HỌA ĐỒ PHÁP GIỚI NHẤT THỪA HOA NGHIÊM

SỐ 1887a

MỘT QUYỂN 

Tân La Nghĩa Tương soạn

Thiện giáo của bậc đại Thánh là vô phương, ứng cơ thuận theo chứng bệnh chẳng phải một. Người mê, giữ dấu vết, không biết mất thể, siêng năng mà quy tông, vì chưa nói nên y chỉ lý, y cứ giáo, lược chế hàn thi, mong người học dùng chấp danh trở về nguồn chân vô danh. Phương pháp đọc thi, nên từ trong pháp làm đầu, phần nhiều trở về chỗ gút mắc cho đến Phật là sau cùng. Đọc theo đường in gồm năm mươi bốn góc, hai trăm mười chữ.

Nhất – vi – trần – trung – hàm – thập, sơ phát – tâm – thời – tiện – chánh – giác – sinh – tử nhất lượng – vô – thị – tức phương thành ích – bửu – vũ – nghị – tư – bất – ý niết tức kiếp viễn – kiếp niệm nhất biệt sinh Phật thiện hiền – đại – nhân như bàn đa cửu lượng tức nhất thiết chướng mãn thập hải – nhân – năng – cảnh xuất thường thiết thế vô nhất – niệm trần loạn hư biệt ấn, tam – muội – trung – phiền cộng nhất thập nhị – như – diệt – trung tạp khởi phân – vô – nhiên – minh – sự – lý – hòa, tức thế – hỗ – tướng – tức – nhung – bất chúng – sinh –tùy – khí – đắc – lợi – ích – thị nhất tướng – nhị – vô – dung – viên – tánh pháp phả tế – bổn – hoàn – giả – hạnh – cố nhất chư trí – sở – tri – phi – dư Phật tức tận bửu – trang – nghiêm – pháp – giới trung pháp chứng thậm – tánh – chân – cảnh vì vong vô tùy – gia – quy ý thật đa bất thiết thâm – cực – vi diệu danh tưởng ni phần – đắc – tư như bảo thiết động nhất – tuyệt – tướng – vô bất cần tất la – đà – dĩ – lương tróc điện nhất bổn – lai – tịch – vô – danh thủ bất bất – đắc vô – duyên – thiện – xảo cùng trúng nhất – thành – duyên – tùy – tánh – tự lai – cựu – sàng – đạo– trung – tế- thật – tọa.

Muốn giải thích văn có chia ra hai môn:

  1. Giải thích chung ý nghĩa của ấn.
  2. Giải thích riêng tướng ấn.

Hỏi: Vì sao y chỉ ấn?

Đáp: Vì muốn nói lên thị ba thứ thế gian thuộc về cương lĩnh giáo của Thích-ca Như Lai. Từ tam-muội Hải ấn, vì phần nhiều xuất hiện rõ ràng, gọi là ba thứ thế gian, đó là:

  1. Khí thế gian.
  2. Chúng sinh thế gian.
  3. Trí chánh giác thế gian.

Trí chánh giác là Phật, Bồ-tát. Vì ba thứ thế gian thu giữ hết, nên không giải thích khác. Nghĩa rộng, như kinh Hoa Nghiêm nói.

Thứ hai, trong môn tướng riêng, có chia ra ba môn:

1. Nói tướng văn ấn. 2. Nói về tướng chữ. 3. Giải thích ý văn.

1. Nói tướng văn ấn.

Hỏi: Vì sao văn ấn chỉ có một đường?

Đáp: Vì nói lên một âm của Như Lai, gọi là một phương tiện tốt đẹp, khéo léo

Hỏi: Vì sao có nhiều đường quanh co, uốn khúc quay về?

Đáp: Vì thuận theo căn cơ mong muốn của chúng sinh khác nhau, cho nên có giáo ba thừa.

Hỏi: Vì sao một đường không có đầu, cuối?

Đáp: Vì nói rõ sự tốt đẹp, khéo léo vô phương, thích ứng với pháp giới, vì mười đời tương ưng với viên dung đầy đủ, tức là nghĩa đối xứng với Viên giáo.

Vì sao có bốn mặt bốn gốc?

Vì nói rõ bốn nhiếp, bốn vô lượng. Nghĩa này y cứ vào ba thừa, nhằm làm sáng tỏ Nhất thừa, tướng ấn như thế.

2. Nói về tướng chữ.

Hỏi: Vì sao trong chữ có đầu cuối?

Đáp: Vì y cứ vào mặt tu hành, nhằm nói rõ nhân quả khác nhau.

Hỏi: Vì sao trong chữ có nhiều quanh co, gút mắt?

Đáp: Vì nói rõ căn dục của ba thừa khác nhau.

Hỏi: Vì sao hai chữ đầu cuối an trí ở giữa?

Đáp: Vì nói lên dụng đức chân thật trong nhà pháp tánh của hai vị

nhân quả, vì tánh ở Trung đạo, nên tướng chữ như thế.

Hỏi: Trên đã nói rằng, nhân quả khác nhau: Đức Phật của một nhà, tánh ở Trung đạo, chưa biết lý do, nghĩa ấy ra sao?

Đáp: Nghĩa này thật ra khó hiểu. Tuy nhiên, theo luận chủ Thiên Thân, dùng phương tiện của sáu tướng lập nghĩa phân chia xếp đặt đồng đều, y cứ đạo lý của nghĩa, tùy sự phân chia có thể hiểu. Nếu y cứ mười câu để giải thích sáu tướng thì như dưới đây sẽ nói. Nay, y cứ vào ấn tướng để nói về sáu tướng, nhằm bảo cho biết Nhất thừa, Ba thừa, chủ, bạn thành nhau, giới hạn phạm vi của hiện pháp.

Cái gọi là sáu tướng là tướng chung, tướng riêng, tướng đồng, tướng khác, tướng thành, tướng hoại.

Tướng chung: là ấn căn bản.

Tướng riêng: các tướng cong vạy khác. Riêng y chỉ ấn, vì đầy ấn kia.

Tướng đồng: Vì ấn, cái gọi là cong vạy riêng mà vì ấn đồng.

Tướng khác: là tướng tăng, cái gọi là vì an trí sự cong vạy tăng riêng.

Tướng thành: Vì nói giản lược. Cái gọi là vì thành ấn.

Tướng hoại: Vì nói rộng, cái gọi là quanh co, cong vạy trở về nhiều, đều vì tự xưa nay không tạo tác, nên tất cả pháp duyên sinh đều do sáu tướng thành, cái gọi là tướng chung, nghĩa đối xứng với Viên giáo.

