KINH A DI ĐÀ THIỂN THÍCH
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng Thuật

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Cảnh

 

VII. Giảng Giải Kinh Văn

Như vậy tôi nghe, một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Tại sao gọi là Như vậy? “Như vậy” là Tín thành tựu. Pháp đúng như vậy là pháp đáng tin. Pháp không đúng như vậy là pháp không đáng tin. Cho nên “Như vậy” là lời chỉ cho pháp. Chỉ là chỉ bày Phật pháp. “Như” là tịnh, “thị” là động. “Như” mới “thị”, không “như” thì không “thị.” Sao gọi là “thị”? Không có chẳng thị mới kêu là “thị”, vì tuyệt đối không có phi. Sao gọi là “Như” ? -“Như” là vắng lặng không động. “Như” chính là Chơn không.” “Thị” chính là Diệu hữu, cũng chính là diệu hữu không ngoài chơn không, chơn không cũng không ngoài diệu hữu, cho nên gọi là không hữu bất nhị, tức không tức hữu, phi không phi hữu. Thứ pháp này mới là đáng tin cậy. Như vậy tôi nghe (như thị ngã văn), bốn chữ này là bốn chữ mở đầu của các Kinh Phật, “Như” mới “thị” mới “như.” Không “như” thì không “thị”, không “thị” thì không “như”, đạo lý này là như thế đó, cho nên pháp “như thị” là đáng tin.

“Tôi nghe” là Ngài A Nan chính tai nghe. Ngài A Nan chứng quả Thánh, đã vô ngã, tại sao còn nói tôi nghe? -Cái tôi này là cái tôi vô ngã, cho nên Ngài A Nan nói “tôi nghe.” Nhân vì người đời đều có cái tôi, nên Ngài A Nan dù là vô ngã, nhưng cũng tùy theo thế tục mà nói ra đạo lý này. “Tôi nghe” là Văn thành tựu. Có nghe mới có tin. Không nghe thì làm sao tin được?

Bốn chữ “Như vậy tôi nghe” được căn cứ trên lời di huấn của Phật, khi Phật sắp nhập Niết-bàn : một ngày nọ, Phật nói với đại chúng: “Giữa đêm nay Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”

Ngài A Nan nghe Phật sắp nhập Niết-bàn, bèn khóc lên, giống như trẻ thơ thiếu mẹ. A Nan vừa khóc vừa thưa: “Xin Phật đừng nhập Niết-bàn, xin Phật đừng bỏ chúng con.”

Đầu óc của Ngài A Nan lúc đó đang bối rối, không còn tỉnh táo nữa, chỉ có khóc là hơn hết. Lúc đó có một người mù (Tôn giả A Na Luật), người mù này không giống với bao người mù khác; ông ta dù không có mắt (nhục nhãn) nhưng lại có thiên nhãn. Vì không có mắt thịt nên ông không cần phải ngó Đông ngó Tây, và không có chút vọng tưởng nào, tâm trí thanh tịnh. Ông hỏi Ngài A Nan: “Thưa Tôn giả, tại sao Ngài thương tâm khóc lóc quá đỗi như thế?”

Ngài A Nan đáp: “Đức Phật sắp nhập Niết-bàn mà Ngài bảo tôi không khóc sao được?”

Người mù nói: “Ngài khóc có ích gì đâu? Bây giờ còn có rất nhiều việc phải thưa hỏi Phật.”

– Có việc gì nào? Phật sắp nhập Niết-bàn, còn có việc gì cần thiết nữa đâu?

– Có bốn việc rất quan trọng, nếu Ngài không hỏi rõ không biết sẽ phải làm sao!

-Việc thứ nhất là: Khi kiết tập Kinh tạng, ở đầu kinh phải bắt đầu bằng những chữ nào?

-Đúng thế! Việc đó rất quan trọng. May được ngài nhắc đến, nếu không tôi quên mất. Việc thứ hai, thưa Tôn giả?

-Khi Phật còn tại thế, chúng ta tôn Phật làm Thầy. Khi Phật nhập Niết-bàn, chúng ta sẽ tôn ai làm Thầy?

-Phải đấy. Khi Phật đã nhập Niết-bàn, chúng ta sẽ tìm ai làm thầy đây?

-Khi Phật còn tại thế, chúng ta nương Phật mà ở. Lúc Phật đã nhập Niết-bàn, chúng ta nương theo đâu mà ở? Đó là việc thứ ba.

-Còn việc thứ tư thưa Tôn giả?

– Khi Phật còn tại thế, nếu các Thầy Tỳ-kheo có tánh xấu (tức là những người không giữ quy củ, không hòa hợp với chúng, tánh tình ưa tranh giành hơn thua giống như A-tu-la), thì Phật có thể điều phục. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, những Tỳ-kheo và những cư sĩ tánh xấu kia đều kiêu mạn, lấn hiếp người, nói rằng: “Các ông không bằng tôi, các ông không bằng tôi phát tâm. Như vậy phải làm sao?

Ngài A Nan nghe nói, biết là vấn đề này rất hệ trọng, phải thưa hỏi Phật, mới lật đật lau nước mắt, đến trước Phật thưa: “Bạch Thế Tôn, hiện con có bốn việc muốn thưa hỏi Thế Tôn, xin Phật từ bi chỉ dạy cho.”

Phật đáp: “Được, có vấn đề gì cần hỏi, ta sẽ giải đáp cho.”

Ngài A Nan thưa: “Những Kinh điển mà Phật nói ra rất nhiều, khi kiết tập Kinh tạng phải dùng chữ gì để ở đầu kinh?”

Phật nói: “Mười phương ba đời tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều dùng bốn chữ “Như vậy tôi nghe” để ở đầu kinh.”

A Nan lại hỏi: “Khi Phật còn ở đời, chúng con nương theo Phật làm Thầy; Phật nhập Niết-bàn rồi chúng con nương theo ai làm Thầy? Có phải là nương theo Ngài Đại Ca Diếp không?”

Phật nói: “Không phải đâu! Ta nhập Niết-bàn rồi, các ông nên lấy Ba-la-đề-mộc-xoa (Giới) làm Thầy.”

Cho nên người xuất gia phải thọ giới, đó là căn cứ theo lời dạy của Phật, khi Phật không còn ở đời phải lấy Giới làm Thầy.

A Nan lại hỏi: “Việc thứ ba là khi Phật còn ở đời, những Tỳ-kheo chúng con cùng Phật trụ một chỗ. Bây giờ Phật nhập Niết-bàn, những Tỳ-kheo như chúng con đây phải trụ vào đâu?”

Phật đáp: “Sau khi ta vào Niết-bàn, thì các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phải trụ vào bốn Niệm xứ.”

Bốn Niệm xứ là gì? Tức là niệm Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

1. Quán thân bất tịnh: Nhìn thấy thân thể chính mình là không trong sạch thì không thể đối với người khác sanh tâm niệm luyến ái; vì không tâm ái nên không chấp trước. Không có chấp trước thì sẽ được tự do.

2. Quán thọ là khổ: Những cái mà mình tiếp thọ đều là khổ. Khổ thọ, Lạc thọ đều là nhân khổ.

3. Quán tâm vô thường: Niệm niệm đổi dời.

4. Quán pháp vô ngã

Ngài A Nan hỏi: “Việc thứ tư là gặp những Tỳ-kheo, cư sĩ và một số người có tính xấu ác, chúng con phải xử lý như thế nào?”

Phật đáp: “Điều đó rất dễ, các ông nên dùng phép Mặc Tẩn. Mặc là không nói chuyện với họ, Tẩn là không để ý đến họ nữa.”

Điều này có nghĩa là khi gặp phải Tỳ-kheo có tánh xấu ác, thì nên dùng định lực chẳng để cho họ xoay chuyển.

Tại sao Phật bảo A Nan dùng bốn chữ như vậy tôi nghe để ở đầu kinh?

Việc này có bốn nguyên nhân:

1. Phân biệt với ngoại đạo: Những kinh luận của ngoại đạo mỗi khi bắt đầu đều dùng hai chữ “Có” hay “Không.” Tiếng Phạn là A (Có), Ưu (Không). Họ chủ trương tất cả pháp vạn sự vạn vật đều không ngoài hai chữ này; không phải có tức là không, không phải không tức là có, cho nên dùng hai chữ “A, Ưu” để mở đầu. Hoặc nói là, trước kia không, bây giờ có. Đạo lý ấy cũng gần giống như la Chơn không diệu hữu, nhưng chưa được giải thích rõ ràng.

Kinh tạng Phật giáo thì dùng chữ như vậy (Như thị): Bốn chữ “Tôi nghe như vậy” dùng để phân biệt với kinh luận ngoại đạo.

2. Dứt các nghi: Đức Phật biết rằng sau khi Ngài nhập Niết-bàn, đại chúng kiết tập Tam tạng thấy A Nan thăng tòa thuyết pháp liền khởi ra ba điều nghi: 1) Họ cho A Nan là Phật Thích Ca là Phật sống lại, 2) Có người cho là Đức Phật ở phương khác đến thuyết pháp chứ chẳng phải là Phật Thích Ca Mâu Ni. 3) Cũng có người cho là A Nan thành Phật rồi. Vì những điều nghi này nên Phật bảo A Nan để bốn chữ “Như vậy tôi nghe” ở phần đầu kinh.

Do đó Mọi người đều biết rằng thực ra A Nan không phải là Đức Phật Thích Ca, cũng không phải là Phật ở phương khác đến, cũng không phải là Ngài A Nan thành Phật, mà nguyên lai pháp này, chính Ngài A Nan đích thân nghe Phật Thích Ca nói ra. Đó gọi là dứt các điều nghi cho mọi người.

3. Dứt tranh cãi: Ngài A Nan tuổi nhỏ nhất trong đại chúng Tỳ-kheo. Khi Phật thành đạo, A Nan mới ra đời. Khi Phật nhập Niết-bàn, A Nan mới bốn mươi chín tuổi. Những Tỳ-kheo khác so với A Nan đều lớn tuổi cả; luận về tuổi tác thì Ngài Ca Diếp lớn tuổi nhất. Các vị khác như Mục Kiền Liên Tôn giả, Xá Lợi Phất Tôn giả tuổi tác đều lớn hơn A Nan nhiều. Luận về đạo đức, học vấn, trí huệ, những vị Tỳ-kheo kia cũng có vị cao hơn A Nan. Tại sao lại chọn Ngài A Nan đọc lại Kinh điển trong thời kiết tập Kinh Tạng? – Trong các vị Tỳ-kheo già có, trung niên có, mà Ngài A Nan là tuổi nhỏ nhứt. Nếu nói rằng Kinh điển là do Ngài A Nan nói lên thì những người kia sẽ không tin và đều muốn tranh giành hơn thua với ông. Có vị sẽ nói: “Tôi nghe Kinh điển nhiều hơn ông, đáng lẽ tôi phải nói lại chớ.” Có vị sẽ nói: “Tôi cũng là đệ tử Phật, những pháp do Phật nói ra tôi đều ghi nhớ trong lòng, đáng lẽ tôi phải nói lại chớ.” Tới chừng nghe Ngài A Nan nói: “Như vậy tôi nghe”, đó có nghĩa là “A Nan tôi đích thân nghe Phật nói.” Thì có thể dứt được tranh cãi.

4. Tuân lời dặn dò: Tuân theo lời phó chúc của Phật.

Ngài A Nan đem bốn việc hỏi Phật, hai việc trước đã nói ở trên rồi, bây giờ xin nói việc thứ ba. Việc thứ ba là nương theo bốn niệm xứ mà trụ. Bốn niệm xứ là: Thân xứ, Thọ xứ, Tâm xứ, Pháp xứ.

1. Quán thân bất tịnh: Chúng ta có thân này, chúng ta đối với thân thể rất là quý trọng phi thường, cho nó là thiệt có. Cho nên ích kỷ cũng từ thân này mà sanh, tự lợi cũng do thân thể này mà có. Nếu không có thân này thì cũng không có ích kỷ và tự lợi nữa.

Tại sao có ích kỷ, tự lợi? – Tại vì không hiểu rõ thân thể này, cho nó là chơn thiệt không hư dối. Cho nên tạo tội ra cũng vì nó, gây ác cũng vì nó. Đối với thân này nhìn không rõ, buông không ra, tìm cho nó thức ăn ngon, nhà sang, xe đẹp. Đó là do chấp trước không buông bỏ được, vì thế mà cả ngày từ sáng tới tối phải bận rộn với thân. Một mai thân này phải chết đi, còn không hiểu rõ, lại nói: “Thân của tôi phải chết à? Sao không chịu giúp giùm tôi?” Chừng đó mới biết thân này không phải là thiệt, nhưng đã muộn rồi, ăn năn không còn kịp nữa.

Như vậy thân này có phải là thiệt không? Người ngu nhìn thấy nó là thiệt, không giả dối chút nào. Nhưng người có trí huệ thì biết rõ thân này là do bốn đại: đất, nước, gió, lửa giả hợp nên. Thân thể này không phải là hoàn toàn thật. Vậy chứ hoàn toàn thật kia là gì? Cái hoàn toàn thật đó chính là Tự tánh. Tự tánh của chúng ta sáng suốt khắp cùng, đầy đủ vô ngại, cùng hư không khắp pháp giới, không ở chỗ nào mà chỗ nào cũng khắp. Thân thể của chúng ta chỉ là chỗ ở tạm thời của Tự tánh, khác nào một quán trọ. Thân thể chính là quán trọ ấy. Nhưng lữ khách ở quán trọ kia, nếu cho quán trọ là chính mình thì thật là quá lầm lạc. Nếu mình có thể xem thân thể là quán trọ mà cốt tìm đến ông chủ, thế là có thể biết được chính mình đấy. Thân thể của chúng ta đây từ trước đến nay vốn không sạch sẽ, bởi do tinh cha huyết mẹ hợp thành. Nó từ nhỏ không biết gì, rồi lớn dần lên, sanh ra các thứ tâm: Tham, sân, si, kiêu mạn, nghi ngờ, tạo ra vô số nghiệp: Sát sanh, trộm cắp, dâm dật, dối láo, rượu chè. Thân thể này có hoàn toàn quý báu chăng? Không phải thế! Phải thật là thanh tịnh không nhơ uế, không có nhiễm ô, không có một chút nào không thanh tịnh mới gọi là quý báu. Còn thân thể của chúng ta đây có chín lỗ thường tiết ra đồ bất tịnh: Hai mắt có ghèn, hai tai có cứt ráy, lỗ mũi có dãi mũi…

— Trung Quốc có một số ngoại đạo chuyên môn ăn dãi mũi. Những người tu theo ngoại đạo này nói: “Đó là phép luyện đơn.” Giả như không phải là ngu si làm sao có thể ăn dãi mũi được ư? Chẳng những dãi mũi, mà còn ăn cả ghèn và cứt ráy nữa, vì họ cho rằng những gì trong người tiết ra đều là quý báu cả. Những gì dơ bẩn họ đều cho là quý báu, thật là đáng thương xót biết bao!

