HÀ GIA YẾT LỢI BÀ TƯỢNG PHÁP

Việt dịch: Huyền Thanh

 

Lại nữa, lấy một tấm vải lụa trắng sạch chẳng được cắt xén, thỉnh một vị Họa Sư tài giỏi, đừng bàn chuyện trả giá. Lấy nước nóng thơm tắm rửa, mặc áo mới sạch, cho thọ tám Giới. Mỗi ngày như vậy ở nơi thanh tịnh làm một cái Thủy Đàn rộng khoảng 4 khuỷu tay (Pháp về Thủy Đàn như Bộ khác nói). Chú Sư hộ Thân, kết Giới (Sīmābandha) xong. Ở trong Đàn ấy đốt mọi thứ hương, rải mọi thứ hoa cúng dường xong.

Ở bên trong Đàn này vẽ làm Đức Bồ Tát có thân dài khoảng một trách tay của Đức Phật (dài ngắn chính đúng nên dùng một khuỷu tay của người), tổng cộng có 4 khuôn mặt.

Mặt chính giữa là mặt Bồ Tát rất đoan chính, dung mạo từ bi, nhan sắc màu trắng đỏ, tóc thuần màu xanh.

Một mặt bên trái là mặt sân nộ màu đen, ló nanh chó, tóc cực nhỏ dựng như màu lửa mạnh.

Một mặt bên phải làm dung mạo đại tiếu (cười to) màu trắng đỏ đoan chính như mặt Bồ Tát, đầu tóc thuần màu xanh.

Trên đầu của 3 khuôn mặt này đều đội mão trời (Thiên Quan) và đeo vòng tai. Trên mão có một vị Hóa Phật ngồi Kiết Già.

Trên đỉnh đầu của mặt chính giữa làm một cái đầu ngựa màu xanh biếc đang ngậm miệng.

Dưới cổ Bồ Tát đeo chuỗi Anh Lạc quý báu. Sau cổ và sau lưng có hào quang tròn với nhiều tầng màu sắc. Tay trái: co cánh tay để trước vú cầm hoa sen hồng, hoa sen đó ngang bằng với cái đầu của Bồ Tát đều hướng về bắp tay trái. Trên đài hoa ấy làm một vị Hóa Phật mặc áo cà sa ngồi Kiết Già, sau cổ, sau lưng có ánh hào quang.

Bồ Tát ngửa lòng bàn tay phải, duỗi 5 ngón và co ngang bằng khuỷu tay, bàn tay ấy nâng viên ngọc Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi: Ngọc Như Ý), viên ngọc ấy tròn trịa như làm màu trắng, chung quanh viên ngọc này có ánh lửa sáng màu đỏ bao vây, ngay bên dưới viên ngọc ở tay phải tuôn mưa các loại báu vật.

Trên bắp tay trái khoác Hệ-gia ca la giả ma (Vyāghra-camara: Da cọp) như khoác Kỳ Chi (Tức Tăng Kỳ Chi Điều), kết đeo ngay bên dưới nách, liền kéo lan da cọp ra đến cái háng. Ngoài ra vòng xuyến đeo cánh tay, áo khoác ngoài (Thiên y), quần đều như Pháp vẽ Bồ Tát của nơi khác.

Đặt Bồ Tát đứng thẳng thân trên hoa sen hồng. Trên hư không treo dù lọng báu để che đầu Bồ Tát đồng thời vẽ đủ các thứ âm nhạc của cõi Trời. Ở hai bên, trên không trung vẽ Tu Đà Hội Thiên đang nhảy múa cúng dường.

Lúc vẽ Tượng này thì dùng chất nước thơm mà vẽ, chẳng được dùng keo nấu bằng da thú. Lại dùng Tô Mộc Khư Tử (Đường nói là Vân Đài: Loại cây nhỏ có nhựa thơm) quết giã thành mảnh vụn thật nhỏ để dùng làm nước cốt của Lạc (Lạc trấp) và hòa như Pháp Hoà Xiểu (hoà các mảnh vụn của thức ăn khô). Dùng Ha Gia Yết Lợi Bà Tâm Chú, chú 21 biến xong, khiến người bệnh kia để bụng trống (không ăn) uống vào, ắt hết thảy tất cả trùng độc có trong bụng thảy đều nôn ra .