Tướng riêng: Nghĩa đối xứng với giáo ba thừa, như tướng chung, tướng riêng, tướng thành, tướng hoại, không tức, không lìa, không phải một, không phải khác, thường trụ ở Trung đạo. Nhất thừa, Ba thừa cũng giống như thế. Chủ, bạn giúp đỡ với nhau, không tương tức, không lìa, không một, không khác. Mặc dù lợi ích chúng sinh mà chỉ ở Trung đạo, chủ, bạn thành nhau.

Làm sáng tỏ pháp như thế, biệt giáo của Nhất thừa, biệt giáo của Ba thừa, so sánh nghĩa có thể hiểu.

Ông đã nghi vấn, nghĩa cũng như thế. Đầu tiên, là sự cong vạy như nhân, cho đến sự cong vạy sau như quả. Như trước và sau không đồng mà chỉ ở ngay chính giữa. Dù nghĩa nhân quả riêng lẻ nhưng chỉ ở tự như. Vì y chỉ môn giáo phương tiện của Ba thừa, nên cao thấp khác nhau. Vì y chỉ Viên giáo Nhất thừa nên chẳng có trước, sau.

Sở dĩ biết được là vì như Kinh nói: Lại, tất cả Bồ-tát không thể suy nghĩ, bàn luận pháp của chư Phật, vì nói sao cho nhập địa trí tuệ.

Luận nói: Tất cả vị Bồ-tát tức là trụ địa tín, hạnh không thể suy nghĩ, bàn luận pháp của chư Phật, là phẩm xuất thế gian đạo. Minh nghĩa là kiến trí được chứng. Thuyết, nghĩa là phân biệt ở giữa. Nhập, nghĩa là tin, ưa được chứng. Địa trí tuệ, tức là trí Thập địa. Như trong phần bổn nói, đây là nhập căn bản. Như Kinh nói: Lại, tất cả Bồ-tát không thể suy nghĩ bàn luận pháp của chư Phật, vì nói khiến nhập địa trí tuệ. Trong Tu-đa-la này nói dựa vào nhập căn bản, có chín thứ nhập:

  1. Nhiếp nhập, vì trong văn tuệ, thu giữ tất cả gốc lành, như kinh thu giữ tất cả gốc lành.
  2. Suy nghĩ, bàn luận nhập: suy nghĩ bàn luận đối với tất cả phẩm đạo, vì phương tiện trí, như kinh nói: Khéo phân biệt lựa chọn tất cả pháp Phật.
  3. Pháp tướng nhập, trong các nghĩa kia, vì vô lượng các thứ trí, nên như kinh nói: Vì biết rộng các pháp.
  4. Giáo hóa nhập, thuận theo nghĩa đã suy nghĩ, danh tự đầy đủ, vì khéo nói pháp, như kinh nói: Vì khéo nói các pháp.
  5. Chứng nhập, trí bình đẳng đối với tất cả pháp, vì khéo thanh tịnh trong lúc kiến đạo, như kinh nói: Vì trí vô phân biệt thanh tịnh không lìa, Bồ-tát giáo hóa chúng sinh, tức là tự thành pháp Phật, nên lợi người khác cũng là lợi mình.
  6. Không buông lung nhập: trong thời gian tu đạo, xa lìa tất cả chướng Bồ-đề, như kinh nói: Vì tất cả pháp mà không thể nhiễm.
  7. Địa địa chuyển nhập, vì gốc lành thanh tịnh như vô tham, v.v… của phẩm xuất thế gian đạo, như kinh nói: Vì gốc lành thanh tịnh của pháp xuất thế gian.

Lại nữa, có gốc lành vì có thể là nhân của phẩm xuất thế gian đạo.

8. Bồ-tát tận nhập, ở địa thứ mười, vì nhập tất cả trí bí mật của Như Lai, như kinh nói: Vì được cảnh giới không thể suy nghĩ, bàn luận.

9. Phật tận nhập, vì trí nhập đối với tất cả người trí, như kinh nói: Cho đến được trí của tất cả người trí, vì cảnh giới trí là các nhập là nghĩa khác nhau của trí so sánh, suy lường. Theo thứ lớp, chuyển vận trội hơn, không phải căn bản nhập. Tất cả đã nói trong mười câu, đều có sáu thứ môn tướng khác nhau.

Lời nói này là giải thích, nên biết là trừ sự.

Sự: Nghĩa là ấm, giới, nhập.

Sáu tướng khác nhau là: Tướng chung, tướng riêng, tướng đồng, tướng khác, tướng thành, tướng hoại.

Tướng chung là căn bản của nhập.

Tướng riêng, trừ chín y chỉ riêng bổn trên, vì đầy gốc kia.

Tướng đồng, là nhập.

Tướng khác, là tướng tăng.

Tướng thành, vì nói giản lược.

Tướng hoại, vì nói rộng.

Như vì thế giới thành, hoại nên tất cả mười câu khác, thuận theo nghĩa so sánh để biết.

Văn luận như thế, chỉ là đạo lý lập tông của luận chỉ, nên biết dù nhân quả, tín giải hạnh, trở về địa, bất động, tự vị của Phật, mà chẳng có trước, sau. Vì sao? Vì các pháp đều khác, vì trụ tự như, nên một như, nhiều như, như như, vì tướng chẳng thật có, nên kinh nói: Hỏi: Thế nào là tin sâu Phật pháp? Đáp: Tất cả các pháp, chỉ là sở tri của Phật, chẳng phải cảnh giới của ta. Nếu như thế gọi là tin sâu Phật pháp, là nghĩa kia.

Hỏi: Sáu tướng để biểu thị rõ nghĩa gì?

Đáp: Biểu thị rõ lý vô phân biệt của duyên khởi, vì nghĩa của sáu tướng này, nên phải biết dù bảy chỗ, tám hội của một bộ kinh và phẩm loại khác nhau mà chỉ ở phẩm địa. Vì sao? Vì là căn bản thu giữ pháp cùng tận, nên trong phẩm địa dù mười địa khác nhau, nhưng chỉ ở Sơ địa. Vì sao? Vì không khởi một địa thu giữ khắp tất cả công đức của các địa, nên trong một địa dù phần nhiều khác nhau, mà chỉ ở một niệm. Vì sao? Vì ba đời, chín đời tức một niệm, vì tất cả tức một, nên như một niệm, nhiều niệm cũng như thế, một tức tất cả, một niệm tức nhiều niệm, trái với trước là đúng.