Thân thể của chúng ta, trên mặt có hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng, thêm hai cơ quan đại tiểu tiện, cộng thành chín lỗ. Ai cũng biết rằng đại tiện, tiểu tiện đều không sạch sẽ, giả như bạn nấu thức ăn ngon, dùng đại tiểu tiện làm gia vị, người ta không biết thì sẽ ăn vào, nếu biết được thì không ai chịu ăn cả, vì họ biết đó là thứ dơ dáy. “Chín lỗ thường tiết ra đồ bất tịnh”, như vậy cái thân thể này có thật là quý báu hay không? Nếu là quý báu thì làm sao lại tiết ra đồ bất tịnh? Thân thể này nếu không tắm một tuần lễ thì sẽ ngứa ngáy khó chịu. Nếu để lâu hơn nữa thì có mùi hôi tiết ra. Thứ mùi hôi này, đừng nói đến chính mình, mà cả con chó cũng chịu không nổi nữa. Vì thế chúng ta phải nên quán thân bất tịnh. Thân thể này không sạch sẽ như thế, mình lại còn yêu tiếc nó, chấp trước nó hay sao! Yêu cái thứ không sạch sẽ như thế để làm gì chứ? Bạn sẽ nói: “Tôi có thể lấy dao chém nó để tự sát.” Không cần phải thế! Bạn nên mượn giả để tu chơn. Tự tánh của bạn ở trong thân thể này, bạn đi vào trong thân ngũ ấm thì trở thành âm dương hỗn hợp, cũng chính là ở trong thanh tịnh và hỗn trược. Nếu bạn tu tập hướng thượng thì được thanh tịnh có thể thành Phật; nếu không chịu tu tập thì sẽ rơi xuống, hòa hợp với ô trược thành ra quỷ. Cho nên bạn tu tập hay không là việc của chính bạn, người khác không thể giúp đỡ được. Giống như Tôn giả A Nan nói mình là em họ của Phật, không cần phải tu hành chi, Phật sẽ gia hộ cho ông Tam-muội. Nhưng Phật trước sau không thể cho ông Tam-muội được, đợi đến sau khi Phật Niết-bàn, lúc kiết tập Kinh tạng, ông mới chứng Tứ quả A-la-hán, chừng đó ông mới biết chính mình không tu thì không thể chứng được.

Quán thân bất tịnh là chúng ta không nên cho thân thể này là quý báu. Ai nói ta, ta không chịu được. Ai đánh ta, ta cảm thấy đau đớn và tủi thân. Kỳ thật, mình phải thấy rõ mà buông bỏ, không có cái đau, mà cũng không có cái không đau nào cả. Ai đau! Đau như thế nào? Có người đánh mình thì coi như mình đụng vào tường. Có người mắng mình, thì coi như họ đang hát hoặc nói tiếng ngoại quốc mà mình không hiểu là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, hay tiếng Bồ Đào Nha?

Tóm lại, nếu mình có thể thấy rõ thân thể này mà buông bỏ hết, không chấp trước, thì có thể được tự tại. Quán thân bất tịnh là xem thân thể này chẳng có gì quý trọng cả.

2. Quán thọ là khổ: Thọ là những cái mà mình tiếp nhận:

-Khổ thọ: Đó là Khổ khổ.
-Lạc thọ: Trong đó có Hoại khổ.
-Bất khổ bất lạc thọ: Đó là Hành khổ.
Ba thứ trên, khi mình tiếp nhận nó, hưởng thọ nó, đều cảm thấy là khổ; mình biết nó là khổ thì không thể nào chấp trước mà hưởng thọ được. Tôi thường nói với các vị: “Thọ khổ là hết khổ, hưởng phước là tiêu phước.” Thường thọ khổ thì không có khổ nữa; hưởng hết phước thì phước báu không còn nữa, tiêu mất hết rồi. Cho nên “quán thọ là khổ”, mà thân, tâm, pháp cũng đều là khổ.

3. Quán tâm vô thường: Tâm này là vô thường. Tâm quá khứ không thể khả đắc, là vô thường; tâm hiện tại không thể khả đắc, là vô thường; tâm vị lai không thể khả đắc, là vô thường. Tâm này với niệm niệm đổi dời, niệm niệm không dừng nghỉ cho nên là vô thường, và thân, thọ, pháp cũng đều là vô thường.

4. Quán pháp vô ngã: Bổn lai rốt ráo không có pháp, pháp đã không có thì làm sao có ngã đưo=.c ử Ngã là bốn đại sắc pháp giả hợp với năm uẩn mà thành; đã không có bốn đại sắc pháp và năm uẩn thì chính ngã cũng không có. Cho nên quán pháp vô ngã, nhơn không, pháp không; Nhơn cũng không thì pháp cũng không nốt.

Chúng ta tu hành phải thường quán tưởng Tứ niệm xứ. Khi Phật sắp diệt độ, Ngài dạy: “Tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di tu hành nương theo Tứ niệm xứ mà trụ.” Bốn niệm xứ này rất là vi diệu, cho nên mọi người cần phải nghiên cứu kỹ càng. Nếu mình có thể hiểu rõ bốn niệm xứ và trụ ở bốn pháp này thì không có chấp trước mà được tự do chân chính. Có chấp trước thì không có tự do, không có tự do mới nhơn đó có chấp trước, cho nên phải tu bốn niệm xứ, nương bốn niệm xứ mà trụ, trụ mà không trụ. Không trụ tức là “không dựa vào bất kỳ tâm thái nào mà sanh tâm.” (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm).

Bây giờ nói đến việc thứ tư mà Tôn giả A Nan đem hỏi Phật. Việc thứ tư là phải đối xử thế nào với Tỳ-kheo có tánh xấu? Đức Phật đáp: “Những Tỳ-kheo có tánh xấu, nên dùng phép Mặc tẩn. Do đây chúng ta có thể biết thời Phật còn trụ thế cũng có hạng Tỳ-kheo, cư sĩ và người có tánh xấu như vậy. Gặp những hạng người này thì không nên nói chuyện với họ, hãy giữ im lặng, không để ý đến họ, tự họ sẽ rút lui: Đó gọi là phép “Mặc Tẩn.” Sau khi Phật nhập Niết-bàn, gặp phải những hạng Tỳkheo hay cư sĩ có tánh xấu thì dùng phương pháp này để đối đãi với họ.

Như vậy tôi nghe, hai chữ Như vậy là Tín thành tựu, pháp như vậy thì đáng tin, pháp không phải như vậy thì không đáng tin. hai chữ Tôi nghe là Văn thành tựu. Nghe chính từ lỗ tai. Sao lại không nói tai nghe mà nói là tôi nghe? Bởi vì lỗ tai là một bộ phận của thân thể, còn “tôi” là tên gọi chung của thân thể. Lỗ tai chỉ là một tên riêng, đây gọi là bỏ riêng lấy chung. Không dùng tên riêng mà dùng tên chung, nên nói là “tôi nghe.”

Một thuở nọ, là nói về thời gian, là Thời thành tựu. Thời gian đó, tại sao không nói là năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, mà chỉ nói là “Một thuở nọ”? Tại vì năm tháng ngày giờ của mỗi quốc gia hoàn toàn không giống nhau, có nước lấy tháng giêng làm đầu năm, có nước lại lấy tháng hai, tháng ba hoặc tháng khác làm đầu năm. Vì lịch pháp không đồng nhau nên không có cách gì xác định về thời gian được; nếu xác định được thời gian thì các nhà khảo cổ sẽ khảo tra, nói là đúng hoặc là không. Bây giờ nói về “Một thuở nọ” thì không cần nhà khảo cổ phải khảo tra nữa. Muốn giảng kinh thuyết pháp, thứ nhất, cần phải có lòng tin, có người tin pháp mới có thể thuyết pháp được. Có người tin, nhưng không có thời gian đến nghe, thậm chí nghe một chút rồi chạy đi. Dầu có giảng kinh thuyết pháp mà người ta không nghe cũng không ích lợi gì. Tại sao nếu người ta thiệt có ý muốn học tập kinh pháp thì phải có thời gian; có thời gian rồi lại phải có lòng tin, lại phải có một vị Chủ thuyết pháp. Phật, chính là Chủ thuyết pháp, Chủ thành tựu vậy. Có Chủ thành tựu rồi, lại cần phải có Xứ thành tựu, nghĩa là phải có một địa điểm để giảng kinh thuyết pháp. Địa điểm ở đây chính là Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ. Nước Xá Vệ là tên một quốc gia ở nước „n Độ, Trung Quốc dịch là Phong Đức. Vì người trong quốc gia này đều rất thông minh, nên nước có dồi dào ngũ dục, thất bảo. Người trong nước đó lại có đức học rộng giải thoát. Nước này có ngũ dục, tài bảo, vậy ngũ dục là gì? Có người nói là của cải, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ; lại cũng có người nói là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Tóm lại, cảnh giới ngũ dục khiến cho trí huệ người ta điên đảo, con mắt người ta đắm trước sắc trần, tai đắm trước thanh trần, mũi đắm trước hương trần, đầu lưỡi đắm trước vị trần, thân thể đắm trước xúc trần. Ngũ dục này làm cho người ta mê loạn điên đảo chạy theo chúng nó. Người trong nước này có tài học rộng, hiểu biết nhiều. Giải thoát chính là không bị ràng buộc, rất tự do; được giải thoát cũng chính là tâm chấp trước rất nhẹ nhàng.

Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Kỳ thọ là cây của Thái tử Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc là vườn của trưởng giả Tu-đạt-đa. Trưởng giả Tu-đạt-đa là một người giàu có đương thời ở „n Độ, nhưng ông ta chưa biết Phật pháp, ngay đến tiếng Phật cũng chưa được nghe. Một hôm nọ, ông ta muốn cưới vợ cho con nên đến nhà một người bạn giàu có tên là trưởng giả San-đàn-na ở trong thành. Đến nhà bạn, ông ta thấy San-đàn-na nửa đêm thức dậy dọn dẹp phòng ốc, bài trí trang nghiêm đẹp đẽ phi thường. Trưởng giả Tu-đạt-đa thấy bạn trang trí nhà cửa đẹp đẽ như thế mới hỏi: “Ông trang trí nhà cửa đẹp đẽ dường ấy để mừng việc chi thế?” Trưởng giả San-đàn-na đáp: “Có ăn mừng gì đâu, tôi muốn thỉnh Phật đến cúng dường đấy!”

Trưởng giả Tu-đạt-đa vừa nghe thấy tiếng “Phật”, quá đỗi kinh ngạc, mình nổi gai ốc, tóc tai dựng đứng, hỏi: “Phật là gì?”

Trưởng giả San-đàn-na đáp: “Phật là Thái tử con vua Tịnh Phạn, đáng lý ra Ngài sẽ làm Vua, nhưng Ngài lại xuất gia tu hành thành Phật. Tôi muốn chuẩn bị những thức ăn cần dùng này để cúng dường Phật.”

Trưởng giả Tu-đạt-đa, tức trưởng giả Cấp Cô Độc, sau khi nghe tiếng Phật rồi, nao nao trong dạ, không ngủ được. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biết ông có lòng thành, bèn phóng hào quang soi rọi đến ông. Tiếp nhận ánh sáng chiếu đến, trưởng giả Tu-đạt-đa cho là trời đã sáng liền đứng dậy đi vào thành. Cửa thành bấy giờ hãy còn khoá chặt, nhưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng thần lực làm cho cửa thành mở toang, trưởng giả Tu-đạt-đa đi đến Tinh xá Trúc Lâm là nơi Phật đang ngự. Đến nơi, thấy có một vị Thiên nhơn đang đi vòng quanh Phật rồi đảnh lễ Phật. Trưởng giả Tu-đạt-đa từ trước chưa thấy Phật, cũng chưa nghe Phật pháp, không biết lễ phép ra sao, cho nên vị Thiên nhơn mới hiện ra như thế cho ông trông thấy. Trưởng giả Tu-đạt-đa cũng tự động đi quanh Phật ba vòng rồi cúi đầu đảnh lễ Phật. Phật nói pháp cho ông nghe, Tu-đạt-đa vô cùng thích thú nói rằng: “Phật có nhiều đệ tử như thế này phải có một nơi thật lớn mới có thể chứa hết được. Con dự tính tìm một địa điểm thật lớn để thỉnh Phật đến ở.” Phật nói: “Được! Ông hãy tìm đi.”

Trưởng giả Tu-đạt-đa trở về nhà tìm kiếm khắp nơi, nhưng chưa thấy chỗ nào vừa ý; sau cùng, tìm đến hoa viên của Thái tử Kỳ-đà, ông cảm thấy chỗ này vừa đẹp lại vừa rộng lớn. Trưởng giả Tu-đạt-đa mới đến gặp Thái tử xin mua hoa viên đó. Thái tử ban đầu không muốn bán, nhưng nghe trưởng giả Tu-đạt-đa muốn mua bèn nói đùa: “Được, nếu ông muốn mua hoa viên của tôi thì cứ đem vàng lát kín hết, tôi sẽ bán cho.”

Trưởng giả không kỳ kèo đắt rẻ, trở về nhà, tức khắc cho mang vàng miếng trong kho ra lát khắp hoa viên, rồi nói với Thái tử: “Bây giờ vườn này thuộc về tôi rồi đấy nhé!”

Nhưng Thái tử nói: “Hoa viên là của tôi mà, làm sao bán cho ông được? Tôi nói chơi đấy thôi chứ không bán, tôi không bán đâu!”

Trưởng giả Tu-đạt-đa nói: “Thái tử nói chỉ cần đem vàng miếng lát đầy hoa viên thì sẽ bán cho tôi. Tương lai Thái tử sẽ làm Vua, sao lại không giữ lời hứa như thế?”

Thái tử nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Được, đất vườn đã lát đầy vàng là thuộc phần ông, còn cây chưa lát vàng vẫn thuộc về phần của tôi, kể như tôi cúng dường cho Phật đấy.”

Cho nên vườn này có tên là vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc.

Sao gọi là Cấp Cô Độc? – Cấp là ban cho, cũng tức là bố thí. Vì ông trưởng giả Tu-đạt-đa chuyên môn bố thí cho những người già cả trẻ nít cô độc.

Thời Văn Vương nhà Chu, ở Trung Quốc cũng có cứu giúp bốn hạng người cùng khổ: Quan, quả, cô, độc. Quan là người già mà không có vợ. Quả là người già mà không có chồng. Cô là trẻ nít không có cha. Độc là người già mà không có con. Trưởng giả Tu-đạt-đa được tên Cấp Cô Độc là vì cứu giúp bốn hạng người này.

Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ là Xứ thành tựu. Nhơn vì có người nói thì nhất định phải có nơi chỗ; không nơi chỗ, pháp sẽ không dễ gì nói được.

Cùng với đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị , là Chúng thành tựu. “Cùng” tức là chung nhau, tức là mọi người cùng đi theo một vị Thầy để học tập, cùng ở một chỗ, cùng học tập theo Phật pháp, cùng phát tâm Bồ-đề như nhau, cùng khai mở trí huệ như nhau, cùng chứng đắc quả vị như nhau, cùng đồng thành Phật. Vì những lý do như nhau ấy cho nên dùng chữ “cùng”.

Đại Tỳ-kheo tăng, đầu tiên là nói về chúng Tỳ-kheo, vì Tỳ-kheo đều là hình tướng xuất gia. Kế đó nói đến chúng Bồ-tát, vì hình tướng Bồ-tát không nhất định, có lúc là tướng xuất gia, có lúc là tướng tại gia. Bồ-tát là những người tu theo trung đạo, cho nên để ở giữa, sau đó nói đến Thiên long Bát bộ, và sau cùng nói đến tất cả phàm phu tướng thế gian. Tướng xuất thế là Thánh nhân, Bồ-tát có lúc ở trong pháp hội, có lúc rời pháp hội đi đến thế giới khác. Tỳ-kheo là chúng thường theo Phật, theo Phật để nghe Kinh pháp. Cho nên khi kiết tập Kinh Tạng nêu chúng Tỳ-kheo ra trước.

“Đại” có ba nghĩa:

-Tỳ-kheo là người được quốc vương, đại thần sùng bái.

