HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ

QUYỂN 15

Đời nhà Đường Sa môn Pháp Tạng thuật.

Phẩm 23: THẬP MINH

A. Giải thích tên gọi: Nghĩa là diệu dụng tự tại, soi chiếu rõ ràng gọi là Minh, Dụng của Minh vô hạn dựa vào tròn vẹn phân rõ là Thập, tức là Đới số thích.

B. Ý đưa ra: 1) Luận tổng quát về Ý đưa ra từ Phẩm thứ năm về sau, nghĩa là trước hiển bày về Chứng phần vị thành tựu đầy đủ, từ đây về sau trình bày về Dụng của hành Thắng tiến. Lại nữa, trước là Thể của phần vị, ở đây phân rõ về Dụng của hành. Lại nữa, trước là hành trong phần vị, đây là hành sau phần vị. Lại nữa, trước là trí Căn bản Chứng đầy đủ, nay phân rõ Đại Dụng của trí Hậu đắc. Bởi vì bốn nghĩa này cho nên đưa ra. Cổ nhân cũng có vị phối hợp với Đẳng Giác-Diệu Giác, dựa vào trong kinh này không phân rõ về nghĩa ấy. Vả lại, tâm cuối cùng của Pháp Vân Địa trước đây đã hiển bày về nghĩa của Đẳng Giác. 2) Riêng biệt trình bày về phẩm này, nghĩa là giải đáp câu hỏi về mười tự tại trước đây, bởi vì kinh Biệt Hành Bồ Tát Bổn Nghiệp, trong câu hỏi của kinh ấy gọi là Thập Minh.

C. Tông thú: Ngay nơi Thập Minh này là hai trí Lý-Lượng trình bày về Dụng tự tại vô ngại làm Tông. Nghĩa về Thập Minh tóm lược đưa ra ba môn:

Một: Hiển bày về tên gọi: 1) Tha tâm; 2) Thiên nhãn; 3) Túc mạng; 4) Vị lai tế; 5) Thiên nhĩ; 6) Vô úy thần lực; 7) Âm thanh; 8) Sắc thân; 9) Chân thật; 10) Diệt định. Trong đó, Diệt định tương ưng với Thọ gọi là Thiên nhãn-Thiên nhĩ, từ cõi và căn làm tên gọi, còn lại từ cảnh làm tên gọi. Mười loại này đều là nghiệp dụng của Trí, cho nên cùng gọi là Trí dụng.

Hai: Thể tánh: Cùng lấy Đại Trí làm tánh, nhưng bao gồm Trí thuộc Tánh khởi của Phổ Hiền. Nếu tùy theo tướng để phân biệt, thì tám Minh trước là Lượng trí, hai Minh sau là Lý trí. Dựa vào thật thì chỉ là một Trí vô ngại, bởi vì hai Minh sau cũng không ngăn ngại khởi lên Dụng, tám Minh trước cũng không rời bỏ ngay nơi Tịch.

Ba: Trong các môn phân biệt có mười:

1. Cùng với Thập Minh trong phẩm Ly Thế Gian ở sau thâu nhiếp lẫn nhau: Văn ấy dựa theo nhận biết rõ ràng chứ không phải dựa theo nghiệp dụng tự tại, chỉ riêng loại thứ tư sinh ra âm thanh vi diệu thanh tịnh không thể nghĩ bàn, vô lượng thế giới không có nơi nào không nghe đến, là Phương tiện trí minh, một loại này dựa theo Dụng giống như ở đây, còn lại đều là sự việc khác nhau.

2. Cùng với mười Thông thâu nhiếp lẫn nhau: Tha tâm-Thiên nhãn-Túc mạng-Thiên nhĩ trong này, như tên gọi thâu nhiếp bốn Thông trong mười Thông ấy. Vô úy thần lực trong này, thâu nhiếp Trí thông thứ năm là Xuất sinh bất khả tư nghị tự tại thần lực thị hiện chúng sinh, và Trí thông thứ bảy là Ư nhất niệm trung vãng nghệ bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới trong mười Thông ấy. Sắc thân trang nghiêm trong này, thâu nhiếp Trí thông thứ sáu là Nhất thân thị hiện bất khả tư nghị thế giới, và Trí thông thứ chín là Xuất sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thị hiện chúng sinh trong mười Thông ấy, Trí thông thứ tám là Xuất sinh bất khả tư nghị trang nghiêm cụ trang nghiêm nhất thiết thế giới trong mười Thông ấy, cũng thu nhận đưa vào trong này; trong đó dựa theo trang nghiêm Y báo, trong này dựa theo trang nghiêm Chánh báo. Vị lai tế trí minh trong này, cũng thâu nhiếp Thiên nhãn ấy, bởi vì đó là những điều nhìn thấy. Âm thanh minh trong này, cũng thâu nhiếp Thiên nhĩ. Hai Minh cuối cùng trong này, thâu nhiếp Trí thông thứ mười là Bất khả thuyết thế giới thành A-nậu Bồ-đề bất khả tư nghị thị hiện chúng sinh trong mười Thông ấy. Còn lại dựa theo có thể biết.

3. Cùng với ba Minh trong Trí Luận thâu nhiếp lẫn nhau: Có hai nghĩa: Một: Không phải do ba mà thâu nhiếp, bởi vì Minh ấy cũng là do Nhị thừa mà đạt được, Minh này thì không như vậy. Hai: Cho dù ba Minh do Phật Bồ-tát mà đạt được, thì ở trong mười Minh này chỉ là ba thâu nhiếp năm, cho nên cũng không phải là tất cả, nghĩa là Thiên nhãn minh thâu nhiếp hai loại, đó là Thiên nhãn và Vị lai tế minh; Túc mạng minh chỉ là một; Lậu tận minh thâu nhiếp hai loại, đó là hai Minh cuối cùng. Dựa vào kinh Niết Bàn cũng có ba Minh: Một: Chư Phật minh gọi là Nhất-thiết-trí; Hai: Bồ tát minh gọi là Bát-nhã Ba-la-mật; Ba: Vô minh minh gọi là Tất cánh Không. Cùng với trong này không giống nhau.

4. Dựa theo sau Thông thâu nhiếp lẫn nhau: cũng có hai nghĩa:

Một: Không phải do sáu mà thâu nhiếp, bởi vì Thông ấy cũng là Nhị thừa đạt được. Hai: Nếu do Phật mà đạt được thì thâu nhiếp không phải là không tận cùng, nghĩa là ở trong sáu Thông thì Thiên nhãn-Thiên nhĩ-Thần túc-Lậu tận, bốn loại này đều phân hai cho nên trở thành mười. Tức là Thiên nhãn dựa theo thấy hiện tại-vị lai phân làm hai, bởi vì Trí minh về vị lai sinh tử cũng là do Thiên nhãn mà thấy; Thiên nhĩ dựa theo lắng nghe Thánh giáo và phân biệt âm thanh mà phân làm hai; Thần túc dựa theo nghiệp dụng và sắc thân là hai; Lậu tận dựa theo Định-Tuệ là hai. Loại thứ chín là Tuệ, hai loại còn lại không phân ra, cho nên sáu thâu nhiếp mười.

5. Thông và Minh sai biệt, trong Trí Luận quyển thứ 3: “Hỏi rằng: Thần thông và Minh có sai khác như thế nào? Đáp rằng: Biết chính xác về sự việc Túc mạng của quá khứ thì gọi là Thông, biết về hành nghiệp-nhân duyên của quá khứ thì gọi là Minh. Lại nữa, biết chính xác về chết nơi này-sinh nơi kia thì gọi là Thông, biết về phạm vi của nhân duyên-hành nghiệp tụ hội không mất thì gọi là Minh. Lại nữa, biết chính xác về không còn kiết sử mà không biết về tiếp tục sinhkhông sinh, thì gọi là Lậu tận thông; nếu biết về Lậu tận lại không còn sinh nữa thì gọi là Minh.

6. Dựa theo Giáo hiển bày khác nhau: Nếu Tiểu thừa-Tam thừa thì đều là ba Minh-sáu Thông nhưng phạm vi giới hạn sai biệt, nếu Nhất thừa thì mười Minh-mười Thông, cùng với trước cũng rộng-hẹp làm khác nhau.

7. Dựa theo phạm vi giới hạn đã nhận biết: Trong Trí Luận quyển thứ ba nói: “Ba Minh này Nhị thừa cũng đạt được, nhưng có lúc không đầy đủ, nghĩa là đối với quá khứ có lúc nhận biết một đời, cao nhất đến tám vạn, về sau thì không thể nhận biết được; vị lai cũng như vậy. Lại không thể nào trong một niệm nhanh chóng nhận biết về những tướng sinh-trú-diệt thuộc kiết sử của mười lăm tâm-bốn Đế, cho nên không giống với Phật, bởi vì Phật nhận biết Lậu tận của chúng sinh ba đời.” Giải thích rằng: Tiểu thừa chỉ nhận biết về ba Minh mà nhận biết không có thể khắp nơi; ba Minh của Tam thừa cùng nhận biết đầy đủ khắp nơi; mười Minh của Nhất thừa nhận biết khắp nơi, trùng trùng như Nhânđà-la võng, nghĩa là một niệm thâu nhiếp chín đời…, trong một mảy bụi có mười cõi. Những niệm khác-những mảy bụi khác cũng đều như vậy, trong đó vốn có đều nhận biết như thật.

8. Dựa theo ba nghiệp để phân biệt: Trong mười Minh thì Thiên nhĩ và cảnh Âm thanh là ngữ nghiệp thanh tịnh, Thần lực và Sắc thân là thân nghiệp thanh tịnh, sáu Minh còn lại là ý nghiệp thanh tịnh. Nếu dựa theo tự Thể thì chỉ là ý nghiệp, bởi vì đều là Trí Minh.

9. Dựa theo thấy… để phân biệt: Trong mười Minh thì hai Minh là thấy, đó là Thiên nhãn và Vị lai; hai Minh là nghe, đó là Thiên nhĩ và Âm thanh; Minh còn lại đều là Trí.

10. Dựa theo kiến lập, trong Tam thừa… chỉ dựa theo ba đời đã nhận biết mà kiến lập ba Minh, nay Nhất thừa này thì lý thật về hạn lượng tác dụng của Minh là vô tận, theo chuẩn mực để biểu hiện tròn vẹn, dựa vào mười để hiển bày, cho nên chỉ nói là mười chứ không tăng-không giảm.

D. Trong giải thích văn, có hai: Đầu là chính thức nói về mười Minh; sau từ “An trú…” trở xuống là kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng.

Trong phần đầu: Một: Nêu ra số; Hai: Phân rõ giải thích; Ba: Kết luận về số.

Trong phần giải thích mười Minh tức là mười đoạn, mỗi một đoạn đều có hai, trước là giải thích, sau là kết luận.

Thứ nhất: Thiện tri tha tâm minh. Trong giải thích có hai: 1) Nhận biết về tâm của chúng sinh trong một Đại thiên thế giới này; 2) Từ “Như thị đẳng bách thế giới…” trở xuống là nhận biết về tâm của chúng sinh trong vô biên thế giới khắp mười phương.

Trong phần một: a) Tổng quát; b) Từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt; c) Từ “Như thị…” trở xuống là kết luận.

Trong riêng biệt, nhận biết về ba mươi loại tâm, có hai: Một: Dựa theo hành trình bày về tâm; Hai: Từ “Thanh văn…” trở xuống là dựa theo báo trình bày về tâm.

Trong phần một: 1) Tâm thuộc ba tánh là tổng quát nêu ra. 2) Rộng hẹp là ở trong tâm thiện phân ra sai biệt. 3) Ác hơn hẳn là thuận theo bất thiện trước đây gọi là tâm ác, trái với thiện này là hơn hẳn; vô ký thuận theo lưu chuyển, trái với thiện này là rời bỏ.

Trong phần hai là dựa theo báo: Bồ-tát là tâm thù thắng rộng lớn, Nhị thừa là tâm hẹp hòi, Tam thừa rời bỏ cả hai, Bát bộ thuận lưu chuyển, Tam đồ là ác, còn lại đều có thể biết.

Thứ hai: Thiên nhãn minh. Trong giải thích có ba: 1) Tổng quát nêu ra. 2) Từ “Thiện ác…” trở xuống là đưa ra cảnh đã thấy, trong đó thiện ác… là gồm chung, trời rồng… là riêng biệt. 3) Từ “Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là trong phần hiển bày về Thiên nhãn có thể nhìn thấy, Thiên nhãn minh tịnh vô ngại, bởi vì Sở tri chướng không còn là báo đạt được Minh tự tại. Sau là Dụng của thấy, đều thấy sinh tử của chúng sinh hiện tại… Phẩm Lục Độ trong Trí Luận nói: “Thiên nhãn của Bồ-tát có hai, Tu đạt được và Báo đạt được. Bởi vì đạt được Thiên nhãn cho nên thấy được chư Phật mười phương, đạt được Tam-muội Niệm Phật, là Báo đạt được năm Thông thực hành Bồ-tát đạo.”

Hỏi: Nếu Thiên nhãn là căn thấy, căn là chướng ngại, thì lẽ ra thấy sắc bên trong chướng ngại chứ không có thể thấy sắc bên ngoài chướng ngại?

Đáp: Tu đạt được Thiên nhãn, căn gọi là Thiên nhãn Thông, Thông lấy Tuệ làm Thể cho nên thấy sắc bên ngoài chướng ngại.

Hỏi: Nếu thấy sắc bên ngoài chướng ngại, vì sao Thanh vănDuyên giác và Bồ-tát thấy có xa gần không giống nhau?

Đáp: Thông tuệ có tăng thêm sâu xa, cho nên thấy có xa gần không giống nhau, như đá nam châm không hút tất cả những nơi không đến. Trong đó như đã quay trở lại, nghĩa là bất định nghiệp có xoay chuyển thay đổi… còn lại đều có thể thấy.

Thứ ba: Túc mạng minh. Trong giải thích có hai: 1) Nhớ biết sự việc vốn có của mình và người; 2) Từ “Hựu ức…” trở xuống là nhớ lại những sự việc như nhân quả-chư Phật quá khứ. Vì vậy Phật xuất thế là vì chúng sinh, phần nhiều dựa theo tám tướng mà phân rõ. Bởi vì Bồ-tát này đạt được mắt chín đời, thấy pháp quá khứ-hiện tại, cho nên sự nhận biết không có hạn lượng. Nếu không như vậy, là pháp quá khứ ấy nếu không lụi tàn, thì không phải quá khứ; nếu đã lụi tàn thì không có pháp, không có pháp mà thấy thì không phải chân thật. Nếu nói chỉ là sự việc đã từng trải qua, trong tâm có chủng loại-hình ảnh hiện rõ trước mắt cho nên nói là nhớ biết, thì đây là chỉ thấy hình ảnh của tâm mình chứ không thấy pháp ấy. Lại sự việc này không hề trải qua thì lẽ ra không thể nhớ biết. Lại cũng chỉ thấy hiện tại, không phải là quá khứ, sao gọi là Trí thuộc Túc trú? Văn còn lại có thể thấy.

Thứ tư: Vị lai tế trí minh. Trong giải thích cũng có hai: 1) Nhận biết về tướng nghiệp báo của chúng sinh ở vị lai; 2) Từ “Tri vị lai…” trở xuống là nhận biết về tướng nhân quả của Phật ở vị lai.

Trong phần một: Một: Tổng quát nhận biết; Hai: Từ “Tri chúng sinh nghiệp…” trở xuống là riêng biệt nhận biết. Tóm lược nêu ra mười cặp: 1) Nghiệp báo là một cặp. 2) Nhận biết về thiện và bất thiện đã làm. 3) Ngay trong thiện, nhận biết về thiện thuộc phần giải thoát gọi là xuất thế, nhận biết về thiện không thuộc phần giải thoát gọi là không xuất thế. 4) Ngay trong phần giải thoát, đạt được phần vị nhất định thì gọi là Định, chưa đạt được thì gọi là Bất định. 5) Ngay trong thiện không xuất thế trước đây, có chủng tánh thì gọi là Chánh định, không có chủng tánh thì gọi là Tà định. 6) Dựa vào thiện hữu lậu gọi là có Sử, vô lậu gọi là không có Sử. 7) Ngay trong vô lậu, quả vị thiện căn gọi là đầy đủ, nhân vị thì không đầy đủ. Bảy cặp trên là dựa theo phần vị nhận biết về chúng sinh, ba cặp dưới đây là dựa theo hành nghiệp. 8) Mới phát khởi gọi là thâu nhiếp chọn lấy thiện ác. 9) Tạo tu gọi là tích lũy. 10) Trung gian không tích tập điều ác, chưa hẳn đã tu thiện.

Trong phần hai nhận biết về nhân quả của Phật ở vị lai: Một: Chỉ nhận biết về Dụng của quả; Hai: Từ “Tất tri…” trở xuống là nhận biết bao gồm Hạnh của nhân.

Hỏi: Tông chỉ Đại Thừa thì Thể-Dụng của pháp ở đời vị lai đều không có, nay vì sao nhận biết?

Đáp: Nếu giải thích dựa vào Giáo phương tiện, thì đây là chỉ thấy chủng tử thuộc nhân của hiện tại, nhận biết về tướng sai biệt của quả ấy ở tương lai, chứ không nói là thấy Thể của pháp vị lai ấy. Nếu như Tông chỉ Nhất thừa thì Thể-Dụng hiện tại của vị lai ở trong chín đời đều có, cho nên nay nói như thật mà nhận biết về pháp ấy.

Hỏi: Vị lai chưa có, sao gọi là hiện tại?

Đáp: Không phải là hiện tại của hiện tại, cho nên không có trong hiện tại, chỉ là hiện tại của vị lai, cho nên có trong vị lai.

Hỏi: Có này là duyên có, hay là tánh có? Nếu là duyên có, thì duyên nay chưa hội tụ; nếu là tánh có, thì giống như Tiểu thừa?

Đáp: Nếu ngay lúc này thì thấy duyên và tánh đều không có, bởi vì là vị lai của hiện tại thì nhất định không có. Nếu thuận theo ở thời gian vị lai mà nhìn nhận, thì hiện tại của vị lai vẫn như hiện tại bây giờ, quyết định là duyên có, cho nên có thể thấy. Văn còn lại có thể biết.

Thứ năm: Thiên nhĩ minh. Trong giải thích có bốn: 1) Nêu ra đức của chủ động nghe; 2) Từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống là tổng quát phân rõ về pháp đã nghe tự tại; 3) Từ “Ư Đông phương…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về pháp đã nghe ở một phương; 4) Từ “Như Đông phương…” trở xuống là tương tự hiển bày về pháp đã nghe ở mười phương.

Trong phần một: Vô ngại là tổng quát, nghĩa là không có chướng ngại đến nghe-không nghe, không có chướng ngại đến suy nghĩ. Sau là riêng biệt hiển bày về mười đức: Một: Thanh tịnh là bởi vì lìa xa tập khí mờ tối; Hai: Quảng đại là bởi vì đức rộng khắp; Ba: Cụ túc là bởi vì đức tròn đầy; Bốn: Bất khả xưng lượng là bởi vì đức rất nhiều; Năm: Tu tập là bởi vì hạnh đầy đủ; Sáu: Đắc chứng là bởi vì lý tròn vẹn; Bảy: Minh tịnh là bởi vì Sở tri chướng không còn; Tám: Ly chướng là bởi vì Phiền não chướng không còn; Chín: Liễu đạt là bởi vì đã nhận biết rõ ràng; Mười: Quyết định là bởi vì đã nhận biết phù hợp chân thật.

Phần hai là tổng quát phân rõ về pháp đã nghe tự tại: Ở trong mười phương có âm thanh xa, muốn nghe thì không có gì ngăn ngại khiến cho không nghe; đối với âm thanh gần muốn không nghe, cũng không ngăn ngại bức bách khiến cho phải nghe. Muốn gần-không muốn xa, và trong xa muốn hay không muốn, trong gần cũng như vậy, thảy đều tự tại tùy ý.

Phần ba là riêng biệt hiển bày về Đông phương: Một: Nêu rõ về Phật; Hai: Hiển bày về pháp; Ba: Có thể nghe và giữ gìn.

Ngay trong phần hai là hiển bày về pháp có mười câu: 1) Đã thuyết giảng là tổng quát nêu rõ về Giáo tướng. 2) Đã phát khởi là phát khởi về Nghĩa ẩn kín. 3) Đã tách biệt là tách biệt hiển bày về Lý sâu xa. 4) Đã nêu rõ là nêu rõ về Tông chỉ vốn có. Bốn câu trên đây là Lý giáo. 5) Đã chế định là chế định về Học xứ. 6) Đã điều phục là làm cho người sai trái phải khuất phục. Hai câu trên đây là Chế giáo. 7) Đã giáo hóa là giáo hóa khiến cho khởi hạnh. Một câu này là Hóa giáo. 8) Đã nghĩ đến là những pháp như sáu Niệm… 9) Đã phân biệt là những pháp như giải thích…. 10) Đã giáo hóa thâm diệu là pháp chí lý của Đại thừa. Khéo léo hiểu rõ… là tổng quát kết luận về pháp đã nghe có nhiều môn.

Trong phần ba từ “Như thị nhất thiết…” trở xuống là phân rõ về có thể nghe và giữ gìn, trong đó cũng có mười câu: 1) Tổng quát về khéo léo hiểu rõ văn nghĩa, nói ý vị là văn. 2) Tùy theo Đại chúng nào để thuyết pháp. 3) Tùy theo người riêng biệt nào để thuyết pháp. 4) Tùy theo dùng âm thanh loại nào để thuyết pháp. 5) Tùy theo trí lực của họ mà hiểu về pháp đã thuyết giảng. 6) Tùy theo thức tâm nào mà pháp biến đổi. 7) Tùy theo sự chuyển hóa ấy mà đạt được pháp công đức. 8) Tùy theo cảnh giới đã duyên vào đâu để mà thuyết pháp. 9) Tùy theo căn khí đã dựa vào đâu để mà thuyết pháp. 10) Tùy theo pháp của Thừa nào để mà thoát ra. Từ “Tất năng…” trở xuống là kết luận về Thiên nhĩ nghe và giữ gìn.

Phần bốn từ “Như Đông phương…” trở xuống là tương tự hiển bày về mười phương cũng như vậy, tức là Thiên nhĩ nghe và giữ gìn vô tận vô tận.

Thứ sáu: Thần lực trí minh. Trong giải thích có bốn: 1) Nêu ra tên gọi; 2) Hiển bày về Thể; 3) Từ “Nhược văn…” trở xuống là trình bày về nghiệp dụng; 4) Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận.

Ngay trong phần hai là hiển bày về Thể, có mười hai loại thần lực: 1) Không có công dụng. 2) Cùng chung lý tánh. 3) Có thể rộng khắp. 4) Hạn lượng khó biết. 5) Không cần chỗ dựa. 6) Ứng niệm mà đến. 7) Không khởi nơi này. 8) Không bỏ tác dụng. 9) Không có cạn kiệt. 10) Không hoại pháp khác. 11) Tăng thêm thiện căn. 12) Thuận theo hạnh ấy.

Trong phần ba là hiển bày về nghiệp dụng, có năm: 1) Trình bày về Phật ở nơi đã đến. 2) Từ “Văn dĩ…” trở xuống là hiển bày về có thể đến nơi ấy, thiết lập cung kính nhận biết về pháp là nghiệp dụng của thần lực như rộng lớn… trước đây. 3) Từ “Thị hiện…” trở xuống là trình bày về tự tại, nghĩa là hiện rõ mười phương mà không lìa xa một nơi, là nghiệp dụng như thần lực không chuyển dời… trước đây. 4) Từ “Tất tự…” trở xuống là thưa thỉnh giáo pháp, biết rõ ràng là nghiệp dụng như thần lực nuôi lớn… trước đây. 5) Từ “Vô tổn thần lực…” trở xuống là trình bày về thành tựu hạnh đến mọi nơi, là nghiệp dụng của thần lực như ứng niệm mà đến và thuận theo hạnh… trước đây. Kết luận về tên gọi, có thể biết.

Thứ bảy: Phân biệt ngôn âm trí minh. Trong giải thích: Đầu là tổng quát nhận biết; sau từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt. Trong đó có ba: 1) Nhận biết về âm thanh-ngôn ngữ-chủng loại của Báo. 2) Từ “Thiện phân biệt…” trở xuống là nhận biết về ngữ pháp thi thiết, nghĩa là ăn cơm-uống nước… 3) Từ “Ma-ha-tát tùy kỳ…” trở xuống là trình bày về nguyên do có thể nhận biết. Trước là Pháp thuyết, bởi vì Bồ-tát này tiến vào tất cả thế giới, hiểu biết về tánh loại của chúng sinh trong đó, cho nên nhận biết về âm thanh-ngôn ngữ mà thi thiết. Dụ và Hợp có thể biết.

Thứ tám: Sắc thân trang nghiêm trí minh. Trong giải thích có ba: 1) Nhận biết về pháp giới không có sắc. 2) Từ “Nhi Bồ-tát…” trở xuống là khéo léo hiện bày nhiều sắc. 3) Từ “Phật tử…” trở xuống là trình bày về ý của không có sắc mà hiện bày sắc. Lại đầu là trình bày về sắc ngay nơi không có sắc, tiếp là không có sắc ngay nơi sắc, sau là cùng hiển bày về ý ấy.

Trong phần một có năm câu: 1) Tổng quát nhận biết về tánh của sắc. 2) Không sinh là hợp với Chân tánh. 3) Không có các loại là lìa xa tướng khác. 4) Lìa xa vọng chấp. 5) Lìa xa hình dạng hiển bày.

Trong phần hai là hiện bày nhiều sắc, tổng quát và riêng biệt gồm có 110 loại sắc, như vậy đều là xứng với thật sắc của pháp giới, không giống như giáo khác hoặc là có mười một sắc, hoặc là có hai mươi lăm sắc…

Trong phần ba là trình bày về ý hiện bày sắc, có ba: 1) Tổng quát nêu ra ứng cơ. 2) Từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt hiển bày tác dụng lợi ích có mười loại, đều là Dụng thù thắng của pháp sắc trước đây, lợi ích chúng sinh mà thành tựu giáo hóa. 3) Từ “Tất năng…” trở xuống là kết luận về nghiệp dụng. Kết luận về tên gọi, có thể biết.

Thứ chín: Chân thật trí minh. Trong giải thích có hai: 1) Minh thuộc trí Căn bản chứng lý. 2) Từ “Bất xả…” trở xuống là Minh thuộc trí Hậu đắc thâu nhiếp giáo hóa. Lại là đầu tự mình Nội chứng, sau là Lợi tha bên ngoài. Lại là đầu chứng Thể của pháp, sau là thuyết về Dụng của pháp. Lại đầu ngay nơi Sự mà thường là Lý, sau là Lý mà luôn luôn Sự, cho nên không ngăn ngại nghiệp dụng.

Trong phần một có hai: Một-Chính thức chứng được pháp, sơ lược phân rõ về năm mươi môn, trình bày về xa lìa hai bên, không đắm theo Trung đạo, tánh và tướng đều phai mờ, có và không có đều loại bỏ, dựa vào ba tánh và ba vô tánh, theo giải thích có thể biết. Hai-Từ “Bồ-tát tri như thị…” trở xuống là kết luận về lợi ích của thành tựu chứng trí lìa xa chấp trước.

Trong phần hai là nghiệp dụng của trí Hậu đắc, có mười: 1) Trình bày về soi chiếu Thật không rời bỏ Quyền, nghĩa là trước đây tuy soi chiếu Thật mà dựa theo chứ không phải an lập, không đắm vào hai Đế, nhưng bởi vì không rời bỏ Bổn nguyện, trở lại dựa theo an lập, thấy đối với một Đế, quyết định nhận biết về pháp, là nhận biết về Thế đế. 2) Cuộn mây rưới mưa pháp. 3) Khéo léo tiến vào và vượt qua, nghĩa là bắt đầu khởi lên gọi là tiến vào, cuối cùng cao nhất gọi là vượt qua. 4) Khéo léo thuyết giảng sâu rộng, nghĩa là không trái với Chân pháp thì vượt qua thuận với sâu xa. 5) Dùng Đại Từ làm nhân, khéo léo thuyết giảng không tận cùng. 6) Đối với không có tên gọi mà thiết lập tên gọi nhưng không làm hỏng tánh của tên gọi, tánh là văn tự, là tướng của giải thoát. 7) Từ “Quán sát…” trở xuống là khéo léo quán sát lìa xa nhiễm. 8) Từ “Giải liễu…” trở xuống là khéo léo nói ra để thâu nhiếp chúng sinh mà không rời bỏ Tự chứng. 9) Từ “Ư bất nhị…” trở xuống là trình bày về pháp không hai đối với Lý và Sự, không hủy bỏ Sự mà ẩn Lý, không hủy bỏ Lý mà ẩn Sự, cũng là bởi vì cùng vận dụng TịchDụng. 10) Từ “Cụ túc…” trở xuống là trình bày về tướng tự tại đầy đủ đức vô ngại.

Thứ mười: Diệt định trí minh. Trong giải thích có sáu:

1. Trình bày về Diệt định đã đạt được, nói không thối chuyển là chính thức trình bày về thường xuyên Định chưa hề lui sụt mất đi.

2. Từ “Diệt bất xả…” trở xuống là hiển bày về Tịch mà luôn luôn Dụng, nghĩa là thân ở trong Diệt định mà không rời bỏ mười loại nghiệp dụng của Bồ-tát: Một: Tổng quát trình bày về việc làm của Bồ-tát. Chín loại sau đều là việc làm của Bồ-tát. Hai: Riêng biệt hiển bày về Từ-Bi. Ba: Tướng thực hành mười Độ. Bốn: Đại nguyện cứu giúp chúng sinh. Năm: Chuyển Chánh pháp luân. Sáu-Phương tiện điều phục chúng sinh. Bảy: Cung kính cúng dường chư Phật. Tám: Tiến vào pháp tự tại. Chín: Thường được thấy Phật. Mười: Luôn luôn nghe pháp.

3. Từ “Tất năng xuất sinh…” trở xuống là trình bày về nghiệp dụng của Diệt định, nghĩa là Diệt định này không dứt khoát mang lại mười loại công dụng của hành trước đây nhưng mà không trái ngược với nhau, cũng chính là nhờ vào lực của Định này sinh ra mười loại công dụng của hành thù thắng: Một: Tổng quát trình bày về sinh ra, nghĩa là ngay nơi Định này khởi lên công dụng gọi là có thể sinh ra, công dụng của Định không có ngăn cách gọi là pháp vô ngại, pháp này đều có thể sinh ra nối liền các câu sau. Hai: Nhận biết về pháp bình đẳng. Ba: Từ “Cụ túc…” trở xuống là nguyện thành tựu pháp của quả. Bốn: Từ “Thâm nhập…” trở xuống là Trí tận cùng quốc độ hải. Năm: Từ “Cứu cánh…” trở xuống là đến tận cùng giới hạn của nhân. Sáu: Từ “Ư nhất thiết…” trở xuống là học tất cả những pháp học. Bảy: Từ “Nhất thiết…” trở xuống là tỏ ngộ sâu sắc về tướng của pháp. Tám: Từ “Thiện tri…” trở xuống là khéo léo thông hiểu về duyên khởi. Chín: Từ “Liễu nhất thiết…” trở xuống là trình bày về hiểu rõ giáo nghĩa. Mười: Từ “Ư nhất thiết…” trở xuống là trình bày về đầy đủ trí Quyền-Thật.

4. Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống là trình bày về kiếp số trú trong Định.

5. Từ “Nhan dung…” trở xuống là trình bày về oai nghi trú trong Định.

6. Từ “Tất năng thành…” trở xuống là không bỏ dở công dụng của hành.

Hỏi: Trú trong Diệt định này thì oai nghi của thân không lay động, vì sao có thể có những việc làm?

Đáp: Nếu Diệt định của Tiểu thừa thì hoàn toàn không có nghiệp dụng. Nếu dựa vào Sơ giáo thì đang trú trong Diệt định, tuy các chuyển Thức hoàn toàn không hiện hành, nhưng bởi vì lực của Bi nguyện gia hạnh trước đây, cho nên kích phát vào Thức thứ tám là A-lại-da, khiến cho đầy đủ oai nghi mà thực hiện những việc làm, vì vậy cũng nói là không rời khỏi Diệt định mà hiện rõ các oai nghi. Nếu dựa vào Chung giáo thì quán sát Sự tức là Lý, cho nên ở trong Diệt định mà không ngăn ngại công dụng của Sự, hiện rõ các oai nghi, cũng gọi là cả hai hành tự tại. Hai môn trên đây đều chỉ có Định ở trong tâm mà thân đầy đủ tác dụng của oai nghi, vì vậy chỉ đạt được Lý-Sự vô ngại. Trong Đốn giáo thì không thể nói là tác dụng hay không tác dụng. Nếu trong Viên giáo thì bởi vì đạt được hai sự vô ngại, cho nên ngồi kiết già Diệt định mà đều là qua lại thuyết pháp, cũng không phân thân mà thành tựu động-tịnh; như Đức Phật lên trên cõi trời mà không rời khỏi cây Bồ-đề… giống như vậy dựa theo có thể biết. Nghĩa còn lại như nói ở chương Diệt định.

Phần sau là kết luận, có thể biết. Phần riêng biệt giải thích, xong.

Trong phần sau từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng, trong đó có ba: Một: Ca ngợi về thù thắng: 1) Hơn hẳn trời người; 2) Vượt qua thế gian; 3) Vượt lên trên Nhị thừa; 4) Vượt qua Địa dưới. Bốn loại này là so sánh thua kém để phân rõ về thù thắng. 5) Tổng quát về ba nghiệp; 6) Riêng biệt nêu ra Định; 7) Hiển bày về Dụng của Trí. Ba loại này ngay nơi tướng phân rõ về thù thắng. 8) Chỉ có Đức Phật mới cùng tận. Hai: Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận. Ba: Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là hiển bày về nghiệp dụng, nghĩa là đạt được Trí Minh của chư Phật ba đời, chứ không phải là nói đến ba Minh. Phẩm Thập Minh, xong.

Phẩm 24: THẬP NHẪN

A. Trong giải thích tên gọi: Thập là số tròn vẹn vô tận, Nhẫn là trí soi chiếu quán sát thông suốt, cũng là Đới số thích.

B. Ý đưa ra, có hai: Xa thì giải đáp câu hỏi về Thập Định ở pháp đường Phổ Quang trước đây, cho nên đưa ra. Dùng Nhẫn để tiếp nhận chân lý, tình thức an ổn không lay động mà gọi tên. Gần thì hiển bày về chỗ dựa của Thập Minh, cho nên tiếp tục đưa ra.

C. Tông thú: Trước là Tông, sau là Thú. Tông có năm môn:

Một: Thể tánh: Nhẫn này lấy Trí làm Tánh. Nếu Tiểu thừa thì Nhẫn yếu kém thuộc về nhân, Trí thù thắng thuộc về quả. Đại thừa không hai, nhưng Nhẫn tiếp nhận xem xét thấu suốt dựa theo Dụng mà phân biệt.

Hai: Chướng đã đoạn trừ: Trong này dựa vào Vô minh chấp trước vi tế-chướng ngại vi tế đang đoạn trừ.

Ba: Xác định phần vị: Nếu là Tiệm giáo thì hành của mười Nhẫn này bao gồm các phần vị, dựa vào phần vị Đẳng giác ngay sau Thập địa. Nếu là Viên giáo thì bao gồm tất cả năm phần vị, dựa vào đây nói.

Bốn: Chủng loại: Hoặc là một, đó là Nhẫn thuộc Vô sinh. Hoặc là hai, đó là Nhẫn thuộc hai Vô ngã. Hoặc là ba, đó là Nhẫn thuộc ba Vô tánh, trích từ luận Phật Tánh; hoặc là ba, đó là Tín nhẫn-Thuận nhẫn và Vô sinh nhẫn, trích từ luận Địa Trì. Hoặc là bốn, đó là bốn loại Vô sinh, như trong Địa Luận quyển thứ tám. Hoặc là năm, đó là Địa tiền gọi là Phục nhẫn, Địa thứ nhất-thứ hai-thứ ba gọi là Tín nhẫn, Địa thứ tư-thứ năm-thứ sáu gọi là Thuận nhẫn, Địa thứ bảy-thứ tám-thứ chín gọi là Vô sinh nhẫn, Địa thứ mười và Phật Địa gọi là Tịch diệt nhẫn; đây là dựa vào kinh Nhân Vương. Hoặc là sáu Nhẫn, đó là Tín nhẫn-Pháp nhẫn-Tu nhẫn-Chánh nhẫn-Vô cấu nhẫn và Nhất-thiết-trí nhẫn. Giải thích rằng: Ba Nhẫn trước như thứ tự là ba Hiền thuộc về Địa tiền, ba Nhẫn sau như thứ tự là Thập Địa-Đẳng Giác và Diệu Giác có thể biết; đây là dựa vào kinh Anh Lạc. Hoặc là tám loại như Khổ nhẫn… không phải ở đây phân rõ. Hoặc là mười, cũng như trong Địa Kinh quyển thứ 8; lại là mười, như trong văn này. Hoặc là mười bốn, dựa vào kinh Nhân Vương, trong năm Nhẫn thì bốn Nhẫn trước đều phân ra ba, đó là Thượng-Trung và Hạ, một Nhẫn sau chỉ phân ra hai, đó là nhân và quả.

Năm: Riêng biệt giải thích về Thập Nhẫn, trong đó ba Nhẫn đầu là dựa theo Pháp, bảy Nhẫn sau dựa vào Dụ.

Trong Pháp: Đầu là một Nhẫn dựa theo phần vị Tư lương, tiếp là

một Nhẫn dựa theo phần vị Gia hạnh, sau là một Nhẫn dựa theo phần vị Chánh chứng, dựa vào tướng như vậy. Nếu bao gồm thì ở khắp mười Địa, có thể biết.

Thú là nhờ vào học theo hạnh thuộc Thập Nhẫn như vậy, cho nên đạt được nhân tròn vẹn quả đầy đủ, cho nên văn nói là có thể đạt được tất cả…

D. Trong giải thích văn có hai: Trường hàng và trùng tụng.

Trong trường hàng có ba: Một: Nêu ra số lượng ca ngợi về thù thắng; Hai: Nêu ra tên gọi hiển bày về quan trọng; Ba: Giải thích kết luận về ca ngợi.

Trong phần một có hai: 1) Tổng quát bày tỏ nêu ra số lượng; 2) Trong phần ca ngợi về thù thắng có thể đạt được Nhẫn vô ngại là hiển bày về nhân đầy đủ thuộc Tự phần, từ “Hựu đắc…” trở xuống là trình bày về quả tròn vẹn thuộc Thắng tiến, nhờ vào Thập Nhẫn này mà đạt được nhân quả này.

Trong phần hai là nêu ra tên gọi hiển bày về quan trọng, cũng có hai: Trước là nêu ra tên gọi, sau là hiển bày về quan trọng.

Trong phần trước: 1) Âm thanh là Giáo, tùy thuận là Hạnh, nghĩa là đối với giáo Vô sinh đã thuyết giảng, tín thuận nhẫn thọ cảnh hành làm tên gọi. 2) Thuận theo quán sát chân lý, mà chưa khế hợp với Chân cho nên gọi là Thuận nhẫn, từ Thể của hành lập thành tên gọi. 3) Thuận theo quán sát đã chứng đến cuối cùng khế hợp với chân lý gọi là Vô sinh nhẫn, Vô sinh là Lý, từ cảnh làm tên gọi; lại cũng Vô sinh là Hạnh, ngay nơi tướng làm tên gọi.

Trong phần sau là bảy dụ, Quang Thống nói: “Bốn dụ trước là dụ cho Âm thanh nhẫn, hai dụ về ánh chớp và hóa hiện là dụ cho Thuận nhẫn, một Dụ về hư không là dụ cho Vô sinh nhẫn.” Lại nói: “Huyễn ảo là khởi mà không có tướng của khởi, ngọn lửa là cảnh mà không có tướng của cảnh, giấc mộng là nhận biết mà không có tướng của nhận biết, tiếng vang là nghe mà không có tướng của nghe, ánh chớp là trú mà không có tướng của trú, hóa hiện là có mà không có tướng của có, hư không là làm mà không có tướng của làm.”

Lại người xưa nói: “Quán về Thức như huyễn ảo, quán về Tưởng như hơi nóng, quán về Thọ như giấc mộng, quán về Thanh như tiếng vang, quán về Hành như ánh chớp, quán về Sắc như hóa hiện, quán tổng quát về tất cả Uẩn-Giới-Xứ đều suy cho cùng là trống rỗng, cho nên như hư không.”

Lại Viễn Công dựa theo nhận biết về pháp hai Đế, nói là: “Nhận

biết về Tục như huyễn ảo không phải thật, nhận biết về Tục như hơi nóng phát sinh ngược lại, nhận biết về Tục như giấc mộng từ tâm dấy khởi, nhận biết về Thanh trần như tiếng vang không thật, nhận biết về Tục như ánh chớp có trong chốc lát, nhận biết về biến dịch như hóa hiện không có Thể, nhận biết về Chân như hư không lìa xa tướng.”

Lại sáu dụ trước về Hữu vi Không, một dụ sau về Vô vi Không, như chín dụ trong Kim Cang Bát Nhã, đều là dụ về Hữu vi.

Lại dựa theo tám dụ trong Nhiếp Luận, hiển bày về Y tha, đều vì giải thích nghi ngờ.

Nhiếp Luận quyển thứ năm nói: “Vì sao như kinh nói, đối với tự tánh Y tha khởi mà nói về các dụ như huyễn ảo… là hỏi về tổng quát. Bởi vì loại trừ nghi ngờ hư vọng của người khác đối với tự tánh Y tha khởi, là giải đáp. Người khác lại nói vì sao có nghi ngờ hư vọng đối với tự tánh Y tha khởi, là hỏi về riêng biệt. Bởi vì người khác đối với điều này có nghi ngờ như vậy. Vì sao thật sự không có nghĩa mà trở thành cảnh giới của hành? Bởi vì loại trừ nghi ngờ này mà nói dụ về sự huyễn ảo.”

Vô Tánh Giải thích rằng: “Nghi ngờ hư vọng, là đối với nghĩa hư vọng mà khởi lên những nghi ngờ.”

Vì sao không có nghĩa mà lúc Biến kế suy nghĩ thì hiển hiện rõ ràng tựa như cảnh đã hành? Bởi vì ngăn chặn nghi ngờ này mà nói dụ về sự huyễn ảo, như không có con voi thật sự mà có con voi huyễn ảo, cảnh giới đã duyên của tánh Y tha khởi cũng lại như vậy, tuy không có sáu Xứ đã duyên như Sắc… mà lúc Biến kế suy nghĩ thì tựa như có sáu Xứ đã duyên hiển hiện rõ ràng.

Vì sao không có nghĩa mà chuyển tâm-tâm pháp? Giải thích rằng: Đây là ý nghi ngờ về pháp huyễn ảo không sinh ra mà thấy là thật; pháp thế gian thì không như vậy, cho nên không phải không có.

Luận nói: Bởi vì loại trừ nghi ngờ này mà nói dụ về hơi nóng mặt trời để giải thích.

Luận nói: Lại như hơi nóng của mặt trời vào lúc lay động, thật sự không có nước mà sinh ra ảo giác có nước. Giải thích rằng: Có thể bởi vì sinh ra ảo giác có nước, tức là thật sự có nước; Khí thế gian lại cũng như vậy.

Luận nói: Sao không có nghĩa mà có sai biệt về thọ dụng yêu thích và không yêu thích? Giải thích rằng: Nước từ hơi nóng không có thọ dụng để giải trừ cơn khát; pháp thế gian thì không như vậy, mà vốn là thật sự có.

Luận nói: Bởi vì loại trừ nghi ngờ này mà nói dụ về giấc mộng để giải thích.

Luận nói: Lại như trong giấc mộng, ngủ say mà khởi lên tụ tâmtâm pháp, cuối cùng trở thành mê muội, tuy không có nghĩa về các loại cảnh như người nữ…, mà có thọ dụng cảnh giới yêu thích và không yêu thích, lúc tỉnh giấc cũng như vậy. Giải thích rằng: Có thể bởi vì trong giấc mộng có thấy thọ dụng thuận-nghịch như người nữ…, tức là thật sự có.

Lại nghi ngờ rằng: Thọ dụng trong giấc mộng, ở trong giấc mộng thì có, tỉnh giấc rồi thì không có; pháp thế gian thì không như vậy, phàm-Thánh đều thấy? Giải thích rằng: Như tiếng vang thì già trẻ đều nghe, có thể tức là có.

Luận nói: Sao không có nghĩa mà chuyển các loại ngôn thuyết hý luận? Bởi vì loại trừ nghi ngờ này mà nói dụ về tiếng vang trong hang trống để giải thích.

Luận nói: Lại như tiếng vang trong hang trống thật sự không có âm thanh, mà khiến cho người nghe tựa như nghe ở cảnh giới của nhiều loại ngôn thuyết; ngữ nghiệp đủ loại ngôn thuyết cũng như vậy.

Lại nghi ngờ rằng: Tiếng vang là Thanh chứ không phải Sắc; pháp thế gian thì không như vậy, Sắc cũng có đủ, vì sao không phải là có? Giải thích rằng: Như ánh chớp cũng là Sắc, lẽ nào là thật sự có hay sao? Luận không có thí dụ này.

Lại nghi ngờ rằng: Sắc của ánh chớp nhanh chóng diệt đi; pháp thế gian trải qua lâu dài, lẽ nào giống như ánh chớp hay sao? Giải thích rằng: Như hóa hiện cũng trải qua lâu dài, lẽ nào là thật sự có hay sao?

Lại nghi ngờ rằng: Phàm phu ngu si điên đảo vọng thấy cho là có, Bồ-tát không có trái ngược không thấy có điều ấy, làm sao cũng có thâu nhiếp giáo hóa chúng sinh? Giải thích rằng: Như hóa hiện đã làm ra cho nên không phải là thật sự có.

Luận nói: Sao không có nghĩa mà có các Bồ-tát có tâm không điên đảo? Bởi vì phân rõ các việc làm lợi ích yên vui cho hữu tình, cho nên suy nghĩa mà thọ sinh. Bởi vì loại trừ nghi ngờ này mà nói dụ về biến hóa để giải thích.

Luận nói: Lại như biến hóa, tuy không có thật sự mà có thể hóa hiện không có gì điên đảo, đối với sự việc đã hóa hiện thường xuyên làm ra công dụng; Bồ-tát cũng như vậy, như luận nên biết.

Lại nghi ngờ rằng: Đã làm ra như hóa hiện có thể không có thật sự, có thể làm ra hóa hiện là chỗ dựa của hóa hiện, lẽ ra là thật sự có?

Giải thích rằng: Như hư không làm chỗ dựa cho Sắc, lẽ nào là thật sự có hay sao? Vì vậy các pháp suy cho cùng là tánh trống rỗng.

Từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là kết luận về quan trọng, bởi vì chư Phật ba đời cùng thuyết giảng về điều này, là hiển bày về sự quan trọng thù thắng ấy.

Phần ba từ “Hà đẳng…” trở xuống là riêng biệt giải thích về nghĩa của mười Nhẫn, mỗi một Nhẫn đều có ba, đó là nhắc lại để phát khởi, giải thích về nghĩa, kết luận về tên gọi.

Thứ nhất: Âm thanh Nhẫn. Trong giải thích có mười câu: 1) Câu đầu là tổng quát nêu ra pháp đã nghe, đó là lý về ba Vô tánh, gọi là pháp chân thật. Chín câu sau là hiển bày về có thể nghe tiến vào pháp: 2) Nghe về Vô tướng chân thật mà không kinh sợ, bởi vì hiểu rõ Biến kế vốn không hề có. 3) Nghe về Vô sinh mà không sợ hãi, bởi vì hiểu rõ Y tha chắc chắn Vô sinh. 4) Nghe về Vô tánh mà không sợ hãi, bởi vì hiểu rõ tánh của Chân Như là Vô tánh. Lại giải thích: Đối với pháp Chân Không, lúc nghe mà không kinh ngạc, lúc suy nghĩ mà không sợ, lúc tu mà không sợ. Lại nghe về Hữu vốn không có gì mà không kinh ngạc, nghe về Không vốn không có gì mà không sợ, nghe về hai pháp này vốn không có gì mà không sợ, đều giải thích như các bản luận Bát Nhã. 5) Tín giải là bắt đầu của Văn tuệ, trước là Tín-sau là Giải. 6) Thọ trì là cuối cùng của Văn tuệ, trước là Thọ-sau là Trì. 7) Ái lạc là bắt đầu của Tư tuệ, nghĩa là yêu quý pháp-vui với quán. 8) Thuận theo tiến vào là cuối cùng của Tư tuệ, nghĩa là suy nghĩ chọn lựa đạt được ý vị, cho nên nói là thuận theo tiến vào. 9) Tu tập là bắt đầu của Tu tuệ, nghĩa là thành tựu tu tập đối với duyên. 10) An trú là cuối cùng của Tu tuệ, nghĩa là thành lập công hạnh tu tập. Giải thích đầy đủ như Bồ-tát Địa trong luận Du Già.

Thứ hai: Thuận Nhẫn. Trong giải thích có bốn cặp-tám câu: 1) Bắt đầu tu Chỉ Quán, nghĩa là thực hành về Chỉ thuận với vắng lặng, thực hành về Quán soi chiếu các pháp. 2) Chỉ và Quán theo thứ tự, nghĩa là chánh niệm bình đẳng thì thực hành kiên cố về Chỉ, không trái với các pháp thì thực hành về Quán soi chiếu tùy duyên. 3) Chỉ và Quán thuần thục, nghĩa là tùy thuận tiến sâu vào cùng thực hành sâu xa huyền diệu về Chỉ, tâm thanh tịnh thẳng thắn cùng thực hành sâu xa huyền diệu về Quán. 4) Chỉ và Quán cùng thực hành, nghĩa là Quán ngay nơi Chỉ gọi là Quán bình đẳng, Chỉ ngay nơi Quán gọi là tiến sâu vào đầy đủ. Luận Khởi Tín nói: “Đi-đứng-ngồi-nằm đều thuận theo Chỉ và Quán cùng thực hành, đó gọi là tuy nghĩ đến tự tánh của các pháp không sinh, mà lại vẫn nghĩ đến nhân duyên hòa hợp không mất đikhông làm hỏng Báo khổ-vui… thuộc nghiệp của thiện-ác; tuy nghĩ đến nhân duyên-thiện ác-nghiệp báo, mà cũng vẫn nghĩ đến tánh không thể đạt được.” Giải thích rằng: Dựa theo pháp thì Lý và Sự đã hòa hợp với nhau, dựa theo hành thì Chỉ và Quán cùng vận dụng, như vậy mới là Nhẫn thuận theo pháp.

Thứ ba: Vô sinh Nhẫn. Trong giải thích: Trước là nêu ra; sau từ “Hà dĩ…” trở xuống là giải thích.

Trong phần trước: Không thấy pháp sinh, tất nhiên không cần phải diệt, vốn là sự duyên khởi, cũng không thấy diệt. Lại lý Vô sinh này không phải là đoạn diệt không có, cho nên nói là không diệt. Lại đã vốn không sinh cho nên không có gì đáng diệt.

Trong phần sau là giải thích: Trước là nêu ra có hai ý: Một, Đã nêu ra Vô sinh, vì sao cũng nói là Vô diệt? Hai, Đã nói Vô sinh, là chỉ vắng lặng Vô sinh, hay là cũng có quả thuộc phần vị-hạnh nguyện…?

Sau là trong giải thích có mười câu:

1. Một câu đầu là giải thích về ý thứ nhất, có thể biết.

Hỏi: Nếu như vậy thì cũng có thể gọi là Vô diệt Nhẫn hay không?

Đáp: Lý cũng có thể thích hợp, nhưng Vô sinh thì chắc chắn kèm theo Vô diệt, Vô diệt chắc chắn tùy theo Vô sinh, vì vậy phần nhiều nêu ra tên gọi đầu tiên.

Trong kinh Tín Lực Nhập Ấn nói: “Bồ-tát có năm loại pháp, tức là có thể thanh tịnh của Hoan Hỷ Địa thứ nhất. Những gì là năm? Một là Bồ-tát có thể trú vào Vô sinh Nhẫn, cũng khiến cho người khác trú vào. Lại nói Vô sinh Nhẫn, là bởi vì tịch diệt. Hai là Bồ-tát có thể trú vào Vô diệt Nhẫn, cũng khiến cho người khác trú vào. Lại nói Vô diệt Nhẫn, là bởi vì chứng pháp Vô sinh.” Giải thích rằng: Vì vậy nên biết, cũng có thể gọi là Vô diệt Nhẫn.

2. Từ “Nhược bất diệt…” trở xuống là giải thích về ý thứ hai, đó là do không sinh cho nên không diệt, do không sinh-không diệt này cho nên vô tận, vì vậy vô tận này cũng ở trong không sinh, cho đến trang nghiêm cũng đều như vậy, đều ở nơi một niệm Vô sinh. Vô tận có hai nghĩa: a) Lý không có giới hạn tận cùng; b) Hạnh không có gián đoạn tận cùng.

3. Lìa xa cấu nhiễm cũng có hai nghĩa: a) Tiến vào Lý mà không kèm theo vắng lặng; b) Tùy theo Sự mà luôn luôn vô niệm.

4. Không hủy hoại cũng có hai nghĩa, đó là tiến vào Lý mà không hủy hoại Sự, tùy theo Sự mà không hủy hoại Lý.

5. Không lay động cũng có hai nghĩa, đó là cùng dung hòa hai Đế, một niệm không lay động.

6. Tịch diệt địa cũng có hai, bởi vì bao gồm cảnh giới và hiện hành(cảnh hành).

7. Lìa xa dục cũng có hai, bởi vì lìa xa chủng tử và hiện hành (chủng hiện).

8. Vô hành cũng có hai, bởi vì đoạn trừ chủ động và thụ động(năng sở).

9. Đại nguyện cũng có hai, nghĩa là nguyện không chìm trong vắng lặng, nguyện có thể ứng với căn cơ.

10. Trú trang nghiêm cũng có hai, nghĩa là Lý và Hạnh trang nghiêm lẫn nhau mới là cứu cánh.

Thứ tư: Như huyễn Nhẫn. Trong giải thích đưa ra sáu môn:

1. Tổng quát trình bày về những thí dụ. Nhiếp Luận nói về huyễn ảo dụ cho sáu Xứ đã duyên vào, phẩm Ly Thế Gian sau này dụ cho Thức uẩn, kinh Mật Nghiêm dụ cho Thức thứ tám, luận Bát Nhã dụ cho Khí thế gian bên ngoài, kinh này tổng quát dụ cho y-chánh nhiễm tịnh… của thế gian-xuất thế gian, trong kinh Lăng Già dụ cho tất cả các pháp, luận Chưởng Trân chỉ dụ cho pháp hữu vi, trong Đại Phẩm nói: “Thậm chí một pháp nào vượt qua Niết-bàn, thì Ta cũng nói rằng như huyễnnhư mộng.” Vì vậy biết văn bao gồm hữu vi và vô vi.

Hỏi: Niết-bàn vô vi sao có thể như huyễn?

Đáp: Ý ở đoạn tuyệt cái thấy cho nên cũng như huyễn, nghĩa là có-không có… vốn là thấy mà không phải thấy huyễn ảo, nếu thấy là huyễn ảo thì cũng không phải thấy huyễn ảo, thấy huyễn ảo nếu đoạn tuyệt thì mới là thấy huyễn ảo, huống hồ có cái thấy khác? Vì vậy huyễn ảo của không phải huyễn ảo mới là pháp huyễn ảo, cái thấy của đoạn tuyệt cái thấy mới là thấy huyễn ảo, chọn lấy ý để suy nghĩ, ngôn ngữ bàn luận khó mà đạt tới.

2. Môn tách biệt về nghĩa, như một con thỏ huyễn ảo có năm nghĩa: Một, Cái khăn làm chỗ dựa; Hai, Phương pháp kỹ thuật của nhà ảo thuật; Ba, Con thỏ huyễn ảo đã thấy; Bốn, Con thỏ sống tức là chết; Năm, Phàm ngu Tiểu thừa cho là có. Trong đó: Một, cái khăn là dụ cho Như Lai Tạng làm chỗ dựa; hai, nhà ảo thuật và phương pháp kỹ thuật là dụ cho nhân duyên có thể khởi lên, như Vô minh…; ba, tướng của con thỏ huyễn ảo là dụ cho tánh của Y tha khởi; bốn, con thỏ tồn tại thì chết là dụ cho Y tha không có tánh; năm, phàm ngu Tiểu thừa cho là có, giữ lấy làm nhân-pháp.

Hỏi: Phương pháp kỹ thuật trở thành huyễn ảo, không phải là huyễn ảo, nếu như vậy thì pháp của quả là huyễn ảo, nhân duyên không phải huyễn ảo?

Đáp: Nhân duyên cũng là Y tha, lần lượt chuyển tiếp đều là huyễn ảo.

Hỏi: Nếu như vậy thì nhà ảo thuật cũng phải là huyễn ảo làm ra?

Đáp: Trong này nêu ra huyễn ảo đã dấy lên để dụ cho tất cả, không phải nói là vẫn giống nhau. Nếu không như vậy thì dụ tức là pháp, sao trở thành ví dụ so sánh? Luận Thập Dụ dẫn ra kinh Nữ Đức: “Đức Phật dạy: Từ nhạc khí huyễn ảo tấu lên nhạc âm huyễn ảo, từ Vô minh huyễn ảo sinh ra Hành huyễn ảo…” Rộng ra như luận ấy nói.

3. Trong môn có-không có, có ba lớp: Một, Đối với bốn nghĩa trên đều có nghĩa về có-không có: a) Cái khăn có tánh mà không có tướng, bởi vì làm cho con thỏ ẩn kín; b) Kỹ thuật có Dụng mà không có Thể, bởi vì dựa vào cái khăn cho nên không có Thể; c) Con thỏ có tướng mà không có Thật, bởi vì thật sự không có mà hiện rõ ra; d) Sống tức là không có, chết tức là có, bởi vì vô ngại làm thành một. Hai, Bởi vì đều có bốn câu, tư duy có thể biết. Ba, Bốn phần vị trái ngược lẫn nhau, như môn đan xen với nhau dưới đây có bốn câu, cũng tư duy có thể biết.

4. Môn một-khác cũng có ba lớp:

Một: Cái khăn dựa theo phần vị của mình mà phân rõ, như cái khăn có hai nghĩa: a) Nghĩa trú vào phần vị của mình; b) Nghĩa nêu ra Thể trở thành con thỏ. Hai nghĩa này không có hai, không có không hai cho nên không phải một-khác…, bốn câu có thể biết. Ba phần vị còn lại đều có bốn câu, cũng dựa theo có thể biết.

Hai: Trái ngược nhau phân rõ như con thỏ, cũng có hai nghĩa: a) Tướng sai biệt; b) Nghĩa về Thể trống rỗng. Con thỏ và cái khăn này trái ngược nhau không phải một-không phải khác, sơ lược có mười câu:

1) Bởi vì nghĩa về làm thành con thỏ trên cái khăn cùng với nghĩa về tướng sai biệt trên con thỏ, hai nghĩa này hợp lại làm một phạm vi cho nên gọi là không khác. Đây là dùng gốc thuận theo ngọn, dựa vào ngọn trình bày về không khác. Kinh nói: “Pháp thân lưu chuyển trong năm nẽo gọi là chúng sinh…” Kinh Lăng Già nói: “Như Lai Tạng nhận chịu khổ-vui, đi cùng với nhân như sinh-như diệt…”

2) Bởi vì nghĩa về trú vào phần vị của mình trên khăn cùng với nghĩa về Thể trống rỗng trên con thỏ, hợp lại làm một phạm vi cho nên gọi là không khác. Đây là dùng ngọn đưa về gốc, dựa vào gốc trình bày về không khác. Kinh nói: “Tất cả chúng sinh là Như, không còn trở lại diệt…”

3) Bởi vì thâu nhiếp ngọn mà đưa về gốc cùng với thâu nhiếp gốc mà thuận theo ngọn, hai loại này cùng dung hòa vô ngại không khác. Đây là gốc và ngọn bình đẳng cho nên gọi là không khác. Bởi vì văn hai kinh trước không tách rời nhau.

4) Bởi vì ngọn đã thâu nhiếp đưa về gốc cũng cùng với gốc đã thâu nhiếp thuận theo ngọn, hai nghĩa này làm mất lẫn nhau cho nên gọi là không khác. Đây là gốc và ngọn cùng phai mờ trình bày về không khác, bởi vì Chân và Vọng bình đẳng, khác nhau thì không thể đạt được.

5) Dưới đây là trình bày về không phải một, bởi vì nghĩa về trú vào phần vị của mình trên cái khăn cùng với nghĩa về tướng sai biệt trên con thỏ. Đây là hai nghĩa về gốc và ngọn trái ngược nhau-rời xa nhau cho nên gọi là không phải một. Kinh Lăng Già nói: “Như Lai Tạng không ở trong Thức A-lại-da, vì vậy bảy Thức có sinh-có diệt.” Như Lai Tạng không sinh-không diệt, là nói đến nghĩa này.

6) Bởi vì nghĩa về làm thành con thỏ trên cái khăn cùng với nghĩa về Thể trống rỗng trên con thỏ. Đây là hai nghĩa về gốc và ngọn trái ngược nhau-làm hại nhau cho nên gọi là không phải một. Kinh Thắng Man nói: “Bảy Thức không lưu chuyển, không nhận chịu khổ-vui, không phải nhân của Niết-bàn, chỉ có Như Lai Tạng nhận chịu khổ-vui…”

7) Bởi vì bắt đầu là trái ngược nhau và tiếp đến làm hại nhau, hai nghĩa này khác nhau cho nên gọi là không phải một, nghĩa là rời bỏ nhau thì đều tách rời nhau-cách xa với nhau, làm hại nhau thì đối địch với nhau-tự mình làm hại lẫn nhau, vì vậy gần-xa không phải một. Bởi vì văn kinh trước không tách rời nhau.

8) Bởi vì cuối cùng làm hại nhau đều phai mờ mà không phai mờ, bởi vì cuối cùng rời bỏ nhau đều tồn tại mà không tồn tại, nghĩa về không tồn tại-không phai mờ là không phải một. Đây là Thành-Hoại không phải một, bởi vì bảy Thức là trống rỗng mà vốn là có, Chân Như là ẩn kín mà vốn là hiển bày.

9) Bốn nghĩa về không phải một trên đây cùng với bốn nghĩa về không phải khác, mà cũng không phải một, bởi vì nghĩa không xen tạp.