Vì do lý này nên chủ, bạn của pháp Đà la ni thành nhau, thuận theo nêu một pháp đều thu giữ tất cả. Nếu y cứ hội thuyết thì trong hội hội đều thu giữ tất cả. Nếu nói theo phẩm thì các phẩm đều thu giữ tất cả, cho đến nếu nói theo văn, thì văn văn, câu câu đều thu giữ tất cả. Vì sao? Vì nếu không có câu và văn này thì phẩm kia sẽ không thành, nên pháp pháp Đà-la-ni vì như thế nên như dưới sẽ nói.

3. Giải thích ý văn: Văn có bảy ngôn, ba mươi câu. Trong đây, phần lớn có ba:

  1. Mười tám câu, y cứ vào lược hạnh lợi mình.
  2. Bốn câu, nói về hạnh lợi người.
  3. Tám câu giải thích về người tu hành, phương tiện và được lợi ích.

Theo trong môn đầu có hai:

  1. Bốn câu đầu thị hiện phần chứng.
  2. Mười bốn câu tiếp theo chỉ rõ phần duyên khởi.

Hai câu đầu trong đây chỉ cho thể của duyên khởi.

  1. Hai câu tiếp theo y cứ vào dụng lý Đà-la-ni để giải thích thu giữ pháp, phân chia, xếp đặt. Hai câu tiếp theo tức sự chỉ rõ phân chia giới hạn của pháp thu giữ.
  2. Bốn câu tiếp theo y cứ thế gian, thời gian để thị hiện thu nhiếp giới hạn, phạm vi của pháp.

Hai câu tiếp theo y cứ vào vị để làm rõ thu nhiếp, giới hạn, phạm vi của pháp.

Hai câu tiếp theo giải thích chung ý trên.

Dù sáu môn khác nhau mà chỉ nêu rõ duyên khởi pháp Đà-la-ni.

Đầu tiên nói thể duyên khởi, tức là pháp Đà-la-ni của Nhất thừa. Một tức tất cả, tất cả tức một, pháp chẳng có chướng ngại, là pháp giới. Nay, y cứ một môn để nêu rõ nghĩa duyên khởi. Cái gọi là Duyên khởi, nghĩa là đại Thánh giáo hóa chúng sinh, muốn sao cho khế hợp với lý, bỏ sự.

Phàm phu thấy sự tức mê về lý. Bậc Thánh duyên lý, đã không có ở sự, nên nay nêu thật lý, để hội mê tình, làm sao cho các hữu tình biết sự tức không có sự, tức hội lý, nên khởi giáo này. Nên Địa Luận nói: Tự tướng ấy có ba thứ:

  1. Tướng báo, danh sắc chung với thức A-lại-da sinh ra, như kinh nói: Đối với địa của ba cõi, lại có mầm sinh, cái gọi là danh sắc, sinh chung, danh sắc sinh chung, nghĩa là danh sắc sinh chung với tướng báo kia.
  2. Tướng nhân kia, là danh sắc không lìa tướng kia, vì dựa vào tướng kia sinh chung, như kinh nói: Vì không lìa.
  3. Tướng thứ lớp của quả kia, từ sáu nhập cho đến hữu, như kinh nói: Danh sắc này thêm lớn xong, hình thành nhóm sáu nhập, cho đến vì có nhân duyên nên có sinh già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não.

Chúng sinh như thế thêm lớn nhóm khổ, trong đây lìa ngã, ngã sở, chẳng biết không có giác, như cỏ cây.

Lìa ngã, ngã sở trong đây, nghĩa là hai pháp này thị hiện không.

Chẳng có biết, chẳng có giác, vì tự thể chẳng có ngã, cỏ cây vì thị hiện không phải số chúng sinh, nên biết mười hai nhân duyên v.v… tức thể tự tánh không. Dựa vào thức A¬-lại-da kia sinh ra Lê-da vi tế, tự thể vô ngã, sinh mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên thị hiện đều vô ngã, nên duyên sinh chẳng có pháp riêng, Phật nêu môn quán duyên khởi để hội nhập các pháp, tất cả vô phân biệt, tức tánh thành Phật.

Luận Địa nói: thuận theo quán thế đế, tức nhập đệ nhất nghĩa đế, là sự kia. Nghĩa này ở Ba thừa cũng chung cho Nhất thừa. Vì sao? Vì sở nhân của Nhất thừa. Nếu y cứ vào Nhất thừa Biệt giáo thì phân biệt nói mười môn: Cái gọi là nhân duyên vì tự chia ra thứ lớp, vì thuộc về nhất tâm, vì tự nghiệp thành, vì không lìa nhau, vì ba đường không dứt, vì quán tế trước, sau, vì ba khổ nhóm họp, vì nhân duyên sinh, vì nhân duyên sinh diệt ràng buộc, vì thuận theo quán có cùng tận.

Mười hai nhân duyên như thế thuộc về nghĩa Nhất thừa. Vì sao mười phen thường nói là vì muốn nêu rõ vô lượng?

Hỏi: Mười phen nhân duyên là đối xứng với ở trước, sau, hay trong cùng một thời gian?

Đáp: Ngay nơi trước, sau, tức không có trước, sau.

Làm sao biết được? Vì môn không đồng nên tức trước, sau; vì sáu thành nhau nên không có trước, sau.

Nghĩa ấy như thế nào?

Vì mười phên dù riêng, nhưng đều thành vô ngã, nên kinh Anh Lạc nói: Mười lượt nhân duyên thuộc về nghĩa của Ba thừa. Vì sao? Vì chỉ có giáo sai biệt khác nhau, rộng như Địa Luận đã nói. Như thuyết mười hai nhân duyên nói: Duyên khác sinh các pháp, so sánh có thể hiểu.

Pháp Đà-la-ni như dưới đây sẽ nói.

Pháp tức sự thu nhiếp, biểu thị nhân-đà và vi tế đà. Nghĩa rộng như kinh nói.

Cái gọi là chín đời: quá khứ quá khứ, quá khứ hiện tại, quá khứ vị lai, hiện tại hiện tại, hiện tại vị lai, vị lai vị lai, vị lai hiện tại.

Ba đời tương tức và tương nhập hình thành một niệm kia, vì chung riêng gọi chung là mười đời.

Một niệm: là nói theo sự niệm.

Y cứ vào vị, dùng phương tiện sáu tướng, tùy theo nghĩa mà tiêu tức, thì sẽ hiểu được.

Tướng, như trên đã nói.