-Tỳ-kheo là người đoạn dứt tất cả phiền não.

-Tỳ-kheo là người phá trừ các ác nghiệp.

Tỳ-kheo không giống như người của các ngoại đạo khác, cho nên gọi là “thắng”, nghĩa là vượt hơn tất cả ngoại đạo khác.

Tỳ-kheo lại có ba nghĩa:

1. Khất sĩ: Cầm bát xin ăn.

2. Bố ma: Khi có một người thọ trong giới đàn, thì Địa Hành Dạ-xoa liền đi báo với Không Hành Dạ-xoa, Không Hành Dạ-xoa tức tốc báo với Thiên ma. Thiên ma lo sợ nói: “Phật lại có thêm một đệ tử nữa. Quyến thuộc của ta ít đi một người rồi.” Vì thế Thiên ma rất lo sợ, cung điện của Ma vương đều chấn động.

3. Phá ác: Khi Tỳ-kheo phát tâm Bồ-đề thì phá tám vạn bốn ngàn phiền não, cho nên gọi là phá ác.

Tăng già là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Hòa hợp chúng, tức là mọi người cùng ở một chỗ, không có chuyện hơn thua phải quấy, không tranh đấu lẫn nhau. Lại có “Sự hợp” và “Lý hợp.” Thế nào là “Lý hợp”? Tức là mọi người cùng chứng Vô vi giải thoát. “Sự hợp” lại có sáu thứ:

1. Thân hòa đồng ở: Tăng chúng ở chung một chỗ, không hề tranh đấu lẫn nhau, mỗi thời mỗi khắc phải tự quản lý mình, không cho phạm lỗi, không làm phương hại đến người khác. Ví như mọi người đều không uống rượu mà mình lại uống rượu, mọi người đều không hút thuốc mà mình lại hút thuốc thì Tăng không hòa, sẽ không thể ở chung được. Cho nên nhất định phải giữ thanh quy, không cho phạm lỗi.

2. Miệng hòa không tranh: Không nên biện luận phải quấy với nhau. Không nên có kiểu thị phi: Nhà Trương tốt, nhà Lý xấu; ba con ễnh ương sáu con mắt… Phải miệng hòa không tranh cãi, không nên nói lý lẽ của thầy không đúng, còn lý lẽ của tôi mới đúng, mà tranh luận lăng xăng.

3. Ý hòa đồng vui vẻ: Mọi người cùng học Phật pháp. Anh tu trì tinh tấn, tôi lại càng tinh tấn hơn. Mọi người cùng tu hành tinh tấn hướng thượng. Chẳng nên mỗi ngày càng kém hơn. Phải nói chuyện ít đi, tu tập nhiều hơn thì ý niệm của mọi người sẽ hòa hợp.

4. Kiến hòa đồng giải: Mọi người đều có kiến giải giống nhau.

5. Giới hòa đồng tu: Mọi người cùng tuân giữ giới luật, đồng tu hành.

6. Lợi hòa đồng chia: Mọi người đều cùng vì lợi ích cộng đồng mà gắng sức.

Sáu thứ hòa hợp trên đây là “Sự hợp.” một ngàn hai trăm năm mươi vị… là tăng chúng thường theo Phật. Phật đến địa phương nào nói pháp, những vị này nhất định đều có đi theo. Không luận là Phật nói những Kinh họ đã nghe hay chưa, họ nhất định vẫn đi theo Phật để nghe thuyết pháp. Cơ bản vẫn thường là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Phật trước độ năm vị Tỳ-kheo, rồi đến trưởng giả tử Da-xá và bốn mươi chín người đệ tử của ông. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên mỗi người có một trăm đệ tử cùng theo thầy quy y Phật, ngoài ra ba anh em Đại-Ca-diếp và một ngàn vị đệ tử cũng theo thầy quy y Phật. Vì thế cộng chung là một ngàn hai trăm năm mươi người. Ba anh em ông Ca-diếp cộng chung có một ngàn đệ tử. Trong đó, năm trăm người là đồ đệ của Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Ca-diếp là tiếng Phạn. Trung Quốc dịch là Đại Quy thị. Ưu-lâu-tần-loa dịch là Mộc Qua lâm. Có người nói: Vì ông ở trong rừng Mộc Qua tu hành. Lại có người nói: Vì trước ngực ông có một cái bướu lớn như trái Mộc Qua (trái dưa). Cũng có người nói: — ngực lõm xuống như hình trái dưa. Tóm lại có thể là như thế. Tôi nghĩ rằng ông ta rất khoái ăn dưa, cho nên khi tu hành trên thân mới mọc ra một cái bướu thịt hình trái dưa như thế. Đặc tính của dưa là bổ phổi, nếu có bịnh phổi nên ăn nhiều dưa vào.

Mộc Qua lâm Ca-diếp có hai người em, một người tên là Già-da là tên núi, Trung Quốc dịch là Tượng Đầu sơn (núi Đầu Voi); còn người kia tên là Na-đề, Trung Quốc dịch là Hà (sông) hoặc Thành. Tôi cho rằng con sông này ở bên thành, cho nên hai nghĩa đều dùng được. Hai người này tổng cộng có năm trăm đệ tử, cho nên ba anh em có một ngàn đệ tử.

Phật giáo hóa chúng sanh, trước tiên độ năm vị Tỳ-kheo ở vườn Lộc Dã, sau đó đáng phải độ ai? Ngài mới quan sát thấy ba anh em ông Ca-diếp cơ duyên đã thành thục, đáng được hóa độ. Bấy giờ Phật đi đến chỗ của ông Đại Ca-diếp, nhưng Ngài không nói thẳng ra: “Tôi đến để độ bọn ông, các ông có tin không?”, mà chỉ xử dụng pháp môn phương tiện quyền xảo. Ngài nói: “Bây giờ trời đã tối, tôi có thể nghỉ nhờ một đêm được không?”

Đại Ca-diếp là người tu hành theo đạo thờ Lửa rất lâu, lúc đó đã một trăm sáu mươi tuổi, thấy Phật không giống với người bình thường, nhưng ông ta nhìn không ra lai lịch của Phật và nhơn duyên gì Phật đến đây. Ông rất lấy làm lạ, tại sao bình thường, về lai lịch của bất cứ ai, hễ nhìn đến là ông biết ngay, mà hôm nay không cách gì hiểu được ông này là ai. Vì thế ông mới đưa Phật đến trong động một con rồng lửa. Con rồng lửa này là Hộ pháp của ông ta. Bất cứ người nào đi vào trong động đó liền bị rồng lửa thiêu chết ngay. Canh ba đêm ấy, rồng lửa muốn đốt chết Phật, nhưng Đức Phật dùng Hỏa quang Tam-muội đối phó lại, vô hiệu pháp thuật của nó, thâu nó vào bát và thuyết pháp cho nó nghe, cũng giống như việc Lục Tổ Đại sư thâu độc long vào trong bát, nhưng Phật không nói như Tổ: “Ngươi chỉ có thể biến ra lớn mà không thể biến lại nhỏ chui vào trong bát của ta.” Phật chỉ rất tự nhiên thâu nó vào trong bát, thuyết pháp cho nó nghe; rồng lửa liền quy y Phật.

Sau đó Phật hiển hiện các thứ thần thông, Đại Ca-diếp nhìn thấy, tự biết mình không bằng Phật, không có những đạo lực to lớn như thế, bèn xin quy y Phật. Sau khi quy y chẳng bao lâu, ông chứng được Thánh quả; năm trăm đệ tử của ông cũng theo ông quy y Phật và đều xuất gia. Hai người em của ông thấy anh mình theo Phật nên hai người cũng dắt năm trăm đệ tử cùng xuất gia theo Phật. Xuất gia không bao lâu họ đều chứng được Thánh quả. Nhơn đó gộp chung thành một ngàn hai trăm năm mươi vị. Những người này vì cảm tạ ơn sâu từ bi giáo hóa của Phật nên bất luận Phật đến thuyết pháp chỗ nào, các Ngài đều cùng theo Phật làm chúng Tỳ-kheo nghe pháp trong pháp hội. Cũng như quý vị nghe kinh hiện giờ, dù có người đã được nghe rồi nhưng vẫn trung thành hộ pháp. Ví như có vị đệ tử đi dạy học ở nơi xa, nhưng mỗi kỳ thứ bảy vẫn trở về đây tham gia pháp hội và làm Phật sự trong hai ngày cuối tuần. Đó là do lòng chơn thành hộ pháp của vị ấy. Lại có một đệ tử, dù có trăm công ngàn việc bận rộn vẫn thu xếp đến nghe kinh. Lao tác cả ngày bận rộn, rất là mệt nhọc, nhưng vẫn đến nghe kinh, thật là rất có lòng thành.

Câu hội,

là mọi người đều hội họp ở một chỗ.

Đều là bậc đại A-la-hán,

những người nhóm họp một chỗ đều là bậc đại A-la-hán cả. A-la-hán là tiếng Phạn, có ba nghĩa rất gần với nghĩa của Tỳ-kheo. Tỳ-kheo là nhân của A-la-hán, còn La-hán là quả của Tỳ-kheo.

Ba nghĩa của La-hán là:

1. Ứng cúng: — nhân là Khất sĩ, nên ở quả đáng được người, trời cúng dường.

2. Vô sanh: Trong nhân là Bố ma, nghĩa là làm cho ma sợ, làm cho “ma phiền não” sợ, làm ma chết sợ, thì quả đắc là vô sanh.

3. Sát tặc: Nhân là phá ác, nên quả gọi là Sát tặc, giết giặc vô minh, giết giặc phiền não.

Phá ma ngũ ấm và ma phiền não cùng ma chết. Chết cũng là một thứ ma. Giống như người tu hành tinh tấn nhưng khi có bịnh gần chết, thời nổi lên sợ sệt, đây tức là bị ma chết quấy động. Người chân thật tu hành phải không sợ sống cũng không sợ chết. Sống tức là chết, chết tức là sống, phải xem sống và chết như nhau, thì lòng dục vọng mới không sanh khởi. Nếu chết rồi thì sao lại có tâm dâm dục, tâm tham sân si mạn nghi ư? Lúc đó, tất cả phiền não đều không có, sẽ đạt đến cảnh giới hoàn toàn an lạc. Nhưng mà cảnh giới này không dễ gì đến được, tuy nhiên cũng không phải là khó khăn, chỉ cần quyết tâm mà thôi.

Đều là bậc đại A-la-hán, mọi người đều biết đến. Những vị đại A-la-hán này đều là những bậc đạo cao, đức trọng, người người đều biết tiếng.

Đó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma ha Mục-kiền-liên.

Trưởng lão là tiếng tôn xưng người lớn tuổi. Trưởng lão có ba hạng:

1. Niên kỳ trưởng lão: Kỳ là người tuổi già. Tuổi già là người có tuổi tác rất cao.

2. Pháp tánh trưởng lão: Tức là người hiểu rõ ràng Phật pháp. “Tánh” là tự tánh. Vị này hiểu rõ Phật pháp và thông đạt tự tánh, cho nên bất luận là tuổi tác vị ấy lớn hay nhỏ mà có trí huệ vô lượng, biện tài vô ngại, thì đều được gọi là Pháp tánh trưởng lão. Có khả năng như trên, dù là tuổi tác còn nhỏ cũng được gọi là trưởng lão, để giảng giải Phật pháp. Như Xá-lợi-phất lúc còn tám tuổi mà đã chiến thắng các Luận sư đương thời ở „n Độ. Trong bảy ngày, Ngài có thể thông suốt được Phật pháp, cho nên gọi là Trưởng lão.

3. Phước đức trưởng lão: Vị này có rất nhiều phước đức, nên ai ai cũng thích cúng dường vị ấy. Nhơn vì vị ấy tiếp nhận sự cúng dường của người nào cũng có thể khiến người ấy gieo trồng phước lành, cho nên nhơn đó mà có được đức hạnh.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều là trưởng lão. Xá-lợi-phất là tiếng Phạn, cha Ngài tên là Đề-xá, Lợi là tên của mẹ Ngài, Phất nghĩa là con, cho nên có một số kinh dịch là Xá-lợi-tử hoặc là Ưu-ba-đề-xá. Gộp tên cha mẹ lại làm tên của Ngài, cho nên gọi là Xá-lợi-phất, có nhiều cách phiên dịch. Có người dịch là Thân Tử, hoặc Thu Tử, hoặc Châu Tử.

Ngài Xá-lợi-phất là người trí huệ bậc nhất trong hàng Thanh văn, trí huệ của Ngài không ai sánh kịp. Đương lúc Ngài ở trong thai mẹ đã giúp mẹ biện luận luôn luôn được thắng. Bà biện luận với ai? Chính là với cậu của Ngài là Ma ha Câu-hy-la. Trước kia, khi chưa mang thai ngài Xá-lợi-phất, mẹ Ngài cùng em bà biện luận, càng biện luận càng thua. Nhưng từ khi mang thai Ngài, bà biện luận với em không giống như trước, những lý lẽ đưa ra hoàn toàn vững chắc. Em của bà tức cậu của Ngài Xá-lợi-phất cũng rất thông minh, biết rằng đây không phải là chị biện luận hơn mình, mà là do sự giúp sức của đứa trẻ bà mang trong bụng. Lúc đó ông bèn phát tâm đi về Nam „n Độ học môn Luận lý. Cứ học, học mãi, trong nhiều năm, ngày xưa không có đèn điện, nhưng ông ta suốt ngày từ sáng đến tối đều siêng năng học tập: Bốn bộ Vệ-đà, bốn thuyết Luận học, thậm chí không có bỏ qua một giây phút nào. Học như vậy đến mấy năm, y phục rách cũng không kịp vá, mặt cũng không rửa, móng tay cũng không có thì giờ cắt, cho nên móng tay cứ mọc dài ra mãi, vì thế người ta gọi ông là Trưởng Trảo Phạm chí. Ông định học xong tất cả những luận học sẽ trở về biện luận cùng cháu mình. Vì ông là một vị Đại Luận sư, mới nghĩ rằng: “Nếu không thắng được đứa cháu mình thì còn mặt mũi nào nhìn ai nữa.” Không dè sau khi học thành tài trở về lại phát hiện Xá-lợi-phất đã theo Phật xuất gia rồi. Ông cảm thấy không vui, cho việc học của mình là vô ích, và nói: “Phật có đạo đức gì? Chẳng qua chỉ là một ông Sa-môn. Ta phải đi tìm đứa cháu bắt về mới được.” Ông ta bèn đi đến chỗ Phật định bắt cháu ông về. Phật nói: “Ông dựa vào lý do gì mà bắt cháu về? Tông chỉ của ông như thế nào?”

Ông ta đáp: Tôi lấy “Không thọ” làm tông chỉ.

Phật nói: Phải, ông lấy “Không thọ” làm tông chỉ tại sao ông còn thọ cái kiến chấp “không thọ” của ông? Tông chỉ của ông phải chăng là thọ cái không thọ?

Từ trước đến giờ, ông cho tất cả đều không thọ, bây giờ Phật hỏi ông: Phải chăng là thọ cái chấp “không thọ”? Ông tự xét: Nếu nói là thọ, thì cái lý “lấy không thọ làm tông” đã bị đổ nhào, không còn đứng vững nữa, vì là có thọ rồi. Nếu nói là không thọ, thì cả đến kiến chấp cũng không thọ nữa. Nhưng khi lập tông này thì đã là có kiến chấp rồi, làm sao nói là không thọ kiến chấp ấy ư? Cho nên trả lời “thọ” cùng “không thọ” đều không đứng vững. Lúc đó ông tự nhận thua rồi.