10) Nhưng cũng không khác nhau, bởi vì lý bao gồm tất cả, bởi vì pháp không hai. Vì vậy, nếu dùng môn không khác nhau mà chọn lấy các môn thì cuối cùng hòa hợp với nhau, nếu dùng môn không phải một mà chọn lấy các môn thì cuối cùng làm hại lẫn nhau. Cuối cùng làm hại lẫn nhau mà cuối cùng hòa hợp với nhau, là pháp không có gì chướng ngại.

Ba: Cái khăn và con thỏ trái ngược nhau đã như vậy, hai nghĩa còn lại và các câu đan xen với nhau, dựa theo có thể biết.

5. Môn ngay trong nhau-hòa vào nhau(Tức-Nhập), có năm môn:

Một: Lý và Sự ngay trong nhau, nghĩa là cái khăn và con thỏ vốn không hai; kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc…”

Hai: Hai lý ngay trong nhau, nghĩa là đầu con thỏ tức là cái khăn, chân con thỏ cũng tức là cái khăn, hai cái khăn không sai khác cho nên gọi là ngay trong nhau; kinh nói: “Chúng sinh và Hiền Thánh tức là Như mà không sai khác.”

Ba: Dùng Lý thuận theo Sự gọi là nói Sự ngay trong nhau, như cái khăn làm đầu con thỏ không khác cái khăn làm chân con thỏ, cho nên nói đầu con thỏ tức là chân con thỏ. Kinh Vô Hành nói: “Nếu người nào muốn thành Phật thì đừng hủy hoại đối với tham dục, các pháp ngay nơi tham dục, nhận biết thì lập tức thành Phật.” Giải thích rằng: Nên nói các pháp tức là Không, vì sao lại nói là tham dục, là bởi vì tham dục tức là Không, cho nên nêu ra tên gọi của tham chọn lấy tham thật sự, ý văn là như vậy.

Bốn: Dùng Lý dung hòa Sự, hai Sự ngay trong nhau, như đầu con thỏ không có riêng biệt, tức là lấy cái khăn làm đầu, Thể của cái khăn vốn viên dung, toàn bộ cái đầu tức là chân. Kinh này nói: Một tức là nhiều, nhiều tức là một… Lại văn này nói: Tiến sâu vào như huyễn, ở trong một pháp hiểu rõ rất nhiều pháp… Đây là dựa theo sức mạnh dung thông của pháp tánh.

Năm: Bởi vì lực dựa vào nhau của duyên khởi khiến cho hai Sự cũng ngay trong nhau, như lực của phép thuật huyễn ảo và nhà ảo thuật mà làm cho nhiều trở thành một, một trở thành nhiều… Phẩm Hiền Thủ nói: “Hoặc là hiện rõ trong chốc lát làm thành trăm năm, lự huyễn ảo tự tại làm vui lòng thế gian…, bởi vì pháp huyễn ảo rỗng rang không có chướng ngại, cho nên đạt được tự tại.” Như ngay trong nhau đã như vậy, hòa vào nhau cũng như vậy; như Thể khác nhau đã như vậy, Thể giống nhau cũng như vậy; như môn này đã như vậy, những môn khác cũng như vậy, đều suy nghĩ có thể biết.

6. Giải thích văn. Trong giải thích có ba: Trước là tóm lược, tiếp là mở rộng, sau là thành tựu về hành của Nhẫn.

Trong phần trước: Đầu là Dụ, sau là Quán, từ “Duyên khởi…” trở xuống là Pháp-Hợp. Đây là dựa vào môn hòa vào nhau để kết hợp về duyên khởi như huyễn ảo, có thể biết.

Trong phần tiếp từ “Bồ-tát…” trở xuống là mở rộng có ba, đó là Pháp-Dụ và Hợp.

Trong Pháp có bảy câu: 1) Phân biệt về cõi; 2) Hiểu về chúng sinh giới; 3-Hiểu về pháp giới duyên khởi; 4) Quán sát thế gian bình đẳng; 5) Phật xuất thế gian cũng như huyễn; 6) Phật nhập thế gian mà Dụng thường vắng lặng cho nên nói Nhập không hai; 7) Không mất đi lợi ích chúng sinh cho nên nói là sinh ra trú trì.

Trong Dụ: 1) Dụ về chúng sinh giới phía trên; 2) Từ “Phi thọ…” trở xuống là dụ về cõi…; 3) Từ “Phi trú…” trở xuống là dụ về thế gian; 4) Từ “Phi định…” trở xuống là bao gồm dụ về những môn khác; 5) Từ “Chủng chủng…” trở xuống là kết luận về Thể của pháp huyễn ảo, nghĩa là các loại không phải huyễn ảo là kết luận về huyễn ảo không có, bao nhiêu huyễn ảo không phải các loại là kết luận về bấy nhiêu không phải huyễn ảo, vì vậy Thể của huyễn ảo không phải là tất cả. Nhưng bởi vì huyễn ảo cho nên nêu rõ các sắc, là đã không phải vật mà hiện rõ vật, rõ ràng vật là vật mà không có vật.

Trong Hợp: 1) Tổng quát. 2) Từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về chín loại, bởi vì hiển bày tất cả thế gian trong tổng quát, có thể biết.

Trong phần sau từ “Bồ-tát…” trở xuống là thành tựu hành của Nhẫn, có hai: Một, Chánh quán phù hợp với pháp; Hai, Từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về khởi lên nghiệp dụng.

Trong phần một có tám: 1) Dựa theo chúng sinh giới, tức là nghiệp-phiền não thế gian, không khởi lên là không dấy lên có hiểu biết, không hủy hoại là không dấy lên không có hiểu biết; lại từ xưa đến nay không khởi lên cũng không có gì đáng hủy hoại, sau đều dựa theo đây. 2) Dựa theo cõi Phật thế gian. 3) Dựa theo pháp thế gian. 4) Dựa theo ba đời thế gian. 5) Không quán sát Bồ-đề… cũng dựa theo pháp thế gian. 6) Phật xuất thế… là dựa theo thế gian Thành-Hoại, nghĩa là Phật xuất thế là Thành, nhập Niết-bàn gọi là Hoại. 7) Không trú vào Đại nguyện… là dựa theo hành thế gian, nghĩa là không trú vào Đại nguyện là hạnh thuộc Đại Trí, không giữ lấy thanh tịnh… là hạnh thuộc Đại Bi. 8) Không có vượt ra-không có đắm vào là dựa theo thế gian lưu chuyển, nghĩa là không rời bỏ cho nên không vượt ra, ở trong đó mà không đắm vào.

Trong phần hai từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về nghiệp: 1) Dựa theo cõi để hiển bày về Dụng, mà chắc chắn nhận biết về Thể là Chân. 2) Dựa theo chúng sinh giới. 3) Pháp giới. 4) Ba đời thế gian. 5) Sinh ra Ấm… là trình bày về thế gian lưu chuyển, Dụng mà luôn luôn vắng lặng. 6) Độ thoát… là trình bày về Dụng của hành thế gian. 7) Nhận biết tất cả… là trình bày về Dụng của pháp thế gian. 8) Không đắm vào giáo hóa… 9) Bởi vì chúng sinh… 10) Nói về quá khứ… đều là trình bày về Dụng của Phật xuất thế, đều vốn là hạnh thuộc về Lý-Sự vô ngại.

Thứ năm: Như viêm Nhẫn. Trong giải thích có bốn:

Một: Tổng quát trình bày về những thí dụ, trong Nhiếp Luận của Vô Tánh dụ cho Khí thế gian, Lương Luận dụ cho cảnh đã duyên vào, kinh này ở văn sau dụ cho Tưởng uẩn, văn này dụ cho tất cả các pháp.

Hai: Nghĩa tách biệt, hơi nóng có năm nghĩa: 1) Mặt đất bằng phẳng; 2) Hơi nóng mặt trời; 3) Hơi nóng mặt trời cùng với mặt đất hợp lại, hiện rõ hơi nóng tựa như nước; 4) Từ trước đến nay khô khan không có nước; ) Khiến cho Nai khát nước ấy giữ lấy cho là nước. Trong pháp cũng như vậy: 1) Như Lai Tạng là mặt đất bằng phẳng; 2) Tập khí Vô minh xông ướp; 3) Tập khí xông ướp khuấy động biển tâm, dấy lên duyên khởi dựa vào pháp; 4) Y tha khởi này từ trước đến nay không có sinh; ) Phàm ngu Tiểu thừa không hiểu biết mà chấp làm thật có.

Lại trong luận Thập Dụ có bảy nghĩa: “1) Ánh sáng mặt trời; 2) Gió làm nóng lên; 3) Bụi chuyển động; 4) Nơi cánh đồng bát ngát; ) Trông thấy ngựa hoang; 6) Từ xa thấy tướng hơi nóng tưởng tượng cho là nước; 7) Đến gần thì không có nước.” Một là mặt trời dụ cho Kiết sử; hai là bụi bặm dụ cho các hành; ba là làn gió dụ cho ức niệm tà vạy; bốn là dụ cho cánh đồng bát ngát của Vô minh; năm là dụ cho người không có trí tuệ, nói là một tướng vì nam-vì nữ làm tên gọi khác nhau là hơi nóng; sáu là nếu cách xa Thánh pháp thì không nhận biết về Vô ngã, ở trong pháp trống rỗng sinh ra tưởng như nam-nữ… bảy là nếu gần với Thánh pháp thì nhận biết về Thật tướng của các pháp… cho đến nói rộng ra.

Ba: Những câu về có-không có… phần nhiều giống như huyễn ảo trước đây, dựa theo suy nghĩ có thể hiểu.

Bốn: Trong giải thích văn: 1) Pháp; 2) Dụ; 3) Từ “Bồ-tát…” trở xuống là Hợp, nghĩa là dựa vào tâm vốn có hiện rõ không có phương hướng xứ sở, cầu pháp này ở những nơi như trong và ngoài, có và không có, Đoạn và Thường… đều không thể đạt được.

Trong phần hai từ “Quán nhất thiết…” trở xuống là thành tựu về hành của Nhẫn: a) Thành tựu về hành phương tiện; b) Từ “Cụ túc…” trở xuống là thành tựu về hành của Chứng, có thể biết.

Thứ sáu: Như mộng Nhẫn. Trong giải thích đưa ra tám môn:

Một: Tổng quát trình bày về thí dụ: Nhiếp Luận của Vô Tánh nói: “Lại như trong giấc mộng, ngủ say mà khởi lên tụ tâm-tâm pháp, cuối cùng trở thành mê muội, tuy không có nghĩa về các loại cảnh như người nữ…, mà có thọ dụng cảnh giới yêu thích và không yêu thích, lúc tỉnh giấc cũng như vậy.” Lương Luận nói: “Ví như trong giấc mộng không có cảnh trần thật sự, mà cũng thấy có thọ dụng yêu-ghét; trong tánh Y tha này cũng như vậy, không có cảnh trần thật sự, mà cũng thấy có thọ dụng yêu-ghét.” Lại luận Công Đức Thí Bát Nhã nói: “Ví như trong giấc mộng, tùy theo thấy nghe trước kia phân biệt nhớ lại, huân tập mà trú vào, tuy không có tạo tác mà các loại cảnh giới rõ ràng hiện bày trước mắt; như vậy chúng sinh từ vô thỉ đến nay có các phiền nãonghiệp thiện bất thiện huân tập mà trú vào, tuy không có Ngã là chủ động tạo tác mà hiện rõ sự việc như sinh tử không bờ bến…” Trong luận Bát Nhã của Thế Thân-Vô Trước đều dụ cho cảnh quá khứ không phải chứng trí mà nhận biết.

Hai: Nghĩa tách biệt: Giấc mộng có năm nghĩa: 1) Chỗ dựa, đó là tâm hiểu rõ để dụ cho Bổn thức. 2) Nguyên nhân, đó là ngủ say để dụ cho tập khí Vô minh. 3) Hiện rõ ra, đó là dựa vào trước đây để hiển bày rõ ràng về tướng sai biệt của giấc mộng, để dụ cho duyên đã khởi lên pháp. 4) Sự việc trong giấc mộng này không có mà có. 5) Khiến cho người nằm mộng chọn lấy cho là có thật.

Ba: Phân rõ về có và không có: Có bốn câu:

1. Giấc mộng là nghĩa về có bởi vì là mộng, nghĩa là ở trong giấc mộng thì mộng thấy sự việc hiện bày rõ ràng.

Hỏi: Đây đã là giấc mộng, sao có thể là có? Vả lại, điều này nếu là có giấc mộng thì thấy có lẽ ra không phải điên đảo, không phải điên đảo cho nên là tỉnh chứ không phải mộng; lại lúc tỉnh thì thấy giấc mộng không hề có gì, lẽ ra là điên đảo, là điên đảo cho nên là mộng chứ không phải tỉnh?

Đáp: Đây đã là giấc mộng, sao có thể không có, nếu như không có thì lẽ ra giống như không phải giấc mộng, cuối cùng nói ở đâu? Lại nếu không có giấc mộng này mà thấy có, thì không có điên đảo, không có điên đảo cho nên là thức chứ không phải mộng. Lại giấc mộng này có vốn là ở lúc mộng, chứ không nói là ở lúc tỉnh. Nếu không có lúc tỉnh thì thấy không hề có gì, mà không phải điên đảo, điên đảo thì không có. Mộng là do thấy điên đảo mà sự việc hiển bày rõ ràng trong mộng.

Vì vậy nhờ vào thấy giấc mộng ấy không có mới biết là có giấc mộng này.

2. Giấc mộng là nghĩa về không có bởi vì là giấc mộng, nghĩa là do hư vọng mà thấy thì tánh nhất định phải trống rỗng.

Hỏi: Nếu giấc mộng là không có thì lẽ ra giống như không phải giấc mộng, nghĩa về giấc mộng lẽ nào tồn tại?

Đáp: Cần phải giống như không phải giấc mộng thì mới là giấc mộng, bởi vì ở nơi mộng và ở nơi không phải mộng, vốn không có hai tướng.

Hỏi: Nếu như vậy thì giấc mộng sao không ở nơi không phải mộng mà thấy tướng của giấc mộng?

Đáp: Mộng là ngay bây giờ thấy ở nơi không có, vì vậy Thể của mộng này không khác với không có, nếu không như vậy thì lẽ ra không phải là mộng.

Hỏi: Mộng nếu như là không có, thì mộng lẽ ra không thấy có, không thấy có cho nên là tỉnh chứ không phải mộng?

Đáp: Chính là do mộng mà thấy có, có không phải là có, bởi vì mộng và điều đã thấy đều không hề có gì, vì vậy nếu không phải mộng mà thấy có thì không thể nào nói là không có, nhờ vào có mộng ấy cho nên mới biết là không có.

Hỏi: Hễ nói đến pháp mộng thì tướng có mà thật sự không có, nay nói toàn bộ không có thì lẽ nào không trở thành bài báng?

Đáp: Nhưng có và không có này nhất định phải thâu nhiếp toàn bộ, bởi vì không phải hai tướng, nếu không như vậy thì bài báng đối với mộng.

3. Giấc mộng là nghĩa về cũng có-cũng không có, bởi vì là mộng, mà pháp mộng thì lý nhất định phải có đủ hai nghĩa.

Hỏi: Có đủ hai nghĩa này thì lẽ nào không trái ngược nhau, pháp trái ngược nhau thì lẽ nào không bài bang đối với mộng hay sao?

Đáp: Nửa có-nửa không có tức là trái ngược nhau, nay ở đây hoàn toàn không có của có, và hoàn toàn có của không có, hai môn cùng tồn tại mà không trái ngược nhau. Vì vậy đầy đủ có và không có thì mới chính là mộng, bởi vì là mộng cho nên không trái ngược nhau.

4. Giấc mộng là nghĩa về không phải có-không phải không có, bởi vì là mộng, hai nghĩa cùng dung hòa so sánh làm mất đi, cả hai không còn cho nên đều không phải.

Hỏi: Nếu hai nghĩa này cần phải so sánh làm mất lẫn nhau, thì vì sao trước đây nói hai nghĩa cùng tồn tại?

Đáp: Cần phải nhờ vào so sánh làm mất đi thì mới có thể cùng tồn tại. Vì vậy nếu không làm mất đi không có đến tận cùng, thì không thể là không có; nếu không làm mất đi có đến tận cùng, thì không thể là có. Vì vậy tồn tại và mất đi không ngăn ngại, cùng phai mờ tự tại mới là pháp mộng. Vì vậy kinh nói: Thế gian giống như giấc mộng, trí không đạt được có-không. Chính là nói đến nghĩa này.

Bốn: Một và khác, có hai lớp: Trong lớp thứ nhất có bốn câu: 1) Giấc mộng là một, bởi vì là một giấc mộng; 2) Giấc mộng là khác, bởi vì giấc mộng hiện bày đủ loại; 3) Giấc mộng cũng một-cũng khác, bởi vì ở trong một niệm hiện rõ nhiều kiếp… cho nên không hai mà hai; 4) Giấc mộng không phải một-không phải khác, bởi vì so sánh làm mất đi, cả hai không còn thì mới là mộng. Trong lớp thứ hai có bốn câu: 1) Giấc mộng là một, bởi vì dựa theo tâm làm chỗ dựa; 2) Giấc mộng là khác, bởi vì dựa theo ngủ say mà hiện rõ ra; 3) Giấc mộng cũng một-cũng khác, bởi vì dựa theo tướng của giấc mộng đã hiện rõ; 4) Giấc mộng không phải một-không phải khác, bởi vì dựa theo tánh của giấc mộng. Dung thông vô ngại, suy nghĩ có thể thấy. Vì vậy môn có và không có trước đây ở nơi không có làm có, trong môn một-khác này ở một nơi làm nhiều, như vậy vô ngại thì mới là pháp mộng. Vì vậy trong kinh nói: Dùng pháp môn tự tại về mộng để giáo hóa. Chính là nói đến nghĩa này.

Năm: Chân và Vọng, cũng có bốn câu:

1. Giấc mộng là chân thật bởi vì là mộng, vốn đầy đủ các nghĩa như trước đây đã nói, do Thánh trí mà nhận biết về tánh của mộng rất sâu xa.

Hỏi: Nói đến mộng là pháp hư vọng, sao có thể nhất định nói là chân thật?

Đáp: Nhận biết rõ ràng đây là pháp hư vọng, bởi vì không điên đảo cho nên là thật.

2. Giấc mộng là hư vọng, bởi vì là mộng; nếu không phải hư vọng thì không phải là mộng. Vì vậy, cũng chân thật-cũng hư vọng, không phải chân thật-không phải hư vọng, bốn câu vô ngại suy nghĩa có thể thấy. Kinh này nói: Tánh của mộng là vắng lặng. Chính là nói đến nghĩa này.

Sáu: Tự tại, cảnh hư vọng của mộng ngay trong nhau-hòa vào nhau, nơi nhiều hiện bày ít, nơi ít hiện bày nhiều, đều không có gì chướng ngại. Vì vậy văn trước nói: Dùng pháp môn tự tại về mộng để giáo hóa. Chính là nói đến nghĩa này.

Nhiếp luận nói: “Ở nơi mộng nói là trải qua năm dài, lúc tỉnh thì chỉ trong khoảnh khắc. Vì vậy thời gian tuy vô lượng mà thâu nhiếp ở một sát-na, duyên khởi của pháp mộng vô ngại tự tại, ngay trong nhauhòa vào nhau trùng trùng như Đế võng…” Đều dựa theo có thể biết.

Bảy: Trình bày về quán, nghĩa là quán sát các thế gian thảy đều như mộng, lấy làm Chánh quán.

Hỏi: Nếu người ở trong giấc mộng, thì nói là thật bởi vì không biết là mộng, không gọi là thấy giấc mộng; nếu người tỉnh giấc mộng thì không có tướng của giấc mộng, lại không có gì thấy, vì vậy giấc mộng này ai có thể thấy?

Đáp: Người trong giấc mộng không thấy giấc mộng, bởi vì đó là giấc mộng; người tỉnh giấc không thấy giấc mộng, bởi vì đã tỉnh giấc thì không có vật gì, nhận biết rõ ràng như vậy, vốn là người tỉnh giấc. Vì vậy nghĩa của giấc mộng là do người tỉnh giấc mà nhận biết, chứ không phải người đang trong giấc mộng. Bởi vì đạo lý này, cho nên giấc mộng là cảnh của quán sát. Kinh nói: Bồ-tát thọ trì tất cả các pháp như mộng. Chính là nói đến nghĩa này.

Hỏi: Người tỉnh giấc thấy không có mà nhận biết rõ ràng giấc mộng, người trong giấc mộng thấy có cũng nhận biết rõ ràng hay không?

Đáp: Nếu người tỉnh giấc này nhận biết rõ ràng về pháp mộng, lúc đang trong giấc mộng không có, thì gọi là nhận biết giấc mộng. Nếu nói tỉnh giấc rồi là không có, đây là tỉnh giấc không có chứ không phải là giấc mộng không có, thì không gọi là hiểu biết về giấc mộng. Vì vậy giấc mộng có-giấc mộng không có, chỉ là lúc trong giấc mộng, không phải là ở lúc tỉnh giấc. Nếu chọn lấy tỉnh giấc rồi là không có, thì đây trở lại là trong giấc mộng, không gọi là tỉnh giấc. Vì vậy trước-sau mộng và tỉnh, nói có-nói không có đều không hiểu biết về giấc mộng, suy nghĩ có thể thấy.

Tám: Trong giải thích văn, cũng có ba: Một, Một câu tổng quát nêu ra; Hai, Từ “Thí dụ…” trở xuống là riêng biệt phân rõ; Ba, Từ “Giác ngộ…” trở xuống là kết luận về nghĩa.

Trong phần một: Tất cả thế gian, nghĩa là pháp duyên khởi nhiễmtịnh do Thức hỗn loạn mà hiện bày, cho nên nói là như mộng.

Trong phần hai là riêng biệt phân rõ, có hai: 1) Nêu ra dụ; 2) Từ “Như thị…” trở xuống là hiển bày về pháp. Lại giải thích: Cũng có thể một là quán về phương tiện cho nên nói là hiểu rõ tất cả thế gian… hai là quán về chân thật cho nên nói là giác ngộ tất cả thế gian…

Trong phần một cũng có hai: a) Trình bày về mộng có là không phải có; b) Trình bày về không phải có mà hiện rõ có.

Trong phần a có năm cặp: 1) Không phải là pháp thế gian-xuất thế gian; 2) Không phải ba cõi là dựa theo Y báo; 3) Không phải sinh tử là dựa theo Chánh báo; 4) Không phải tịnh-uế là dựa theo nhân của thế gian-xuất thế gian; ) Không phải đục-trong là dựa theo quả của thế gian-xuất thế gian. Đều là thật không phải pháp ấy mà thị hiện pháp ấy, chính là pháp mộng.

Trong phần hai là hiển bày về pháp quán chân thật, có tám câu: 1) Tổng quát hiển bày. 2) Không hủy hoại mộng, là trình bày về tự tánh của pháp mộng này không phải tất cả, cho nên không cần hủy hoại; lại bởi vì không có thể hủy hoại; lại pháp này hiển bày không phải là thế gian cho nên không bị bốn tướng làm cho hủy hoại. 3) Không đắm vào mộng, là hiểu biết về mộng do duyên khởi cho nên lìa xa không có gì đắm vào, pháp này hiển bày không phải là lìa xa pháp thế gian cho nên không thể nào chứng được. 4) Tánh của mộng vắng lặng, là trình bày về pháp này từ xưa đến nay tự tánh vắng lặng, hiển bày vốn không phải pháp làm náo động ba cõi. ) Mộng không có tự tánh, là trình bày về Vô tánh này không phải sinh-không phải diệt, hiển bày về không phải sinh-không phải tử trước đây. 6) Thọ trì tất cả… là kết luận về tướng của quán thành tựu, nghĩa là thường xuyên dấy lên hiểu biết này, không lìa xa tâm đầu tiên, cho nên nói là thọ trì… 7) Không hủy hoại mộng, là bởi vì không giữ lấy-không rời bỏ mộng, hiển bày không phải tịnh-uế trước đây, bởi vì không phải rời bỏ uế mà giữ lấy tịnh. 8) Không giữ lấy hư vọng, là bởi vì không phân biệt, hiển bày không phải đục-trong trước đây. Một câu sau cuối là kết luận về nghĩa… có thể biết.

Thứ bảy: Như hưởng Nhẫn. Trong giải thích đưa ra bốn môn:

Một: Tướng của Dụ: Vô Tánh Giải thích rằng: “Lại như tiếng vang trong hang trống, thật sự không có âm thanh, mà khiến cho người nghe tựa như nghe ở cảnh giới của nhiều loại ngôn thuyết; ngữ nghiệp đủ loại ngôn thuyết cũng như vậy.”

Lương Luận nói: “Ví như thật sự không có Thanh trần mà biểu hiện rõ ràng có thể nghe, sự việc của ngôn thuyết cũng như vậy, thật sự không hề có gì mà biểu hiện rõ ràng có thể nghe.”

Ý kinh này có ba nghĩa: 1) Nhận biết tất cả các pháp như tiếng vang; 2) Nhận biết âm thanh của Phật như tiếng vang; 3) Có thể dùng ngôn âm như tiếng vang để mà thuyết pháp.

Hai: Nghĩa tách biệt: Tiếng vang cũng có năm nghĩa: 1) Hang trống rỗng; 2) Có âm thanh; 3) Âm thanh dội vào hang trống liền có tiếng vang đáp lại; 4) Tiếng vang này không phải có mà có; 5) Phàm ngu Tiểu thừa nói là có.

Ba: Các câu về có-không có… đều dựa theo trước có thể biết.

Bốn: Trong giải thích văn, có bốn: 1) Nhận biết tất cả các pháp như tiếng vang, nghĩa là sinh ra… hiển bày về đức có thể nhận biết, nhận biết tất cả… là trình bày về đã nhận biết. 2) Từ “Phân biệt…” trở xuống là tổng quát nhận biết về âm thanh như tiếng vang. 3) Riêng biệt nhận biết về âm thanh của Phật như tiếng vang: Không từ bên trong… là Phật như hang trống, lìa xa âm thanh vốn không thành tựu. Không phải bên trong phát ra, cơ cảm như âm thanh, lìa xa hang vốn không thành tựu. Không phải bên ngoài phát ra, bởi vì cả hai cùng dựa vào nhau. Không phải bên trong-bên ngoài, bởi vì lìa xa âm thanh vốn không có nghe cho nên không phải bên trong, bởi vì lìa xa căn vốn không có nghe cho nên không phải bên ngoài. Không phải cả hai bởi vì cả hai không phải, do duyên khởi của Vô tánh này như tiếng vang, cho nên luôn luôn có mà không phải có; không phải có mà thuyết pháp, cho nên nói là pháp thí cũng không hủy hoại. 4) Từ “Thâm nhập…” trở xuống là trình bày về có thể dùng âm thanh như tiếng vang của mình mà thuyết pháp, cũng là thành tựu hành của Nhẫn mà khởi dụng tự tại, trong đó có mười câu:

  1. Khéo léo học phù hợp với pháp.
  2. Từ “Như Đế Thích…” trở xuống là ví dụ so sánh về Viên âm.
  3. Từ “Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về khởi dụng phù hợp với tánh.
  4. Từ “Ư vô lượng…” trở xuống là hiển bày về phạm vi giới hạn của nghiệp dụng.
  5. Từ “Thọ trì…” trở xuống là thắng tiến nương vào học.
  6. Từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về Diệu âm rộng lớn.
  7. Từ “Phổ linh chúng sinh…” trở xuống là hiển bày về thành tựu lợi ích của nghiệp dụng.
  8. Từ “Nhi âm…” trở xuống là hiển bày về quy phạm rất sâu xa của Dụng.
  9. Từ “Tri âm thanh…” trở xuống là phân rõ về ngôn ngữ âm thanh nhất định.
  10. Từ “Diệc bất nhiễm…” trở xuống là trình bày về có thể nhận biết tự tại.

Thứ tám: Như điện Nhẫn. Trong giải thích cũng có bốn:

Một: Tướng của Dụ: Luận Bát Nhã dụ cho pháp hiện hành không tồn tại lâu dài. Luận Công Đức Thí nói: “Ví như ánh chớp vừa lóe sáng liền tắt đi, tâm cũng như vậy, sát-na nhất định diệt đi.” Lại trong luận ấy Bát Bất (Bát bất Trung đạo) ví dụ về nghĩa không rời bỏ. Trong kinh này cũng có ba: 1) Dụ cho tất cả các pháp mau chóng diệt đi như ánh chớp; 2) Dụ cho thân của Bồ-tát vô ngại như ánh chớp; 3) Dụ cho trí của Bồ tát hiểu rõ nơi u tối như ánh chớp.

Hai: Nghĩa tách biệt, cũng có năm nghĩa: Ba nghĩa đầu như mau chóng diệt đi… nói trên; 4) Có thể ngay lúc ấy biểu hiện rõ ràng; ) Thể không phải xa gần, mà có thể soi chiếu xa gần.

Ba: Cũng có các câu về có-không có… suy nghĩ có thể thấy.

Bốn: Trong giải thích văn có ba: Trước là Pháp, tiếp là Dụ, sau là Hợp.

Trong Pháp có hai: 1) Dựa theo hành thuộc Chỉ ngăn chặn thành tựu, có chín cặp đều lìa xa ba phạm vi, vô cùng sâu xa không có gì nương nhờ; 2) Từ “Sở hành chân thật…” trở xuống là dựa theo hành thuộc Quán biểu hiện thành tựu, cũng không thọ trì Chánh pháp lưu chuyển là đạt được Lý mà không Chứng.

Trong Dụ có bốn: 1) Ánh chớp có thể soi chiếu rõ ràng; 2) Từ “Thí như…” trở xuống là chuyển dụ, như gương treo trên tường hiện rõ hình ảnh của mặt trời, dầu-nước… cũng như vậy, vốn giống như ánh chớp lóe sáng; 3) Ánh chớp không lìa xa… là trình bày về Thể-Dụng không tách rời nhau; 4) Ánh chớp có thể soi chiếu xa… là Thể-Dụng không lường được.

Trong kết hợp với pháp có ba: 1) Kết hợp với soi chiếu hiện rõ trước đây; 2) Từ “Nhi kỳ trí…” trở xuống là kết hợp, soi chiếu xa mà không phải xa; 3) Từ “Như chủng…” trở xuống là chuyển dụ, hạt giống không có mầm rễ mà có thể sinh ra mầm rễ, nếu có thì không sinh ra; Bồ-tát cũng như vậy, không có hai mà nói hai, có thì không có hai, cho nên nói là thời gian Vô ngại. Từ “Nhược Bồ-tát…” trở xuống là Nhẫn thành tựu đức dụng, nghĩa là thân-trí vô ngại nhanh chóng như ánh chớp.

Thứ chín: Như hóa Nhẫn. Trong giải thích cũng có bốn:

Một: Tướng của Dụ: Nhiếp Luận dụ cho quả của Văn-Tư tuệ do ý nghiệp mà sinh ra tựa như có mà không phải thật, cũng dụ cho thân biến hóa của Bồ-tát. Lại luận Thập Dụ của Long Thọ nói: “Như người biến hóa ấy không có sinh, không có già, không có bệnh, không có chết, không có khổ, không có vui, khác với mọi người, bởi vì nghĩa này cho nên trống rỗng, thật sự không có. Tất cả các pháp cũng đều như vậy, không có sinh-trú-diệt, vì vậy cho nên nói các pháp như hóa hiện.” Rộng ra như luận ấy nói.