Hỏi: Duyên khởi trong một lời nói các pháp không hai, tức đã rõ ràng rồi, đâu cần nhiều môn?

Đáp: Thể giải tức là không cần tìm xa, cho nên kinh nói: Tánh dâm, giận dữ, si tức là Bồ-đề. Mê như thế rất xa, nên ngoài bảy thứ khổ đế của Phật giáo còn có Bồ-đề riêng, cần phải trải qua ba vô số kiếp, như thuyết tu hành, mới được độ. Vì người mê phải có nhiều môn để nói.

Hỏi: Nếu như thế pháp môn vô số lượng vì sao chỉ nói sáu môn?

Đáp: Dùng sáu môn để nói các pháp. Vì so sánh thích hợp để hiểu, nên lược nói như thế, thật ra như nói: Sáu mù mịt không có phân biệt, nghĩa là vì pháp, pháp duyên khởi như thế, so sánh trên có thể suy nghĩ.

Theo hạnh lợi tha: Ấn, nghĩa là y cứ theo dụ mà được tên. Vì sao? Vì biển này rất sâu, sáng sạch thấu tận đáy. Lúc Thiên đế đấu tranh với A-tu-la, tất cả chúng binh, tất cả binh cụ, hiện rõ ràng, phân minh trong đó vì in rõ ràng từng nét chữ, nên gọi là Hải ấn, chủ thể nhập tam-muội, cũng giống như thế, cùng cực chứng pháp tánh, không có nguồn đáy, vì trong sạch cuối cùng, sâu dày rõ ràng, ba thứ thế gian hiện rõ trong đó, nên gọi là Hải ấn.

Y cứ vào phương tiện tu hành: Trong đây có hai: a. Nói về phương tiện tu hành.

b. Giải thích được lợi ích.

Môn hạnh đầu tiên, nghĩa là thấy, nghe pháp cùng khắp của Nhất thừa trở đi, chưa chứng pháp khắp viên mãn trở lại. Đây là nói theo Nhất thừa Biệt giáo để.

Nếu nói theo phương tiện Nhất thừa thì năm thừa đều là nhiếp nhập Nhất thừa. Vì sao? Vì là đối tượng truyền bá của Nhất thừa, là đối tượng gọi của Nhất thừa, là phương tiện của Nhất thừa.

Nếu y cứ theo ngữ đạo lý duyên khởi, phương tiện, thì y cứ vào ngữ trí, vì sao? Vì thú hướng bất trụ, gọi là phương tiện. Người không hồi tâm, không gọi là phương tiện. Cũng có thể nói theo ý Thánh giả. Vì sao? Vì dùng phương tiện tốt đẹp để dẫn dắt chúng sinh.

Như năm thừa nói về nhân quả của nhân, pháp, tất cả pháp nghĩa giáo của sự, lý, giải, hạnh, so sánh như thế.

Hỏi: Cái gọi là pháp năm thừa vì là giáo pháp chủ thể giải thích phải chăng? Hay là nghĩa của đối tượng giải thích?

Đáp: Tất cả các pháp chủ thể giải thích, đối tượng giải thích đều ở trong lời nói, nghĩa ấy như pháp tướng của đối tượng giải thích đều dứt, chư Phật Thế Tôn vì năng lực bản nguyện đại từ bi, nên gia pháp của chư Phật, vì pháp như thế, nên lập ra ngôn giáo, nói cho chúng sinh nghe. Vì nghĩa này nên tất cả chúng sinh thuộc về lưới giáo, đều ở lời nói. Cho nên, Kinh nói: Tất cả các pháp chỉ có tên gọi, tức là nghĩa kia.

Hỏi: Pháp phần chứng, ngôn tướng bất cập, pháp ngôn giáo ở trong

sự ấy, chứng hai pháp của giáo, thường là ở lỗi hai bên phải chăng?

Đáp: Nếu nói theo tình thì chứng pháp và giáo pháp thường ở hai bên. Nếu y cứ theo lý nhập thuyết chứng pháp và giáo pháp, xưa nay Trung đạo, nhất vô phân biệt. Cho nên biết được biến kế vô tướng, y tha vô sinh, chân thật vô tánh, ba thứ tự tánh thường Trung đạo. Ngoài ba pháp này, không còn có giáo chứng. Cho nên, phải biết nhất vô phân biệt, vì con người được lý này nên danh tướng chẳng bằng nói cho, chúng sinh nghe, nên gọi là ở trong sự, vì thế Kệ kinh nói:

Tất cả các Như Lai.

Không có nói pháp Phật.

Tùy đối tượng hóa độ.

Nói pháp cho họ nghe.

Tức là nghĩa đó, nên bậc Thánh vì thuận theo biến kế, nên lập ra ba tánh. Vả lại, yên trí cùng cực tâm, dần dần về sau biểu hiện ba vô tánh, giác ngộ người mộng, đây là sự khéo léo vĩ đại của bậc Thánh.

Hỏi: Như Nhiếp Luận nói: đối tượng chấp cảnh giới biến kế của phàm phu, chân thật y tha, cảnh giới của Thánh trí, vì sao bậc Thánh thuận theo biến kế?

Đáp: Các pháp biến kế, vì điên đảo nên có, cho nên luận nói rằng: Cảnh giới của phàm phu vì rốt ráo là không, nên chẳng có đối tượng để đối. Trong giải thích chẳng phải cảnh giới của bậc Thánh, chẳng phải nói là trí không, thì chẳng phải cảnh giới bậc Thánh. Nên bậc Thánh từ bi vận dụng phương tiện, vì theo chứng bệnh của mắt, nên nói là hoa đốm trong hư không, đâu có trở ngại thưa hỏi, là lý ở đây.

Hỏi: Như trên đã nói: Pháp phần chứng và pháp phần duyên khởi có gì khác nhau?

Đáp: Riêng, không riêng.

Nghĩa ấy như thế nào?

Pháp phần chứng là nói theo thật tướng, chỉ chứng sở tri, nên pháp phần duyên khởi là từ các duyên sinh, không có tự tánh, vì chẳng khác với gốc, cho nên không riêng.

Hỏi: Nếu thế thì đối tượng chứng của mình, nói cho chúng sinh nghe, không khác với ngọn, bình thường có khác nhau chăng?

Đáp: Được nghĩa ấy nếu là đối tượng chứng ở lời nói, không khác với ngọn, thì ngôn thuyết đối với chứng sẽ chẳng khác với gốc. Vì chẳng khác với gốc nên dụng mà thường vắng lặng, nói mà không nói, vì không khác với ngọn, nên vắng lặng mà thường vận dụng. Không nói mà nói, vì không nói mà nói, nên không nói tức chẳng phải không nói.

