GHI VỀ CÁC NGÔI GIÀ LAM TẠI THÀNH LẠC DƯƠNG

Thời Nguyên Ngụy, Phủ Quân Phủ Tư Mã Dương Huyễn chi soạn thuật
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

LỜI TỰA

Thuyết của Tam phần Ngũ điển (Tam Hoàng, Ngũ Đế), lời của Cửu Lưu Bách Đại ( học phái và trăm nhà) đều là lý ở tại lãnh vực con người mà nghĩa gồm cả ngoài trời. Đến như gốc của Nhất thừa Nhị đế, ý chỉ của Tam minh lục thông, ở Tây Vức đã rõ ràng đầy đủ nhưng tại Đông Độ (Trung Hoa) đây chẳng ghi. Từ khi Đảnh Nhật cảm mộng, mãn nguyệt tỏa sáng, cửa Lạc Dương nghiêm sức tôn tượng Hào My, đài dạ đồ họa hình tóc biếc. Từ đó trở lại tranh đua nhau phong thái ấy bèn rộng lớn. Mãi đến trong khoảng niên hiệu Vĩnh Gia (307-31) thời Tây Tấn chỉ có 2 ngôi chùa, tiếp đến thời Nguyên Ngụy (387. . . ) tạo dựng cơ đồ, Quang trạch tung lạc, dốc tín càng nhiều, pháp giáo càng thạnh. Các bậc vương hầu quỷ thần bỏ voi ngựa như cởi giày dép. Các hàng sĩ thứ hào gia xả thí của cải như vất bỏ dấu vết. Từ đó, chiêu đề gở sánh, tháp bàu liệt bày, tranh nhau ghi tả vẻ dáng trên trời, đua giành mô phỏng cảnh hình trong núi. Chùa vàng cùng Đài linh sánh cao lớn cùng Điện rộng và A phòng. Đâu chỉ ngay cây áo vải xinh đất trùm đỏ tía mà thôi ư? Rồi đến trong khoảng niên hiệu Vĩnh Hy (532-53) thời Bắc Ngụy lắm nạn, kiệu vua dời đến Nghiệp đô, Tăng ni các chùa cũng đồng thời mà dời đổi. Đến năm Võ Định thứ 5 (57) thời Đông Ngụy tức năm Đinh mão, tôi nhân đi lính đến trông xem Lạc Dương, thành quách hư hoại, cung thất đổ nát, chùa Quán chạy rụi, miếu tháp đất gò, tường vách rêu phủ, gai góc giăng bít lối, thú đồng làm hang nơi thềm cấp hoang phế, chim núi làm ổ nơi cây giữa sân. Trẻ nhỏ chăn thú giẫm bước quanh quẩn giữa đường thông. Nông phu canh cày trồng lúa nơi hai cổng. Lúa cảm tốt tươi chẳng riêng gò đất lớn, lúa lìa ấy buồn, có tin ư? Khắp cùng kinh thành trong ngoài có hơn ngàn ngôi chùa, ngày nay lạnh trống, tiếng chuông ít nghe, sợ đời sau không lưu truyền, nên chọn ghi ra đây vậy. Nhưng số chùa rất nhiều, không thể ghi tả khắp hết. Nên nay trên sự ghi lục chