phiền não hiển bày về lý gọi là Quang, che mát căn cơ là Đường. 3-Tên gọi về Phẩm, danh hiệu của Như Lai là Y chủ thích; hoặc Như Lai là danh hiệu, bởi vì Như Lai là một trong mười hiệu. Trong đó, Danh là tên gọi riêng biệt như Thích-ca…, Hiệu là mười hiệu làm tên gọi chung của chư Phật. Lại gọi đến Thể là Danh, nêu rõ Đức là Hiệu; lại cũng là Danh Hiệu không có gì khác nhau, như trong văn nói.

B. Ý đưa ra cũng có ba:

1. Trình bày về Phần vị đưa ra, trước đây đã nêu ra quả khuyến khích sinh lòng tin tưởng vui thích, nay trình bày về nhân có thể đạt được của quả ấy khiến cho phát sinh hiểu biết đích thực, cho nên tiếp theo đưa ra.

2. Hội đưa ra, bởi vì Tín vốn là đầu tiên trong tu nhân, cho nên tiếp theo đưa ra. Lại nói là Hội trước trình bày về cảnh của niềm tin thụ động, nay phân rõ về hành của niềm tin chủ động, vốn là nghĩa theo thứ tự.

Hỏi: Ba phẩm như Danh Hiệu lẽ nào thuộc về niềm tin chủ động?

Đáp: Bởi vì thành tựu niềm tin cho nên cùng Hội mà phân rõ.

Hỏi: Trước đây lẽ nào không thành tựu niềm tin? Đáp: Tất cả dựa theo cảnh mà phát sinh niềm tin. Cảnh có hai nghĩa: Một, nêu ra pháp của toàn cảnh để trình bày là có nơi tồn tại; hai, thâu nhiếp để dựa vào tâm khiến cho thành tựu Tín Hạnh. Hội trước dựa vào nghĩa đầu, trong này dựa theo nghĩa sau. Lại Hội trước thì mở rộng về quả mà tóm lược về nhân, thuận theo nhau cùng thuộc về quả, trong Hội này mở rộng về nhân mà tóm lược về quả, thuận theo nhau cùng thuộc về nhân.

Hỏi: Đều là pháp của quả, vì sao Hội trước trình bày về Y báo, trong Hội này giải thích về Chánh báo?

Đáp: Bởi vì Y báo hiện bày rõ ràng dễ thấy cho nên phân rõ trước, Chánh báo ẩn kín sâu xa khó biết cho nên giải thích sau. Vả lại, nếu dựa theo Phật thì trước cần phải nương vào Tịnh độ, sau phân rõ về Chánh báo. Lại cũng có thể thuộc về lẫn nhau, tùy ý nêu ra đều được.

Hỏi: Trình bày trong tu nhân, vì sao Hội này và Hội thứ sáu đều có pháp của quả cùng Hội, các Hội trung gian không có trường hợp này?

Đáp: Hội này là bắt đầu của tu nhân mà mang lại quả cùng Hội, nhưng quả ở đầu Hội, Thập Địa… là cuối cùng của thành tựu về nhân, cũng mang lại quả cùng Hội mà quả ở cuối Hội. Đây đều là hiển bày dựa vào quả hải để khởi nhân tròn vẹn, nhân đầy đủ trở lại dung hòa quy về quả tròn vẹn. Đây chính là tiêu chí rộng lớn và tinh tế từ đầu đến cuối trong văn này.

3. Phẩm đưa ra, có hai cách giải thích: Một nói là phẩm trước trình bày về Y quả, phẩm này trình bày về Chánh báo. Trong Chánh báo không có sai lầm về ba nghiệp, phẩm này trình bày về thân nghiệp ứng với khắp nơi, nghĩa là danh hiệu vốn dựa vào thân mà lập ra, phẩm Tứ Đế trình bày về khẩu nghiệp của Phật rộng khắp mọi nơi, phẩm Quang Minh Giác trình bày về ý nghiệp của Phật giác ngộ khắp nơi. Nhiếp phục ba Luân, cùng là Chánh báo, nhưng thân nghiệp thô nhất cho nên phân rõ trước mà thôi. Hai giải thích rằng: Dựa theo hỏi đáp ở văn sau. Lại phẩm này trình bày về nghĩa của quốc độ Hải, phẩm trước đã phân rõ về thế giới Hải, tức là trình bày Thể tùy duyên hiển bày về Tướng của quả ấy, nay thì dựa theo duyên trở lại hiển bày rõ ràng về Thể của quả ấy. Phân rõ về tướng thật sự đã dựa vào, cho nên tiếp theo đưa ra. Đều nối thông với ba thế gian, suy nghĩ có thể thấy. Vả lại, Hội trước dựa theo Hoa Tạng, Hội này dựa theo Nhẫn Độ, có ý là…

C. TRÌNH BÀY VỀ TÔNG THÚ cũng có ba:

1. Trình bày về phần Tông nối thông đến Hội thứ sáu, bởi vì cùng là một lần hỏi đáp, vì thế cần phải phân rõ như nhau, nghĩa là hai vòng nhân quả này, đầu là Tướng-sau là Thể, trước là nhân quả duyên khởi, sau là lý thật.

2. Dựa theo Hội cũng có hai, đó là người và pháp. Người cũng có hai, đó là thụ động Tín-chủ động Tín. Trong thụ động Tín, Hóa chủ nội chứng về Độ-Hải là Thể, bảy ngày tư duy là Tướng. Lại vẫn như trạng thái ấy là Tướng, gia hộ thuyết giảng là Dụng. Lại hiện bày thần thông và chiếu rọi ánh sáng là Dụng. Trong Trợ hóa, Văn Thù dùng Diệu Tuệ trong Tín làm Thể, Đức thù thắng Cát Tường là Tướng. Lại khắp tất cả mọi nơi là Tướng, đã nói điều lợi ích cho chúng sinh là Dụng, nghĩa là nói kệ…

Trong chủ động Tín cũng có hai: a) Dựa theo nhân, chứng tịnh là Thể, đầy đủ đức là Tướng, nghiệp hạnh công đức thù thắng là Dụng, đều như phẩm Hiền Thủ nói, xem xét đưa ra…; b) Dựa theo quả, trong Tín đã hiển bày pháp giới vô tận là Thể, đức thù thắng của mười thân là Tướng, thuận với cơ giáo hóa làm lợi ích là Dụng, cũng như phẩm Hiền Thủ nói.

Pháp cũng có hai: a) Dựa theo cảnh, nghĩa là trong Tín thì Độ-Hải bình đẳng là Thể, dựa theo cơ nói là mười và đức thù thắng là Tướng, tương ưng với hành giáo là Dụng; b) Dựa theo hành, nghĩa là Tín hành nội chứng là Thể, dung hòa thâu nhiếp các phần vị là Tướng, thành Phật làm lợi ích chúng sinh là Dụng.

Hỏi: Không biết Phật Lô-xá-na này là Phật trong phần vị nào?

Đáp: Nếu nói về pháp của Tín thì Phật trong Tín, phần vị khác cũng như vậy, nên suy nghĩ.

3. Dựa theo Phẩm, cũng có hai: a-Dựa theo Tướng, dùng thân Như Lai-danh hiệu ứng với khắp nơi-mang lại nhiều lợi ích cho chúng sinh làm Tông; b-Dựa theo Thật, dùng quốc độ Hải của mười Phật làm Tông.

D. GIẢI THÍCH VĂN: Ở trong một lần hỏi đáp về phần tu nhân hợp với quả phát sinh hiểu biết này, phần trường hàng có ba: 1) Phần tựa; 2) Phần thưa thỉnh; 3) Phần thuyết giảng. Trong này Tựa cũng nối thông đến Hội thứ sáu sau này, thưa thỉnh-tuyên thuyết cũng như vậy.

Trong phần Tựa có ba: Một, nêu ra trú xứ của Phật trình bày về Khí thế gian; hai, từ “Thiện giác tri…” trở xuống là ca ngợi công đức của Phật trình bày về Trí chánh giác thế gian; ba, từ “Dữ thập Phật độ…” trở xuống là ca ngợi công đức của Bồ-tát phân rõ về Chúng sinh thế gian.

Trong phần một tương truyền: “Phổ Quang Đường ở phía Đông Nam cây Bồ-đề khoảng hơn ba dặm trong chỗ uốn khúc của sông Niliên, lúc Đức Phật mới thành đạo, các rồng trông thấy Đức Phật ngồi trống trải dưới cội cây, liền vì Đức Phật tạo ra Pháp đường này.” Bởi vì các rồng phần nhiều làm bóng che để cúng dường mà thôi. Lại bởi vì Pháp đường này gần cây cho nên cùng nêu ra với nơi chốn. Lại theo kinh này lấy cây Bồ-đề làm chính, những nơi khác đều không lìa nơi này. Lại trong này lúc bắt đầu đạt được là dựa theo pháp của Tín mà phân rõ, Liên Hoa Tạng là Tín Hạnh mở rộng lìa nhiễm thâu nhiếp công đức, dựa theo pháp chuẩn mực. Lại trong kinh Đại Tập, Bồ-tát đạt được Liên Hoa Đà-la-ni, cho nên những nơi thuyết pháp đều có tòa hoa sen. Nghĩa còn lại đều giải thích giống như trước.

Hai, từ “Thiện giác trí…” trở xuống giải thích về Trí chánh giác thế gian thù thắng, trong đó mười câu, văn giống như mười câu đầu trong hai mươi mốt loại công đức thù thắng của Thọ dụng thân ở Nhiếp Luận, như hai mươi mốt câu tổng quát đầy đủ đầu Hội thứ bảy sau này. Nay theo Nhiếp Luận và Phật Địa luận giải thích về mười câu này, một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt.

Trong tổng quát, Thiện giác trí thì trí ấy gọi là Chánh giác, nghĩa là đầy đủ chín đức sau gọi là Thiện giác. Bởi vì thuận theo lý lìa bỏ tà gọi là Chánh, gọi là Thiện; sáng suốt dựa theo quán sát gọi là Giác, gọi là Trí.

Trong riêng biệt: Một, không có hai niệm là công đức luôn luôn không có gì chướng ngại, nghĩa là bởi vì lìa xa hai chướng, bởi vì khác với phàm phu-Tiểu thừa. Lại đối với các cảnh như thời gian-nơi chốn xa xôi… không có hai hiện hành về biết-không biết, vì vậy nhờ không có hai niệm cho nên gọi là Thiện giác trí. Hai, thông hiểu rõ ràng pháp tánh, Luận gọi là hướng về pháp Vô tướng, đây là công đức có thể tiến vào không hai, cũng gọi là công đức phương tiện điều phục cảm hóa, nghĩa là tự mình có thể tiến vào Chân như thanh tịnh lìa xa tướng cókhông, cũng khiến cho người khác tiến vào. Ba, trú vào trú xứ của Phật là quán sát công đức đã điều phục cảm hóa, nghĩa là trú trong Đại Bi thường thường quán sát thế gian. Lại vốn là tùy ý vận dụng không tốn công sức làm lợi ích cho hữu tình, công đức không ngừng nghỉ. Lại vốn an trú trong Thánh Thiên và Phạm trú. Bốn, giống như chư Phật, nghĩa là đạt được công đức sự nghiệp tương tự chư Phật, ở trong Pháp thân mà dựa vào ý thích làm việc không sai khác, tức là lý trí làm lợi ích chúng sinh cả ba pháp không sai khác. Năm, đến nơi vô ngại là công đức đã đối trị vĩnh viễn đoạn trừ, nghĩa là tu đạo đối trị hai chướng, thành tựu hiện rõ trước mắt, đã đến nơi giải thoát tất cả chướng ngại vốn là nơi đã dựa vào. Sáu, đầy đủ pháp không lui sụt là công đức làm cho ngoại đạo khuất phục, nghĩa là chứng được giáo pháp, ngoại đạo không thể nào lay chuyển, làm cho ngoại đạo khuất phục vốn là hiển bày về đạo pháp đúng đắn của mình. Bảy, cảnh giới không làm hư hoại là công đức làm cho ma oán khuất phục, nghĩa là trong cảnh thuận nghịch không thể nào làm trở ngại đến tâm, tuy ở thế gian mà tám pháp không làm vấy nhiễm, bởi vì cảnh thế gian làm tâm rối loạn ngăn trở pháp thiện gọi là ma, trí này làm cho ma ấy phải hàng phục. Tám, trú vào không nghĩ bàn là công đức an lập giáo pháp, nghĩa là giáo pháp đã nói ra vượt lên trên tất cả cảnh giới của suy nghĩ tìm tòi. Chín, cùng thông hiểu ba đời là công đức thọ ký riêng biệt về ba đời, nghĩa là thọ ký riêng biệt về quá khứ-vị lai đều như hiện tại, rõ ràng không khác nhau cho nên gọi là cùng thông hiểu. Đầy đủ chín loại riêng biệt này làm thành câu tổng quát thứ nhất, đồng-dị-thành-hoại dựa theo suy nghĩ có thể thấy.

Ba, trong phần giải thích về Chúng sinh thế gian, có hai: Trước là chọn lựa xác định về người ấy, sau là ca ngợi thật đức ấy.

Trong phần trước có bốn: Một, lựa chọn nhiều khác với ít, nghĩa là vi trần số quốc độ của mười Phật. Hai, lựa chọn lớn khác với nhỏ, nghĩa là Đại Bồ-tát. Ba, lựa chọn sau khác với trước, nghĩa là Nhất sinh Bổ xứ. Bốn, lựa chọn mới khác với cũ, nghĩa là từ phương khác đến quy tụ. Nhưng bốn phần vị này lấy trước hướng về sau, lần lượt chuyển tiếp rất khác lạ đều có thể dựa theo biết được.

Trong ba là Nhất sinh có ba nghĩa: 1) Dựa theo trong loài người; 2) Dựa theo trên cõi trời; 3) Dựa theo thân hạ sinh, đây chính là Hóa tướng. Nếu dựa theo Thật báo trong bốn loại Biến dịch báo, thì chỉ có một phần vị hãy còn tồn tại là cuối cùng không có sinh tử, cho nên nói là Nhất sinh. Ý kinh này dựa theo nghĩa trước để phân rõ.

Trong phần sau là ca ngợi thật đức, văn có tám câu, nghĩa có bảy cặp. Một, hai câu về thuốc-bệnh là một cặp, nghĩa là câu đầu hiểu rõ về chủng tánh căn khí kia, câu sau chứng sâu xa về pháp giới đã giảng dạy. Hai, thường cố gắng suy nghĩ… trình bày về nhiễm-tịnh là một cặp, nghĩa là như trong Nhiếp Luận: “Phần nhiễm Biến kế trong Y tha khởi gọi là sinh tử, phần tịnh trong Viên thành gọi là Niết-bàn, hai phần không khác gọi là một Y tha. Nếu thấy một phần thì tánh của phần còn lại không khác, vì vậy kinh nói: Như Lai không thấy sinh tử, không thấy Niết-bàn.” Lại Trung Luận nói: “Thế giới và Niết-bàn không có mảy may sai biệt. Đây gọi là nhiễm-tịnh vô ngại, bốn câu dung hòa thâu nhiếp: Hoặc là dùng gốc thuận theo ngọn chỉ riêng thế gian, hoặc là ngược lại thì đây chỉ riêng Niết-bàn, hoặc là dung hòa với nhau mà cùng hiện rõ, hoặc là so sánh làm mất đi mà cả hai không còn. Khéo léo quán sát về lý này gọi là Thiện tư, luôn luôn quán sát không ngừng gọi là Thường tư.” Ba, nhân-quả là một cặp, nghĩa là nghiệp nhân-quả báo của các chúng sinh sai biệt đủ loại, hiểu rõ những điều này đều dựa vào các Thức-Tâm-Hành của chúng sinh mà được thành lập. Bốn, giáonghĩa là một cặp, đó là Nghĩa là nghĩa của các pháp đã giải thích, Vị là giáo của các pháp chủ động giải thích, là Danh-Cú-Vị thân. Năm, ràng buộc-giải thoát là một cặp, nghĩa là quán sát về tướng thế gian ấy tức là Không, cho nên gọi là pháp lìa thế gian, không cần phải làm hỏng thế gian. Sáu, lý-sự là một cặp, nghĩa là bởi duyên mà khởi lên pháp gọi là hữu vi, chân lý vô tánh gọi là vô vi. Hiểu duyên tức là Chân mà không làm hỏng duyên khởi, thì gọi là cứu cánh phân biệt vô vi; lý phai mờ chỉ có sự mà không mất lý, gọi là cứu cánh phân biệt hữu vi. Văn sau nói: Từ cõi hữu vi vượt ra cõi vô vi, mà cũng không làm hỏng cõi hữu vi, vô vi cũng như vậy, có thể suy nghĩ dựa theo đây. Bảy, ba đời là một cặp, nghĩa là biết ba hiện tại đều thâu nhiếp quá khứ-vị lai, và hòa vào ngay trong nhau, đó là mười đời, không giống như không có, xuyên qua gọi là thông suốt, đối với ba đời này không có gì không thông đạt. Trên đây là phần Tựa, xong.

Thứ hai là phần thưa thỉnh, trong này gồm chung văn thưa thỉnh ở năm Hội sau. Trong đó có ba: 1) Nghĩ đến thưa thỉnh; 2) Nghĩ đến thưa hỏi; 3) Nghĩ đến hiện tại.

Trong phần thưa hỏi, các Pháp sư như Dụ Phạm… tách ra làm 12 câu hỏi, đó là 10 câu đầu hỏi về hành tự Thể của Pháp thân, 100 câu phần giữa hỏi về hành khởi tu của Báo thân, 1 câu sau hỏi về hành bình đẳng của Phương tiện thân. Lại nếu gộp với 90 câu hỏi ở phần giữa làm thành 9 câu hỏi thì gồm có 3 câu hỏi. Sư Quang Thống gộp với tâm tùy hỷ… làm thành một câu hỏi, tức là 3 câu hỏi, 10 câu đầu hỏi về pháp của Phật quá khứ (tiên tế), 10 câu tiếp theo hỏi về pháp của Phật hiện tại (trung tế), 1 câu sau cuối hỏi về pháp của Phật vị lai (hậu tế), đến Hội thứ sáu sau này mới đáp.

Nay dựa vào đây giải thích tổng quát phân làm ba: Đầu là 10 câu hỏi về quả dựa vào nơi nhân, tiếp là 10 câu hỏi về nhân phát khởi nơi quả, sau là 1 câu hỏi về quả đạt được nơi nhân. Nhiếp Luận nói: “Không có gì không từ Pháp thân này phát ra, không có gì không trở lại chứng Pháp thân này, cần phải trình bày về nhân dựa vào quả thành tự mà vẫn có thể kiềm chế đối với quả, quả có thể buông bỏ đối với nhân mà vẫn là nhân thành tựu quả, nhân quả tác thành lẫn nhau bởi vì duyên khởi không có tánh, không có tự tánh tức là Chân pháp giới, không có tánh tức là Thể không trở ngại duyên khởi, Chân pháp giới không làm hỏng nhân quả.” Nghĩa của lý thật duyên khởi nhân quả dựa vào đây mà lập ra. Lại 10 câu hỏi đầu, đáp chung trong ba phẩm đầu của Hội này.

Nếu riêng biệt từng phần thì phẩm Tứ Đế đáp một câu hỏi về thuyết pháp, phẩm Quang Minh Giác đáp hai câu hỏi về thế lực của Chánh giác, phẩm này đáp những câu hỏi còn lại, đáp chung thuận theo văn. Từ phẩm Minh Nạn về sau là ba phẩm riêng biệt tự có hỏi, bởi vì Tín không thành tựu phần vị, cho nên không có nói đến Thập Tín thưa hỏi xa xôi, không giống như Thập Trú…

Trong 10 câu hỏi đầu tiên này có hai giải thích:

Một là dựa theo hai quả y-chánh để hỏi, đó là 1) Hỏi chung về Y báo Tịnh độ; 2) Hỏi chung về Chánh báo Pháp thân; 3) Hỏi về vật dụng trang nghiêm của quốc độ; 4) Hỏi về Pháp thân đã chứng; 5) Hỏi về quốc độ lìa nhiễm; 6) Hỏi về thuyết pháp sau khi chứng; 7) Hỏi về Thể của quốc độ trước đây; 8) Hỏi về vầng sánh sáng của Chánh báo; 9) Hỏi về quốc độ ứng với duyên khởi, 10) Hỏi về hiện bày sự việc như tám tướng Chánh đẳng giác…

Hai là chỉ dựa Độ-Hải để hỏi, dựa theo văn sau và kinh Anh Lạc, bởi vì Hội này trình bày về nghĩa của quốc độ Hải. Trong 10 câu, 5 câu trước trình bày về các đức đầy đủ của quốc độ, 5 câu sau trình bày về Thể-Dụng đầy đủ trọng vẹn của quốc độ.

Lại một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt. Trong riêng biệt, quốc độ có chín nghĩa: 1) Nghĩa về trú riêng biệt, đó là hoa sen hồng… như Nhiếp Luận nói; 2) Nghĩa về đầy đủ đức, đó là LýHạnh-Sự… đều có tô điểm qua lại; 3) Nghĩa về quy phạm duy trì, đó là pháp của quốc độ dựa vào chứng mà đạt được không giống nhau; 4) Nghĩa về lìa nhiễm, đó là tự tánh cùng với Tướng và Dụng đều thanh tịnh; 5) Nghĩa về thành tựu giáo, đó là dựa theo lời nói hiển bày về quốc độ như nói về các thế giới; 6) Nghĩa về tự Thể, đó là Lý-Trí-Thức-Sự đều có Thể; 7) Nghĩa về Diệu Dụng, đó là uy lực của ánh sáng thâu nhiếp làm cho khuất phục…; 8) Nghĩa về duyên khởi, đó là cõi Phật phát khởi tùy theo căn cơ chúng sinh, lại khiến cho tùy theo cõi mà phát khởi nhân hạnh, lại tùy theo cõi mà Phật xuất hiện cho nên cũng nói là phát khởi, đây là thuận theo kinh Đâu Sa, lại tùy theo nhân duyên đầy đủ mà cõi được phát khởi, như phát khởi đầy đủ nhân duyên của thế giới…; 9) Nghĩa về hiện rõ giác ngộ, đó là các sát hải hiện rõ thành tựu Chánh đạo, bởi vì y-chánh vô ngại. Nghĩa còn lại dựa theo trong phần đáp ở văn sau mà biết.

Tiếp theo là 10 câu hỏi trong nhân, từ phẩm Thăng Tu-di về sau đến phẩm Bồ-tát Trú Xứ đưa ra để đáp, chín câu đầu là hỏi dựa theo phần vị Tự hành, sau từ Tùy hỷ trở xuống là hỏi về hạnh tùy duyên hóa vật. Trong câu đầu, mười Tạng vì sao hỏi ở sau Hồi Hướng, sau đáp ở trước Hồi Hướng, là bởi vì Tạng có hai nghĩa: Một là nghĩa về sinh ra cho nên ở sau Hồi Hướng, bởi vì sinh ra chứng trí Địa thượng; hai là nghĩa về thâu nhiếp cho nên ở trước Hồi Hướng, bởi vì thâu nhiếp các hành khiến cho thành tựu Hồi Hướng. Bởi vì hai nghĩa nàyy, hai nơi hiển bày lẫn nhau cho nên không trái ngược nhau. Mười Nguyện đáp trong Địa thứ nhất. Mười Định đáp trong phẩm Thập Nhẫn, bởi vì tâm Quán dung nạp lý là Nhẫn, tâm Chỉ không tán loạn là Định, Chỉ Quán vô ngại chỉ là một tâm, hai nơi đều hiển bày một nghĩa. Bởi vì các Bồtát duyên với cảnh Chân-Tục đều có hai nghĩa, một là không điên đảo, hai là không tán loạn, đầy đủ như Lương Nhiếp Luận nói mà thôi. Mười Tự tại đáp trong phẩm Thập Minh, bởi vì tác dụng rõ ràng đích thực cho nên lập ra hai tên gọi, bởi vì dịch tách riêng kinh Bồ-tát Bổn Nghiệp, cho nên trong câu hỏi ấy cũng gọi là Thập Minh, trong kinh Đâu Sa gọi là Thập Phi Pháp. Lại mười Đảnh không thấy đáp riêng, người xưa có lúc đem kinh Phạm Võng vào đây so sánh kết hợp nói là điều này có thể sai, sợ rằng khó mà sử dụng theo. Nay tìm theo mười một nơi thuyết pháp của kinh ấy, sáu nơi giống với kinh này. Kinh ấy nói ở Hóa Lạc Thiên thuyết về 10 Thiền định, Sơ thiền thuyết về 10 Kim Cang tâm, Nhị thiền thuyết về 10 Nguyện, Tam thiền thuyết về 10 Nhẫn, Tứ thiền tại cung Ma-hê Thủ-la thuyết về pháp môn Tâm Địa, không nói đến Trùng Hội Phổ Quang và Trùng Các Kỳ Hoàn. Vả lại, hỏi ở kinh này cùng với kinh ấy có giống nhau và không giống nhau, cho nên khó sử dụng mà thôi.

Có người nói phẩm Bất Tư Nghị có đáp, nhưng phẩm Bất Tư Nghị… đã đáp câu hỏi sau quả, không có thể thuộc về nơi này. Lại phẩm Tăng Kỳ trình bày về 10 số lớn, nhân vị là cuối cùng trong số cuối cùng, cho nên cũng có thể nói là 10 Đảnh, nhưng bắt đầu phẩm này tự có hỏi về điều khác, cho nên cũng khó thuộc về phẩm này. Trong phẩm Thọ Mạng 10 tầng Phật độ lên đến cuối cùng, cõi Phật của Hiền Thủ ở tầng cao nhất cho nên gọi là Đảnh, nhưng có 10 tầng cho nên nói là 10 Đảnh, cũng có thể không hại gì, bởi vì bắt đầu phẩm ấy đã không có thưa hỏi gì khác, cho nên có thể là đáp. Trong này dựa theo hướng xuống dưới tôn trọng trên cao để hỏi, văn dưới dựa vào nơi ấy nối tiếp nhau mà đáp. Vả lại, chỉ kinh này ở văn sau có hỏi riêng biệt mà ở đây không có hỏi, về sau nếu không có hỏi mà có nói thì tức là đáp về câu hỏi này, vì vậy cần phải biết.

Từ “Tùy hỉ tâm…” trở xuống là trình bày câu hỏi về tùy duyên khởi hạnh của Bồ-tát, tức là đáp ở phẩm Bồ-tát Trú Xứ, bởi vì trong văn ấy trình bày về Bồ-tát tùy cơ ứng hiện khắp mọi nơi khởi lên công hạnh thù thắng, ở đây dựa theo hạnh chủ động dựa vào để hỏi, sau dựa vào nơi của hành đã trú để đáp. Dựa vào đây mà phân định trong pháp của Phật hiện tại, hỏi đáp thuộc về nhau cũng rất rõ ràng mà thôi.

Sau trong phần trình bày về tùy duyên hóa tha: Một là thấy người khác ít thiện mà tâm vẫn tùy hỷ; hai là cảm hóa chúng sinh khiến cho tiếp nối Phật chủng, nghĩa là gieo hạt giống Phật vào ruộng của chúng sinh… Hai tâm này là tâm Hóa tha. Sau là trình bày về hạnh Hóa tha, nghĩa là vì sao không gián đoạn? Bởi vì cứu độ. Cứu nơi nào? Phiền não vốn là trong vọng tưởng. Cứu như thế nào? Nhận biết vốn là căn hành. Dùng cách nào để cứu? Hiểu rõ vốn là thuốc pháp. Làm sao cứu độ thành tựu? Nghĩa là khiến cho lìa bỏ cấu nhiễm của Tập, vượt qua tai nạn của Khổ, quyết đoán nghi ngờ về Đạo, chứng được ái Diệt. Như thứ tự bốn câu nên biết!

Trong phần hỏi về pháp của Phật vị lai có 1 câu hỏi, từ phẩm Bất Tư Nghị đến phẩm Phổ Hiền cùng đáp. Trong đó, pháp thù thắng là pháp Bồ-đề thù thắng, giống như văn trên. Không động chuyển là bởi vì không có sử dụng công sức. Nghĩa còn lại phần nhiều giống như giải thích ở Hội trước.

Thứ ba trong phần thuyết giảng nối thông với năm Hội sau đáp về những câu hỏi trước đây. Trong đó phân ba: 1) Trong Hội này đáp 10 câu hỏi đầu về pháp của Phật quá khứ ở trước; 2) Từ Hội thứ ba trở xuống đáp về pháp của Phật hiện tại; 3) Từ phẩm Bất Tư Nghị trở xuống đáp về pháp của Phật vị lai.

Ngay trong phần một có hai: Trước là quy tụ chúng hiển bày về trọn vẹn, sau là đối với duyên chính thức thuyết giảng. Trong phần trước có hai: Đầu là trình bày về chủ động quy tụ, sau là trình bày về thụ động quy tụ.

Trong phần đầu có hai ý: Một là hướng về trước để đáp câu hỏi, hai là hướng về sau để quy tụ chúng. Trong ý trước nhận biết tâm niệm là hiểu rõ những điều đã hỏi. Lại nêu ra khí lượng của tâm tiếp nhận giáo pháp, tức là giống như cảnh tượng ấy. Hiện bày thần lực là hiện bày cảnh tượng mà đáp, làm thỏa mãn khí lượng ấy, nghĩa là như những điều đã nghĩ đến, như 12 câu hỏi trước đây, và về sau đến Hội thứ sáu đưa ra nhưng pháp môn đã nói để đáp câu hỏi này, đều ở trong thân pháp giới của Như Lai, không có gì không viên minh lập tức hiện rõ cảnh tượng ấy. Vì thế cho nên mở rộng đến năm Hội sau mà không kéo dài, một thân lập tức hiện bày mà cũng không ngắn ngủi. Vả lại, sáu phần vị rõ ràng nhưng không sai khác, viên dung hòa vào ngay trong nhau mà không làm hỏng là nguyên cớ này, khiến cho Đại chúng nhìn thấy cảnh tượng này mà tưới thấm tâm tư trống rỗng, tức là đáp mà thôi. Bởi vì họ nghĩ rằng: Nguyện vì con hiện rõ cảnh tượng, cho nên nay hiện rõ cảnh tượng. Về sau kinh nói: Trong Pháp thân thanh tịnh không có cảnh tượng nào mà không hiện rõ. Lại cảnh tượng là nghĩa của duyên tập hợp mà thành tựu vô ngại, bởi vì khí lượng-tâm niệm của căn cơ phù hợp với thân Phật mà trở thành cảnh tượng này. Lại bởi vì thân Phật ứng với căn cơ mà hiện rõ cảnh tượng này, đều có hai nghĩa về Không-Hữu và nghĩa về hữu lực-vô lực, bốn câu dung hòa thâu nhiếp không có nghĩa phân biệt, suy nghĩ điều này. Lại bởi vì ứng với căn cơ hiện rõ cảnh tượng làm lay động thâu nhiếp công năng là lực của thần thông lực.

Hai là vì quy tụ chúng, là Đức Thế Tôn đưa ra mọi người quy tụ. Nhận biết tâm niệm, là phân rõ về nguyên cớ quy tụ chúng. Như cảnh tượng ấy, là trình bày về xứng pháp hợp với cơ. Hiện bày thần thông lực, là chính thức trình bày về triệu tập chúng khiến cho quy tụ. Lại như cảnh tượng đã nói mà hiện bày thần lực, khiến cho Bồ-tát ở phương khác trông thấy ánh sáng thần thông này, biết là thuyết về pháp ấy mà đến quy tụ nơi này; cũng khiến cho Đại chúng ở đây thấy cảnh tượng này của Phật, biết chắc chắn là thuyết giảng về pháp mà mình đã hỏi, hoan hỷ mà trú. Vì sao biết như vậy? Bởi vì ánh sáng nơi thân Như Lai có hai loại, một là ẩn kín cho nên khó biết, hai là hiển bày để cho nhận biết. Trong để cho nhận biết về điều đó, tùy theo sự thích ứng mong thuyết giảng về pháp gì, mà ánh sáng nơi thân Đức Phật trước tiên hiện rõ cảnh tượng ấy, khiến cho Đại chúng trông thấy rồi biết là thuyết giảng về pháp ấy, như lúc thuyết về Bát-nhã (so sánh trong Trí Luận), như lúc thuyết về Pháp Hoa…, cho nên nói là như cảnh tượng ấy mà hiện bày thần thông.

Trong phần sau là thụ động quy tụ, mỗi một phương trong mười phương đều có ba thế gian, có thể biết. Lại đều có tám nghĩa: Một là xa gần, hai là nêu ra tên gọi của quốc độ, ba là nêu ra danh hiệu của Phật, bốn là Bồ-tát đứng đầu, năm là thâu nhiếp quyến thuộc, sáu là đến nơi này chào hỏi cung kính, bảy là hóa làm chỗ ngồi, tám là ngồi theo phương của mình. Thế giới cùng tên gọi là Sắc, biểu thị cho pháp ở phần vị Tín vốn là tướng thô hiện rõ; Phật cùng tên gọi là Trí, biểu thị đầu tiên trong Tín vốn là Thỉ giác từ Bổn giác phát khởi; Bồ-tát cùng tên gọi là Thủ, biểu thị cho Tín là đầu tiên của nhân.

Danh và nghĩa của Văn Thù tóm lược nói theo năm nghĩa: Một gọi là Văn Thù Sư Lợi, hoặc gọi là Thi Lợi, hoặc gọi là Mạn Thù Thất Lợi, hoặc dịch là Kính Thủ, hoặc nói là Phó Thủ, lại nói là Nhu Thủ, lại nói là Diệu Đức, lại nói là Diệu Cát Tường. Trong này mười Bồ-tát dựa vào bản văn Phạm cùng tên gọi là Thất Lợi, trong kinh Đâu Sa cũng cùng tên gọi là Sư Lợi. Lại tiếng Phạm gọi đầu là Thất Lợi, Cát Tường Đức… cũng là Thất Lợi, cho nên dẫn đến phiên dịch không giống nhau. Hai là nơi sinh ra, nếu dựa vào kinh Văn Thù Bát Niết Bàn thì sinh trong nhà Bà-la-môn ở cõi này, sau khi Phật diệt độ 00 năm, đã nhập Niết-bàn ở đỉnh Hương Sơn. Nếu theo kinh này thì Bồ-tát hiện ở tại núi Thanh Lương thuộc phương Đông; kinh Tịch Điều Âm cũng nói: “Về phương

Đông cách đây một vạn thế giới Phật, có quốc độ tên gọi Bảo Trú, Đức Phật danh hiệu là Bảo Tướng, Bồ-tát ở quốc độ ấy.” Ba là trình bày về thầy trò, theo kinh Phóng Bát thì xưa kia Văn Thù là thầy của Thích-ca, kinh này nói là mẹ của chư Phật ba đời, thầy của tất cả Bồ-tát. Bốn là trình bày về phần vị, nếu dựa theo nhân thì chính là Bồ-tát Thập Địa, bởi vì thường trú trong Tam-muội Thủ Lăng Nghiêm; nếu dựa theo quả thì theo kinh Thủ Lăng Nghiêm nói là ở thế giới Bình Đẳng thuộc phương Nam, thành Phật hiệu là Long Chủng. Năm là trình bày về đức dụng, theo kinh Như Huyễn Tam Muội thì làm cho ma phải hàng phục… là lực điều phục chúng sinh, theo kinh Hiện Bảo Tạng thì Ca-diếp gạt bỏ… là lực thần thông thù thắng, thuận theo Không quyết định luận bàn chất vấn thì chính là Tuệ lực. Đây là dựa theo Tam thừa. Như phẩm Quang Minh Giác ở sau thì tất cả mọi nơi… là Nhất thừa.

Bồ-tát các phương đều cúi rập đầu đảnh lễ Đức Phật, nghĩa về lễ Phật sơ lược đưa ra ba môn: Một là số lần lễ lạy, hai là nghi thức cung kính, ba là trình bày về quả đạt được. Trong phần một là ba nghiệp lễ lạy, có hai ý: 1) Bởi vì có ba nơi lễ lạy; 2) Hiển bày Đức Phật có Thiên nhãn-Thiên nhĩ-Tha tâm thông.

Hai là nghi thức cung kính có bảy, như trong chương Khổng Mục… Ba là quả đạt được có hai: 1) Gần thì đạt được năm quả… 2) Xa thì đạt được Phật quả như phẩm Hiền Thủ nói…

Ngồi theo phương của mình, dựa vào Trí Luận quyển thứ 12: “Ngoại đạo pháp khác khinh thường Đức Phật cho nên ngồi, Bạch y như khách cho nên ngồi, tất cả thân tâm của năm chúng là thuộc về Đức Phật cho nên đứng. Nếu Đại A-la-hán việc làm đã xong thì cho phép ngồi, ba quả còn lại không cho phép ngồi bởi vì việc lớn chưa làm xong; như vua có bề tôi quan trọng thì được ngồi, còn lại đều đứng.” Nay ở đây đều là Đại Bồ-tát vì vậy được phép ngồi mà thôi.