Hai: Nghĩa tách biệt, Hóa có bốn nghĩa: 1) Dựa vào tâm hóa hiện; 2) Hiện rõ sự hóa hiện; 3) Thật sự không có; 4) Hiện rõ nghiệp dụng. Luận Thập Dụ nói: “Giống như sự việc hóa hiện, tuy trống rỗng không có thật, mà có thể khiến cho chúng sinh buồn khổ-nóng giận-vui mừngngu si-mê hoặc; các pháp cũng như vậy, tuy trống rỗng không có thật, mà có thể làm cho chúng sinh khởi lên nóng giận… vì thế cho nên nói các pháp như hóa hiện.”

Ba: Cũng có các câu về dung thông, nên dựa theo suy nghĩ phân rõ.

Bốn: Trong giải thích văn, có bốn: 1) Dựa theo pháp phân rõ về hóa hiện; 2) Dựa vào dụ trình bày về hóa hiện; 3) Kết hợp với pháp hiển bày về hóa hiện; 4) Nhẫn thành tựu tác dụng của hóa hiện.

Trong phần một có hai: Trước là hiển bày về pháp đã nhận biết; sau là phân rõ về pháp có thể nhận biết.

Trong phần trước: Đầu là tổng quát, từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt. Trong đó tám câu đầu là dựa theo pháp nhiễm: 1) Nghiệp từ tâm dấy khởi; 2) Hành dẫn đến tu thành tựu; 3) Cảnh vọng trống rỗng không có; 4) Điên đảo khởi lên khổ vui; ) Tùy tiện giữ lấy tình làm có; 6) Thế gian dựa vào Chân mà có; 7) Giác quán dấy khởi ngôn ngữ; 8) Tưởng dấy khởi não hại nhau. Ba câu tiếp là trình bày về Bồ-tát hóa hiện, hai câu sau là Phật hóa hiện, tất cả đều đưa ra nhân cho nên gọi là hóa hiện. Trong đó, Vô sinh bình đẳng, bởi vì đạt được Vô sinh mới gọi là không lui sụt, vì vậy không lui sụt vốn không có Thể mà như hóa hiện.

Hỏi: Hóa hiện này là dụ cho pháp hữu vi, cũng bao gồm dụ cho vô vi hay không?

Đáp: Hoặc là chỉ dụ cho hữu vi, như trong Đại Phẩm nói.

Hỏi: Nếu tất cả các pháp như hóa hiện, thì vì sao nói Niết-bàn là một pháp không phải như hóa hiện?

Đáp: Nếu nói tất cả các pháp cho đến Niết-bàn đều như hóa hiện, thì Bồ-tát mới phát tâm sẽ kinh ngạc sợ hãi; bởi vì Bồ-tát mới phát tâm, cho nên phân biệt sinh diệt thì như hóa hiện, không sinh diệt thì không như hóa hiện. Hoặc là cũng dụ cho vô vi, như trong Thập Địa thì trí Như Hóa gọi là pháp giới hóa. Hoặc là bao gồm cả hai, như trong Đại Phẩm nói. Nếu không vì Bồ-tát mới phát tâm thì trình bày bao gồm cả hai, nhưng phá bỏ cái thấy thật có ấy khiến cho thấy được pháp thật, đâu nhất định là do những ví dụ?

Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận về hóa hiện, thế gian là kết luận về tám câu trước, lìa xa thế gian là kết luận về năm câu sau.

Trong phần sau từ “Quyết định tri…” trở xuống là hiển bày về tướng của pháp có thể nhận biết: Đầu là pháp có thể nhận biết và pháp đã nhận biết sâu rộng trong sáng; sau từ “Cụ túc…” trở xuống là hiển bày về nhận biết tự tại vô ngại mà khởi hạnh.

Trong phần hai là dựa vào dụ có bốn mươi câu, câu đầu không từ tâm khởi lên, là bởi vì không phải từ chủng tử trong tâm sinh ra, còn lại đều có thể biết.

Trong phần ba là kết hợp với pháp, có bốn: Một, Tổng quát kết hợp với hạnh hóa hiện; Hai, Từ “Bất trước…” trở xuống là kết hợp với Thể của hạnh hóa hiện; Ba, Từ “Nhi bất xả…” trở xuống là kết hợp với Dụng của hạnh hóa hiện; Bốn, Từ “Thí như…” trở xuống là trở lại ví dụ để trình bày thuận theo không hề có gì mà kiến lập về quả của hạnh. Từ “Phật tử…” trở xuống là kết luận.

Trong phần bốn từ “Phật tử nhược Bồ-tát…” trở xuống là Nhẫn thành tựu tác dụng của hóa hiện, có mười câu: Một câu đầu là Nhẫn thành tựu, chín câu còn lại là tác dụng của hóa hiện. Trình bày về hóa hiện có chín nghĩa hiển bày về chín loại nghiệp dụng của Bồ-tát, trong đó: Hai câu đầu là trước Pháp-sau Dụ, bảy câu sau là nêu ra Dụ để hiển bày về Pháp, dựa theo giải thích có thể biết.

Thứ mười: Như hư không Nhẫn. Trong giải thích có bốn câu giống như trước:

Một: Tướng của Dụ: Luận Phật Địa dụ cho pháp giới thanh tịnh, bởi vì lìa xa tướng sai biệt. Các luận như Trung Biên… dụ cho tánh Viên thành thật. Kinh này và Đại Phẩm… dụ cho tất cả các pháp, bởi vì đều là Vô tánh. Luận Thập Dụ nói: “Giống như hư không không phải là pháp có thể thấy, bởi vì nhìn xa cho nên ánh mắt xoay chuyển thì trông thấy màu sắc; tất cả các pháp cũng lại như vậy, trống rỗng không hề có gì, bởi vì phàm phu cách xa Tuệ vô lậu, rời bỏ Thật tướng thì thấy chúng sinh như ngã-nhân-nam-nữ… mà thật sự chúng sinh này hoàn toàn không hề có gì.

Hai: Nghĩa tách biệt: Như hư không của Địa thứ tám có mười nghĩa, đầy đủ như trước đây phân rõ. Trong luận Thập Dụ có bốn lượt trở lại(Phục thứ) để giải thích: 1) Dựa theo gần không có mà xa có; 2) Dựa theo tánh tịnh gọi là nhiễm; 3) Dựa theo không có đầu-giữa và sau; 4) Dựa theo Thể thật sự không có vật. Giải thích rộng ra như luận ấy. Luận Phật Địa cũng có mười lượt trở lại, như luận ấy nên biết.

Trong kinh này nhiều môn, giải thích như văn có thể biết.

Ba: Cũng có các câu về lìa xa có-không có… suy nghĩ dựa theo có thể biết.

Bốn: Trong giải thích văn, có ba: 1) Trình bày về Giải của Nhẫn; 2) Từ “Phật tử như thị Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về Hạnh của Nhẫn; 3) Từ “Nhược Bồ-tát…” trở xuống là hiển bày về Đức của Nhẫn. Cũng có thể tổng hợp phân làm bốn, đó là: Một, Nêu ra; Hai, Giải thích; Ba, Kết luận; Bốn, Ca ngợi.

Ngay trong phần hai là giải thích, có hai: Trước là trình bày về pháp đã hiểu rõ, sau là hiển bày về thành tựu Nhẫn.

Trong phần trước có mười câu, dùng mười nghĩa về hư không dụ cho mười loại pháp: 1) Nghĩa về hư không vốn không có tánh giống như pháp giới; 2) Nghĩa về không dấy khởi vốn dụ cho cõi thuận theo duyên cũng không có dấy khởi; 3) Nghĩa về một vị vốn dụ cho pháp tánh không có hai; 4) Nghĩa về không có hành vốn dụ cho hành tức là không có hành; ) Nghĩa về không có phạm vi giới hạn vốn dụ cho pháp không có phân biệt; 6) Nghĩa về không có khác nhau vốn dụ cho Phật lực như nhau; 7) Nghĩa về có khắp ba thời gian vốn dụ cho Thiền hò vào lý tận cùng ba đời; 8)Nghĩa về lìa xa ngôn ngữ vốn dụ cho tự tướng của các pháp không thể nói được; 9) Nghĩa về vô ngại vốn dụ cho thân Phật không chướng ngại lẫn nhau, tùy theo cảm thì ứng; 10) Nghĩa về rộng khắp vốn dụ cho Thể của pháp rộng khắp.

Trong phần sau là thành tựu Nhẫn, có ba: Một, Tổng quát nêu ra tướng của Nhẫn thuộc ba nghiệp sánh bằng hư không; hai, Riêng biệt hiển bày về nghĩa hư không giống như đức của Bồ-tát. Trong đó nêu ra mười một nghĩa về hư không để hiển bày về mười một loại đức của Bồ-tát: 1) Một câu giải thích về thân như hư không. 2-3-4 là ba câu giải thích về trí thuộc Nhẫn như hư không, một câu đầu là Thể, hai câu sau là Dụng; trong đó hướng đến là nhân, thành tựu là quả. ) Giải thích về khẩu như hư không, nghĩa là dựa vào hư không không có nơi chốn, cũng là biển rộng không có bến bờ. Cổ nhân nói: “Ngang mặt nước biển trở lên là hư không.” Lại nói: “Biển rộng tuy rộng lớn mà hư không vốn chứa đựng phạm vi của biển rộng.” 6-7 là hai câu giải thích về thân nghiệp như hư không. 8) Giải thích về khẩu nghiệp như hư không. 9) Giải thích về tâm như hư không, bởi vì tánh thanh tịnh. 10-11 là hai câu giải thích về tâm nghiệp như hư không.

Phần ba từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là nêu ra vặn hỏi giải thích thành tựu. Vặn hỏi rằng nhờ vào pháp nào mà Bồ-tát đạt được ba nghiệp như hư không? Giải thích rằng tư duy về thiện căn của mình giống như hư không, dựa vào đây mà đạt được ba nghiệp cũng như hư không. Trong đó: Trước là nêu ra mười loại thiện căn đều như hư không, một phần là duyên khởi, phần Chân trong hai phần, một lượng là bởi vì giống như lý tánh. Sau từ “Bất vong nhất thiết…” trở xuống là mười câu trình bày về ba nghiệp đã đạt được: 1) Không quên… là ý nghiệp; 2) Dạo qua khắp nơi… là trình bày về thân nghiệp; 3) Rộng khắp mười phương… là trình bày về ý nghiệp; 4) Sinh ra… là trình bày về khẩu nghiệp.

Trong phần bốn là ca ngợi về Đức Dụng có hai mươi câu: Mười câu đầu là đạt được mười thân, mười câu sau là bao gồm ba nghiệp, mỗi một phần đều có nêu ra và giải thích. Mười thân này cùng với mười thân ở phẩm Thập Hạnh trước đây và mười thân trong phẩm Ly Thế Gian, đều có thâu nhiếp lẫn nhau, có thể biết.

Từ “Đắc hư không tế…” trở xuống là mười câu sau bao gồm ba nghiệp đều như hư không, trong đó: Đầu là một câu tổng quát hiển bày về hàm tàng. Tiếp là hai câu riêng biệt phân rõ về khẩu nghiệp. Tiếp là ba câu riêng biệt trình bày về ý nghiệp, bởi vì lìa xa tham dục, là tâm thanh tịnh cho nên cõi Phật thanh tịnh. Tiếp là ba câu riêng biệt trình bày về thân nghiệp, một là Dụng, hai là Thể, ba là Tướng, nghĩa là các căn. Sau cuối là một câu tổng quát kết luận về Trí sâu xa.

Hỏi: Bảy Dụ này sai khác thế nào?

Đáp: Năm dụ về Huyễn… là dùng tựa như có để phá bỏ thật có, dụ về Như Hóa là dùng không có mà có để phá bỏ tựa như có, cuối cùng dụ về Hư Không là dùng tánh-tướng đều đoạn tuyệt để phá bỏ tất cả. Lại sáu dụ trước loại bỏ có hợp với nhiều Không, dựa vào Không thiết lập ít có; một dụ sau loại bỏ có hòa vào ít Không, dựa vào Không thiết lập nhiều có.

Hỏi: Vì sao cần phải nhiều dụ?

Đáp: Bởi vì khiến cho Lý-Trí trong sáng, bởi vì môn khác nhau hiển bày về pháp, bởi vì nghĩa lý kiên cố. Phần trường hàng, xong.

Trong phần trùng trụng có 119 tụng, phân ra mười một đoạn:

1. Có mười kệ tụng về Tùy thuận âm thanh Nhẫn, trong đó: Đầu là hai kệ tụng về nghe pháp chân thật trước đây; tiếp là một kệ tụng về không kinh ngạc…; tiếp là hai kệ tụng về tin hiểu; tiếp là hai kệ tụng về yêu thích thọ trì; sau là ba kệ tụng về thuận theo tiến vào tu tập an trú… có thể biết.

2. Từ “Thí như công đức nhân…” trở xuống có mười kệ tụng về Thuận Nhẫn: Đầu là ba kệ tụng về bắt đầu quán tùy thuận tịch tịnh… tiếp là một kệ tụng về không trái với các pháp; tiếp là một kệ tụng về tùy thuận tiến sâu vào… tiếp là hai kệ tụng về tâm thanh tịnh thẳng thắn… sau là ba kệ tụng về tu quán bình đẳng tiến sâu vào đầy đủ.

3. Từ “Tam thập tam Thiên…” trở xuống có mười kệ tụng về Vô sinh Nhẫn: Đầu là ba kệ tụng về không thấy có pháp sinh, không thấy có pháp diệt trước đây; tiếp là bốn kệ từ “Hà dĩ cố…” trở xuống có mười câu giải thích về thành tựu; sau là ba kệ tụng về kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng.

4. Từ “Quán sát chư thế gian…” trở xuống có mười kệ tụng về Như huyễn Nhẫn: Đầu là hai kệ tụng về phần nói tóm lược trước đây; tiếp là bốn kệ tụng về dụ-hợp trong phần nói mở rộng; sau là bốn kệ tụng về thành lập hạnh của Nhẫn.

5. Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống có mười kệ tụng về Như viêm Nhẫn: Đầu là hai kệ tụng về Pháp thuyết; tiếp là bốn kệ tụng về dựa theo Dụ hiển bày về Pháp, nghĩa là hơi nóng và nước từ Tưởng sinh ra cho nên lấy làm ví dụ. Lại do Tưởng cho nên có pháp mà thật ra không phải có, như hơi nóng tựa như nước mà thật ra không có nước, cho nên lấy làm ví dụ. Sau là bốn kệ cùng nêu ra Dụ và Pháp, hiển bày về Pháp rất sâu xa.

6. Từ “Bỉ năng giải thế gian…” trở xuống có mười lăm kệ tụng về Như mộng Nhẫn: Đầu là hai kệ tụng về tất cả thế gian như mộng; tiếp là một kệ tụng về mộng không phải cõi Dục… tiếp là một kệ tụng về tánh của mộng vắng lặng và không đắm vào mộng; tiếp là hai kệ tụng về không hủy hoại mộng; tiếp là hai kệ tụng về mộng không có tự tánh; tiếp là bốn kệ tụng về thọ trì tất cả các pháp như mộng; sau là ba kệ tụng về không hủy hoại mộng, không hư vọng giữ lấy mộng…

7. Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống có mười bảy kệ tụng về Như hưởng Nhẫn: Đầu là hai kệ tụng về nhận biết tất cả các pháp như tiếng vang; tiếp là ba kệ tụng về phân biệt các âm thanh như tiếng gọi vang dội; tiếp là ba kệ tụng về hiểu rõ âm thanh của Như Lai không từ bên trong phát ra… tiếp là hai kệ tụng về tiến vào pháp giới lìa xa hư vọng, khéo léo phát ra vô lượng âm thanh… tiếp là ba kệ tụng về âm thanh vô ngại khiến cho chúng sinh phát khởi thiện căn… sau là bốn kệ tụng về âm thanh không phải lời nói mà tùy thuận lời nói cũng không nhiễm trước…

8. Từ “Tịch tịnh…” trở xuống có hai mươi hàng kệ gồm mười kệ bảy chữ tụng về Như điện Nhẫn: Đầu là hai kệ tụng về ý quán sát; tiếp là hai kệ tụng về thế gian không sinh…; tiếp là hai kệ tụng về không tùy theo thế gian lưu chuyển, không tiếp nhận Chánh pháp… cũng tụng về không hai pháp mà phân biệt hai tướng…; tiếp là hai kệ tụng về không ở trong thế gian…; tiếp là một kệ tụng về không thực hành hạnh Bồ-tát, không rời bỏ Đại nguyện…; sau là một kệ tụng về ca ngợi đức thành tựu lợi ích.

9. Từ “Tu tập thậm thâm…” trở xuống có mười kệ tụng về Như hóa Nhẫn: Đầu là ba kệ tụng về thực hành hạnh Bồ-tát như hóa hiện; tiếp là ba kệ tụng về nhận biết nghiệp hành của chúng sinh… và Phật Bồ-tát… đều như hóa hiện; tiếp là hai kệ tụng về nghiệp hành tùy theo thế gian; sau là hai kệ tụng về ca ngợi đức có dụng hóa hiện.

10. Hư không Nhẫn cũng có mười kệ: Đầu là hai kệ tụng về chúng sinh và thế gian như hư không; tiếp là hai kệ tụng về Cảnh và Trí như hư không; tiếp là hai kệ tụng về Tuệ và Pháp như hư không; tiếp là hai kệ tụng về có thể nói và đã nói như hư không; sau là hai kệ tụng về ba đời-ba nghiệp như hư không.

11. Từ “Thị danh…” trở xuống có bảy kệ tụng về kết luận ca ngợi hiển bày thù thắng: Đầu là ba kệ tụng về Tự lợi-Lợi tha tròn vẹn; tiếp là hai kệ tụng về nhân quả đầy đủ; sau là hai kệ tụng về kết luận thù thắng rộng lớn.

Phẩm 25: A TĂNG KỲ

A. Giải thích tên gọi: Bồ-tát Tâm Vương là người có thể hỏi, biểu thị cho cách đếm số (số pháp) dựa vào tâm, như số đếm về Thức…, Bồ-tát thấu suốt tự tại gọi là Vương. A-tăng-kỳ là pháp đã hỏi, bắt đầu của mười số, từ số đầu tiên làm tên gọi. Nếu đầy đủ thì phải gọi là phẩm Thập Đại Số.

B. Ý đưa ra: Không phải giải đáp câu hỏi trước đây vì sao lại đưa ra? Bởi vì Thập Minh phân rõ về Dụng của hành, Thập Nhẫn trình bày về Thể của hành, nay hiển bày về Đức của hành để so sánh về phạm vi giới hạn, tức là Đức đã kể ra trong kệ tụng dưới đây. Lại giải thích: Trong các phẩm trước vốn có số lượng, nghĩa là như trong phẩm Quang Giác…, đều có số pháp, cho nên nay ở đây giải thích về thành tựu.

C. Tông thú có hai: Một, Số có thể kể ra; Hai, Đức đã kể ra.

Trong phần một cũng có hai: Trước là xác định về đã nhận biết; sau là hiển bày về có thể nhận biết.

Trong phần trước: A-tăng-kỳ, Trung Hoa nói là Vô số, tức là số cuối cùng. Trong các Thánh giáo thông thường có bốn cách giải thích:

1. Dựa theo luận Câu Xá: Số đếm đến sáu mươi lớp gọi là một A-tăng-kỳ; đây là dựa theo Tiểu thừa.

2. Dựa vào Trí Luận quyển thứ chín: Số đếm vượt qua mười lớp về sau gọi là A-tăng-kỳ. Luận nói một với một gọi là Hai, hai lần hai gọi là Bốn, ba lần ba gọi là Chín, mười mười gọi là Trăm, mười trăm gọi là Ngàn, mười ngàn gọi là Vạn, ngàn vạn gọi là Ức, ngàn ức gọi là Na-do-tha, ngàn vạn Na-do-tha gọi là Tần-bà, ngàn vạn Tần-bà gọi là Ca-tha, vượt qua Ca-tha gọi là A-tăng-kỳ, như vậy đếm đến ba A-tăngkỳ. Giải thích rằng: Đây đã nói vượt qua Ca-tha, cũng tức là bao gồm vượt qua các số sau cho nên gọi là A-tăng-kỳ; đây là dựa theo Thỉ giáo mà nói.

3. Dựa vào Trí Luận quyển thứ sáu: Dẫn ra văn phẩm này, còn có trăm số, đến A-tăng-kỳ…; đây là dựa theo Chung giáo mà nói.

4. Dựa vào phẩm này: Trăm số Tăng-kỳ, mới là số thứ nhất, như vậy lần lượt dùng số đã đếm giống như số có thể đếm, đến thứ mười gọi là Bất khả thuyết chuyển, Bất khả thuyết chuyển chuyển như nhau mới là số cao nhất. Vì vậy số cao nhất của Giáo trước chính là số thứ nhất trong này, cho nên biết môn này rất rộng, dựa theo Viên giáo mà phân rõ.

Trong phần sau là hiển bày về có thể nhận biết, cũng có năm lớp:

Một, Cách đếm số trong loài người thấp nhất. Hai, Cách đếm số của chư Thiên vượt qua loài người, trong loài trời cũng không giống nhau, như Tự Tại Thiên Vương trong một niệm đếm biết số giọt mưa khắp Đại thiên… Ba, Trong Tiểu thừa, Xá-lợi-phất khéo léo nhận biết cách đếm số vượt qua người-trời. Bốn, Trong các Bồ tát đếm số nhận biết cũng sai biệt, như cách đếm số tính số hạt cát của Đồng tử Thích Thiên dưới đây, không phải Nhị thừa có thể biết được; cũng như Văn Thù-Phổ Hiền nhận biết số lượng thế giới như vi trần…, không phải là sự nhận biết của phần vị dưới. Năm, Đức Phật tự mình đã nhận biết là vô cùng tự tại, tất cả những phần vị khác hoàn toàn không có thể nhận biết. Trí Luận quyển thứ chín nói: “Đức Phật ngồi dưới tán cây trong khu rừng ở bên ngoài tinh xá Kỳ Hoàn, có một Bà-la-môn đi đến hỏi Đức Phật: Khu rừng này có bao nhiêu lá? Đức Phật đáp: Với số bấy nhiêu. Tâm người ấy sinh nghi, ai chứng thực biết được điều này? Liền trộm ngắt đi một ít lá, trở lại hỏi Đức Phật: Rừng cây này xác định có bao nhiêu lá? Đức Phật đáp: Nay thiếu đi bấy nhiêu lá. Đúng như số lá đã ngắt đi mà nói. Bà-la-môn biết rồi, tâm vô cùng tôn kính tin tưởng, cầu xin Đức Phật mà xuất gia, đạt được quả A-la-hán. Vì vậy cho nên biết Đức Phật có thể biết rõ số cát sông Hằng.” Giải thích rằng: Đây là dựa theo Đức Phật biết rõ số cát sông Hằng. Nay văn trong phẩm này chỉ có Đức Phật đã nhận biết là số Vô cực, cho nên Đức Phật tự mình nói ra. Văn nói: Cảnh giới của trí Phật vốn là nghĩa rất sâu xa.

Trong phần hai là đức đã kể ra cũng có hai, đó là đức thuộc nhân của Phổ Hiền và đức thuộc quả của Phật, tất cả đều bao gồm Nhân-đàla võng…, đầy đủ như trong tụng sau này phân rõ.

D. Giải thích văn, văn này có hai: Trước là hỏi, sau là đáp.

Trong hỏi cũng có hai: Trước là nêu ra chọn lấy hỏi về pháp; sau từ “Thế Tôn hà cố…” trở xuống là dùng pháp để thưa hỏi.

Trong phần trước vì sao nhắc lại mười số này, là các phẩm nêu ra tên gọi và kết luận nối thông nơi chốn đều có mười số này, nhưng chưa giải thích, không biết rõ về phạm vi giới hạn, bởi vì hiển bày khiến cho biết rõ mà nay thưa hỏi. Trong mười câu: Thứ hai là Bất khả lượng, sau trong giải đáp gọi là Vô lượng; thứ năm là Bất khả số, sau trong giải đáp gọi là Vô số; thứ sáu-thứ bảy cùng một câu, đó là Bất khả xưng và Bất khả lượng, Bất khả lượng sau giải đáp ở câu thứ tám, Bất tư nghị ở câu thứ bảy; còn lại đều có thể biết.

Trong phần sau là đáp, có ba: Một, Khen ngợi người hỏi khuyên nhủ lắng nghe; Hai, Tâm Vương cung kính thuận theo; Ba, Nêu ra pháp chính thức giải đáp.

Trong phần ba là chính thức giải đáp, có hai: 1) Trường hàng chính thức hiển bày về pháp có thể kể ra; 2) Kệ tụng phân rõ về đức đã kể ra.

Trong phần một tổng công có 120 lượt, giải đáp mười câu hỏi trước đây: Đầu là 120 lượt giải đáp câu hỏi về Tăng-kỳ thứ nhất; sau là mười tám lượt giải đáp về chín câu hỏi sau.

Trong phần đầu: Trăm ngàn trăm ngàn, nghĩa là trăm ngàn lần trăm ngàn, cho nên nói là trăm ngàn trăm ngàn, đều dùng số đã đếm giống như số có thể đếm. Không giống như Trí Luận đều dùng mười ức làm Lượng, gọi là một Câu-lê, văn mới gọi là Câu-chi, hoặc phiên dịch gọi là Ức. Điều này sợ rằng không có thể dùng trăm ngàn là mười Vạn, mười Vạn là một Ức. Ở đây chính là Ức lần Ức mới gọi là Câu-chi, cũng là Câu-lê lần Câu-lê mới gọi là một Bất Biến. Còn lại đều dựa theo đây. Trong đó hoặc là tên gọi ở xứ sở này, hoặc là giữ lại âm tiếng Phạn, đều là tên gọi của số đếm, có thể biết.

Ở trong mười tám lượt sau: Mười bảy lượt đầu là số của nhân, một lượt sau là Bất khả thuyết chuyển chuyển làm số của quả, bởi vì cao nhất tức là vượt qua biểu hiện của số đếm, giống như quả hải vượt qua tất cả.

Trong phần hai là kệ tụng, có 122 tụng rưỡi phân hai: Một, Bảy tụng đầu xác định về pháp có thể kể ra; Hai, Từ “Ư bỉ nhất nhất…” trở xuống là tổng quát hiển bày về đức đã kể ra.

Trong phần một là số tích tập có mười lớp: 1) Đầu là một câu dùng số thứ mười Bất khả thuyết bất khả thuyết làm căn bản. 2) Tiếp là một câu lại đưa vào trong Nhất thiết Bất khả thuyết, hai câu này làm tổng quát. 3) Chưa biết bao nhiêu Bất khả thuyết gọi là tất cả, tiếp là hai câu hiển bày về kiếp Bất khả thuyết, cho nên gọi là tất cả. 4) Tiếp là một tụng phân rõ dùng nhiều kiếp ấy mà nói đưa vào trong một Trần. 5) Trước đây nói thẳng Bất khả thuyết cõi Phật nghiền nát làm bụi nhỏ, chưa biết bao nhiêu lại là cõi Bất khả thuyết, cho nên tiếp là một tụng rưỡi phân rõ trong một niệm tức là cõi Bất khả thuyết, như vậy niệm niệm lại tận cùng kiếp Bất khả thuyết. 6) Tiếp là một tụng trình bày về trong nhiều cõi như vi trần (sát trần) đều có nhiều kiếp mà nói Bất khả thuyết. 7) Tiếp là nửa tụng trình bày về trong nhiều cõi như vi trần đều thâu nhiếp nhiều chúng sinh. 8) Tiếp là nửa tụng dùng chúng sinh ấy ca ngợi đức rộng lớn của Phổ Hiền. 9) Tiếp là một tụng dùng đức rộng lớn của Phổ Hiền này, lại có Bất khả thuyết Phổ Hiền cùng ở đầu một mảy lông, cùng lúc đều thuyết về lời Bất khả thuyết như trên. 10) Có nửa tụng tương tự hiển bày về vô biên thế giới khắp mười phương, cũng thuyết giảng giống như ở đây.

Trong mười lớp tích tập này, sáu lớp đầu là mở rộng về cách đếm số đã sử dụng, ba lớp sau là so sánh để hiển bày mở rộng về người có thể thuyết giảng, bởi vì những người như vậy thuyết giảng về những pháp như vậy. Từ “Số số ư như…” trở xuống là đã kể ra đức thù thắng của chư Phật Bồ-tát, ý văn như vậy, suy nghĩ có thể thấy.

Trong phần hai là đức đã kể ra, có hai: 1) Trình bày về đức vô ngại của quả mà nhân vị khéo léo dung thông; 2) Từ “Bất khả xưng thuyết chư Như Lai…” trở xuống là trình bày về đức sâu rộng của quả mà nhân có thể hướng đến tiến vào.

Trong phần một cũng có hai: Trước là phân rõ về pháp vô ngại của quả; sau từ “Bồ-tát ư nhất mao đoan…” trở xuống là trình bày về nhân vị khéo léo dung thông.

Trong phần trước cũng có hai: Trước là quả thuộc Y báo tự tại; sau từ “Nhất nhất mao đạo xuất danh thân…” trở xuống là trình bày về quả thuộc Chánh báo tự tại. Ở trong phần này có bốn: 1) Tổng quát trình bày về ba nghiệp tự tại; 2) Từ “Nhiếp thủ…” trở xuống là riêng biệt trình bày về ngữ nghiệp tự tại; 3) Từ “Vô ngại tâm…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về hai nghiệp thân-ý tự tại; 4) Từ “Tịnh phương tiện…” trở xuống là trình bày về đức dùng pháp ứng với căn cơ.

Ngay trong phần sau là nhân vị khéo léo dung thông có mười: 1) Trình bày về vô biên quốc độ như Nhân-đà-la võng, là nơi khởi hạnh. 2) Từ “Ý căn…” trở xuống là trình bày về hạnh thường xuyên hăng hái của ba nghiệp. 3) Từ “Nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là trình bày về hạnh thuận theo căn khí thâu nhiếp chúng sinh. 4) Từ “Ứng hiện sắc tượng…” trở xuống là trình bày về hạnh đi khắp mọi nơi cúng dường chư Phật. 5) Từ “Thành tựu thí tâm…” trở xuống là trình bày về hạnh rộng tu mười Độ. 6) Từ “Bỉ tịnh pháp luân…” trở xuống là trình bày về hạnh đi khắp mọi nơi thâu nhiếp giáo pháp. 7) Từ “Thâm nhập chúng sinh…” trở xuống là trình bày về hạnh điều phục chúng sinh. 8) Từ “Ư bỉ nhất nhất mao đoan…” trở xuống là trình bày về hạnh rất thanh tịnh của ba nghiệp. 9) Từ “Bỉ chư Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về hạnh tự tại của Nguyện trí. 10) Từ “Bất khả xưng thuyết nhất thiết kiếp…” trở xuống là một tụng kết luận về đức vô tận.

Trong phần hai là trình bày về đức sâu rộng của quả mà nhân có thể hướng đến tiến vào, có hai: Trước là quả, sau là nhân.

Ngay trong phần trước là quả, có ba: Một, Tổng quát ca ngợi về đức của quả Phật; Hai, Từ “Nhược ư nhất tiểu…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về quả thuộc Y báo; Ba, Từ “Ư bỉ nhất nhất Phật sát trung…” trở xuống là riêng biệt trình bày về quả thuộc Chánh báo.