Vì nói mà không nói nên nói tức chẳng phải nói. Vì nói tức chẳng phải nói, nên nói tức không thật có, vì không nói tức chẳng phải không nói, nên nói tức không thật có. Vì cả hai đều không thể được, nên cả hai đều chẳng ngăn ngại nhau.

Vì nghĩa này nên nói và chẳng nói đồng nhau không khác. Sinh và không sinh bình đẳng chẳng khác, động và bất động bằng nhau không có khác nhau.

Tất cả pháp môn tương đối khác nhau, vì so sánh như thế nên Kinh nói rằng: Tất cả các pháp hữu vi, vô vi dù có Phật, không có Phật, tánh, tướng vẫn thường trú, không có đổi khác, là nghĩa ấy. Cũng có thể nói đúng trong pháp, ngoài ngôn thuyết, không còn có nghĩa riêng, lấy ngôn làm nghĩa, trong pháp chánh nghĩa, ngoài chánh nghĩa không còn có lời khác, lấy nghĩa làm ngôn, vì dùng nghĩa làm ngôn, nên ngôn đều là nghĩa,vì dùng ngôn làm nghĩa nên nghĩa đều là ngôn. Vì nghĩa đều là ngôn, nên nghĩa tức chẳng phải nghĩa, vì ngôn đều là nghĩa nên ngôn tức chẳng là ngôn. Vì ngôn tức chẳng phải nghĩa, nên cả hai đều không thật có, cho nên, tất cả pháp xưa nay ở Trung đạo. Trung đạo, nghĩa là chung cho ngôn, chẳng phải ngôn. Vì sao? Vì thật tướng các pháp không ở trong lời nói, vì lìa danh tánh, nên pháp lời nói chẳng ở trong chân tánh. Vì lợi ích ở căn cơ, nên gọi là không có chân tánh. Vì lìa danh tánh, nên danh mà không có danh. Vì danh mà không có danh nên dùng danh cầu thật. Thật không thể được, vì danh không có chân tánh, danh mà không có danh nên tánh không thật có.

Vì nghĩa này nên cả hai đều không thật có, chỉ chứng sở tri, chẳng phải cảnh giới khác. Cho nên Kinh nói: Tất cả các pháp chỉ là sở tri của Phật, chẳng phải cảnh giới của ta.

Hỏi: Hai nghĩa trước, sau có khác chăng?

Đáp: Nghĩa trước dùng gốc ngọn tương tức, dung nhau, hiển bày Trung đạo, nghĩa sau dùng danh, nghĩa bao dung lẫn nhau, biểu thị rõ nghĩa vô ngã. Đạo lý đã rõ, chẳng khác với phương tiện riêng của chủ thể giải thích. Đây tức là gốc ngọn giúp nhau, danh nghĩa bao dung lẫn nhau, mở mang dẫn dắt chúng sinh, sao cho chúng sinh tự trở về với vô danh, chân nguyên chủ yếu tông của chủ thể hóa, đối tượng hóa là ở đây.

Hỏi: Mỗi nghĩa này đối xứng với tông đốn giáo, vì sao trong đây nói?

Đáp: Như trên đã nói, nói và không nói bình đẳng không có khác. Vì sao? Vì đều là đức thật, nên không trở ngại thưa hỏi. Vả lại, vì giữ gìn phân biệt nên thuận theo thuyết của Ba thừa. Vì khả năng vượt hơn hơn của người trí. Phần chủ yếu như trên và nghĩa phần duyên khởi, nghĩa đại, giáo đại trong biện luận đối xứng. Trái với phân biệt được vô phân biệt, gọi là không có duyên. Vì thuận theo lý bất trụ, nên gọi là khéo léo. Như nói: Người tu hành được ý bậc Thánh nên gọi là gấp rút. Như ý như trước. Trở về nhà, vì chứng bản tánh. Nhà là nghĩa gì? Nghĩa là che mát, nghĩa là chỗ ở.

Cái gọi là pháp tánh chân không, vì nơi ở của tác giả nên gọi là nhà. Đại bi khéo che mát chúng sinh gọi là Nhà. Nghĩa này ở Ba thừa, Nhất thừa mới rốt ráo. Vì sao? Vì thích ứng pháp giới. Cái gọi là nhà pháp giới Đà-la-ni và nhà Nhân-đà-la, nhà vi tế, v.v… vì đây là chỗ y trụ của bậc Thánh, nên gọi là nhà. Tùy phần, vì nghĩa chưa mãn. Tư lương, vì giúp cho phần Bồ đề, như dưới đây, kinh nói: Là hai ngàn lời đáp trong phẩm Ly Thế Gian.

Giảng nói được lợi ích, nghĩa là Đà-la-ni, gọi là tổng trì, như nói trong pháp mấy mươi tiền nói ở dưới. Thực tế là cùng pháp tánh, Trung đạo vì dung thông hai bên. Giường ngồi, là thu nhiếp tất cả, vì ở yên trong mười thứ pháp giới, vì giường báu rộng lớn Niết-bàn nhiếp giữ tất cả, nên gọi là giường ngồi.

Báu là vật đáng quý.

Giường, nghĩa là thu giữ.

Về mười thứ Niết-bàn, như ở dưới kinh nói: Thuyết của phẩm Ly Thế Gian nói, bất động từ xưa đến nay, vì nghĩa Phật từ xưa đến nay, nên cái gọi là mười vị Phật, như kinh Hoa Nghiêm nói:

  1. Phật vô trước, vì an trụ thế gian thành Chánh giác.
  2. Phật nguyện, vì sinh ra.
  3. Phật nghiệp báo,vì đức tin.
  4. Phật trì, vì thuận theo.
  5. Phật hóa, vì vượt qua hẳn.
  6. Phật pháp giới, vì không nơi nào chẳng đến.
  7. Phật tâm, vì an trụ.
  8. Phật tam-muội, vì vô ngại, vô trước.
  9. Phật tánh, vì quyết định.
  10. Vì sao nói số mười?
  11. Phật như ý, vì che khắp.

Vì muốn nói lên nhiều Phật, vì nghĩa này là nguồn chân của các pháp, tông huyền diệu rốt ráo rất sâu kín khó hiểu, nên có thể suy nghĩ sâu xa.

Hỏi: Hữu tình còn ràng buộc, chưa dứt phiền não, chưa thành phước trí. Vì nghĩa gì nên thành Phật từ xưa đến nay?