_ Lại có Pháp vẽ làm Tượng. Lấy cái bình mới làm bằng sành sứ tạp, chưa từng dùng, rồi nhuộm làm màu xanh. Trên bình sành sứ ấy vẽ làm bức tượng Ha Gia Yết Lợi Bà Quán Thế Âm (Hayagrīva-avalokiteśvara: Mã Đầu Quán Tự Tại) với thân tượng ấy cao một trách tay của Như Lai (bằng một khuỷ tay của con người), vẽ làm bốn khuôn mặt vui vẻ.

Một mặt bên trái vẽ màu đen, tròng mắt màu xanh lục, ló nanh chó lên trên.

Một mặt bên phải vẽ làm màu đỏ, gọi là Khiết Chú Diện.

Mặt chính giữa làm mặt Bồ Tát rất đoan chính, vẽ làm màu trắng.

Trên hư không cách lìa đầu tượng, vẽ làm khuôn mặt màu xanh, há miệng phun ra viên ngọc báu.

Trên bốn cái đầu ấy đều đội mão báu, trên mão báu ấy đều có vị Hóa Phật ngồi.

Bồ Tát: Tay trái cầm hoa sen, co khuỷu tay hướng nâng ngay trước bắp tay. Tay phải rũ xuống duỗi 5 ngón là tay Thí Vô Úy, trên 2 cổ tay đều làm vòng xuyến báu.

Dưới cổ Tượng ấy, đeo chuỗi Anh Lạc báu. Thân phần trang nghiêm như nơi khác đã nói về Pháp trang nghiêm thân Quán Thế Âm. Tượng đó đứng trên hoa sen báu.

Làm Tượng này xong. Từ ngày mồng mười của kỳ Bạch Nguyệt (15 ngày đầu của tháng) bắt đầu ăn Đại Mạch, sữa, cho nhừ. Sau đó vào ngày 13, 14, 15, ba ngày ba đêm không ăn. Lấy hương Sa Ca Tỷ Già và hoa Càn Đa Na Cú Lợi rồi chú vào 2 thứ này, một lần đọc chú một lần ném ngay trên khuôn mặt lúc trước, cho đến 8000 lần. Trong miệng của mặt ấy phóng ra ánh sáng lớn vây quanh Chú Sư rồi quay lại nhập vào miệng tượng. Ở trong miệng Tượng ấy tuôn ra viên ngọc Như Ý. Chú Sư liền nhận lấy viên ngọc ấy xong sẽ sống lâu đến 14000 tuổi, được 7 báu của Chuyển Luân Thánh Vương, sau khi chết được sinh về cõi nước An Lạc (Sukha-vatì) và ngồi dưới bàn chân của Đức Quán Thế Âm .

_ Lại có một Pháp: nên đi xin thức ăn. Ăn đại mạch, sữa, cháo nhừ rồi tụng bảy vạn biến.

Vạn biến thứ nhất thì Tỳ Na Dạ Ca liền bị cột trói

Vạn biến thứ hai thì thành tựu Chú Pháp

Vạn biến thứ ba, liền được thành tựu Pháp thuốc An Thiện Na, Ma Na Xí La. Ba ngày ba đêm chẳng được ăn mà chỉ tác Pháp. Tay cầm thuốc ấy, ngay lúc chú vào thuốc thì trong thuốc ấy hiện ra 3 loại tướng liền biết thuốc thành. Ba tướng là : hơi ấm, khói, lửa…liền được thành tựu An Đà La Đà Na, nhảy lên hư không mà đi, được thành tựu Trì Chú Tiên Nhân, tự tại được vào cung A Tu La.

Vạn biến thứ tư, sẽ cách lìa mặt đất 4 ngón tay mà đi tự tại

Vạn biến thứ năm, liền được tùy ý nhảy lên hư không mà đi

Vạn biến thứ sáu, liền được sống đến ngàn tuổi. Chú Sư thành tựu Chú Tiên Nhân, tuỳ theo mọi việc mà mình đảm nhận, đều được thành tựu. Tất cả ai được hô hoán (kêu gọi, thỉnh triệu) đều đi đến.