Trong phần sau từ “Bồ-tát cứu cánh…” trở xuống là trình bày về nhân thuận theo tiến vào, có hai: Một, Hạnh thuộc Tự phần; Hai, Từ “Hoặc ư nhất thời…” trở xuống là trình bày về hạnh thuộc Thắng tiến.

Phẩm 26: THỌ MẠNG

A. Giải thích tên gọi: Do nghiệp đời trước mà dẫn đến quả của báo gọi là Thọ, tùy ý duy trì sắc-tâm không gián đoạn gọi là Mạng. Nội dung của phẩm phân rõ về điều này, cho nên lấy làm tên gọi.

B. Ý đưa ra, có hai: 1) Ý xa, vốn là giải đáp câu hỏi về Thập Đảnh ở pháp đường Phổ Quang, bởi vì mười lớp hướng về với nhau đều là cuối cùng, thích hợp gọi là Đảnh, cho nên biết thế giới An Lạc làm đỉnh của Ta-bà… Xưa giải thích là trả lời câu hỏi về thọ mạng của Đức Phật, tên gọi này tuy cũng thích hợp mà không thuận với xu thế của văn, nghĩa là câu hỏi về thọ mạng này ở trước Thập Địa…, không thích hợp để giải đáp ở nơi này, câu hỏi về Thập Đảnh ở sau Địa, lại không có văn giải đáp riêng biệt, cho nên biết là thuộc về nơi này. 2) Ý gần, phẩm A-tăng-kỳ trước đây hiển bày về thật đức của Phật Bồ-tát bình đẳng vượt qua số lượng; phẩm này riêng biệt phân rõ về đức của Phật, dựa vào căn cơ nêu rõ có dài-ngắn; phẩm Trú Xứ sau này riêng biệt phân rõ về pháp dụng của Bồ-tát, dựa theo căn cơ trình bày về trú xứ sai biệt.

C. Tông thú, có ba nghĩa: 1) Trình bày chung về Mạng có ba loại: Một, Báo mạng, nghĩa là hơi ấm và Thức không rời bỏ-không lui sụt, bởi vì Chúng đồng phần, Bất tương ưng hành làm tánh. Hai, Giới mạng, trong kinh gọi là Tịnh mạng, bởi vì không phá giới cho nên không mất pháp Tỳ-kheo, lấy Tịnh giới làm tánh. Ba, Tuệ mạng, bởi vì không phóng dật cho nên không lui sụt Chánh pháp gọi là Tuệ mạng, Chánh tuệ làm tánh.

1. Riêng biệt xác định về văn này, thọ mạng của chư Phật cũng có ba nghĩa: Một-Dựa theo đức, nghĩa là đầy đủ ba loại Mạng như trước đã nói, Báo mạng ấy là vô tận, vốn là do thiện căn mà sinh ra. Hai-Dựa vào Thật, nghĩa là Mạng căn vô tận, bởi vì tận cùng thời gian vị lai. Ba-Dựa vào Quyền, nghĩa là tùy cơ mà cảm, cho nên thị hiện dài-ngắn. Nay trong văn này đầy đủ ba nghĩa này.

2. Hiển bày theo thứ tự cũng có ba nghĩa: Một, Dựa theo Tiệm giáo, nghĩa là thế giới Ta-bà… giới hạn bởi vì Địa tiền vốn là quốc độ của Hóa Phật, thế giới An Lạc… mở thông bởi vì Địa thượng vốn là quốc độ của Báo Phật, cho đến thế giới Hiền Thủ là nơi Bất khả thuyết sau Thập Địa. Hai, Dựa theo Đồng giáo, nghĩa là thế giới Ta-bà… làm quốc độ của Tam thừa, dần dần hướng đến vi tế, tiến vào Nhất thừa cho đến thế giới Hiền Thủ… mới là cuối cùng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì dựa vào Biệt giáo thì thế giới Ta-bà vốn là Liên Hoa Tạng. Ba, Dựa theo Biệt giáo, thế giới Ta-bà là nơi thấy-nghe-hiểu và thực hành, các quốc độ trung gian chỉ là nơi hiểu và thực hành, cuối cùng quốc độ của Phật vốn bao gồm hiểu-thực hành đầy đủ và chứng nhập, vì vậy ở phần vị Tín đầy đủ cũng gọi là Hiền Thủ.

D. Trong giải thích văn: Bồ-tát Tâm Vương thuyết giảng, là hiển bày hiểu biết tự tại về đời kiếp, cho nên có kiếp số. Trong đó có ba: Đầu là nêu ra mười thế giới so sánh theo thứ tự, tiếp là tương tự hiển bày về trăm vạn, sau là phân rõ rất sâu xa cuối cùng.

Như thế giới An Lạc… lấy gì làm ngày đêm? Giải thích: Hoặc là lấy hoa sen nở ra-khép lại để phân rõ, là một kiếp ở thế giới Ta-bà.

Lại giải thích: Trong một kiếp ở thế giới Ta-bà này gồm có bao nhiêu ngày đêm, dựa vào số lượng ngày đêm này, tính một kiếp là một ngày đêm. Lại dùng số lớn bao nhiêu kiếp, mới là một kiếp của thế giới An Lạc? Đó là dùng mức lượng của kiếp này. Ở các thế giới sau, đều dựa theo mức lượng này, suy nghĩ có thể biết. Vậy thì đến một kiếp của thế giới cuối cùng, đối với thế giới đầu tiên, là Bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp. Đến thế giới Hiền Thủ về sau, thì tất cả thế giới(sát hải) bình đẳng không có phân biệt hơn-kém. Do đó, trong này nói Phổ Hiền đều đầy đủ, là bởi vì hướng xuống phía dưới thì cao nhất, cho nên lấy Phổ Hiền làm mức lượng; hướng lên phía trên thì hãy còn ở trong số đếm, vì vậy không nói đến. Chỉ riêng Đức Phật đầy đủ khắp nơi đối với các thế giới này. Trong kinh Đại Phật Danh cũng nói đến. Vả lại, Pháp sư Huyền Trang phiên dịch tách biệt một quyển gọi là kinh Hiển Vô Biên Phật Độ, chính là phẩm này.

Phẩm 27: BỒ TÁT TRÚ XỨ

A. Giải thích tên gọi: Bồ-tát Đại Bi tùy theo phương tiện nhiếp hóa, nơi ứng vật gọi là trú xứ; người và xứ làm tên gọi.

B. Ý đưa ra cũng có hai: 1) Xa thì vốn là giải đáp về mười câu hỏi như tâm tùy hỷ… ở pháp đường Phổ Quang. 2) Gần là hiển bày về nơi chốn ứng cơ của Bồ-tát. Lại thế giới Hiền Thủ… ở phẩm trước đều là Tịnh độ đầy đủ Bồ-tát, không biết cõi Ta-bà nhiễm ô là có Bồ-tát hay không? Nay phân rõ về cõi này cũng có nơi chốn của vô lượng Bồ-tát, cho nên tiếp theo đưa ra.

C. Tông thú cũng có hai: 1) Tâm trú, nghĩa là Trí chứng được chân lý, Bi nghĩ đến chúng sinh. 2) Thân trú, nghĩa là Thật báo ở Tịnh độ mà Quyền hiện ở cõi nhiễm, đây là do Đại Bi dựa vào căn cơ mà trú, cũng do Đại Trí không phải thế gian làm cho vấy nhiễm. Nhờ vào Bi-Trí này không có hai tướng, cho nên trú mà không có trú xứ.

D. Giải thích văn: Bởi vì đối với trú xứ, hiểu biết đạt được tự tại, cũng là Tâm Vương thuyết giảng. Trong đó có ba: Một, Nêu ra trú xứ ở tám phương; Hai, Phân rõ trú xứ ở bốn biển; Ba, Trú xứ ở các nước.

Trong phần một: Tám phương chỉ dựa vào cõi này chứ không phải dựa theo phương khác. Ngay trong cõi này, chỉ dựa theo châu Diêm-phù-đề này, chứ không phải là châu khác.

1. Núi Tiên Nhân Khởi, phải là núi Bồng Lai ở Đông Hải…

2. Núi Lâu Các, phải là trú xứ của Tự Tại Hải Sư bên tòa thành Lâu Các ở bờ Nam Hải trong văn sau…, nhưng đối chiếu bản tiếng Phạm thì phải gọi là núi Thắng Phong.

3. Núi Kim Cang Viêm, phải là bên Tây Hải…

4. Núi Hương Tụ, phải là núi chúa Hương Sơn ở phía Bắc, núi chúa là bởi vì trong núi ấy có nhiều Bồ-tát an trú.

5. Núi Thanh Lương tức là ở Đại Châu, chính là núi Ngũ Đài. Trong đó hiện có chùa Cổ Thanh Lương, bởi vì mùa Đông-mùa Hạ đều có tuyết, cho nên lấy làm tên gọi. Núi này và sự linh ứng của Văn Thù…, có truyện ký gồm ba quyển, nói đầy đủ như truyện ký ấy.

6. Núi Chi Kiên Cố, đối chiếu bản tiếng Phạm chính xác gọi là núi Chế-đa, Trung Hoa gọi là Quy Tông, tức là giống như tháp, phải ở bờ biển hướng chánh Nam của nước này.

7. Núi Thọ Đề Quang Minh, phải là núi Quang Minh nối liền với trú xứ của Quán Âm trong văn sau, tiếng Phạm gọi là Thọ-đề, Trung Hoa nói là Chiếu Diệu.

8. Núi Hương Phong, phải ở phía Tây của Hương Sơn, bởi vì có Phong Huyệt.

Tám nơi này đều thuộc về núi, biểu thị cho nơi nuôi lớn đạo là ở núi rừng vắng lặng, vốn là nơi an trú của Hiền Thánh.

Trong phần hai là bốn biển rộng, có hai trú xứ.

a) Chỉ-đát, nói đầy đủ là Nặc-chỉ-đa, Trung Hoa nói là Dũng Xuất, là tên gọi của núi đảo giữa biển. Đàm-vô-kiệt, Trung Hoa nói là Pháp Sinh, cũng nói là Pháp Dũng.

b) Quật là nơi riêng biệt của biển, dựa theo bản tiếng Phạm thì phải gọi là Gian Thác Trang Nghiêm Quật.

Trong phần ba từ Tỳ-xá-ly… trở xuống là trình bày về trú xứ của Bồ-tát trong các nước, có mười ba xứ sở.

1. Tỳ-xá-ly là thuộc Trung Ấn-độ, cũng nói là Phệ-xá-ly, Trung Hoa gọi là thành Quảng Nghiêm, tức là nơi Duy-ma cư trú. Thành này về phía Nam 14-1 dặm có tòa tháp, là nơi 700 vị Hiền Thánh kết tập lại. Lại về phía Nam 80-90 dặm có Tăng-già-lam, bên cạnh có chỗ ngồi và di tích kinh hành của bốn Đức Phật quá khứ. Nói đầy đủ như trong Tây Vực Ký quyển thứ bảy.

2. Ba-liên-phất, nói đầy đủ là Ba-tra-lợi Bổ-đát-la. Ba-tra-lợi, đây là tên gọi của Hoàng Hoa, tức là hiệu của mẹ. Bổ-đát-la, Trung Hoa nới là Tử, là Nhi, tức là con của người nữ Hoàng Hoa ở thời đại trước, bắt đầu ở nơi này cho nên lấy làm tên gọi, cũng là nước Ma-kiệt thuộc Trung Thiên Trúc. Nói đầy đủ như trong Tây Vực Ký quyển thứ 8.

3. Ma-thâu-la, chính xác nói là Mạt-nậu-la, Trung Hoa nói là Khổng Tước, hoặc nói là Mật, đều là thời cổ xưa dựa vào sự việc làm tên gọi, là thuộc Trung Ấn-độ. Trong nước này có tháp của Xá-lợi-phất… và tháp của Văn Thù Sư Lợi. Từ Vương thành về phía Đông -6 dặm có chùa núi, là chùa do Ưu-ba-cúc-đa đã làm ra; trong mỏm núi phía Bắc có Thạch Thất, là nơi xếp thẻ độ người của Ưu-ba-cúc-đa. Lại ở phía Đông có khu rừng lớn, trong đó có dấu tích kinh hành của bốn Đức Phật quá khứ, cũng có nơi tu Định của 120 người như Xá-lợi-phất… Nói đầy đủ như trong Tây Vực Ký quyển thứ bốn. Nhưng dựa theo bản tiếng Phạm, thì nơi này là tên gọi của hang núi.

4. Câu-trần-na, Câu-trần là họ, Na là pháp luật. Xưa có người Tiên đạt được năm Thông tên gọi Câu-trì, Trung Hoa nói là Đại Bồn, nghĩa là hồ lớn hình dạng tựa như chậu to. Người Tiên này ở nơi ấy tu Tiên, vì vậy lập thành tên gọi này. Người Tiên ấy ở nơi này nói rộng về pháp luật, nghĩa là các pháp như giữ gìn thanh tịnh-kinh hành-dưỡng tánh…, khiến cho mọi người tu học, gắn bó với nhau không rời, mọi người cùng lấy họ là Câu-trần-na.

5. Nước Thanh Tịnh Bỉ Ngạn phải là thuộc Nam Ấn-độ. Mâuchân, Trung Hoa nói là Giải Thoát, là tên gọi của rồng. Lân-đà, Trung Hoa nói là Xứ, tức là trú xứ của rồng Giải Thoát.

6. Phong Địa, là nơi có động gió tên gọi Vô Ngại, hang này do Long Vương làm ra.

7. Nước Cam-bồ, chính xác nói là Kiếm-bồ, là thuộc Bắc Ấn-độ, nước này có nhiều mỹ nữ, cho nên lấy làm tên gọi. Tối Thượng Từ, trong kinh Đại Tập gọi là Từ Quật.

8. Chân Đán, hoặc nói là Chấn Đán, hoặc nói là Chi Na, là tên gọi của nước Hán này. Núi Na-la-diên, Trung Hoa nói là núi Kiên Lao, bởi trong phạm vi của Thanh Châu có núi Đông Lao, phải là nơi này. Ở đó hiện còn có Thánh tích của Cổ Phật.

9. Nước Biên-di, dựa theo tiếng Phạm tựa như là nước Sơ-lặc, nay chỉ ở Giang Nam thuộc Nhuận Châu có núi Ngưu Đầu, trong núi đó hiện còn có chùa Phật Quật, thuộc biên giới Bắc Ấn-độ. Tương truyền rằng có hình bóng bốn vị Bích-chi Phật, luôn luôn xuất hiện. Lại ở Nhuận Châu này, thời xưa cũng có dân tộc Man ở nơi này, hiện còn có lăng tẩm của Man Vương, cho nên cũng gọi là Biên-di.

10. Kế Tân, chính xác nói là Ca-thấp-di-la, Trung Hoa gọi là A Thùy Nhập. Nước này xưa kia là hồ lớn, bởi vì Mạt-điền-để, vào sau khi Đức Phật diệt độ, đi đến nơi rồng ở hồ ấy, xin chỗ vừa đặt đầu gối. Rồng trong hồ đã hứa cho, La-hán phát ra lực thần thông, làm cho thân hình rộng lớn, có được nhiều đất, liền có thể tạo lập đất nước và xây dựng Tăng-già-lam, như Đức Phật đã thọ ký. Trong đó hiện còn có chùa Phật Nha và nơi năm trăm vị La-hán tạo luận Tỳ-bà-sa. Nói đầy đủ như trong Tây Vực Ký quyển thứ ba. Núi Tước-đề-thi, Trung Hoa nói là núi Viễn Văn, nghĩa là nhiều người ở cách xa mà đều nghe tiếng, tức là nước này ở nơi bốn phía là núi.

11. Nan-đề Bạt-đàn-na: Nan-đề, Trung Hoa nói là Hỷ; Bạt-đànna, Trung Hoa nói là Tăng Trưởng, tức là thuộc Nam Ấn-độ. Thê-laphù-ha, Trung Hoa nói là Thượng Tọa, tức là tên gọi của Tôn giả, bởi vì ở trong hang này, nhân đó lấy làm tên gọi. Văn Thù Vấn Kinh Thể Tỳ Lý Bộ, Trung Hoa nói là Thượng Tọa Bộ, giống như tên gọi này.

12. Nước Am-phù-lê-ma, chính xác nói là Am-la, Trung Hoa nói là Vô Cấu, là tên gọi của trái cây. Bởi vì trái cây này có thể chữa lành các bệnh dơ bẩn, cho nên nói là Vô Cấu. Nước ấy có nhiều trái cây này, cho nên gọi là Phù-lê-ma. Ngay thẳng đối trị tà vạy quanh co, nhờ vào đây làm tên gọi.

13. Nước Càn-đà-la, chính xác nói là Kiến-đà, Trung Hoa nói là Hương; Đà-la, Trung Hoa nói là Biến, nghĩa là ở khắp nơi nước này, cỏ thơm phát ra trước, cho nên lấy làm tên gọi. Hang Tịch Tĩnh, tương truyền là hang giữ lại hình ảnh của Đức Phật, nói đầy đủ như trong Tây Vực Ký và Nguyệt Tạng quyển thứ mười trong kinh Đại Tập.

Trên đây là trình bày về trú xứ của Bồ-tát ở cõi Diêm-phù-đề này, thế giới hệ còn lại đều dựa theo đây. Còn lại thế giới Tu-di và thế giới hình dạng cây cối(Thọ hình)…, đều dựa theo đây mà vô tận vô tận.

Phẩm 28: PHẬT BẤT TƯ NGHỊ PHÁP

A. Giải thích tên gọi: Pháp của quả Như Lai, luôn luôn vượt lên trên nói năng suy nghĩ, cho nên lấy làm tên gọi.

B. Ý đưa ra có ba:

Một: Xa thì ba phẩm dưới đây là giải đáp chung về mười câu hỏi như Phật Địa Vô Thượng… ở pháp đường Phổ Quang.

Hỏi: Nếu giải đáp xa về câu hỏi trước đây, thì vì sao ở đây lại có thưa thỉnh? Giải thích: Bởi vì cách xa nhau, cho nên trở lại phát khởi. Nếu như vậy thì các phẩm trước sao không như vậy? Giải thích: Bởi vì các phẩm trước cùng là phần vị thuộc nhân, nay phân rõ về pháp của quả vốn là cách xa phần vị. Lại giải thích: Đây là nghĩ đến pháp mong mỏi thuyết giảng, không phải là thưa thỉnh riêng biệt. Nếu như vậy thì vì sao các phẩm trước không có trường hợp này? Giải thích: Bởi vì pháp của quả sâu xa vi tế, hiển bày về pháp khí rất thiết tha, cần phải nghĩ đến, nói về pháp của nhân thì trái với điều này cho nên không phải trường hợp này.

Hai: Ý đưa ra theo thứ tự, bởi vì trước đã phân rõ về đầy đủ nhân thuộc Tu sinh, nay ở đây chính thức hiển bày về nhân quả tròn vẹn, cho nên đưa ra ba phẩm theo thứ tự.

Ba: Ý đưa ra gần, phẩm Trú Xứ trước đây là cuối cùng của nhân đầy đủ, phẩm này là bắt đầu của quả thành tựu, cho nên tiếp tục đưa ra.

C. Tông thú, trong này chính thức trình bày về pháp thuộc đức của quả Phật, tóm lược đưa ra bốn môn: Một, Tổng quát phân rõ về đức của Phật; hai-Riêng biệt hiển bày về tướng của nghĩa; ba-Phân rõ xác định về văn này; bốn-Hiển bày về không thể nghĩ bàn.

Trong phần một: Nếu nói đến 140 pháp Bất cọng thì đều bao gồm Tiểu thừa và Sơ giáo… Nếu phân rõ về pháp giới thanh tịnh và bốn Trí làm đức thì bao gồm Thỉ-Chung và Tiệm giáo. Nếu dùng Thật đức cùng một vị thì chỉ riêng Đốn giáo, nói như phẩm Quang Giác… Nếu đầy đủ tất cả đức của vô tận, thì như văn này… là Nhất thừa Viên giáo.

Hai: Riêng biệt hiển bày về tướng của nghĩa: Công đức của chư Phật không vượt qua hai loại, đó là Tu sinh và Bổn hữu. Hai loại này đối lập với nhau, tổng quát có bốn câu: 1) Chỉ riêng Tu sinh, đó là thiện căn như Tín…, xưa không có mà nay có. 2) Chỉ riêng Bổn hữu, đó là Hằng sa công đức thuộc tánh Chân Như. 3) Bổn hữu thuộc Tu sinh, đó là Như Lai Tạng chờ đợi Liễu nhân ấy xưa ẩn kín mà nay hiển bày. 4) Tu sinh thuộc Bổn hữu, đó là Trí vô phân biệt… bên trong phù hợp với Chân Như, sâu xa vốn cùng một tướng. Đây là có bốn Nghĩa mà không có bốn Sự, giống như đồ vật trang nghiêm bằng vàng: Nếu nói chọn lấy cân lượng, thì Bổn hữu như vàng; nếu làm ra tướng trạng của đồ vật trang nghiêm, thì công thợ là Tu sinh; nếu nhờ vào thành tựu đồ vật trang nghiêm mới hiển bày đức của vàng, thì Bổn hữu thuộc Tu sinh; nếu thu nhận đồ vật trang nghiêm thuộc về vàng làm thành chứ không có tự Thể riêng biệt, thì Tu sinh thuộc Bổn hữu. Vậy thì biết chỉ có vàng mà không ngăn ngại đồ vật trang nghiêm, cho nên chỉ một Pháp thân không ngăn ngại Báo thân-Hóa thân; chỉ có đồ vật trang nghiêm mà không ngăn ngại vàng, cho nên chỉ riêng Báo thân-Hóa thân cũng tức là đầy đủ Pháp thân. Còn lại đều dựa theo đây. Vì vậy có thể nói Hóa thân tức là Pháp thân…, toàn thể thu nhận đến cùng, còn lại dựa theo suy nghĩ.

Ba: Phân rõ xác định về văn này: Như vậy bốn nghĩa trên thâu nhiếp có hai môn: 1) Dựa theo tự đức của Phật, thì viên dung vô ngại không thể nói được. 2) Dựa vào căn cơ xuất hiện lại có hai môn: a) Phân tướng môn, nghĩa là Hóa thân vì giáo hóa Địa tiền mà hiện bày cõi nhiễm…, Báo thân vì giáo hóa Địa thượng mà hiện bày cõi tịnh; đây là dựa theo căn cơ sai biệt của Tam thừa mà nói. b) Vô ngại môn, nghĩa là Báo thân-Hóa thân không phân biệt, tức là Quyền luôn luôn Thật. Từ “Như thọ vương…” trở xuống là hiện bày thân của mười Phật, trượng sáu rộng khắp mười phương, tám tướng bao gồm pháp giới, các căn và lỗ chân lông đều không có hạn lượng, cũng không ngăn ngại hạn lượng, vậy thì hạn lượng và không có hạn lượng không ngăn ngại gì. Đây là dựa theo Nhất thừa Viên cơ mà nói. Thâu nhiếp có bốn lớp, như phẩm này nói:1) Tóm lược nêu ra mười môn, như đầu phẩm đã hỏi; 2) Thứ tự phân rõ ba mươi hai môn, như phần vị Đại trong giải đáp; 3) Hiển bày đầy đủ có 320 môn, như riêng biệt phân rõ trong giải đáp; 4) Mở rộng trình bày về nhiều môn, như tương tự mười phương, mỗi một phương đều là vô tận vô tận.

Bốn: Hiển bày về nghĩa không thể nghĩ bàn: Nói chung có bốn: 1) Lý vi diệu khó suy lường; 2) Sự rộng lớn khó nhận biết; 3) Hành sâu xa vượt quá thế gian; 4) Dụng của quả vượt lên trên tình thức. Nay văn trong phẩm này bao gồm đầy đủ bốn loại trước, riêng biệt phân rõ về loại thứ tư.

Phân rõ trong loại thứ tư lại tách ra làm bốn: Một, Những gì là không thể nghĩ bàn? Tóm lược phân rõ về mười loại: 1) Trí vượt lên trên mẫu mực của thế gian; 2) Bi vượt qua thường tình của thế gian; 3) Không suy nghĩ mà thành tựu sự việc; 4) Cùng với nhiễm mà luôn luôn thanh tịnh; 5) Những việc đã làm đều bí mật; 6) Nghiệp dụng rộng lớn; 7) Nhiều ít ngay trong nhau-hòa vào nhau; 8) Từng phần và tròn vẹn tự tại; 9) Y báo và Chánh báo vô ngại; 10) Lý và Sự cùng một vị. Vả lại, như văn hiển bày, sợ rằng quá nhiều mà không nêu ra. Hai, Không thể nghĩ bàn đối với loại nào? Cũng có bốn phần vị: 1) Bởi vì vượt quá thế gian; 2) Bởi vì vượt qua Nhị thừa; 3) Bởi vì vượt lên trên phần vị của nhân; 4) Hiển bày về tự Thể của pháp. Ba, Thế nào là không thể nghĩ bàn? Cũng có bốn loại, đó là bởi vì không phải cảnh thuộc trí của VănTư-Tu và Báo sinh. Bốn, Vì sao không thể nghĩ bàn? Cũng có bốn loại, đó là khiến cho tin tưởng mà hướng về, khởi hạnh mà mong cầu, tùy từng phần mà chứng, đầy đủ trọn vẹn mà đạt được.

D. Giải thích văn: Pháp của quả trong ba phẩm dưới đây, cũng có người(Chư đức) đem phối hợp với ba thân, nói đầu là Pháp thân-tiếp là Báo thân-sau là Hóa thân, văn sợ rằng không thích hợp, bởi vì trong phẩm này mở rộng hiển bày về Dụng như tám tướng…, lẽ nào chỉ riêng Pháp thân hay sao? Cũng có người đem phối hợp với Thể-Tướng-Dụng của Phật, hai phẩm sau có thể như vậy, mà phẩm đầu có trở ngại, bởi vì trong phẩm này cũng có Tướng-Dụng. Nay nói phẩm này tổng quát hiển bày về Thể-Dụng thù thắng thuộc đức của Phật, tiếp theo phẩm Tướng Hải là riêng biệt hiển bày về Tướng của đức thù thắng, sau là phẩm Tiểu Tướng riêng biệt phân rõ về Dụng lợi ích của đức thù thắng.

Ngay trong phẩm đầu này, phân văn có bốn: Một là phần thưa thỉnh; hai là phần gia hộ; ba là phần chứng được, bốn là phần thuyết giảng.

Trong phần một có hai: 1) Trình bày về người chủ động thưa thỉnh, Đại chúng cùng nghĩ đến là biểu thị cho pháp vốn sâu xa vi tế. 2) Chính thức hiển bày về mười pháp đã nghĩ đến, ở đây nói không nghĩ bàn là hiển bày về pháp của quả đức vượt qua nói năng suy nghĩ, nghĩ đến pháp không nghĩ bàn này mà mong mỏi thuyết giảng về pháp ấy: Một, Hỏi về nơi Đức Phật xuất hiện. Hai, Hỏi về nhân của xuất hiện, nghĩa là do Bổn nguyện, bản tiếng Phạm nói là nguyện thanh tịnh ở quá khứ. Ba, Hỏi về gia tộc-chủng tánh-nơi chốn sinh ra, ở đây giải thích dựa vào tên gọi tiếng Phạm không phải là chủng tánh… của Phật ở trong nhân vị. Bốn-Tổng quát trình bày về ứng với căn cơ mà xuất hiện ở thế gian. Năm-sáu-bảy là riêng biệt hiển bày về nghiệp dụng của ba Luân. Tám, Hỏi về Thể của Đại Dụng. Chín, Hỏi về Tướng của Đại Dụng. Mười, Hỏi về Đại Dụng tự tại.

Trong phần hai là phần gia hộ: 1) Nhận biết về pháp khí; 2) Trao cho Thanh Liên… là chính thức hiển bày về tướng gia hộ, biểu thị cho quả không tự mình làm sáng tỏ, đây là hiển bày nhờ vào nhân, vì vậy gia hộ Thanh Liên khiến cho thuyết giảng. Trong mười câu: Đầu là năm câu trao cho thân đầy đủ đức thù thắng, trong đó: Ba câu đầu là trao cho ba nghiệp của Phật, hiển bày giống như Phật phân rõ về bình đẳng, Thần lực là thân nghiệp, Trí là ý nghiệp, Biện tài là ngữ nghiệp; hai câu sau là trao cho phước trí của Phật, Vô úy là trí. Sau là năm câu trao cho tâm đầy đủ Dụng của trí: 1) Cứu cánh… là trao cho trí bên trong nhận biết về pháp giới tròn vẹn của Phật; 2) Trao cho trí thuộc cảnh giới tác dụng của Phật; 3-Trao cho trí thực hành vô ngại của Phật, nghĩa là không suy nghĩ mà thành tựu sự việc…; 4) Phân biệt… là trao cho trí nhận biết về pháp khí của Phật; 5) Không thể kể ra… là trao cho trí phương tiện khéo léo nhiều môn của Phật, khiến cho có thể thuyết giảng.

Vì sao không có thân-ngữ gia hộ? Bởi vì không tiến vào Định. Vì sao chỉ có ý gia hộ? Bởi vì khiến cho tiến vào pháp giới. Bồ-tát này lẽ nào không chứng được pháp giới hay sao? Giải thích: Vị ấy chứng có phần hạn, không phải là rất sâu xa, không phải là vô ngại.

Trong phần ba là phần chứng được: Đầu là năm câu về Tự lợi: Một câu đầu là tổng quát, nghĩa là pháp giới không chướng ngại gì đến quả Phật, Phật gia hộ khiến cho đạt được, vì vậy nói là tiến vào; văn sau nói pháp mà tất cả chư Phật đã thuyết đều tiến vào pháp giới rất sâu xa. Bốn câu còn lại là riêng biệt hiển bày: 1) Hạnh sâu xa; 2) Nguyện rộng lớn. Hai câu này thuộc về Tự phần, tức là hạnh nguyện pháp giới của Phổ Hiền, nay tiến vào hạnh nguyện này cho nên có thể thành tựu. 3) Thuận theo quả; 4) Hiện rõ quả, nghĩa là bởi vì tự trang nghiêm cho quả Phật. Sau là năm câu về đức Lợi tha: Một câu đầu là tổng quát về Bi che phủ chúng sinh bởi vì muốn khiến cho lìa xa cấu nhiễm, khiến cho thành tựu Hạnh thanh tịnh, khiến cho đạt được Tín thanh tịnh, vì vậy nói là thanh tịnh. Bốn câu còn lại là riêng biệt hiển bày: 1) Lượng trí; 2) Lý trí; 3) Tổng trì; 4) Biện thuyết.

Vì sao không nói là tiến vào Tam-muội? Xưa giải thích: Đây tức là tiến vào Định. Lại xưa giải thích: Pháp của quả đã sâu xa, lại tiến vào Định để hiển bày sợ rằng lui sụt niềm tin và hiểu biết, cho nên không tiến vào Định; lại bởi vì pháp sâu xa, cho nên đích xác tiến vào pháp giới. Nay Lại giải thích: Đây là có được lực gia hộ, tiến vào pháp giới thắng tiến của quả Phật, mà khiến cho có thể thuyết giảng.

Trong phần bốn là phần thuyết giảng: Nói cho Liên Hoa Tạng

biết, là hiển bày về pháp khí thù thắng sâu xa khó hiểu, lại biểu thị cho pháp của quả hàm chứa thâu nhiếp sẽ có lúc nở rộ mà gọi tên. Đức của quả không có giới hạn, sơ lược dùng 320 môn để giải đáp câu hỏi trước đây. Trong đó: Đầu là mười môn nêu ra Tông để sơ lược giải đáp, sau là 310 môn tùy theo Nghĩa để mở rộng hiển bày.

Trong mười môn đầu: 1) Nơi cư trú thanh tịnh vi diệu, là giải đáp câu hỏi về thế giới(Sát) trước đây. 2) Cư trú vô lượng tự tại, là giải đáp hai câu hỏi về nguyện thanh tịnh và chủng tánh, bởi vì hai loại này đều là chỗ dựa cho sự xuất thế của Phật, cho nên nói là tự tại. 3) Ứng với căn cơ mà xuất hiện gọi là không mất thời cơ, là giải đáp câu hỏi về Phật xuất thế trước đây. 4) Pháp luân. 5) Bốn biện tài, là giải đáp câu hỏi về âm thanh. 6) Pháp không thể nghĩ bàn, là giải đáp ba câu hỏi về Thần lực-Trú vô ngại và Giải thoát. 7) Âm thanh trong trẻo, là trở lại hiển bày về phạm vi giới hạn của âm thanh trước đây. 8) Pháp giới phân biệt, là giải đáp câu hỏi về trí tuệ trước đây. 9) Ánh sáng soi chiếu, là giải đáp câu hỏi về thân nghiệp trước đây. 10) Cũng hiển bày về ngữ nghiệp đã thuyết giảng rất sâu xa.

Lại giải thích mười môn này là tổng quát trình bày về ứng với căn cơ thành tựu sự việc của Như Lai: 1) Trình bày về Phật tự mình trú vào chân lý. 2) Trình bày về không đắm vào vắng lặng, cho nên nói là tự tại. 3) Không những bên trong không đắm vào vắng lặng, mà bên ngoài cũng thuận theo không sai khác. 4) Ứng với căn cơ không mất những việc làm nào, đó là chuyển Pháp luân. 5) Dùng pháp nào để chuyển, đó là bốn biện tài. 6) Thuyết giảng về pháp gì, đó là pháp không nghĩ bàn. 7) Có thể chuyển đến phạm vi nào, đó là không có phạm vi nào không đạt đến; trước phân rõ về thuyết giảng không có cùng tận trong tất cả thời gian, ở đây trình bày về âm thanh có khắp tất cả mọi nơi. 8) Pháp đã chuyển là bao nhiêu, đó là vô lượng pháp giới; pháp không nghĩ bàn trước đây là hiển bày về sâu xa, vô lượng pháp trong này là trình bày về rộng lớn. 9) Dụng của ngữ nghiệp đã như vậy, Dụng của thân nghiệp là thế nào, đó là ánh sáng soi chiếu khắp nơi, chấm dứt khổ báo-diệt trừ ác nghiệp, cảnh tỉnh mọi căn cơ khiến cho tiến vào pháp… 10) Ngôn giáo thì giống với lý, cho nên nói là tiến vào pháp giới; lại thuyết pháp dựa vào căn cơ khiến cho đều chứng được chân lý, cho nên nói là tiến vào pháp giới, bởi vì không có cứu cánh thì không tiến vào pháp sâu sa. Cuối cùng là kết luận quy về một mối.

Trong phần sau là tùy theo Nghĩa để mở rộng giải đáp có 310 câu, Đại môn có ba mươi mốt phần vị, dựa vào những người xưa thì thuộc về giải đáp câu hỏi trước đây, dựa vào thứ tự câu hỏi thì văn hoàn toàn không thuận. Nay lại vượt qua thứ tự để phân định kết hợp, có phần nào thích hợp, suy cho cùng thì tự mình khó thấy được, bởi vì đức của Phật tự tại không có giới hạn, không phải ngôn từ mà có thể hiển bày theo thứ tự.

Trong đó phân ra làm mười đoạn:

  1. Bốn môn giải đáp câu hỏi thứ nhất về Thế giới Phật trước đây.
  2. Từ “Thập chủng xuất sinh-trú trì-trí tuệ…” trở xuống là ba môn giải đáp câu hỏi thứ hai về Nguyện thanh tịnh.
  3. Từ “Thập chủng công đức ly ác thanh tịnh…” trở xuống là hai môn giải đáp câu hỏi thứ ba về Chủng tánh.
  4. Từ “Ư nhất thiết thế giới, nhất thiết thời hữu thập chủng Phật sự…” trở xuống là ba môn vượt lên trên giải đáp câu hỏi thứ bảy về Trí tuệ của Phật.
  5. Từ “Thập chủng vô lượng thuyết Phật pháp môn…” trở xuống là ba môn giải đáp câu hỏi thứ sáu về Âm thanh của Phật.
  6. Từ “Thập chủng vô ngại trú…” trở xuống là ba môn vượt lên trên giải đáp câu hỏi thứ chín về Vô ngại trú của Phật.
  7. Từ “Cụ túc thập chủng bất tư nghị pháp dĩ thành Chánh giác…” trở xuống là sáu môn quay lại giải đáp câu hỏi thứ tư về Phật xuất thế.
  8. Từ “Thập chủng tối thắng lực…” trở xuống là một môn giải đáp câu hỏi thứ tám về Thần lực của Phật.
  9. Từ “Thập chủng định pháp…” trở xuống là ba môn quay lại giải đáp câu hỏi thứ năm về Pháp thân của Phật.
  10. Từ “Thập chủng Nhất-thiết-trí trú…” trở xuống là ba môn giải đáp câu hỏi thứ mười về Giải thoát của Phật. Tạm thời đưa ra cách phối hợp này, tướng tổng quát viên dung đều dựa theo có thể biết.

Ngay trong đoạn một: Là bốn môn đầu: Một, Phân rõ về Y-Chánh sáu căn của Phật, trình bày về Thể của đức thù thắng. Hai, Khắp nơi các thế giới ứng với căn cơ mà sinh ra, trình bày về dựa vào nơi chốn khởi Dụng. Ba, Trình bày về Dụng ứng với căn cơ giáo hóa không mất thời cơ. Bốn, Nghiệp dụng rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn suy nghĩ. Cùng với thế giới hiện bày, đây là nêu ra Chánh báo hiển bày về Y báo, để giải đáp câu hỏi thứ nhất. Trong mỗi một môn đều có ba, đó là nêu ra mônriêng biệt nêu ra và tổng quát kết luận.

Trong mười câu thứ nhất: Sắc thân… gọi là Pháp giới: 1) Nhiều cho nên gọi là Pháp giới. 2) Rộng cho nên gọi là Pháp giới. 3) Diệu cho nên gọi là Pháp giới, bởi vì trong mười tám Giới vốn là Pháp giới thâu nhiếp. 4) Thuận theo nơi nương tựa, bởi vì thành tựu về chứng Pháp giới. 5) Thuận theo tướng của nghĩa, nghĩa là quỹ phạm vi diệu gọi là Pháp, phạm vi giới hạn khác nhau gọi là Giới. 6) Dựa theo ngay nơi tướng, tức là giống với Chân tánh cho nên gọi là Pháp giới. Sắc thân này là câu tổng quát, những câu còn lại thì đưa vào nơi nương tựa. Sáu câu tiếp theo có thể biết. 8) Vô ngại giải thoát là nghiệp dụng tự tại, như văn dưới nói: Ở trong một mảy trần hiện rõ chư Phật ba đời… 9) Trang nghiêm quốc độ ứng với căn cơ. 10) Nhân tròn vẹn quả đầy đủ.

Mười câu thứ hai: Sinh ra Trí vô tận, trước bởi vì Tướng thuận theo Tánh giống nhau gọi là Pháp giới, nay bởi vì Dụng thuận theo Thể giống nhau gọi là Trí. Lại cũng là trước thì Tướng dựa vào Tánh hiện rõ, nay Dụng thuận theo Trí dấy khởi. Vô tận có ba nghĩa: a) Thời vô tận, nghĩa là niệm niệm…; b) Xứ vô tận, nghĩa là tất cả thế giới…; c) Dụng vô tận, nghĩa là mạng chung sinh ra… Năm câu đầu có thể biết. 6) Trình bày về lợi ích đã thành tựu. 7) Thân trang nghiêm ứng với căn cơ, nghĩa là chân voi đen… 8) Trang nghiêm tách ra khác nhau bởi vì ứng với cơ cảm không giống nhau. 9) Chúng sinh thanh tịnh, nghĩa là điều phục chúng sinh khiến cho lìa xa chướng ngại cấu nhiễm. Chín câu trên là riêng biệt phân rõ. 10) Hiện rõ chư Phật ba đời, bởi vì các loại căn cơ…, là tổng quát kết luận về nhiều môn làm lợi ích cho chúng sinh.

Mười câu thứ ba: Chưa từng mất thời cơ, việc đã làm thích hợp, thuốc và bệnh tương ưng: 1) Cơ cảm hiện rõ thành tựu mà không sai lạc. 2) Túc nguyện thiện căn-hiện báo không sai. 3) Căn thuần thục thọ ký qua lại khiến cho tăng thêm thiện căn, lại thọ ký sẽ đạt được quả, thời gian không có thay đổi. 4) Đối với những chúng sinh quy y tà vạy, thuận theo thị hiện thần lực. 5) Đối với những chúng sinh nghĩ đến Phật, thuận theo thị hiện thân Phật. 6) Giáo hóa thành tựu lợi ích xong rồi rời bỏ mà không thay đổi. 7) Đi vào thành thực hành khất thực vì đến lúc bố thí thức ăn. 8) Thấy Phật sinh tâm hoan hỷ vì đến lúc tiếp nhận giáo hóa. 9) Tạm thời rời bỏ người khó giáo hóa khiến cho sinh tâm lưu luyến ngưỡng mộ. 10) Tùy cơ nghịch thuận tự tại khó mà nghĩ bàn, cũng là tổng quát kết luận.

Mười câu thứ tư: Thế gian không gì sánh được, nói là không có thể ví dụ; tình thức không có thể suy nghĩ, gọi là không thể nghĩ bàn, đây là hiển bày về nghiệp dụng tự tại vượt qua tình thức so sánh. Bốn câu đầu có thể biết. 5) Không lìa xa nơi ban đầu…, như lên trên cõi trời mà không rời khỏi cội cây Bồ-đề… 6) Quyết định một pháp…, bởi vì một pháp tức là tất cả các pháp, mà không hủy hoại một pháp cho nên nói là quyết định. 7) Đối với một niệm…, là thần lực như ý có thể nhanh chóng đến khắp mọi nơi. 8) Thị hiện quả đức. 9) Hiện rõ chư Phật ba đời. 10) Giáo hóa chúng sinh thường ở trong Diệt định, bởi vì Dụng mà luôn luôn vắng lặng. Trên đây là giải đáp câu hỏi thứ nhất, xong.

Đoạn lớn thứ hai: Từ “Xuất sinh-trú trì-trí tuệ…” trở xuống là ba môn giải đáp câu hỏi thứ hai về Nguyện thanh tịnh trước đây. Một, Mười câu đều dựa vào trí Căn bản sinh ra trí Hậu đắc, giáo hóa chúng sinh cho nên gọi là sinh ra Trí trú trì. Lại giải thích: Lý thật thì không có sai biệt, mà Trí soi chiếu trái lại khởi lên Trí nhận biết sai biệt này, nghĩa là trú vào Lý mà duy trì Sự, cho nên nói là sinh ra trú trì; cũng trú vào Sự mà duy trì Lý, cho nên đều nói là Trí. Nếu không như vậy thì trú vào Sự mê lầm Lý, là ngu chứ không phải trí.

Trong mười câu thứ nhất: Một là nêu ra Lý thật cho nên không có thú hướng; hai là hiển bày về tùy theo Sự cho nên sinh ra Nguyện thanh tịnh. Đây là chính thức giải đáp câu hỏi trước, nêu lên ở đầu tiên. Trong ba, không có hai là không có Giác chủ động-Giác thụ động; mà sinh ra… là khéo léo ra khỏi chủ động-thụ động, không trái với không có hai, sau trái với không có hai mà sinh ra hai. Còn lại đều dựa theo đây.

Mười câu thứ hai: Pháp bên trong hàm chứa đức, thuộc về tâm gọi là pháp bên trong, cũng là pháp đã chứng trong tâm: 1) Thân bên trong không có cấu nhiễm, có thể thuận theo tiến vào ba đời. 2) Bên trong đầy đủ ba Luân, một là Thần thông luân thuộc thân nghiệp, hai là Chánh giáo luân thuộc ngữ nghiệp, ba là Ký tâm luân thuộc ý nghiệp. 3) Bên trong có Tổng trì duy trì Pháp trí. 4) Bên trong đầy đủ bốn biện thuyết về Pháp trí. 5) Bên trong có Vô duyên Đại Từ Bi. 6) Bên trong chứng lý quán sát căn cơ. 7) Bên trong có thiện căn, đều là phương tiện khéo léo có thể điều phục chúng sinh. 8-Bên trong có Pháp giới, là pháp đã chứng; trú là Trí chủ động chứng, Vô ngại trú là chủ động-thụ động bình đẳng cho nên không có gì chướng ngại. 9) Bên trong hiện rõ nhiều Phật. 10) Bên trong soi chiếu nhiều kiếp từ xưa đến nay là một ngày, không phải là vừa mới ngay trong nhau(tương tức).

Mười câu thứ ba: Đại pháp rất sâu xa, nghiệp dụng không có bờ bến gọi là Đại pháp, không có suy nghĩ phù hợp với lý gọi là rất sâu xa. Lại vượt qua Tiểu nói là Đại, vượt lên trên nhân nói là sâu xa. Hai câu đầu là Đại thuộc về lực dụng, hai câu tiếp là Đại thuộc về nhiếp hóa, bốn câu tiếp là Đại thuộc về ba nghiệp không trống rỗng, hai câu tiếp là Đại thuộc về y-chánh tự tại, một câu cuối cùng là Đại thuộc về Chánh giác, ở đây còn lại một câu là mười số tăng thêm. Trên đây là giải đáp về Nguyện thanh tịnh, xong.

Đoạn lớn thứ ba: Từ “Ly ác thanh tịnh…” trở xuống là hai môn giải đáp câu hỏi thứ ba về Chủng tánh: Đầu là mười câu về lỗi lầm không có gì không tận cùng, cho nên nói là thanh tịnh lìa xa ác; sau là mười câu về đức không có gì không tròn vẹn, cho nên nói là cứu cánh thanh tịnh; đều là chủng tánh thanh tịnh, cho nên không có gì có thể chê trách.

Trong mười câu thứ nhất: 1) Nhân quá khứ thanh tịnh. 2) Quả hiện tại thanh tịnh, nghĩa là sinh trong nhà của Như Lai ba đời, chính thức giải đáp câu hỏi về chủng tánh, cho nên nêu lên ở đầu tiên. 3) Vị lai thanh tịnh. 4) Ba đời thanh tịnh, bởi vì đều không vướng mắc gì. 5) Một vị thanh tịnh. 6) Nhiều đức thanh tịnh. 7-8 là thân và ngữ thanh tịnh. 9) Danh xưng thanh tịnh. 10) Ứng niệm thanh tịnh.

Mười câu thứ hai: Cứu cánh thanh tịnh, cũng là hoàn toàn vô nhiễm: Ba câu đầu là hạnh nguyện thanh tịnh rời xa Ưu-bà-đề, có nơi giải thích đây là Ưu-bà-di, bởi vì lìa xa Tưởng về người nữ này; có nơi giải thích đây là phiên dịch gọi là Ám độn, trình bày về Đức Phật đã rời bỏ từ lâu, cho nên nói là thanh tịnh; lại phiên dịch gọi là Hý luận, bởi vì Đức Phật đã rời bỏ. Bốn câu tiếp là Y-Chánh gia quyến thanh tịnh; ba câu sau là Lý-Trí nghiệp dụng thanh tịnh, cũng là Pháp thân đức, Bátnhã đức và Giải thoát đức thanh tịnh. Trên đây là giải đáp câu hỏi về Chủng tánh, xong.

Đoạn lớn thứ tư: Từ “Ư nhất thiết thế giới…” trở xuống là ba môn vượt lên trên giải đáp câu hỏi thứ bảy về Trí tuệ của Phật. Trong đó mười câu đầu là trình bày về Dụng của Trí soi chiếu căn cơ, mười câu tiếp là trình bày về Thể của Trí sâu rộng, mười câu sau là trình bày về Đức của Trí không có đoạn dứt.

Trong mười câu thứ nhất: Nghĩa là Thời-Xứ rộng lớn nhanh chóng dấy khởi, cho nên nói là thành tựu lợi ích. Lại tất cả thế giới là khắp nơi, tất cả thời gian là thường xuyên, nghĩa là nối tiếp nhau không có gián đoạn. Nhiếp Luận nói: “Như luôn luôn cảm thọ vui sướng, như luôn luôn bố thí thức ăn…” Hai câu đầu là hiện thân thuyết pháp, hai câu tiếp là tăng thêm công hạnh xác định phần vị. Nói phần vị Chánh pháp là từ Địa thứ nhất trở lên. Hai câu tiếp là ứng với căn cơ qua lại các thế giới, hai câu tiếp là tâm Bi giáo hóa thâu nhiếp chúng sinh, hai câu sau cuối là Thể-Dụng lợi ích chúng sinh.

Mười câu thứ hai: Vô tận trí hải, trước là ứng với Dụng thường xuyên khắp nơi, đây tức là biển trí sâu rộng, cho nên nói là Vô tận: 1) Trí giống như Lý sâu xa. 2) Phước giống như Trí rộng lớn. 3) Pháp đã thấy cao xa. 4) Thiện căn khó suy lường. 5) Hành giống như pháp tánh. 6) Mưa pháp tuôn chảy khắp nơi. 7) Ca ngợi về đức vô tận. 8) Hạnh nguyện rộng lớn. 9) Thường sử dụng không cạn. 10) Nhận biết về biển của tâm hành. 11) Phước trí vô tận. Còn lại một câu.

Mười câu thứ ba: Thường pháp, mười pháp này là các Đức Như Lai đã thường có, đã thường thực hành: Hai câu đầu là thành tựu hạnh lìa xa lỗi lầm, hai câu tiếp là Đại Bi-Đại Lực, hai câu tiếp là thuyết pháp hóa độ chúng sinh, hai câu tiếp là ứng hóa hiện thân, hai câu tiếp là còn-mất không hề nghĩ đến. Giải đáp câu hỏi về Trí tuệ, xong.

Đoạn lớn thứ năm: Từ “Thập chủng vô lượng thuyết Phật pháp môn…” trở xuống là ba môn giải đáp câu hỏi thứ sáu về Âm thanh của Phật. Trong đó: Đầu là mười câu về ngôn thanh thuyết pháp, tiếp là mười câu về những sự thuyết pháp, sau là mười câu nêu ra nhân kết luận về quả.

Ngay trong mười câu thứ nhất: Thuyết pháp môn là hiển bày về pháp môn đã thuyết giảng: Đầu là ba câu thuyết về pháp môn ngay nơi phần vị chúng sinh: Một, Như Lai Tạng là Giới; Hai, Thiện ác không lay động là Hạnh; Ba, Khổ vui… là do nghiệp mà cảm lấy báo. Tiếp là hai câu về môn giáo hóa chúng sinh: Một, Vô lượng phương tiện hóa độ chúng sinh, nghĩa là nhiều tham dục… thì dạy cho quán xét về Bất tịnh…; Hai, Chúng sinh thực hành thanh tịnh thì trao cho Giới Học… Tiếp là hai câu về môn giáo hóa Bồ-tát: Một, Hạnh; Hai, Nguyện. Tiếp là hai câu thuyết về môn nhiễm-tịnh và vui mừng-chán ngán: Một, Thuyết về thành-bại của quả nhiễm khiến cho chán ngán; Hai, Thuyết về thanh tịnh khiến cho vui mừng. Sau cuối là một câu thuyết về môn chư Phật ba đời xuất hiện khiến cho đi đến cúng dường.

Mười câu thứ hai: Thường vì chúng sanh mà làm Phật sự, dùng mười pháp này mở mang hiểu biết cho chúng sinh tiến vào pháp, thành tựu lợi ích gọi là Phật sự, việc làm không có ngừng nghỉ cho nên nói là thường xuyên. Hai câu đầu là việc làm thuộc thân-ngữ; hai câu tiếp là tiếp nhận-không tiếp nhận làm Phật sự, nghĩa là tiếp nhận thì khiến cho thành tựu Bố thí, không tiếp nhận thì khiến cho học theo hạnh ít ham muốn; hai câu tiếp là dùng bốn Đại thần lực làm Phật sự; hai câu tiếp là danh hiệu thế giới làm Phật sự; hai câu sau là sát hải của Phật lặng lẽ an trú mà làm Phật sự, cho đến tất cả các pháp đều có thể làm Phật sự, thường xuyên làm không nghỉ.

Mười câu thứ ba: Kiên cố sĩ pháp, nếu có thể thực hành mười

pháp kiên cố này thì gọi là Kiên cố sĩ pháp: 1) Nguyện kiên cố; 2) Hạnh kiên cố; 3) Giáo hóa kiên cố; 4) Đại Bi kiên cố; 5) Đại tâm kiên cố; 6) Rời bỏ thế gian hướng về xuất thế gian kiên cố; 7) Rời bỏ Tiểu thừa hướng về Đại thừa kiên cố; 8) Tâm thanh tịnh soi chiếu pháp kiên cố; 9) Chán ngán bốn Đại cứu giúp chúng sinh kiên cố; 10) Thay thế chịu khổ thâu nhiếp chúng sinh kiên cố. Trên đây là giải đáp câu hỏi về Âm thanh của Phật, xong.

Đoạn lớn thứ sáu: Từ “Thập chủng vô chướng ngại trú…” trở xuống là ba môn vượt lên trên giải đáp câu hỏi thứ chín về Vô ngại trú của Phật. Trong đó: Đầu là mười câu chính thức hiển bày về nơi an trú vô ngại, tiếp là mười câu trình bày về đầy đủ đức vô ngại, sau là mười câu phân rõ về pháp tự tại vô ngại ấy.

Trong mười câu thứ nhất: Do thân-trí mà làm yên lòng chúng sinh không có gì có thể ngăn ngại, gọi là vô ngại trú: Năm câu đầu là thân trú vào thế giới không có gì chướng ngại, năm câu sau là Trí trú vào pháp đã nhận biết không có gì chướng ngại. Trong đó: Hai câu đầu là trú vào chứng lý thuyết pháp, nghĩa là trú vào pháp giới ba đời, là chứng được chân tánh bặt dứt ba thời gian. Hai câu tiếp là trú vào dưới thì giáo hóa-trên thì giống nhau, nghĩa là dưới thì đối với chúng sinh nhận biết căn cơ khéo léo giáo hóa, trên thì đối với Phật pháp dùng thân của trí tuệ mà an trú. Hai câu sau là trú vào phân biệt nhiễm-tịnh, còn lại một câu.

Mười câu thứ hai: Tối thắng là bởi vì đã vượt qua phần vị phía dưới, Vô thượng là bởi vì phía trên không có gì hơn nữa, dùng đức thù thắng trang nghiêm để tự trang nghiêm. Trong mười câu đều trước là giải thích về nghĩa của trang nghiêm, sau là kết luận về tên gọi ấy: 1) Ba Minh là ba nghiệp trang nghiêm. 2) Trong ngữ nghiệp, tám âm… là trình bày về Thể của âm thanh đầy đủ đức, diễn thuyết… là trình bày về Dụng của âm thanh khéo léo thuyết giảng, đều khiến cho… là làm lợi ích cho chúng sinh không hư giả. 3) Trong ý nghiệp, trước là trình bày về ý thâu nhiếp các đức, ở trong một niệm… là hiển bày về Dụng của ý không có bờ bến. 4) Trong ánh sáng trang nghiêm, trước là Thể của mỗi một ánh sáng… là trình bày về nghiệp thuộc nhân, soi chiếu khắp nơi… là nghiệp thuộc thị hiện, trừ diệt… là nghiệp thuộc ngăn chặn-nghiệp thuộc hành phục, hiện rõ chư Phật… là nghiệp thuộc cung kính. 5) Trong ánh sáng mỉm cười, đầu là hiển bày về nghĩa soi chiếu khắp nơi, đều thọ ký… là hiển bày về lìa xa ngu si, nghĩa là thành tựu lợi ích không hư giả. 6) Pháp thân ra khỏi ràng buộc lìa xa nhiễm ô là trang nghiêm. 7)Trong ánh sáng thường xuyên trang nghiêm, bởi vì các ánh sáng khác đều từ trong này phát ra, cho nên gọi là Tạng. 8) Diệu sắc có sáu câu, một câu đầu là tổng quát, năm câu còn lại là riêng biệt, đều vượt lên trên biểu hiện của thế gian, gọi là Diệu. 9) Chủng tánh trang nghiêm, đây là chủng tánh của nhà sinh ra, cũng là sinh ra trong nhà Chân Như. 10) Trong Đại Từ… trang nghiêm, nói Vô thượng thọ giả, là trong ruộng phước tiếp nhận cúng dường, Đức Phật là bậc nhất, cho nên gọi là Vô thượng.

Mười câu thứ ba: Chánh pháp tự tại, là đối với pháp tự tại không có gì chướng ngại. Hai câu đầu là tự tại đối với giáo pháp, trước là thuyết giảng giáo pháp, sau là ứng với căn cơ. Hai câu tiếp là tự tại đối với thế giới, trước là rung động, sau là trang nghiêm. Hai câu tiếp là Thời-Xứ tự tại, trước là Thời, sau là Xứ; cũng là trú vào thọ mạng tự tại, đi đến khắp nơi tự tại. 7) Trong Chánh giác tự tại có hai cách giải thích: a) Tùy theo văn giải thích, nghĩa là tất cả chư Phật đều vì điều phục giáo hóa những chúng sinh mà mình đã giáo hóa, tất cả đều thị hiện thành tựu Chánh giác, cho nên nói là niệm niệm, chứ không phải là một Đức Phật; đã đều thị hiện thành tựu, không phải trước kia không giác ngộ nay mới bắt đầu giác ngộ, cho nên nói là trước kia đều đã giác ngộ… đây là hiện rõ Dụng của Hóa thân. b) Dựa vào nghĩa giải thích, một Đức Phật tức là khắp nơi tất cả chúng sinh, rộng khắp mười phương vi trần, tận cùng ba đời, niệm niệm cùng lúc, trước sau đều thành tựu Chánh giác, đây tức là thật sự thành tựu chứ không phải hóa hiện, chỉ bởi vì không thành tựu thì ngừng, thành tựu thì từ xưa đến nay thành tựu, cho nên nói là trước kia đều đã giác ngộ… Bởi vì thâu nhiếp tất cả ba đời, không có quá khứ không thành tựu, cho nên nói là không trú vào pháp Học của Địa… Điều này có thể dựa theo Tông mà suy nghĩ. 8) Các căn cùng tác dụng tự tại, nếu Tiểu thừa thì chỉ tác dụng biến hóa, Tiệm giáo Đại thừa thì thay đổi chuyển sang tác dụng, Viên giáo Nhất thừa cũng không biến hóa-không thay đổi, cùng hòa vào từ xưa đến nay làm thành tất cả tác dụng. 9) Lỗ chân lông bố trí chúng sinh, dựa vào môn pháp tánh dung thông mà suy nghĩ, đây là Chúng sinh thế gian tự tại. 10) Một niệm hiện rõ Chánh giác, đây là Trí chánh giác-Khí thế gian tự tại. Trong đó: Một, Ở trong một niệm hiện rõ một Đức Phật giống như pháp giới. Hai, Ở trong niệm ấy tương tự hiển bày về nhiều Đức Phật. Ba, Nêu ra một niệm tương tự hiển bày về nhiều niệm. Bốn,Nêu ra một tòa hoa tương tự hiển bày về thế giới như hư không pháp giới… đều hiện rõ thân Phật giống như pháp giới. Suy nghĩ sẽ biết, cảnh giới Phật không thể nghĩ bàn thuộc về nơi này. Trên đây là giải đáp câu hỏi về Vô ngại trú, xong.

Đoạn lớn thứ bảy: Từ “Cụ túc thập chủng bất tư nghị pháp dĩ thành Đẳng Chánh Giác…” trở xuống là sáu môn quay lại giải đáp câu hỏi thứ tư về Phật xuất thế. Trong đó: Một, Thu nhận duyên hiện rõ Giác; Hai, Trong không có khéo léo hiện rõ; Ba, Đã hiện rõ khó suy lường; Bốn, Quả vị như nhau; Năm, Trí trú vào cảnh vi diệu; Sáu, Nhận biết về pháp không sót lại gì. Tất cả nêu ra môn có thể thấy.

Trong mười câu thứ nhất: Hai câu đầu là đầy đủ tướng của quả, nghĩa là trước đầy đủ tướng bên ngoài, sau tròn vẹn đức bên trong. Hai câu tiếp là đầy đủ đức của nhân, nghĩa là trước phước-sau hạnh. Hai câu tiếp là ứng với căn cơ mà hiện rõ, nghĩa là pháp thù thắng không hủy hoại là công đức làm cho ma phải hàng phục. Hai câu tiếp là trang nghiêm thế giới đầy đủ trí. Hai câu tiếp là tướng tròn vẹn-đức đầy đủ. Một câu sau cuối là sự việc hoàn thành nêu rõ kết thúc.

Mười câu thứ hai: Phương tiện khéo léo, nghĩa là chứng lý bình đẳng có thể khởi lên hạnh thù thắng trong có, cho nên nói là khéo léo. 1) Nhận biết về pháp không có cứu cánh là chứng lý, mà thuyết giảng về cứu cánh… là phương tiện khéo léo. Nếu ở nơi Lý không có thì trái với Sự có này, hoặc là nói về Sự có thì trái với Lý không có kia, đều không phải phương tiện khéo léo. Nếu hai nghĩa đều riêng biệt, hoặc là hợp lại làm một thì cùng mất đi, đều không phải phương tiện khéo léo. Nay đều trái với điều này, cho nên gọi là phương tiện khéo léo. Bởi vì đây là giải thích về nghĩa xuất thế của Phật, cho nên dựa vào phương tiện hướng về Sự mà nói. 2) Chứng không có chủ động thấy-thụ động thấy mà khéo léo thấy được pháp giới. 3) Không có tướng mà nhận biết tướng, không có tánh mà hiện rõ sắc. 4) Chứng lý phai mờ ba thời gian, mà thấy chư Phật ba đời rõ ràng. 5) Ba nghiệp không có tạo tác, mà diễn bày về pháp rộng rãi. 6) Lý mất hết nhiễm-tịnh, mà không hủy hoại thế gian và Dụng của trí Phật. 7) Dùng pháp dựa vào không hợp thời mà dung thông thời gian hòa vào nhau, lại luôn luôn trú vào không hợp thời mà thuyết pháp hợp thời. 8) Dùng pháp đã chứng không hợp thời mà không lìa xa thời gian, đầy đủ mười biện tài thuyết về pháp vô tận. 9) Chứng pháp không có tên gọi mà khéo léo khởi lên danh cú. 10) Không có Uẩn-Giới-Xứ mà không hủy hoại tướng của pháp, lại khéo léo thông hiểu hai Không, khéo léo phân biệt ba Tụ…

Mười câu thứ ba: Có mười loại Phật sự vô lượng… nghĩa là quả hiện rõ khó suy lường đều thâu nhiếp chúng sinh tiến vào đạo, cùng gọi là Phật sự, nghiệp dụng rộng lớn đều là môn vi tế tương dung cho nên không phải cảnh khác.