Trong phần hai là đối với duyên chính thức thuyết giảng, có hai: Đầu là ba phẩm chính thức cùng đáp câu hỏi trước đây; sau là ba phẩm dựa vào luận mà phát sinh luận, hỏi riêng-đáp riêng. Lại giải thích ba phẩm trước là duyên của hành chủ động phát khởi, ba phẩm sau là tướng của hành thụ động phát khởi. Lại giải thích trước là cảnh của quả thụ động duyên vào, sau là hành của nhân chủ động duyên vào. Bởi vì Tín hành này là phương tiện của trú, tự mình không có phần vị riêng biệt, cho nên ban đầu không có hỏi.

Ngay trong ba phẩm trước có năm: Một, ca ngợi về chúng hiếm có; hai, nhắc lại câu hỏi tổng quát nêu ra; ba, nêu ra để hiển bày về Thể; bốn, nêu ra Thể để phân rõ về Tướng; năm, nêu ra Tướng trình bày về Dụng.

Trong phần một là ca ngợi về chúng hiếm có, vì sao thưa hỏi Đức Phật mà Văn Thù đáp? Bởi vì đã giống như Tuệ của Phật, bởi vì Diệu Tuệ của Cát Tường thông hiểu về Độ-Hải, bởi vì tăng thêm tâm vui mừng hớn hở của các Bồ-tát. Vì sao không nhập định? Bởi vì Tín không có phần vị. Hội trước lẽ nào có phần vị sao? Bởi vì đức của quả này sâu xa vi tế. Trong này lẽ nào không có pháp của quả hay sao? Bởi vì là thành tựu về nhân, bởi vì gồm chung đầy đủ nhiều nhân. Ca ngợi về hiếm có thì tóm lược do hai nghĩa: 1) Bởi vì một Hội này chính là nơi hội tụ tất cả hư không pháp giới…; 2) Bởi vì Hội này chính là pháp môn, đều nói như phẩm Quang Minh Giác.

Trong phần hai là nhắc lại câu hỏi, Đức Phật xuất hiện là nhắc lại hai câu hỏi thứ bảy-thứ tám trước đây; A-nậu Bồ-đề là nhắc lại thị hiện thành Chánh giác trước đây; hoặc là Đức Phật xuất hiện nhắc lại thị hiện thành Chánh giác, hai câu hỏi thứ bảy-thứ tám lược qua không nhắc lại. A-nậu Bồ-đề là gồm chung kết luận, những câu còn lại giống như trước có thể biết. Tổng quát nêu ra câu đầu không thể nghĩ bàn là xuyên qua nối thông các câu, cho nên kết luận nói rằng đều là không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn, đại ý trong này là đối với pháp giới cùng một vị, nghĩa phân làm hai: 1) Độ và Hải là chủ động tùy theo, 2) Cơ và duyên là thụ động tùy theo. Hai loại này không hai, tất cả dung hòa vô ngại. Nếu dùng duyên thuận theo Thể thì Tướng ấy viên dung không có riêng biệt mà có thể riêng biệt, ngôn từ giảng giải không đạt tới được. Nếu dùng Thể thuận theo duyên thì lại phù hợp trở thành duyên khởi sai biệt. Dựa theo duyên khởi biểu hiện khác nhau này trở lại hiển bày về Thể của quốc độ vô cùng tuyệt diệu khó mà suy nghĩ, là ý của không thể nghĩ bàn. Bởi vì nghĩa này cho nên nghĩa của không thể suy nghĩ (bất tư) có đối với ba loại: Một là giải thích về nương vào duyên, trở lại hiển bày về Thể của quốc độ không còn nghĩa của duyên; đây tức là lời ở trong duyên mà ý ở ngoài duyên, cho nên nói là không thể nghĩ bàn. Hai là đã dựa theo duyên hiển bày về quốc độ, bởi vì duyên khởi như trần số, khiến cho Thể của quốc độ thuận theo duyên phù hợp trở thành sai biệt; đây tức là trình bày về quốc độ không có riêng biệt của riêng biệt, riêng biệt mà không riêng biệt, cho nên không thể nghĩ bàn. Ba là duyên không có duyên riêng biệt, bởi vì Thể tức là duyên, cho nên duyên khởi sai biệt tức là Độ và Hải rất sâu xa; đây gọi là lý rất gần mà khó biết, cho nên không thể nghĩ bàn. Suy nghĩ!

Trong phần ba là nêu ra để hiển bày về Thể, trước nêu ra nói là vì sao có thể biết không thể nghĩ bàn, sau hiển bày về Thể nói là vì sao pháp của chư Phật tùy theo những nơi đã giáo hóa ấy đều là pháp giới. Bởi vì hai môn cùng dung hòa, bởi vì không có ranh giới hạn chế; đây là dựa theo Thể để giải thích tóm lược.

Trong phần bốn là nêu ra Thể để phân rõ về Tướng, trước nêu ra Thể nói là vì sao có thể biết pháp giới sai biệt vô biên…, sau phân rõ về Tướng nói là chưa luận đến thế giới hư không khắp mười phương. Tạm thời dựa theo một cõi Ta-bà này mà nói sơ lược phân rõ về mười loại để hiển bày vô tận, vô biên cõi khác nên dựa theo đây mà biết. Các loại thân này đều có các đức, giải thích là thân Phật…, cho nên về sau phân rõ danh hiệu không giống nhau, tức là giải thích về các loại tên gọi. Nay tìm kỹ càng trong văn này, và dựa theo kinh Đâu Sa, đây chính là chúng sinh đã được giáo hóa chứ không phải là Phật chủ động giáo hóa. Bởi vì câu dài này là ngữ pháp của các nước Tây Trúc, thích hợp nên nói là giáo hóa tất cả các loại thân… cho đến chúng sinh không giống nhau làm một câu, điều đã thấy cũng khác nhau làm một câu, nghĩa thì có thể hiểu. Chỉ vì quốc độ của Phật bình đẳng không có gì riêng biệt mà có thể riêng biệt, cho nên dựa vào chúng sinh đã được giáo hóa sai biệt để phân rõ về Tướng sai biệt của Độ-Hải.

Ở trong 10 câu: 1) Tổng quát đưa ra thân năm Uẩn sai biệt; 2) Dựa vào thân lập ra tên gọi không giống nhau; 3) Thân ở tất cả mọi nơi; 4) Tùy theo các loại nơi chốn mà có các loại hình thể, Sắc nghĩa là màu sắc trắng-đen…; 5) Tùy theo có thân hình mà thọ mạng có dài ngắn; 6) Thức có thể đạt được các cảnh, hoặc tu hành chứng được phạm vi; 7) Thể của cảnh hòa vào căn, hoặc là trí có thể tiến vào pháp, hoặc là hiểu rõ tiến vào môn khác; 8) Tóm lược chỉ có sáu căn, mở rộng có hai mươi hai căn, hoặc là năm căn như Tín…, hoặc là lợi-độn-sinh-thục…, như sau nói ở phần các căn Hải thuộc Hồi Hướng thứ chín; 9) Các nẽo sai biệt, hoặc là bốn Sinh loại-năm nẽo như rừng rậm của sinh hành…; 10) Nghiệp khác-báo khác như rừng rậm của nghiệp hành… Dựa vào bản Phạm và kinh Đâu Sa, mỗi một câu này đều có các loại, lời nói còn lại tóm lược cho nên như vậy, vì thế kết luận rằng các loại chúng sinh không giống nhau. Điều đã thấy cũng khác, thì không phải là đích thực nghiệp báo y-chánh sai biệt vô biên, trong tâm suy nghĩ nhìn nhận hy vọng đều khác. Trong kinh Đâu Sa nói là tất cả đều có nghe âm thanh của Đức Phật. Lại cũng chín câu trước phân rõ về báo sai biệt, câu thứ mười trình bày về nghiệp sai biệt, đây là hiển bày về thấy sai biệt. Lại nói phạm vi sai biệt của chúng sinh này là Tướng của Độ-Hải, có ba nghĩa giải thích, như phân rõ ở phần không thể nghĩ bàn trong mục nêu ra trước đây.

Trong phần năm là nêu ra Tướng phân rõ về Dụng, trước nêu ra Tướng nói là thụ động tùy theo căn khí sai biệt có thể như vậy, chủ động tùy theo sai biệt làm sao có thể thấy? Giải thích về Dụng nói rằng căn cơ khác nhau phù hợp hiện rõ Phật pháp nhiều môn khó có thể nói đầy đủ, dựa vào khác nhau mà luận có ba: 1) Dụng của thân-danh ứng với khắp nơi; 2) Dụng của ngôn-giáo rộng khắp mọi nơi; 3) Dụng của vầng ánh sáng chiếu rọi khắp nơi. Đều làm quy phạm cho phần sau. Lại có thể phân hai: Một là Phật, hai là Pháp. Trong Phật cũng có hai: Một là Thân, hai là Danh. Pháp cũng có hai: Một là Thật, hai là Quyền. Trong đó, Phật thân và Thật giáo sai biệt khó trình bày, nói giống như phẩm Quang Minh Giác. Phật danh và Quyền giáo dễ dàng phân rõ sai biệt, hai phẩm này luận riêng biệt. Lại giải thích đây là hai phẩm đầu, Văn Thù nêu ra nghĩa trả lời những câu hỏi trước đây; một phẩm sau, Như Lai nêu ra sự để trả lời giải thích thành tựu về nghĩa trước đây. Ngay trong hai phẩm trước phân rõ về hai pháp Danh và Giáo, sai biệt này đã như những câu hỏi ở trên. Nghĩa về cõi Phật… sai biệt khó suy nghĩ, cùng với ý về pháp giới… còn lại ở đây, tức là đáp chung.

Ngay trong phần đầu giải thích về tên gọi khác nhau có hai: Trước là hiển bày về tên gọi khác nhau, sau từ “Thị giai…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ khác nhau. Trong phần trước có hai: Đầu là nêu ra, sau là giải thích. Trong giải thích có ba: Một là phân rõ về cõi này, hai là các cõi khắp mười phương, ba là tận cùng pháp giới.

Hỏi: Trong này, danh hiệu là chỉ riêng tên gọi của Phật Lô-xá-na, hay là gồm chung các Đức Phật khác?

Đáp: Nếu dựa theo Tam thừa, thì chỉ riêng trăm ức vạn trong cõi này là tên gọi Thích-ca, các cõi khắp mười phương là tên gọi của Đức Phật khác. Nếu dựa theo Nhất thừa, thì toàn bộ pháp giới đều là tên gọi Xá-na.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao văn trước đây nói chư Phật mười phương thuyết pháp biết rõ tâm hành của chúng sinh cõi ấy…?

Đáp: Đều là nơi giáo hóa của Đức Phật này, bởi vì không có Đức Phật nào khác; lại là trong Hải Ấn của Đức Thích-ca hiện ra, cho nên không có Đức Phật nào khác. Lại giải thích như tên gọi của một Đức Phật đã khắp nơi mười phương, Phật ở mười phương khác cũng đều như vậy khắp nơi mười phương. Lại nếu như cơ Tam thừa, thì ở trong các thế

giới hệ (tứ thiên hạ) này tùy theo đều nghe Phật hiệu ngay nơi cõi ấy, chưa hẳn biết là tên gọi của Đức Phật ở nơi khác. Nếu là cơ Nhất thừa, thì trong một lúc lập tức tiếp nhận tất cả danh hiệu, bởi vì ứng với tên gọi của tất cả các cơ. Một cơ có thể tiếp nhận ấy vốn là cơ Phổ Hiền, bởi vì một cơ tức là tất cả các cơ. Vả lại, danh hiệu này nếu theo Tiểu thừa thì tức là Thật danh. Tam thừa Sơ giáo thì tên gọi tức Giả-tức Không. Chung giáo thì tên gọi này tức là bình đẳng giống với Chân như, kinh nói: Danh tự lìa xa tánh, thì gọi là giải thoát. Đốn giáo thì tất cả đều không còn tên gọi, không có tên gọi cùng lìa xa. Viên giáo cũng cùng lìa xa bởi vì không chướng ngại tên gọi. Nay một tên gọi tức là tất cả tên gọi, tất cả tên gọi hòa vào một tên gọi mà không làm hỏng-không ngăn ngại, thâu nhiếp hết tất cả pháp giới, gọi là Nhân-đà-la võng.

Hỏi: Đại thiên thế giới này, theo kinh luận khác thì trong Đại Vi Sơn bằng phẳng có đủ 100 ức thế giới hệ, Thượng phương-Hạ phương không thể nào lại có thế giới hệ, nếu Thượng-Hạ đều có thì mỗi một thế giới hệ đều có Thượng-Hạ, vì vậy phải có 300 ức, vì sao vẫn nói chỉ có 100 ức?

Đáp: Nếu như thật xứ của Tiểu thừa thì lý không có gì thay đổi; nếu Tam thừa thì tuy là Không-Chân như…, mà không ngăn ngại sự cho nên không làm hỏng sự vốn có; nếu sự này là Nhất thừa thì vô ngại viên dung tự tại, vì thế cho nên trong này trình bày về xứ tùy theo giáo mà viên dung, thuận theo mười số để hiển bày vô tận. Một cõi Ta-bà này có hai loại dung hòa: Một là lấy nơi thuyết pháp mà làm trung tâm, làm thành chủ-bạn dung hòa 100 ức thế giới hệ ấy khiến cho có ThượngHạ, làm cho được tròn vẹn vì thế không có 300 ức. Hai là dù cho một thế giới hệ bên cạnh Vi Sơn gần phương Đông nhất là chủ thuyết pháp, chính là trung tâm dung hòa những thế giới hệ kia, mà vẫn có đầy đủ quyến thuộc mười phương, bởi vì các thế giới hệ đều hướng về nơi khác là bạn, hướng về chính mình là chủ, vậy thì Vi Sơn cũng tùy theo dung hòa thay đổi. Nghĩa về dung hòa của các cõi khác khắp mười phương dựa theo như vậy. Đây là dựa theo Nhất thừa giáo. Nếu dựa theo Tam thừa giáo thì không có thể như vậy, như kinh luận khác giải thích.

Ta-bà, Trung Hoa nói là Kham Nhẫn, kinh Bi Hoa nói: “Chúng sinh trong cõi này vì những sai lầm như tham-sân-si…, Phạm Vương nén chịu đựng điều đó cho nên lấy làm tên gọi.” Kinh Phóng Bát nói v..v… Tu-bồ-đề, Trung Hoa nói là Thiện Thật; Ha-ni, Trung Hoa hoặc nói là nghĩa về Xả, hoặc nói là sinh diệt, bởi vì ngôn ngữ này khó mà xác định. Bà-già-bà có sáu nghĩa v..v… Y-na-bà-na, Trung Hoa nói là Vương Lâm, nghĩa là lúc Đức Phật còn làm Thái tử, sinh ở trong rừng này cho nên lập ra tên gọi này.

Trong phần sau là giải thích về nguyên cớ khác nhau có ba: 1) Nhắc lại căn cơ; 2) Thi thiết giáo hóa; 3) Ý của giáo hóa.

Trong phần 1 có hai ý: Một nói là những danh hiệu này khắp nơi pháp giới, hãy còn tự mình tạm thời dựa vào Đức Phật có duyên có thể giáo hóa chúng sinh mà có sai biệt này, chứ không phải là nói tất cả. Hai nói là căn cơ này sao có thể có duyên với Phật, nghĩa là Đức Phật xưa kia trải qua nhiều kiếp tu hành, thấy nghe tùy hỷ… cho nên có duyên (lại có nghịch thuận v..v… như trong biệt kí)

Trong phần hai là thi thiết giáo hóa có năm câu: a) Câu đầu nói tổng quát về ba Luân nhiếp hóa khéo léo; b) Phương tiện của ngữ nghiệp; c) Phương tiện của thân nghiệp; d) Phương tiện của ý nghiệp; e) Thi thiết giáo hóa hợp với căn cơ.

Lại giải thích: a) Câu đầu là thân hiện rõ oai nghi, bởi vì thâu nhiếp chúng sinh cho nên nói là đủ loại phương tiện; b) Ngữ nghiệp là Phạm âm…; c) Pháp đã thuyết đó là vì trời-người mà nói về nghiệp báo…, vì hàng Nhị thừa mà nói về Quyền đạo tức là Tứ Đế.

Trong phần ba là ý của giáo hóa, đó là tùy ý nói về các pháp như trời-người-Nhị thừa…, muốn làm cho tất cả nhận biết về pháp của Như Lai.

Phẩm 4: TỨ ĐẾ

Bốn môn giống như trước:

1. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Tứ là số đếm, Đế là nghĩa lý, đó là bởi vì lý thật có thể phát sinh hiểu biết không trái ngược, cho nên cùng gọi là Đế, tức là Đới số thích. Phẩm này không phải là giải thích về nghĩa của Tứ Đế, mà chỉ trình bày về tên gọi không giống nhau của Tứ Đế, cho nên gọi là phẩm Tứ Đế.

2. TRONG Ý đưa ra có năm: Một là giải thích về phẩm trước thành tựu nghĩa của Mạt Quyền đạo; hai là y theo thân nghiệp trước đây cho nên tiếp đến phân rõ về ngữ nghiệp; ba là trước đây trình bày về tên gọi không giống nhau của người chủ động thuyết pháp, phẩm này trình bày về tên gọi không giống nhau của pháp đã thuyết, cho nên đưa ra; bốn là đáp câu hỏi về Phật thuyết pháp trong phần hỏi trước đây; năm là giải thích về căn cơ trước đây thành tựu đã phù hợp trở thành tướng Quyền giáo khác nhau trong pháp sai biệt, cho nên tiếp theo đưa ra.

3. TÔNG THÚ: Dùng vô biên Đế hải rất sâu xa làm Tông, cho đến giống như Độ hải trước đây. Nghĩa về Tứ Đế tóm lược đưa ra năm môn: 1) Giải thích tên gọi; 2) Phân rõ về tướng; 3) Thể tánh; 4) Nghiệp dụng; 5) Chủng loại (đưa ra ở lúc khác).

4. TRONG GIẢI THÍCH văn có ba: 1) Trình bày về tên gọi của Đế ở cõi này; 2) Phân rõ về tên gọi của Đế trong mười thế giới ngoài cõi Ta-bà này; 3) Hiển bày về tên gọi của Đế ở các thế giới khắp hư không ngoài mười thế giới.

Trong phần một, trong bốn Đế thì mỗi một Đế đều có ba: Một là nêu ra tên gọi; hai là kết luận về số; ba là phân rõ về ý, nghĩa là vì ứng với cơ để điều phục cho nên lập ra tên gọi này. Điều là điều hòa, Phục là chế phục, nghĩa là điều hòa thuần thục thân-khẩu-ý nghiệp, chế phục diệt trừ những tâm hành ác. Vì sao Văn Thù thuyết giảng? Bởi vì trình bày về Diệu Tuệ khéo léo thông hiểu nghĩa của Thật đế. Lại vì sao chỉ hiển bày bốn Đế sai biệt? Đó là bởi vì Quyền giáo sai biệt dễ dàng nhận biết. Lại bởi vì dựa vào pháp để hiển bày là thế nào? Nghĩa là bởi vì pháp Tiểu thừa này hạn chế vào nơi chốn mà hãy còn có sai biệt không giống nhau ở khắp thế giới hư không như vậy, thì biết pháp của Nhất thừa nối thông các phương sai biệt vô biên, cho nên lý không nghi ngờ gì. Lại bởi vì phá chấp mà dẫn dắt cơ là thế nào? Nghĩa là bởi vì phát triển về pháp hạn chế của Tiểu thừa kia khiến cho rộng khắp, làm mất đi chấp trước vốn có, đã hiển bày về pháp giới vô biên của Nhất thừa, khiến cho hướng vào nơi ấy. Vả lại, đây là dựa theo Cọng giáo Nhất thừa làm quy phạm, cho nên tiếp nhận tất cả phần vị dưới. Tập là sinh ra Khổ cho nên nói là Khổ Tập, Diệt là không còn Khổ cho nên nói là Khổ Diệt, đến Đạo của Khổ Diệt cho nên nói là Đạo Diệt Khổ, không thể nào chỉ nói riêng là Khổ Đạo, bởi vì Đạo không phải là sinh ra Khổ, không giống như Tập; lại không phải là Diệt Khổ, không giống như Diệt. Nhưng có thể chứng Diệt nên nói là Đạo của Diệt, bởi vì Diệt là Khổ Diệt cho nên nói là Đạo Diệt Khổ. Văn còn lại có thể biết.

Phẩm 5: NHƯ LAI QUANG MINH GIÁC

Bốn môn giống như trước:

1. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Nghĩa là quang minh của Như Lai; mở thông giác ngộ là quang minh, đó là dựa vào Thể khởi Dụng, dựa vào Dụng thành tựu lợi ích, đều là Y chủ thích có thể biết.

2. Ý : đưa ra có bảy 1) Trước đây trình bày về thân-ngữ, nay trình bày về ý nghiệp cho nên đưa ra. 2) Bởi vì đáp riêng biệt câu hỏi về thế lực công đức… trước đây. 3) Bởi vì hai phẩm trước riêng biệt trình bày về người và pháp khắp nơi, phẩm này là cùng hiển bày cả hai khắp nơi. 4) Bởi vì trước chỉ luận về tên gọi của Phật rộng khắp mọi nơi, phẩm này hiển bày về thật đức của thân Phật cũng rộng khắp; trước nói về Tứ đế Quyền giáo rộng khắp mọi nơi, phẩm này phân rõ về mười kệ Thật giáo cũng rộng khắp, đó là trường hàng và tụng, là hai nơi. 5) Bởi vì đoạn trừ nghi ngờ, nghĩa là phẩm trước Văn Thù nói về tên gọi của Phật-tên gọi của pháp sai biệt rộng khắp mọi nơi, sợ rằng Đại chúng nghi ngờ, cho nên Đức Phật dùng ánh sáng nơi thân chiếu rọi hiện rõ sự việc ấy khiến cho Đại chúng tận mắt nhìn thấy, lưới nghi tự tiêu tan, cho nên đưa ra. 6) Không phải là cứ như trước chỉ có tên gọi của Phật, tên gọi của Đế rộng khắp thế giới như pháp giới hư không, mà nay Như Lai ngay lúc này thuyết về kinh Hoa Nghiêm cũng như vậy rộng khắp tất cả thế giới cùng tận hư không, tất cả đều là Thời giống nhau-Xứ giống nhau-Chúng giống nhau-Thuyết giống nhau, chính mình nghiệm thấy làm quy phạm phép tắc về sau, cho nên đưa ra. 7) Tên gọi của Phật, tên gọi của Đế trước đây thì nhiều, tên gọi riêng biệt-rộng khắp riêng biệt, bởi vì đều là Quyền; nay trình bày về một Pháp-một Hội tức là viên dung rộng khắp, bởi vì đều là dựa theo Thật. Lại phẩm trước là sai biệt rộng khắp, phẩm này là vô sai biệt rộng khắp, cho nên tiếp tục đưa ra.

3. TÔNG THÚ: Trước là Tông, sau là Thú. Tông có hai: 1) Khai; 2) Hợp.

Trong khai có ba: a) Ánh sáng chủ động chiếu rọi, b) Cảnh do ánh sáng đã chiếu rọi, c) Do chiếu rọi mà thành tựu giác ngộ. Ba phần này đều có hai: Một là ánh sáng của Thân chiếu rọi cảnh về Sự khiến cho Đại chúng nhìn thấy hiểu rõ, Sự không có gì giới hạn ngăn ngại, tức là trường hàng đã phân rõ; hai là ánh sáng của Trí chiếu rọi cảnh về Lý khiến cho Đại chúng nhìn thấy hiểu rõ, Lý không có gì sai biệt, tức là trong tụng đã trình bày.

Hai là hợp, bởi vì Lý-Sự cùng dung hòa chỉ có một cảnh, cho nên

đạt được một Sự thì rộng khắp vô biên mà không làm hỏng tướng vốn có. Bởi vì cảnh không hai, cho nên ánh sáng của Thân tức là ánh sáng của Trí, chỉ một ánh sáng Vô ngại, như kinh Niết-bàn nói: “Ánh sáng này không có tướng, không phải là xanh mà thấy là xanh.” Lại cũng bởi vì Sự giác tức là Lý giác, bình đẳng chỉ một giác. Lại bởi vì ánh sáng này không khác với cảnh của giác, ba pháp viên dung chỉ một pháp giới, tuy bình đẳng không còn tướng mà có đủ tất cả luôn luôn không tạp loạn, bởi vì không có gì chướng ngại.

Hai là trình bày về ý thú, hiển bày về Lý-Sự vô ngại này có nhiều ý thú, tóm lược nói là năm loại: 1) Gần thì làm cảnh thụ động Tín cho Bồ-tát trong Tín. 2) Xa thì làm quy phạm cho một Bộ ở văn sau, bởi vì trong các Hội sau đều kết luận nối thông nói rằng tất cả thế giới cũng nói như vậy, là chỉ về văn này. 3) Bởi vì hiển bày Như Lai xuất thế dùng Nhất thừa Viên giáo hướng về một loại thế giới như núi Tu-di-lâu… để làm phạm vi thi thiết giáo hóa. 4) Bởi vì hiển bày một Hội tức là tất cả các Hội, cho nên quyển thứ nhất nói là thân ấy an tọa khắp nơi tất cả đạo tràng. 5) Hiển bày về Lý-Sự đều không có gì chướng ngại, vốn là khiến cho chúng sinh bỏ chấp theo pháp.

4. GIẢI THÍCH VĂN: Ánh sáng này đã chiếu rọi khắp nơi không có giới hạn, đại khái tổng số có 25 lớp, 9 lớp trước nói riêng biệt, 1 lớp sau phân rõ như nhau, là thành mười đoạn. Trong này không phải là 25 lần phát ra ánh sáng, cũng không phải là một lần phát ra ánh sáng theo thứ tự dần dần chiếu rọi 25 nơi, chỉ một lần phát ra ánh sáng thì cùng lập tức chiếu rọi, hiển hiện cùng một lúc, bởi vì dẫn dắt căn cơ tiến vào pháp khiến cho dần dần nhìn thấy, từ gần đến xa cho nên có thứ tự.

Ở trong đoạn thứ nhất có hai: Trước là Đức Phật dùng ánh sáng của thân soi chiếu Sự, khiến cho Đại chúng được trông thấy; sau là Văn Thù dùng ánh sáng của trí để thuyết pháp, khiến cho Đại chúng được nghe.

Trong phần trước có hai: 1) Trình bày về ánh sáng chủ động soi chiếu; 2) Trình bày về cảnh đã soi chiếu.

Trong phần một, đầu là người phát ra ánh sáng, tiếp là nơi ánh sáng phát ra, sau là hiển bày về số ánh sáng. Tướng vòng xe dưới chân phát ra ánh sáng có ba ý: a) Nghĩa ban đầu, biểu thị về Tín làm đầu tiên của vạn hạnh; b) Nghĩa dưới thấp, biểu thị về Tín hành nhỏ bé nhất; c) Nghĩa căn bản, biểu thị về Tín là gốc của vạn hạnh. Trí Luận quyển thứ 9 nói: “Dưới chân phát ra ánh sáng là thân đạt được trú xứ đều do nơi chân.” Là nói đến điều này. Trăm ức quang minh, bởi vì thế giới đã soi chiếu tuy là vô biên nhưng đều là thế giới Tu-di-lâu sơn, cho nên đều có trăm ức thế giới hệ… vốn là đã soi chiếu, vì thế quang minh cũng chỉ có trăm ức.

Trong phần hai, đã soi chiếu hiện rõ có hai: a) Trình bày về soi chiếu hiện rõ sự nhiễm-tịnh… trong Đại thiên thế giới; b) Từ “Như thử kiến Phật…” trở xuống là trình bày về soi chiếu hiện rõ tướng rộng khắp mọi nơi từ pháp hội.

Trong phần a có bốn: Một, hiện rõ cõi người, bên bờ biển này có đại thọ tên gọi Diêm-phù-đề, dựa vào cây này lập ra tên gọi của châu này. Phất-bà-đề, Trung Hoa nói là Thắng Thân, bởi vì người sinh ở cõi ấy thân đều thù thắng. Cẩu-già-ni, Trung Hoa nói là Ngưu Hóa, bởi vì ở cõi ấy dùng trâu làm hàng hóa trao đổi. Uất-đơn-việt, Trung Hoa nói là Thắng Sinh, bởi vì xác định sống thọ ngàn tuổi, áo cơm tự nhiên. Hai, hiện rõ Phật xuất thế, ở trong tám tướng, ba tướng đầu chưa phải là tướng xuất hiện cho nên ở đây không luận đến.

Hỏi: Đức Phật mới thành đạo trong bảy ngày thứ hai, phát ra ánh quang minh này làm sao lại hiện rõ về đời sống lúc còn làm Bồ-tát…? Vả lại, Đức Phật mới xuất thế, vì sao lại hiện rõ là có Bát Niết-bàn? Đáp: Văn sau nói, ở trong một niệm hiển bày rõ ràng tất cả Phật sự của ba đời, đây là trình bày về hiện tại thâu nhiếp quá khứ-vị lai.

Hỏi: Nếu như vậy thì sao không hiện rõ sự việc của vô lượng kiếp ấy?

Đáp: Ý văn trong này bởi vì chỉ luận về sự việc của Đức Phật xuất hiện trong thế giới này, cho nên không nói đến điều gì khác mà thôi.

Ba, hiện rõ chư Thiên có thể biết. Bốn, thế giới này… là một câu tổng quát kết luận về tất cả những gì hiện rõ.

Trong phần b hiện rõ từ pháp hội có hai: Một, hiện rõ Hội này; hai, từ “Dĩ Phật thần lực…” trở xuống là hiện rõ chúng mới đến quy tụ. Trong đó, thần lực của Phật là trước thì như cảnh tượng ấy mà hiện bày thần lực. Trong chúng đã quy tụ có ba thế gian… có thể biết. Lại như ánh sáng nơi này soi chiếu vô biên thế giới, mỗi một chúng hội thảy đều hiển bày rõ ràng, mỗi một hội kia cũng đều như vậy, ánh sáng soi chiếu vô biên bởi vì pháp không hai, cùng với nơi này không khác nhau. Lại các ánh sáng đan xen qua lại không trở ngại nhau, bởi vì đều thấy ánh sáng nơi ấy soi chiếu nơi khác, không thấy ánh sáng nơi khác soi chiếu đến mình. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì chủ với chủ-bạn với bạn đều không song song, bởi vì chủ-bạn và bạn-chủ đều không trái nhau.

Hỏi: Các Hội này vì sao hiển bày lẫn nhau?

Đáp: Có hai tướng: Một là bởi vì ánh sáng này soi chiếu nơi kia, khiến cho nơi kia hiện rõ nơi này thâu nhiếp thành một Hội, nơi kia cũng như vậy. Điều này giống như chư Phật phân thân trong Pháp Hoa. Hai là ngay một Hội này, Đức Phật và Văn thù đều dung hòa khắp nơi pháp giới, là tất cả các Hội. Bởi vì trong Viên giáo không có một pháp nào không phải là tất cả, cho nên một Văn Thù từ phương Đông đến thì tức là Văn Thù ở tất cả mọi nơi trong một lúc cùng đến. Từ đây đi về phương Tây trải qua mọi nơi thuyết kinh Hoa Nghiêm ở vô biên thế giới, cũng thấy Văn Thù đến từ ngoài mười cõi ở phương Đông. Phương Đông cũng như vậy. Chưa có ai thấy Văn Thù đi qua từ hướng Tây, cho đến Hiền Thủ cũng như vậy. Bởi vì là duyên khởi môn không xen tạp của Nhất thừa, suy nghĩ điều này!

Hai là trong Trí quang giác có hai: Trước là nơi này, sau là kết luận nối thông. Trong này ý tụng chỉ dung hòa hội tụ các sự việc do ánh sáng trước đây đã soi chiếu. Trong đó có hai nghĩa: 1) Dựa theo cảnh có ba loại: a) Một tụng đầu trình bày về pháp lìa xa tình; b) Có tám tụng hội tụ Sự giống với Lý; c) Một tụng cuối cùng hiển bày về Sự vô ngại, đều dựa vào phần trước phát khởi phần sau. 2) Dựa theo tâm: Một là sợ rằng Đại chúng thấy sự việc do ánh sáng trước đây đã soi chiếu, tùy theo tướng mà chấp lấy, cho nên kệ đầu dựa theo Phật mà loại bỏ, khiến cho Đại chúng rời bỏ tướng lìa xa sai lầm trái với lý. Lại kinh Niếtbàn nói: “Như Lai không phải là vô lưu, nguyên cớ thế nào? Bởi vì Như Lai thường hành trong hữu lưu.” Lại Phật Địa luận trình bày: “Bởi vì Phật không phải là lưu-không phải là vô lưu.” Hai là sợ rằng Đại chúng phát sinh nghi ngờ, vì sao sự việc này mà có thể rộng khắp mọi nơi? Vì thế tám kệ tiếp hội tụ Sự giống với Lý, khiến cho Đại chúng thấy Chân hiển bày thuận theo pháp đạt được. Ba là nghi ngờ rằng Sự đã giống với Lý thì bình đẳng không hai, vì sao có thể có từng sự việc-sự việc rộng khắp mọi nơi? Vì thế một kệ sau cuối trình bày vốn là Sự của Lý, mà có thể một Sự là vô lượng Sự.

Trong tám tụng, một tụng thứ nhất do trước đã biết Phật là pháp vô lưu thì trở thành sai lầm, chưa biết như vậy thì không có lỗi ư? Nay nói quán Phật vô sở hữu thì không có lỗi, bởi vì pháp công đức của Phật từ duyên không có tánh cho nên tự tan diệt. Lại giải thích là quán Phật và pháp vốn đều lìa tánh, đây tức là hội tụ về Phật phát ra ánh sáng trước đây để trình bày về lìa kiến chấp. Tụng thứ hai là hội tụ về nơi ánh sáng trước đây đã soi chiếu, lại trình bày về y-chánh trước đây đều không còn trú trong chấp trước. Tụng thứ ba là trình bày về y-chánh không hai, lại trình bày về thân Phật và pháp vô lưu đều vô sở hữu cho nên không hai. Tâm tùy ấy là phương tiện quán. Nhập ấy là chính thức chứng về quán. Tụng thứ tư là hội tụ tất cả ba thế gian. Ngã là Ngã chấp của chúng sinh, Phật là Trí chánh giác. Hai chủ-bạn này bình đẳng, hai trú xứ kia là Khí thế gian. Vô sở trú cho nên lìa các cõi (hữu). Vả lại, Ngã là vọng chấp, Phật là Chân trí, đây là nêu ra hai bình đẳng, hai câu sau giải thích về Chân trí, đối với Lý trú vào vô sở trú, đương Thể của vọng Ngã xa lìa đối với cõi. Tụng thứ năm là hội tụ tất cả năm Uẩn, Số là tướng của Tục số duyên khởi, nghĩa là năm Uẩn nếu có thì có thể thuộc về Tục số, bởi vì Uẩn Không cho nên không có Số. Lại hội tụ trăm ức ánh sáng đã phát ra trước đây… và các số lượng thế giới đã soi chiếu…, đều dựa vào trong Sắc-Tâm năm Uẩn mà lập lập, tìm năm Uẩn này thật sự không có Số của nó, cho nên nói là Vô số. Tụng thứ sáu là không còn chủ động quán và thụ động quán (năng-sở quán), không phải là cứ như Không của những thế giới đã thấy, trí của chủ động quán cũng vô sở hữu, lại thấy ấy là người, đây cũng là Không. Tụng thứ bảy là quán về Dụng thường vắng lặng, nghĩa là Đức Phật này xuất thế tức là không có gì khởi. Lại như lý Không này hiện rõ trước mắt gọi là Phật xuất hiện, thì Không Phật gọi là không có gì khởi. Tụng thứ tám là quán về hai Không, câu trước là Nhân Không, câu tiếp là Pháp Không. Chuyển tướng như vậy thì một là dựa theo chấp chuyển hết tướng của hai chấp, hai là chuyển tướng hiện rõ lý về hai Không, đều một câu sau cuối trình bày về lợi ích của quán, đều có thể biết.

Trong một giải thích về vô lượng, là trình bày trong một Hội này…mà có vô lượng Hội…, trong vô lượng Hội… mà là một Hội, là nơi mà ánh sáng trước đây đã soi chiếu. Trong đó, hai câu đầu là nêu ra, một câu tiếp là giải thích, một câu sau cuối là lợi ích.