Vạn biến thứ bảy thì tóc trên đầu của Chú Sư sẽ biến làm thành tựu tóc xoắn ốc. Tùy theo chỗ tu sẽ ứng niệm liền đến, gần gũi thừa sự Đức Quán Thế Âm, liền biết tất cả chúng sinh trong ba đời chết nơi này sinh nơi kia như thế nào, liền được thành tựu.

_ Lại có Pháp: muốn đánh Tây Nhạ Giả (Tejāya: Uy quang đẳng). Ở trước tượng Hà Gia Yết Lợi Bà, nhịn ăn 3 ngày 3 đêm, mài hương trên Đàn, đem mọi thứ hương hoa, thức ăn uống, sữa, cháo, quả trái … trong sạch, mọi thứ cúng dường. Quết giã hương Sa Xà La Sa, dùng Bạch Mật hòa làm 8.000 viên, rồi chú vào mỗi 1 viên 1 biến, xong ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy cho đến khi hết hương thì Chúng Tây Nhạ Giả ấy tìm thấy. Thoạt tiên chúng nhìn thấy cái đầu ngựa thì khinh chê, liền chuyển làm cái đầu của Hà Gia Yết Lý Bà. Chú Sư đột ngột dâng lên, hướng về Chúng ấy thì tất cả Chúng Tây Nhạ Giả thảy đều tan mất.

_ Lại có Pháp: Trước tiên dùng Đại mạch cho con bò ăn (ngưu khiết) xong. Lấy lúa tể trong phân rửa sạch rồi chân thành quết giã rồi chưng nấu làm cháo sữa. Từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, ăn cháo sữa này cho đến ngày 13 thì chấm dứt chẳng ăn. Ở trước tượng Hà Gia Yết Lợi Bà dùng hương bột xoa tô mặt đất, rải mọi thứ hoa, thiêu đốt các hương tốt, đem mọi thức ăn uống cúng dường xong rồi, lấy hương Ca Tỷ Xà quết giã làm thành hạt bụi nhỏ, hòa lấy nước làm thành 8.000 viên. Lấy gỗ cây Ca Địa La làm củi nhóm lửa, mỗi lần chú vào một viên hương (hương hoàn) thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy cho hết 8.000 viên. Khi hết hương hoàn rồi thì than củi biến thành vàng Tô Bạt Na (Suvarṇa: vàng ròng) có màu vàng, nặng đến trăm ngàn lượng.

_ Lại có Pháp: Nếu muốn Khiết Tha Chú (tức phá diệt Chú của Ngoại Đạo) thì lấy chút máu trong thân của mình hòa với hạt cải trắng làm thành 8.000 viên. Vào ngày 14 của kỳ Hắc nguyệt (15 ngày cuối của tháng) nhịn ăn một ngày, lấy gỗ Khư Đà La đem nhóm lửa trong lò. Lấy viên hạt cải trắng lúc trước, cứ một lần chú vào một viên thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt. Như vậy cho đến hết viên hạt cải, thời tất cả các Chú thảy đều khiết (phá diệt) được hết (Khiết là ngôn ngữ của nước ngoài, tức đồng với lời dạy phá diệt của Đại Đường. Tha là Ngoại Đạo)

_ Lại có Pháp : Chỉ tụng Chú, đi đến ở nơi khoáng dã (đồng trống vắng vẻ) với nơi có đống cát cao thì thức ăn uống cần có, tự nhiên tuôn ra .

_ Lại có Pháp: Vào lúc Nhật Nguyệt Thực lấy một lạng Ngưu Tô sạch đựng đầy trong bình bát sành sứ mới. Liền cầm cái bát này ngửa nhìn mặt trời mặt trăng rồi chú vào (tô) trong bát cho đến khi nóng lên, hoặc hiện ra tướng khói tướng lửa. Ngay lúc đó liền uống bơ này vào. Hết bơ rồi, tùy muốn đến nơi nào chỉ khởi ý thì đến đó ngay.