1. Trong cõi trời Đâu-suất làm Phật sự thâu nhiếp chúng sinh: Một, Riêng biệt nêu ra có thể thâu nhiếp, tổng quát hiển bày về đã thâu nhiếp; Hai, Từ “Đại Từ…” trở xuống là tổng quát hiển bày về có thể thâu nhiếp làm rõ năng nhiếp, riêng biệt trình bày về lợi ích đã thâu nhiếp, đều hiển bày như văn.

2. Từ cõi trời Đâu-suất giáng thần tiến vào thai mẹ làm Phật sự, trong đó có bốn: Một, Trí đức bên trong tròn vẹn. Hai, Đối với cuối cùng… là phân rõ về nơi chốn của phần vị ấy. Ba, Hoặc dùng thần lực… là chính thức hiển bày về nghiệp dụng, có mười như văn, trong đó: Hoặc từ lúc mới phát tâm là bởi vì thâu nhiếp quá khứ, hoặc vào lúc Niết-bàn là bởi vì thâu nhiếp vị lai, cho nên lúc tiến vào thai không những đầy đủ tám tướng, mà cũng thâu nhiếp nhân hạnh của quá khứ, như nói ở phần Ma-da trong phẩm Pháp Giới sau này. Bốn, Từ “Thử đệ nhị Địa…” trở xuống là chính thức trình bày về thâu nhiếp đầy đủ tám tướng-thời gian-phương xứ… mà làm Phật sự.

3. Lúc còn ở trong cung vua thọ nhận cảnh giới dục lạc thâu nhiếp giáo hóa mà làm Phật sự, trong đó: Một, Tự hành bên trong tròn vẹn. Hai, Từ “Đại Bi…” là khéo léo quán sát về bốn Đẳng. Ba, Từ “Quảng năng vi thuyết…” trở xuống là chính thức hiển bày về lợi ích thâu nhiếp. Bốn, Từ “Tuy xử vương cung…” trở xuống là trình bày về lợi ích thâu nhiếp sâu rộng, nghĩa là tất cả nơi chốn là rộng, ba nghiệp thanh tịnh là sâu.

4. Lúc xuất gia thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có bốn: Một, Làm vị dẫn dắt chúng sinh tham ái khiến cho đạt được hạnh thanh tịnh. Hai, Từ “Thị hiện thế gian xả ly…” trở xuống là dẫn dắt chúng sinh ngu si khiến cho đạt được trí tuệ. Ba, Từ “Thị hiện chúng sinh vô thượng…” trở xuống là dẫn dắt chúng sinh ít phước khiến cho đầy đủ phước trí. Bốn, Từ “Quảng vị chúng sinh…” trở xuống là trao cho tướng của Chánh pháp.

5. Lúc thành đạo thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có ba: Một, Hiện rõ Chánh giác của mình. Hai, Từ “Trang nghiêm nhất thiết…” trở xuống là thâu nhiếp quyến thuộc bên trong. Ba, Từ “Linh nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, nghĩa là trước khiến cho hạnh thành tựu-đức đầy đủ, từ “Tất phân biệt…” trở xuống là khiến cho thiết lập mở rộng Đại Trí.

6. Lúc chuyển Pháp luân thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có mười loại Pháp luân: Một, Giáo kiên cố không lui sụt; hai, Nhận biết khắp nơi về nhiều Luân; ba, Pháp đã thuyết quyết định; bốn, Thành tựu lợi ích không hư giả; năm, Thể của Luân rộng lớn; sáu, Cảnh của Luân rất sâu xa; bảy, Dụng của Luân soi chiếu phía dưới; tám, Luân có thể hiện rõ phía trên; chín, Tánh của Luân bình đẳng; mười, Tổng quát kết luận về vô tận. Mười chuyển Pháp luân vô tận của Nhất thừa thích hợp với văn này.

Lúc đi vào Vương thành… thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có bốn: Một, Đi vào Vương thành làm lợi ích cho chúng sinh; Hai, Từ “Nhất thiết chư Phật sắc thân…” trở xuống là trình bày về có thể dùng sắc tướng oai nghi… để làm lợi ích; Ba, Từ “Bỉ chư chúng sinh…” trở xuống là hiển bày về tướng đã làm lợi ích; Bốn, Từ “Dĩ như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về vô tận.

7. Từ “Hoặc trú A-luyện-nhã…” trở xuống là trình bày về nghĩa tùy theo nơi an trú… thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có bốn: Một, Nơi an trú thâu nhiếp làm lợi ích; Hai, Dùng cảnh giới để thâu nhiếp làm lợi ích; Ba, Dùng pháp đã thuyết giảng để thâu nhiếp làm lợi ích; Bốn, Dùng thời gian đã an trú để thâu nhiếp làm lợi ích.

8. Dùng tạng công đức vô tận để thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có ba: Một, Trình bày về giáo hóa đã thành tựu lợi ích tiến vào phần vị Bồ-tát; Hai, Từ “Hoặc hiện Niết-bàn…” trở xuống là hiển bày về phương tiện có thể giáo hóa; Ba, Từ “Hoặc phát chúng sinh…” trở xuống là giáo hóa tiến vào phần vị thuộc cảnh giới của Phật.

9. Lúc thị hiện Niết-bàn thâu nhiếp làm lợi ích, trong đó có ba: Một, Lợi ích về thị hiện diệt độ lưu luyến ngưỡng mộ; Hai, Lợi ích về xá-lợi để lại; Ba, Dựng tháp thờ tóc-móng-răng, nghĩa là khiến cho thành tựu nhân-đạt được quả, nghĩ đến ân-ca ngợi đức.

Mười câu thứ tư: Pháp Vương không có pháp khác là trình bày về quả vị như nhau: 1) Thọ ký riêng biệt không khác nhau; 2) Toại nguyện đều giống nhau; 3) Pháp thân không khác nhau; 4) Trí tuệ như nhau; ) Phật đã nhận biết giống nhau; 6) Thế giới đã nhận biết giống nhau, bởi vì quả không có hơn-kém; 7) Lời nói giống như pháp âm; 8) Tất cả đều giáo hóa chúng sinh; 9) Nhiễm và tịnh cùng phai mờ; 10) Thiện căn giống với Chân Như. Nhưng ở nơi khác nói về bốn loại bình đẳng, cho nên nói Tỳ-bà-thi tức là Thích-ca, mười loại trong này không có gì khác, cũng là ý nghĩa bình đẳng có thể biết.

Mười câu thứ năm: Hướng về mười loại pháp trú, nghĩa là Phật luôn luôn an trú trong mười loại pháp này: 1) Phật trú; 2) Phạm trú; 3) Dựa vào Nguyện vốn có; 4) Trú vào tâm Bi hiện có; ) Không có công dụng; 6) Lìa xa tình thức hư vọng; 7) Niệm không hề tạm thời mất đi; 8) Tâm không có giới hạn ngăn ngại; 9) Không có lúc nào không ở trong Định; 10) Trú vào phạm vi chân thật.

Mười câu thứ sáu: Nhận biết về mười loại đều không sót lại gì, là Đại Trí không có giới hạn soi chiếu cảnh không sót lại gì: Ba câu đầu tức là ba Đạt viên minh. Ba câu tiếp là nhận biết về Chúng sinh thế gian, nghĩa là nhiều loại chúng sinh với ngôn ngữ âm thanh sai khác, gọi là con đường ngôn ngữ. Hai câu tiếp là nhận biết về xuất thế, nghĩa là Bồ-tát và Phật. Ba câu sau là nhận biết về pháp môn, một là tổng quát nhận biết về duyên khởi, hai là riêng biệt nhận biết về Sự tướng, ba là dùng Lý để hiểu Sự, như Đế võng trùng trùng, đều như trong Địa Luận ở trước đã giải thích. Trên đây là giải đáp câu hỏi về Phật xuất thế, xong.

Đoạn lớn thứ tám: Từ “Thập chủng tối thắng lực…” trở xuống là giải đáp câu hỏi thứ tám về Thần lực của Phật. Trong đó có một trăm môn: Đầu nêu ra mười môn là tổng quát nêu ra, sau riêng biệt giải thích về mười môn. Mỗi một môn tổng quát có đủ mười môn riêng biệt, và mỗi một môn riêng biệt thâu nhiếp mười môn tổng quát, cho nên trở thành một trăm môn. Vì sao biết được? Bởi vì trong nêu ra nói là mười loại Lực tối thắng, Đại lực-Vô lượng lực, cho đến pháp an trú của Phật, làm một câu nêu ra mà biết. Nói mười loại là nối liền chín Lực sau, đều có mười. Sau nói những gì là mười? Tổng quát nêu ra mười Lực trước đều có mười nghĩa, nhưng bởi vì nghĩa giống nhau, cho nên cũng tổng quát dùng mười môn để giải thích chung về mười Lực trước đây. Vì vậy trong kết luận tất cả chỉ có kết luận về môn thứ nhất, bởi vì mười loại này đều là Đại lực Na-la-diên…

Lấy Đại lực làm tổng quát, chín loại còn lại thâu nhiếp ở trong Đại lực, cho nên có mười loại Đại lực: 1) Lực dụng vượt qua yếu kém gọi là Tối thắng lực. 2) Thể ấy nhiều năng lực gọi là Đại lực. 3) Nghiệp dụng nhiều môn. 4) Dụng thù thắng của Đại phước. 5) Uy đức rất tôn quý, như ngoại đạo trông thấy Phật mà tự mình làm trái quy định trước kia bất giác đứng dậy lễ chào…. 6) Việc đã làm không trống rỗng. 7) Có thể hủy hoại quân ma. 8) Không bị người khác làm cho hủy hoại. 9) Nghiệp dụng vượt lên trên sự biểu hiện của thế gian. 10) Tất cả thế gian không có gì có thể phá hoại.

Nói Đại lực Na-la-diên tràng… là kết luận đưa về loại tổng quát thứ nhất. Na-la-diên, Trung Hoa nói là Kiên Lao, tức là tên gọi Lực sĩ của Đế Thích, nêu ra gần để so sánh.

Từ “Phật sở trú chi lực…” trở xuống là trong riêng biệt giải thích:

1. Lực của thân mạng không có gì làm hại, đây là giải thích về Đại lực Tối thắng. Đức Phật đã gia hộ giữ gìn cho chúng sinh, và Đức Phật đã làm cho chúng sinh an lành, như trên Kim cang; mưa gió đều không thể làm hại được, như bà lão bị xua đuổi; ẵm con trẻ lao vào lửa, như hồ sen mát lành…

2. Lực của lỗ chân lông dung nạp giữ gìn, đây là giải thích về lực Vô lượng. Như hư không, là bởi vì có thể dung nạp nhiều, bởi vì không có gì mệt mỏi.

3. Lực của mảy lông mang đi nhanh vòng quanh núi, đây là giải thích về lực Đại công đức. Lỗ chân lông trên thân Như Lai cùng với số lỗ chân lông vốn có của tất cả chúng sinh khắp pháp giới mười phương bằng nhau, là hiển bày về lỗ chân lông đã nhiều, mà đều mang đi như trên Kim cang, vòng quanh núi là trình bày về vật nặng đã nâng lên. Một bước… là đi bước lớn, niệm niệm… là bước đi nhanh chóng, mười phương hư không giới… là đã đến nơi xa, toàn bộ quá khứ… là đi trải qua thời gian dài, không có gì mệt mỏi yếu kém… là không khác gì không bước đi.

4. Lực của Định Dụng tự tại, đây là giải thích về lực Tôn trọng. Trong đó: a) Thân không rời khỏi Định, giáo hóa không mất thời cơ; b) Chỉ ra duy trì chúng sinh giới mà không rời khỏi chỗ ngồi khắp nơi.

5. Lực thường chuyển Pháp luân ở khắp mọi nơi, đây là giải thích về lực Bất thối chuyển, trong đó có hai: Một, Dùng một thân Phật rộng khắp pháp giới thường chuyển Pháp luân; Hai, Từ “Như Lai nhất Hóa thân…” trở xuống là trình bày về tất cả các thân thường chuyển Pháp luân. Trong phần một, mỗi một… là thuyết giảng nhiều, tận cùng đời kiếp như số vi trần… là thường xuyên thuyết giảng, chuyển Chánh pháp luân… là lợi ích của thuyết giảng. Trong phần hai, ở mỗi một đầu mảy lông niệm niệm giáo hóa… là hiển bày về nhiều thân Phật trùng trùng ở khắp mọi nơi vô ngại mà thường xuyên thuyết giảng.

Hỏi: Nếu dựa vào văn này, thì Phật không có lúc nào không thuyết giảng, vì sao thậm chí chỉ có một Bộ lưu hành?

Đáp: Đây là nơi chúng sinh cơ cảm thuyết giảng làm một Bộ, mà Như Lai thuyết pháp chưa từng tạm nghỉ, bởi vì Đại cơ thường cảm không có gián đoạn.

Hỏi: Nếu khắp nơi hư không ở đầu mảy lông đều có thuyết pháp, vì sao nơi này ngay bây giờ không nghe?

Đáp: Bởi vì căn không có thuần thục, giống như người mù không

thấy mặt trời, chứ không nói là không có mặt trời xuất hiện giữa thế gian…; cũng bởi vì điếc cho nên không nghe, chứ không nói là không có thuyết giảng. Nếu như vậy thì thuyết giảng lẽ ra không khắp nơi thế giới chúng sinh? Giải thích: Bởi vì khắp nơi, cho nên đến nơi không nghe có thể khiến cho không nghe, đến nơi nghe khiến cho nghe thấy; đến nơi nghe có giới hạn, nơi nghe không có giới hạn, đều như ngay lúc ấy cho nên gọi là khắp nơi. Vì vậy bây giờ không nghe cũng là Đức Phật đang thuyết pháp.

6. Lực của chữ Đức trên ngực là tướng hàng ma, đây là giải thích về lực Kiên cố.

7. Lực của âm thanh vang khắp mọi nơi, đây là giải thích về lực Bất khả hoại.

8. Lực của Chứng lý hiện bày sự việc vô ngại, đây là giải thích về lực mà tất cả thế gian không có thể nghĩ bàn. Trong đó, đầu là Chứng lý vô cùng sâu xa, sau từ “Tùy trí tuệ chuyển…” trở xuống là hiện bày sự việc tự tại.

9. Lực của Pháp thân sâu xa bí mật, đây là giải thích về lực mà tất cả chúng sinh không có thể hủy hoại. Trong đó, đầu là Pháp thân bình đảng hiện bày khắp nơi vô ngại, sau từ “Kỳ thân sung mãn…” trở xuống là ứng hiện không có nơi chốn, phù hợp với tánh bình đẳng.

10. Lực đầy đủ hạnh của Bồ-tát và Đại trí của Phật, đây là giải thích về Đại lực cuối cùng, kết luận về Lực giống nhau. Trong đó, một là đầy đủ hạnh Bồ-tát thuận với Dụng của Phật quả, hai từ “Trú chư Phật trú…” trở xuống là trình bày về Đức viên mãn của Trí thù thắng, ba từ “Dĩ minh tịnh trí…” trở xuống là Đức soi chiếu thông suốt vô biên cảnh giới.

Đoạn lớn thứ chín: Từ “Thập chủng định pháp…” trở xuống là ba môn quay lại giải đáp câu hỏi thứ năm về Pháp thân. Trong đó: Môn thứ nhất trình bày về thân nghiệp luyện tập Định, môn thứ hai trình bày về thấy lợi ích đã đạt được, môn thứ ba hiển bày khuyến khích quán sát về đức thù thắng.

Trong mười câu thứ nhất: Tám tướng Hóa thân chư Phật đều có, cho nên nói là pháp nhất định, tóm lược không có tướng Niết-bàn. Trong này chính thức hiển bày tác dụng của thân nghiệp, như văn giải thích.

Mười câu thứ hai: Thấy Phật đạt được mười quả báo, là trình bày về việc đã làm không hư rỗng. Trong đó: Hai câu đầu là báo thuộc diệt pháp ác-sinh pháp thiện; hai câu tiếp là báo thuộc nhân tốt lành-quả vui sướng; hai câu tiếp là báo thuộc trừ nghi ngờ không lui sụt, nghĩa là tiến vào phần vị Tam Hiền ở Địa tiền; hai câu tiếp là báo thuộc chứng được phần vị của căn thanh tịnh, từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, bởi vì chứng Địa cho nên gọi là xuất thế, có ra khỏi cảnh quán cho nên gọi là thế gian; hai câu sau cuối là báo thuộc diệt trừ chướng ngại đạt được biện tài, nghĩa là từ Địa thứ tám trở lên.

Mười câu thứ ba: Có mười loại pháp thanh tịnh, Bồ-tát thuận theo nghĩ đến, là nghĩ đến nhân để học theo, nghĩ đến quả để tăng thêm pháp thiện. Trong đó: Sáu câu đầu là nghĩ đến nhân hạnh, bốn câu sau là nghĩ đến quả đức, có thể biết. Trên đây là giải đáp câu hỏi thứ năm về Pháp thân, xong.

Đoạn lớn thứ mười: Từ “Thập chủng Nhất-thiết-trí trú…” trở xuống là ba môn giải đáp câu hỏi thứ mười về Vô ngại Giải thoát của Phật. Trong đó: Môn thứ nhất trình bày về nghiệp dụng của trí Hậu đắc, môn thứ hai hiển bày về Diệu Định tự tại, môn thứ ba chính thức trình bày về giải thoát vô ngại, bởi vì giải thoát này dựa vào Định-Tuệ mà thành tựu.

Trong mười câu thứ nhất: Trí có năng lực nhanh chóng, trí rộng rãi gọi là trú vào Trí. Hai câu đầu là nhận biết căn khí đã giáo hóa, hai câu tiếp là thành tựu sự việc chủ động giáo hóa, hai câu tiếp là hiện rõ về Phật và thần lực, hai câu tiếp là thuyết pháp và biết nơi hướng về, hai câu sau cuối là ứng niệm hiện rõ hình tướng.

Mười câu thứ hai: Có mười loại Tam-muội vô lượng bất tư nghị, là Định ở pháp này có Dụng đối với pháp kia, lại Định này tức là Dụng, cho nên khó mà nghĩ bàn. Trong đó: Hai câu đầu là dựa theo NhânPháp; hai câu tiếp là dựa theo Thời-Xứ; hai câu tiếp là dựa theo ba nghiệp của Phật, rộng khắp mọi nơi pháp giới mà thuyết giảng, ở tất cả mọi nơi có hiện rõ và không hiện rõ…; hai câu tiếp là dựa theo pháp thuộc Lý và Sự; câu thứ chín là Định thuộc về lìa xa thế gian mà luôn luôn hiện rõ thế gian trang nghiêm; câu thứ mười là Định thuộc về chúng sinh mà luôn luôn đến nơi Phật.

Mười câu thứ ba: Có mười loại Vô ngại Giải thoát, là chướng ngại đã không còn gọi là Vô ngại, tác dụng tự tại gọi là Giải thoát. Nếu trong giáo thuộc Tam thừa nói Phật có tám Giải thoát… thì không phải là nơi này thu nhận, mười môn Vô tận này là Giải thoát thuộc Nhất thừa, nên dựa theo mà nhận biết. Hai câu đầu là hiện rõ Phật thuyết pháp; hai câu tiếp là điều phục chúng sinh hiện rõ quốc độ; một câu tiếp là điều phục rồi thọ ký; ba câu tiếp là hiện rõ Y-Chánh thần lực của chư Phật ba đời; hai câu sau cuối là hiện rõ chủ động giáo hóa và thụ động giáo hóa ở ba đời. Như vậy đều dựa theo Pháp, là lực dung thông của pháp tánh, dựa theo Trí là lực tự tại của Như Lai. Bởi vì Trí này thông hiểu pháp kia, vốn viên dung vô ngại, cho nên có thể như vậy. Đây là dựa theo quả viên mãn mà nói. Nếu Bồ-tát đạt được từng phần giải thoát không nghĩ bàn như Duy-ma, thì đều tương tự như vậy.

Phẩm 29: NHƯ LAI TƯỚNG HẢI

A. Giải thích tên gọi: Như Lai là nêu rõ con người hiển bày về đức, Tướng Hải là dựa vào con người hiển bày về tướng. Phước báo hiếm thấy, thân tướng sáng ngời, danh tướng và tướng đức rộng lớn tích chứa sâu thẳm như biển. Đối chiếu bản tiếng Phạm gọi là phẩm Như Lai Thập Thân Tướng Hải phẩm, bởi vì tướng sâu rộng thuộc về mười thân.

B. Ý đưa ra: Nếu dựa theo xa thì phẩm này và phẩm trước giống nhau, giải đáp câu hỏi sau về quả đức của Phật trong hội Phổ Quang. Nếu dựa theo gần thì phẩm trước tổng quát trình bày về pháp của quả, phẩm này riêng biệt hiển bày về đức của tướng, cho nên đưa ra.

C .Tông thú: Chính thức phân rõ về vô biên Tướng hải của quả Phật, lấy đó làm Tông. Giải thích riêng biệt về nghĩa này sơ lược đưa ra tám môn:

Một: Giải thích tên gọi: Trí Luận quyển thứ năm: “Hỏi: Nghĩa về tướng thế nào? Đáp: Dễ dàng nhận biết cho nên gọi là Tướng, như nước khác với lửa, bởi vì tướng cho nên nhận biết.” Giải thích rằng: Nghĩa về sáng tỏ, nghĩa về rõ ràng, nghĩa về nêu ra tách biệt là nghĩa của Tướng.

Hai: Thể tánh: Ba mươi hai tướng này, thì Tiểu thừa đều lấy sắc hình làm Thể. Nếu như Đại thừa thì Sơ giáo dựa vào Du-già lấy bốn căn ở trong hai mươi hai căn làm Thể: a) Nhãn căn; b) Thiệt căn; c) Nam căn; d) Thân căn. Nếu dựa vào Chung giáo thì theo luận Đối Pháp lấy Định-Tuệ làm Thể. Lại thâu nhiếp tướng đưa về gốc chỉ là Thức thanh tịnh làm Thể. Lại thâu nhiếp duyên đưa về thật là chỉ là Chân Như làm Tánh. Nếu như Viên giáo thì Tướng hải lấy pháp giới vô tận làm Tánh.

Ba: Chủng loại: Dựa vào kinh Quán Phật Tam Muội có ba loại: 1) Nói tóm lược trong tóm lược có ba mươi hai tướng; 2) Nói tóm lược có tám vạn bốn ngàn tướng; 3) Nói mở rộng có vô lượng tướng; như trong kinh Tạp Hoa vì Phổ Hiền-Hiền Thủ… mà nói. Giải thích rằng: Tạp Hoa tức là tên gọi khác của Hoa Nghiêm, tướng như số vi trần của mười thế giới Liên Hoa Tạng trong phẩm này gọi là vô lượng. Trong ba loại này, loại đầu chỉ là Tiểu thừa, loại tiếp bao gồm loại trước là Tam thừa, loại sau có đủ hai loại trước là Nhất thừa. Lại loại đầu chỉ riêng Địa tiền nhìn thấy, loại tiếp chỉ riêng Địa thượng nhìn thấy, loại sau bao gồm năm phần vị nhìn thấy. Lại loại đầu chỉ là tướng của Hóa thân, loại tiếp chỉ là tướng của Báo thân, loại sau là tướng của mười thân.

Bốn: Đưa ra nhân: Sơ lược trình bày về bảy loại: 1) Dựa vào Trí Luận thì ba mươi hai tướng này đều lấy Bố thí làm nhân, trong luận ấy mỗi một loại dựa theo Bố thí khác nhau để tách biệt giải thích đưa ra. 2) Dựa vào luận Du Già-Địa Trì thì đều lấy Trì giới làm nhân. 3) Trong kinh có nơi lấy Nhẫn nhục làm nhân. 4) Kinh Thiện Sinh lấy Đại Bi làm nhân, kinh ấy nói ba mươi hai tướng này chính là quả báo của Đại Bi. ) Kinh Lăng Già và kinh Như Lai Tạng, đều nói hằng sa công đức trong Như Lai Tạng đầy đủ ba mươi hai tướng, tức là lấy Tạng tánh làm nhân. 6) Dựa vào kinh Niết Bàn thì lấy mười thiện làm nhân. 7) Dựa vào kinh Đại Tập quyển thứ bảy thì ba mươi hai tướng, nhân sinh ra mỗi một tướng khác nhau. Giải thích rằng: Bởi vì vạn đức viên dung của quả Phật, hoặc là một hạnh bao gồm cảm được nhiều tướng, hoặc là vạn hạnh cùng thành tựu một tướng, hoặc là tánh cần đến Liễu nhân mà chỉ nói là hạnh, hoặc là hạnh chứng lý, thành tựu chỉ dựa theo Tánh đầy đủ.

Năm: Tích lũy mà thành: Trí Luận quyển thứ năm nói: “Mỗi một tướng đều là do trăm phước mà thành tựu. Trăm phước ấy, hoặc là dùng phước của một Chuyển Luân Thánh Vương làm một, như vậy đếm đến số trăm. Hoặc là dùng phước của một Đế Thích làm một. Hoặc là dùng phước của một Thiên Vương Tha Hóa làm một. Hoặc là nói trừ ra Bồtát Bổ xứ, còn lại phước của tất cả chúng sinh làm một. Hoặc là nói cùng cảm được phước của một Tam thiên Đại thiên thế giới làm một. Hoặc là nói như tất cả chúng sinh trong Đại thiên thế giới đều mù mắt, một người chữa lành; tất cả mọi người bị thuốc độc, một người chữa lành; tất cả mọi người phải chết, một người cứu thoát; tất cả mọi người phá giới-phá kiến, một người dạy cho Tịnh giới-Chánh kiến; như vậy đều làm một phước, đếm đến số trăm… Hoặc là nói phước đức không thể nào lường tính-không thể nào ví dụ… làm một, cho đến số trăm.” Giải thích rằng: Luận ấy dựa theo Tiểu thừa và Sơ giáo… mà nói. Nếu dựa theo Tướng hải này thì do phước vô tận mà thành tựu. Văn trên nói: Cầu tìm giới hạn của hư không hãy còn có thể đạt được, một lỗ chân lông của Phật không có bến bờ giới hạn, vậy thì hoặc là lớn hay nhỏ đều đầy đủ pháp giới, đều không có hạn lượng.

Sáu: Thời gian tu tập: Ba mươi hai tướng, nếu Tiểu thừa và Sơ giáo thì trong trăm kiếp sau ba Tăng-kỳ tu nghiệp riêng biệt về tướng tốt, nếu như rất chậm thì trăm kiếp, hoặc là vượt lên trên chín kiếp…, như Trí Luận quyển thứ năm nói. Nếu như Chung giáo trở đi, từ lúc mới phát tâm tu nhân-đầy đủ quả, thì ngay lúc ấy hoặc là do Tu mà sinh ra, hoặc là do Tu mà hiển bày. Nếu như Nhất thừa thì Tướng hải tu tập trải qua vô lượng kiếp.

Bảy: Kiến lập: Trí Luận quyển thứ năm nói: “Hỏi: Tướng của Bồ-tát vì sao chỉ là ba mươi hai tướng chứ không nhiều-không ít? Đáp: Có người nói bởi vì đoan chánh không tạp loạn, nếu ít thì không đoan chánh, nếu nhiều thì thân tướng tạp loạn.” Lại trong kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Phật xuất hiện ở thế gian nêu ra giống như mọi người, cho nên nói ba mươi hai tướng; vì hơn hẳn chư Thiên, cho nên nói tám mươi vẻ đẹp; vì các Bồ-tát, cho nên nói tám vạn bốn ngàn tướng; bởi vì Bồ-tát vốn tu tám vạn bốn ngàn các Độ hạnh.” Trên đây là dựa theo Tam thừa… mà nói; nếu Nhất thừa thì tướng như số vi trần của mười Liên Hoa Tạng này, là thuyết giảng cho Phổ Hiền…, bởi vì tu vô tận Hạnh hải của Phổ Hiền.

Tám: Trình bày về nghiệp dụng: Nhất thừa thì nghiệp dụng nói như phẩm Tiểu Tướng, Thừa khác thì tướng dụng như nói riêng biệt.

D. Giải thích văn: Trình bày về Tướng hải của Phật rộng khắp pháp giới, vốn là Phổ Hiền thuyết giảng. Trong văn có ba: Một, Nhận lời thuyết giảng khuyên nhủ lắng nghe; Hai, Sơ lược thuyết giảng về chín mươi bốn tướng; Ba, Mở rộng kết luận về số vi trần trong mười Liên Hoa Tạng.

Ngay trong phần hai là sơ lược thuyết giảng, tướng Đại có chín mươi bốn loại, trình bày về chỗ dựa của tướng có mười chín nơi, nhưng trong mỗi một tướng đều có bốn nghĩa: 1) Nêu ra tên gọi của tướng; 2) Hiển bày về Thể trang nghiêm của tướng; 3) Trình bày về nghiệp dụng ánh sáng của tướng; 4) Phân rõ về nghiệp dụng thành tựu lợi ích. Cũng có tướng không đầy đủ bốn nghĩa, đến văn sẽ biết.

Đầu tiên trình bày về tướng trên đỉnh đầu, cuối cùng trình bày về tướng dưới chân. Dựa vào kinh Quán Phật có quán thuận-quán ngược, từ đỉnh đầu dần dần xuống phía dưới là trình bày về quán thuận, từ dưới chân dần dần lên phía trên là trình bày về quán ngược; nay vốn là hiển bày về quán thuận.

Thứ nhất: Tướng đỉnh đầu có ba mươi hai loại tướng, vì sao trong này sơ lược trình bày về tướng ở mười chín nơi, nhiều ít không giống nhau, là giải thích về tướng này đều vô tận, chỉ tùy theo nói ít nhiều chứ không quyết định bởi nhiều ít.

Hỏi: Đã đều là vô tận, vì sao tướng đỉnh đầu nhiều nhất?

Đáp: Bởi vì thù thắng nhất, cho nên kinh Thiện Sinh nói: “Tất cả phước đức vốn có ở thế gian không bằng công đức một sợi lông của Như Lai, công đức tất cả các sợi lông của Như Lai không bằng công đức của một vẻ đẹp, tụ hội công đức của tám mươi vẻ đẹp không bằng công đức của một tướng tốt, công đức của tất cả tướng tốt không bằng công đức của một tướng Bạch hào, công đức của tướng Bạch hào lại không bằng công đức của tướng Vô kiến đảnh.”

Trong tướng đỉnh đầu, đầu là bảy tướng chính thức trình bày về tướng đỉnh đầu, sau là hai mươi lăm tướng riêng biệt hiển bày về trang nghiêm.

Trong môn một: 1) Gọi là Minh tịnh, đối chiếu bản tiếng Phạm gọi là Tỳ-lô-giá-na, phiên dịch đầy đủ gọi là Quang minh biến chiếu trang nghiêm. 2) Ba mươi hai loại quý báu dùng để trang nghiêm, là chính thức hiển bày về Thể của tướng đầy đủ đức; trong giải thích tên gọi, chữ Tịnh tức là nghĩa về Trang nghiêm. 3) Phát ra khắp nơi… là phân rõ về nghiệp dụng của ánh sáng phát ra, đây là giải thích về chữ Minh, tức là nghĩa của Quang minh. 4) Soi chiếu khắp nơi… là trình bày về tướng thành tựu lợi ích của nghiệp dụng, tức là giải thích về nghĩa của Biến chiếu. Một môn này cũng là tổng quát-cũng là riêng biệt, bởi vì nêu ra ba mươi hai tướng vốn là tổng quát, bởi vì trong ba mươi hai tướng là môn thứ nhất cho nên cũng là riêng biệt.