Trong nêu ra luận chung về Hội này có cùng Thể-khác Thể, đều có dung chứa nhau-ngay trong nhau, dựa theo giải thích ở trên nên biết. Văn này lại trình bày về dung chứa nhau, cho nên nói một trong vô lượng…, nhưng gồm chung đồng Thể-khác Thể.

Hai là trong giải thích sơ lược nêu ra hai nhân để giải thích: 1) Bởi vì lần lượt chuyển tiếp sinh ra; 2) Bởi vì không phải là thật.

Môn một lần lượt chuyển tiếp sinh ra: Là tổng quát thu nhận như duyên sai biệt tận cùng pháp giới này làm thành một duyên khởi, vì vậy từng các duyên một hướng về nhau đều có hai nghĩa: a) Dựa theo Thể, đầy đủ nghĩa Không-Hữu cho nên có ngay trong nhau (tương tức), nghĩa là nếu không có một thì tất cả các duyên đều mất đi tự Thể. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có một thì nhiều không hề có thành tựu, không hề có thành tựu cho nên không phải là duyên. Vì vậy, có một thì có tất cả, mất một thì mất tất cả, ngay trong tất cả này vốn là nghĩa về Không. Phai mờ Tự tức là Tha, bởi vì một là nghĩa về Hữu, cho nên thâu nhiếp Tha tức là Tự, ngược lại với trên. Tức một là nghĩa về Không cho nên cũng phai mờ Tự tức là Tha. Nhiều là nghĩa về Hữu cho nên thâu nhiếp Tha tức là Tự. Bởi vì hai Không-hai Hữu đều không đi cùng cho nên lúc không có thì không ngay trong nhau; một Không-một Hữu không trở ngại nhau, cho nên luôn luôn có ngay trong nhau. Lại bởi vì trong mỗi một duyên Không-Hữu không hai cho nên không làm hỏng Tự mà tức là Tha, suy nghĩ về diệu nghĩa này. b-Dựa theo Dụng, bởi vì có nghĩa về có lực-không có lực, cho nên có hòa vào nhau (tương nhập), nghĩa là các duyên khởi không phải là đều ít lực mà cùng sinh, tức là mỗi một duyên đều có nghĩa về toàn bộ dấy lên-nghĩa về toàn bộ không dấy lên. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu không có một duyên thì những duyên khác đều không dấy lên, là do một duyên có lực mà những duyên còn lại đều không có lực, duyên khác cũng như vậy. Đây tức một duyên có lực cho nên có thể dung nạp nhiều duyên, nhiều duyên không có lực cho nên kín đáo hòa vào một duyên; nhiều duyên có lực… cũng như vậy. Cũng do hai có lực-hai không có lực không đi cùng cho nên lúc không có thì không hòa vào nhau; một có lực-một không có lực không trở ngại nhau, cho nên luôn luôn hòa vào nhau mà thôi. Lại ở trong mỗi một duyên đều do có lực-không có lực không hai, cho nên không làm hỏng ở bên ngoài mà luôn luôn hòa vào nhau, suy nghĩ điều này. Bởi vì trong môn duyên khởi có nghĩa như dấy lên lẫn nhau (tương tác)… này mà thành một-nhiều, cho nên nói lần lượt chuyển tiếp sinh ra. Ngay trong một-nhiều này trải qua lẫn nhau lần lượt chuyển tiếp sinh ra nhau, cho nên đạt được một trong vô lượng, vô lượng trong một.

Môn hai bởi vì không phải là thật, cũng có hai môn: a) Nghĩa về ngay trong nhau, nghĩa là một không phải là thật một cho nên có thể thâu nhiếp nhiều, nhiều không phải là thật nhiều cho nên có thể ngay trong một. Lại nhiều không phải là thật nhiều cho nên có thể thâu nhiếp một, một không phải là thật một cho nên có thể ngay trong nhiều. Lại một của ngay trong nhiều không phải là một, nhiều của ngay trong một không phải là nhiều. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không thật. Lại một của ngay trong nhiều mới gọi là một, nhiều của ngay trong một mới gọi là nhiều. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì là không thật một. Nhiều cũng như vậy. Lại là cũng một-cũng không một, cũng nhiều-cũng không nhiều.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không thật vốn có đủ hai nghĩa. Lại không phải là một-không phải là không một, không phải là nhiều-không phải là không nhiều. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không thật vốn không còn hai tướng, suy nghĩ điều này. b-Môn dung nạp nhau, nghĩa là một Sự là không thật bởi vì không có tánh, Chân lý không có tánh đã không có phạm vi giới hạn, vì vậy lúc ở trên một Sự quán về không có tánh, không có gì không đầy đủ toàn bộ pháp giới Chân như. Nếu lúc quán một ít Sự không có tự tánh, thì không có thể đầy đủ toàn bộ pháp giới Chân như, tức là Chân như có phạm vi giới hạn, vẫn giống như hữu vi. Vì vậy một Sự không có tánh thì thâu nhiếp toàn bộ Chân, thâu nhiếp toàn bộ Chân thì tất cả các pháp khác đã không ngăn ngại tồn tại, mà tức là Chân cho nên giống như Lý cùng hiện rõ ở trong một Sự; trong nhiều cũng như vậy, dựa theo đây. Lại bởi vì đều không làm hỏng Sự vốn có cho nên không phải là môn ngay trong nhau. Bởi vì Sự của không thật thâu nhiếp Chân lý cho nên có thể hòa vào nhau. Lại có thể lần lượt chuyển tiếp sinh ra trước đây dựa theo khác Thể ngay trong nhau-hòa vào nhau, môn này dựa theo cùng Thể ngay trong nhau-hòa vào nhau, suy nghĩ điều này.

Lại chỉ trong kinh này giải thích về nghĩa ngay trong nhau-hòa vào nhau đều có hai môn: 1) Dựa theo tướng duyên khởi do môn; 2) Dựa theo pháp tánh dung thông môn. Vốn là hai văn này. Lại bởi vì lần lượt chuyển tiếp sinh ra cho nên không thật, tức là hai môn không khác nhau. Lại bởi vì hai môn ngay trong nhau-dung nạp nhau, đều thâu nhiếp toàn bộ các pháp cho nên cũng không khác nhau, nhưng nghĩa luôn luôn không xen tạp, suy nghĩ điều này. Ở đây văn sau cùng với văn này giống nhau, thích hợp dựa theo đây biết được. Văn này lại dựa theo nghĩa dung nạp nhau mà nói, cho nên nói là một trong vô lượng…, nhận biết điều này. Lợi ích của quán là thông hiểu chánh lý này đối với duyên không sợ hãi, cho nên nói là Vô sở úy; bởi vì cảnh và pháp vô ngại, do đó làm cho trí không có gì sợ hãi.

Trong phần sau là kết luận nối thông, chỉ kết luận về trăm ức xứ Diêm-phù trong một thế giới Ta-bà này, không phải là thế giới khắp nơi hư không ở văn sau… Theo thứ tự hai tầng nói: Văn Thù nhất thiết xứ, chỉ là mười quốc độ Phật ở mười phương đều có trăm ức xứ, không phải là xứ ở tầng thứ ba, cho đến cuối cùng mới là toàn bộ pháp giới. Ý văn như vậy nên biết.

Tầng thứ hai soi chiếu mười phương đều có mười thế giới. Trường hàng giống như trước, trong kệ phân làm hai: Đầu là sáu kệ ca ngợi Đức Phật, sau là bốn kệ ca ngợi Bồ-tát. Trong phần đầu: 1) Hiển bày về nhân cầu đạo của Phật; 2) Chuyển chánh pháp luân, câu đầu là nêu ra, câu tiếp giải thích về không Thường, hai câu sau cuối giải thích về không Đoạn; 3) Đại thệ làm căn bản; 4) Từ lực chế phục ma; 5) Chứng Trí đoạn bên trong; 6) Lợi ích của trí giáo hóa bên ngoài.

Trong phần sau ca ngợi Bồ-tát: 1) Đi qua các cõi; 2) Niệm Phật; 3) Cứu khổ; 4) Hộ pháp, đều là câu sau cuối kết luận về nhân quả.

Tầng thứ ba soi chiếu mười phương đều có trăm thế giới. Trong kệ đưa ra hai giải thích: Một giải thích là một kệ đầu ca ngợi về đức của Báo thân, chín kệ còn lại ca ngợi về đức của Hóa thân. Trong một kệ trước, hai câu đầu trình bày về đức của Đại Trí, một câu tiếp là đức của Đại Định, một câu sau cuối là đức của Đại Bi. Lại giải thích: Dùng Lý trí soi chiếu Chân, cho nên hiểu rõ các pháp như Không, đạt được tâm thanh tịnh vô ngại; dùng Lượng trí rõ ràng về Tục, cho nên hiểu rõ các pháp như Huyễn, có thể điều phục quần sinh. Hai giải thích rằng một kệ đầu là tổng quát, chín kệ còn lại là riêng biệt. Trong tổng quát, do ứng với cơ mà hiện khởi, cho nên như huyễn, khiến cho trông thấy sai biệt. Do mẫu mực mà không khởi, cho nên như Không, bình đẳng cùng chung một vị. Do khởi-không khởi không có hai, điều phục chúng sinh thì tâm thường thanh tịnh, cho nên nói là vô chướng ngại. Trong chín kệ sau đều có đủ nghĩa về không hai này, cho nên Dụng thường vắng lặng. Lại ba câu trước trình bày về Thể của duyên khởi thanh tịnh, một câu sau cuối trình bày về duyên khởi. Chín kệ sau dùng Thể thuận theo duyên, chính thức trình bày về tướng của duyên khởi. Trong đó hoặc là thấy thì có ba nghĩa: 1) Dựa vào một người thấy ở thời gian khác nhau, nghĩa là như lúc đầu thấy mới sinh ra, cho đến về sau thấy Niết-bàn, lần lượt mà thấy. 2) Nhiều người thấy cùng một lúc, nghĩa là có người thấy lúc đang thuyết pháp thì từ trong ấy có người thấy Niết-bàn…, đều không có gì chướng ngại, không trông thấy lẫn nhau. 3) Một người thấy cùng một lúc, nghĩa là thấy lúc mới sinh ra, trong đó thì thấy Niết-bàn…, như tám tướng tinh tế… ở văn sau. Bởi vì tâm thanh tịnh vô ngại, cho nên có thể dung hòa trọn vẹn ứng với khắp nơi.

Trong đó: 1) Mới sinh ra; 2) Lúc đi bảy bước; 3) Lúc quay đầu lại nhìn mười phương; 4) Lúc Sư tử gầm lên nói trên trời dưới đất chỉ có Ngã là tôn quý; 5) Xuất gia; 6) Thành đạo; 7) Chuyển pháp luân; 8) Hiện bày thần lực; 9) Nhập Niết-bàn.

Tầng thứ tư soi chiếu một ngàn thế giới. Trong kệ phân làm ba: Đầu là hai kệ trình bày về Pháp thân, tiếp là bốn kệ phân rõ về Giải thoát, sau là bốn kệ trình bày về Bát-nhã.

Trong phần Pháp thân, một kệ đầu trình bày về lý thích ứng với duyên khởi, nghĩa là câu đầu nêu rõ sâu xa, những câu sau giải thích về không có tướng đã đạt được, cũng không có trí có thể đạt được, nhưng không trú vào pháp này cho nên ứng với cơ mà hiện rõ; một kệ sau trình bày về hiện rõ tức là không hiện rõ, cho nên lìa xa các trần.

Trong phần tiếp là Giải thoát có ba: Một kệ đầu thế nào là Giải thoát, nghĩa là câu đầu trình bày về Thể của giải thoát; ba câu sau trình bày về Dụng của giải thoát, nghĩa là cơ cảm tương ưng gọi hòa hợp mà khởi lên. Hai kệ rưỡi tiếp phân rõ về giải thoát nơi nào, nghĩa là một kệ đầu lìa ràng buộc của khổ, lìa Phần đoạn cho nên không thuộc về thế gian, lìa Biến dịch cho nên gọi Sư tử giữa loài người; một kệ tiếp lìa ràng buộc của nghiệp, nghĩa là căn-cảnh vốn Không, nghiệp hư vọng không còn cho nên cùng thoát ra, một câu tiếp lìa ràng buộc của phiền não, một câu tiếp gồm chung kết luận vĩnh viễn không còn cho nên chảy dài không chuyển đổi. Nửa kệ sau cuối trình bày về nhờ vào đâu mà giải thoát, nghĩa là nhờ vào Tự lợi-Lợi tha viên mãn, nói như văn.

Trong phần sau là Bát-nhã có ba: Một kệ đầu soi chiếu về Chân, hai kệ tiếp là hiểu rõ về Tục, một kệ sau cuối là cùng kết luận về ChânTục dung hòa vô ngại.

Tầng thứ năm soi chiếu một vạn thế giới. Trong kệ khuyến khích các Bồ-tát tu mười loại nghiệp: 1) Nghiệp về Từ Bi; 2) Nghiệp về Tín tâm niệm Phật; 3) Nghiệp về Tuệ thiện; ) Nghiệp về không gián đoạn; 5) Nghiệp về trải qua thời gian dài; ) Nghiệp về quán Thật tướng của thân; 7) Nghiệp về quán Thật cảnh của tâm; ) Nghiệp về thần thông; 9) Nghiệp về phân biệt quốc độ của Phật; 10) Nghiệp về nhận biết rõ ràng nhiều Đức Phật. Ở trong mười nghiệp này, một nghiệp đầu là duyên với hành của chúng sinh; bốn nghiệp tiếp là duyên với hành của Đức Phật, một là Tín, hai là Tuệ, ba là Quán, bốn là Cầu; hai nghiệp tiếp là tiến vào quán hạnh, một là Tự, hai là Tha, lại một là Thân, hai là Tâm; ba nghiệp sau cuối là khởi lên tác dụng thực hành, một nghiệp đầu là tác dụng của thần thông, hai nghiệp sau là tác dụng của trí, một là biết về quốc độ, hai là biết về Phật.

Tầng thứ sáu soi chiếu mười vạn thế giới. Trong kệ dựa vào bản Phạm, mỗi bốn câu làm một tụng, gồm có 11 kệ. Trong đó có hai: Đầu là sáu kệ bảy chữ trình bày về Thể tánh tịch diệt của Phật, sau là năm kệ năm chữ trình bày về diệu dụng tự tại.

Trong phần đầu: Một kệ đầu trình bày về chấp vào Sắc là trái với Chân. Hai là Diệu tướng vượt quá tình thức. Ba là hiển bày về nguyên cớ vượt quá tình thức, nghĩa là dùng không phải là tướng để làm tướng. Bốn là tướng ngay nơi không phải tướng, cho nên không có hợp lại-tản ra. Năm là trình bày về Phật không có năm Uẩn. Nếu dựa theo Tiểu thừa thì Phật có năm Uẩn hữu lậu, như Tỳ-bà-sa… nói. Nếu dựa vào Thỉ giáo thì Phật có năm Uẩn vô lậu, như Thành Duy Thức… nói. Nếu là Chung giáo và Đốn-Viên giáo thì Phật không có năm Uẩn vô lậu, như Phật Địa luận nói: “Nghĩa như thật là thân-độ của Như Lai vô cùng vi diệu cho đến không phải là các pháp môn như Uẩn-Giới… thâu nhiếp, chỉ tùy theo những gì thích ứng mà nói đủ loại khác nhau.” Sáu là trình bày về trong tâm-ngoài thân của Phật không khác, bởi vì cùng giải thoát, bởi vì không có hai, bặt dứt sắc-tâm.

Trong phần sau là diệu dụng có ba: Một kệ đầu là ánh sáng của Trí soi chiếu. Hai kệ tiếp là thân hướng đến cảm ứng vô ngại, một kệ đầu là một-nhiều vô ngại, một kệ sau là lý-sự vô ngại. Hai kệ sau cuối nêu ra Vọng để hiển bày về Chân, một kệ đầu là nêu ra Vọng, một kệ sau là hiển bày về Chân. Như vậy chân thật là vọng tưởng trước đây, bởi vì người mê cho rằng vọng là thật mà không thấy thật của vọng, người ngộ thấy vọng không có thật tức là thấy thật của vọng, bởi vì hợp với pháp vọng. Lại bởi vì người mê có vọng mà không nhận biết vọng cho nên không có thật của vọng, người ngộ không có vọng cho nên nhận biết vọng, nhận biết vọng cho nên đạt được thật của vọng, suy nghĩ điều này.

Tầng thứ bảy soi chiếu trăm vạn thế giới. Trong tụng có mười kệ: Một kệ đầu là một mình vượt lên trên thế gian. Hai là khéo léo bặt dứt tâm-cảnh, không có nương tựa thì không có cảnh. Ba là tánh đối trị lìa nhiễm, câu trước là tánh lìa xa, câu tiếp là đối trị lìa xa, hai câu sau là giải thích thành tựu. Bốn là lìa xa Vọng-hiểu rõ Chân. Năm là chuyểnkhông chuyển pháp luân. Sáu là lìa xa tưởng có-không có, gọi là ý nghĩa đích thực. Bảy là dựa theo Chân đế, pháp bặt dứt một-nhiều. Tám là dựa theo Tục đế, trong đó hai câu đầu là một-nhiều không xen tạp, hai câu sau là hiển bày về lợi ích nhận biết rõ ràng.

Hỏi: Trước đây nói trong một hiểu vô lượng…, cùng với điều này trái ngược nhau, làm sao có thể giải thích?

Đáp: Trong này duyên khởi có bốn câu: 1) Trong một có nhiều bởi vì một không có tánh; 2) Trong một không có nhiều bởi vì một không làm hỏng; 3) Trong một cũng nhiều cũng không nhiều, bởi vì không làm hỏng một mà không có tánh, không có tánh mà không ngăn ngại một, cho nên có đủ hai nghĩa; ) Trong một không phải là nhiều cũng không phải là không nhiều, bởi vì hai nghĩa đều dung hòa làm mất đi cho nên cả hai cùng phai mờ. Lại do một cho nên có hai, bởi vì nếu không phải là không có tánh thì làm hỏng một; do hai cho nên có một, bởi vì nếu làm hỏng một thì không có gì không có tánh. Vì vậy hai nghĩa mà chỉ là một sự. Đây là dựa theo Bất hoại, trước là dựa theo Vô tánh, cho nên không trái ngược nhau. Đây tức là bởi vì trong một không có nhiều, cho nên trong một có nhiều; trên ngược lại cũng như vậy. Câu thứ ba và câu thứ tư, cùng-không cùng thuận theo nhau cũng như vậy, cùng vô ngại mà thành lập, suy nghĩ chuẩn xác điều này.

Chín là quán về tướng của ba pháp không còn, gọi là niệm Bồ-đề: Một là các pháp, hai là chúng sinh, ba là quốc độ. Mười là quán về ba pháp như tánh gọi là hiểu rõ về nghĩa của pháp Phật.

Tầng thứ tám soi chiếu một ức thế giới. Phép đếm số của các nước Tây Trúc có ba loại ức: 1) Trăm vạn; 2) Ngàn vạn; 3) Vạn vạn. Văn sau trăm ngàn-trăm ngàn gọi là một Câu-chi, Câu-chi thì Trung Hoa nói là Ức, là một ngàn vạn làm Ức. Trong này dựa vào ngàn vạn làm một Ức, Đối Pháp luận nói v..v… Trong tụng có 20 kệ ca ngợi về lực thiện xảo của Phật, hai tụng là một nghĩa, đều trước là nêu ra những việc làm, một câu sau cuối kết luận do năng lực khéo léo. Trong đó có mười: Một là lực về Trí đoạn viên mãn. Hai là lực về Đại Trí vui với cảnh. Ba là lực về không có công sức mà thành tựu sự việc, trong đó có ba pháp, một là chúng sinh, hai là nơi giáo hóa, ba là nội thiền, đều lìa xa nhiễm trước cho nên nói là năng lực khéo léo. Bốn là lực về Lý-Trí tiến vào Thật. Năm là lực về nêu rõ quả thâu nhiếp chúng sinh. Sáu là lực về Trí tiến vào sâu xa bí mật. Bảy là lực về Cảnh-Trí cùng mất cả hai. Tám là lực về nhớ thời gian rõ ràng nơi chốn. Chín là lực về thông hiểu rõ ràng mọi căn cơ. Mười là lực về khéo léo thông hiểu ba thời gian. Trong đó một loại đầu là dựa theo Tục, một loại sau là dựa theo Chân.

Tầng thứ chín soi chiếu mười ức thế giới. Trong tụng có 20 kệ ca ngợi về hạnh Lợi tha của Đức Phật, cũng hai tụng làm một sự.

Trong đó, hai kệ đầu tổng quát nêu ra ý giáo hóa, 1 kệ tiếp riêng biệt phân rõ về sự giáo hóa, hai kệ sau cuối là kết luận về Dụng giống như Thể.

Trong phần đầu, Sư tử hống là quyết định độ. Trong riêng biệt có tám cặp, đều là một kệ đầu nêu ra đã được cứu giúp, một kệ sau phân rõ về chủ động cứu giúp. Trong cặp đầu, một kệ trước là cứu giúp chúng sinh si-ái, như người rơi xuống biển, do bốn nghĩa khó mà thoát khỏi: 1) Nước sâu; 2) Sóng cao; 3) Bị vướng vào lưới; ) Tối tăm mù mịt cho nên khó thoát; chúng sinh cũng như vậy.

Trong này, ái có hai nghĩa: 1) Đã được nhiều vốn là như biển; 2) Cầu không đủ như nước chảy; si cũng có hai nghĩa: a) Không thấy lầm lỗi cho nên như ngu đần, b) Thấy có vui cho nên đan thành lưới. Một kệ sau là tự mình tinh tiến thực hành là chủ động cứu giúp, tức là cảnh Bi của Phật, cho nên nói là cảnh Phật. Hai là cứu giúp chúng sinh năm dục, nghĩa là năm cảnh như Sắc… làm cho tâm mê mẩn hỗn loạn, thật không có nói là có, cho nên phát khởi vọng tưởng… Ba là cứu độ chúng sinh đắm Ngã, Tuệ là Phật, thời gian này là Ngã, Ngã là gốc của sinh tử cho nên Phật chủ động diệt trừ; ba câu sau là đã được cứu giúp, câu đầu là trước không có ranh giới, câu dưới là sau không có tận cùng, không có Ngã-Pháp là tịch diệt. Bốn là cứu giúp chúng sinh trong nẽo ác, kệ đầu là khổ vô cùng, hai câu sau là khổ sâu nặng. Năm là cứu giúp chúng sinh tà kiến ngoại đạo. Sáu là cứu giúp chúng sinh mê đắm ba cõi. Bảy là cứu giúp chúng sinh vô minh. Tám là cứu giúp chúng sinh luôn luôn vây hãm. Trong hai kệ sau cuối là kết luận, sáu câu đầu là nhân tròn vẹn, câu đầu là có duyên, câu hai là hạnh vốn có, câu ba là nơi thực hành, câu bốn là thực hành nhiều, năm là hai câu thực hành sâu sắc; hai câu sau cuối là quả đầy đủ, bởi vì giống với tất cả các thân của ba thế gian.

Tầng thứ mười có 1 lớp, bởi vì nói riêng biệt khó hết cho nên tổng quát mà luận, cũng có 20 kệ, kệ đầu nêu ra quả ca ngợi về đức, 1 kệ sau trình bày về nhân hướng đến tiến vào.

Trong phần trước, hai kệ đầu là nội trí hợp với Chân, trong đó hai câu đầu là một niệm quán nhiều kiếp, hai câu tiếp là một niệm phai mờ ba đời, hai câu tiếp là biết duyên khởi tức Chân, hai câu tiếp là công thành vỗn có quả. Tiếp có hai kệ trình bày về đức thù thắng nổi bật bên ngoài, trong đó hai câu đầu là tên gọi khắp nơi, hai câu tiếp là lìa nhiễm, hai câu tiếp là thân khắp nơi, hai câu tiếp là thuyết giảng khắp nơi. Hai kệ sau cuối trình bày về nhân quả y-chánh, trong đó trước là phước làm nhân đạt được Y quả, sau là trí làm nhân đạt được Chánh quả.

Trong 14 kệ sau luận chung về giáo tu bảy loại hạnh: Một là hai kệ đầu tu hạnh Tự lợi-Lợi tha, kệ trước là Tự lợi, câu đầu là Phước, câu hai là Nhẫn, câu ba là Định, câu bốn là Tuệ; kệ sau là Lợi tha. Hai là hai kệ thành tựu hạnh thấy Phật, kệ đầu là thấy Ứng, kệ sau là thấy Chân. Thông hiểu rõ ràng tất cả các pháp có-không, không phải là có-không thì có ba môn: 1) Dựa theo ba tánh; 2) Dựa theo ba vô tánh; 3) Dựa theo

0 cả hai dung hòa.

Trong một lại có hai, trước là riêng biệt, sau là tổng quát. Trong riêng biệt, ba tánh đều có hai nghĩa. Trong Sở chấp, một là tình có, hai là lý không có. Trong Y tha, một là huyễn Hữu, hai là tánh Không. Trong Viên thành, một là lìa tướng, hai là Thể thật. Ba loại trên đây, mỗi một loại đều dung hòa không hai vốn là một tánh. Trong tổng quát thì Sở chấp là không có, Viên thành là có, Y tha là cùng có cả hai, bởi vì Chân-Vọng thâu nhiếp đầy đủ hai tướng không còn cho nên không hai.

Hai là dựa theo ba vô tánh, đầu là trong cảnh quán không có tướng, bởi vì Sở chấp có-không đều là hư vọng, lại không có pháp có mà có pháp không có, cho nên cùng lìa. Trong Y tha không có sinh tánh, không có huyễn Hữu mà có tánh Không, không hai cho nên cùng lìa. Trong Viên thành không có tánh, không có hai tánh mà có Chân lý, cũng không hai cho nên cùng bặt dứt.

Ba là dựa theo cả hai dung hòa, ba có-ba không có, viên dung vô ngại, hai tướng bặt dứt cho nên cùng lìa.

Ba là hai kệ khuyên dạy thực hành thuyết pháp, trong đó hai câu đầu là cảnh đã được giáo hóa, Lạc là tin tưởng vui thích, tin tưởng vui thích không phải là một mà đầy khắp mười phương; một câu tiếp là nơi giáo hóa; một câu tiếp là chính thức thuyết giảng; hai câu tiếp là lợi ích giáo hóa, câu trước là lìa nhiễm, câu sau là thành tựu về đức; hai câu sau cuối là công hạnh thành tựu. Bốn là hai kệ thọ pháp thực hành tức là thấy Pháp thân đang thuyết giảng, bởi vì lấy bảy Giác làm Pháp luân. Năm là hai kệ trình bày về rời bỏ tướng thấy Chân hạnh. Sáu là hai kệ về hạnh sinh đến cõi như Phật… Bảy là hai kệ dụ về sinh diệt không có hạnh căn bản. Trên đây là đáp chung về mười câu hỏi đầu ở phần trước, xong.

Phẩm 6: MINH NẠN

Có năm môn phân biệt:

A. Ý đưa ra.

B. Giải thích tên gọi.

C. Phân tích.

D.Tông thú.

E. Giải thích văn kinh.

1. Ý đưa ra có hai: Một, đưa ra Phần vị, là bởi vì trước đây trình bày về pháp mà quả đã dựa vào, nay phân rõ về dựa vào quả mà thành tựu nhân hạnh; hai, đưa ra Phẩm là trong hạnh đã thành tựu, phương tiện trước phần vị thì Tín-Hạnh làm đầu tiên, trong Tín có Giải-Hạnh và đức, trình bày về điều khó hiểu để phân rõ về Giải, vì ở đầu tiên cho nên đưa ra.

2. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Bồ-tát là người, trình bày về điều khó hiểu là pháp, chọn lấy pháp của quả khác vốn là Y chủ thích. Minh Nạn có bốn nghĩa:

1) Dựa theo tâm cảnh, Nạn là Chân-Tục ẩn kín sâu xa, Minh là diệu trí chiếu rọi rõ ràng.

2) Dựa theo giáo nghĩa, Nạn là mười nghĩa rất sâu xa, Minh là lặp đi lặp lại để hiển bày thông suốt.

3) Dựa theo luận đạo, Nạn là hỏi, Minh là đáp, bởi vì gồm chung hỏi-đáp cho nên gọi là Minh Nạn. Vì sao? Bởi vì chỉ nêu ra pháp thẳng thắn để bàn luận là hỏi, vặn hỏi không đúng lý là Nạn; tùy theo câu hỏi thẳng thắn trình bày là đáp, giải thích tường tận hiển bày rõ ràng là Minh.

4) Phân ra chủ khách, dựa theo khách thì trong trường hàng trình bày giả thiết đối với Nạn, dựa theo chủ thì trong kệ trình bày giải thích đối với Nạn, cho nên gọi là Minh Nạn.

3. PHÂN TÍCH: Ngay trong nhân này, hoặc phân làm hai: Một, kề sát phần vị, đó là từ phẩm này xuống đến phẩm Hồi Hướng; hai, chứng được phần vị, đó là từ phẩm Thập Địa trở xuống chứng được phần vị. Hoặc phân làm ba: Một, ba phẩm đầu là phương tiện trước phần vị; hai, từ phẩm Thăng Thiên trở xuống là 13 phẩm trình bày về Chánh vị của Tam Hiền; ba, từ phẩm Thập Địa trở xuống là sáu phẩm trình bày về Chân vị của Thập Thánh. Hoặc phân làm bốn: Một, từ đây đến hết Hội thứ ba là mười Giải, bởi vì Tín là phương tiện trú cho nên không có Chánh vị, thâu nhiếp thuộc về trong Thập Trú; hai, Hội thứ tư 2 là Thập Hạnh; ba, Hội thứ năm là Thập Hồi Hướng; bốn, Hội thứ sáu là Thập Địa… Hoặc phân làm năm, bởi vì tách ra Tín khác với Trú. Lại chỉ nói phần nghĩa, hoặc phân làm ba: Một, ba phẩm đầu trình bày về bắt đầu khởi lên ở thời quá khứ; hai, từ phẩm Thăng Thiên trở xuống trình bày về khéo léo tu tập ở thời hiện tại; ba, phẩm Bất Tư Nghị Pháp… trình bày cuối cùng hiển hiện ở thời vị lai. Hoặc phân làm bốn: Một, người chưa tin thì khiến cho tin; hai, từ Hội thứ ba trở xuống là đã tin thì khiến cho tiến vào, đó là Giải-Hạnh; ba, từ phẩm Thập Địa trở xuống là đã tiến vào thì khiến cho thuần thục; bốn, từ phẩm Bất Tư Nghị trở xuống là đã thuần thục thì khiến cho giải thoát.

4. TÔNG THÚ có hai: Đầu là nối thông, sau là riêng biệt. Nối thông là luận đến ba phẩm này trình bày về pháp hành của Thập Tín, trong đó đưa ra tám môn: 1) Giải thích tên gọi; 2) Đưa ra Thể; 3) Phát tâm; 4) Xác định phần vị; 5) Hành tướng; 6) Trừ chướng; 7) Tiến lùi; 8) Đức dụng.

Môn thứ ba là phát tâm, nghĩa là bắt đầu từ có đủ phiền não (cụ phược) không biết đến những tên gọi như Tam Bảo…, lần đầu khởi lên một niệm như Tín… Đây là dựa theo Thỉ giáo, như kinh Bổn Nghiệp nói v.v…; Chung giáo như phần tín tâm tu hành trong Khởi Tín luận v.v… Viên giáo như đầu phẩm Hiền Thủ v.v… Bởi vì Tiểu thừa không phải là phần vị này cho nên không dựa theo để nói. Đốn giáo không có phần vị cho nên cũng không nói v.v… Cũng có thể Tiểu thừa cũng có nghĩa của Sơ Tín, như Tiểu luận v.v…; trong Đốn giáo cũng có Tín v.v…

Môn thứ tư là xác định phần vị, pháp của Thập Tín này ở trong Thỉ giáo thì chính mình là phần vị, như Lương Nhiếp Luận nói: “Như bốn phần vị trước đạo Tu-đà-hoàn, đó là Noãn-Đảnh…; bốn phần vị trước địa Bồ-tát cũng như vậy, đó là Thập Tín-Thập Giải-Thập Hạnh-Thập Hồi Hướng.”

Lại trong luận ấy và luận Phật Tánh… đều nói: Địa tiền tu bốn hạnh, đó là Thập Tín tu hạnh tin tưởng vui với Đại thừa, hạnh Bát-nhã của Thập Giải, hạnh Tam-muội của Thập Hạnh, hạnh Đại Bi của Thập Hồi Hướng. Lại bởi vì trừ diệt Chánh sử của bốn lớp chướng ngại: 1) Trừ diệt chướng ngại về không tin của Xiển-đề; 2) Trừ diệt chướng ngại về Ngã chấp của ngoại đạo; 3) Trừ diệt chướng ngại về sợ hãi khổ đau của Thanh văn; ) Trừ diệt chướng ngại về rời bỏ Đại Bi của Độc giác. Vả lại, Tín trở thành chủng tử của nhân thuộc Tịnh đức, Giải trở thành chủng tử của nhân thuộc Ngã đức, Hạnh trở thành chủng tử của nhân thuộc Lạc đức, Hồi hướng trở thành chủng tử của nhân thuộc Thường đức.

Lại trong kinh Nhân Vương dựa vào báo của bốn Luân Vương, đó là Thiết-Đồng-Ngân-Kim. Bởi vì giáo nghĩa này cho nên biết Thập Tín cũng là phần vị. Nếu dựa theo Chung giáo thì Tín này chỉ là phương tiện của phần vị Thập Trú, bởi vì tự mình không có phần vị riêng biệt.

Trong kinh Bổn Nghiệp nói: “Chưa lên Trú tiền có tên gọi của mười tâm này: 1) Tín tâm; 2) Niệm tâm; 3) Tinh tiến tâm; ) Tuệ tâm; 5) Định tâm; ) Bất thối tâm; 7) Hồi hướng tâm; ) Hộ tâm; 9) Giới tâm; 10) Nguyện tâm. Tu tâm này tăng thêm một kiếp-hai kiếp-ba kiếp mới có thể tiến vào trong Trú thứ nhất. Mỗi một tâm có mười tăng thêm thành ra 100 pháp minh môn, gọi là tiến vào trong chủng tánh của Tập.” Vì vậy biết không có phần vị mà chỉ là hành thuộc phương tiện. Lại dựa theo văn như sáu Chủng tánh-sáu Nhẫn-sáu Tuệ…, cho nên cũng là thành tựu về Chứng.

Lại trong kinh Nhân Vương chỉ nói đến ba Hiền-mười Thánh chứ không nói đến bốn. Lại trong kinh này bốn phần vị sau đều có nhập Định, xuất Định rồi nêu ra 10 tên gọi để phân rõ về 10 nghĩa…, chỉ riêng trong Tín thì không có điều này, cho nên có thể biết. Lại trong kinh Bổn Nghiệp chỉ có 2 Hiền Thánh chứ không nói là 52, cho nên có thể biết.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao kinh Nhân Vương nói Thập Tín là phần vị chủng tánh, vẫn chỉ thiết lập phần vị Tam Hiền?

Đáp: Bởi vì ở đây có thâu nhiếp lẫn nhau cho nên như vậy. Vì sao? Bởi vì nghĩa dựa theo có bốn câu: 1) Bởi vì phần vị vốn có thâu nhiếp phương tiện cho nên chỉ có Tam Hiền, thì ẩn đi tên gọi của Tín chỉ luận đến phần vị của Trú, văn dẫn chứng có thể biết. 2) Bởi vì phương tiện thâu nhiếp phần vị vốn có cho nên ngay nơi Thập Trú gọi là Thập Tín, ẩn đi tên gọi Thập Trú, do đó kinh Nhân Vương nói: “10 Tín-10 Chỉ-10 Kiên tâm.” Thì không luận đến Thập Trú mà chỉ gọi là Thập Tín. 3) Bởi vì đưa ra phương tiện khác với phần vị vốn có, thì như Trú tiền có mười tâm này làm phương tiện… 4) Ở nơi phương tiện mượn nói là Chánh vị, như Thỉ giáo trước đây; nếu dựa theo Viên giáo thì có hai nghĩa; nếu dựa vào tự pháp của Phổ Hiền thì tất cả đều không có phần vị. Nếu dựa theo pháp nương nhờ thì giống như Chung giáo, nhưng Tín đầy đủ tiến vào phạm vi của phần vị, thâu nhiếp bao gồm tất cả các phần vị sau đều thuộc về trong này, không có gì không đầy đủ, bởi vì đây là dựa theo hành thâu nhiếp phần vị.

Hỏi: Tín đã thật sự không có Chánh vị, vì sao Thỉ giáo nói là phần vị?