Đáp: Phiền não chưa dứt chẳng gọi là thành Phật. Phiền não dứt hết, phước trí thành xong, từ đây trở đi gọi là thành Phật xưa nay.

Hỏi: Dứt hoặc bằng cách nào?

Đáp: Như Địa Luận nói: không phải trước, không phải giữa, không phải sau, vì trước, giữa, sau làm sao dứt? Như hư không, vì đoạn như thế nên chưa dứt trở lại, không gọi là đoạn. Hiện đoạn trở đi, gọi là đoạn xưa nay, cũng như giác mộng, ngủ thức khác nhau, nên lập ra thành, không thành, đoạn không đoạn bình đẳng, thật ra về đạo lý thật tướng các pháp không thêm, không bớt, xưa nay không dao động. Thế nên, kinh nói: Trong pháp Bồ-tát không thấy một pháp nào bớt, trong pháp thanh tịnh không thấy một pháp nào nào thêm, là việc ấy.

Có người nói: Văn kinh như thế, là nói theo lý, chẳng phải nói theo sự. Nếu y cứ theo môn giáo phương tiện của ba thừa, thì phải có nghĩa này, nếu y chỉ môn giáo như thật của Nhất thừa, không cùng tận lý Nhất thừa, thì lý sự mù mờ. Một khi vô phân biệt thì thể, dụng viên dung, thường tồn tại Trung đạo, ngoài việc của mình ra chỗ nào được lý?

Hỏi: Trong giáo Ba thừa cũng có vắng lặng mà thường vận dụng, vận dụng mà thường vắng lặng, các nghĩa như thế vì sao ở trên vừa nói môn nghiêng lệch tức lý, vì trong tức sự không được tự tại?

Đáp: Vì lý, sự tương tức có nghĩa như thế, chẳng phải nói là sự sự tương tức, vì sao? Vì trong giáo Ba thừa muốn trị bệnh phân biệt, phải hội sự nhập lý làm tông. Nếu y cứ vào Nhất thừa Biệt giáo, lý lý tương tức, cũng được sự sự ương tức, cũng được lý, sự ương tức, cũng được mỗi sự, lý đều không tương tức, cũng được tương tức. Vì sao? Vì ở giữa tức khác nhau nên cũng có đầy đủ các pháp môn lý nhân Đà-la-ni và sự nhân Đà-la-ni.

Mười Phật trong nhà pháp giới của Phổ Hiền có pháp môn pháp giới vô chướng ngại như thế, vì rất tự tại. Ngoài ra, pháp môn nghịch, thuận, chủ, bạn tương thành, so sánh tương ưng nhau, thuận theo nghĩa tiêu tức. Nếu muốn quán duyên khởi pháp Đà-la-ni thật tướng, thì trước lẽ ra phải giác biết pháp mấy mươi tiền, đó là một tiền cho đến mười tiền. Sở dĩ nói mười là vì muốn nói lên sự vô lượng, nên trong đây có hai:

  1. Mười trong một, một trong mười.
  2. Một tức mười, mười tức một.

Trong môn đầu có hai:

  1. Hướng thượng.
  2. Hướng hạ.

Trong phần nói hướng lên (thượng) có mười môn khác nhau.

1/ Một. Vì sao? Vì duyên thành nên là số gốc, cho đến mười, nghĩa là mười trong một. Vì sao? Vì nếu không có số một thì mười sẽ không thành, vẫn là mười chẳng phải một. Môn khác cũng giống như thế. Sự so sánh có thể biết.

Trong hướng trở xuống (hạ) cũng có mười môn:

2/ Mười. Vì sao? Vì duyên thành cho đến mười, nghĩa là một trong mười. Vì sao? Vì nếu không có mười thì một sẽ không thành, vẫn là một chẳng phải mười. Số khác cũng giống như thế. Sinh biến như thế, xét đối xứng sẽ biết, trong mỗi tiền, có đầy đủ mười môn, như trong hai tiền gốc, ngọn đầy đủ mười môn, trong tám tiền khác, so sánh rất dễ hiểu.

Hỏi: Hiện nói một, nghĩa là đâu được trong một, gọi là mười?

Đáp: Pháp Đà-la-ni đại duyên khởi, nếu không có một, thì tất cả sẽ không thành, quyết định biết tướng duyên khởi như thế, như đã nói một, nghĩa là không phải tự tánh, vì một duyên thành, nên một, cho đến mười, nghĩa là chẳng phải tự tánh mười. Vì duyên thành nên mười. Tất cả pháp duyên sinh chẳng có một pháp nào quyết định tướng có tánh. Vì chẳng có tự tánh nên không tự tại, nghĩa là sinh, bất sinh sinh, bất sinh sinh, tức là nghĩa bất trụ. Nghĩa bất trụ tức là Trung đạo. Nghĩa Trung đạo tức vì chung cho sinh, bất sinh, nên Long Thọ nói: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không, cũng nói là giả danh, cũng là nghĩa Trung đạo, tức là nghĩa ấy.

Nghĩa Trung đạo là nghĩa vô phân biệt. Vì pháp vô phân biệt chẳng giữ tự tánh nên tùy duyên vô tận, cũng là bất trụ. Cho nên phải biết, mười trong một, một trong mười, bao dung nhau vô ngại, vẫn không phải là nhau, vì hiện trong một môn đầy đủ mười môn, nên nói trí ở giữa, trong một môn có nghĩa vô tận, như một môn, môn khác cũng giống như thế.

Đáp: Trong một môn có nhiếp giữ mười tận hay không?

Đáp: Đều bất tận. Vì sao? Vì cần tận tức tận, cần không tận thì không tận. Nghĩa ấy như thế nào? Vì một sự giải thích một, nhiều nên tức tận, vì dùng sự khác để giải thích một, nhiều nên tức bất tận. Lại, nghĩa một, nhiều trong một sự, chẳng phải là nhau, tức là nhiều, một. Vì sự tức nhiều là một trong bốn câu. Lỗi lầm giữ lấy, không phải đức lìa, so sánh rất dễ hiểu, sự khác cũng so sánh đồng.

Hỏi: Cần là nghĩa gì?

Đáp: Cần, nghĩa là duyên thành. Vì sao? Vì pháp nhân duyên một không khác nhau, nên trong môn các sự riêng, so sánh như thế. Diệu lý duyên khởi, lẽ ra như thế, vì có thể biết, nên môn thứ nhất đã xong.