Nếu thường tụng Chú này thì ở tất cả nơi đáng sợ đều không có sợ hãi. Hết thảy chướng nạn thảy đều được giải thoát.

_ Lại có Pháp : Nếu bị trúng nhọt Lộ đà (người bị nhọt này thảy đều bị chết) với bị các loài rắn độc cắn (người nhìn thấy con rắn này liền bị chết) hoặc bị trúng nhọt Kiện Tỳ Tra Kê. Khi bị các loại nhọt này thì chú vào đất bùn màu vàng đủ một ngàn biến rồi xoa lên trên nhọt ấy, liền được trừ khỏi. Tất cả tâm niệm sợ hãi liền được trừ bỏ.

_ Lại có Pháp : Nếu có người đột nhiên gặp nạn sông nước (thủy nạn) hễ Tâm ghi nhớ liền chẳng bị chìm đắm.

Pháp của nhóm như vậy, chẳng thể rộng nói, chỉ tùy theo ý liền thành.

Nếu người làm Đại Man Trà La thì chẳng được hành dâm dục

_ Hạ Gia Yết Lợi Bà Liệu Bệnh (Chữa bệnh) Ấn. (Hai tay cài chéo các ngón bên trong rồi nắm lại thành quyền, dựng 2 ngón trỏ dính đầu nhau, co 2 ngón cái rồi co 2 ngón trỏ nắm gốc móng 2 ngón cái sao cho 2 móng tay của ngón trỏ dính lưng nhau).

“Án, cốt (?thể) lỗ lô, cưu lô đà na, ô hồng, phán, sa-phộc hạ”

_ Hạ Gia Yết Lợi Bà Khất Thực Ấn. (Ngửa tay trái đều dựng 5 ngón. Đưa tay phải hướng xuống dưới rồi đặt đầu ngón giữa và đầu ngón vô danh đều trụ dính nhau)

“Án, thị na gia” (Tụng 14 lần)

Hai Ấn bên trên có thể dùng tiếp theo Giải Cấm Đao Ấn

_Nếu làm pháp này. Trước tiên nên cấm buộc Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka). Nên đối trước tượng Hạ Gia Yết Lợi Bà lấy gỗ cây Đậu Khấu chặt dài 8 ngón tay rồi đốt cháy. Lấy An Tất hương làm tám trăm viên. Cứ một lần chú vào một viên thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt, cho đến khi hết hương thì Tỳ Na Dạ Ca liền tự bị cột trói.

Chú là:

“Quy mệnh_ Đát điệt tha (1) Chủ lỗ, chủ lỗ (2) Tỳ chủ lỗ, tỳ chủ lỗ (3) Già đá gia sa (4) ma ha bà la (5) Tát bà tỳ tri na, tỳ na dạ càn (6) bá tra bà mô khô-tri (7) bộ đá gia, phán (8)”

_ Nếu có người, ban đêm vướng lỗi chẳng trong sạch (bất tịnh). Lấy chỉ trắng chú vào 800 biến, sau đó làm sợi dây Chú (Chú sách). Cứ một lần chú thì kết gút một lần cho đến 21 gút rồi đem cột buộc nơi eo lưng thì chẳng bị rỉ mất.

Chú là :

“Quy mệnh _ Đá điệt tha (1) Bột địa, bột địa (2) tố bột địa (3) Nhận đạt-lê bột địa (4) Ma mê thâu ca lam (5) bà la mưu giả đô (6) sa ha” 

_ Lại có Pháp: Chú vào áo cà sa (Kaṣaya). Tụng 7 biến xong kết làm một gút, liền được thành tựu Hộ Thân.

Chú là:

“Đá điệt tha (1) Ha lị, ha lị (2) vô ha lê (3) cú ha lê (4) Tát bà đột sắt-đam (5) chiêm bà dạ nhĩ (6) Dạ bạt kiệt -lam địa (7) na văn xã nhĩ (8) sa ha”

(Ghi chép xong phần trên, tùy tụng ắt thứ tự thành nghiệm)

HẠ GIA YẾT LÝ BÀ NGHI QUỸ

_MỘT QUYỂN (Hết)_

Hiệu chỉnh xong vào ngày 27/04/2011