Trong môn hai: Từ “Viên mãn…” trở xuống là trình bày về Thể của tướng đầy đủ đức. 3) Từ “Kim cang…” trở xuống là hiển bày về nghiệp dụng của ánh sáng, khởi lên ánh sáng này ở thế giới kia, cho nên nói là đã khởi lên, đây là giải thích tên gọi về vô lượng phương tiện của Phật. 4) Soi chiếu khắp nơi pháp giới là hiển bày về nghiệp dụng thành tựu lợi ích, bởi vì chứng được Lý thuộc pháp giới, bởi vì soi chiếu Sự thuộc pháp giới.

Trong môn ba: Đầu là tận cùng Sự khắp nơi Lý, đầy đủ Quả bao gồm Nhân, cho nên gọi là đầy khắp pháp giới. Mây là nghĩa về rộng khắp, nghĩa về làm cho lợi ích, nghĩa về không có nguồn gốc, nghĩa về không có ngăn ngại, nghĩa về hiện rõ tướng, nghĩa về tuôn mưa, là nghĩa của mây. Sau đều dựa theo đây.

Trong môn bốn: Gọi là soi chiếu khắp nơi có hai nghĩa: a) Trong tướng hiện rõ cõi Phật khó nghĩ bàn, gọi là soi chiếu khắp nơi; b) Ánh sáng của Phật soi chiếu rõ ràng pháp giới, gọi là soi chiếu khắp nơi.

Trong môn năm: Từ “Ma-ni bảo vương…” trở xuống là trình bày nghĩa thứ hai về Thể của tướng đầy đủ đức, trong giải thích tên gọi là vật báu Lưu ly. 3) Từ “Phổ chiếu…” trở xuống là phân rõ về nghiệp dụng của tướng ánh sáng, trong giải thích tên gọi là soi chiếu khắp nơi, ca ngợi Phật… là tóm lược đưa ra nhân đời trước. 4) Từ “Tất phóng…” trở xuống là chính thức hiển bày về thành tựu lợi ích, trong giải thích tên gọi là nghĩa về vầng mây Đại tự tại.

Trong môn sáu: 1) Tên gọi và Thể hợp lại nêu ra. 2) Từ “Phóng chư quang minh…” trở xuống là nghiệp và lợi ích sáng ngời như nhau, nghĩa là bởi vì bình đẳng soi chiếu khắp nơi pháp giới, đều dùng ngọn đèn chánh pháp và âm thanh giáo pháp, khiến cho công đức của Bồ-tát quyết định bởi vô lượng tràng báu thuộc tướng ly cấu của Phật.

Trong môn bảy: Từ “Y na…” trở xuống là hiển bày về Thể của tướng đầy đủ đức. Y-na-la, Trung Hoa nói là Chủ, tức là Thiên chủ quý báu, đều là nghĩa về đáng quý… đầy đủ sáu loại nghĩa cho nên gọi là Bảo, nghĩa về tự tại… cho nên gọi là Vương, đều là đức vô chướng ngại của quả Phật; đây là giải thích về ánh sáng của Phật. 3) Từ “Phổ chiếu…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp, giải thích về nghĩa vầng mây rộng lớn có thể biết.

Từ đây trở xuống có hai mươi lăm loại tướng trang nghiêm đỉnh đầu. Trong đó:

Trong môn một: Từ “Lưu-ly, Ma-ni…” trở xuống là trình bày về nghiệp dụng và lợi ích, giải thích về nghĩa của ánh sáng thành tựu viên mãn, có thể biết.

Trong môn hai: 1) Tên gọi và Thể cùng nêu ra. 2) Từ “Vô lượng thế giới…” trở xuống là hiển bày về nghiệp dụng, giải thích về vầng mây ánh sáng. 3) Từ “Xuất sinh vô lượng…” trở xuống là trình bày về tướng thành tựu lợi ích, thuyết giảng về Đại pháp sâu xa, giải thích về kho tàng của hạnh Bồ-tát.

Trong môn ba: Phát ra màu sắc Lưu-ly… là trình bày nghĩa thứ ba về nghiệp dụng, trình bày về ánh sáng nơi thân-âm thanh-trí tuệ là giải thích về vầng mây soi chiếu khắp nơi.

Trong môn bốn: Từ “Ư nhất thiết…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, có mở thông giác ngộ-loại trừ chướng ngại, giải thích về nghĩa của vầng mây giác ngộ.

Trong môn năm: Nghiệp dụng nuôi lớn Trí thân, là giải thích về Tâm hải vương trong Thể; nuôi lớn Pháp thân là giải thích về Pháp bảo Như ý, khiến cho thân ấy đầy đủ Tướng hải của Như Lai.

Trong môn sáu: Đầu là hoa quý báu trang nghiêm quốc độ, sau là bốn hạnh trang nghiêm con người, hoặc là bốn Nhiếp, hoặc là bốn Vô lượng… cũng thích hợp. Đầu là tướng trang nghiêm thuộc Sự pháp giới, sau là hạnh trang nghiêm thuộc Lý pháp giới, cho nên gọi là tất cả đều trang nghiêm.

Trong môn bảy: Trình bày về Phật đối với Tam-muội trong từng niệm niệm hiện rõ Phật, khiến cho căn cơ có thể nhìn thấy, dùng điều này làm tướng.

Trong môn tám: Từ trong ý nghiệp vô chướng ngại của Phật mà phát sinh tất cả tác dụng giáo hóa của Y-Chánh, cho nên gọi là Hóa hải.

Trong môn chín: Ở trong pháp tòa ấy hiện rõ hình tượng của chư Phật, gọi là giải thoát; ánh sáng diễn thuyết về pháp làm trang nghiêm quốc độ gọi là vầng mây.

Trong môn mười: Vầng mây ánh sáng của Chánh pháp trong nghiệp dụng làm trang nghiêm thanh tịnh tất cả, là khai mở giác ngộ Bồ-tát khiến cho nhờ vào chủng tánh tăng thêm tu tập Chánh hạnh, cho nên gọi là trang nghiêm thanh tịnh, tức là giải thích về giác ngộ chủng tánh của Phật, những môn còn lại cũng giống như vậy.

Trong môn mười một: Tướng của phước trí quá khứ như vòng tròn hiển bày rõ ràng, cho nên lấy làm tên gọi.

Trong môn mười hai: Tận cùng pháp giới trong đỉnh của hoa quý báu, Y-Chánh của chư Phật đều hiện rõ trong đó, cho nên gọi là vầng mây tự tại soi chiếu khắp nơi.

Trong môn mười ba: Soi chiếu rộng khắp tất cả… gọi là tiến vào tất cả.

Trong môn mười bốn: Gọi là Minh tịnh, nếu đầy đủ thì cũng gọi là Biến chiếu trang nghiêm, trong Thể-Dụng giải thích đầy đủ về tên gọi này có thể biết.

Trong môn mười lăm: Dùng ánh sáng của Pháp luân khai mở giác ngộ tất cả, cho nên lấy làm tên gọi.

Trong môn mười sáu: Có thể hiện rõ Bồ-tát ở đạo tràng thành Phật, gọi là tất cả đều trang nghiêm.

Trong môn mười bảy: Hiện rõ nghiệp báo của chúng sinh gọi là nhân của pháp giới, nhưng hiện rõ nhân chắc chắn kèm theo quả, cho nên cũng có báo.

Trong môn mười tám: Dùng Pháp luân che phủ khắp nơi tất cả thế giới gọi là soi chiếu rộng khắp, làm trang nghiêm khiến cho hiểu biết sâu xa về pháp giới, cho nên nói là vầng mây Pháp luân thanh tịnh.

Trong môn mười chín: Nêu ra và giải thích có thể biết.

Trong môn hai mươi: Khéo léo tiến vào những phần vị như chúng

sinh… soi chiếu hiện rõ pháp giới, gọi là vầng mây ngọn đèn thanh tịnh.

Trong môn hai mươi mốt: Trí soi chiếu vô lượng các Tam Bảo hải gọi là phân biệt pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều phân biệt rõ ràng về sự việc đã làm, có thể biết.

Trong môn hai mươi hai: Ánh sáng trí tuệ ngưng lại khắp nơi pháp giới hư không, hiện rõ tất cả công đức của chư Phật Bồ-tát, khiến cho người ngắm nhìn không hề thỏa mãn.

Trong môn hai mươi ba: Ở giữa chặng mày phát ra ánh sáng quý báu…, cổ nhân đem ba tướng sau cuối này đưa vào tướng giữa chặng mày, nay bởi vì hai tướng sau cuối tiếp theo đều là tướng đỉnh đầu, một loại sau cùng lại là tướng giữa chặng mày. Một tướng này hoặc là đan xen với nhau, hoặc là cũng dùng tướng này để trang nghiêm cho tướng đỉnh đầu, thuộc về tướng đỉnh đầu. Bởi vì ánh sáng soi chiếu khắp nơi thành tựu lợi ích thù thắng, cho nên gọi là vầng mây rực rỡ ánh sáng quý báu.

Trong môn hai mươi bốn: Trên đỉnh đầu theo thứ tự khởi lên những sự trang nghiêm, nghĩa là trang nghiêm hiện rõ thân Phật, trang nghiêm hiện rõ cõi Phật, trang nghiêm hiện rõ Bồ-tát, cho nên gọi là vầng mây trang nghiêm tất cả pháp giới.

Trong môn hai mươi lăm: Tướng đỉnh đầu của Như Lai đều có năng lực như nhau.

Trong phần tổng quát kết luận: Trước là sơ lược kết luận về ba mươi hai loại tướng quý báu trang nghiêm, sau là tường tận kết luận về trang nghiêm tất cả pháp giới. Trí Luận quyển thứ năm nói đỉnh đầu có xương tròn như cuộn tròn ở trên đỉnh đầu, kinh Quán Phật Tam Muội nói như tướng cuộn tròn hợp lại. Trên đây là ba mươi hai môn trình bày về tướng đỉnh đầu, xong.

Thứ hai: Trình bày về tướng lông mày, trong đó có một tướng. Trong giải thích có hai: Trước là giải thích về soi chiếu khắp nơi pháp giới; sau từ “Xuất sinh…” trở xuống là giải thích về vầng mây ánh sáng rộng khắp. Trí Luận nói tướng lông trắng giữa chặng mày sinh ra không cao-không thấp, trắng ngần xoáy tròn về bên phải, duỗi ra dài năm thước.

Thứ ba: Tướng mắt cũng có một tướng, trong giải thích: Trước là đã nhìn thấy không hề ngăn ngại cho nên gọi là tự tại; sau là ánh mắt hiện rõ Phật cũng gọi là vầng mây tự tại. Trí Luận nói tướng mắt chân thật như hoa sen xanh tươi đẹp, lại như mắt trâu chúa lông mi dài đẹp không rối loạn.

Thứ tư: Tướng mũi có một tướng, có thể biết.

Thứ năm: Tướng lưỡi có bốn tướng. Trong tướng một trình bày về tướng rộng và dài: Trước là nêu ra tên gọi và Thể cùng với nhân; tiếp đến soi chiếu khắp nơi… là hiển bày về nghiệp dụng của tướng ấy; sau là sinh ra… trình bày về tướng của lợi ích. Trong tướng hai giải thích về tướng nắm giữ của lưỡi, nghĩa là ở bên trong lưỡi nắm giữ, dùng các vật báu để trang nghiêm cho nên nói là an trú, đây là trình bày về đầy đủ đức thù thắng. An trú tất cả các pháp, là trình bày về tất cả pháp môn đã nói, đều an trú nắm giữ ở bên trong lưỡi, đây là trình bày về đầy đủ Đại trí, cho nên lưỡi nắm giữ gọi là pháp giới địa. Trong tướng ba là trình bày về tướng của đầu lưỡi, trong đó từ “Xuất sinh vô lượng…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, nghĩa là ánh sáng soi chiếu Phật hải gọi là thuận với pháp giới; lại diệu âm đến khắp mọi nơi cũng gọi là thuận với pháp; lại khiến cho chúng sinh vui thích lắng nghe, thuận theo tiến vào pháp giới, cho nên thiết lập tên gọi này. Trong tướng bốn cũng là tướng của đầu lưỡi, từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng: 1) Âm thanh vi diệu… là ca ngợi; 2) Đức vi diệu… là che phủ; 3) Trí vi diệu… là tiến vào; 4) Quốc độ vi diệu… là hiện bày cho nên gọi là pháp môn bình đẳng. Trí Luận nói tướng lưỡi che kín mặt đến chân tóc đưa vào miệng cũng không đầy.

Thứ sáu: Tướng lợi răng. Trong Thể của đức: 1) Đức thù thắng trang nghiêm bên ngoài, Y-đà-ni-la, Trung Hoa nói là Đế thanh bảo. 2) Pháp giới đầy đủ bên trong. 3) Đại chúng đều đầy đủ, bởi vì trong vòm răng của Phật đã đầy đủ, các pháp giới địa đều ở trong đó, cho nên vầng mây của các Bồ-tát cũng đều đầy đủ ở trong vòm răng của Phật. Từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, trong đó đã soi chiếu mười phương vẫn ở trong vòm răng, bởi vì các pháp giới không chỉ riêng Lý, vì vậy chỉ trong vòm răng này đã thâu nhiếp toàn bộ pháp giới, đầu-lưng-tay-chân cũng ở trong đó, mười phương thế giới và các chúng sinh, Bồ-tát, chư Phật, tất cả đều ở trong này. Môn còn lại như hư không, không hề có gì, nhưng tướng của vòm răng không lớn, pháp giới không nhỏ, toàn bộ ở trong đó, tướng bên ngoài rõ ràng, hư không thế giới vô biên không ra ngoài vòm răng, đó gọi là tướng thù thắng của Như Lai, không phải là cảnh giới suy nghĩ của tâm thức. Một tướng này đã như vậy, tướng còn lại đều ví dụ như vậy.

Thứ bảy: Tướng răng cửa có bốn, đó là bốn răng cửa: 1) Răng cửa phía dưới bên phải, các vật báu trang nghiêm là trình bày về Thể đầy đủ

đức, phát ra ánh sáng rộng lớn… là trình bày về nghiệp dụng rộng lớn, phát ra ánh sáng rộng khắp… là hiển bày về tướng của lợi ích, đây là do thân Phật đã soi chiếu, lại phát ra ánh sáng làm lợi ích. 2) Trong Dụng của răng cửa phía trên bên phải, bên trong mỗi một ánh sáng hiện rõ YChánh của Phật, cho nên gọi là Tạng. 3) Trong Dụng của răng cửa phía dưới bên trái, soi chiếu hiện rõ tất cả chư Phật và quyến thuộc, cho nên gọi là vầng mây ngọn đèn. 4) Răng cửa phía trên bên trái, trong đó từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về nghiệp dụng, nghĩa là nhờ vào răng cửa này phát ra nhiều âm thanh vi diệu hiện rõ về pháp nhân quả… của Phật. Trí Luận nói răng trắng ngần hơn hẳn núi Tuyết chúa.

Thứ tám: Răng có một tướng, tiếng Phạm nói là Kim-mộ-kỳ-bà, Trung Hoa nói là Cảnh Toàn Loa Văn(xoáy tròn như hình trôn ốc), là hình dáng răng của Phật. Từ “Phóng đại quang…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng. Trí Luận nói răng có bốn mươi chiếc, không nhiều-không ít, đều đặn kín chặt không có thô-tế, mọi người không biết được, nghĩa là bởi vì giữa mỗi một chiếc răng không có kẽ hở chứa được một mảy lông.

Thứ chín: Tướng vai có năm: 1) Tướng vai phải gọi là Nhất thiết bảo địa, là từ đức Thể làm tên gọi, ánh sáng rực rỡ soi chiếu khắp nơi… là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, có thể biết. 2) Tướng bằng phẳng đầy đặn của vai phải soi chiếu khắp nơi là trình bày về nghiệp dụng. 3) Trong tướng vai trái phát ra ánh sáng soi chiếu khắp nơi… là trình bày bên trong nghiệp dụng hiện rõ tất cả thần lực của chư Phật khắp pháp giới. 4) Trong Dụng của tướng vai trái soi chiếu khắp nơi, phát ra ánh sáng hiện rõ báo thuộc Y-Chánh của Phật khắp pháp giới. ) Trong tướng vai phải không có gì lay động, từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về nghiệp dụng soi chiếu pháp giới thuộc Lý-Sự, NhânPháp, Nhân-Quả. Trí Luận nói tướng vai tròn đẹp, tất cả mọi người không có ai có tướng vai như vậy.

Thứ mười: Tướng ngực có một tướng, nói ngực có Tướng hải thù thắng vi diệu, đây là tướng của chữ Đức, có thể phá tan oán địch, từ “Châu biến…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng.

Thứ mười một: Tướng hông có một tướng, trong đó từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, đây là cùng phân rõ về hai hông. Trí Luận nói từ hai nách trở xuống có tướng bằng phẳng đầy đặn, không cao-không sâu.

Thứ mười hai: Tướng bụng có bảy: Trong tướng một, từ “Bồ-tát công đức…” trở xuống là trình bày về Thể đầy đủ đức, từ “Phổ hiện…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, giải thích về nghĩa thành tựu vầng mây Như Lai hiện rõ khắp nơi. Trong tướng hai, một là nêu ra tên gọi, hai từ “Như Lai…” trở xuống là giải thích về nghĩa của Hoa, ba từ “Phóng hương viêm…” trở xuống là giải thích về nghĩa của nở rộ. Trong tướng ba, niềm vui tuyệt diệu tràn đầy trong tâm gọi là đáng vui mừng…, đây là Tâm tạng trong năm tạng của người thế gian. Vì sao không nói những tạng khác như Gan-Phổi…? Bởi vì thân Kim cang của Phật không có những tạng khác. Vì sao chỉ có Tâm tạng? Bởi vì thù thắng nhất, khiến cho người khác có lúc nhìn thấy, phát ra ánh sáng màu sắc Ma-ni… là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng. Trong tướng bốn, đức thù thắng sâu rộng tròn đầy cho nên gọi là Thắng hải, giải thích về tướng có thể biết. Trong tướng năm, ánh sáng soi chiếu pháp giới gọi là ánh sáng của tia chớp, là tướng của Địa bình đẳng thuộc về công đức thù thắng thứ hai, hoặc là trong năm tạng thuộc về tạng thứ hai…, hoặc là trong phần thân hướng về loại thứ hai ở sau…, đã không đích thực chỉ ra riêng biệt, vì thế cho nên khó mà xác định. Loại thứ ba… ở văn sau dựa theo đây. Trong tướng sáu, soi chiếu hiện rõ pháp giới của vô lượng Bồ-tát, cho nên lấy làm tên gọi. Trong tướng bảy, soi chiếu hiện rõ pháp giới thanh tịnh nhất và tướng của ba thế gian thuộc về Y-Chánh của quả cao nhất, cho nên gọi là soi chiếu vầng mây cao nhất.

Thứ mười ba: Trình bày về tướng thuộc phần dưới có hai: 1) Tướng diệu âm chuyển pháp luân, lìa xa cấu nhiễm thanh tịnh là bởi vì không giống như uế tạp của người khác, con đường Chánh pháp bởi vì không phải con đường uế tạp, hương thơm ngào ngạt… là trình bày về nghiệp dụng soi chiếu hiện rõ nội tâm của Phật và pháp giới mà Phật đã chứng. 2) Tuyên thuyết rộng rãi về trí thuộc nhân của Phật trang nghiêm quốc độ, cho nên gọi là trang nghiêm.

Thứ mười bốn: Tướng tay có mười hai loại: 1) Trong tướng bàn tay, phát ra ánh sáng rộng lớn… là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, chuyển pháp luân soi chiếu Phật hải, làm trang nghiêm pháp giới. 2) Trong tướng tay quý báu, Thể đầy đủ các đức gọi là Hải, Dụng sáng ngời hướng vào vật gọi là Chiếu. 3) Trong tướng tay vi diệu, bởi vì thường dùng vật báu Lưu-ly sắc xanh để trang nghiêm bàn tay gọi là Phổ trang nghiêm, cũng gọi là bàn tay vi diệu, từ “Phổ chiếu nhất thiết…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng. 4) Tướng bàn tay ngọn đèn soi chiếu lìa xa cấu uế, cũng là trong Dụng của tướng bàn tay có màng da mịn dẫn dắt Bồ-tát khiến cho đến bờ giải thoát. 5) Tướng bàn tay hiện rõ vật báu, nghĩa là hoa sen quý báu sáng ngời soi chiếu pháp giới, cho nên lấy làm tên gọi. 6) Trong Dụng của tướng bàn tay soi chiếu sáng ngời, ánh sáng quý báu soi chiếu pháp giới, ánh sáng thơm ngát trang nghiêm vô lượng quốc độ. 7) Trong tướng của bàn tay ngọn đèn Lưu-ly, Thể đầy đủ đức của Lưu-ly, ánh sáng dùng vầng mây của ngọn đèn soi chiếu. 8) Trong tướng của bàn tay ngọn đèn trí tuệ, ánh sáng vàng ròng soi chiếu khắp nơi tức là ngọn đèn trí tuệ. 9) Trong tướng của bàn tay hoa sen, Thể đầy đủ hoa quý báu gọi là ánh sáng của hoa sen, che phủ thế giới mà an trú. 10) Trong Dụng của tướng bàn tay đầy đủ pháp giới: Đầu là ánh sáng soi chiếu hiện rõ Như Lai và pháp giới đầy đủ; sau từ “Như Lai diệu thủ…” trở xuống là trình bày về bàn tay đầy đủ đức và Dụng đầy khắp vô lượng thế giới. Trí Luận nói đứng thẳng tay xoa đầu gối. 11) Trong Dụng của tướng ngón tay phải, hoa quý báu và âm thanh vi diệu trang nghiêm hiện rõ vô lượng thế giới, cho nên gọi là thành tựu… 12) Tướng của đầu ngón tay phát ra vật báu, bởi vì có thể soi chiếu pháp giới Bảo tạng của Phật, cho nên gọi là an trú tất cả vật báu, từ đức làm tên gọi; phát ra ánh sáng rộng lớn… là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, trước là soi chiếu hiện rõ Tam Bảo hải, sau từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày về phát ra âm thanh giác ngộ khắp nơi tăng trưởng nguyện hạnh.

Thứ mười lăm: Tướng mã vương tàng có ba loại: 1) Trong Dụng của tướng giấu kín, soi chiếu pháp giới là chứng Lý sâu xa, soi chiếu hư không giới là chiếu Sự rộng rãi, vật báu trang nghiêm pháp giới là hạnh trang nghiêm chân tánh sinh ra quả vi diệu. 2) Trong Dụng của một tướng hiện rõ tất cả Tướng hải, giải thích hiển bày về tên gọi này, lại soi chiếu hiện rõ thần lực của tất cả chư Phật khác. 3) Trong tướng của Pháp giới hải, Thể có năng lực soi chiếu hiện rõ chư Phật mười phương và Pháp luân hải, Dụng có năng lực thị hiện tướng như số vi trần của mình. Trên đây là tướng của mười thân, nếu như tướng của Hóa thân thì Trí Luận nói là tướng Mã âm tàng, Phật khiến cho đệ tử thấy tướng Âm tàng là bởi vì quyết định về nghi ngờ. Lại có người nói hóa làm ngựa quý báu-voi quý báu để chỉ rõ cho các đệ tử, tướng Âm tàng của Ta cũng như vậy.

Thứ mười sáu: Tướng bắp đùi có hai: 1) Tướng bắp đùi bên phải gọi là vầng mây thị hiện soi chiếu khắp nơi, vốn là các vật báu hiện rõ trang nghiêm, ánh sáng của pháp vi diệu hiện rõ, phát ra âm thanh quý báu trang nghiêm, niệm niệm nêu rõ Tâm hải. 2) Tướng bắp đùi bên trái gọi là vầng mây soi chiếu khắp nơi tất cả Hồi hướng hải, trong Dụng phát ra ánh sáng soi chiếu khắp nơi tất cả chúng sinh, khiến cho hướng về Phật hải, cho nên lấy làm tên gọi.

Thứ mười bảy: Tướng ngồi xổm có hai: 1) Tướng ngồi xổm bên phải, Y-ni-diên thì đây là tên gọi của loài nai, bởi vì ngồi xổm tựa như Phật, cho nên lấy làm dụ. Trí Luận quyển thứ năm nói: “Tướng ngồi xổm như nai chúa Y-ni-diên, thuận theo thứ tự thon nhỏ.” Trong lợi ích của nghiệp dụng: Đầu là ánh sáng soi chiếu làm chấn động, tiếp là âm thanh của Phật nghe khắp mọi nơi, tiếp là Hóa thân đầy khắp mọi nơi, tiếp là ánh sáng nơi thân làm thanh tịnh quốc độ, sau là hóa hiện đầy khắp pháp giới, văn hợp lại có thể thấy. 2) Trong Dụng của tướng ngồi xổm bên trái, ánh sáng vô lượng khắp nơi, khai hóa về Pháp hải.

Thứ mười tám: Tướng đầu sợi lông có một, đầu là trong sợi lông hiện rõ quốc độ, là nêu ra tên gọi; ở trong một lỗ chân lông đều phát ra… là hiển bày về đức, một lỗ chân lông thị hiện… là trình bày về Dụng thù thắng. Trí Luận nói trong mỗi một lỗ chân lông có một sợi lông mọc ra, tướng của lông không rối loạn, lông màu Lưu-ly xanh, ngả về bên phải và hướng lên phía trên.

Thứ mười chín: Tướng chân có mười ba loại: 1) Tướng Kim Cang dưới chân gọi là Bồ-tát hải trang nghiêm, trong Dụng giải thích hiển bày, nghĩa là ánh sáng soi chiếu mở ra pháp của Bồ-tát, sinh ra hóa Bồtát, ánh sáng trú vào Bồ-tát hải, cho nên lấy làm tên gọi. Trí Luận nói tướng dưới bàn chân bằng phẳng, dưới bàn chân đều chạm đất, không hề có kẽ hở, không chứa được dù một cây kim. 2) Tướng trên mu bàn chân gọi là vầng mây trong sáng, các vật báu trang nghiêm là Thể thâu nhiếp các đức. Trí Luận nói trên mu bàn chân sắc vàng ròng, lông trên mu bàn chân màu Lưu-ly xanh, bàn chân trang nghiêm đẹp đẽ, như các loại vật báu xen lẫn trang nghiêm chiếc giầy. Từ “Phóng diệu…” trở xuống là trình bày về lợi ích của nghiệp dụng, giải thích tên gọi có thể biết. 3) Tướng giữa các ngón chân gọi là vầng mây giác ngộ, trong Dụng: Đầu là nêu ra tướng giác ngộ; tiếp là do soi chiếu mà giác ngộ về pháp; tiếp là hiện rõ về pháp giác ngộ; tiếp là hiện rõ về nơi giác ngộ; sau là soi chiếu vào lúc Dụng của giác ngộ, vị lai chưa có, nếu là soi chiếu thì bởi vì dựa vào chín đời, vốn như thế mà hiện rõ. Trí Luận nói giữa các ngón chân có màng da mịn, nhỏ dài ngay thẳng, theo thứ tự thon đẹp, lóng ngón chân so le, móng ngón chân như đồng đỏ sạch sẽ. 4) Tướng vòng tròn ngàn tia, gọi là soi chiếu Pháp giới hải, trong Dụng: Đầu là trang nghiêm soi chiếu Thế giới hải; tiếp là trang nghiêm soi chiếu Phật hải; sau là soi chiếu làm thanh tịnh Pháp giới hải, cho nên lấy làm tên gọi. Trí Luận nói trục-vành-ngàn nan hoa, cả ba sự đầy đủ, tự nhiên thành tựu không cần đến công người, thợ giỏi của chư Thiên tuy là Tỳ-thủ-kiệt-ma mà không có thể hóa ra. 5) Tướng chân gọi là vầng mây thị hiện tất cả chư Phật hải, trong Dụng: Đầu là vầng mây Phát hành, vầng mây Thanh giáo, vầng mây Hoa nghiêm, thị hiện pháp giới cho nên lấy làm tên gọi. 6) Tướng chân gọi là vầng mây ánh sáng tự tại, thị hiện ánh sáng của Phật cho nên nói là tự tại thường phát ra…, hiển bày về nghiệp dụng có thể biết. 7) Phần sau dưới bàn chân là tướng gót chân, từ “Phổ chiếu…” trở xuống là trình bày trong Dụng: Đầu là soi chiếu pháp giới hiện rõ Hóa thân che phủ khắp nơi, sau là mỗi một thân phát ra Âm thanh hải, đầy khắp pháp giới cho nên lấy làm tên gọi. Trí Luận nói tướng gót chân rộng và bằng phẳng. 8) Tướng cuối bàn chân gọi là nguồn gốc vật báu sâu xa, Thể đầy đủ vật báu trang nghiêm, Dụng tận cùng nguồn gốc sâu xa, như văn có thể biết. 9) Trước là tất cả vật báu… tên gọi và Thể hợp lại nêu ra, sau từ “Ư niệm niệm…” trở xuống là lợi ích của nghiệp dụng đều trình bày rõ ràng, có thể biết. 10) Gọi là vầng mây tích giữ rộng khắp, Thể đầy đủ vầng mây rộng khắp, ánh sáng soi chiếu tích giữ. 11) Gọi là vầng mây ánh sáng bình đẳng, từ “Xuất sinh…” trở xuống là trình bày trong nghiệp dụng, âm thanh xứng với pháp giới cho nên nói là bình đẳng, tiếp từ “Nhất nhất tướng…” trở xuống là ánh sáng xứng với pháp giới cho nên nói là ánh sáng bình đẳng. 12) Gọi là vầng mây thị hiện trang nghiêm: Đầu là Thể đầy đủ đức trang nghiêm; tiếp là Dụng trang nghiêm cõi Phật; tiếp là vầng mây của Phật đầy khắp thế giới; tiếp là trang nghiêm Nhân của Pháp hải; sau là soi chiếu Nhân thuộc pháp của quả, cùng trang nghiêm pháp giới cho nên lấy làm tên gọi. 13) Gọi là vầng mây thị hiện chư Phật tự tại khắp nơi, từ “Phóng bất tư…” trở xuống là trình bày trong nghiệp dụng: Đầu là hiện rõ ánh sáng của Phật tự tại, sau là hiển bày về vầng mây tự tại thuộc âm thanh của Phật, có thể biết. Trên đây là tổng quát về mười chín nơi, sơ lược trình bày về chín mươi bốn loại tướng Đại, xong.

Từ “Phật tử…” trở xuống là phần ba mở rộng kết luận về tướng Đại, bởi vì nói riêng biệt khó mà hết được, cho nên tổng quát kết luận; không phải sơ lược có thể hết được, vì vậy cần phải hiển bày rộng ra. Nhưng một Liên Hoa Tạng giới đã rộng khắp pháp giới, huống là nói đến mười Liên Hoa Tạng giới? Lại hiển bày về vô tận, vậy thì vô tận đến vô tận, không phải Phổ Nhãn thì không nhìn thấy.