Môn thứ hai: Trong đây cũng có hai môn:

  1. Hướng lên.( thượng )
  2. Hướng xuống. ( hạ )

Mười môn trong môn đầu khác nhau:

1/ Một. Vì sao? Vì duyên thành cho đến mười, một tức mười. Vì sao? Vì nếu không có số một, thì mười sẽ không thành. Vì duyên thành nên trong môn thứ hai cũng có mười.

2/ Mười. Vì sao? Vì duyên thành, cho đến mười, mười tức một. Nếu không có mười thì một sẽ không thành. Số còn lại so sánh rất dễ hiểu.

Vì nghĩa này nên phải biết trong mỗi tiền đầy đủ mười môn.

Hỏi: Nhiều môn như trên, một thời điểm đều viên, hay trước, sau khác nhau?

Đáp: Tức viên, tức trước, sau khác nhau. Vì sao? Vì cần viên thì viên, cần trước, sau thì trước, sau. Vì sao? Vì dụng đức trong nhà pháp tánh, vì tự tại vô chướng ngại, vì duyên thành, nên đều được như thế.

Hỏi: Nghĩa đến đi đã nói như trên, nghĩa ấy tướng trạng như thế nào?

Đáp: Vì mình không lay động mà thường đến, đi. Vì sao? Vì đến, đi nghĩa là nghĩa tùy duyên, tức là nghĩa nhân duyên. Không dao động:

hướng đến nghĩa gốc, tức là nghĩa duyên khởi.

Hỏi: Nhân duyên có gì khác với duyên khởi?

Đáp: Vừa khác, vừa đồng, cái gọi là nghĩa khác ấy là nhân duyên đối chiếu nhau, làm sáng tỏ nghĩa vô tự tánh, chính là thể của tục đế.

Duyên khởi: Tùy tánh không có phân biệt, tức là tương tức, dung nhau, biểu thị rõ nghĩa bình đẳng, chính là thuận theo Thế đệ nhất nghĩa. Vì tục đế không có tự tánh, nên thuận theo nghĩa thứ nhất, nên kinh nói: Thuận theo quán thế đế, tức nhập Đệ nhất nghĩa đế, tức nghĩa ấy.

Nghĩa khác như thế, nghĩa đồng như ở trước, Long Thọ đã giải thích.

Y cứ trong mỗi tiền, đối với mười môn đầy đủ đồng thời, dùng để chuyển vận trở về, để so sánh rất dễ hiểu.

Mười môn đã nói như trên, như thứ nhất trong tiền, cho đến thứ mười khác nhau, mà tương tức, nhập không trở ngại nhau. Mặc dù rất nhiều môn riêng về: Nhân quả, lý sự, nhân, pháp, giải, hạnh, giáo, nghĩa, chủ, bạn, v.v… mà thuận theo nói một môn, thì thu giữ hết tất cả, các nghĩa khác so sánh có thể biết.

Trên đây là pháp đếm tiền đồng. Vả lại, dựa vào đồng tiền sự biến kế, nhằm nêu rõ đồng tiền duyên khởi của nhân duyên y tha. Cũng có thể y cứ vào sự chỉ bày làm rõ sinh tất cả các pháp, rốt ráo không thật có, vì chúng sinh chấp vật thể biến kế, mê pháp duyên khởi, chỉ rõ pháp đứng dừng hoàn toàn dị biệt. Kinh nói: Công đức một niệm của Bồ-tát mới phát tâm không cùng thể tận, như đồng tiền thứ nhất. Vì sao? Vì y cứ vào một môn, làm sáng tỏ vô tận, huống chi vô lượng, vô biên các địa.

Công đức: Như đồng tiền thứ hai trở đi. Vì sao? Vì y cứ vào môn khác để nói, vào lúc mới phát tâm, liền thành Chánh giác, như vì một đồng tiền tức mười. Vì sao? Vì y cứ vào thể hạnh để giảng nói.

Hỏi: Bồ-tát mới phát tâm: Bồ-tát tín địa, tức là giai vị đệ tử. Thành chánh giác là Phật địa, tức là địa vị đại sư, cao, thấp khác nhau, địa vị cũng khác, vì sao? Vì đồng chỗ đều là đầu hay là chân?

Đáp: Pháp phương tiện Ba thừa và pháp Nhất thừa của Viên giáo. Dụng pháp đứng dừng, đều riêng không được dùng lẫn lộn, nghĩa ấy như thế nào? Vì pháp Ba thừa, đầu, chân đều khác nhau, con cái của cha, năm, tháng khác nhau. Vì sao? Vì y cứ vào tướng mạo, vì sinh lòng tin. Pháp Nhất thừa viên giáo: Đầu, chân đều một, con cái của cha, năm, tháng đều đồng. Vì sao? Vì duyên thành, vì nói theo đạo lý.

Hỏi: Số một là nghĩa gì?

Đáp: Một nghĩa là một nghĩa vô phân biệt.

Hỏi: Đồng là nghĩa gì?

Đáp: Đồng, đồng với nghĩa bất trụ, vì vô phân biệt không dừng, đầu cuối đồng chỗ, thầy, trò đều là đầu.

Hỏi: Đồng chỗ đều là đầu nghĩa là gì?

Đáp: Đồng chỗ đều là đầu, nghĩa là không biết nhau. Vì sao? Vì vô phân biệt.

Hỏi: Vô phân biệt ấy nghĩa là gì?

Đáp: Vô phân biệt, nghĩa là duyên sinh, tức là đầu cuối chung đồng là không hai, chẳng khác nhau. Vì sao? Vì tất cả pháp duyên sinh không có tác giả, không có thành, không có biết, nghĩa là một tướng của dụng vắng lặng, một vị cao, thấp cũng như hư không, các pháp pháp nhĩ, xưa nay như thế. Cho nên kinh nói: Quán tất cả pháp bất sinh, bất diệt, do nhân duyên mà có.

Văn như thế là nghĩa ấy.

Hỏi: Vì sao biết được Bồ-tát của vị tín, cho đến tu hạnh, đồng chỗ đều là đầu?

Đáp: Như dưới đây kinh nói: Khi mới phát tâm liền thành Chánh giác, cũng như Địa Luận giải thích: Bồ-tát của tín địa, cho đến Phật, vì sáu tướng thành cho nên nói biết có nghĩa như thế.

Sáu tướng như trên, ở đây nói muốn vào cửa quan yếu của ngôi nhà pháp tánh để mở kho tàng Đà-la-ni, tất nhiên phải có chìa khóa thật tốt.