Trước khi biện luận, ông giao kết với Phật: “Nếu tôi thắng thì tôi mang Xá-lợi-phất về, không cho nó theo ông xuất gia. Còn nếu thua thì tôi sẽ cắt đầu dâng cho ông.”

Ông ta đem đầu đánh cuộc, khi thấy mình bại rồi ông ta liền co giò chạy một mạch. Chạy được ba bốn dặm, ông lại nghĩ: “Chà, bậy bạ quá! Đã nói chắc rồi, hễ thua thì nộp đầu mà bây giờ lại chạy đi, đâu phải là hành động của đại trượng phu nam nhi hảo hán!” Ông bèn trở lại, xin với Phật Thích Ca cho mượn dao. Phật hỏi: “Ông mượn dao để làm gì?” Ông nói: “Tôi thua rồi, tôi phải cắt đầu nộp cho ông.” Phật nói: “Giáo pháp ta không có cách làm như vậy. Ông đã thua rồi thì không được đi, phải ở đây xuất gia mới đúng.” Ông hỏi: “Đức Thế Tôn chịu nhận tôi sao?” Phật gật đầu. Như vậy chẳng những cháu không bắt về được, mà người đòi bắt về cũng xuất gia làm Tỳ-kheo nốt. Sau khi xuất gia, không bao lâu ông được Pháp nhãn tịnh, chứng Thánh quả.

Xá-lợi-phất ở trong thai mẹ đã có đại trí huệ giúp mẹ biện luận thắng cậu của ông. Lại nữa, Xá-lợi-phất trong bảy ngày liền thông đạt Thật tướng các pháp, lúc tám tuổi đã biện luận thắng tất cả luận sư, cho nên gọi là Đại trí Xá-lợi-phất. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ai hỏi mà tự nói ra Kinh A Di Đà, đương thời lấy ngài Xá-lợi-phất làm Thượng thủ, vì có trí huệ như ngài Xá-lợi-phất mới có thể tiếp nhận đạo lý thâm diệu của pháp môn Tịnh độ.

Ngài Xá-lợi-phất chẳng những là trí huệ bậc nhất mà thần thông của Ngài cũng thuộc vào hàng bậc nhất nữa. Một hôm có vị cư sĩ thiết trai thỉnh Phật cúng dường. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất đang nhập định, người ta gọi Ngài mà Ngài không xuất định. Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên, vị thần thông bậc nhất, muốn dùng thần lực của mình để gọi ngài Xá-lợi-phất xuất định, nhưng sử dụng tận lực thần thông mà cả đến chéo áo của Ngài Xá-lợi-phất cũng không lay động. Điều này chứng tỏ rằng Ngài Xá-lợi-phất chẳng những là trí huệ đệ nhất mà thần thông cũng là bậc nhất.

Tại sao ngài Xá-lợi-phất có trí huệ bậc nhất? Tại sao gọi Ngài là Đại trí Xá-lợi-phất? Việc này phải xét theo nhơn quả. Khi Ngài còn tu nhơn, lúc mới phát tâm học Phật, gặp một vị Thầy, vị này hỏi: “Con muốn có trí huệ không?” Xá-lợi-phất đáp: “Con rất muốn.” Lúc ấy vị Thầy mới bảo ông: “Nếu muốn được trí huệ thì phải học pháp môn Bát nhã trí huệ, trì chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, Thập chú, Tâm Kinh… Mỗi ngày trì tụng các chú ấy thời có thể mở được trí huệ.” Xá-lợi-phất bèn tuân theo, mỗi ngày từ sáng tới tối, đi đứng nằm ngồi đều để tâm ở việc trì tụng, không có gián đoạn, thậm chí còn phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn kính lễ vị Thầy đã dạy pháp Bát-nhã. Như vậy, đời nào ông cũng học tập pháp môn Bát-nhã, đời nào cũng tăng thêm trí huệ. Đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, ông mới thành tựu được trí huệ như thế, có thể trong bảy ngày thông suốt Thật tướng các pháp.

Ai là Thầy của ông ở thời tu nhơn? Chính là Phật Thích Ca Mâu Ni đấy. Cho nên khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật rồi, ông cũng thành bậc đại A-la-hán. Đó là nhơn duyên mà ngài Xá-lợi-phất thành tựu đại trí huê. Chủ yếu là vì lúc nào ông cũng không quên lời dạy bảo của bậc thiện tri thức, cho nên nội trong bảy ngày mà thông suốt các pháp như vậy.

Chúng ta tại sao học kinh chú rất chậm, thậm chí mấy tháng trời mà chú Lăng Nghiêm không thuộc? Đó là vì đời trước chúng ta chưa học qua thứ Phật pháp ấy, đến bây giờ mới bắt đầu học. Điều cần nhất là học Phật pháp không nên lười biếng, cần phải bắt chước sự siêng năng vượt bực của ngài Xá-lợi-phất, ngày đêm không lười biếng để học Phật pháp. Cho nên người bây giờ nhớ không được kinh chú, cần phải cố sức lên, đó gọi là “Cần năng bổ chuyết? (Siêng năng bù đắp chỗ vụng về). Nếu nhớ được rõ ràng, cũng càng phải nỗ lực gấp bội để tăng thêm trí huệ của chính mình.

Tại sao trí huệ của ta kém hơn người khác? Tại vì chúng ta chưa học Phật pháp. Cho nên phải phát nguyện học tập Phật pháp thì tương lai chúng ta sẽ được đại trí như ngài Xá-lợi-phất. Ngoài ra chúng ta còn phải học theo đại trí của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì trí huệ của Ngài còn thâm diệu hơn ngài Xá-lợi-phất nhiều.

Ma-ha Mục-kiền liên. Ma-ha là tiếng phạn có ba nghĩa:

1. Lớn: Vì Ngài là bực Trưởng lão được quốc vương, đại thần cung kính.

2. Nhiều: Ngài học tập cả ba tạng mười hai bộ kinh điển.

3. Hơn hết: Ngài vượt hơn tất cả các ngoại đạo khác.

Mục-kiền liên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thái Thúc Thị, hoặc Lai Phục Căn, nhơn vì tổ tiên ngài khi tu hành ăn thứ rau này cho nên lấy đó đặt tên. Tên của ngài còn có một nghĩa là Câu-luật-đà, nhơn vì cha mẹ ngài cầu đảo với thần cây mà sinh ra ngài.

Tôn giả Mục-kiền-liên là bậc thần thông bậc nhất, khi ngài mới chứng A-la-hán liền được sáu thứ thông. Sáu thứ thần thông là:

1. Thiên nhãn thông: Chẳng những có thể thấy được tất cả tình hình ở nhơn gian mà lại còn có thể thấy được nhứt cử nhứt động của các người ở trên cõi trời.

2. Thiên nhĩ thông: Chẳng những thấy được mà còn có thể nghe được mọi lời nói, mọi hành động của người và trời.

3. Tha tâm thông: Khi hai bên gặp nhau, trong tâm bạn có ý nghĩ gì, dù chưa nói ra miệng nhưng đối phương đã biết rõ những điều bạn nghĩ và những việc bạn định làm.

4. Túc mạng thông: Chẳng những biết được ý nghĩ của bạn trong hiện tại, mà cả đến nhơn quả đời trước của bạn cũng biết được rõ ràng.

5. Thần túc thông: Cũng gọi là Thần cảnh thông hay Như ý thông. Sao gọi là Thần túc thông? -Đó là một sức mạnh không thể nghĩ lường, có thiên biến vạn hóa, ngay đến quỷ thần cũng không lường biết. Lại gọi là Thần cảnh thông, vì có thể đến mọi cảnh giới, thông suốt không bị ngăn ngại, và Như ý thông: Được toại lòng mong muốn, muốn lên trời hoặc xuống địa ngục đều được tùy ý; thậm chí vào lửa, lửa không đốt được; vào nước, nước không nhận chìm; có thể mặc ý xuyên qua vách tường, không cần phải theo lối cửa; toại lòng như ý, muốn gì được nấy.

6. Lậu tận thông: Đã sạch cả hữu lậu. Hàng phàm phu đều có Hữu lậu, như cái bình pha lê bị rạn nứt không đựng nước được, hễ đổ nước vào liền chảy hết; nứt càng lớn thì nước chảy càng mau. Nếu không nứt thì nước sẽ không lậu (rỉ) chảy ra.

Người ta có hữu lậu là thế nào? Người ta uống nước, ăn cơm, khi biến thành đại tiểu tiện thì sẽ rịn chảy ra. Người ưa nổi cáu, có tâm tham, sân, si, mạn, nghi… đó đều là lậu. Có lậu tức là không giữ được. Lậu tận thông tức là lậu ấy không còn có nữa. Lậu là những lỗi lầm, tập khí. Người ta không có lỗi lớn thì có lỗi nhỏ, không có lỗi nhỏ thì có lỗi vặt; khi không có lậu lớn thì có lậu nhỏ; khi không có lậu nhỏ lại có những tập khí vi tế. Về chữ Lậu thì giảng mãi cũng không cùng.

Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi được sáu thần thông, ngài liền dùng Thiên nhãn thông xem khắp thế giới, tìm kiếm cha mẹ mình, nhưng trước hết chú ý tìm mẹ của ngài thì thấy bà ở trong địa ngục. Tại sao bà mẹ của ngài lại ở trong địa ngục? Tại vì bà ta lúc sanh thời không tin Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, chẳng những không tin mà còn hủy báng Tam Bảo, rồi còn sát sanh, ưa ăn trứng cá. Vì sát sanh quá nhiều nên phải bị đọa vào địa ngục. Tôn giả Mục-kiền-liên bấy giờ mới đem bát cơm cho mẹ ăn. Bà mẹ ngài vội vàng một tay cầm bát (vì lòng tham của bà quá nặng, sợ bọn ngạ quỷ kia đến cướp cơm của bà. Ngạ quỷ là loài tâm tham quá nặng), len lén bốc ăn. Nhưng vì nghiệp chướng bà quá nặng, trước khi cơm vào miệng đã cháy thành than, không thể ăn được mà còn làm phỏng miệng bà. Tôn giả Mục-kiền-liên dù có thần thông cũng không cách nào làm cho cơm không trở thành than được, vì thế ngài tức tốc về cầu cứu với Phật.

Đức Phật liền dạy cho ngài một phương pháp cứu giúp mẫu thân, tức là thiết lễ cúng Vu lan bồn. Vu lan bồn là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Giải đảo huyền, nghĩa là giải cứu người bị treo ngược, tức là giải thoát cho những người biến thành ngạ quỷ bị khổ giống như bị treo ngược trong địa ngục. Phật dạy Ngài vào ngày rằm tháng bảy, sau khi chư Tăng làm lễ Tự tứ, hãy dùng thức ăn đủ cả trăm vị để cúng dường mười phương tăng, thì mới có thể cứu mẹ ngài thoát khổ được. Tôn giả Mục-kiền-liên y theo cách đó mà thi hành, quả nhiên siêu độ được mẹ ngài sanh lên cõi trời; chẳng những mẹ ngài mà tất cả những ngạ quỷ trong địa ngục ngày đó đều được siêu độ vãng sanh cực lạc.

Có người nói: “Tôi không tin thức ăn sẽ hóa thành than lửa khi đưa đến cho ngạ quỷ ăn.” Điều đó làm cho bạn không tin cũng phải, trước khi tôi cũng không tin như vậy. Nhưng mà trong vũ trụ có biết bao nhiêu việc rất lạ lùng, nói một vài lời cũng khó hết được, huống chi là những việc ngoài vũ trụ ư? Ví như nước trong, loài người và súc vật thấy là nước, nhưng thiên nhơn thấy là lưu ly, ngạ quỷ thấy là lửa. Những cái thấy đó đều là do nghiệp báo hiện ra. Trời, người ngạ quỷ… mỗi loại đều có nghiệp báo riêng, do nghiệp lực hiện ra mà thấy như vậy. Trên đây chính là nhơn duyên mà Tôn giả Mục-kiền-liên cầu Phật để cứu mẹ.

Ma-ha-Ca-Diếp, Ma-ha-Ca-chiên-diên, Ma-ha-Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề.

Ma-ha-Ca-Diếp. Ma-ha có ba nghĩa: Lớn, nhiều và hơn hết, cho nên Ma-ha Ca Diếp tức là Đại Ca Diếp. Ca Diếp là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Quy Thị. Đại Quy Thị là họ của ngài, nhơn vì tổ tiên của ngài nhìn thấy một con rùa lớn cõng trên lưng một cái bản đồ, rồi theo đó mà tu hành, nên lấy đó làm họ của mình. Ca Diếp còn dịch là ẩm Quang Thị, vì trên thân của ngài có ánh sáng, có thể lấn át các ánh sáng của người, giống như là “uống hết” (ẩm) tất cả ánh sáng vậy.

Tại sao ngài lại có được ánh sáng như thế? Vào thời bảy Đức Phật quá khứ, thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, có một ngôi chùa hư nát; tượng Phật không có gì che mưa gió. Lúc ấy có một cô gái nghèo phát tâm muốn thếp vàng tượng Phật và sửa lại ngôi chùa. Mỗi ngày cô đi hóa duyên khắp nơi, đến khi đủ tiền, rồi mời một người thợ bạc đến để thếp vàng sửa lại kim thân tượng Phật.

Công việc xong, người thợ bạc sanh ra một thứ tình cảm yêu mến cô gái ấy, nên mới nói với cô gái rằng: “Cô sửa chùa công đức rất lớn. Nhưng công đức đó có thể tính cho hai người được không? Cô ra vàng, tôi ra công, không tính với cô tiền công.” Lúc đó hai người cùng nhau sửa sang tượng Phật và ngôi chùa được hoàn hảo. Xong việc, người thợ bạc xin cầu hôn với cô gái nghèo ấy. Hai người bèn kết nghĩa vợ chồng. Vì nhơn duyên thếp vàng tượng Phật nên về sau đời đời kiếp kiếp trên thân hai người đều phóng ra ánh sáng màu vàng ánh. Trong chín mươi mốt kiếp, hai người sanh ra đều làm vợ chồng. Đời này sanh tại nước Ma-kiệt-đà, vào họ Ca-Diếp, khi ngài được hai mươi tuổi cha mẹ muốn cưới vợ cho, ngài nói: “Nhứt định phải tìm cho được cô gái mà trên thân có ánh sáng sắc vàng, tôi mới chịu kết hôn.” Về sau, quả nhiên ở một nước kia có cô gái trên thân cũng có ánh sáng sắc vàng như ngài. Đó là do tiền nhơn hậu quả gây tạo nghiệp lành mà chiêu cảm ra, cho nên đời đời kiếp kiếp họ đều có ánh sáng sắc vàng. Hai vợ chồng họ đời nào cũng đều là người tu hành, cùng nhau nghiên cứu phương pháp tu tập. Thời đó, ngài Ca Diếp xuất gia làm Tỳ-kheo, cô vợ cũng xuất gia làm Tỳ-kheo ni, tên là Kim Quang Minh Tỳ-kheo ni. Ngài Đại Ca-Diếp tên là Tỳ-bát-la, đây cũng là tên cây, do vì cha mẹ ngài cầu đảo với thần cây mà sanh ra ngài nên lấy tên cây mà đặt tên con.