Đáp: Bởi vì Thỉ giáo là cơ thô thiển-trí cạn cợt, hành-vị không phân biệt, giống như Tiểu thừa giáo cho nên nói là bốn phần vị; Chung giáo cơ vi tế-trí sâu xa, cho nên có thể thật sự phân ra sai khác.

Môn thứ năm là hành tướng, nếu Thỉ giáo thì thực hành mười tâm hành như Tín…; nếu theo Chung giáo thì như năm môn tu hành-bốn loại tín tâm… trong Khởi Tín luận. Nếu Viên giáo thì như ba phẩm này đã nói…

Môn thứ sáu là trừ chướng, Thỉ giáo thì như trước trừ diệt chướng ngại về không tin của Xiển-đề, Chung giáo thì như luận điều phục sâu xa phiền não…; nếu Viên giáo thì như văn diệt trừ toàn bộ trăm chướng…, đều là diệt lúc tâm đầy đủ.

Môn thứ bảy là tiến lùi, tu Tín chưa đủ một vạn kiếp, về sau tất cả đều lui sụt, bởi vì là tụ Bất định. Theo kinh Bổn Nghiệp như mảy lông thuận theo gió… Giả sử thứ sáu có tâm không lui sụt, thì chỉ là dấy lên tâm không lui sụt này, bởi vì không phải là phần vị, chưa có thể không lui sụy. Cũng có người giải thích lấy điều này làm nghĩa về không lui sụt của Tín, sợ rằng không thích hợp, bởi vì trong kinh nói như mảy lông, cho nên không có phần vị; luận nói tu Tín chưa trải qua một vạn kiếp cho nên đều có lui sụt. Nếu đến một vạn kiếp thì Tín đã đầy đủ, cho nên không phải là thứ sáu. Nếu dựa vào Thỉ giáo thì bởi vì tùy theo tướng thô thiển mà nói Tín là phần vị, vì vậy nay sau Tam Hiền cũng tùy theo tướng thô thiển mà nói, cho nên đến mười Hồi Hướng trở lên mới có thể không lui sụt, như Phật Tánh luận quyển thứ nhất nói.

Hỏi: Trong luận ấy là thuật về Sư Tát-bà-đa nói, lẽ nào là Đại thừa hay sao?

Đáp: Tuy là Tát-bà-đa nói, nhưng không phải là tông ấy, bởi vì nói có tên gọi phần vị của mười Hồi Hướng, Tiểu thừa không có phần vị này. Nếu trong Chung giáo thì Tín đầy đủ tiến vào phần vị là không lui sụt, như Tín thành tựu phát tâm không lui sụt trong Khởi Tín luận, và Tín thanh tịnh-tâm sâu xa… ở văn sau trong này, bởi vì Viên giống như Chung, cho nên tiến vào phần vị trở về sau mới nói là Tín không lui sụt. Bởi vì nhân thuận theo quả tương xứng, cho nên như Tín-Nhẫn… Môn thứ tám là đức dụng, trong Thỉ giáo trở thành nhân thuộc Tịnh đức, và đạt được báo của Thiết Luân Vương cũng có thể tiến vào Thập Giải… Chung giáo có thể thành tựu phần vị Thập Trú rồi thì có thể thấy được phần ít Pháp thân Phật, hiện bày những sự việc như tám tướng thành đạo… Trong Viên giáo thì bao gồm thành tựu các phần vị sau, nếu dựa theo nhân thì đạt được ba nghiệp Phổ Hiền rộng khắp pháp giới, dựa theo quả thì thành Đẳng Chánh Giác khắp vô số thế giới, như phẩm Hiền Thủ nói.

Sau là trình bày về Tông của Phẩm, dùng mười nghĩa thậm thâm làm Tông, thành tựu Giải-Hạnh trong Tín là Thú.

5. GIẢI THÍCH VĂN KINH: trong này ba phẩm thì làm ba phần: Phẩm đầu trình bày về Giải trong Tín giải; phẩm tiếp dựa vào Giải khởi Hạnh, phẩm sau cuối Giải-Hạnh đầy đủ cho nên thành tựu đức mà thôi. Lại giải thích đầu là Hạnh, tiếp là Nguyện, sau là phần vị của Đức.

Ngay trong phần đầu có hai: Đầu là chính thức phân rõ về mười nghĩa, sau là kết luận gồm chung nhìn thấy khắp nơi.

Trong phần trước theo Thiền sư Thiên giải thích là mười nghĩa thậm thâm, trong đó phân hai: Đầu là Văn Thù hỏi mọi người đáp, trình bày về diệu tuệ dẫn dắt các hành; sau là mọi người hỏi Văn thù đáp, trình bày về nhờ vào các hành mà thành tựu diệu tuệ.

Lại Pháp sư Diễn nói: Đầu một người hỏi nhiều người trình bày, là hiểu vô lượng trong một; sau nhiều người hỏi một người trình bày, là hiểu một trong vô lượng. Lại bởi vì Văn Thù là pháp chủ, nhiều cùng hỏi về pháp sâu xa của cảnh Phật: 1) Duyên khởi thậm thâm; 2) Giáo hóa thậm thâm; 3) Nghiệp quả thậm thâm; 4) Phật thuyết pháp thậm thâm; 5) Phước điền thậm thâm; 6) Chánh giáo thậm thâm; 7) Chánh hạnh thậm thâm; 8) Trợ đạo thậm thâm; 9) Nhất thừa thậm thâm; 10) Cảnh giới Phật thậm thâm.

1. Duyên khởi thậm thâm, bởi vì các pháp dựa vào tự tánh duyên sinh của Thức A-lại-da mới được Tập khởi. Vì sao đầu tiên phân rõ về nghĩa này? Nhiếp Luận nói: “Bồ-tát bắt đầu học thuận theo trước phải quán xét nhân duyên như thật của các pháp, bởi vì thành tựu Tín giải chính xác, là nói đến điều này.” Trong đó, trước hỏi-sau đáp, cũng là trước trình bày thiết lập về chất vấn, sau trình bày giải thích về chất vấn.

Trong phần trước có hai: Một là tổng quát nói cho biết, vì sao đầu tiên hỏi về Giác Thủ? Nghĩa là bắt đầu phát khởi chán ngán mong cầu không phải là Giác đầu tiên thì không dấy khởi, như Thiện Tài bắt đầu phát khởi từ thành Giác. Lại bởi vì duyên khởi thậm thâm cũng không phải là Giác thì không thông hiểu. Hai là trong phần chính thức chất vấn, chất vấn điều này do đâu sinh ra? Bởi vì tất cả các Bồ-tát phát khởi Tín-Giải-Hạnh…, đều dựa vào đạo lý duy tâm như vậy, đạt được khác với phàm phu-Tiểu thừa mà thành tựu Chánh hạnh. Khởi Tín luận nói: “Có pháp có thể phát khởi Tín căn Ma-ha-diễn, vì vậy thuận theo mà nói, pháp đã nói là tâm chúng sinh, tâm này thì thâu nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.” Do đó đối với điều này mà khởi lên chất vấn. Ý chất vấn rằng: Tâm tánh là một, quả báo đủ loại, vì sao một tâm mà sinh ra nhiều báo? Lại tâm tánh đã là một thì quả cũng sẽ là một, quả báo đã nhiều thì tâm cũng sẽ là nhiều. Giả sử như vậy thì có gì sai? Nghĩa là tâm nếu tùy theo báo trở thành nhiều thì sai với Duy Thức, báo nếu như tâm là một thì trái với nghiệp quả. Giả sử nói cứu vãn: Nếu thiết lập chỉ một tánh tâm, không có năng lực huân tập thì có thể như điều đã chất vấn, nay trình bày tâm tánh tuy là một mà tùy theo nghiệp thiện-ác… có thể huân tập mà chuyển cho nên sinh ra quả báo khác nhau, điều này có gì sai? Sau ngăn chặn sự cứu vãn này, lại tiếp tục chất vấn rằng: Nghiệp không nhận biết tâm, tâm không nhận biết nghiệp…, đã không nhận biết lẫn nhau thì sao trở thành huân tập, huân tập không thành thì sao đạt được các loại? Ý chất vấn như vậy.

Trong văn có hai: Đầu là nêu ra pháp thiết lập chất vấn, sau là năm câu ngăn chặn sự cứu vãn trở lại chất vấn. Trong phần trước có ba: Đầu là một câu nêu ra pháp để đối chiếu xác định, tiếp theo một câu là chính thức hiển bày về trái ngược nhau, sau cuối năm câu là giải thích về tướng trở thành trái ngược nhau.

Đầu nói tâm và tánh chỉ là một, nghĩa là bởi vì tánh của tâm, vốn là Như Lai Tạng bình đẳng cùng một vị, cho nên nói là một. Lại bởi vì tâm tức là tánh, vốn là Thức thứ tám không có hai loại, cho nên nói là một. Tiếp là vì sao có thể sinh ra đủ loại quả báo, là hiển bày về trái ngược nhau. Đây là chất vấn về bổn-mạt trái ngược nhau. Sau là hoặc đến nẽo thiện…, là giải thích về tướng trở thành trái ngược nhau, trong đó có năm cặp: Cặp thứ nhất dựa theo y báo, nẽo thiện là trời-người, nẽo ác là ba đường khổ. Cặp thứ hai dựa theo chánh báo, ở trong nẽo thiện các căn như Nhãn… có đủ và không đủ, trong nẽo ác cũng như vậy. Cặp thứ ba trở lại dựa vào y báo, ở trong căn có đủ thì giết mổ-săn bắn… là xứ ác, trì giới-bố thí… là xứ thiện; trong căn không đủ cũng như vậy. Cặp thứ tư trở lại dựa theo chánh báo ngay trong xứ thiện có đoan chánh-có thô lậu; trong xứ ác cũng như vậy. Cặp thứ năm ngay trong đoan chánh có khổ-vui; trong thô lậu cũng như vậy. Sai biệt đủ loại như vậy, cho nên nói là không giống nhau, báo đã không giống nhau như vậy, thì nghĩa của một tâm ở đâu?

Từ đây trở xuống là năm câu giải thích về tướng trở thành trái ngược nhau, người xưa giải thích rằng: Dựa theo không nhận biết nhau để chất vấn, nghĩa là tâm lấy hiểu biết làm tánh, có thể phát sinh đối với nghiệp, tâm và nghiệp đều có thể nhận biết nhau. Vì sao kinh nói: Nghiệp không nhận biết tâm, tâm không nhận biết nghiệp…? Cách giải thích này sợ rằng không thuận với văn. Vì sao? Bởi vì không nhận biết lẫn nhau… ở đây và các câu trên là cùng thành một chất vấn như nhau, hay là lại thành chất vấn khác nhau? Nếu cùng thành một chất vấn như nhau, thì tâm tánh trước đây là một mà quả báo có đủ loại, chính là trái ngược nhau, cho nên đã thành chất vấn. Không nhận biết lẫn nhau ở đây đối với kia có tác dụng gì, nếu thành chất vấn riêng biệt thì lại vì nghĩa gì mà phát sinh chất vấn này? Vì vậy biết ý văn có phần riêng biệt, cho nên nay giải thích không giống như xưa, nghĩa là đây tức là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất vấn, nhưng cứu vãn ở ngoài văn. Giả sử cứu vãn nói rằng tâm tánh tuy là một, nhưng có công năng của chủng tử huân tập nghiệp thiện-ác… sinh ra quả có sai khác, chỗ dựa của tâm tánh chỉ là một mà không có hai, cho nên không có lỗi.

Nay trong phần tiếp tục chất vấn có năm cặp:

Cặp thứ nhất dựa theo chủ động dựa vào-thụ động dựa vào không nhận biết lẫn nhau, cho nên không trở thành huân tập. Trong này nghiệp là chủ động dựa vào, tâm là thụ động dựa vào, lìa thụ động không có chủ động, chủ động không nhận biết thụ động, cho nên nghiệp không nhận biết tâm; lìa chủ động không có thụ động, thụ động không nhận biết chủ động, cho nên tâm không nhận biết nghiệp. Đã không nhận biết lẫn nhau thì sao trở thành huân tập? Bởi vì huân tập không có thì lẽ nào có thể nhờ vào nghiệp mà tâm sinh ra nhiều báo? Nhận biết lẫn nhau như vậy là dựa theo lực của tánh mà nói, nhưng không có tánh-không có lực, cho nên không nhận biết lẫn nhau, không phải là dựa theo nhận biết rõ ràng. Trên đây là dựa theo tướng của nhân thuộc Thức vốn có mà nói.

Cặp thứ hai dựa theo tướng của quả, nghĩa là nhân quả không nhận biết lẫn nhau, quả gọi là dị thục. Quả báo có đủ hai nghĩa: 1) Tâm chủ động thọ báo, là Thức chủng tử của Thức vốn có; 2) Tướng thụ động thọ báo, là Thức của quả báo. Bởi vì chủng tử là nhân của quả chứ không phải là nhân của mình, cho nên thọ không nhận biết về báo; bởi vì báo là quả của nhân chứ không phải là quả của mình, cho nên báo không nhận biết về thọ. Đã không nhận biết nhau thì nhân quả này mất đi, tâm sinh ra đủ loại, nghĩa ấy ở đâu?

Cặp thứ ba dựa theo mới huân tập không nhận biết lẫn nhau, nghĩa là ở trong báo này thọ gọi là tiếp nhận, do các chuyển thức mà làm chủ động huân tập, cho nên không giống như thọ báo; tâm gọi là tập khởi, do Thức thứ tám mà làm thụ động huân tập, không có tự tánh với nhau, đều không nhận biết lẫn nhau. Huân tập đã mất, một tâm làm sao có thể sinh ra nhiều loại? Vì vậy trong Du-già nói: “Không thấy tạng trú, không thấy huân tập, đó gọi là Bồ-tát.”

Cặp thứ tư dựa theo thân-sơ không nhận biết lẫn nhau, nghĩa là chủng tử làm nhân, dựa vào Thức vốn có làm duyên. Bởi vì không có tánh đối đãi lẫn nhau, nghĩa là vốn không phải chính mình-không phải nơi khác-không giống nhau…, tướng thân-sơ không còn, cho nên không nhận biết lẫn nhau, nhân duyên đã lìa xa thì tâm sinh ra ở đâu?

Cặp thứ năm dựa theo cảnh-trí không nhận biết lẫn nhau, trí là chủ động nhận biết, tức là Kiến phần của các Thức; pháp là thụ động nhận biết, tức là Tướng phần của các Thức, cùng dựa vào một tâm, tất cả không có tự Thể, tự Thể không có thì cái gì cùng nhận biết lẫn nhau? Tâm-cảnh đã mất, chủ động-thụ động vắng lặng, tâm sinh ra đủ loại, nghĩa ấy ở đâu? Lại giải thích: Cảnh pháp là tâm biến đổi cho nên không nhận biết tâm, tâm dựa vào cảnh mà sinh cho nên không nhận biết pháp, không có cảnh ngoài tâm có thể chọn lấy tâm ngoài cảnh, vì thế cho nên cả hai không nhận biết lẫn nhau, tướng đều không còn.

Thứ hai là trong phần đáp có hai: Đầu là một kệ, tụng về khen ngợi thưa hỏi khuyến khích lắng nghe, nửa kệ trước khen ngợi thưa hỏi hợp với cơ, nửa kệ sau khuyến khích lắng nghe nhận lời thuyết giảng; sau có mười kệ nêu ra nghĩa chính thức đáp. Trong đó năm kệ đầu đáp về ngăn chặn cứu vãn chất vấn sau, bởi vì nghĩa cứu vãn nếu thành thì chất vấn vốn có mới loại trừ, vì thế cần phải đáp trước; năm kệ sau đáp về chất vấn thuộc pháp vốn có trước đây. Trong này ý đáp, trình bày về duyên khởi của tạng thức có hai nghĩa: Một là nghĩa về không dấy khởi bởi vì không có tự tánh, hai là nghĩa về có dấy khởi bởi vì có duyên khởi của không có tánh này. Hai loại này không hai, là một duyên khởi thậm thâm vô ngại. Trong này bởi vì không dấy khởi vốn là trở thành dấy khởi, cho nên chỉ bởi vì các duyên không nhận biết lẫn nhau mà trở thành huân tập, có đủ loại pháp sinh ra là đáp về chất vấn sau; bởi vì dấy khởi vốn là không dấy khởi, cho nên chỉ bởi vì các pháp sinh ra đủ loại, tất cả đều không có tự tánh, chỉ cùng một tâm tánh là đáp về chất vấn trước. Lại trước thì không ngại một tâm tức là đủ loại, sau thì không ngại đủ loại tức là một tâm, Chánh lý duyên khởi dung hòa vô ngại là ý ấy.

Trong năm kệ trước: Đầu là một kệ về pháp thuyết, sau là bốn kệ về ví dụ. Hoặc có thể phân ra làm năm phần: Một là tông, hai là nhân, ba là dụ, bốn là hợp, năm là kết.

Một là các pháp không tự tại thì lập tông, các pháp là pháp có, không tự tại là pháp, pháp và pháp có hòa hợp gọi là tông. Trong đó có hai nghĩa: 1) Tạng tánh duyên khởi chủ động-thụ động huân tập khởi lên thâu nhiếp nhiều pháp, cho nên nói là các pháp, bởi vì làm nhân duyên với nhau, lại hệ thuộc với nhau, cho nên tất cả đều không thể nào tự có nơi tồn tại. 2) Từ các duyên khởi lên không có tự tánh, không có tự tánh cho nên không thể nào tự tồn tại.

Hai là đưa ra nhân, vì sao có thể biết là không tự tại? Nhân mà nói là cầu thật có thì không thể được, bởi vì các pháp của Thức vốn có cùng dựa vào duyên khởi, lại so sánh làm mất lẫn nhau, đều không có tự tánh, cho nên nói là cầu thật có thì không thể được. Điều này có hai nghĩa: Một là dựa theo Thức vốn có trình bày về không tự tại, bởi vì dựa vào các duyên không có tự tánh, cho nên nói là cầu thật có thì không thể được. Hai là dựa theo pháp chủ động huân tập… trình bày về không tự tại, bởi vì dựa vào Thức vốn có không có tự Thể, cho nên nói là cầu thật có thì không thể được. Hoặc là luận chung có bốn nghĩa: Một, bởi vì các pháp dựa vào Thức, cho nên đối với các pháp mà cầu thật có thì không thể được; hai, bởi vì Thức vốn có làm chỗ dựa, cho nên đối với Thức vốn có mà cầu thật không có thì không thể được; ba, bởi vì các pháp khởi lên Thức, cho nên đối với các pháp mà cầu thật không có thì không thể được; bốn, bởi vì Thức tùy theo duyên khởi lên, cho nên đối với Thức vốn có mà cầu thật có thì không thể được. Hoặc tách ra làm tám câu, nghĩa là đều có bốn câu phân biệt là có-không có-có cả hai-không cả hai, dựa theo suy nghĩ có thể thấy. Lại giải thích điều này có bốn câu: Một, bởi vì không dấy khởi không khác dấy khởi, mà cầu không dấy khởi thì thật không thể được, cho nên không dấy khởi không tự tại. Hai, bởi vì dấy khởi không khác không dấy khởi, mà cầu dấy khởi thì thật không thể được, cho nên dấy khởi cũng không tự tại. Ba, bởi vì không có hai mà cầu hai thật có thì không thể được, cho nên không có cả hai tự tại. Bốn, bởi vì không trở ngại hai nghĩa, mà cầu cả hai không phải là thật thì không thể được, cho nên không có cả hai không phải là tự tại. Vì sao không tự tại như vậy? Bởi vì duyên khởi tự tại. Vì sao không thật có? Bởi vì duyên khởi là lý thật.

Ba từ “Thị cố nhất thiết pháp…” trở xuống là kết luận, bởi vì kết luận tùy theo pháp cho nên ở sau Tông và Nhân, trình bày về Hợp tùy theo Dụ cho nên nói ở sau Dụ. Cả hai đều không nhận biết lẫn nhau, là như trong chủ động-thụ động huân tập trên đây đều có hai nghĩa về có-không có, bởi vì hai có-hai không có đều không đi cùng cho nên không có thể nhận biết lẫn nhau; bởi vì một có-một không có, một không có-một có đều không có hai cho nên không có thể nhận biết lẫn nhau. Chính là bởi vì không nhận biết… như vậy cho nên nhất định có tất cả các pháp, vì vậy nói là tất cả không nhận biết lẫn nhau. Đây là hiển bày không phải dứt khoát một vị bình đẳng không làm hỏng các pháp, cũng chính là chỉ vì bình đẳng mà có các pháp.

Bốn là trong dụ có bốn dụ, tạng thức này có bốn nghĩa: 1) Nghĩa về nhân quả nối tiếp dựa vào nơi khác; 2) Nghĩa về làm nhân quả với nhau sinh ra Thức; 3) Nghĩa về tiếp nhận huân tập; ) Nghĩa về duy trì dựa vào nhau.

Thứ nhất là dụ như dòng sông chảy xiết, là trong Duy Thức luận trình bày về Thức A-lại-da luôn luôn chuyển như dòng thác đổ, là nghĩa này. Trong này không có dứt tuyệt là nghĩa về luôn luôn trong luận ấy, dòng sông chảy mãi là nghĩa về chuyển trong luận ấy. Vì vậy luận ấy nói: Luôn luôn nói là ngăn chặn về Đoạn, chuyển là biểu thị về không phải là Thường.

Nếu phân biệt một cách tỉ mỉ thì lúc dòng nước chảy phải có bốn nghĩa:

1) Có nước tự nhiên tuôn chảy, uốn cong có ba: a-Thể của nước thanh tịnh dụ cho Thức vốn có, là tâm thanh tịnh-tánh vốn có Như Lai Tạng; b-Đất xen tạp trở thành đục ngầu dụ cho tự tánh thanh tịnh Như Lai Tạng bị vô minh làm cho vấy nhiễm mà có tâm vấy nhiễm; c-Gặp lạnh trở thành băng dụ cho Như Lai Tạng vẫn đi cùng với vọng thức làm thành duyên khởi của Thức vốn có, vì vậy kinh Lăng Già nói: “Như Lai Tạng gọi là Thức A-lại-da, mà đi cùng với bảy Thức vô minh…”

2) Dựa vào nhau mà có dòng chảy, dùng để dụ cho nghĩa về tự tướng của Thức vốn có, nghĩa là vì dòng nước sau thúc đẩy cho nên dòng nước trước phải chảy, hoặc là dòng nước trước dẫn đường cho nên dòng nước sau nhất định tuôn chảy, đều có nghĩa về có lực-không có lực…, không nhận biết lẫn nhau mà có thể tuôn chảy. Đây tức là không chảy mà chảy, như nói dòng sông cuồn cuộn tuôn trào mà không chảy, là nói đến điều này.

Trong kinh nói là sinh diệt tuôn chảy, Duy Thức luận quyển thứ ba nói: “Như thác nước không phải là Đoạn-không phải là Thường nối tiếp nhau mãi mãi mà có nổi chìm; Thức này cũng như vậy, từ vô thỉ đến nay sinh diệt nối tiếp nhau không phải là Thường-không phải là Đoạn, hữu tình nổi chìm khiến cho không thoát ra được, cho đến nói là tánh của Thức này từ vô thỉ đến nay quả sinh-nhân diệt trong từng sát-na một. Quả sinh cho nên không phải là Đoạn, nhân diệt cho nên không phải là Thường. Không phải là Đoạn-không phải là Thường, chính là lý duyên khởi, cho đến phải tin chắc Chánh lý duyên khởi của Đại thừa, nghĩa là Chánh lý này sâu xa vi diệu bặt dứt ngôn từ, nói đến nhân quả… đều là tạm thời thi thiết. Quán về pháp hiện tại có tác dụng dẫn dắt về sau, tạm thời lập ra quả sau này để so sánh nói về nhân hiện tại. Quán pháp hiện tại có tướng đền đáp trước đây, tạm thời lập ra nhân đã từng có để so sánh nói về quả hiện tại. Tạm thời nghĩa là Thức hiện tại tựa như hiện rõ ra tướng ấy, như vậy lý nhân quả luôn luôn hiển bày rõ ràng, lìa xa hai bên phù hợp với Trung đạo, những người có trí nên thuận theo tu học.” Lại theo kinh Lăng Già nói: “Sát-na không còn rối loạn, vắng lặng lìa mọi việc làm, tất cả các pháp không sinh, Ta nói là nghĩa sátna, mới sinh tức là có diệt, không nói cho người ngu si, tánh nối tiếp nhau không dứt, do vọng tưởng mà huân tập.”

Giải thích rằng: Trong luận trước thì sinh diệt cách niệm, trong kinh nói sinh diệt đồng niệm, vì thế cho nên sinh diệt là không sinhkhông diệt. (Lại suy nghĩ điều ấy) Kinh dựa theo Chung giáo, thì không sinh diệt cùng với sinh diệt hòa hợp gọi là Thức A-lại-da…; luận dựa theo Thỉ giáo, chỉ riêng sinh diệt là Thức, tường tận có thể cũng không thành sinh diệt, bởi vì lúc sinh không có diệt thì lẽ ra không phải là hữu vi, bởi vì tướng không đầy đủ. Nếu có diệt thì lẽ ra không thể nào sinh, bởi vì trái ngược nhau. Do đó trong Chung giáo là đồng niệm, bởi vì đều là hư giả cho nên không ngăn ngại nhau. Lại dựa vào Chân tâm cho nên có thể là đồng, tùy theo tướng cho nên có khác. (Lại suy nghĩ điều ấy) Quá khứ diệt có thể trở thành sinh, vị lai diệt có thể làm hỏng sinh, pháp sinh có thể hủy hoại, đã diệt có thể trở thành đang diệt. Lại một tướng diệt hướng về sinh trước có thể hủy hoại, hướng về sinh sau có thể thành tựu; một tướng sinh hướng về diệt trước có thể hủy hoại, hướng về diệt sau có thể thành tựu, cho nên nối tiếp nhau không có dứt tuyệt. (Lại suy nghĩ điều ấy) Lại sinh do diệt mà khởi, cho nên trong sinh vốn có diệt, bởi vì vốn có diệt cho nên khiến sinh không trú, cũng lại trở thành diệt. Diệt do sinh mà có, cho nên trong diệt hàm chứa sinh, bởi vì hàm chứa sinh cho nên khiến diệt không trú, cũng lại trở thành sinh, vì thế sinh diệt đan xen lẫn nhau, trước sau cùng lúc, không trở ngại lẫn nhau, tuôn chảy không gián đoạn.

Lại trong một tướng sinh có nghĩa về bốn loại diệt, cùng lúc đầy đủ: a) Tánh không thành tựu gọi là diệt; b) Do diệt mà khởi cho nên vốn có diệt; c) Có thể trở thành diệt cho nên vốn có diệt; d-Do sinh diệt cùng là vọng chấp trong mộng thấy có trước sau, lúc lý thật chiếu rọi đều không có trước sau, cho nên sinh thì vẫn có diệt. (Lại suy nghĩ điều ấy) Niệm trước diệt đi chảy dài đến nơi sinh, niệm sau sinh ra chảy dài đến nơi diệt, sinh diệt hai dòng cho nên nói là chảy dài. Chưa đạt được đạo đối trị về trước không có tạm thời dừng lại, cho nên nói là không có tuyệt dứt. Hai dòng đều không có… cho nên không nhận biết nhau.

3) Dựa vào gió vốn có hai nghĩa: a) Dựa vào gió mà được tuôn chảy, dụ cho nghĩa về tướng của nhân thuộc tạng thức, nghĩa là dựa vào gió của Hoặc nghiệp huân tập chủng tử mà trôi nổi; đây là dựa theo tướng của nhân mà phân rõ. b) Dựa vào gió nổi sóng, kinh Lăng Già nói: “Biển tạng thức thường trú, gió cảnh giới làm động, đủ loại sóng các Thức, tung vọt mà chuyển sinh.” Duy Thức luận quyển thứ ba nói: “Lại như dòng thác đổ, tuy gió… đánh tạt vào nổi lên các làn sóng mà tuôn chảy không dứt; Thức này cũng như vậy, tuy gặp các duyên khởi lên các Thức như Nhãn… mà luôn luôn nối tiếp nhau.” Trong này, một là gió thổi mà tuôn chảy, hai là do nước mà tuôn chảy, cho nên nói là chảy dài. Dựa vào nhau không có tánh đều không nhận biết lẫn nhau, hoặc là dòng chảy của chủng tử và dòng chảy của Thức đã dựa vào…, tuy không nhận biết lẫn nhau nhưng mà có tuôn chảy. Nghiệp không nhận biết tâm ở văn trên dựa theo điều này.

4) Dựa vào thế đất cao thấp mà tuôn chảy, dụ cho nghĩa về tướng của quả thuộc Thức vốn có, dựa vào đủ loại báo của nơi thọ sinh cho nên tuôn chảy, nơi trời-người là cao, nơi đường ác là thấp; đây là dựa theo tướng của quả. Trong này, tâm và báo là hai, không có tánh cho nên không nhận biết lẫn nhau. Báo không nhận biết thọ… ở văn trên dựa theo điều này. Hoặc là kèm theo vật mà tuôn chảy, cho nên trong Duy Thức nói: “Lại như dòng thác cuốn trôi các vật như cỏ rác-cá tôm… trên và dưới dòng nước, tùy theo nơi chảy qua không bỏ; Thức này cũng như vậy, cùng với pháp như tập khí bên trong-cảnh tiếp xúc bên ngoài… luôn luôn chuyển theo nhau.”

Thứ hai là dụ về ngọn lửa đèn, thành tựu nương tựa có ba nghĩa: 1) Nghĩa về sinh ra Thức; 2) Nghĩa về làm nhân quả cho nhau; 3) Nghĩa về chấp thọ.

1. Nghĩa về sinh ra Thức, là như nhờ vào ngọn lửa trước đốt cháy tim đèn cho nên ngọn lửa sau được sinh ra, chiếu rọi rõ ràng cảnh trước chỉ một niệm vẫn không tạm dừng; sáu Thức cũng như vậy, danh ngôn… dựa vào Thức của chủng tử vốn có cho nên có thể sinh ra Thức sau chiếu rọi đối với cảnh giới, trong thời gian trước diệt-sau sinh không có tạm dừng. Trong này dùng Thức vốn có như dầu và cây đèn, các chủng tử trong Thức như tim đèn, sáu Thức hiện hành đã sinh ra như hơi nóng không có Thể mau chóng diệt đi cho nên không nhận biết lẫn nhau. Cả hai đều không nhận biết lẫn nhau, người xưa nói rằng: Hơi nóng và cây đèn là hai, tim đèn và dầu là hai, bốn pháp hòa hợp mà sinh ra đều không nhận biết lẫn nhau. Điều này sợ rằng không có lý, ý văn tựa như chọn lấy ngọn lửa trước-ngọn lửa sau là hai, bởi vì mau chóng diệt đi không dừng lại, không có Thể để có thể nhận biết lẫn nhau; sáu Thức dựa vào Thức không có Thể vốn có cũng như vậy, tâm không nhận biết thọ… dựa theo điều này.

2. Nghĩa về cùng lúc làm nhân quả cho nhau, như Nhiếp Luận quyển thứ hai nói: “Luận nói: Ví như ánh sáng ngọn đèn cùng với tim đèn sinh ra và đốt cháy cùng lúc lại làm nhân cho nhau. Giải thích: Bởi vì Thể của tim đèn làm nơi dựa vào có thể phát ra hơi nóng ánh sáng, tim đèn là nhân phát sinh hơi nóng ánh sáng, hơi nóng ánh sáng thì sinh ra trong sát-na này, bởi vì có thể đốt cháy tim đèn, hơi nóng ánh sáng làm nhân đốt cháy cho tim đèn, cho đến v.v… Luận nói: Nên biết Thức vốn có cùng với chủ động huân tập lại làm nhân cho nhau, nghĩa ấy cũng như vậy, như Thức làm nhân cho pháp nhiễm ô, pháp nhiễm ô làm nhân cho Thức. Giải thích: Thức A-lại-da này là nhân sinh ra chủng tử, nếu không có Thức này thì ba nghiệp sinh diệt không có nơi có thể nương tựa, như thân thể lụi tàn, công năng cũng như vậy. Vì vậy Thể của các pháp sinh ra do Thức này, công năng cũng lập, cho nên Thức vốn có là nhân phát sinh pháp ấy, pháp ấy cũng như vậy. Nếu pháp ấy không có Thức này, khởi lên ở hiện tại thì không có đạo lý chuyển sau khác trước, biến đổi sai khác này là quả của pháp ấy.” Giải thích rằng: Trong này, niệm trước là tim đèn và hơi nóng cùng một sát-na lại đốt cháy sinh ra lẫn nhau, đều có nhân quả cũng cùng lúc lụi tàn, hơi nóng sau cũng như vậy, cho nên nói là hơi nóng hừng hực. Chưa đến phạm vi đối trị thì pháp này luôn luôn dấy khởi, cho nên không tạm dừng lại. Bởi vì hai nhân-hai quả không đi cùng cho nên không nhận biết lẫn nhau, một nhân-một quả không có hai cho nên không có thể nhận biết. Lại cũng có thể hơi nóng của tim đèn đốt cháy và hơi nóng của tim đèn sinh ra, cho nên nói là hơi nóng hừng hực. Bởi vì lý sinh ra không dừng lại vốn là đốt cháy, lý đốt cháy cũng như vậy cho nên nói là không tạm dừng lại. Không nhận biết lẫn nhau, nói như trên. Trong này, nghĩa về làm nhân quả cho nhau sơ lược đưa ra hai lớp, đều có ba môn: a-Giữ gìn lỗi lầm; b-Hiển bày về đức; c-Chỉ ra lỗi lầm. Như trong hỏi đáp v.v…

3. Nghĩa về chấp thọ, trong này ngọn đèn sáng có hai công năng:

a) Tim đèn đốt cháy bên trong, b) Phát ra ánh sáng chiếu rọi bên ngoài, dụ cho Thức vốn có này có sự chấp trì cả bên trong lẫn bên ngoài. Dugià nói: “Thức này chấp thọ có hai: 1) Bên trong chấp thọ chủng tử và năm căn thân, 2) Bên ngoài chấp thọ Khí thế gian, giống như hơi nóng ánh sáng bên trong giữ lấy dầu và tim đèn, bên ngoài phát ra ánh sáng rõ ràng, là nói đến điều này. Bởi vì hai phạm vi trong-ngoài này cho nên nói là hơi nóng hừng hực, luôn luôn giữ gìn không gián đoạn cho nên nói là không dừng lại. Trong-ngoài là hai, bởi vì không có tánh cho nên không nhận biết lẫn nhau.

Thứ ba là gió dụ cho nghĩa về huân tập. Trong này, gió có hai nghĩa: a) Có lực luôn luôn lay chuyển vật khác, dụ cho chuyển thức luôn luôn huân tập trở thành chủng tử…; b) Nghĩa về không có Thể, nghĩa là gió này không có thể tự mình hiện rõ tướng lay động, cần phải thổi vào vật khác làm cho lay động mới nhận biết tướng của gió, bởi vì lay động này chính là vật lay động, cho nên biết rằng gió không có tự Thể. Các pháp chủ động huân tập không có thể tự mình trở thành chủng tử, cần phải huân tập Thức vốn có trở thành chủng tử rồi mới hiển bày chủ động huân tập, chủng tử này chính là chủng tử của Thức, cho nên biết chủ động huân tập không có tánh. Cả hai đều không nhận biết lẫn nhau thì gió và vật là hai, lay động dựa vào vật thì gió không có Thể, vật tùy theo gió thì vật không có tự tánh, cũng là hai không có-hai có không đi cùng, một không có-một có không có chủ động-thụ động, cho nên đều không nhận biết; trong Thức cũng như vậy, dựa theo điều đó cho nên nói là các pháp cũng như vậy.

Thứ tư là mặt đất dụ cho nghĩa về duy trì dựa vào nhau, như Địa luân dựa vào Thủy luân, Thủy luân dựa vào Phong luân, Phong luân dựa vào hư không, hư không không dựa vào nơi nào; nghĩa về tâm cũng như vậy, cảnh giới dựa vào vọng tâm, vọng tâm dựa vào Thức vốn có, Thức vốn có dựa vào tâm tịnh, tâm tịnh không dựa vào nơi nào. Lại giải thích hiện hành dựa vào chủng tử, chủng tử dựa vào Thức vốn có, Thức vốn có dựa vào Chân như, Chân như không dựa vào nơi nào. Không nhận biết là hư không làm chỗ dựa cho gió, bởi vì tự mình không có Thể cho nên không nhận biết về gió; gió làm chỗ dựa cho nước, tự mình dựa vào hư không cho nên không có lực có thể nhận biết về nước; nước đối với mặt đất cũng như vậy, trong Thức cũng dựa theo điều này. Trên đây là đáp về ngăn chặn cứu vãn chất vấn sau, xong.