Trên đây nói chỉ bày rõ pháp đại duyên khởi Đà-la-ni của Nhất thừa, cũng có thể phân biệt vô ngại của nhất thừa giải thích về thể đại, chẳng phải sự phân chia giới hạn của Ba thừa.

Hỏi: Sơ giáo trở lên tất cả các pháp tức không, tức như, một vô phân biệt, vì sao ở trên vừa nói đầu, chân đều riêng?

Đáp: Chẳng phải không có nghĩa này mà vì chưa mãn, nên từ dưới nói.

Hỏi: Cho nên biết được ngoài Ba thừa của mình, còn có sự phân chia xắp đặt của Nhất thừa Viên giáo, là vì như dưới đây, kinh nói: Tất cả loài chúng sinh trên thế giới, ít có ai muốn cầu đạo Thanh văn, người cầu Duyên giác lại càng ít hơn, người cầu Đại thừa rất ít có. Người cầu Đại thừa cũng là dễ, nếu tin pháp Đại thừa này mới thật là khó. Nếu chúng sinh thấp kém, tâm họ nhàm chán, thì dùng đạo Thanh văn để bảo cho biết, sao cho họ thoát khỏi mọi đau khổ.

Nếu lại có chúng sinh, các căn thấp nhỏ, sáng suốt, nhạy bén, ưa thích pháp nhân duyên, thì nói giáo pháp Bích-chi-phật cho họ nghe.

Nếu có người căn cơ sáng suốt, nhạy bén, có tâm đại từ bi, ưa đem lại lợi ích cho chúng sinh, thì sẽ nói đạo Bồ-tát cho họ nghe.

Nếu có người phát tâm vô thượng, quyết định ưa thích sự vĩ đại, thì vì họ thị hiện thân Phật, giảng nói vô tận pháp Phật. Lời bậc Thánh: Như hạt ngọc thường sáng, không nên lấy làm lạ.

Hỏi: Nhất thừa, Ba thừa giới hạn nghĩa riêng, nhờ đâu mà biết được?

Đáp: Y cứ vào mười môn thì biết.

  1. Môn đồng thời đầy đủ tương ưng, trong đó có mười tướng, đó là nhân, pháp, lý, sự, giáo, nghĩa, giải, hạnh, nhân, quả. Mười môn tương ưng này chẳng có trước, sau.
  2. Môn cảnh giới của Nhân-đà-la, trong đây đủ nghĩa đều có của mười môn trước, là từ dụ khác, so sánh rất dễ hiểu.
  3. Môn bí mật ẩn, hiển đều thành: Môn này cũng đầy đủ nghĩa đều có của mười môn trước, là từ duyên khác.
  4. Môn vi tế bao dung an lập, môn này cũng đủ nghĩa đều có của mười môn trước, vì từ tướng duyên khác nhau.
  5. Môn pháp cách mười đời khác nhau mà thành, môn này cũng đủ nghĩa đều có của mười môn trước, vì từ đời khác nhau.
  6. Môn các tạng thuần, tạp đầy đủ đức. Môn này cũng đủ nghĩa đều có của mười môn trước, vì từ sự khác nhau.
  7. Môn một, nhiều bao dung khác nhau: Môn này cũng đầy đủ nghĩa đều có của mười môn trước, vì từ lý khác nhau.
  8. Môn các pháp tương tức tự tại. Môn này cũng đầy đủ nghĩa đều có của mười môn trước, vì từ dụng khác nhau, cũng có thể y chỉ theo tánh.
  9. Môn tùy tâm về khéo thành: Môn này cũng đầy đủ nghĩa đều có của mười môn trước, vì từ tâm khác nhau.
  10. Môn phó thác sự, làm sáng tỏ pháp, sinh giải: Môn này cũng đầy đủ nghĩa đều có ở trước, vì từ trí khác nhau, nghĩa khác có thể rất dễ hiểu.

Mười môn mầu nhiệm trên đều khác nhau như phạm vi của giáo nghĩa tương ưng với ở đây, thì tức là Viên giáo Nhất thừa và thuộc về Đốn giáo. Nếu giới hạn của nghĩa giáo tương ưng với môn này, mà không đầy đủ thì tức là Tiệm giáo của Ba thừa, nên biết như thế.

Mười môn ấy, đầy đủ viên mãn, như kinh Hoa Nghiêm nói, nghĩa rộng khác, như kinh, luận, sớ sao phân biệt khổng mục vấn đáp.

Họa đồ pháp giới của Nhất thừa hợp với một ấn, y cứ kinh Hoa Nghiêm và luận Thập Địa nhằm nói lên chỉ yếu của tông Viên giáo.

Chương tổng, ghi nhận ngày 15 tháng 7, năm đầu.

Vì sao không ghi rõ tên họ người biên tập?

Đáp: Vì nói lên các pháp duyên sinh không có chủ.

Vì sao ở năm, tháng, tên?

Đáp: Vì bảo cho biết tất cả các pháp đều nương vào duyên sinh.

Duyên từ chỗ nào đến?

Đáp: Từ trong tâm điên đảo mà đến.

Tâm điên đảo từ đâu đến?

Đáp: Từ vô đầu, vô cuối đến.

Vô đầu, vô cuối từ nơi nào đến?

Đáp: Từ như như đến.

Như như ở chỗ nào?

Đáp: Như như ở pháp tánh của mình.

Pháp tánh lấy gì làm tướng?

Đáp: Lấy vô phân biệt làm tướng.

Cho nên, tất cả bình thường ở Trung đạo đều vô phân biệt, vì do nghĩa này.

Thi đứng đầu văn, pháp tánh viên dung chẳng có hai tướng, cho đến không dao động từ xưa đến nay, gọi là Phật, ý ở nơi đây. Cho nên dựa vào thi, tức luống dối, làm sáng tỏ thật, nên thệ nguyện: Thấy, nghe, tu tập danh tự và nghĩa pháp cùng khắp của Nhất thừa, hồi thí gốc lành này cho tất cả chúng sinh, huân tu khắp cùng tận cõi chúng sinh, cùng một lúc thành chương họa đồ pháp giới của Phật.

Họa đồ pháp giới Nhất thừa.

Tông Hoa Nghiêm, Đại sư Hương Tượng, Mạt Diệp Phi Nhân giải thích, Pháp sư Đầu để cầm bút.

Giờ Tý, ngày mồng ba, tháng ba, năm thứ hai, kiến lịch, mới cho ở trên núi cao, vì chùa Pháp Thắng, đồng bản một hiệu đính. Hiền huyệt bát hu.