Tôn giả Ma-ha Ca Diếp là người có địa vị rất quan trọng trong Phật giáo. Chư Phật thuyết pháp, các vị Đại Phạm thiên cùng tụ hội và dâng hoa sen bằng vàng lên cúng Phật. Có một hôm, Phật cầm hoa sen vàng đưa ra trước đại chúng, bấy giờ, trong pháp hội có hàng trăm vạn trời, người, không ai biểu lộ thái độ gì, chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp mỉm cười. Lúc đó Phật nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, pháp môn tâm ấn, thật tướng vô tướng, đã truyền cho Ca Diếp.” Vì thế ngài Ca Diếp là Tổ đời thứ nhất của Phật giáo ở Thiên Trúc. Tôn giả hiện giờ vẫn còn sống ở thế giới này. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ma-ha Ca Diếp bèn đến núi Kê Túc ở Vân Nam nhập định, đợi lúc Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật ra đời thành Phật, ngài mới đem cà-sa viền vàng giao cho Đức Phật Di Lặc, chừng đó ngài mới hoàn tất những việc cần làm.

Khi Tôn giả Ca Diếp quy y Phật xuất gia làm Tỳ-kheo thì đã một trăm sáu mươi tuổi, qua bốn mươi chín năm Phật thuyết pháp, hơn ba trăm hội giảng kinh, Tôn giả đã hơn hai trăm tuổi. Từ khi Phật nhập diệt đến nay đã hơn ba ngàn năm, có rất nhiều người tu hành đến núi Kê Túc để triều bái Tổ sư Ca Diếp. Núi Kê Túc thường có ba thứ ánh sáng: ánh sáng Phật, ánh sáng vàng, ánh sáng bạc. Khi đến núi Kê Túc lễ lạy, nếu người có lòng chí thành thì có thể nghe được tiếng chuông vang ra từ trong núi, chỉ nghe tiếng chuông chứ không thấy chuông, cách núi Kê Túc mấy trăm dặm đều có thể nghe được. Đó thật là cảnh giới bất khả tư nghì!

Tôn giả Ca Diếp là người được hai cái bậc nhất trong số đệ tử Phật. 1) Đầu-đà bậc nhất, 2) Tuổi cao bậc nhất. Trong các đệ tử của Phật, luận về tuổi tác thì không có ai hơn ngài. Trong hàng đệ tử của Phật, ngài ăn rất kham khổ, thọ dụng rất kham khổ, tu hành cũng rất kham khổ, cho nên được tôn là hạnh Đầu-đà bậc nhất.

Đầu-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đẩu Tẩu tức là phấn chấn tinh thần, mạnh mẽ tinh tấn. Đầu-đà tức là thực hành khổ hạnh, có mười hai thứ khổ hạnh, mười hai hạnh Đầu-đà này là biểu hiện sự trụ trì Phật pháp. Chỉ cần có người tu hạnh Đầu-đà thì Phật pháp còn trụ lâu ở thế gian; nếu không có người tu hạnh Đầu-đà thì Phật pháp bị diệt mất. Mười hai hạnh Đầu-đà là:

1. Mặc y phấn tảo: Y phấn tảo là gì? Tức là loại y phục hoặc vải mà người ta đã dùng rồi không cần nữa, vứt bỏ đi thì người xuất gia đem những thứ y phục đó về giặt sạch may thành y phục của mình. Mặc những thứ y phục này có những lợi ích gì? Có lợi ích rất lớn là khiến cho mình không còn tâm tham, không thích y phục đẹp, mặc thứ y phục này khiến cho trong lòng rất an tịnh, bớt đi lòng tham, cũng khiến cho người khác không có tâm tham. Nếu mình mặc bộ y phục quá đẹp, người khác có thể sanh ra một thứ lòng hâm mộ, từ hâm mộ sanh ra ganh ghét, từ ganh ghét sanh ra tâm tham, kế đó sanh ra tâm trộm cắp. Nếu mặc y phấn tảo thì không có ai muốn đến lấy trộm, đó là có lợi cho mình mà cũng có lợi cho người khác; cũng là những y phục Phá nạp mà người xuất gia hay mặc. Vì thế người xuất gia cũng gọi là “Nạp tử”, có nghĩa là nói người xuất gia mặc y Phá nạp.

2. Chỉ có ba y, bình bát, tọa cụ: Tức là những đồ vật mà người xuất gia được có. Ba y là:

-Đại y: Có loại hai mươi lăm điều, một trăm lẻ tám miếng. Thứ y này đắp mặc khi giảng kinh thuyết pháp hay khi vào Hoàng cung.

-Thất điều y: Là y bảy điều, đắp mặc khi lễ sám lạy Phật.

-Ngũ y: Là y năm điều, đắp mặc khi chấp lao phục dịch, đi ra vào, đón rước tiếp đãi khách khứa.

Tại sao chỉ có ba y, bình bát và tọa cụ? Đó cũng là khuyên bảo phải tri túc, chớ tham nhiều vật chất. Dưới đây là nói về vật thực, có năm mục:

3. Thường khất thực: Thường ôm bát đi khất thực, tự mình không nấu nướng.

4. Theo thứ lớp khất thực: Tức là ngừng ở mỗi nhà khất thực, không nói là bỏ nhà người nghèo khổ mà đến nhà người giàu có để khất thực. Nếu ngừng lại ở từng nhà thì một ngày hóa duyên trước cửa bảy nhà. Nếu bảy nhà đều không cúng dường thì ngày hôm đó không ăn. Không thể lựa chọn mà phải bình đẳng khất thực. Không giống như Tôn giả Tu-Bồ-đề và Đại Ca Diếp có tâm phân biệt. Tôn giả Đại Ca Diếp chuyên đến nhà người nghèo để khất thực, vì ngài nghĩ rằng người nghèo thật đáng thương, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, vì thế ngài cứ đến hóa duyên người nghèo. Trái lại, Tôn giả Tu-Bồ-đề lại chuyên hóa duyên người có tiền mà không hóa duyên người nghèo khổ. Ngài cho rằng: “Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau lại nghèo khổ.” Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật mới quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt không bình đẳng.

5. Giữa ngày ăn một bữa: Sáng sớm và chiều tối không ăn chi hết, chỉ đúng trưa (từ 11-12 giờ) mới ăn. Có người không hiểu Phật pháp, cho rằng giữa ngày ăn một bữa chính là Trì ngọ. Trì ngọ là buổi sáng ăn, buổi chiều không ăn. Nếu sáng, chiều và trưa đều ăn thì gọi là “Năng cật.” Giữa ngày ăn một bữa, là tu hành theo chế độ của Phật dạy, nhơn vì giữa ngọ là thời gian Phật ứng cúng. Sáng sớm là chư Thiên ăn, quá Ngọ là súc sanh ăn, chiều tối là ngạ quỷ ăn. Tại sao người xuất gia không ăn chiều? Vì ăn chiều khua đũa bát, ngạ quỷ có thể đến cướp lấy thức ăn, nhưng mà thức ăn một khi vào miệng liền biến thành lửa đỏ, nhơn đó mà sanh lòng sân hận, rồi làm cho người xuất gia sanh bịnh. Thế nên người xuất gia không ăn chiều.

6. Ăn ít một chút: Tức là không ăn quá nhiều, nếu ăn quá nhiều, bụng không có chỗ chứa thức ăn cho nên phải bận rộn rất nhiều cho việc tiêu hóa.

7. Quá ngọ không uống nước cô đặc: Nước cô đặc là nước ép từ trái cây, sữa bò, sữa đậu nành. Quá giờ Ngọ, người tu hạnh Đầu-đà chơn chính thì không uống những thứ nước cô đặc ấỵ

Có người chỉ tu một thứ hạnh Đầu-đà, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn thứ, hoặc tu trọn vẹn các hạh Đầu-đà, đều là tuỳ theo sức mình mà thực hành. Năm mục ở trên là về ăn uống, còn năm mục sau đây là về mặc ở. Người tu hành cũng không tránh khỏi các vấn đề ăn mặc, ở, đi; cho nên có mười hai thứ hạnh Đầu-đà.

8. — noi A-lan-nhã: A-lan-nhã dịch là Tịch tịnh xứ, tức là chỗ rất ít bóng người, không có thứ tiếng tạp loạn, đó là nơi mắt không thấy thì miệng không ham, tai không nghe thì tâm không phiền. Giống như người thấy đồ ăn ngon thì sanh ra lòng muốn ăn. Tai không nghe nhiều tiếng ồn ào thì trong lòng không sanh phiền não, còn ở chỗ vắng lặng thì dễ dụng công tu hành, dễ ngộ đạo.

9. — dưới bóng cây: Người tu hành ở dưới bóng cây, nhưng không quá ba đêm. — qua hai đêm thì phải dời chỗ. Tại sao thế? Vì nếu ở đó ba đêm thì sẽ có người đến cúng dường. Vì người tu hạnh Đầu-đà không mong cầu phan duyên, không mong cầu được cúng dường thức ăn ngon.

10. — lộ thiên: Tức là ở khoảng đất trống.

11. — gò mả: Tức là ở bên gò mả khiến cho tự mình có một thứ cảm giác để đối trị với tánh buông lung: “Này, ở đó có người chết, nếu không tu hành về sau ta cũng giống như thế, ta phải gấp rút tu hành mới được.” — bên gò mả thì không thể nào lười biếng được.

12. Lưng không dính chiếu: Tức là thường ngồi không nằm, không có nằm khi ngủ nghỉ, như thế mới có thể dụng công mà không lười nhác.

Tôn giả Ca Diếp chẳng phải chỉ tu một thứ hạnh Đầu-đà, mà cả mười hai hạnh Đầu-đà đều tu trọn vẹn. Đến khi ngài hơn hai trăm tuổi, Phật thấy ngài tu hạnh Đầu-đà, không nhẫn tâm để ngài khổ cực quá, có một hôm Tôn giả Ca Diếp đến ra mắt Phật, Phật chia nửa tòa cho Tôn giả Ca Diếp cùng ngồi rồi nói với ngài rằng: “Ông nay tuổi đã quá già rồi, nên nghỉ bớt đi, chớ nên theo hạnh Đầu-đà cực khổ như thế nữa.” Tôn giả Ca Diếp nghe Phật dạy, chỉ cười mà không đáp. Nhưng khi ngài trở về vẫn tu hạnh Đầu-đà, không cho rằng mình tuổi tác đã cao mà ngưng tu hạnh Đầu-đà. Đức Phật biết việc ấy nên vui vẻ nói: “Trong Phật pháp của ta, hạnh Đầu-đà của Ca Diếp có thể làm cho Phật pháp trụ thế năm trăm năm nữa.” Cho nên ngài Ca Diếp được khen là hạnh Đầu-đà bậc nhất.

Mười hai hạnh Đầu-đà là việc tu hành của người xuất gia, có một số người tại gia nói: “Mười hai hạnh Đầu-đà là để cho người xuất gia tu, chứ nói với người tại gia chúng tôi để làm gì?”

Câu nói này mới nghe dường như rất đúng, nhưng xét kỹ lại một chút thật là quá mê si! Tại sao biết được mình trước kia không phải là người tu hành, chưa từng tu hạnh Đầu-đà? Có thể là các vị quên mất đấy, nên bây giờ tôi xin nhắc lại.

Làm sao mình biết đời sau mình không xuất gia? Hoặc là đời sau hạt giống Bồ-đề của mình được thành thục, công đức viên mãn, mình sẽ xuất gia? Nếu vào đời sau sẽ tu mười hai hạnh Đầu-đà, thì sẽ cảm thấy rất quen thuộc, rất tương ưng, đó là do đời nay được nghe đến, cho nên đời sau mới rất thích thú mà tu hành. Đó cũng là do quá khứ gieo trồng nhơn lành nên đời nay kết được quả lành vậy. Hoặc là đời nay gieo trồng nhơn lành này, đời sau kết được quả lành kia. Ai dám chắc mình mãi mãi là người tại gia? Ai dám chắc mình mãi mãi không là người xuất gia? Ai cũng không thể nói mình mãi mãi là phàm phu.

Ma-ha Ca-chiên-diên. Ma-ha, đã giải ở trên. Ca-chiên-diên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Văn Sức. Vị Tôn giả này khéo trau chuốt văn từ, khéo về nghị luận, được khen là nghị luận bậc nhất. Vị Tôn giả này nghị luận với bất cứ ai thì nhứt định được thắng lợi. Có một lần Tôn giả biện luận với vị ngoại đạo chấp đoạn thường, ngoại đạo hỏi: “Phật giáo nói có sáu nẽo luân hồi, tôi thấy lý luận này không đúng, ông nói người chết rồi trở lại làm người, nhưng tôi chưa thấy có ai chết rồi lại trở về nhà báo tin cả. Thế thì ông làm sao biết người chết rồi lại sanh trở lại làm người ư? Điều này không có căn cứ. Tôi cho rằng người ta chết rồi giống như là ngọn đèn tắt, không có đời sau. Người có đời sau, chỉ là một thứ tưởng tượng, đó là một thứ giả thiết của người đời mà thôi.”

Tôn giả nghe rồi mới nói với vị ngoại đạo rằng: “Người chết rồi có thể trở về hay không; trước đây khi trả lời câu hỏi đó, tôi xin hỏi ông: Người phạm tội, bị chính phủ bắt cầm tù, người ấy có tự ý trở về nhà được không? Người ấy có được tự do không?”

Ngoại đạo đáp: “Đương nhiên là không có tự do, không thể tùy ý trở về nhà rồi.”

Tôn giả nói: “Thế thì người chết rồi, vào địa ngục, cũng giống như người phạm tội bị bắt cầm tù, không thể tự do trở về được.”

Ngoại đạo nghe xong, nói: “Điều này rất có lý! Người ta vào địa ngục thì không tự do rồi; nhưng nếu người ấy sanh lên trời thì rất tự do, tại sao cũng không thấy có ai sanh lên trời rồi lại trở về nhà báo cho gia đình biết để khỏi phải lo? Vì thế lý luận người chết rồi sanh lên trời cũng không đứng vững.”

Tôn giả Ca-chiên-diên đáp: “Ông nói cũng rất có lý đấy. Tôi xin lại đưa một thí dụ: Ví như có người bất cẩn lọt vào hố xí (ngày xưa hố xí không giống với nhà xí bây giờ, người ta đào xuống đất một cái hố lớn, bên trên gác một miếng ván, người ta ngồi trên miếng ván mà đại tiểu tiện. Nếu miếng ván ấy bị mục gẫy, người ta không cẩn thận sẽ bị rớt xuống đó), chẳng dễ gì sau khi ra khỏi hố xí rồi lại chịu nhảy trở vào nữa sao? Người ta ở thế gian này có khác nào trong hố xí, được sanh lên cõi trời giống như ra khỏi hố xí, vì thế nên không trở về nữa. Giả như người này từ trên trời lại trở về, cũng phải trải qua một thời gian dài, vì một ngày đêm trên cõi trời Tứ thiên vương bằng năm mươi năm ở nhơn gian, một ngày đêm ở cõi trời Tam thập tam (trời Đao Lợi) thì bằng một trăm năm ở nhơn gian, một ngày đêm ở trời Dạ Ma bằng hai trăm năm ở nhơn gian. Ví như có người sanh lên trời rồi, trước phải an bài chỗ ở. Chỗ ở an bài ổn thỏa xong phải mất đi một hoặc hai ngày, nếu như ngày thứ ba lại trở về thì đã quá ba trăm năm rồi. Lúc đó bà con thân quyến đã chết cả rồi nên không thấy được có người từ cõi trời trở về.”