Thứ hai, trong phần đáp về chất vấn thuộc pháp vốn có trước đây, năm kệ phân làm hai: Đầu là hai kệ chính thức đáp về chất vấn trước đây, sau là ba kệ hiển bày về quán môn. Trong phần đầu chất vấn rằng: Tâm tánh đã là một, làm sao có thể sinh ra đủ loại quả báo? Nay đáp là bởi vì tùy theo các chuyển thức huân tập mà sinh ra, không phải là một tâm này tự làm ra đủ loại, cho nên nói Nhãn-Nhĩ… cho đến vì vậy mà chuyển các khổ; năm cặp như hoặc là đến nẽo thiện… trước đây đều dựa theo báo để phân rõ, cho nên nói chung là các khổ. Trong này, năm thức như Nhãn… có thể biết, tâm là Thức vốn có bởi vì có nghĩa về tập khởi, ý là Mạt-na bởi vì có nghĩa về suy nghĩ, tình là Thức thì thứ sáu bởi vì là nghĩa về phân biệt rõ ràng. Tám loại này đều có căn, năm căn có thể biết, ý là căn thứ sáu, bảy và tám làm căn cho nhau, đều có nghĩa về sinh ra Thức, vì vậy nói là tình căn, dựa vào chủ động-thụ động huân tập này hòa hợp mà chuyển các khổ.

Nghi ngờ rằng: Đã tùy theo huân tập mà chuyển các khổ tức là trở thành nhiều tâm, vì sao vẫn nói là chỉ một tâm? Đáp rằng: Các pháp chủ động huân tập này nếu như là thật thì có thể khiến cho tùy theo huân tập mất đi một tâm, các khổ đã hư giả cho nên đạt được một tâm mà thật thì không chuyển đổi. Nghi ngờ rằng: Nếu thật sự không chuyển đổi thì vì sao trước đây nói tùy theo huân tập mà chuyển các khổ? Đáp rằng: Chỉ nêu ra rõ ràng về chuyển chứ không phải là thật sự chuyển. Nghi ngờ rằng: Đối với pháp tánh nếu có nêu ra rõ ràng điều này thì cũng có thể trái ngược nhau? Đáp rằng: Chỉ tùy theo nơi khác có nêu ra rõ ràng, ở trong pháp ấy không có nêu ra rõ ràng điều này. Vì sao không có? Bởi vì nêu ra rõ ràng là không có tất cả.

Trong kệ này, nửa kệ trước trình bày về không nhiễm mà nhiễm, nửa kệ sau trình bày về nhiễm mà không nhiễm. Ba kệ sau là trình bày về quán ba vô tánh: Một kệ đầu là quán về Biến kế không có tướng, nghĩa là tám thức… trên đây, bởi vì dựa theo chấp chỉ là hư vọng hoàn toàn không có gì. Một kệ tiếp là trình bày về quán Y tha không có sinh, câu đầu quán về phương tiện Tầm-Tứ…; câu tiếp quán về cảnh, có là Nhãn-Nhĩ… trước đây, không có gì là bởi vì các duyên không có tánh cho nên Không; câu tiếp là chính thức quán, bởi vì thấy lý không hề có gì, cho nên nói là không trái ngược; câu sau cuối giải thích rằng bởi vì đạt được mắt thấy pháp không xen tạp vô minh, cho nên nói là tịnh. Một kệ sau trình bày về quán tánh chân thật không có tánh, trong đó hư vọng là tánh đã chấp, không phải vọng là tánh Vô tướng, thật là tánh Vô sinh, không thật là tánh Y tha. Hai quán nếu thành tựu là xuất thế gian, hai quán nếu không có là thế gian, dựa theo quán trí mà nói. Như vậy có-không có đối đãi với nhau không thật, cho nên nói chỉ nhờ vào ngôn từ giảng giải. Có và không có đều mất, mới tiến vào quán tánh không có tánh. Ở đây thuận theo mở rộng nói về quán ba tánh-hai tánh…, dựa theo Giải-dựa theo Hạnh để phân tích.

2. Giáo hóa thậm thâm. Vì sao đưa ra? Bởi vì trước đây trình bày về thâu nhiếp tâm tiến vào lý, ở đây phân rõ về Hậu trí cứu giúp chúng sinh, tài là pháp tài. Trong đó, trước là hỏi-sau là đáp. Trong này hỏiđáp tựa như có phần khác nhau, dựa theo đáp chọn lấy câu hỏi. Trong hỏi nên nói: Như Lai đã tùy theo mười loại giáo hóa, vì sao lại nói chúng sanh thì không phải là chúng sinh? Trong đáp trình bày về thân mạng… đều Không, là tùy theo mười loại giáo hóa thì không phải là giáo hóa, bởi vì chúng sinh không phải là chúng sinh thì giáo hóa cũng không phải là giáo hóa, điều này có gì sai? Lại dựa theo hỏi chọn lấy đáp, ý chất vấn rằng: Như Giác Thủ đã nói: Chúng sinh đã Không, làm sao giáo hóa? Lúc giáo hóa nếu như Thánh trí hợp với lý thấy Không, thì không thành tựu giáo hóa. Nếu giống với phàm phu chấp trước ngang ngược cho là có, thì không có thể giáo hóa. Đây là chất vấn trái ngược nhau về có-không có. Ý đáp: Chúng sinh là Không, Không là chúng sinh. Đại Phẩm nói: “Không phải là vì không có Sắc cho nên gọi là Sắc-Không, mà chỉ vì Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.” Giải thích rằng: Bởi vì Không ngay nơi Sắc mới là Chân Không, chứ không phải là Không của đoạn mất, cho nên đây không phải là cảnh của trí phàm phu. Bởi vì chúng sinh như vậy dùng mười loại tùy theo như vậy để nói về pháp môn như vậy, mới là chân thật giáo hóa.

Trong chất vấn có hai: Một là một câu nêu ra nghĩa chính, hai từ “Vân hà…” trở xuống là hiển bày trái ngược nhau. Trong đó, người xưa lấy tùy thân là tổng quát, nay một câu đầu là tổng quát, mười câu còn lại là riêng biệt. Một câu đầu là lúc phát tâm, lúc đạt được đạo…, Luận nói: Chất vấn về nơi sinh vốn là chờ đợi thời gian. Hai là tùy theo thọ mạng của báo ấy, hoặc là thời gian dài, hoặc là thời gian ngắn thích hợp với tiếp nhận giáo hóa, thì ở thời gian ấy mà giáo hóa. Ba là tùy theo thời gian của thân đã thọ, như phải có được thân người mới giáo hóa… Bốn là tùy theo thời gian của hành nghiệp đã làm, như phải gây ra việc ác mới đạt được pháp nhẫn, như kinh Tịnh Chư Nghiệp Chướng nói về thiện hạnh… Năm là tùy theo thời gian đang khởi lên mong muốn ưa thích điều gì mà tiếp nhận giáo hóa. Sáu là tùy theo thời gian khởi lên thệ nguyện gì mà tiếp nhận giáo hóa. Bảy là tùy theo thời gian khởi lên ý niệm gì nhớ đến sự việc gì. Tám là tùy theo thời gian khởi lên phương tiện gì mà muốn tu tập thành tựu. Chín là tùy theo thời gian khởi lên tư duy điều gì để chiếu rọi quán sát. Mười là tùy theo thời gian khởi lên suy nghĩ tính toán điều gì. Mười một là tùy theo thời gian khởi lên cách nhìn như thế nào để thích hợp tiếp nhận giáo hóa. Như Lai vào lúc bấy giờ liền thuận theo giáo hóa, đã giáo hóa uốn khúc tùy theo căn cơ như vậy, mà nói chúng sinh thì không phải là chúng sinh, lý ấy ở đâu?

Thứ hai trong đáp có hai: Một là một kệ khen ngợi về đức khuyến khích lắng nghe, nửa kệ trước khen ngợi đức của Văn thù, bởi vì trong trí không xen lẫn vô minh cho nên nói là Minh trí, có thể chiếu rọi về lý duy tâm cho nên nói là cảnh giới. Vì sao luôn luôn chiếu rọi cảnh này, là bởi vì thường vui với hạnh vắng lặng. Hai là trong chín kệ có hai: Bảy kệ đầu chính thức đáp câu hỏi trước, hai kệ sau ngăn chặn chất vấn tiếp tục đáp. Trong phần trước một câu hỏi về tùy thời không có đáp, bởi vì tổng quát không lìa riêng biệt. Ba kệ đầu đáp một câu hỏi về tùy thân, hai kệ tiếp đáp một câu hỏi về tùy mạng, một kệ tiếp đáp một câu hỏi về tùy hạnh, một kệ sau cuối đáp chung về bảy câu hỏi còn lại.

Trong ba kệ đầu, hai kệ trước trình bày về Nhân Không: Một kệ đầu là xưa nay nói rằng Ngã ở trong thân, nay trình bày về thân không có-Ngã cũng không có, là bởi vì quán về Giới phân biệt, quán xét thân này không thể đạt được, thì thông hiểu về Ngã có trong thân đã chấp tức là không có. Một kệ tiếp là xưa nay nói rằng thân nương tựa vào Ngã, nay trình bày về Ngã không có-thân cũng không có, là bởi vì tìm thân chủ động dựa vào, quán xét về Ngã thụ động dựa vào không thể đạt được, thì không đắm trước đối với thân. Một kệ tiếp là dùng bên trong giống như bên ngoài để trình bày về pháp không có Ngã, trong đó hai câu đầu là nêu ra, một câu tiếp là giải thích, một câu sau cuối là lợi ích. Tùy thân như vậy thì không phải là tùy, không khác chúng sinh thì không phải là chúng sinh, vì vậy không có gì sai.

Ngay trong hai kệ đáp về tùy mạng, một kệ đầu quán về cảnh, một kệ sau quán về trí. Trong kệ trước, thân nói là danh sắc tức là thân của quả báo, mạng nói là chính thọ sinh ra thức tức là Thức vốn có, Thức vốn có và thân từ đầu tới cuối lại làm nhân quả cho nhau hòa họp không hai, dụ nói có thể biết. Ở đây làm nhân quả cho nhau, không phải là cảnh thuộc về Thức rối loạn của Nhị thừa và phàm phu ngu muội, cho nên nói là không thể nhận biết. Nghĩa này ai có thể nhận biết? Bởi vì người trí có thể quán sát, thì pháp của Phật Bồ-tát như trí. Sở dĩ có thể nhận biết thân mạng lại làm nhân duyên cho nhau, là bởi vì pháp vô thường dựa vào nơi khác để phân biệt lại làm nhân với nhau cho nên có thân mạng, vì pháp thường trú không trở thành nhân cho nên đã nói vô thường, ngay nơi có-không phải là có đều không có tự tánh, cho nên nói là Không-Vô ngã, và lìa tất cả các tướng như tăng thêm-giảm bớt…

Ngay trong một kệ đáp về tùy hạnh, bởi vì Thức vốn có và các pháp huân tập của ý thức lại làm nhân cho nhau. Do công năng của nghiệp phát sinh chứ không phải là có người-pháp…, cho nên nói là không có Ngã giống như mộng. Không phải là chỉ có nghiệp hạnh riêng biệt bặt dứt hai Ngã, do nghiệp mà đạt được quả của báo, cho nên tánh của Ngã cũng vắng lặng. Nhân quả ấy tựa như trước sau khác nhau, nghĩa về không có Ngã giống như không hề có sai khác.

Tiếp theo một kệ đáp về bảy câu hỏi sau, bởi vì tùy theo bảy loại như mong muốn ưa thích… đều là tâm sở (tâm số), dựa vào tâm vương không tự tại, cho nên đưa ra tâm vương thâu nhận toàn bộ để đáp chung, do đó nói rằng chỉ lấy tâm làm chủ. Lại giải thích, tất cả các pháp thế gian chỉ là do tự tâm thay đổi sai khác mà dấy lên, tâm là nguồn gốc của các pháp, cho nên nói là chủ. Nhưng phàm phu ngu muội không hiểu rõ về nghĩa duy tâm, tùy tiện thuận theo phân biệt khởi lên bảy loại tâm niệm như mong muốn ưa thích… này, bởi vì đều giữ lấy tướng cho nên đều là điên đảo, là điên đảo cho nên tức là Không, không hề có gì, vì vậy tùy theo thì không phải là tùy theo.

Sau là giải thích ngăn chặn chất vấn, sợ rằng có người chất vấn rằng: Nếu chúng sinh như vậy thì Không tất nhiên là pháp môn, tùy theo cũng như vậy đâu cần phải trải qua giáo hóa? Giải thích rằng: Bởi vì không có thể hiểu rõ các pháp tức là không hai, do đó cần phải giáo hóa. Lại tiếp tục chất vấn rằng: Vậy thì chúng sinh này không hiểu rõ chân thật, lẽ nào không phải là Không hay sao? Giải thích rằng: Bởi vì thuận theo duyên khởi cho nên không phải là không có, nhanh chóng diệt đi không dừng lại cho nên không phải là có, hai pháp này không hai là chúng sinh cho nên nói là không có tướng khác nhau, do đó có thể giáo hóa. Kệ trước trình bày về cần phải giáo hóa, kệ sau trình bày về thành tựu giáo hóa.

3. Nghiệp quả thậm thâm, trong phần này trước là chất vấn, sau là trình bày. Trong chất vấn có hai, trước là nêu ra pháp chính thức chất vấn, sau từ “Nhiên pháp tánh…” trở xuống là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất vấn. Trong này ý chất vấn, nếu trong bốn Đại không có Ngã thì ai làm ra thiện ác, ai có thể nhận lấy báo ứng? Trong này chấp có tác dụng thuận theo có người làm ra, là lấy Dụng đưa ra Thể để chất vấn. Giả sử Tiểu thừa nói cứu vãn, thì tuy không có Ngã-Nhân-Tác giả, nhưng có pháp thiện ác nhân quả, cho nên có thể như vậy. Hãy còn là chấp pháp, cho nên lại chất vấn rằng: Nhưng đối với pháp tánh không có thiện-không có ác, đây là hiển bày về pháp Không. Đã đối với pháp tánh là Không, không có thiện-ác, nếu không có người làm ra thì lại vì pháp nào mà có nghiệp quả, do đó biết là có Ngã. Ngã đã thật có thì lý Vô ngã ở đâu? Ý chất vấn như vậy.

Trong phần trước có hai: Một câu trước nêu ra nghĩa chính, còn lại hiển bày về trái ngược nhau. Trong đó có năm cặp mười câu: 1) Dựa theo thọ báo cho rằng có người thọ; 2) Dựa theo nghiệp tạo tác cho rằng có người tạo tác; 3) Dựa theo sai biệt trong báo, bên trong dựa theo hành, bên ngoài dựa theo thân, nếu không có nghiệp tạo tác thì vì sao có sự sai khác này? ) Dựa theo báo nhiều ít, như trong kinh nói, chủ động tạo tác nhiều nghiệp thì thọ báo cũng nhiều, ít cũng như vậy, cho nên biết có Ngã. Trên đây là dựa theo Sinh báo. 5) Dựa theo Hiện báo và Hậu báo. Sau là ngăn chặn cứu vãn chất vấn có thể biết, cũng là trở lại tiếp tục đưa ra.

Thứ hai là trong đáp, vì sao Bảo Thủ đáp, nghĩa là trong sự hiển bày lý đạt được nhiều vật báu đáng quý. Trong đó có hai: Đầu là một kệ nói về pháp, sau là nói về chín dụ.

Trong phần trước có hai nghĩa: Một là nêu ra nghĩa chính thức đáp, hai là dẫn ra chứng đắc của Đức Phật để nói, không phải là mình có thể biết. Trong phần đầu, hai câu trước trình bày về nghiệp quả không hư hoại, một câu sau trình bày về không có người làm ra, nghĩa là tùy theo các nghiệp sai biệt đã làm ra huân tập vào Thức vốn có, Thức vốn có dựa vào nơi khác biến đổi tựa như do nghiệp ấy mà sinh khởi quả báo, cho nên có đủ loại khác nhau như nhiều báo…, chỉ là các Thức duyên khởi cùng nhau tập hợp mà thành, không có tự tánh cho nên nhất định có nghiệp quả, thật sự không phải là trong bốn Đại có riêng nhân-ngã có thể làm ra nghiệp nhận lấy quả, cho nên nói là người tạo tác không có. Đây là bởi vì lý Vô tánh cho nên pháp tánh không có thiện-ác, bởi vì Vô tánh mà trở thành nhân quả cho nên có nghiệp quả sai biệt. Đây chỉ có nhân quả vô tánh, liên quan gì có nhân-ngã, cho nên nói trong bốn Đại không phải là Ngã… Nghĩa lý của Chánh pháp quyết định như vậy, do chư Phật ba đời cùng thuyết ra, cho nên nói là chư Phật thuyết. Trong kinh Lăng Già quyển thứ nhất nói: “Ta thường thuyết pháp Không, xa lìa với Đoạn-Thường, sinh tử giống như mộng, mà nghiệp ấy không mất.” Là nói đến điều này.

Trong phần sau là chín dụ đều có hai nghĩa, đó là nghiệp quả rõ ràng mà không hề có gì cho nên trở thành dụ.

Thứ nhất trình bày về dụ Y tha lìa tánh, nghĩa là Thức vốn có như tấm gương, tùy theo huân tập mà hiện bày nghiệp quả như cảnh tượng, đây là nghĩa về Y tha. Trong-ngoài không vốn có gì là trình bày về nghĩa lìa tự tánh, điều này có ba lớp bốn câu: 1) Dựa theo hình ảnh, nghĩa là không có sắc chất cho nên không hiện bày, bởi vì bên trong không có gì; không phải là gương cho nên không có hiện bày, bởi vì bên ngoài không có gì; dựa vào một hình ảnh này, cho nên cả hai không có gì; dựa vào hình ảnh này, cho nên cả hai không phải là không có gì. Bởi vì tất cả là nghĩa về hình ảnh, nhất định phải dựa vào bên trong-bên ngoài mới có thể hiện bày được. 2) Dựa theo sắc chất, nghĩa là mặt ở phía Nam-hình ảnh phía Bắc, cho nên sắc chất bên trong không có gì; bởi vì như khuôn mặt mà hiện bày, cho nên sắc chất bên ngoài không có gì; cả hai-không cả hai, có thể biết. 3) Dựa theo mặt gương, nghĩa là trong mặt gương bằng sắt cứng dày không có nơi nào trống rỗng, không tiếp nhận vật gì, cho nên hình ảnh không phải là bên trong; hễ muốn nhìn hình ảnh thì đều đứng trước gương mà nhìn, cho nên không phải là bên ngoài; cả hai-không cả hai, có thể biết. Như vậy không có gì mà hình ảnh rõ ràng, nghiệp như hình ảnh, tánh như mặt gương, cho nên nói là cũng như vậy. Khởi Tín luận nói: “Hai là nhờ vào mặt gương huân tập, nghĩa là tất cả cảnh giới thế gian đều hiện bày trong đó, không rakhông vào-không mất-không hoại, thường trú trong một tâm, bởi vì tất cả các pháp là tánh chân thật.” Là nói đến điều này.

Thứ hai trình bày về dụ không biết nhau làm thành nhân, nghĩa là Thức vốn có như thửa ruộng, các nghiệp như chủng tử, nhiều loại chủng tử cùng chung một Thức vốn có, cho nên tất cả không có tự Thể để có thể nhận biết nhau. Nhưng công năng của Thức không mất-không hoại mà có thể làm nhân, như đất sạch sẽ gặp được mưa thì mọc cỏ. Nhiều loại cỏ này ở trong đất ấy tìm tánh của từng loại đều không thể được mà có thể làm nhân, dù cho đào sâu xuống mặt đất mà đất đã lấy lên gặp được mưa thì mọc cỏ, hạt cỏ giống như đất tuy trải qua nhiều năm mà không mất; ở đây cũng như vậy. Kinh nói: “Nghiệp tuy trải qua trăm kiếp mà cuối cùng không có biến đổi hư hoại, lúc gặp các duyên hòa hợp thì phải nhận lấy quả ấy.” Vì vậy nói là tánh nghiệp cũng như vậy. Vả lại, đất và nước là duyên xa, hạt giống là duyên gần, tất cả đều làm mất đi có-không có, cho nên không nhận biết lẫn nhau, trong Thức dựa theo đây biết rõ.

Thứ ba là dụ về nhân có thể hiện rõ quả, nghĩa là tánh của nghiệp như huyễn sư, hiện rõ quả như huyễn sắc, tuy tựa như có mà không phải là có.

Thứ tư là dụ về pháp của quả không có ý niệm, nghĩa là do các nhân duyên như yết hầu… hòa hợp phát ra tiếng, thật sự không có công năng của Ngã, chỉ từ danh ngôn huân tập sinh ra tựa như lời nói; như người gỗ phát ra tiếng không có hai ý niệm tự nghĩ rằng mình có thể phát ra tiếng và không phải là mình phát ra tiếng. Vả lại, gỗ như Tạng tánh, người thợ như các nghiệp vọng tưởng, người gỗ như tướng báo của chúng sinh, cho nên không có Ngã-không phải là Ngã.

Thứ năm là dụ về Thể của nhân không xen tạp, nghĩa là lúc chim còn trong vỏ trứng chưa phân rõ tướng của tiếng kêu, ra khỏi vỏ trứng tùy theo loại mới có tiếng kêu khác nhau. Chủng tử của khẩu nghiệp ở trong Thức vốn có tánh vô ký như nhau, không có bao nhiêu tướng, lúc báo chín muồi đến nơi thọ sinh có thể phát ra các tiếng. Vả lại, công năng sinh ra quả không giống nhau, như chim ra khỏi vỏ trứng; Thể tánh của nghiệp trống rỗng không có gì sai khác, như chim còn trong vỏ trứng. Đây chính là dụ về trước-sau, dựa theo pháp thì cùng lúc.

Thứ sáu là dụ về hiện rõ quả không có đến, nghĩa là như cha mẹ làm duyên thọ sinh, Thức có chủng tử như nghiệp-phiền não… làm nhân. Thức này lúc hòa hợp với trắng đỏ thì gọi là nhân duyên hội tụ, vì vậy gọi là thọ sinh. Không có nơi đến riêng biệt, tuy không có đến mà báo dần dần lớn thêm không trở ngại các căn khác nhau; nghiệp cũng như vậy, suy nghĩ-chuyển động tạo nghiệp như thân…, không có nơi đến riêng biệt, về sau nếu chín muồi thì cảm đến báo ứng sai biệt.

Thứ bảy là dụ về khổ báo không có gốc, nghĩa là bởi vì ác nghiệp huân tập trong tự tâm, vì vậy khiến cho tâm thay đổi làm ra đủ loại dụng cụ khổ đau, trở lại tự não hại đến mình. Nhưng dụng cụ khổ đau ấy tuy bên ngoài không có nơi đến, mà việc não hại không hư hoại; nghiệp cũng như vậy, tuy không có tự tánh mà cảm đến báo ứng không mất, cho nên nói là tánh của nghiệp cũng như vậy.

Thứ tám là dụ về quả thù thắng không có rễ, nghĩa là nghiệp thiện huân tập vào tâm, tâm huyễn hiện bày quả cũng không có gốc rễ. Tiểu thừa nói sau khi Luân Vương mất đi bảy vật báu cất giữ ở trong núi Thiết-vi, sau Thánh Vương xuất thế thì bảy vật báu trở lại hiện rõ trước mặt Thánh Vương. Nay ở đây thì không như vậy, chỉ do nghiệp huân tập trong tự tâm mà biến hiện, không có Thể của vật báu nào khác làm cho đến đi; tánh của nghiệp cũng như vậy, Luận nói: Thiện ác huân tập vào 2 tâm, vì sao nói tâm khác nhau?

Thứ chín là dụ về có-không có cùng tánh, nghĩa là nghiệp hữu lậu chưa đạt được quả và trước đạo đối trị, là Thức vốn có thâu nhiếp duy trì công năng không diệt đi, gọi là Thành; đến lúc đạt được quả và đạt được đạo đối trị, công năng của nghiệp không còn, gọi là Bại. Tìm lúc thành ấy không từ nơi nào đến, tìm lúc bại ấy cũng không có nơi hướng về, đây là hoàn toàn không làm hỏng thế gian mà nói Đệ nhất nghĩa.

1. Phật thuyết pháp thậm thâm: Một là trong chất vấn có hai, trước là đưa ra pháp chính thức chất vấn, sau là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất vấn. Trong phần trước có hai: 1) Đưa ra nghĩa chính; 2) Chính thức đưa ra chất vấn, đó là mười loại trái ngược nhau, một pháp là một vị Chân như. Ý chất vấn rằng: Đã giác ngộ là một mà thiết lập nhiều loại giáo, nếu nghĩa không phải là một thì có thể làm cho tùy theo lời nói đều thật, tức là trái với một vị sẽ mất đi pháp đã chứng; nếu nghĩa là một vị mà không tùy theo lời nói, thì tất cả các giáo đều thuận theo hư vọng. Đây là chất vấn về giáo-nghĩa trái ngược nhau. Vị ấy nếu nói để cứu vãn rằng: Tôi nói trong lý một vị đã chứng này vốn có đủ nhiều đức, cho nên các giáo đều hiển bày một đức, do đó không trái ngược nhau. Vì ngăn chặn lời cứu vãn này cho nên tiếp tục chất vấn rằng: Nhưng mà ở trong pháp tánh, phân biệt suy xét tìm tòi nhiều loại như vậy thật sự không thể có được, không thể có được cho nên giáo đã trái với nghĩa. Lại giải thích: Đây là chất vấn về Thể-Dụng trái ngược nhau, nghĩa là giác ngộ một pháp là Thể, thích ứng với cơ hiện bày nhiều loại là Dụng. Nếu lấy Thể thuận theo Dụng thì sẽ trái làm mất đi một pháp, nếu Dụng giống như Thể thì các loại sẽ không thật. Nếu nói trong một pháp bởi vì có nhiều loại thì không trái ngược nhau, nhưng mà trong pháp tánh tìm cầu nhiều loại không thể có được, cho nên không thành cứu vãn.

Trong mười câu, một câu đầu là tổng quát, chín câu còn lại là riêng biệt: 1) Âm thanh của giáo có khắp mọi nơi; 2) Lực của giáo thâu nhiếp chúng sinh; 3) Từng âm thanh sai biệt (ba loại trên đây là khẩu nghiệp); ) Thân nghiệp; 5) Ý nghiệp; ) Dụng của thân; 7) Y báo; ) Trang nghiêm quốc độ; 9) Phạm vi. Nếu nói đầy đủ thì thuận theo đầu mỗi một câu đều nói: Chỉ giác ngộ một pháp sao nói là vô lượng?

Hai là trong phần đáp, Đức Thủ đáp là bởi vì hiển bày về lý-đức sâu xa của pháp. Trong đó có hai: Đầu là một kệ khen ngợi thưa hỏi sơ lược trả lời. Ý trả lời rằng: Bởi vì pháp giới một vị là nghĩa không có phân biệt chứ không phải là một thuộc một số, vì vậy tùy duyên thành nhiều mà không khác với một vị, một vị trong suốt mà không trở ngại nhiều loại. Hai điều này không có hai, vì vậy các giáo đều thật mà lý một vị tồn tại. Như vậy không ngăn ngại gì, cho nên gọi là nghĩa vi diệu thậm thâm. Lại giải thích: Một này không khác với nhiều, là Như Lai đã giác ngộ; nhiều không khác với một, là Như Lai đã thuyết giảng. Do đó một là vô cùng sâu xa, bởi vì không khác với nhiều; nhiều cũng như vậy, ngược lại với trên có thể biết, cho nên nói là nghĩa vi diệu thậm thâm. Người cầu công đức bởi vì biết một phát khởi nhiều có thể thâu nhiếp chúng sinh, mà cầu đạt được một pháp này; lại bởi vì biết nhiều quy về một có thể chứng được lý, mà cầu đạt được nhiều pháp này, cho nên gọi là người trí.

Sau là nửa kệ Đức Thủ tự hiển bày dựa theo pháp làm tên gọi. Trong này chín dụ đều hiển bày không thay đổi một, không có phân biệt mà thành tựu sự việc sai biệt: 1) Dụ trình bày về pháp có thể gánh vác vạn cơ; 2) Dụ về duyên diệt mọi phiền não; 3) Dụ về tiến vào pháp khí không có gì thay đổi, đó là như nghĩa lưu chuyển thù thắng trong pháp giới…; ) Dụ về lay động các căn mở bày giác ngộ, đó là huân tập trở thành chủng tử, thường thường khiến cho chán ngán mong cầu; 5) Dụ về thuận theo mong muốn mà làm lợi ích, rồng như thân Phật, sấm như Phạm âm, mưa như Chánh giáo, bởi vì không có phân biệt cho nên không khác với một; ) Dụ về duyên phát sinh các đức, đó là dựa vào pháp giới thanh tịnh thành tựu các hạnh về tu sinh…; 7) Dụ về không cấu nhiễm chiếu rọi căn cơ; ) Dụ về ứng với căn cơ bất cứ ở đâu; 9) Dụ về tùy duyên bất biến. Các môn trên đây đều không khác với một, không có phân biệt mà hiện bày nhiều loại sự việc ích lợi, như Phạm ứng Đại thiên dụ về Phật thuyết vô lượng, thân không khác biệt dụ về một vị thường còn, các môn còn lại đều dựa theo như vậy.

2. Phước điền thậm thâm: Trong chất vấn, đầu là chính thức chất vấn, sau là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất vấn. Trong ý chất vấn đã nói đức của Phật không khác biệt, thì lẽ ra thi thiết đạt được quả không khác, vì sao nay thấy đạt được báo sai biệt? Đây là chất vấn về duyên và quả trái ngược nhau. Sợ rằng vị ấy nói để cứu vãn: Ruộng phước của Phật tuy là một nhưng nếu người đối với Phật phát khởi cúng dường thượng diệu, thì Phật đối với người này sinh niệm thân ái, cho nên đạt được quả báo thù thắng; xấu tệ thì trái lại. Vì ngăn chặn lời cứu vãn này cho nên sau đó nói rằng: Như Lai bình đẳng không có oán thân. Đây là ba pháp về Niệm xứ.

Trong phần chính thức chất vấn, đầu là nêu ra nghĩa chính, sau là hiển bày về trái ngược nhau. Trong đó, câu đầu là tổng quát, mười câu

là riêng biệt giải thích về lời nói không giống nhau trong phần tổng quát trước đây: 1) Sắc tướng đẹp xấu; 2) Bốn giòng họ và năm chủng tánh… trong loài người; 3) Như bốn câu là người sang mà không phải là giàu, giàu mà không phải là sang…; ) Các căn như Nhãn… đủ thiếu đẹp xấu và căn cơ lợi độn…; 5) Tài sản vàng bạc của cải…; ) Bố thí đứng đầu có được tài vật rất kỳ lạ, như cây Đề-già, vải bông trắng dùng đinh đóng vào đất bảy tấc mà không xuyên thủng…; 7) Quyến thuộc thiện ác…; ) Đã đều nhún mình thực hành bố thí, thuận theo cùng được tự tại, ngày nay mới đến, hoặc là đối với một người được tự tại, những nơi khác không có được…, đều có phạm vi, lên xuống không giống nhau; 9) Phước đức nhiều ít; 10) Trí tuệ sâu cạn. Ngăn chặn cứu vãn có thể biết.

Trong phần đáp, Mục Thủ là người thấy rõ ràng pháp này. Ý đáp là bình thường cúng dường Phật bởi vì hai nhân: 1) Do người cúng dường dụng tâm không như nhau, liền khiến cho đạt được báo khác nhau rất nhiều, như kinh Ôn Thất nói: “Đều bởi vì dụng tâm không như nhau.” 2) Do tâm Đại Bi của Đức Phật không thể nghĩ bàn, cuối cùng đều khiến cho tất cả được giải thoát, kinh Đại Bi quyển thứ hai nói: “Dưới đến súc sinh có thể nghĩ đến Đức Phật, đều đạt được Niết-bàn tối thượng, cùng tận ranh giới phiền não, huống là con người…” Lại như tánh bậc thấp khởi lên lợi ích của thấy nghe…, vì vậy trong kệ nói bởi vì chúng sinh có khác nhau, là nghĩa đầu; có thể đốt cháy tất cả các cõi, là nghĩa sau.

Hai nghĩa này không hai, cùng một báo cho nên không trái ngược nhau. Dẫn ra mười dụ nêu rõ: 1) Dụ về duyên có thể hiện rõ quả; 2) Dụ về ứng với căn cơ tùy theo hiểu rõ; 3) Dụ về khéo léo tùy thuận; ) Dụ về ứng với cơ cảm khiến cho vui mừng; 5) Dụ về vật cảm hiện rõ hình tướng; ) Dụ về khéo léo trừ diệt chướng ngại mê hoặc; 7) Dụ về tiêu diệt chướng ngại do trí; ) Dụ về tâm Bi phủ khắp mọi nơi; 9) Dụ về thường thường khiến cho sinh tâm chán ngán, nghĩa là không khiến cho vui thích lâu dài; 10) Dụ về đốt cháy tất cả, nghĩa là khiến cho đạt được Niết-bàn.

3. Chánh giáo thậm thâm: Trong chất vấn có ba: Một là nêu ra lực của giáo. Hai từ “Vị tri…” trở xuống là nêu ra lực của hành, trong đó mười pháp phân làm ba: a) Nhận biết toàn bộ năm uẩn; b) Nhận biết báo nhiễm tịnh của ba cõi khác nhau; c) Nhận biết si ái là duyên của báo. Ba từ “Nhược tri…” trở xuống là dùng hành để chất vấn về giáo, hiển bày giáo không có lực. Ý chất vấn là nhờ vào giáo pháp mà đoạn trừ phiền não, hay là nhờ vào thường xuyên quán sát các pháp mà đoạn trừ phiền não? Nếu nhờ vào giáo có thể đoạn trừ thì không cần phải tinh tiến, nếu nhờ vào thường xuyên thực hành có thể đoạn trừ thì giáo không có thêm bớt, nghĩa là giáo pháp này đối với công đức không tăng thêm, đối với phiền não không giảm bớt. Lại giải thích đạt được giáo không tăng thêm, mất đi giáo không giảm bớt, bởi vì không có tác dụng. Đây là chất vấn về lực của giáo trái ngược nhau. Ý đáp bởi vì giáo là duyên của tinh tiến, thường xuyên quán sát giúp đỡ cho giáo mới có thể đoạn trừ phiền não, cho nên nhanh chóng thoát ra. Giáo có lực thù thắng, lười nhác trái với giáo thì không có lực của giáo, cho nên khó mà thoát ra. Người chất vấn dùng lực của hành làm mất đi lực của giáo, người đáp hiển bày về hành vốn là nhờ vào lực của giáo. Bởi vì thuận theo giáo lìa xa lười nhác, cho nên Tiến Thủ giải đáp điều này.

Trong kệ có ba: Một có một kệ khuyến khích lắng nghe tổng quát nói tách ra hai chương môn. Hai có một kệ phân rõ tinh tiến thuận với giáo để giải thích về môn nhanh chóng thoát ra. Ba có tám kệ trình bày lười nhác trái với giáo để giải thích về môn khó mà thoát ra: 1) Dụ về lười nhác nghe nhiều hiểu rộng, người này trước đã ít nghe hãy còn không có thể lĩnh ngộ, như đốm lửa nhỏ; nay lại gắng gượng cầu học rộng nghe nhiều, như củi còn ướt. Bởi vì mới cũ đều mất đi, cũng không có gì thành tựu ích lợi, vốn là vì lười nhác. Vả lại, người này muốn dùng chút ít thời gian nhanh chóng học hỏi nhiều pháp, sự học đã không thành tựu liền trở thành lười nhác. 2) Dụ về lười nhác không có năng lực, người này phước mỏng thiếu tâm lực, lại thường xuyên bỏ dở luyện tập, không có gì thành tựu vốn là vì lười nhác. Vả lại, người này tuy cũng trải qua nhiều thời gian nhưng thường xuyên gián đoạn, cho nên sự nghiệp không thành tựu gọi là lười nhác. 3) Dụ về lười nhác tu theo một phía, người này rời bỏ Thiện tri thức, chỉ đối với kinh điển cầu luyện tập về Văn tuệ, không có gì đạt được cho nên lười nhác. Vả lại, người này tuy không gián đoạn, nhưng thiếu duyên cho nên sự nghiệp cũng không thành tựu. ) Dụ về lười nhác tu trái ngược, người này nghe nói viết chép trì tụng kinh điển thì chứng được giải thoát, bởi vì không nhận biết ý nghĩa-thời gian khác nhau, lâu mà không đạt được liền sinh ra lười nhác. Vả lại, người này tuy có ngoại duyên mà đều là người học sai lầm, tùy tiện giữ lấy mong cầu trái ngược, cho nên dao động rơi rụng. 5) Dụ về lười nhác vượt quá mong cầu, người này không tự biết mình không có Văn tuệ, chỉ mong mỏi thông hiểu tất cả Phật pháp, đã không có thể thông hiểu thì sinh ra lười nhác. Vả lại, người này tuy bên ngoài có duyên tốt mà nhân bên trong có thiếu hụt, nghĩa là không có lòng tin, tự mình không có trì giới đầy đủ, không giữ chắc cung Định, không lắp mũi tên Trí, làm sao có thể bắn đến mặt đất phiền não. ) Dụ về lười nhác ít lực, người này dùng ý thức trong sát-na mà mong suy xét tận cùng biển sâu của Phật pháp, đã không có thể đi vào thì sinh ra lười nhác. Vả lại, nghe xưng danh hiệu Phật một niệm diệt nhiều tội nặng, chỉ xưng niệm một câu thì ngừng mà nói rằng tội mình đã diệt… 7) Dụ về lười nhác ít sửa trị, người này nghe Phật dạy có thể dập tắt lửa phiền não, thì dùng một chút nghe mà mong mỏi diệt hết phiền não, lâu mà không hết thì nói là Phật dạy không có tác dụng, tất cả đều vứt bỏ, vì vậy mà lười nhác. ) Dụ về không có ý mong cầu vượt ra, cũng gọi là dụ về chấp ngã mạn cao, người này nghe nói chúng sinh là Chân như, bởi vì không hiểu rõ mê-ngộ, cho nên nói rằng mình đã là Chân như thì chính là đã chứng được pháp giới, lại tu điều gì nữa, do đó sinh ra lười nhác.

4. Chánh hạnh thậm thâm: Trong chất vấn có ba: Một, dẫn lời Đức Phật nói, nêu ra nghĩa chính. Hai, từ “Vân hà…” trở xuống là thiết lập chất vấn hiển bày về trái ngược, trong đó đầu là câu tổng quát, tiếp theo tùy mười pháp cấu nhiễm là riêng biệt, luôn luôn hiện hành trong tâm cho nên không lìa xa tâm. Ba, tâm không có sở hành… là kết thúc chất vấn trở lại nêu ra, nghĩa là tuy nghe Chánh pháp nhưng không có tâm dựa vào thực hành mà muốn đoạn trừ phiền não, cho nên biết Đức Phật nói nghe pháp có thể đoạn trừ thì nghĩa ấy ở chỗ nào? Lại giải thích đây là ngăn chặn cứu vãn tiếp tục chất vấn, nghĩa là nếu nói cứu vãn rằng: Nếu dựa vào giáo thực hành thì có thể đoạn trừ phiền não, cho nên nghĩa về nghe pháp có thể đoạn trừ vẫn còn tồn tại. Nay tiếp tục chất vấn rằng: Đây là dựa vào giáo thực hành, tức là tâm có sự thực hành, sao có thể đoạn trừ phiền não? Nếu dựa vào đạo lý, thì phải là tâm không có sở hành mới có thể đoạn kiết, cho nên nghe pháp rốt cuộc không có thể đoạn trừ. Ý đáp là tâm này không có sở hành gọi là như thuyết thực hành, cho nên có thể đoạn kiết; nếu chỉ riêng nghe thì thật sự không có nghĩa về đoạn, có thể có nghe mà không thực hành, không hề có thực hành mà không nghe, cho nên nói tất cả Phật pháp lấy nghe pháp làm căn bản. Phần này và Chánh giáo thậm thâm trước đây có gì khác nhau? Trước dùng hành nêu ra chất vấn về giáo, đáp là lực của giáo thâu nhiếp hành, nghĩa là nếu không có giáo mà thường xuyên thực hành thì không thành tựu; trong này lấy giáo nêu ra chất vấn về hành, đáp là hành có thể thực hành theo giáo, nghĩa là nếu không thực hành thì đa văn không có tác dụng. Bởi vì chấp giáo thành hành, cho nên Pháp Thủ giải đáp điều này.

Trong mười kệ: Một kệ đầu là khuyến khích lắng nghe tổng quát trả lời, không những tích góp đa văn là trình bày về đa văn không phải là sai lầm, mà chỉ vì thiếu thực hành cho nên trở thành sai lạc. Chín kệ sau là nêu ra dụ chỉ rõ sai lầm: 1) Dụ về không như thuyết thực hành; 2) Dụ về thuận theo thuyết bỏ suy nghĩ; 3) Dụ về chấp vào văn lạc mất hành; ) Dụ về tự nói mình không có phần, cũng gọi là dụ về đắm vào văn lạc mất hành; 5) Dụ về ác nghiệp làm chướng ngại; ) Dụ về không hiểu mà tự nói; 7) Dụ về không thấy tự nghĩa, nghĩa là trước dựa theo giáo, ở đây dựa theo nghĩa; ) Dụ về bỏ chánh đạo thành trợ đạo, nghĩa là như Tỳ-kheo Ngưu Vương Mục tụng tám vạn pháp tụ, luôn luôn độ nhiều ức chúng sinh đạt được đạo, mà chính mình không tránh khỏi rơi vào địa ngục…; 9) Dụ về giấu điều sai-khoe điều đúng, nghĩa là như Điều-đạt khéo léo nói pháp nhưng trong lòng rối bời tối tăm, lại dựa vào cách nói này mà tự cao không yên phận, trái lại làm cho bị hại…

Hỏi: Vì sao trong này quở trách đa văn, trong phẩm Thập Trú lại khen ngợi đa văn?

Đáp: Bởi vì trong Tín thì hành kém cỏi, sợ rằng vướng mắc theo văn, lại ban đầu là nghe huân tập khiến cho thành tựu nhất tâm lắng nghe không trái ngược, từ Thập Trú trở đi vốn là hành thù thắng, vốn là không vướng mắc, vốn là có thể làm lợi ích nhiều cho chúng sinh.

5. Trợ đạo thậm thâm: Trong chất vấn có ba: Một, nêu ra nghĩa chính. Hai, từ “Hà cố…” trở xuống là thiết lập chất vấn hiển bày về trái ngược, trong đó sáu Độ-bốn Đẳng là mười, đây là dựa theo hành mà phân rõ, nếu dựa theo phần vị mà luận thì thêm bốn loại như Phương tiện… là mười, trong này Bát-nhã phải là Tuệ thế gian thâu nhiếp, bởi vì không như vậy thì không phải là chất vấn. Ba, từ “Thử nhất nhất pháp…” trở xuống là kết thúc chất vấn trở lại đưa ra. Ý chất vấn rằng: Trí tuệ là đứng đầu của các hành, sao không ca ngợi riêng hành này mà ca ngợi những hành khác; những hành khác lìa xa Tuệ đều không đạt được Bồ-đề, đâu cần phải ca ngợi? Đây tức là lấy trợ đạo nêu ra chánh đạo để chất vấn. Ý đáp là dùng chánh đạo-trợ đạo giúp đỡ nhau mà đáp. Bởi vì có thể hiểu trợ đạo giống như chánh đạo, cho nên Trí Thủ giải đáp điều này.

Trong mười kệ phân ba: Một, một kệ khen ngợi thưa hỏi khuyến khích lắng nghe. Hai, hai kệ tách ra hai chương môn, đó là kệ đầu trình bày về quả không phải là do một hành mà thành tựu, chánh đạo cần phải có trợ đạo giúp đỡ; kệ sau trình bày về ý thích của chúng sinh khác nhau, tùy theo căn cơ cho nên ca ngợi khác nhau. Ba, giải thích hai chương, ba kệ đầu giải thích về tùy theo căn cơ ca ngợi khác nhau, lại trong kinh Niết-bàn nói ở trước những người keo kiệt không cần phải ca ngợi những người bố thí, là dựa vào căn chưa thuần thục, bởi vì mong muốn bảo vệ, văn này dựa vào căn thuần thục, còn lại cũng như vậy; bốn kệ sau dựa theo pháp dụ, giải thích về chương môn đầu chờ đợi theo nhau, bố thí là thâu nhiếp người khác, trì giới là tự thâu nhiếp mình, hai loại này cùng làm căn bản của các hành, thiện căn đã tu thì chịu khó phòng ngừa không mất, thiện căn chưa sinh thì thúc đẩy khiến cho sinh khởi. Lại chịu khó phòng ngừa phiền não bên ngoài, thúc đẩy phòng ngừa ngạo mạn bên trong, cho nên nói là phòng hộ. Thiền định chế phục loại trừ, trí tuệ mong cầu đoạn dứt, cho nên nói là an ổn. Vả lại, Thiền thâu nhiếp phân tán bên ngoài, Tuệ chứng được chân lý, cho nên nói là an ổn; bốn Đẳng lợi ích chúng sinh vui vẻ hợp với ý mình, cho nên nói là an lạc.

6. Nhất thừa thậm thâm: Trong chất vấn có ba: Một là nêu ra nghĩa chính, hai là thiết lập chất vấn hiển bày về trái ngược, ba là kết thúc chất vấn trở lại đưa ra. Ý chất vấn rằng: Hết thảy chư Phật cùng tu Nhất thừa, nhân hạnh đã giống nhau, đạt được quả lẽ ra như nhau, vì sao nay thấy thế giới của chư Phật đủ loại khác nhau, cho đến mười loại pháp trú, như vậy tất cả đều không giống nhau, không có gì không đầy đủ, tất cả Phật pháp sai biệt như vậy mà nói là chỉ dùng Nhất thừa, lý ấy ở đâu? Đây là dùng nhân đưa ra quả để chất vấn, nghĩa là nhân giống nhau thì quả cũng giống nhau; cũng là dùng quả đưa ra nhân để chất vấn, nghĩa là quả khác nhau thì nhân cũng khác nhau. Ý đáp rằng lý thật thì nhân giống như quả không có gì sai biệt, nhưng tùy theo chúng sinh cơ cảm mà thấy sai biệt, không phải là chư Phật tự có hơn-kém. Bởi vì trình bày thông hiểu Nhất thừa thuận theo tướng, cho nên Hiền Thủ giải đáp điều này.

Trong mười kệ phân hai: Một, có hai kệ dựa vào thật để trình bày về nhân quả cùng là một, trình bày chỉ riêng Nhất thừa được thoát ra ở phần trên. Trong đó, trước là một nhân, sau là một quả. Trong nhân, nửa kệ đầu trình bày về một pháp tánh đã dựa vào, nửa kệ sau trình bày về một hành tu có thể dựa vào. Trong quả, nửa kệ đầu là một Pháp thân đã chứng, nửa kệ sau là một đức thù thắng thuộc tu sinh, trong đó tâm là Đại Định như nhau, tiếp là Đại Trí như nhau, hai loại này là Dụng bên trong giống nhau, Lực-Vô úy… là Dụng giáo hóa bên ngoài như nhau. Luận chung có ba: Đầu là Thể giống nhau, tiếp là Đức như nhau, sau là Dụng bằng nhau. Hai, có tám kệ trình bày về dùng Thể thuận theo duyên hiện có nhiều loại, trình bày thế giới… không giống nhau ở phần trên, là tùy theo căn cơ thấy khác nhau chứ không phải là Phật có sai khác. Vì vậy lần lượt chuyển tiếp giải thích về nghi ngờ, trong đó: Kệ một trình bày về Phật tùy theo căn cơ thị hiện sai biệt. Kệ hai nghi ngờ tại sao thị hiện khác nhau? Giải thích bởi vì nghiệp của chúng sinh khác nhau cho nên thấy sai biệt. Kệ ba nghi ngờ vì sao có thể biết chúng sinh chỉ dựa vào nghiệp của mình mà thấy khác nhau? Giải thích bởi vì chúng sinh đã không thấy nhiều Pháp thân của chư Phật, biết rõ ràng là chỉ thấy tự tâm đã hiện bày sai biệt, không phải là Thể của Phật có như vậy. Đây là trình bày về thân-độ của Báo Phật, Địa tiền và Nhị thừa đều không có thể thấy được. Kệ bốn nghi ngờ Chân Phật bình đẳng mà chúng sinh không thấy, thì ai có thể thấy được? Giải thích là những người có công hạnh rộng lớn thanh tịnh… thì có thể thấy, đây là trình bày về Bồ-tát Địa thượng thấy thân-độ Thật Báo. Kệ năm nghi ngờ chúng sinh Địa tiền đã không có thể thấy, do đâu có thể tiến vào Chân? Giải thích bởi vì Phật lực tự tại đều khiến cho thấy từng phần, sau trở lại khiến cho tiến vào. Kệ sáu nghi ngờ Phật lực đã tự tại, vì sao không khiến cho chúng sinh thấy cùng một loại? Giải thích là Phật không có yêu ghét, chúng sinh dựa vào tự tâm cho nên thấy sai biệt. Kệ bảy nghi ngờ rằng nay mình đang thấy Phật tự nhiên sai biệt, lẽ nào liên quan đến tâm mình, vì vậy lỗi sai biệt thuộc về Phật? Giải thích rằng nếu không chỉ riêng tâm ông thì có thể trách móc như vậy, đã thật là tự tâm ông biến hiện cho nên không phải là lỗi của Phật. Kệ tám nghi ngờ rằng nếu Phật không tự có thị hiện sai biệt, thì vì sao có người thường thấy, có người không thấy…? Giải thích rằng tâm khí thanh tịnh thì tự tâm cảm đến mà thấy, bởi vì Phật là tâm pháp như vậy.

7. Cảnh giới Phật thậm thâm, trên đây là Văn Thù hỏi nhiều người, nay nhiều người hỏi Văn Thù, vốn là chủ-bạn làm sáng tỏ lẫn nhau. Trên đây luận về pháp khác, những Bồ-tát khác nói, nay phân rõ về cảnh giới Phật, cùng nhau thưa thỉnh Văn Thù là bởi vì thành Phật đã lâu hiển bày về trí sâu xa. Vả lại, Văn Thù hỏi đều dùng lý trở lại đưa ra trái ngược nhau để kết thúc chất vấn, nay chỉ thưa thỉnh không dám chất vấn là bởi vì hiển bày tôn quý-bậc trên-đứng đầu chúng. Lại cảnh giới Phật này gồm chung hai loại: Một là cảnh đã chứng, đó là ChânTục… Hai là phạm vi của cảnh, đó là theo Tiểu thừa thì từ ba mươi bốn tâm trở đi là cảnh giới Phật, nếu theo Tam thừa thì Thập Địa đầy đủ về sau là cảnh giới Phật, nếu theo Nhất thừa thì Thập Tín đầy đủ về sau là cảnh giới Phật, như vậy chính là phân rõ thuộc về trong Tín. Vả lại, Tam thừa… không gồm chung phần vị của nhân, Nhất thừa thì nhân quả giống nhau, cũng là cảnh giới Phổ Hiền; nghĩa còn lại như phẩm Tánh Khởi nói.

Trong văn có hai, trước là hỏi-sau là đáp. Trong hỏi có bốn: Một là tổng quát nói cho biết, hai là kết luận về điều đã nói, ba là ca ngợi Văn Thù, bốn là chính thức bày tỏ thưa thỉnh. Có mười một câu, hai câu đầu hỏi về Thể của đức Tự lợi, năm câu tiếp hỏi về Dụng của đức Lợi tha, ba câu tiếp hỏi về đã làm lợi ích cho chúng sinh, một câu sau cuối kết luận về sự rộng lớn ấy. Vả lại, một câu đầu là tổng quát về Thể của quả. Hai là lấy nhân thành tựu quả, hỏi về Thể của nhân đã chứng cảnh. Ba là nơi tiến vào, đó là nhân tròn vẹn-quả đầy đủ, nhờ đó giáo hóa khắp nơi tiến vào thế gian… Bốn là đã hóa độ, đó là tiến vào thế gian phân rõ về chúng sinh đã hóa độ. Năm là phân rõ về trí nhận biết phương pháp hóa độ chúng sinh, đó là trí nhận biết pháp môn pháp giới. Sáu là thuốc pháp đã đưa ra. Bảy là thuận theo cơ sai biệt mà nói. Tám là trình bày về cơ tiến vào pháp, đó là không phải sự nhận biết của Thức nhiễm ô. Chín là đã không phải cảnh của Thức nhiễm ô, làm sao khiến cho có thể biết? Mười là đã có thể biết rồi soi chiếu trừ diệt pháp nào? Lại giải thích ba câu hỏi này khiến cho chúng sinh đã được hóa độ như thứ tự đạt được lợi ích của ba Tuệ, nên biết. Mười một là tổng quat kết luận về cảnh Phật rộng khắp ở nơi nào?

Trong đáp, một kệ thứ tám trong mười kệ đáp hai câu hỏi támchín, kệ còn lại theo thứ tự đáp chín câu hỏi còn lại.

Kệ một đáp về Cảnh giới, nửa kệ trước đưa ra pháp đã tiến vào, phần này gồm chung hai nghĩa, một như nhau (tề) là ngang nhau (đẳng), nghĩa là ngang nhau với hư không, tức là Chân như làm cảnh sở duyên; hai như nhau là phạm vi, nghĩa là phạm vi từ pháp tánh Chân Không trở đi là cảnh Phật; lại câu trước là sâu, câu sau là rộng. Nửa kệ sau trình bày về chúng sinh chứng nhập. Nói không có gì tiến vào (vô sở nhập), bởi vì chúng sinh tức là Pháp thân cho nên không có trở lại tiến vào; như thường ở trong hư không, lẽ nào có thể lại nói là tiến vào hư không?

Kệ hai đáp về Nhân, một là nhân thuộc phần khác chỉ riêng Phật mới có thể phân biệt được; hai là nhân thuộc phần mình nói không hết, bởi vì tu trải qua nhiều kiếp, lại bởi vì nhiều cho nên nói không hết, như Phật cho nên chỉ có Phật mới có thể phân biệt. Chỉ có Phật mới có thể phân biệt là hiển bày về sâu thẳm, nói không hết là rộng lớn, đương nhiên những điều khác ngoài Đức Phật ra thì người khác nói không có thể hết được.

Kệ ba đáp về Nhập, nửa kệ trước trình bày về tùy duyên, nửa kệ sau trình bày về bất biến, nghĩa là vắng lặng mà thường sử dụng cho nên hòa vào khắp nơi; sử dụng mà thường vắng lặng cho nên vắng lặng vô cùng. Hòa mà không giống nhau, cho nên nói không giống như thế gian đã nhìn thấy, chính là bởi vì có thể hòa vào cho nên không giống nhau.

Kệ bốn đáp về Độ, nghĩa là hòa vào trong thế gian làm việc như thế nào, đó là hóa độ chúng sinh, nửa kệ trước nêu ra chúng sinh hóa độ, nửa kệ sau trình bày về số lượng hóa độ.

Kệ năm đáp về trí nhận biết phương pháp hóa độ chúng sinh, nửa kệ trước là chủ động nhận biết, nửa kệ sau là thụ động nhận biết.

Kệ sáu đáp về thuốc pháp, nghĩa là câu đầu trình bày về Thể của pháp, câu tiếp là Dụng của pháp, nửa kệ sau trình bày về Dụng không khác Thể, cho nên chỉ riêng Đức Phật nhận biết. Phân biệt đầy đủ có hai: Một, bởi vì không khác với pháp giới, tùy theo cơ nhiều mà nói nhiều, cho nên khó mà nhận biết, nếu phân biệt đầy đủ thì chỉ riêng Đức Phật nhận biết. Hai, ở đây nói nhiều bởi vì không có sai khác, không có sai khác thì nói nhiều, như vậy đều không làm hỏng hai môn, không ngăn ngại tức là một, điều này khó mà phân tích, nếu muốn phân tích đầy đủ thì chỉ riêng Đức Phật mới có thể nhận biết.

Kệ bảy đáp về trí nhận biết âm thuyết pháp, nửa kệ trước là thụ động nhận biết, nửa kệ sau là chủ động nhận biết, nghĩa là tuy biết rõ ràng âm thanh ngôn ngữ của chúng sinh dùng để thuyết pháp, nhưng thường không có đưa ra cho nên không có phân biệt.

Trong kệ tám đáp về Thức có hai câu, câu đầu không thể bàn nói cho nên bặt dứt con đường nói năng (ngôn ngữ đạo đoạn), không phải là do Nhĩ thức… mà nhận biết; câu sau không thể suy nghĩ cho nên không còn nơi hoạt động của tâm(tâm hành xứ diệt), không phải là sự suy nghĩ của tâm. Lại không phải là Thức nhiễm ô cũng không phải là Tâm nhiễm ô, như kinh Lăng Già nói: “Giữ lấy tướng gọi là Thức, không giữ lấy tướng gọi là Trí, cho nên trong bốn nương tựa(tứ y) không khiến nương tựa vào Thức.

Trong kệ chín đáp về quyết định biết có hai câu: Câu đầu nêu ra pháp, nghĩa là pháp Như Lai Tạng tự tánh thanh tịnh; câu sau nêu rõ khiến cho quyết định biết.

Trong kệ mười đáp về soi chiếu, nửa kệ trước soi chiếu diệt trừ phiền não chướng, chứng được Niết-bàn tịch diệt; nửa kệ sau soi chiếu diệt trừ sở tri chướng, đạt được Bồ-đề bình đẳng hành thế gian. Vả lại, vô minh là không có năng lực soi chiếu, vô sở hành là không có sự soi chiếu, bình đẳng hành thế gian là không còn chủ động và thụ động mà soi chiếu cho nên nói là bình đẳng hành. Hành giống như soi chiếu.

Trong kệ mười một đáp về mở rộng, nửa kệ trước là đã nhận biết rộng rãi, nửa kệ sau là có thể nhận biết rộng rãi.

Thứ hai là kết luận gồm chung nhìn thấy khắp nới, trình bày đây là tất cả mọi nơi mà Văn Thù cùng tất cả mọi nơi mà Giác Thủ… thuyết pháp. Phẩm trước ánh sáng soi chiếu khiến cho nhìn thấy chúng hội, trong phẩm này Phật lực khiến cho Đại chúng trông thấy pháp sự đã nói, đó là nhân quả. Văn có ba: Một là phân rõ về cõi này, hai là hiển bày về phương Đông, ba là tương tự chín phương. Trong phần một có ba: 1) Trình bày về Đức Phật gia hộ Đại chúng, 2) Trình bày về mười sự việc đã trông thấy, 3) Từ “Như thị…” trở xuống là kết luận.

Trong mười sự việc, năm sự việc trước là nhân: a) Thực hành theo pháp chuẩn mực, b) Dựa vào pháp thành tựu thực hành, c) Thực hành không phải là xuất thế, d) Dựa vào thân… phát khởi thực hành, e) Tùy theo căn mong muốn ưa thích mà dấy lên hành nghiệp.

Trong năm sự việc sau là quả: a) Tổng quát, b) Y báo, c) Duy trì và phá bỏ trong Chánh báo, d) Thuyết pháp trong Chánh báo, e) Tổng quát kết luận. Lại giải thích: Một sự việc đầu là hành pháp Lục độ do Trí Thủ đã nói; hai là nghĩa về tánh của nghiệp do Bảo Thủ đã nói; ba là nghĩa về lười nhác khó thoát ra do Tiến Thủ đã nói, cũng là lỗi lầm đa văn… do Pháp Thủ đã nói; bốn là nghĩa về tùy thân-tùy hạnh giáo hóa do Tài Thủ đã nói; năm là Phật pháp một vị tùy theo căn cơ phân ra thành nhiều do Đức Thủ đã nói, cũng là một nhân tùy theo nhiều duyên… do Mục Thủ đã nói; sáu-bảy-tám là tâm tánh tùy duyên quả báo không giống nhau… do Giác Thủ đã nói; chín-mười là Hiền Thủ nói về Nhất thừa, Văn Thù nói về cảnh Phật có thể biết. Trong tương tự các phương khác, chính là phẩm Quang Minh Giác trước đây đã phân rõ.

Phẩm 7: TỊNH HẠNH

Giải thích phẩm này có bốn môn giống như trước:

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Dựa vào Phạm bản gọi là phẩm Viên Tịnh Hạnh, trong Vô Tánh Nhiếp Luận gọi là kinh Thanh Tịnh Sở Hành, nghĩa là ba nghiệp không có lỗi lầm nói là Thanh Tịnh, tâm khởi nguyện gọi là Hành, hành thuận với tất cả các pháp gọi là Viên, đây là Trì nghiệp thích. Lại nữa, Tịnh là Lý, Hạnh là Trí, Lý-Trí vô ngại là Viên, đây là Y chủ thích. Lại nữa, nguyện là chủ động thanh tịnh, hạnh là thụ động thanh tịnh, khiến cho hạnh sáng ngời xứng với tánh gọi là Viên, bởi vì đều là nguyện hạnh của Phổ Hiền. Lại nữa, nguyện không có cấu nhiễm gọi là Tịnh, tức nguyện là hạnh cho nên nói là Tịnh Hạnh.

B. Ý: đưa ra, trước là Giải-tiếp là Hạnh, lại trước là Hạnh-tiếp là Nguyện, nghĩa theo thứ tự cho nên đưa ra.

C. TÔNG: là dùng Nguyện hải làm Tông, nhưng Nguyện có bốn loại:

  1. Thệ nguyện, nghĩa là trước khi thực hành cần phải có hạn kỳ…
  2. Hạnh nguyện, ở đây có hai loại: Một là cùng phát khởi với hành, hai là chỉ đối với sự mà phát nguyện, thì đây là hành để phòng ngừa tâm không cho tán loạn.
  3. Nguyện sau hành, nghĩa là đem hành hồi hướng nguyện đạt được Bồ-đề…
  4. Nguyện tự Thể vô ngại, nghĩa là Đại nguyện đến cuối cùng giống như biển pháp tánh, tùy ý vận dụng thành tựu tất cả các sự việc. Trong này chỉ luận về Hạnh nguyện, còn lại thì nghĩa gồm chung có thể biết.

D. TRONG GIẢI THÍCH VĂN: có hai, trước là hỏi-sau là đáp. Bởi vì đối với duyên khéo léo nguyện không phải là trí thì không thuần thục, cho nên Trí Thủ hỏi; hiển bày sự việc gần mà hướng đến xa, vi diệu khó nhận biết, cho nên Văn Thù đáp.

Trong hỏi thuận theo nhau là mười một câu phân làm hai: Đầu là bảy câu trình bày về nhân hạnh thuộc Tự phần, sau là bốn câu trình bày về quả hạnh thuộc Tha phần. Trong phần trước có hai: Đầu là ba câu trình bày về ba nghiệp thành tựu phước trí, sau là bốn câu trình bày về quả của phước trí.

Trong phần đầu chín loại-ba nghiệp phân làm ba: Ba loại đầu lìa xa lỗi lầm là bởi vì bắt đầu tu tập, nghĩa là lìa xa ba độc. Ba loại tiếp thành tựu ba hạnh là bởi vì lần lượt tu, đó là: a) Tự mình đạt được không mất; b) Người khác không có thể lay động; c) Có thể thâu nhiếp được người khác do đó khiến cho khen ngợi.

Ba loại sau hiển bày về ba đức là bởi vì tu cuối cùng, đó là: a) Phước đức; b) Đoạn đức; c) Trí đức. Đều lấy sau để giải thích trước, có thể biết.

Trong phần sau là quả có hai: Một, Trong mười câu trình bày về phước quả: 1) Y quả thù thắng, kinh Niết-bàn nói: “Thường sinh vào nơi trung tâm có Phật pháp.” 2) Chủng tánh thù thắng, luận Địa Trì nói: “Sinh vào chủng tộc bậc Thượng.” 3) Giàu mà lại sang, là nhà thù thắng, cũng là sinh trong nhà Như Lai. ) Thân có sắc tướng tốt đẹp, cũng là các căn đầy đủ. 5) Thân có phước tướng, cũng là tướng tốt đầy đủ. ) Niệm Định cũng là thù thắng, Niệm cũng là tổng trì không quên. 7) Tuệ Quán cũng là báo sinh ra trí, đối với pháp tự nhiên hiểu rõ. ) Ý thú, nghĩa là hướng về lý… 9) Uy đức thù thắng, cũng là tự tại thù thắng, nghĩa là rõ ràng không có gì khiếp sợ, theo Trí Luận: “Bồ-tát có bốn loại Vô úy khác: a) Tổng trì Vô úy, đối với pháp ghi nhớ không sợ quên mất; b) Nhận biết căn Vô úy, nhận biết căn trao cho pháp không sợ sai lầm; c) Quyết đoán nghi ngờ Vô úy, tùy theo câu hỏi tự nhiên đáp không sợ không chịu nổi; d) Giải đáp chất vấn Vô úy, có chất vấn đều thông suốt không sợ đuối lý bế tắc.” 10) Thường tự mình giác ngộ thông suốt, cũng là giác ngộ người khác, nghĩa là hiểu biết rõ ràng về sinh tử, tâm sinh chán ngán lìa xa.

Hai- Trong chín câu trình bày về trí quả: Câu 1-2 là hơn hẳn phàm phu; câu 3- là hơn hẳn Nhị thừa, câu 5 là sâu thẳm cho nên không thể đo lường; câu là công năng rộng lớn cho nên không thể kể hết; câu 7 là lìa xa phân biệt cho nên tình không có thể suy nghĩ; câu là Thể thật cho nên không thể nói được; câu 9 là lìa xa nói năng cho nên không thể nói được.

Trong phần thứ hai là nhân lực thành tựu hành, có hai: Một- Lực có thể thành tựu; hai- Từ “Thiện tri…” trở xuống là các hành đã thành tựu.

Trong phần một có tám lực: 1) Lực của nhân, như Lương Nhiếp Luận nói: “Đa văn huân tập hòa hợp với tánh hiểu biết trong thức Alại-da, tất cả Thánh nhân lấy đây làm nhân, tức là Tánh-Tập, đầy đủ hai chủng tánh cho nên nói là đầy đủ.” 2) Ý hiện hành mạnh mẽ, là lực của Chánh tư duy trong Nhiếp Luận, nghĩa là suy nghĩ vốn là ý nghĩa. 3) Phương tiện khéo léo tiến vào pháp, cũng là dựa vào suy nghĩ tác động thân-khẩu mà phát khởi thực hành, cho nên nói là phương tiện. ) Thiện hữu giúp đỡ thành tựu, là lực của Thiện tri thức trong Nhiếp Luận. 5) Pháp đã quán sát hiện rõ trước mắt dẫn đến trí phát khởi quán sát. ) Căn cơ đã thuần thục, có thể làm pháp khí tiến vào pháp, lại đầy đủ các căn Tín-Tiến…, vả lại tư lương-thiện căn này là hai lực phước-trí trong Nhiếp Luận. 7) Phòng ngừa tâm soi chiếu lý, Chỉ-Quán cùng thực hành. ) Chỉ và Quán thuần thục rồi có thể đi sâu vào thiền định. Tám loại trên đây đều có thể thành tựu hành, diệt trừ phiền não đạt được Dụng thù thắng của quả, cho nên cùng gọi là Lực. Đối với Lực thứ nhất, Bồ-tát vì sao mà có thể khiến cho đầy đủ Lực ấy, cho nên làm thành câu hỏi.

Phần hai là thành tựu hành, nghĩa là dựa vào các lực trước đây có thể thành tựu Giải-Hành có ba: Một-Khéo léo hiểu rõ pháp tướng, hành có mười pháp, một là Uẩn, hai là Giới, ba là Nhập, bốn là Duyên khởi và ba cõi-ba đời, đều khéo léo nhận biết sai biệt mà không thể có được… Hai-Thâu nhiếp niệm tiến vào lý, hành cũng có mười pháp, đó là bảy Giác-ba Không soi chiếu chân lý. Ba-Tu nhiều về mười Độ, hành có thể biết.

Trong phần hỏi thứ hai về hành của quả thắng tiến, có bốn: MộtBên trong, nghĩa là có đủ mười đức thù thắng; hai-Bên ngoài, nghĩa là mười vua cung kính bảo vệ; ba-Bi đức bao phủ khắp nơi; bốn-Trí đức một mình vượt lên trên.

Trong phần một có mười Lực sơ lược đưa ra ba môn: a) Giải thích tên gọi; b) Đưa ra Thể; c) Kiến lập (đưa ra riêng biệt).

Trong phần ba là Bi đức có chín câu: 1) Làm thiện hữu che mát; 2) Cứu nỗi khổ hiện tại; 3) Khiến cho lìa xa sợ hãi; ) Làm nơi đạt được vui vẻ; 5) Ngọn đuốc trừ hết bóng tối mê hoặc; ) Làm cho Đại trí sáng tỏ; 7) Ngọn đèn soi chiếu hiện rõ nghĩa lý; ) Dẫn đến đạo phương tiện; 9) Dẫn đến nơi cuối cùng. Lại giải thích chín câu thuận theo nhau làm thành bốn: Hai câu đầu là giáo hóa chúng sinh trừ bỏ chướng ngại, nghĩa là che mát chúng sinh khiến cho pháp ác bên ngoài không xâm phạm thì gọi là nhà, ở trong khổ đau có thể trừ bỏ là cứu giúp; hai câu tiếp là giáo hóa mọi vật phát sinh thiện pháp, nghĩa là đầu làm nơi quay về cho mọi vật, cuối làm nơi hướng đến cho mọi vật; ba câu tiếp là dạy dỗ phát sinh trí tuệ, nghĩa là khiến cho hiểu rõ Giáo pháp là ngọn đuốc, thấy Lý pháp là sáng tỏ, khiến cho nhận biết Hành pháp là ngọn đèn; hai câu sau cuối là dẫn dắt để khởi phước, nghĩa là bắt đầu sinh ra phước là dẫn dắt, cuối cùng thành tựu phước là dẫn dắt Vô thượng. Lại giải thích riêng biệt như sau trong kinh tự giải thích về Hồi Hướng thứ nhất, tìm phần ấy phân rõ đầy đủ.

Trong phần bốn là hỏi về Trí đức một mình vượt lên trên, có bảy câu: 1) Đệ nhất là phần vị vượt quá thế gian; 2) Đại là Thể của đức không có đối đãi; 3) Thắng là Dụng của hành thù thắng; ) Thượng là phía dưới không có thể sánh kịp; 5) Vô thượng là phía trên không có gì có thể vượt quá; ) Vô đẳng là những điều khác không có gì có thể sánh bằng; 7) Vô đẳng đẳng là tự tướng… của Đại Thánh không có gì sánh bằng, cho nên nói là Vô đẳng đẳng. Lại giải thích: Đệ nhất có hai nghĩa, một là Đại-hai là Thắng, cho nên nói là Đệ nhất, nghĩa là đức giáo hóa hơn người gọi là Đại, đức tự mình hơn người gọi là Thắng. Đại có hai nghĩa, một là Thượng-hai là Vô thượng, cho nên nói là Đại. Thắng có hai nghĩa, một là Vô đẳng-hai là Vô đẳng đẳng, cho nên nói là Thắng.

Trong phần đáp thứ hai có hai: Một là khen ngợi thưa hỏi, hai là đáp chung. Trong phần một, nhiều lợi ích là trao cho nhân hạnh, nhiều an ổn là khiến cho đạt được quả, đây là hai dấu hiệu, Tuệ lợi giải thích phần đầu, an lạc giải thích phần sau. Lại giải thích: Đầu là lợi ích thành tựu về nhân quả xuất thế, sau từ “Ai mẫn…” trở xuống là khiến cho lợi ích về nhân quả trời-người. Lại trong Phật Địa Luận quyển thứ bảy nói: “Khiến cho tu nhân thiện gọi là lợi ích, giúp cho đạt được quả vui sướng gọi là an lạc. Lại khiến cho lìa xa pháp ác gọi là lợi ích, khiến cho thâu nhiếp pháp thiện gọi là an lạc. Lại bạt trừ đau khổ gọi là lợi ích, giúp cho vui sướng gọi là an lạc. Đời này-đời khác, thế gian và xuất thế gian… nên biết cũng như vậy.”

Trong phần hai là đáp chung có ba: Một là nêu ra ý đáp; hai là đáp bằng kệ tụng; ba là kết luận về tướng lợi ích. Trong phần một có hai: Trước là đưa ra ý tổng quát nêu lên, nghĩa là thành thục thân-khẩu-ý là dùng nguyện làm thanh tịnh ba nghiệp, từ “Năng đắc…” trở xuống là trình bày về tướng lợi ích đã đạt được. Sau từ “Ư Phật…” trở xuống là giải thích về thành tựu ba nghiệp đạt được công đức tuyệt diệu. Trong đó có hai: Một-Trình bày về nhân hạnh thuộc Tự phần, trong đó có ba: 1) Trình bày về đức thù thắng của ý nghiệp; 2) Từ “Khứ lai…” trở xuống là trình bày về đức thù thắng của ngữ nghiệp, trong đó: a) Tổng quát phân rõ; b) Không rời bỏ chúng sinh là trình bày về Pháp luân ứng cơ; c) Trình bày về thông hiểu Thật tướng là Pháp luân ứng lí; d) Đoạn ác là Pháp luân lìa xa sai lầm; e) Đầy đủ thiện là Pháp luân vốn có đức đầy đủ. 3) Từ “Sắc tượng…” trở xuống là trình bày về đức thù thắng của thân nghiệp.