Ngài Ma-ha Ca-chiên-diên biện tài vô ngại mỗi lần tranh biện đều thắng ngoại đạo chấp đoạn, chấp thường, khiến cho họ tâm phục, khẩu phục mà tiếp nhận sự giáo hóa của Phật. Vị Tôn giả này còn có một tên là Phiến Thằng, vì khi ông ra đời không bao lâu, cha ông chết, bà mẹ muốn cải giá, nhưng vì có đứa bé như sợi dây níu bà lại không dứt được. Ngài còn có một tên là Hảo Kiên, vì vai của ngài nở nang phi thường, nhìn rất đẹp mắt. Ngài lại còn một tên là Tư Thắng. Tên này bắt nguồn từ tư tưởng linh lợi, biện tài vô ngại của ngài. Vì ngài có đầy đủ bốn thứ vô ngại biện tài nên trong hàng đại đệ tử của Phật được tôn xưng là nghị luận bậc nhất.

Bốn biện tài vô ngại là:

1. Pháp vô ngại biện: Tức là biện tài thông đạt tên gọi các pháp, phân biệt không vướng mắc.

2. Nghĩa vô ngại biện: Biện tài rõ biết lý của các pháp, thông suốt không trở ngại.

3. Từ vô ngại biện: Biện tài thông hiểu các thứ ngôn từ, tùy ý diễn nói.

4. Nhạo thuyết vô ngại biện: Biện giải nghĩa của các pháp, viên dung không vướng mắc, giảng nói cho chúng sanh một cách tự tại.

Ma-ha Câu-hy-la, ngài là cậu của Tôn giả Xá-lợi-phất. Câu-hy-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Tất (vì là người có đầu gối lớn nhất trong gia đình cho nên gọi là Đại Tất). Ngài là người giỏi biện tranh, do muốn luận thắng cháu mình nên ngài đến Nam „n Độ học kỹ thuật biện luận và học các thứ pháp của ngoại đạo, đến nỗi không có thời gian để cắt móng tay, vì thế móng tay mọc ra rất dài, người ta mới gọi ngài là Trường trảo Phạm chí.

Ly-bà-đa, Trung Hoa dịch là Phòng Tú, là ngôi sao thứ tư trong Nhị thập bát tú. Tại sao ngài có tên là Phòng Tú? Vì ngài là đứa con do cha mẹ cầu đảo nơi sao Phòng Tú mà sanh ra cho nên lấy tên sao đặt tên ngài. Vị Tôn giả này còn có một tên nữa, dịch ý là “Giả Hòa Hợp”. Tại sao gọi là Giả Hòa Hợp? Bởi vì một hôm Tôn giả đi dạo chơi ở bên ngoài, không ngờ trời lại tối, trở về nhà không kịp nữa. Vì đi dạo một ngày rất là mệt mỏi, ngài bỗng gặp một cái nhà tạm nghỉ ở bên đường, liền vào đó nghỉ qua đêm. Đương lúc ngài thiu thỉu ngủ, có hai con quỷ một lớn một nhỏ, quỷ lớn thân hình rất to, mặt xanh môi đỏ, răng nanh to như ngà voi chỉa ra ngoài chiếc miệng rộng hoác, xấu xí phi thường. Còn con quỷ nhỏ lại càng xấu hơn: mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng gần như gom lại một chỗ, thật là khó nhìn. Con quỷ lớn ấy vác một cái thây ma đến hỏi ngài Ly-bà-đa: “Hai đứa tôi ăn cái thây ma này được không?”

Nếu ngài Ly-bà-đa nói “Được”, thì hai con quỷ sẽ nói: “Chúng tôi chỉ muốn ăn thịt ông thôi.”

Nếu như nói “Không được”, thì hai con quỷ sẽ không có gì để ăn và cũng đòi ăn thịt ngài.

Bất luận là ngài nói thế nào, hai con quỷ cũng đều muốn ăn thịt ngài cả, vì thế ngài không trả lời là ăn được hay không. Tiếp theo, con quỷ lớn xé ăn cặp đùi của thây ma. Con quỷ nhỏ bèn rứt cặp đùi của ngài Ly-bà-đa đem ráp vào thân thây ma ấy. Ăn xong cặp đùi, con quỷ lớn lại ăn tiếp hai cánh tay. Con quỷ nhỏ lại rứt hai cánh tay của ngài Ly-bà-đa đem ráp vào thân thây ma. Cứ theo đà đó, con quỷ lớn lại lần lần nuốt hết cả khúc mình của thây ma và con quỷ nhỏ lại đem khúc mình của ngài Ly-bà-đa ráp thế vào đó. Vì thế ngài Ly-bà-đa mới nghĩ rằng: “Bây giờ ta không còn thân thể nữa, vì toàn bộ thân thể đã ráp vào thây ma rồi.” Ngày thứỷ lớn xé ăn cặp đùi của tthế vào đó. Vì thế ngài Ly-bà-đa mới nghĩ rằng: “Bây giờ ta không còn thân thể nữa, vì toàn bộ thân thể đã ráp vào thây ma rồi.” Ngày thứỷ lớn xé ăn cặp đùi của thây ma. Con quỷ nhỏ bèn rứt cặp đùi của ngài Ly-bà-đa đem ráp vào thân thây ma ấy. Ăn xong cặp đùi, con quỷ lớn lại ăn tiếp hai cánh tay. Con quỷ nhỏ lại rứt hai cánh tay của ngài Ly-bà-đa đem ráp vào thân thây ma. Cứ theo đà đó, con quỷ lớn lại lần lần nuốt hết cả khúc mình của thây ma và con quỷ nhỏ lại đem khúc mình của ngài Ly-bà-đa ráp âu nói ấy làm cho ngài khai ngộ và xuất gia chứng quả, nên tên của ngài là Giả Hòa Hợp.

Châu-lợi-bàn-đà-già (Tiểu Địa Đạo) cùng với Bàn-đà-già (Địa Đạo) là hai anh em. Anh sanh ở bên đường, em cũng sanh ở bên đường, cho nên mới có tên này. Theo phong tục „n Độ, người con gái sau khi kết hôn, khi sắp sanh nở phải trở về nhà cha mẹ. Người anh có tên là Địa Đạo, vì lúc bà mẹ sắp sanh, đáng lẽ phải về nhà sớm một tí, nhưng bà ta không chịu về. Tới giờ phút chót, đứa bé sắp sanh ra bà mới chịu trở về, kết quả là chưa tới được nhà bà đã sanh đứa bé dọc đường, cho nên đặt tên là Địa Đạo, nghĩa là Con đường. Đến khi sắp sanh đứa bé thứ hai, bà vẫn không chịu về nhà sớm, đến phút chót mới chịu về, kết quả cũng như lần trước, đứa bé lại được sanh dọc đường, cho nên đặt tên là Tiểu Địa Đạo. Anh sanh ra như thế nào thì em cũng sanh ra đúng như thế đó, cách sanh thì giống nhau, nhưng trí huệ thì lại khác nhau xa. Người anh thì thông minh tuyệt đỉnh, còn người em thì ngu si quá mức. Ngu si đến cỡ nào? Ngu si đến nỗi nửa bài kệ học cũng không thuộc. Phật bảo năm trăm vị La-hán dạy cho ông một bài kệ:

Giữ miệng, nhiếp tâm, thân không phạm,
Chớ hại tất cả loài hữu tình,
Khổ hạnh vô ích nên xa lánh,
Hành giả như thế mới độ sanh.
Giữ miệng, nhiếp tâm không cho buông lung, thân không phạm giới, đó là giữ ba nghiệp thanh tịnh. Đối với bất cứ chúng sanh nào cũng không nên làm cho họ sanh phiền não, là chẳng nên để cho họ vì mình mà sanh phiền não. Tu khổ hạnh không hợp cách như giữ giới trâu, bắt chước theo trâu; giữ giới chó, bắt chước theo chó; lại có ngoại đạo thờ lửa, cho lửa là Tổ sư của họ; có ngoại đạo thờ tro, khi ngủ thì nằm trong đống tro, nên mình trét đầy tro; có ngoại đạo thờ đinh, nằm trên ván có đóng đinh, mũi đinh đâm nát thân thể của họ, dầu là đau đớn khó chịu, nhưng vẫn thực hành. Những loại kể trên gọi là khổ hạnh vô ích, người tu hành phải xa lánh thì mới giáo hóa chúng sanh được.

Năm trăm vị La-hán mỗi ngày thay phiên nhau dạy Châu-lợi-bàn-đà-già học bài kệ tụng này, học rất lâu mà ông vẫn không thuộc. Dù năm trăm vị La-hán đều có thần thông dạy ông đọc một lần, hai lần, ba lần, bốn lần, năm lần, sáu lần…, dạy rồi hỏi ông, ông lại cũng không nhớ. Vì thế người anh ông nổi giận mới bảo ông hoàn tục, không nên đi tu nữa. Nhưng Tiểu Địa Đạo trí nhớ quá kém cõi mà tánh giận hờn lại quá lớn, mới nói với anh rằng: “Anh không cho tôi xuất gia thì tôi chết cho anh xem!” Nhơn đó ông ra sau vườn hoa định treo cổ. Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biến thành vị thần cây, nói với ông: “Anh là phần anh, còn ông ở đây tu hành có sao đâu.”

Tiểu Địa Đạo nghe nói nghĩ thầm: “Phải đấy! Anh là anh, ta là ta. Anh không có quyền bảo ta không thể xuất gia.”

Đức Phật lại nói: “Bây giờ ta dạy ông một câu Chửu tảo, tức là quét đất, quét tâm của ông, quét sạch những bụi bặm trong tâm của ông.”

Tiểu Địa Đạo nghe nói nghĩ thầm: “Phải đó! Quét những bụi dơ trong tâm mình cho sạch.” Tuy nhiên, ông nhớ được chữ Chửu thì quên mất chữ Tảo; nhớ được chữ Tảo lại quên mất chữ Chửu; giống như chúng ta niệm Phật, càng niệm vọng tưởng càng nhiều. Nhưng ông ta là người cố gắng không biếng lười, từ sáng tới chiều “Chửu tảo” quét tâm mình. Niệm tới niệm lui mãi, không đầy một tuần lễ, được hoát nhiên khai ngộ. Một khi đã khai ngộ thì cái gì cũng rõ biết hết, thông đạt được thật tướng các pháp, so với anh ông thì ông thông minh gấp nhiều lần. Cho nên người ngu si chỉ cần dụng công tu hành thì ai cũng có thể khai ngộ được.

Có người nói: “Xem kinh điển không hiểu thì không cần xem kinh điển làm chi, chỉ xem tâm thôi.” Thế nào gọi là xem tâm? Xem tâm chính là quét sạch hết những vọng tưởng trong tâm mình. Hiện tại chúng ta đều thông minh hơn Châu-lợi-bàn-đà-già, vì thế chúng ta không nên hủy hoại thân mình, chẳng nên xem thường mình, mà phải dụng công tu học Phật pháp. Không như thế, dù cho tôi nói pháp cho các vị hay cách mấy đi nữa mà các vị không tin, không thực hành, thì nói nhiều cũng vô ích. Nhưng nếu tôi nói pháp thật tầm thường mà quý vị cố gắng thực hành, cũng có thể biến thành ra diệu pháp. Diệu pháp mà không thực hành thì chẳng phải là diệu pháp; chẳng phải diệu pháp mà chịu thực hành cũng trở thành diệu pháp. Cho nên người học Phật pháp phải luôn luôn tinh tấn hướng về phía trước, chớ nên lùi bước hoặc biếng lười. Luôn luôn tinh tấn như thế thì một ngày kia sẽ nhận biết được Chân diện mục sẵn có của chính mình.

Nan-đà. Tôn giả Nan-đà là em của Phật (em cùng cha khác mẹ), sanh vào ngày mùng 9 tháng 4, Phật thì sanh vào ngày mùng 8 tháng 4, ông sanh sau Phật một năm, kém Phật một tuổi. Phật có ba mươi hai tướng, Nan-đà chỉ có ba mươi tướng và thấp hơn Phật bốn lóng tay. Nan-đà là tiếng Phạn, dịch là Hỷ, cho nên gọi là Hỷ Tôn giả. Đó là tên riêng của ông. Có kinh điển ghép tên ông với tên vợ mà gọi là Tôn-đà-la Nan-đà. Tôn-đà-la cũng là tiếng Phạn, dịch là Hảo ái. Tôn-đà-la Nan-đà là nói vị Nan-đà này là của Tôn-đà-la. Đó là nói ông Nan-đà rất yêu vợ. Hai người có thể nói là như keo sơn, mỗi ngày đều ở chung một chỗ, đi đứng nằm ngồi không rời nhau một khắc. Một hôm Phật đến Vương cung khất thực hóa duyên, lúc ấy vợ chồng Tôn-đà-la Nan-đà đang ăn cơm. Khi thấy Phật đến khất thực, Nan-đà bèn sớt bát bằng cách cầm bát sớt thêm cơm và thức ăn lên trên. Ông đem bình bát của Phật ra với đầy ắp cơm và thức ăn, khi ông sắp đưa bát lại cho Phật thì vợ ông nói: “Bây giờ nhổ một bãi đàm trên đất, ông phải trở về trước khi đàm khô, nếu không tôi sẽ phạt ông đấy.” Nan-đà nói: “Được mà!”

Nhưng khi ông sắp đưa bình bát cho Phật, Phật dùng thần thông lui lại sau, Nan-đà thì vẫn bước tới trước, từng bước từng bước đi đến Kỳ Hoàn Tinh xá. Thực ra Vương cung cách vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc hơn năm dặm, nhưng Phật dùng thần thông đưa ông về tinh xá, rồi bảo ông cạo tóc ngay, ép ông xuất gia. Vì ông không bỏ được vợ của mình nên không muốn xuất gia. Nhưng vì Phật là anh của ông nên ông đâu dám không nghe lời. Ông nghĩ thầm: “Hôm nay mình xuống tóc, bữa khác mình sẽ chạy trở về.” Vì thế ông luôn luôn rình chờ cơ hội, nhưng hôm nay chờ, ngày mai chờ, chờ hoài chờ mãi mà cơ hội không đến, vì Phật và các vị La-hán đều luôn có mặt ở tinh xá Kỳ Hoàn. Do đó ông càng bồn chồn thêm. Một hôm Phật cùng các vị La-hán đều đi ra ngoài thọ trai, chỉ còn lại Nan-đà ở giữ tinh xá. Ông nghĩ bụng: “Hôm nay mình có cơ hội rồi đây.” Nhưng trước khi đi Phật bảo ông quét nhà, ông gom rác lại một chỗ, bỗng một trận gió thổi đến, rác lại bay tứ tung. Vì thế ông đóng hết các cửa lại, nhưng đóng cửa này xong thì cửa kia lại mở ra. Cứ như thế, quét tới quét lui, đóng đi đóng lại mãi, qua hai ba tiếng đồng hồ vẫn chưa xong. Thấy Phật sắp về, ông nghĩ bụng: “Bất luận Phật có về hay không, mình nhất định phải chạy về.” Ông lại nghĩ tiếp: “Phật chỉ đi theo đường lớn, không đi theo đường nhỏ đâu, mình nên theo đường nhỏ mà chạy là hay nhất.”

Thế rồi ông bỏ tinh xá theo đường nhỏ chạy về, chạy một mạch đến hai dặm, thấy Phật từ đầu kia đi lại, ông bèn núp vào sau một thân cây lớn, định chờ Phật đi qua sẽ chạy tiếp. Nào ngờ, ông định chạy qua bên này, lại thấy Phật đến từ hướng đó; cứ thế tránh qua tránh lại một hồi Phật thấy ông liền hỏi: “Tại sao ông không giữ nhà mà làm gì ở đây?” Nan-đà nghĩ bụng: “Mình đâu có thể nói muốn về nhà được”, bèn thưa: “Con chờ hoài chờ mãi, chờ Phật trở về không được nên con ra đây đón, vì sợ Phật cầm bát không nổi.”

Phật nói: “Chú em này thiệt là tốt quá.” Nhơn đó Phật lại đưa ông trở về tinh xá Kỳ Hoàn. Trở về tinh xá, Phật biết ông vẫn không muốn xuất gia nên một hôm Phật nói với ông: “Nan-đà, ta với ông cùng lên núi chơi nhé!”

-Thưa vâng! Nan-đà đáp và nghĩ thầm: “Bận lên núi này mình có cơ hội trốn rồi đây.”

Trên núi có rất nhiều khỉ, ước chừng năm sáu trăm con. Phật hỏi Nan-đà: “Này Nan-đà! Con khỉ này so với vợ ông, ai đẹp hơn?”

Nan-đà nghe Phật hỏi như vậy liền đáp ngay: “Đương nhiên là Tôn-đà-la đẹp hơn nhiều. Sao Phật lại đem Tôn-đà-la so sánh với bọn khỉ ấy?”

Phật khen: “Này Nan-đà, ông rất thông minh nên biết Tôn-đà-la đẹp hơn con khỉ.”

Một hôm Phật lại nói với Nan-đà: “Nan-đà, ông chắc chưa lên trời, ta sẽ đưa ông đến đó nhé!”

Đức Phật cùng Nan-đà ngồi kiết già, Phật dùng thần thông đưa Nan-đà lên cõi trời. Lên đến cõi trời, thấy người trên đó đẹp hơn người nhân gian gấp mấy ngàn vạn lần, nhất là Thiên nữ lại càng đẹp đẽ hơn nữa. Đi đến một Thiên cung có năm trăm vị Thiên nữ đang trang hoàng nhà cửa. Nan-đà nhìn thấy những Thiên nữ này thật là đẹp đẽ chưa từng thấy bao giờ bèn sanh tâm luyến ái, ông hỏi một vị cung nhơn: “Cung trời này sao không có chủ nhơn?” Vị cung nhơn ấy đáp: “Chủ nhơn của chúng tôi chưa đến. Ông ta là em của Phật, hiện đang xuất gia tu hành theo Phật. Đợi đến khi mãn đời; ông ta sẽ sanh về đây; năm trăm vị Thiên nữ này đều là vợ của ông ta cả.”

Nan-đà nghe nói nghĩ bụng: “Ta nên gấp rút tu tập, không cần phải trở về nhà nữa.” Bấy giờ Đức Phật hỏi ông: “Những thiên nữ này có đẹp không? So với Tôn-đà-la ai đẹp hơn?”

Nan-đà thưa: “Tôn-đà-la làm sao mà sánh được với các Thiên nữ này! Sắc đẹp của Tôn-đà-la so sánh với các Thiên nữ không khác nào đem sắc đẹp của con khỉ cái so sánh với sắc đẹp của Tôn-đà-la.”

Đức Phật nói: “Vậy thì ông muốn Thiên nữ hay muốn Tôn-đà-la?”

Nan-đà thưa: “Đương nhiên là con muốn Thiên nữ. Thiên nữ thiệt là đẹp đẽ vô song!”

Đức Phật nói: “Nếu muốn sanh về đây, thì khi trở về ông phải cố sức tu hành đi.”

Vì thế khi trở về Nan-đà ngày đêm ngồi thiền, dụng công rất tinh tấn. Nan-đà sớm tối tọa thiền, một lòng muốn làm Thiên chủ. Phật biết rằng phước trời hữu lậu, hưởng hết rồi sẽ đọa lạc vào ác đạo, muốn nhắc nhở ông để ông thấy rõ ý tưởng của mình không đúng, vì thế Phật mới đưa ông xuống địa ngục, cho xem núi đao rừng kiếm vạc lửa băng lạnh, mọi cảnh địa ngục… Sau cùng đến một cảnh địa ngục có hai con quỷ đang nấu chảo dầu. Dầu chưa nóng sôi, mà hai con quỷ này rất lười, một con đương chụm lửa, một con đương nằm ngủ. Lửa chụm vạc dầu cháy cháy tắt tắt. Nan-đà lấy làm lạ, cảm thấy hai con quỷ này cứ chụm như thế, dầu trong vạc kia bao giờ mới sôi được? Ông mới hỏi hai con quỷ đó: “Này, hai chú làm biếng quá, không đốt cháy mạnh lên, lửa cứ tắt hoài, hai chú làm đến bao giờ mới xong việc?”

Hai con quỷ mở mắt nhìn một hồi mới nói: “Ông để ý chuyện này làm chi? Bọn tôi có gì phải gấp. Người tôi đợi vẫn chưa đến mà! Chờ lâu lắm mới đến kia! Bọn tôi hãy còn rảnh chán.”

Nan-đà lại hỏi: “Mấy chú chờ ai vậy?”

Hai con quỷ nói: “Ông muốn biết à? Bọn tôi nói cho ông biết: Người bọn tôi đợi là Nan-đà, em của Phật Thích Ca đấy! Ông ta theo Phật xuất gia tu hành mà lòng cứ mong hưởng phước trời với năm trăm Thiên nữ mãi. Ông ta sẽ sanh lên trời, ở đó từ năm trăm đến một ngàn năm. Sau đó ông ta quên việc tu hành lại tạo rất nhiều tội nghiệp. Khi ác nghiệp của ông ta dẫy đầy, ông ta sẽ đọa vào địa ngục này chịu tội nấu dầu.”

Nan-đà nghe nói rởn cả gai ốc, đổ mồ hôi hột, nghĩ thầm: “Chà, khổ như thế này làm sao chịu nổi!”

Bấy giờ ông không còn muốn tu để sanh lên cõi trời nữa, mà quyết tâm dứt hết sanh tử, không bao lâu ông liền chứng được quả vị A-la-hán.

Tướng mạo của Nan-đà rất là đẹp đẽ. Phật có ba mươi hai tướng tốt, ông có ba mươi tướng. Nếu có người chưa quen biết Phật, có thể lầm cho ông là Phật. Có một lần, hàng ngoại đạo lõa thể, không khác gì nhóm hippy bây giờ, trai gái đều không hề mặc quần áo. Họ cho rằng hình thể thiên nhiên mới là Bản lai diện mục, tại sao phải mang thêm cái lớp giả bên ngoài? Cần gì phải mặc quần áo chứ? Đó là cách tuyên truyền của phái ngoại đạo lõa thể ở „n Độ lúc bấy giờ. Những người ngoại đạo này đến tìm Xá-lợi-phất để biện luận. Ngài Xá-lợi-phất dù không cao lớn nhưng lại rất thông minh, mỗi khi ngài mở miệng trình bày đều rất rành rẽ thấu đáo, khiến cho những người ngoại đạo này phải câm miệng hết, không nói được lời nào, mọi lý do của họ đưa ra đều không đứng vững. Sau đó, những người ngoại đạo này nhìn thấy ngài Nan-đà cao lớn đẹp đẽ, bèn nói: “Cả đến ông Tỳ-kheo nhỏ người (chỉ Xá-lợi-phất) bọn ta còn nói không lại thì làm sao địch nổi vị Tỳ-kheo cao lớn đẹp đẽ kia được!” Vì thế những người ngoại đạo lõa thể này đều bái ngài Nan-đà làm thầy của họ và quy y chánh pháp xuất gia tu hành. Từ đó về sau trong bọn những người này có nhiều vị thành tựu rất cao. Đó là câu chuyện ngài Nan-đà vì thích năm trăm Thiên nữ mà bỏ vợ nhà, một lòng nghĩ tưởng đến việc sanh Thiên quốc; về sau lại sợ đọa địa ngục mà cố gắng tu hành. Ngài do Phật giáo hóa và cuối cùng tu thành Chánh giác.

A Nan-đà. Tôn giả A Nan là em chú Bác của Phật. A Nan-đà là tiếng Phạn, dịch là Khánh Hỷ, vì ngài ra đời đúng vào ngày Phật thành đạo. Khi Phật chứng quả, mọi người đều vui mừng, cho nên cha ngài lấy điều khánh hỷ đặt tên cho ngài.

Trong hàng các đệ tử thì Tôn giả A Nan là người đa văn bậc nhất. Những kinh điển Phật nói ra đều do ngài A Nan kiết tập mà thành; những pháp mà Phật nói ra, Tôn giả A Nan đều ghi nhớ rất rõ ràng, mãi mãi không quên sót. Tôn giả A Nan chẳng những có trí nhớ phi thường mà định lực của ngài cũng không kém. Ngài có tám thứ cảnh giới bất khả tư nghì.

1. Không thọ thỉnh riêng. Sao gọi là thỉnh riêng? Tức là một vị trong chúng tăng đơn độc đến nhà thí chủ để tiếp nhận cúng dường. Trong Kinh Lăng Nghiêm từng thuật lại việc ngài A Nan tiếp nhận thỉnh riêng mà gặp Ma-đăng-già nữ trước hết dùng chú thuật của Phạm thiên sai sử ngài, suýt nữa mất cả đạo hạnh. Sau khi Phật nói chú Lăng Nghiêm, sai Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đem thần chú này cứu ngài A Nan về. Từ đó về sau ngài không còn dám thọ thỉnh riêng nữa. Lần trước sau khi được giáo huấn, ngài không muốn lại còn có những việc tương tự như thế. Trong luật, Phật dạy: “Bất cứ Tỳ-kheo nào cũng không được thọ thỉnh riêng.” Thí dụ: Có mười vị Tỳ-kheo, có vị cư sĩ đặc biệt thích một vị trong số đó và chỉ thỉnh một vị ấy đi ứng cúng, việc ấy không thể được. Trái lại, cả mười người cùng đi ứng cúng thì được cho phép. Ngài A Nan nhơn vì trước đây thọ thỉnh riêng mà gặp phải việc đáng tiếc, nên sau đó không tiếp nhận bất cứ việc thỉnh riêng nào khác. Đó là một thứ cảnh giới bất khả tư nghì.

2. Không nhận y cũ của Phật. Có một số Tỳ-kheo đều muốn giành nhau mặc y cũ của Phật, vì họ cho rằng đắp mặc y cũ của Phật có thể sanh trí huệ, diệt tội nghiệp, kỳ thực đó đều là biểu hiện một thứ tâm tham. Tôn giả A Nan thì không chịu đắp mặc y cũ của Phật. Đó là thứ cảnh giới bất khả tư nghì thứ hai của ngài.

3. Không gặp mặt phi thời. Tức là lúc không đáng thăm thì ngài không thăm, lúc đáng thăm thì ngài mới thăm hỏi. Tức là hợp với quy củ mới thăm viếng, không hợp với quy củ thì không thăm viếng.

4. Không sanh tâm nhiễm. Tôn giả A Nan theo Phật lên trời, đến Long cung, hoặc cung điện A-tu-la, thấy rất nhiều Thiên nữ, A-tu-la nữ và Long nữ, tất cả đều đẹp đẽ vô song, nhưng ngài chưa bao giờ có sanh tâm dâm dục, nên nói rằng không sanh tâm nhiễm.

5. Biết cảnh định của Phật. Tôn giả A Nan biết Phật nhập vào định gì mà các Tỳ-kheo khác đều không biết được. Đó là cảnh giới bất khả tư nghì thứ năm.

6. Biết chúng sanh nghe pháp được lợi ích như thế nào. Tôn giả A Nan biết Phật ở trong định giáo hóa tất cả chúng sanh và tất cả chúng sanh được những lợi ích gì ngài đều biết rõ.

7. Hiểu rõ pháp Phật. Tôn giả A Nan hoàn toàn hiểu rõ tất cả pháp Phật nói. Đây là cảnh giới bất khả tư nghì thứ bảy của ngài.

8. Nghe pháp không hỏi lại. Tôn giả A Nan nghe qua pháp Phật rồi ghi nhớ mãi mãi không cần phải thưa hỏi lại.

Đó là Tôn giả A Nan có tám cảnh giới bất tư nghì mà các Tôn giả khác không có được.

Nói đến “không thọ thỉnh riêng”, người xuất gia khi còn làm Sa-di thì không thể muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống được, mà cần phải cùng với đại chúng đồng thời, không thể đơn độc ăn uống riêng biệt được. Các vị Tỳ-kheo cũng không thể ở chung mà ăn riêng. Giả sử như uống trà cũng không thể hưởng dùng một mình. Đại chúng cùng ở một chỗ, không thể làm ra kiểu riêng rẽ được, thậm chí ăn một trái táo, một trái quít, hoặc một thẻ đường cũng đều không được. Lúc ngồi tham thiền cũng không nên quấy rối người khác, chẳng nên gây ra tiếng động làm phiền người khác. Xưa này ngồi thiền, sau khi gõ ba tiếng thì chỉ tịnh rồi, đừng nói là người không được bước đi động đậy nữa, mà ngay cả Bồ-tát Vi Đà cũng phải đứng yên một chỗ không được động đậy nữa, còn các vị Bồ-tát khác thì ở đâu ở đó không được nhúc nhích. Tại sao thế? Vì nếu mình có động đậy sẽ khiến cho công phu của người khác không được tương ưng, chẳng thể nhập định được thì sẽ tội lỗi vô lượng. Vì thế có câu: “Thà quậy nước ngàn sông, đừng quấy kẻ tu hành.” Nước của ngàn con sông có thể quậy đục nhưng tâm niệm của người tu hành thì không nên tùy tiện quấy phá họ. Vì thế nên khi ngồi tĩnh tọa, sau ba tiếng kiểng chỉ tịnh cho đến trước khi xả tịnh thì không nên tùy tiện di chuyển cử động. Nếu có việc cần kíp cũng nên đi đứng nhẹ nhàng, không gây ra một tiếng động nào cả. Ví như muốn dời đệm ngồi phải nhẹ nhàng cầm cái đệm lên, không nên làm mạnh tay mạnh chân phát ra tiếng lớn. Nếu như nơi không tự kiểm soát được thì sẽ tạo tội vô lượng. Cho nên Phật dạy các thầy Tỳ-kheo, Sa-di đều không nên thọ thỉnh riêng, cũng không nên ăn biệt chúng. Bất cứ chuyện gì không hòa hợp với mọi người đều không hợp với quy củ. Trước kia không biết mà phạm lỗi thì có thể tha thứ được; từ nay về sau đã biết thì không nên tái phạm nữa! Ngoài ra, các Tỳ-kheo và Sa-di, lúc chiều tối mọi người đều ngủ nghỉ hết, cũng không được tùy tiện ra ngoài đường đi lung tung; phải thường theo chúng tăng, nương theo Phật mà ở, không thể hành động riêng rẽ được.

La-hầu-la là con của Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi Phật còn là Thái tử, phụ thân ngài là vua Tịnh Phạn sợ ngài xuất gia nên cưới vợ cho ngài rất sớm. Người vợ đó là Da-Du-đà-la. Năm Phật mười chín tuổi, trước khi xuất gia, người vợ xin ngài một đứa con, lúc bấy giờ Phật lấy tay chỉ một cái, bà bèn có mang. Phật ngồi tu sáu năm ở núi Tuyết mà đứa con ngài sáu năm vẫn ở trong bụng mẹ, vì thế La-hầu-la có nghĩa là Phú Chướng. Bởi vì đời trước La-hầu-la từng bít một hang chuột sáu ngày nên nay phải chịu quả báo khiến cho ngài phải ở trong thai mẹ sáu năm. Ngài sinh ra đời đem lại cho mẹ mình khá nhiều phiền phức. Bởi vì vua Tịnh Phạn và một số người trong giòng dõi họ Thích đều không ưa việc này, họ nói: “Chồng bà xa nhà quá lâu, bà làm sao mà sanh con được ư Nhứt định là bà không giữ tròn bổn phận làm vợ, ái tình bất chánh, mới có thể sanh đứa bé được. Chẳng thế mà tại sao chồng đi xuất gia sáu năm rồi bà mới sanh đứa bé?” Cả giòng họ Thích Ca đều mắng nhiếc bà bà là người không thủ tiết. Chỉ có một người tì nữ hết lòng biện hộ cho bà, nói rằng bà đã giữ đúng quy củ, chưa hề ra khỏi cổng một bước, và đứa bé ấy chắc chắn là thịt xương của Thái tử! Nhưng không ai chịu tin lời của người tì nữ ấỵ Có người chủ trương giết chết bà, có người muốn đánh chết bà, bàn tán lăng xăng. Sau cùng mọi người quyết định đem bà cùng đứa bé thiêu sống. Bấy giờ là thời đại chuyên chế, quyền lực của nhà vua rất lớn. Người ta đào một cái hầm, ở giữa đốt một đống lửa lớn, chuẩn bị xô mẹ con bà xuống hầm lửa. Lúc ấy bà Da-du-đà-la phát thệ rằng: “Hởi các vị Thiên thần Địa thánh, xin hiển linh chứng giám! Nếu đứa bé này là con của Thái tử Tất-đạt-đa thì hai mẹ con tôi không thể nào bị đốt chết được! Nếu như không phải là con của Thái tử thì mẹ con tôi sẽ bị chết trong đống lửa này.” Nói xong, bà ôm con nhảy vào đống lửa. Nào ngờ lúc đó cảnh giới bất tư nghì hiện ra: Hầm lửa bỗng nhiên biến thành ao nước, và từ trong nước mọc lên đóa sen vàng đỡ chân hai mẹ con bà khiến cho không bị mảy may thương tật. Bấy giờ mọi người mới tin chắc đứa bé chính là con của Phật và không còn ý nghĩ giết bà nữa. Sau khi Phật thành đạo, lúc ngài trở về Hoàng cung, bà Da-du-đà-la dắt tay con đến ra mắt Phật. Giả như không phải là con Phật, làm sao bà dám dẫn con đi gặp Phật được? Do đó biết rằng La-hầu-la chính là con Phật.

La-hầu-la tu tập mười phần dụng công, trong hàng đại đệ tử của Phật ngài được tôn là Mật hạnh đệ nhất. Bất cứ chỗ nào ngài cũng đều dụng công cả, nhưng không ai biết ngài đang dụng công, vì ngài không có treo nhãn hiệu để mọi người đều biết ngài đang dụng công tu hành. Ngài tu hành bí mật như thế, thậm chí đang trong nhà xí ngài cũng nhập định; bất cứ nơi đâu ngài cũng ở trong định cả, cho nên gọi là Mật hạnh đệ nhất.

Tuy La-hầu-la là con của Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng Phật không phải chỉ có một người con mà là có đến ba người:

1. Chơn tử: Chơn thật là con của Phật. Khi chúng ta đọc kinh Phật, thường thấy câu “Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử.” Pháp vương tử này chính là chơn chánh con của Phật, cũng tức là tất cả Bồ-tát.

2. Nội tử: Tất cả vị A-la-hán dù đã ra khỏi vô minh, rõ biết lý biên không, nhưng chưa được lý Trung đạo của Phật, cho nên gọi là Nội tử.

Có một số người đàn ông Trung Quốc gọi vợ mình là Nội tử. Nội tử này không phải nghĩa đó.

3. Ngoại tử: Phật còn có rất nhiều ngoại tử, tức là tất cả phàm phu không biết tu hành, điên điên đảo đảo, đều gọi là ngoại tử của Phật. Như trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: “Chúng ta tìm không được ông cha đại từ bi của mình, đều là những cùng tử đáng thương xót.” Cho nên chúng ta phải gấp rút tìm về với ông cha từ bi của mình, vào nhà của Phật, thành ra một phần tử trong ngôi nhà đó.

Kiều-phạm-ba-đề, có nghĩa là “Bò nhơi.” Giống như là bò ăn cỏ no rồi nằm trên đất nhơi lại cỏ đã ăn. Kiều-phạm-ba-đề, tại sao gọi ngài bằng tên đó? Đó là vì ngày xưa, trước đây nhiều kiếp lâu xa, vị Tôn giả này gặp một vị Tỳ-kheo già răng rụng hết, ăn rất chậm, nhai tới nhai lui, hèn lâu mới nuốt được một miếng, bèn nói với vị Tỳ-kheo già rằng: “Ông nhai thức ăn thật không khác nào con trâu già nhơi cỏ.” Vì ngài hủy báng vị Tỳ-kheo như trâu già, cho nên sau khi chết bị quả báo năm trăm đời làm trâu, chừng đó ngài mới thể nhận được nỗi cực khổ của kiếp làm trâu. Sau cùng ngài gặp Phật, được Phật dạy cho tu hành mà thành Chánh quả. Dù ngài đã chứng quả A-la-hán, nhưng tập khí của trâu không đổi được, suốt ngày từ sáng tới tối vẫn như trâu nhơi lại thức ăn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rất sợ người vì do nhơn hủy báng ngài mà bị quả về sau cho nên bảo ngài lên trời tu hành, vì thế ngài được gọi là “Thọ thiên nhơn cúng đệ nhất.” Do đó, chúng ta nhất thiết không nên chê cười người khác, nếu không thì sẽ rước lấy quả báo tai hại về sau, không mảy may được sung sướng đâu.

Tại nước Mỹ, lần thứ nhất có người thọ Tam đàn đại giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni và Sa-di. Họ (năm đệ tử xuất gia người Mỹ đầu tiên lúc đó đang qua Đài Loanthọ giới vào năm 1969) tu hành như vậy, ngày chỉ ăn một bửa ngọ, đến Đài Loan cũng không thay đổi. Họ giống như năm viên gạch đã được nung luyện ở đây một năm, qua Đài Loan cũng không bị tan thành nước, cho nên tôi rất vui. Đây là lần thứ nhất trong lịch sử nước Mỹ cũng như các quốc gia Tây phương. Từ trước đến nay (1969) các quốc gia Tây phương chưa có tổ chức thọ Tam đànđại giới.

Tân-đầu-lô phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-ni, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Đề Hoàn Nhơn v.v… vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu hội.

Tân-đầu-lô-phả-la-đọa là tiếng Phạn, dịch là Lợi Căn. Vị Tôn giả này cho đến nay vẫn còn ở trên thế giới này chớ chưa nhập Niết-bàn, cho nên ngài được coi là Phước điền bậc nhất, làm phước điền cho mọi chúng sanh. Tại sao ngài không nhập diệt? Vì ngài không giữ quy luật. Khi Phật còn tại thế, các vị A-la-hán đều có thần thông nhưng không được phép tùy tiện hiển lộ thần thông của mình. Một lần nọ, có vị Trưởng giả dựng một cây cờ, rồi đặt trên đầu cây cờ một cái bát bằng gỗ Chiên-đàn và nói rằng: “Ai có thể dùng thần thông đem bát ấy xuống tôi sẽ tặng cho người ấy.” Tôn giả Tân-đầu-lô-phả-la-đọa bèn dùng thần thông lấy bát xuống. Phật biết được liền quở trách: “Vì cái bát Chiên-đàn này mà ông mới sanh lòng tham rồi dùng thần thông lấy xuống. Tâm tham của ông như thế chẳng đáng được nhập Niết-bàn, phải ở lại thế gian mà làm phước điền cho chúng sanh.” Vị Tôn giả này rốt cuộc phải ở lại trên thế gian ư? Không ai biết được. Nhưng bất cứ ai trong thời mạt pháp khi làm công đức cúng dường thì ngài sẽ đến ứng cúng để làm phước điền cho chúng sanh gieo phước.

Ca-lưu-đà-di cũng là tiếng Phạn, dịch là Hắc Quang. Vị Tôn giả này màu da rất đen nhưng trên thân lại có ánh sáng, tròng mắt cũng phóng ánh sáng, cho nên về đêm lúc đi trên đường, trên thân và tròng mắt có thể phát ra ánh sáng. Một hôm vào khoảng bảy tám giờ tối, ngài đi ra ngoài tản bộ, vừa đúng lúc đó có một người phụ nữ mang thai, nhơn vì đêm tối đột nhiên thấy từ đôi mắt và trên thân ngài ánh sáng đen phát ra liền sợ quá chạy té, bị xẩy thai. Sau khi Phật biết sự thế này liền chế ra một điều giới luật: “Tỳ-kheo, Sa-di ban đêm không được tùy tiện đi tản bộ trên đường.” Cho nên người xuất gia ban đêm không nên rong chơi trên đường phố.

Tôn giả Hắc Quang này là thị giả của Phật, tức là Hộ pháp của Phật, ngài là người giáo hóa bậc nhất vì giáo hóa rất nhiều người. Những người chứng quả Thánh nhơn được ngài giáo hóa có đến hơn số ngàn.

Ma-ha-Kiếp-tân-na là tiếng Phạn, dịch là Đại Phòng Tú, vì ngài được cha mẹ cầu đảo tinh tú sanh ra cho nên đặt tên là Đại Phòng Tú, cũng là một trong hai mươi tám vị Tinh tú. Tôn giả này là người giỏi bậc nhất biết về tinh tú, tất cả Thiên văn học ngài đọc lướt qua đều hiểu rõ.

Bạc-câu-la là tiếng Phạn, dịch là Thiện Dung, ngài là người có tướng mạo rất đẹp đẽ và sống lâu đến một trăm tám mươi tuổi, cho nên được tôn là thọ mạng đệ nhất. Vào thời Phật Tỳ-bà-thi ở kiếp quá khứ, có lần ngài dùng trái A-lê-ca ở „n Độ (vì người địa phương khác không có trái này) cúng dường một vị Bích Chi Phật (Duyên giác Thánh nhơn), cho nên thọ mạng của ngài chín mươi mốt kiếp đều dài cả. Ngài lại chuyên môn trì giới bất sát, không giết hại các loài sinh vật, thậm chí cũng không làm thương tổn đến cỏ cây. Nhơn vì trì giới bất sát cho nên được năm thứ quả báo bất tử. Vị Tôn giả này có một thứ cảnh giới đặc biệt kỳ lạ, xưa nay con nít hễ sanh ra đều khóc, nhưng ngài sanh ra lại cười, chẳng những thế mà còn ngồi kiết già cười hề hề hà hà với mẹ nữa. Mẹ ngài thấy vậy cho là yêu quái bèn bỏ ngài vào trong lò định dùng lửa đốt chết. Đốt đến ba bốn tiếng đồng hồ ngài vẫn sống như thường và vẫn ngồi kiết già cười hề hề như không. Mẹ ngài càng tin chắc ngài là yêu quái, bèn đem bỏ ngài vào trong nồi, dùng nước nấu ngài. Qua mấy tiếng đồng hồ sau, dở nắp vung ra, vẫn thấy ngài ngồi kiết già cười hề hề như cũ. Mẹ ngài nhìn thấy cho là không xong, mới đem ngài quăng ngài xuống biển cả, mượn nước biển dìm chết ngài. Nào ngờ dù bị ném xuống biển, nước cũng không thể dìm chết ngài được. Đúng lúc đó có một con cá lớn há miệng ra nuốt chững ngài vào trong bụng. Con cá lớn này lớ ngớ lại bị ngư ông lưới được. Ngư ông dùng dao mổ bụng cá ra, đứa bé ấy vẫn ngồi kiết già cười hề hề như cũ, cũng không bị dao làm xây xát chút nào. Năm thứ quả báo bất tử ấy là: 1) Lửa đốt không chết, 2) Nước nấu không chết, 3) Nước dìm không chết, 4) Cá ăn không chết, 5) Dao cắt không chết.

Tại sao ngài lại được năm thứ quả báo bất tử ấy? Vì ngài đời đời kiếp kiếp trì giới Bất sát cho nên được quả báo năm thứ bất tử và là người trường thọ bậc nhất.

A-nậu-lâu-đà là tiếng Phạn, dịch là Vô Bần. Nhơn duyên của ngài cũng là một công án. Vào thời Đức Phật Phất-sa, thế giới đương bị đói kém (năm mất mùa), người người không có cơm ăn, chỉ ăn gốc cỏ, lá cây. Đương thời có một vị Bích Chi Phật đi hóa duyên, hai tuần lễ ngài mới đi hóa duyên một lần, hóa duyên đủ để ăn hai tuần lễ, nếu hóa duyên không được thì hai tuần lễ đó không ăn chi hết. Lần nọ ngài xuống núi hóa duyên nhưng không gặp ai cúng dường cả, ngài định mang bát không trở về. Trên đường về ngài gặp một người nghèo (tiền thân A-nậu-lâu-đà) đương ăn cái bánh làm bằng hạt cỏ (nó là thứ gạo kém giá trị nhất trong các loại hạt), người ấy thấy vị Bích Chi Phật mang bát không trở về bèn nói: “Vị Thánh giả này, ngài hóa duyên không được, ngài có muốn ăn bánh cỏ của tôi không? Nếu ngài thích, tôi sẽ đem cúng dường ngài.”

Vị Bích Chi Phật thấy người ấy thành tâm cúng dường mình như thế bèn tiếp nhận sự cúng dường của anh ta. Ăn xong, vị Bích Chi Phật mới vọt lên hư không hiện ra mười tám thứ thần biến rồi đi. Người nghèo ấy vẫn tiếp tục cày ruộng. Bỗng nhiên, người ấy thấy một con thỏ cứ chạy tới chạy lui từ trước ngực ra sau lưng mình, làm cách gì cũng không bắt được để ném đi. Người ấy sợ hãi quá mà lúc đó cũng không có ai giúp đỡ để bắt con thỏ, bèn chạy về nhà thì con thỏ này đã chết nên anh kêu vợ bắt con thỏ chết ra. Khi bắt thỏ ra thì thỏ chết ấy biến thành vàng. Anh ta chặt chân con thỏ vàng đem đi bán, đổi được rất nhiều tiền, chân thỏ mọc lại như cũ. Do đó mà được quả báo chín mươi mốt kiếp không bị nghèo khó. Trong kiếp này ngài là con của vua Bạch Phạn. Vua Bạch Phạn là em vua Tịnh Phạn (cha của Đức Phật), ngài là em chú bác với Phật. Mỗi khi Phật thuyết pháp ngài hay ngủ gục. Có một hôm Phật quở ngài: “Chà, ngủ gì dữ thế? Giống như loài ốc sên sò hến quá vậy, một giấc ngủ cả mấy ngàn năm không được nghe đến tên Phật.” Ngài bị Phật quở nên tu hành rất tinh tấn suốt bảy ngày đêm không ngủ. Nhơn vì không ngủ nên đôi mắt bị mù. Sau đó Phật thương xót bèn dạy cho ngài tu Kim Cang Chiếu Minh Tam-muội. Ngài tu Tam-muội này liền chứng được Thiên nhãn thông, nhìn thấy tam thiên đại thiên thế giới như thấy trái Am-ma-la trong lòng bàn tay, cho nên ngài được gọi là Thiên nhãn đệ nhất.

Và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa. Như vậy, tức là kể ở trước từ ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất cho đến A-nâu-lâu-đà mười sáu vị Tôn giả, lại còn có rất nhiều vị đệ tử khác chưa được nói tên họ ra. Các vị đệ tử này chính là hàng đệ tử thượng thủ của Phật.

 

Xin xem tiếp phần Giảng Kinh Văn trang 2

Pages: 1 2