Hai là trong hành của quả thắng tiến: 1) Đầy đủ Chủng trí; 2) Đối với pháp vô ngại; 3) Phân rõ về đức của Định, Phật là bậc nhất, chọn lấy khác với Phật cho nên nói là thứ hai.

Trong phần thứ hai nêu ra tụng chính thức đáp, có hai: Đầu là nêu lên, sau là chính thức đáp. Trong đáp có 10 nguyện đáp chung về các câu hỏi trước đây, vì sao như vậy? Bởi vì trong mỗi một nguyện đều có sáu nghĩa, có thể tùy theo sự chuyển đổi những thói quen vốn có, phòng ngừa làm thanh tịnh ba nghiệp, khéo léo thành tựu hạnh Tự lợi-Lợi tha của Bồ-tát, Thể hợp với pháp Phổ Hiền đầy đủ các lợi ích trên, cho nên đáp chung về các câu hỏi ấy: 1) Chuyển đổi rời bỏ sự việc; 2) Chuyển đổi thành tựu pháp; 3) Chuyển đổi người khác khiến cho lìa xa lỗi lầm; ) Chuyển đổi người khác khiến cho tiến vào pháp; 5) Chuyển đổi lìa xa lỗi lầm của mình; ) Chuyển đổi thành tựu công hạnh của mình. Tạm thời dựa theo một nguyện thứ nhất mà đưa ra, còn lại mỗi một nguyện đều dựa theo biết rõ. Nghĩa là: Một-Nguyện chuyển đổi việc nhà đã cư trú, là chuyển đổi rời bỏ sự việc; hai-Nguyện thành tựu pháp Không đã chứng, là chuyển đổi thành tựu pháp, như kinh Tịnh Danh nói nhà hoàn toàn rỗng lặng, là nói đến điều này; ba-Nguyện chúng sinh lìa xa hoạn nạn của gia đình, là chuyển đổi người khác khiến cho lìa xa lỗi lầm; bốn-Tiến vào trong pháp Không, là chuyển đổi người khác khiến cho tiến vào pháp; năm-Tự mình tuy ở nhà nhưng vì vậy mà phát nguyện, chuyển đổi tâm của mình nhìn thấy gia đình, không dấy lên tách khỏi gia đình thế gian, khiến cho lỗi lầm tai họa không đưa vào tâm mình, là chuyển đổi tự mình lìa xa; sáu-Đã không thấy gia đình thế gian thì thấy trở thành pháp, thương xót nghĩ đến chúng sinh khiến cho tiến vào pháp Không này, là tự mình chuyển đổi thành tựu Bi-Trí-Hạnh.

Trong sáu nghĩa này, bốn nghĩa trước sẽ thành tựu bởi vì là hạn kỳ chủ yếu của Thệ nguyện, hai nghĩa sau đang chín muồi bởi vì đây là Hạnh nguyện. Sở dĩ có sáu nghĩa này là bởi vì trong một nguyện cần phải có ba nghĩa: Một là sự việc đã dựa vào, hai là đều vì chúng sinh, ba là trí của mình duyên vào đó. Ba nghĩa này đều có hai loại là xả bỏ sự việc thế gian-thành tựu pháp môn, cho nên có sáu nghĩa. Như vậy tùy theo sự việc phòng ngừa không thuận theo pháp thế gian, thường trải qua pháp lý không mất đi chánh quán, là ý này. Lại trong các nguyện dưới đây tùy theo sự việc thuận nghịch sai biệt theo nhau sơ lược phân rõ về mười xu thế: 1) Xu thế chuyển đổi Sự tiến vào Lý, như kệ đầu chuyển đổi sự việc gia đình tiến vào lý Không…; 2) Xu thế chuyển đổi nhiễm trở thành tịnh, như nếu có được năm dục là nhiễm, công đức đầy đủ là tịnh…; 3) Xu thế tương tự chủng loại mà chuyển đổi, như bố thí chuyển đổi khiến cho đều xả bỏ tất cả, tâm không có gì vướng mắc…; ) Xu thế chuyển đổi nhân thành tựu quả, như đảnh lễ tháp Phật là hành thuộc về nhân, đạt được đạo không thấy đỉnh cao là quả…; 5) Xu thế chuyển đổi thế gian giống như xuất thế, như ở phòng ốc… là thế gian, địa vị Hiền Thánh là xuất thế; ) Xu thế chuyển đổi y báo giống như chánh báo, như thấy thành quách là y báo, thân Kim Cang… là chánh báo; 7) Xu thế chuyển đổi giả tạo quay về chân thật, như thấy người Tiên…, bởi vì Tiên không phải là chân thật giải thoát, chuyển đổi hướng đến Chánh pháp chân thật đến cuối cùng giải thoát; ) Xu thế chuyển đổi người giống như pháp, như thấy người tật bệnh…, thân Không là pháp, bởi vì biết thân người bệnh tức là pháp Chân Không thì khổ nào không thoát; 9) Xu thế chuyển đổi cảnh thành tựu hành, như thọ giới mặc ca-sa… là cảnh lìa xa ba độc, tâm hoan hỷ là hai hành Trí-Đoạn; 10) Xu thế chuyển đổi hư giả giống như chân thật, như nếu ở chốn kỹ nhạc là hư giả, vui với pháp là chân thật. Những kệ còn lại đều tương tự mà biết rõ thôi.

Ngay trong văn này, trường hàng phân làm mười: 1) Trình bày về nguyện lúc Bồ-tát tại gia. 2) Từ “Dĩ tín xả gia…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc bắt đầu xuất gia. 3) Từ “Thọ trì tịnh giới…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đã xuất gia rồi thọ cấm giới. ) Từ “Nhược phu sàng tòa…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đầy đủ giới rồi tu tập thực hành Định-Tuệ, bởi vì người xuất gia thì ba Học là sự tu tập chính thức của mình. 5) Từ “Hạ sàng an túc…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đã xuất Định rồi ở tại trú xứ đầy đủ oai nghi đi đứng. ) Từ “Thủ chấp tích trượng…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc bởi vì khất thực làm lợi ích chúng sinh, cho nên nhanh chóng bước trên đường đi. 7) Từ “Kiến thú cao lộ…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc ở đường đi thấy-nghe các sự việc, trong này có hai: Một là thấy sự việc thuộc y báo, hai từ “Kiến nghiêm sức nhân…” trở xuống là trình bày về thấy sự việc thuộc về người và vật. ) Từ “Nhập lý khất thực…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc đi vào thôn xóm khất thực. 9) Từ “Nhược nhập thủy thời…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc ăn xong lễ tụng. 10) Từ “Hôn dạ…” trở xuống là trình bày về nguyện lúc ngàyđêm ngủ-thức. Như vậy từ đầu đến cuối tùy theo sự việc phát nguyện, không có điều gì trôi qua trống rỗng. Trí Luận quyển thứ 12 nói: “Người trí tuệ có hai: Tại gia gọi là Bà-la-môn, nghĩa là bảy đời thanh tịnh, sinh ra đủ sáu tuổi đều thọ giới xuất gia gọi là Sa-môn, Trung Hoa nói là dừng mọi điều ác (Tức Ác).”

Hỏi: Vì sao trong kinh Anh Lạc trình bày về nguyện tiến vào Lý, kinh này phần nhiều trình bày về nguyện đối với Sự?

Đáp: Kinh này thuận theo Nhất thừa, ở trong Sự làm lợi ích to lớn; kinh ấy dựa theo Tam thừa, ở trong Sự không thù thắng cho nên phân rõ tiến vào Lý.

Phẩm 8: HIỀN THỦ BỒ TÁT

Giải thích phẩm này đưa ra bốn môn:

A. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: theo bản Phạm gọi là Bạt-đà-la, Trung Hoa nói là Hiền; Thất Lợi, Trung Hoa nói là Cát Tường, hoặc nói là Đức, hoặc nói là Thủ, hoặc nói là Thắng, vì vậy không phải là Thủ của nghĩa ban đầu-đứng đầu, cũng không phải là Thủ của nghĩa Thượng thủ. Như vậy Phạm ngữ đều có tên gọi sai khác, ở đây chỉ bởi vì hiển bày về đức thù thắng siêu tuyệt cát tường là Thủ, đương Thể rất thuận hòa mềm mại là Hiền. Hiền là dựa theo Thể tánh, Thủ là dựa theo Đức dụng, là Trì nghiệp thích. Đối với Tín này đầy đủ tiến vào phần vị Phổ Hiền, có đủ hai nghĩa, nếu dựa theo quả thì cõi Phật Hiền Thủ… ở văn sau, trong này dựa theo nhân cho nên nói là Bồ-tát. Hoặc chỉ dựa theo người thì Hiền Thủ là Bồ-tát. Lại bởi vì người này là người thuyết pháp, cho nên thuan theo người làm tên gọi. Hoặc chỉ là pháp thì Bồ-tát là Hiền Thủ, cho nên pháp đã nói cũng là pháp môn của Bồ-tát Hiền Thủ. Hoặc người và pháp hợp lại làm đề mục, là Y chủ thích.

B.Ý: đưa ra, thâu nhiếp hạnh nguyện trước đây để thành tựu đức dụng rộng lớn của Phổ Hiền cho nên đưa ra.

C. TÔNG: là trình bày về Thể-Tướng-Dụng rộng lớn vô biên của hạnh vị Phổ Hiền từ đầu đến cuối đều bao quát, thuận theo ở Tín môn thâu nhiếp đầy đủ các phần vị thành tựu diệu quả của Phật, là trình bày ở phẩm này.

D. GIẢI THÍCH VĂN: trong này có hai: Trước là hỏi, sau là đáp. Trong hỏi cũng có hai: Trước là người kết tập kinh đưa ra theo thứ tự, vì sao Văn Thù hỏi Hiền Thủ đáp, là dùng Tín tiếp nhận vạn hạnh không phải là Diệu Đức thì không có thể phát khởi, Tín bao gồm sáu phần vị không phải là Hiền Đức thì không có thể tuyên dương, lại thông hiểu sâu xa hiển bày về Tuệ, công đức thanh tịnh làm sáng tỏ về Phước. Hai là trong phần dùng tụng chính thức thưa hỏi có hai: Một là kết thúc phần trước, hai là thưa hỏi phần sau. Trong phần này cũng có hai: Trước là hỏi về hành sâu xa, sau là hỏi về đức rộng lớn. Vì sao trong này hỏi đáp đều dùng kệ tụng? Giải thích có hai nghĩa: 1) Bởi vì đức sâu rộng bao quát từ đầu đến cuối, nói phân tán khó mà đầy đủ, cho nên dùng kệ tụng để thâu nhiếp tổng quát; 2) Bởi vì hiển bày về đức tròn vẹn thù thắng vi diệu, cho nên dùng ngôn từ tốt đẹp để ca ngợi thuật lại. Địa Luận nói: “Kệ tụng là bởi vì ít chữ mà thâu nhiếp nhiều nghĩa.” Những điều ca ngợi phần nhiều vốn dùng kệ tụng, chính là hai nghĩa trên.

Ngay trong phần Hiền Thủ đáp, toàn bộ có 363 tụng: 13 tụng trước theo thể năm chữ, 350 tụng sau theo thể bảy chữ. Trong đó tổng quát về phần dài có tám phần: 1) Phần ca ngợi về sâu xa khó nói; 2) Phần sơ lược nêu rõ về hành tướng; 3) Phần sơ lược phân rõ về công năng thù thắng; ) Phần thâu nhiếp các hành vị; 5) Phần Đại dụng không có phương hướng; ) Phần dụ nói về ý chỉ sâu xa; 7) Phần so sánh khuyến khích phát khởi; ) Phần hiển bày thật chứng thành tựu.

Ngay trong phần một ca ngợi về sâu xa khó nói có bảy tụng, trong đó phân ba: Hai tụng đầu trình bày về đức rộng lớn mà nói tóm lược, có thể biết; bốn tụng tiếp là giải thích về nguyên cớ nói tóm lược; một tụng sau cuối là kết luận về tướng đã tóm lược.

Ngay trong phần hai là giải thích: Một- Phân rõ về nơi nương tựa của đức rộng lớn; hai-Trình bày về đức thù thắng dựa vào tâm. Trong phần một có bốn loại khó khăn, cho nên tuy là sơ tâm mà làm cho công đức này rộng lớn vô biên: 1) Xứ khó, đó là ở nơi sinh tử khổ não mà có thể phát tâm, đây là vì khó khăn cho nên sinh ra đức rộng lớn; 2) Thời khó, đó là phát tâm đã lâu mà luôn luôn không lay động chưa đủ để làm khó, nay thì ngược lại với điều này, cho nên sinh ra nhiều đức; 3) Cảnh khó, đó là có thể cầu Bồ-đề vô hạn này, bởi vì tâm thuận theo cảnh cho nên rộng lớn; ) Tâm khó, đó là nếu phát tâm tiến lùi không nhất định thì sinh ra đức không rộng lớn, nay thì trái lại với điều này, cho nên rộng lớn. Một tụng bốn câu như thứ tự nên biết. Đây là trong ba loại phát tâm của Khởi Tín Luận là Tín đầu tiên thành tựu phát tâm, cho nên gọi là Sơ, giống như Sơ phát tâm Trú trong Thập Trú và phẩm Phát Tâm Công Đức ở văn sau. Đây là dựa theo Tín cuối cùng, luận ấy dựa vào Trú ban đầu, cho nên không hai. Đã dùng Tín đầy đủ tiến vào Trú mới là Tín, sao không Trú đầy đủ tiến vào Hạnh là Trú? Giải thích rằng: Tín không thành tựu phần vị cho nên không đưa ra. Hai là trong đức thù thắng đã khởi: Một tụng đầu nêu ra ít hãy còn không hết, hai tụng sau hiển bày nhiều thì mất lời, đâu có thể nói được, mà nêu ra sơ lược thôi.

Trong phần ba là kết luận về nói, phần ít có ba lớp: 1) Nhiều kiếp đã tu, điều này khó mà phân rõ, cho nên tạm thời luận về công đức trong một niệm; 2) Bởi vì công đức trong một niệm này tự Như Lai cùng tận đời kiếp nói không hết, vì vậy tạm thời luận về công đức đã nói trong một thời; 3) Bởi vì công đức đã nói trong một thời này, hãy còn tự nhiên sâu rộng chỉ riêng Đức Phật mới có thể nói được, Bồ-tát không biết, vì vậy nay lại từ trong phần Đức Phật đã nói, chọn lấy phần ít mà Bồ-tát đã biết để nói về điều này.

Vả lại, phần ít này và phần rộng lớn kia dung thông có bốn câu: 1) Bởi vì phần ít này không khác với nhiều, thâu nhiếp ít giống với nhiều thì điều đã nói này cũng là không nói mà nói, như bầu trời mà chim đã bay qua không khác với bầu trời rộng lớn ở những nơi chưa bay qua, cho nên phẩm Tánh Khởi nói: Như chim bay giữa bầu trời, trải qua trăm ngàn năm mà nơi đã bay qua-nơi chưa bay qua đều không thể lường được. Nếu người trăm ngàn kiếp diễn nói về công hạnh của Như Lai, đã nói và chưa nói đều không thể lường được. 2) Hoặc là thâu nhiếp nhiều giống với ít thì nghĩa cũng đầy đủ trọn vẹn, như Địa Luận nói: “Thâu nhiếp giữ lấy đầy đủ như thật.” 3) Hoặc là cả hai đều thâu nhiếp bởi vì cũng nói-cũng không nói. ) Hoặc là cả hai đều không thâu nhiếp bởi vì không phải là nói-không phải là không nói, đều dựa theo suy nghĩ về điều này.

Hỏi: Vì sao trong này Bồ-tát ở phần vị Tín có thể có công đức rộng lớn như vậy?

Đáp: Đây là công đức thuộc hành của pháp giới Phổ Hiền, nhưng dựa vào Tín môn, trong đó biểu hiện rõ ràng mà nói không hết, nếu phân biệt thì luận tổng quát có bốn câu: 1) Hoặc chỉ dựa theo nơi tướng lên xuống của Tín môn để phân rõ, thì Tín này chỉ là phần vị của nẽo thiện như mảy lông nhẹ…, như kinh Anh Lạc-Bổn Nghiệp và Nhân Vương… nói, đây là dựa theo Tam thừa. 2) Hoặc chỉ dựa theo đức của đương thể Phổ Hiền để phân rõ, nói như phẩm Phổ Hiền Hạnh. 3) Hoặc cả hai, nghĩa là dựa theo Tín môn kia để hiển bày về đức của Phổ Hiền, như phẩm này đã nói, đây là dựa theo phần nhân của Nhất thừa mà nói.4 ) Hoặc cả hai đều không phải, toàn bộ không thể nói được, đây là dựa theo nơi lìa xa ngôn ngữ của phần quả. Vì vậy trong Viên giáo đã trình bày về phần vị Tín cùng với Thập Tín trong Tam thừa, nghĩa ấy riêng biệt không giống nhau.

Thứ hai từ “Phi thị vô sở nhân…” trở xuống là sáu tụng trình bày phần sơ lược nêu rõ về hành tướng, trong đó có hai: Trước là một tụng tổng quát nêu ra nhân duyên để giải thích về nguyên cớ thành tựu phát tâm rộng lớn. Trong này, nhân gọi là chủng tánh Như Lai, duyên gọi là do thói quen mà thành tánh. Lại theo Địa Trì và Du Già, nhân có bốn loại: Một là chủng tánh đầy đủ, hai là Phật Bồ-tát và thiện hữu thâu nhiếp, ba là khởi tâm Đại Bi, bốn là không sợ hãi khổ đau. Duyên cũng có bốn: Một là thấy những thần biến của Phật, hai là tuy không thấy Phật nhưng được nghe pháp, ba là tuy không nghe pháp mà thấy pháp sắp diệt, bốn là thấy chúng sinh tạo ác ở những nơi không có Phật pháp.

Lại có bốn Lực: Một là Tự lực; hai là Tha lực; ba là Lực của Nhân, đó là vốn có thói quen nghe và huân tập những pháp Đại thừa; bốn là lực của phương tiện, đó là nghe pháp mới có thể tu thiện… Lại bốn Nhânbốn Duyên và Tự lực-Nhân lực là quyết định phát tâm, Tha lực-Phương tiện lực thì không nhất định phát tâm. Lại trong luận Khởi Tín-kinh Trí Ấn có bảy nhân duyên phát tâm, đó là ba vững chắc-bốn lui sụt, như kinh-luận ấy nên biết. Trên đây là dựa theo Tam thừa, nếu theo kinh này thì có mười loại nhân duyên phát tâm Bồ-đề, nói như văn sau. Đây là dựa theo Nhất thừa. Lại dùng sự huân tập trong Như Lai Tạng làm nhân, những pháp khác làm duyên.

Hai là giải thích về tướng đã phát tâm. Trong này, luận chung có mười nghĩa, đều là nghĩa về nhân duyên công đức rộng lớn của mỗi tâm, cho nên nói không phải là không có nhân gì… Mười nghĩa về tâm: 1) Hai câu đầu trình bày về tâm thẳng thắn hướng đến lý, luận nói tâm thẳng thắn vốn là Chánh niệm về pháp Chân như. 2) Tiếp theo một tụng trình bày về tâm tin sâu sắc vào Tam Bảo. 3) Có một tụng về tâm xa lìa bốn lỗi lầm, bốn câu đều là một có thể biết. 4) Một tụng về tâm Đại nguyện cứu độ chúng sinh. 5) Hai câu trình bày về tâm Đại Từ Đại Bi, nghĩa là bởi vì bạt trừ đau khổ mang lại niềm vui. 6) Một câu về tâm trang nghiêm thạnh tịnh cõi Phật. 7) Một câu về tâm thường xuyên cúng dường chư Phật. 8) Một câu về tâm kiến lập Chánh pháp. 9) Một câu về tâm đích thực mong cầu quả thù thắng. 10) Tâm thanh tịnh tu nhân của quả. Mười tâm trên đây đều vốn là cảnh sở duyên vô hạn lượng, khiến cho tâm thâu nhiếp công đức cũng vô hạn, cho nên văn sau nói: Bồ-tát không vì cúng dường một Đức Phật mà phát tâm, không vì cúng dường trần số chư Phật ở trăm ngàn thế giới mà phát tâm, bởi vì muốn cúng dường tất cả chư Phật, vì thế cho nên vô hạn. Như cúng dường chư Phật, tin vào Tam Bảo, lìa xa lỗi lầm, cứu độ chúng sinh, trang nghiêm quốc độ, tất cả đều vô hạn, cho nên rộng lớn. Phần sơ lược nêu rõ về hành tướng, xong.

Thứ ba từ “Thâm tâm tịnh tín bất khả hoại…” trở xuống có chín tụng, trình bày về phần sơ lược nêu ra công năng thù thắng. Trong đó, đầu là hai tụng trình bày về Tín có thể thành tựu phát tâm, bởi vì là căn bản của hạnh; sau là bảy tụng trình bày về Tín có thể thành tựu những công đức khác, bởi vì do hành mà thành tựu.

Trong phần đầu: Một là một tụng dựa theo cảnh của Tam Bảo, thành tựu Tín bất hoại mới có thể phát tâm; hai là một tụng dựa theo cảnh của ba Phật tánh, câu đầu dựa theo tin chắc Phật tánh trú trong tự

tánh, câu tiếp là dẫn đưa ra Phật tánh, câu tiếp là cuối cùng Phật tánh đạt được quả. Lại giải thích: Câu đầu là tin Phật và Giáo pháp, câu tiếp là tin Tăng và Hành pháp, câu tiếp là chính thức hướng về Quả pháp của Tín, sau nhờ vào Tín sâu sắc này thành tựu mới có thể phát tâm. Lại trong này, Tín bất khả hoại là Tín đầy đủ tâm nhất định không lui sụt cho nên nói là Bất hoại, dựa vào Tín này mà phát tâm, cho nên biết tâm này đã tiến vào Trú; nhưng dựa theo phương tiện chủ động tiến vào cho nên thuộc về Tín cuối cùng.

Trong phần sau là trình bày về thành tựu công đức, không phải là dứt khoát thành tựu phần vị của Sơ phát tâm trước khi tiến vào Thập Trú, lại cũng bao gồm thành tựu tất cả hành vị trong phần vị sau này, vì vậy trong này sơ lược phân rõ về 20 công đức đã thành: 1) Có thể sinh ra phước trí, nghĩa là căn bản của giác đạo, mẹ của phước đức. 2) Có thể đoạn trừ nghi ngờ nêu rõ về đạo. 3) Tâm kiên cố có thể lìa xa cấu nhiễm, nghĩa là trừ kiêu mạn giải thích về lìa xa cấu nhiễm, kính trọng nguồn gốc giải thích về tâm kiên cố. Ba loại trên đây đều có hai câu như thứ tự nên biết. 4) Thể của Tín đầy đủ đức cho nên như kho báu. 5) Tiếp nhận pháp thành tựu hành cho nên như rửa tay sạch. 6) Có thể bỏ cấu nhiễm lìa đắm trước. 7) Có thể hiểu rõ về pháp sâu xa khó hiểu. Bốn loại trên đây đều có một câu nên biết. 8) Chuyển đổi tiến lên thành tựu quả, hai câu có thể biết. 9) Có thể khiến cho thiện căn rõ ráng sắc bén. 10) Lực dụng không có gì hư hoại. 11) Có thể diệt trừ ác nghiệp. 12) Có thể đạt được Đại quả. 13) Tiến vào pháp không có gì ngăn ngại. 14) Lìa xa báo chướng của tám nạn. 15) Có thể vượt qua cảnh ma. 1) Khéo léo chỉ ra nhân giải thoát. 17) Làm nhân vững chắc cho Đại quả, nghĩa là tất cả các pháp công đức của Phật địa, không có pháp nào không lấy Tín bất hoại để gieo nhân của địa ấy. 1) Sinh ra quả của cây Giác. 19) Mở rộng cửa Chủng trí. 20) Chỉ rõ quả Diệu Giác. Trên đây, tám loại là hành thuộc Tự phần, mười hai loại sau là đức Thắng tiến. Những công đức này đều là đức đã thành tựu của các phần vị sau này cho đến Phật địa, đều ở trong Tín mà thành tựu.

Một tụng sau cuối kết luận ca ngợi hiển bày về thù thắng. Vì thế cho nên (thị cố) là Tín trước đây có thể thành tựu 20 loại công đức thù thắng ấy, bởi vì trong sự tu hành đã nói theo thứ tự, cho nên tin tưởng vui thích về pháp thù thắng nhất khó mà đạt được; nửa kệ sau là ví dụ, một là dụ về Thể của Tín hiếm có, hai là dụ về có thể phát sinh mọi công đức.

Thứ tư từ “Nhược tín cung kính…” trở xuống có 50 tụng, trình bày

trong phần có thể mở rộng thâu nhiếp các hành vị, có hai: Một là thâu nhiếp hành, hai từ “Nhược sinh Vô thượng Bồ-đề tâm…” trở xuống là trình bày về thâu nhiếp phần vị.

Trong phần một: Trước là trình bày về hạnh tín kính Tam Bảo, sau là trình bày về hạnh tín thuận Tam Bảo. Trong phần trước: Một là có ba tụng trình bày về tin Phật thành tựu hai hạnh, hai tụng đầu là thành tựu hạnh trì giới, một tụng sau là thành tựu hạnh cúng dường. Hai là có một tụng về tin Pháp thành tựu hai hạnh, nghĩa là hạnh nghe giáo không có gì chán ngán, hạnh vui mừng chứng được khó mà suy nghĩ. Ba là có một tụng tin Tăng thành tựu hai hạnh, nghĩa là Thể của Tín không có gì hư hoại và Lực của Tín không có gì lay động.

Trong phần hai là trình bày về hạnh tín thuận Tam Bảo: Đầu là hai tụng về thuận theo Tăng thành tựu hai hạnh, đó là lợi căn rời bỏ bạn ác và gần gũi bạn lành tu tập công hạnh thù thắng. Tiếp theo một tụng về thuận theo Pháp thành tựu hai hạnh, đó là hiểu rõ pháp về Hành của nhân quả, thành tựu pháp về Quả của giải thoát. Sau cuối một tụng về thuận theo Phật cũng hai hạnh, đó là thuận theo quả Phật bảo vệ, dấy khởi nhân để phát tâm. Trên đây là thâu nhiếp hạnh làm phương tiện tiến vào Thập Trú, xong.

Trong phần thứ hai là thâu nhiếp phần vị, thâu nhiếp bốn phần vị sau tức là bốn đoạn:

Một, có hai tụng rưỡi trình bày về thâu nhiếp phần vị Thập Trú, đó là tâm Bồ-đề tức là tiến vào phần vị Trú thứ nhất; thường xuyên tu Phật đức là hạnh của hai Trú tu hành-trị địa (Trú thứ hai-thứ ba); sinh vào nhà của Phật là Trú sinh quý (Trú thứ tư), nghĩa là sinh vào nhà của Phật vốn là chủng tánh tôn quý; vô trước là hạnh của hai Trú thứ nămthứ sáu; thâm tâm-diệu tinh là hạnh của hai Trú thứ bảy-thứ tám; tâm thù thắng Vô thượng là hạnh của hai Trú thứ chín-thứ mười; đều dựa theo giải thích có thể biết.

Hai, từ “Nhược đắc Vô thượng…” trở xuống là ba tụng trình bày về thâu nhiếp phần vị Thập Hạnh, trong đó Ba-la-mật là tổng quát nêu ra Thập Hạnh. Ma-ha-diễn là khác với Hành thuộc pháp của Tiểu thừa; cúng dường là hành thuận với lý, đó là bốn Hạnh đầu; Niệm Phật-Định là Hạnh lìa xa si loạn (Hạnh thứ năm); thấy Phật thường trú là năm Hạnh sau, bởi vì năm Hạnh sau đều là Bát-nhã thâu nhiếp.

Ba, từ “Nhược tri Như Lai…” trở xuống là hai tụng rưỡi trình bày về thâu nhiếp phần vị Thập Hồi Hướng. Trong đó, Hạnh thành tựu xứng với lý cho nên pháp vĩnh viễn tồn tại, nghĩa là Như tướng và Pháp giới…; biện tài thuyết giảng-hóa độ chúng sinh, là cứu giúp chúng sinh lìa tướng của chúng sinh… Bảy Hồi Hướng trước cũng là nghĩa về các môn Hồi Hướng chúng sinh. Đại Bi là trong phần vị này đã thành tựu hạnh Đại Bi, bởi vì đối trị chướng của Độc giác rời bỏ Đại Bi.

Bốn, từ “Nhược đắc Đại Bi…” trở xuống có 33 tụng trình bày về thâu nhiếp phần vị Thập Địa. Trong đó:

Một là nửa tụng thâu nhiếp Địa thứ nhất, đó là vui mừng với pháp sâu xa là Cực Hỷ địa thứ nhất, đã chứng đầy đủ tất cả Chân như gọi là pháp sâu xa.

Hai là nửa tụng lìa xa lỗi lầm của hữu vi, là Ly Cấu địa thứ hai, bởi vì lìa xa phạm giới vốn là sai lầm tai họa của hữu vi.

Ba có một tụng trình bày về Địa thứ ba, bởi vì đạt được thiền-lìa xa kiêu mạn cho nên không đắm theo ý vị, vì vậy có thể cùng làm lợi ích cho chúng sinh.

Bốn có một tụng trình bày về Địa thứ tư, bởi vì đạt được Đạo phẩm trí cho nên ở trong sinh tử mà không có gì buồn lo, trong mười Độ hạnh, đây là hạnh Tinh tiến cho nên nói là Tinh tiến Vô thượng.

Năm có một tụng trình bày về Địa thứ năm, bởi vì Địa này thành tựu Thiền độ dựa vào Thiền phát khởi thần thông, lại có thể khéo léo hiểu rõ năm Minh của thế gian, cho nên nói là hiểu rõ hành của chúng sinh.

Sáu có một tụng trình bày về Địa thứ sáu, bởi vì Địa này đạt được Bi-Trí không trú vào Bát-nhã mà Đại trí hiện rõ trước mắt, trong này thành tựu chúng sinh là Bi, thành tựu phát sinh trí là Trí.

Bảy có hai tụng trình bày về Địa thứ bảy, một tụng đầu là hạnh thù thắng trong Hữu vốn là bốn Nhiếp pháp thâu nhiếp chúng sinh, một tụng sau là trí phương tiện trong Không dẫn dắt nhau cho nên khiến trú vào Vô thượng đạo.

Tám có ba tụng trình bày về Địa thứ tám, một tụng đầu vượt qua bốn ma, nghĩa là xả bỏ Phần đoạn cho nên không có ma Ấm, không có xả mạng cho nên lìa xa ma Tử, hoặc nghiệp vĩnh viễn không hiện hành cho nên không có ma Phiền não, vì vậy Thiên ma cũng không có được dịp thuận lợi, Địa thứ tám này thành tựu nhân vượt qua bốn ma cho nên gọi là đạo; một tụng tiếp là đạt được phần vị và Nhẫn, đó là phần giải thích tên gọi và phần tịnh nhẫn; một tụng sau là thọ ký phần vị, như Tiên nhân Thiện Tuệ được thọ ký ở Địa thứ tám…, hiện tại trong cõi Phật bốn loại ấy luôn luôn ở trước Phật.

Chín có một tụng rưỡi trình bày về Địa thứ chín, nghĩa là Bồ-tát ấy làm Đại pháp sư, vốn hiểu rõ giáo bí mật của Phật, thuận theo giáo nói pháp được Phật hộ niệm, Phật đức tự trang nghiêm vì người khác mà nói pháp.

Mười có 21 tụng rưỡi trình bày về Địa thứ mười, trong đó có ba: Một-mười ba tụng rưỡi trình bày về ba nghiệp thù thắng, trong đó trước có năm tụng rưỡi trình bày về thân nghiệp thù thắng, trong này ba tụng về Chánh báo thù thắng, hai tụng rưỡi về Y báo thù thắng; tiếp có bốn tụng trình bày về ngữ nghiệp thù thắng, trong này hai tụng đầu hiểu sâu xa-khéo trình bày, hai tụng tiếp trình bày về Trí thân thuyết pháp; sau có bốn tụng trình bày về ý nghiệp thù thắng, một là Tha tâm trí, hai là Đoạn hoặc trí, ba là Chứng thật trí, bốn là Thập Địa-Thập tự tại… kết luận về phần vị, mười loại như Mạng tự tại… vốn thành tựu ở phần vị này. Hai-Từ “Nhược Thập Địa chủng…” trở xuống có bốn tụng trình bày về phần tâm cuối cùng của Thập Địa tiếp nhận phần vị, nước cam lồ này rưới trên đỉnh… là trình bày về tiếp nhận chức vị này trong Tín đầy đủ. Ba-Từ “Nhược thân…” trở xuống có bốn tụng trình bày về kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng: Một tụng đầu trình bày về tiến vào lý sâu rộng trời-người không biết, nghĩa là Pháp thân này đầy khắp hư không mười phương bất động, vì vậy đối với cõi Vô đẳng đẳng này thì chư Thiên-người thế gian không có thể biết được. Một tụng tiếp về hạnh thành tựu-quả đầy đủ, thấy nghe nhiều lợi ích, đối với công hạnh vốn có thì không có gì không phải là quả, những mong cầu trọn vẹn cho nên không có gì không thành tựu quả; lại như phẩm Minh Pháp ở sau nói: Người thấy nghe cúng dường đều trú vào Bất thối địa, cho nên nói là không trống rỗng. Một tụng rưỡi tiếp là uy lực hộ pháp thường thêm không đoạn dứt, như kinh Duy Ma nói: “Kinh này trú ở thế gian đều là sức uy thần của Di-lặc.” Lại đầu là Thể, tiếp là Đức, sau là Dụng. Nửa tụng sau cuối là kết luận, câu trước là kết luận về Tuệ, câu sau là kết luận về Phước, đều là vô tận như biển.

Lại trong Tín môn này, lần lượt chuyển tiếp đan móc vào nhau thâu nhiếp đầy đủ như vậy, Thập Địa… lấy Tín làm căn bản của đạo, mẹ của công đức, hành tướng của các phần vị đều do Tín mà thành, cho nên trên đây tổng quát nói: Tín có thể chuyển đổi thù thắng thành tựu các hạnh cuối cùng chắc chắn đến nơi của Như Lai. Là nói đến nghĩa này. Lại nói: Ở nơi một Địa thâu nhiếp rộng khắp tất cả công đức của các Địa, là pháp Viên giáo của Nhất thừa này, trong Tam thừa thì không có thể như vậy.

Thứ năm từ “Hoặc hữu sát độ…” trở xuống có 200 tụng rưỡi trình

bày về phần Đại dụng không có phương hướng, bởi vì Tín đầy đủ thành tựu phần vị Hiền Thủ này, giống như ba nghiệp rộng lớn của Phổ Hiền… bao gồm nhân và quả, khắp tất cả mọi nơi chốn, tận cùng tất cả mọi thời gian, thường làm Đại dụng vô biên pháp giới. Đây là thể thức bình thường, ngay nơi tướng mà luận thì không dựa vào các phần vị. Nay dựa theo trong Tín môn hiển bày rõ ràng thì thuộc về Tín thâu nhiếp, nhưng Đại dụng không bến bờ khó mà thuật lại đầy đủ, theo thể lệ phân rõ mười để hiển bày về vô tận, tức là nghiệp dụng của mười Tammuội môn: 1) Viên minh hải ấn Tam muội môn; 2) Hoa nghiêm diệu hạnh Tam-muội môn; 3) Nhân-đà-la võng Tam-muội môn; 4) Thủ xuất quảng cúng Tam-muội môn; 5) Hiện chư pháp môn Tam-muội môn; 6) Tứ nhiếp nhiếp sinh Tam-muội môn; 7) Cung đồng thế gian Tam-muội môn; 8) Mao quang giác chiếu Tam-muội môn; 9) Chủ bạn nghiêm lệ Tam-muội môn; 10) Tịch dụng vô nhai Tam-muội môn. Bởi vì nghiệp dụng sai biệt mà chủ đều khác nhau, công năng thuần-tạp dựa vào môn không giống nhau, cho nên dùng Tam-muội môn mà phân rõ về sai biệt, như nước ở tất cả mọi nơi chắc chắn như nhau. Lại bởi vì bắt đầu phân rõ về căn bản của Đại dụng, cho nên đầu là hiển bày về Hải ấn, sau là trình bày về Dụng không khác Thể, vì vậy cuối cùng phân rõ về tịch dụng vô ngại.

Ngay trong văn đầu là Viên minh hải ấn Tam muội môn có năm tụng rưỡi phân hai: Đầu là trình bày về nghiệp dụng, sau là hiển bày về sở y. Trong phần đầu có năm: Một có một kệ trình bày về thị hiện Phật thuyết pháp. Hai có một kệ hiển bày về không dụng công thành tựu sự việc, nghĩa là không dấy lên công dụng cho nên nói là đoạn dứt hy vọng; lại giải thích bởi vì đầy đủ phần vị của nhân lại không có gì mong cầu cho nên nói là đoạn dứt. Ba có một kệ trình bày về thị hiện tám tướng. Bốn có một kệ trình bày về hiện rõ Tam thừa. Năm có một kệ hiện rõ về tạp loại. Sau là hai câu kết luận về dụng của sở y.

Hải Ấn là từ dụ làm tên gọi, như bốn loại binh lính của Tu-la xếp hàng ở giữa hư không, in rõ hình ảnh ấy vào trong biển rộng; Định tâm của Bồ-tát giống như biển rộng, ứng với căn cơ hiện bày sai khác, vốn như hình ảnh của bính lính kia. Trong kinh Đại Tập quyển thứ 1 nói: “Dụ như thân của tất cả chúng sinh ở Diêm-phù-đề và những sắc ở bên ngoài, các sắc như vậy đều có in rõ hình ảnh ở trong biển, vì thế cho nên gọi là Đại hải ấn; Bồ-tát cũng lại như vậy, đạt được Tam-muội Đại hải ấn rồi có thể phân biệt nhìn thấy tâm hành của tất cả chúng sinh, đối với tất cả pháp môn đều đạt được Tuệ sáng tỏ, Bồ-tát này bởi vì đạt được Tam-muội Hải Ấn, cho nên nhìn thấy tâm hành của tất cả chúng sinh đã hướng đến.” Giải thích rằng: Trong này, chữ Kiến (nhìn thấy) cũng là chữ Hiện (hiện rõ), nghĩa là do nhìn thấy mà hiện rõ ra, gồm chung hai loại nên biết.

Hỏi: Trong này, đã là Bồ-tát Thập Tín hiện rõ thành Phật, đó là tạm thời hóa hiện, hay là thật sự thành tựu?

Đáp: Nếu trong Sơ giáo Tam thừa thì hoàn toàn không có hóa hiện thành Phật, bởi vì chưa đạt được Bất thối; nếu Chung giáo thì Thập Tín đầy đủ tâm thuộc phần thắng tiến trở lên bắt đầu tiến vào Thập trú, do đạt được Bất thối cho nên có thể tạm thời hóa hiện thành Phật. Như luận Khởi Tín nói: “Nếu trong Viên giáo Nhất thừa thì thật sự không dựa vào phần vị, dựa vào tướng của phần vị thuộc Chung giáo để phân rõ, đối với phạm vi của Tín đầy đủ không lui sụt, thì trình bày đạt được hành đức thuộc pháp giới Phổ Hiền ấy, thâu nhiếp đầy đủ nhân quả viên dung vô ngại. Nếu dùng môn Nhân để chọn lấy thì thường là Bồtát, nếu chọn lấy môn Quả thì luôn luôn là Phật, từ đây dung hòa có bốn câu: Hoặc chỉ là Bồ-tát, hoặc chỉ là Phật, hoặc cả hai, hoặc không cả hai, đều suy nghĩ dựa theo điều đó.

Hỏi: Trong này, môn Quả thành Phật cùng với hóa hiện của Chung giáo có gì khác nhau?

Đáp: Giáo ấy chỉ đối với một phần vị dựa vào một thế giới hóa hiện một Phật, trong này có đủ Thập Địa… thâu nhiếp tất cả phần vị. Mười phương thế giới là tất cả mọi nơi, trong từng niệm niệm là tất cả thời gian.

Hỏi: Trong này đã nói thị hiện cũng thuận theo tạm thời hóa hiện giống như Chung giáo trên đây hay sao?

Đáp: Như văn không có công dụng hy vọng, có thể trong một niệm đi khắp mười phương. Nếu đức này tự không phải là đầy đủ cùng tận phần vị của nhân thì vì sao có thể đầy đủ như vậy, cho nên biết chắc chắn là đầy đủ hạnh chân thật, không giống như giáo ấy là người ở phần vị kém hơn. Vả lại, tất cả chư Phật ở các thế giới, vì chúng sinh mà thành đạo đều là thị hiện, bởi vì rời bỏ căn cơ dựa theo mình cho nên không có thành-không thành… Lại trong kinh Đại Tập quyển thứ 1 nói: “Đạt được phần vị chính thức Quán đảnh, đối với tất cả các hạnh của Bồ-tát đạt được thần lực tiếp sau Phật. Nếu Bồ-tát thành tựu các pháp như vậy, thì có thể thị hiện tám tướng thành Phật ở thế giới không có Phật, cho đến nói rộng ra…”

Thứ hai Hoa nghiêm diệu hạnh Tam-muội môn, trong đó có hai tụng rưỡi phân hai: Đầu là phân rõ về nghiệp dụng, trong đó có bảy hạnh: 1) Hạnh trang nghiêm quốc độ; 2) Hạnh cúng dường Phật; 3) Hạnh quang minh; 4) Hạnh giáo hóa; 5) Hạnh trí tuệ; 6) Hạnh thuyết pháp; 7) Hạnh thập độ. Sau là hai câu kết luận về Tam-muội làm chỗ dựa của hạnh, bởi vì hạnh môn vô ngại cho nên gọi là tất cả tự tại. Hoa Nghiêm là hành pháp cho nên kết luận thuộc về pháp, như Hội thứ bảy tiến vào Tam-muội Hoa Nghiêm nói về 2000 hành pháp…

Thứ ba Nhân-đà-la võng Tam-muội môn, trong đó có bốn tụng phân ba: Một-Hai câu đầu nêu ra Định môn, nghĩa là bởi vì muốn hiện bày quốc độ Nhân-đà-la võng, cho nên trước phải tiến vào Nhân-đà-la Định. Hai-Trình bày về nghiệp dụng, trong đó có hai: Trước là trình bày về hiện trong một mảy trần, sau là tương tự tất cả các mảy trần. Ba-Hai câu sau cuối kết luận về Định làm chỗ dựa, tuy pháp giới duyên khởi lý kể ra thường như vậy, nhưng nhờ vào trí lực không rối loạn của Bồ-tát mà được hiển bày rõ ràng, cho nên nói là Tự tại lực; cũng gọi Giải thoát là Bất tư nghị giải thoát, bởi vì lìa xa các chướng ngại; như cuối phẩm Bất Tư Nghị ở văn sau nói có mười loại, đó là trong một mảy trần hiện rõ sự việc của ba đời chư Phật… Vả lại, có thể câu trên là Định lực, Giải thoát là Trí lực, bởi vì không rối loạn là tác dụng của Định, Vô ngại là giải thoát.

Thứ tư Thủ xuất quảng cúng Tam-muội môn, trong đó có mười bảy tụng phân ba: Một-Ba câu đầu nêu ra Định môn. Hai-Phân rõ về nghiệp dụng, trong này có hai: a-Trong tay đưa ra cúng dường, b-Từ “Vô lượng thanh tịnh…” trở xuống là trình bày về tay sáng ngời trang nghiêm cúng dường, bởi vì tay pháp giới này mà cầu tánh sai biệt thì hoàn toàn không thể có được, nhưng đưa ra đồ vật cúng dường thì không thể nào cùng tận. Ba-Một kệ sau cuối kết luận về Định làm chỗ dựa, trong kinh Niết-bàn gọi Phật là Đại Tiên.

Thứ năm Hiện chư pháp môn Tam-muội môn, trong đó có tám tụng phân bốn: Một-Một tụng nêu ra môn và ý. Hai-Trình bày về nghiệp dụng có 22 môn, thâu nhiếp chúng sinh tiến vào thông suốt cho nên nói là Môn. Ba-Có hai câu kết luận về Vô tận. Bốn-Một kệ kết luận về Định làm chỗ dựa.

Thứ sáu Tứ nhiếp nhiếp sinh Tam-muội môn, trong đó có 1 tụng một câu phân ba: Một-Một tụng nêu ra Định môn và ý. Hai-Trình bày về nghiệp dụng. Ba-Một câu sau cuối là kết luận về Vô tận.

Ngay trong nghiệp dụng có bốn: a) Hai tụng trình bày về Bố thí nhiếp; b) Từ “Dĩ chư tướng hảo…” trở xuống là bốn tụng phân rõ về Ái ngữ nhiếp, trong đó một là nêu rõ ái sắc khiến cho rời bỏ, hai là dịu dàng dùng Diệu âm để nói pháp. Nghĩa về tám loại Phạm âm này sơ lược đưa ra ba môn: Một là Chủng loại, hai là Danh thể, ba là Nghiệp dụng.

Trong phần Chủng loại, tra tìm các Thánh giáo có bốn chủng loại: Một- Dựa theo giáo nghĩa để phân rõ, như kinh Thập Trú nói: “Như Lai có tám loại âm thanh: Một nói là thấy Khổ, hai nói là hướng Khổ, ba nói là thấy Tập, bốn nói là hướng Tập, năm nói là thấy Tận, sáu nói là hướng Tận, bảy nói là thấy Đạo, tám nói là hướng Đạo.” Tám loại này dùng âm đã nói mà phân rõ, bởi vì dựa theo Dụng của Phật âm. Hai- Dựa theo Thể của Phật âm, cũng như kinh Thập Trú nói: “Phạm âm có tám loại: Một là âm không nam, hai là âm không nữ, ba là âm không cứng, bốn là âm không mềm, năm là âm không trong, sáu là âm không đục, bảy là âm không trống, tám là âm không mái.” Ba- Dựa theo đức của Phật âm cũng có tám loại, như kinh Phạm Ma Dụ nói: “Một là Thanh hay nhất, âm thanh ấy thanh nhã như tiếng chim Ca-lăng…; hai là Thanh dễ hiểu, ngôn từ phân biệt rõ ràng; ba là Thanh điều hòa, lớn nhỏ được thích hợp; bốn là Thanh dịu dàng, lời nói không thô lỗ…; năm là Thanh không lầm, lời nói không sai lầm; sáu là Thanh không nữ, âm thanh ấy mạnh mẽ rõ ràng; bảy là Thanh tuệ cao quý, lời nói không run sợ, như người tôn trọng, như người trí tuệ thù thắng, nói không có gì sợ hãi; tám là Thanh sâu xa, từ vùng rốn phát ra âm thanh như sấm động.” Ba loại trên đây là Thể-Đức-Dụng thuộc Viên âm của Phật phân làm ba mà thôi. Bốn-Dựa theo dung thông có loại Thanh của Phạm âm. Ở đây có hai giải thích: 1-Kể ra riêng biệt loại như trong kinh Mật Tích Lực Sĩ hiển bày bày đủ; 2-Các vị từ trong ba loại trước đây, lấy tám loại đầu đưa vào trong tám loại sau, mỗi một loại có đủ tám, vì thế cho nên tám-tám thành ra .

Hai là Danh thể: Một là Danh, đầy đủ năm nghĩa mới gọi là Phạm âm, như kinh Xà Ni Sa nói: “Âm thanh ấy có năm loại thanh tịnh mới gọi là Phạm âm, những gì là năm? Một là âm đó chánh trực, hai là âm đó hòa nhã, ba là âm đó trong trẻo, bốn là âm đó rất tròn, năm là nghe xa khắp nơi. Đầy đủ năm nghĩa này mới gọi là Phạm âm.” Lại nữa, Phạm là từ ngữ tròn đầy trong trẻo, lại như Phạm Thiên ứng với khắp nơi… Thanh là giữ lấy tiếng, âm là trình bày về tiếng ấy có âm vận biểu lộ rõ ràng. Hai là Thể, Tiểu thừa chỉ là Sắc uẩn thâu nhiếp, Sắc hữu đối này không có thể thấy được, trong 12 Xứ do Thanh xứ thâu nhiếp, trong 1 Giới do Thanh giới thâu nhiếp. Sơ giáo thì Thanh xứ… lấy Không làm tánh, lại trong 11 Thức này thì Thức ngôn thuyết làm Thể; Chung giáo thì Thanh này dùng Thức thanh tịnh của Phật làm tánh, nhưng Thức thanh tịnh này lại không khác với Chân như, cho nên lấy Chân như làm tự tánh của Thanh ấy. Đốn giáo thì Phạm âm gọi là giống với tánh vốn có thì không thể nói được, Viên giáo dùng vô tận pháp giới vô ngại làm tánh, cho nên thâu nhiếp bao gồm tất cả, viên dung tự tại như nói ở phần âm thanh của Như Lai trong phẩm Tánh Khởi sau này.

Ba là trình bày về Nghiệp dụng có hai: Một-Dựa theo lợi ích chúng sinh, Tiểu thừa chỉ lợi ích các chúng ở Hội này, Tam thừa thì lợi ích các chúng hiển-mật, Nhất thừa lợi ích đối với vô tận hiển-mật, nghĩa là trùng trùng vô tận. Hai-Dựa theo phần lượng, Tiểu thừa chỉ giống với âm thanh ngôn ngữ của loài người; Tam thừa thì Phật âm phủ khắp tất cả các cõi, như Mục Liên tìm không biết…; Nhất thừa thì khắp nơi pháp giới Nhân-đà-la võng, trùng trùng vô tận vô tận.

Từ “Chúng sinh khổ lạc…” trở xuống là trình bày về Đồng sự nhiếp. Trong đó: Một là cùng chung việc làm với họ, hai từ “Nhược hữu bất thức…” trở xuống là trình bày về chỉ rõ pháp, mười Hạnh là mười Độ. d-Từ “Hoặc hữu chúng sinh…” trở xuống là trình bày về Lợi hành nhiếp. Trong đó: Một là chỉ rõ lỗi lầm của sinh tử khiến cho rời bỏ, hai từ “Như Lai thập lực…” trở xuống là hiển bày về Phật đức khiến cho mong cầu, ba có một câu “Như thị phương tiện vô hữu lượng” là kết luận về vô tận.

Thứ bảy Cung đồng thế gian Tam-muội môn, trong đó có 17 tụng một câu phân hai: Một-Ba câu đầu nêu ra ý; hai-Từ “Bác tổng…” trở xuống là chính thức phân rõ về Đại dụng. Trong đó có hai: a) Trình bày về Dụng của thân nghiệp, b) Từ “Nhược kiến thế gian vô chánh kiến…” trở xuống là trình bày về Dụng của ngữ nghiệp.

Trong phần a có năm: 1) Làm lợi ích cho vua quan…; 2) Từ “Hoặc ư khoáng dã…” trở xuống là làm lợi ích cho loài phi tình; 3) Từ “Nhược kiến thế giới…” trở xuống là làm lợi ích cho bậc có Bi tâm; 4) Từ “Chú thuật…” trở xuống là làm lợi ích cho Tiên nhân; 5) Làm lợi ích cho ngoại đạo sinh tâm đều khiến cho giải thoát.

Trong phần b là Dụng của ngữ nghiệp có ba: 1) Một kệ tổng quát nêu ra; 2) Riêng biệt hiển bày; 3) Từ “Tri nhất thiết…” trở xuống là hai câu kết luận về Định làm chỗ dựa, Nhất tâm thuyết pháp gọi là Tammuội.

Thứ tám Mao quang giác chiếu Tam-muội môn, trông đó có 9 tụng phân bốn: Một- Một tụng nêu ra môn và ý; Hai- Từ “Sở phóng quang…” trở xuống là chính thức phân rõ về nghiệp dụng; Ba- Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận về nguồn gốc làm chỗ dựa; Bốn- Từ “Sở tu hạnh nghiệp…” trở xuống là tiếp tục giải thích về phạm vi thành tựu.

Trong phần hai là nghiệp dụng có hai: 1-Trình bày về Dụng của ánh sáng ở một mảy lông; 2-Từ “Như nhất mao…” trở xuống là tương tự hiển bày về nhiều mảy lông.

Trong một mảy lông trước lại có hai: a) Sơ lược phân rõ về môn; b) Từ “Như thị đẳng tỉ…” trở xuống là mở rộng kết luận về hằng sa, nghĩa là thân Bồ-tát này giống như pháp giới cùng tận chín đời, bao gồm tất cả vô số thế giới (trần đạo), thường có Đại dụng của ánh sáng như vậy, không có lúc nào ngừng nghỉ, vì thế ánh sáng này thường xác định luôn luôn có-luôn luôn không có, người có mắt thanh tịnh thì không có lúc nào không nhìn thấy cho nên luôn luôn có, người không có mắt thanh tịnh thì không có lúc nào tạm thấy cho nên luôn luôn không có, ánh sáng của pháp luôn luôn xác định, mất đi hay phát ra vốn là thuộc về duyên.

Trong phần a, trong 44 môn thì mỗi một môn đều có ba nghĩa: Một là đưa ra tên gọi của ánh sáng, hai là hiển bày về lợi ích của ánh sáng, ba là nêu ra nhân của ánh sáng. Trong nhân của ánh sáng thứ nhất, hoặc dùng lời nói giảng giải để hiển bày về Tam Bảo, hoặc dựa theo sự việc như khai mở Phật môn hiện rõ hình tháp…. Trong nhân của ánh sáng thứ hai, đèn sáng lìa xa cấu nhiễm tối tăm cho nên đạt được ánh sáng thanh tịnh, hoặc là đèn chiếu rọi hiện rõ cảnh giới thanh tịnh. Trong hai nhân của ánh sáng thứ ba-thứ tư đều có hai, một là nhân thuộc về sự, hai là nhân thuộc về pháp. Trong nhân của ánh sáng hoan hỷ thứ năm, một là trang sức hình tượng Đức Phật khiến cho người thấy hoan hỷ, hai là ca ngợi công đức của Đức Phật khiến cho người nghe hoan hỷ. Trong nhân của ánh sáng thứ sáu, một là tự vui với Tam Bảo, hai là dạy cho người khác cùng vui. Trong nhân của ánh sáng tịch tịnh, lìa mười loại lời nói không đúng pháp, bởi vì lời nói thô ác não hại người làm cho tâm người khác không được yên tịnh, vốn là chướng ngại, theo kinh Nhiên Đăng: “Mười loại lời nói không đúng pháp: Một là lời nói xằng bậy, hai là lời nói làm đau lòng, ba là lời nói thô ác, bốn là lời nói đắng cay, năm là lời nói không vui, sáu là lời nói không thích, bảy là lời nói không mến, tám là lời nói không đi vào tâm, chín là lời nói làm buồn người khác, mười là lời nói kết buộc oán thù.” Lại trong ánh sáng thấy Phật, theo pháp của các nước Tây Trúc, có người sắp xả mạng thì để họ nằm xoay mặt hướng về phía Tây, ở trước mặt đặt một pho tượng Phật đứng, pho tượng cũng hướng về phía Tây, dùng một lá phan treo trên ngón tay pho tượng, khiến cho tay người bệnh nắm đuôi lá phan, miệng xưng danh hiệu Phật, làm dấy lên ý niệm theo Phật vãng sinh Tịnh độ, cùng với thắp hương đánh khánh giúp đỡ xưng niệm danh hiệu Phật. Nếu có thể làm được điều này thì không chỉ người mất được sinh ở trước Đức Phật, mà người này cũng sẽ được thấy ánh sáng của Đức Phật. Lại trong nhân của ánh sáng vui với pháp, có bảy: Một là lắng nghe, hai là giảng nói, ba là viết chép, bốn là yêu quý, năm là bảo vệ, sáu là bố thí, bảy là thực hành. Trong này, hộ pháp thì luận chung có bốn nghĩa: Một là bảo vệ Lý pháp bởi vì không vướng vào kiến chấp; hai là bảo vệ Hành pháp bởi vì khiến cho tăng trưởng; ba là bảo vệ Giáo pháp bởi vì giảng nói không mệt mỏi; bốn là bảo vệ Quả pháp, nghĩa là đối địch với hạng vua chúa tàn ác để bảo vệ trụ trì Tam Bảo. Đối với bốn điều này đều không tiếc thân mạng mà giữ gìn Chánh pháp.

Trong phần b là mở rộng kết luận, nghiệp là nhân hướng về ánh sáng, quả là ánh sáng hiện rõ, cả hai cùng hiện rõ là bởi vì nhân hạnh quá khứ dựa vào môn mười đời cho nên cũng hiện rõ ở đời này.

Trong phần ba là kết luận về chỗ dựa, bởi vì không rối loạn cho nên hiểu rõ ràng, vốn là kết luận về hai môn Định-Trí.

Trong phần bốn là tiếp tục giải thích, sao cần phải tiếp tục giải thích, là bởi vì trên đây nói ánh sáng ấy giác ngộ tất cả chúng sinh, vì sao lại có chúng sanh mà không thấy? Trong giải thích có ba: Một-Hai kệ về pháp thuyết, trong đó có bảy loại chúng sinh, được gặp ánh sáng này bởi vì có duyên: Một là cùng nghiệp, hai là tùy hỷ, ba là nghe tu, bốn là thấy làm, năm là tu nhiều công đức, sáu là cúng dường nhiều Phật, bảy là mong cầu Đại quả. Hai-Có ba kệ rưỡi về dụ thuyết, trong đó: Một là hai kệ trình bày dụ về mắt mở nhắm của cơ, hai có một kệ rưỡi trình bày dụ về nghiệp thiện ác của cơ. Ba-Có một kệ trình bày về lợi ích thù thắng của nghe pháp.

Thứ chín Chủ bạn nghiêm lệ Tam-muội môn, trong đó có sáu tụng phân hai: Một- Một kệ nêu ra danh và ý; Hai- Từ “Tam thiên…” trở xuống là chính thức hiển bày về nghiệp dụng, trong đó có năm kệ: Một kệ đầu hóa hiện thân và tòa là chủ, một kệ tiếp là thâu nhiếp quyến thuộc, một kệ tiếp là giải thích về quyến thuộc thù thắng, một kệ tiếp là hiển bày về chủ thù thắng, một kệ tiếp là kết luận bao gồm thân pháp giới vô tận khắp mười phương.

Thứ mười Tịch dụng vô nhai Tam-muội môn, trong đó có 35 tụng phân ba: Một-Một kệ nêu ra ý, trong đó qua lại dựa theo phương, xuất nhập dựa theo Định; hai-Từ “Hoặc Đông phương…” trở xuống là chính thức hiển bày về nghiệp dụng; ba-Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận về vô tận.

Trong phần hai là nghiệp dụng có hai: 1) Dựa theo phần vị tổng quát trình bày về tự tại; 2) Từ “Nhất thiết quỷ thần nhập chánh thọ…” trở xuống là trình bày về tự tại sai biệt vi tế.

Trong phần một có ba: a) Trình bày về Khí thế gian tự tại; b) Từ “Đông phương thế giới…” trở xuống là tự tại đối với Trí chánh giác thế gian; c) Từ “Ư nhãn căn trung…” trở xuống là tự tại đối với Chúng sinh thế gian. Phàm luận về Bồ-tát tự tại đối với ba thế gian có hai nghĩa: Một là thân Bồ-tát làm ba thế gian cho nên được vô ngại, hai là Bồ-tát ở nơi ba thế gian thị hiện tự tại. Nay trong văn này hai thế gian đầu dựa theo nghĩa sau mà nói, Chúng sinh thế gian dựa theo nghĩa trước mà nói. Trong văn nêu ra lẫn nhau, lý thật thì gồm chung khắp nơi có đủ hai nghĩa này.

Ngay trong tự tại của hai thế gian đầu, vì sao có thể thành tựu nhập ở Đông mà xuất ở Tây, luận chung trong văn có bốn tầng vô ngại: Một là Xứ vô ngại, nghĩa là bởi vì phương Đông tức là phương Tây, cho nên không dời khỏi Đông mà thường ở tại Tây.

Hỏi: Trong văn không nói không dời khỏi mà đến, sao chắc chắn không phải là ẩn ở Đông hiện ở Tây?

Đáp: Trong văn đã nói thường thấy ở Đông cũng thường thấy ở Tây, cho nên biết không phải là chuyển dời.

Hai là Phật vô ngại, nghĩa là bởi vì Phật ở phương Đông tức là Phật ở phương Tây, cho nên thường ở trước Phật phương Đông tức là luôn luôn ở bên cạnh Phật phương Tây. Ba là Thân vô ngại, nghĩa là bởi vì thân ở phương Đông tức là thân ở phương Tây, cho nên thân không rời khỏi phương Đông mà thường hiện rõ ở phương Tây.

Hỏi: Lẽ nào là không phân thân, một thân ở phương Đông, một thân ở phương Tây hay sao?

Đáp: Nếu nhiều thân ở nhiều nơi thì sao trở thành kỳ lạ hiếm có, sao có thể gọi là Dụng không thể nghĩ bàn? Vì thế nên biết chắc chắn không phải phân thân.

Bốn là Xuất nhập vô ngại, nghĩa là bởi vì nhập Định tức là xuất Định, cho nên không hoại nhập Định mà thường thấy xuất Định.

Hỏi: Sao chắc chắn không phải là trước nhập-sau xuất?

Đáp: Đã nói thường thấy nhập cũng thường thấy xuất, cho nên biết là như vậy. Trong nghĩa của lý thật có đủ bốn tầng này, nhưng ý văn này là chỉ hiển bày về công lực của Bồ-tát ấy, hai loại đầu không phải là phân rõ ở đây, bởi vì hai loại đầu là Bồ-tát không có lực.

Hỏi: Sát-na này nhập Định vì sao tách ra là xuất Định?

Đáp: Như cái khăn huyền ảo làm ra con thỏ, con thỏ này tức sống là chết. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì có tức là không có, nhập-xuất… cũng như vậy, dựa theo suy nghĩ điều đó. Vả lại, Bồ-tát này dùng pháp giới làm thân, vì vậy tuy thấy ngoài trăm ngàn cõi ở phương Đông, mà pháp giới luôn luôn là pháp giới chứ không phải là pháp có phạm vi giới hạn, cho nên tùy xứ hiển hiện không có xứ nào không hoàn toàn hiện rõ. Bởi vì thân Bồ-tát thường hiện rõ ở trong nhập Định, luôn luôn hiện rõ ở trong xuất Định, vô ngại viên dung khó mà nghĩ bàn được, vì vậy nếu hướng đến trong môn xuất Định thì chỉ thấy xuất chứ không thấy nhập, cũng không thấy lúc đã xuất rồi. Nghĩa còn lại dựa theo điều này. Lại nếu dựa theo cảnh mà luận về lý số thì pháp vốn viên dung như vậy, nếu dựa theo trí mà nói thì do trí của Bồ-tát thông hiểu rõ ràng pháp này xoay chuyển tự tại. Nay trong văn này đầy đủ tất cả hai nghĩa.

Ngay trong phần Chúng sinh thế gian tự tại, có hai: Đầu là dựa theo Tự thân, sau là dựa theo Tha thân.

Trong Tự thân dựa theo 12 Xứ phân rõ, trong đó Duyên khởi-Vô ngại-Định đều viên dung, mỗi một loại đều có mười sự-năm cặp về tướng của Vô ngại. Cặp thứ nhất là Căn-Cảnh vô ngại, đã quán căn tiến vào Định trở lại thuận theo từ căn mà rời ra, bởi vì hiển bày căn này tức là cảnh, cho nên từ cảnh mà rời ra. Bởi vì một tâm duyên khởi không hai mà hai, cho nên luôn luôn là tướng nhưng căn-cảnh hai phần. Cặp thứ hai là hai Định vô ngại, đó là hai Định về Lý-Sự, bởi vì phân biệt cảnh thuộc Sự nên tiến vào cảnh Định trở lại tiến vào trong căn, bởi vì quán về căn rỗng lặng nên tiến vào căn Định trở lại tiến vào trong cảnh, bởi vì trí phân biệt cảnh thuộc Sự tức là Vô sinh trí quán về căn, cho nên hai Định vô ngại chỉ là một tâm. Cặp thứ ba là hai Cảnh vô ngại, đó là sâu rộng, Sự rộng đã phân biệt ở đây tức là Lý sâu về Vô sinh-Vô tánh, cho nên chân-tục cùng dung hòa chỉ một pháp giới, nhưng bởi vì hai nghĩa không ngăn ngại, cho nên dựa vào Tục đối với Cảnh, dựa vào Chân đối với Căn, lý thật thì thông suốt khắp nơi. Cặp thứ tư là Nhập-Xuất vô ngại, đó là bởi vì nhập Định vốn là xuất Định, thì tuy khởi Định mà niệm không tán loạn. Cặp thứ năm là Thể-Dụng vô ngại, đó là Tự-Tha, nghĩa là tuy hiện bày rộng rãi đối với Cảnh, mà người không có thể nhận biết, bởi vì luôn luôn vắng lặng; tuy dấy khởi sâu xa đối với Định, nhưng tự tâm luôn luôn không tán loạn. Vì thế cho nên mười nghĩa trên đây cùng làm một tụ, vốn là tướng của pháp giới duyên khởi vô ngại.

Vả lại, trong này còn có ba tầng hy hữu, đó là Căn nhập-Cảnh xuất đã là một hy hữu; lại có thể trong Cảnh tiếp tục nêu ra vô biên phân biệt, không phải là sự nhận biết của trời người, là hai hy hữu; từ Cảnh xuất rồi nêu ra phân biệt này đã rất hy hữu, lại ở lúc ấy tâm Định không tán loạn, lại càng hy hữu. Vì sao như vậy? Bởi vì muốn hiển bày về Tam-muội thuần thục, ở trong văn có thể biết.

Hai từ “Đồng tử thân…” trở xuống là vô ngại đối với Tha thân, ở đây có hai nghĩa: Một là Bồ-tát hóa hiện thân ấy chuyển biến nhanh chóng; hai là Bồ-tát đã có đủ thân của ba thế gian, thì dùng thân Thật báo của tất cả chúng sinh để làm tự thân, cho nên hiện bày thân ấy tiến vào-thân này rời ra, mà chúng sinh biến kế kia không hiểu-không biết, trừ ra người cần phải hóa độ. Đây là trình bày về Dụng tự tại của Định có thể biết.

Trong phần thứ hai là tự tại sai biệt vi tế, cũng là ba thế gian đều phân tích hiển bày rõ ràng. Trong đó, đầu mảy lông-lỗ chân lông là sai biệt của Chúng sinh thế gian, ánh sáng của Phật là sai biệt của Trí chánh giác thế gian, còn lại như vi trần… đều là sai biệt của Khí thế gian, đều là thân Bồ tát hiện rõ xuất-nhập Định ở trong những loại ấy, không phải là quán về Bồ-tát nhập Định…, bởi vì trong văn đều nói là hiện bày, hiện là hiện rõ thân ở trong đó.

Phần thứ ba là kết luận, có hai ý: 1) Gần thì riêng biệt kết luận về Định thứ mười này; 2) Xa thì gồm chung kết luận về mười môn trước đây là tóm lược, dựa theo thật thì vô tận.

Thứ sáu là phần dụ nói về ý chỉ sâu xa, cũng gọi là phần nêu ra thua kém hiển bày về thù thắng. Bởi vì trên đây đã trình bày chính thức hiển bày về công đức của hạnh Phổ Hiền thuộc Nhất thừa cùng tận đối với cảnh Phật, nhưng nói phần vị theo thứ tự bởi vì là phần vị Thập Tín của ngoại phàm, đã vượt qua Tam thừa trở lại đối với nghe nhìn, vướng vào tình thức đối với giáo không biết từ đâu để đạt được Tín, cho nên nêu ra sự việc gần này dùng làm gương soi, hướng về sâu xa khiến cho tỏ ngộ thông suốt mà thôi.

Trong đó có 77 tụng phân hai: Một- Một kệ tổng quát nêu ra, trong đó chúng sinh-nghiệp…, ở văn sau nói chư Thiên Tu-la… là Chánh báo, biển-gió… là Y báo; tiếp một câu là về sau các rồng tuôn mưa…; câu sau cuối là Tam-muội của Thanh văn và Phạm Thiên…, đều đối với thế gian không có ai suy lường được, cho nên nói là khó suy nghĩ, vì vậy lấy ví dụ để so sánh. Hai- Trong phân rõ riêng biệt có 1 dụ lớn:

1. Dụ về Thanh văn hiện bày thần thông, là dụ về lực tự tại làm lợi ích cho chúng sinh của Bồ-tát, trong đó có ba: Một là nêu ra ý, nghĩa là lý thật thì thần thông của Thanh văn so với Bồ-tát, như nước trong dấu chân trâu so với biển rộng, ánh sáng đom đóm so với mặt trời, cho nên nói là không có thể làm ví dụ. Nhưng bởi vì nay nêu ra đức của đom đóm hãy còn như vậy, huống hồ mặt trời chói chang, khiến cho người thông tuệ vượt qua hướng về hiểu rõ xa xôi, đó là nói rằng người thông tuệ có thể hiểu rõ nghĩa này. Hai từ “Đắc bát…” trở xuống là nêu ra dụ về gần, ba từ “Hiện tác…” trở xuống là hiển bày hướng đến xa.

2. Dụ về nước hiện rõ bốn loại binh lính, là dụ cho đức Tam-muội Hải Ấn của Bồ-tát.

3. Dụ về âm thanh vi diệu của biển-trời, là dụ cho đức của Bồ-tát tổng trì khéo léo thuyết giảng khiến cho chúng sinh hoan hỷ.

4. Dụ về người nữ trao cho biện tài, là dụ cho đức của Bồ-tát dùng trí phương tiện trao truyền pháp khiến cho vui mừng.

5. Dụ về phép thuật hóa hiện của huyễn sư, là dụ cho đức của Bồ-tát dùng lực giải thoát không thể nghĩ bàn chuyển biến làm vui lòng căn cơ.

6. Dụ về Tu-la tiến vào sợi tơ, là dụ cho thần thông vô ngại tự tại của Bồ-tát.

7. Dụ về voi chúa tùy theo biến hóa, là dụ cho đức của Bồ-tát dùng Định ẩn hiện tự tại.

8. Dụ về Tu-la thân lớn, là dụ cho đức của Bồ-tát hiện rõ thân như pháp giới, đó là như trong Tam thiên Đại thiên thế giới hóa ra một hoa sen khắp các thế giới đều biết, ở văn trên.

9. Dụ về Đế Thích phá bỏ oán thù, là dụ cho đức của Bồ-tát phá tan các ma làm cho phải hàng phục.

10. Dụ về thuyết pháp không âm thanh, là dụ cho đức của Bồ-tát không có tâm dụng công thuyết pháp làm lợi ích cho chúng sinh.

11. Dụ về an ủi không âm thanh, là dụ cho đức của Bồ-tát dùng âm yêu thương trừ hết buồn phiền.

12. Dụ về Thiên Vương ứng với khắp nơi, là dụ cho đức của Bồtát dùng thân qua lại khắp nơi ứng với căn cơ vô ngại.

13. Dụ về Ma vương tự tại, là dụ cho đức của Bồ-tát dùng mười lực thâu nhiếp chúng sinh khiến cho cùng nhau thực hành.

14. Dụ về Phạm thân hiện bày khác nhau, là dụ cho đức của Bồ-

tát dùng lực giải thoát an tọa khắp đạo tràng thuyết giảng về tất cả các pháp.

15. Dụ về Ma-hê-số-đế, là dụ cho đức của Bồ-tát trong một niệm nhận biết rõ ràng tâm của tất cả chúng sinh.

16. Dụ về phong luân duy trì phân tán, là dụ cho đức của Bồ-tát thành tựu Đại nguyện xưa kia vô tâm vô ngại mà biện giải thuyết giảng ứng với căn cơ.

17. Dụ về biển rộng chứa đựng, là dụ cho đức của Bồ-tát tích lũy giữ gìn nhiều công đức hiện bày hợp với mọi căn cơ.

18. Dụ về Long vương tuôn mưa khắp nơi, là dụ cho đức của Bồtát rưới làn mưa pháp khắp tận cùng pháp giới.

Thứ bảy là phần so sánh khuyến khích phát khởi, trong đó có 10 tụng rưỡi phân bốn: Một- Một kệ ví dụ so sánh về khó; Hai- Một kệ trình bày về thuyết giảng là khó; Ba- Có ba kệ rưỡi hiển bày về tin tưởng thực hành là khó; bốn-Từ “Nhược Tam thiên…” trở xuống là năm kệ nêu ra dễ để hiển bày về khó, đều là một sự việc về sau dần dần khó hơn có thể biết.

Thứ tám là trong phần hiển bày thật chứng thành tựu, có ba kệ: Một, Phân rõ về lợi ích có ba: 1) Mặt đất rung động; 2) Ma quân hàng phục; 3) Diệt trừ khổ đau. Hai, Chư Phật xoa đỉnh đầu. Ba-Thuật lại ca ngợi tùy hỷ. Hội thứ hai, xong.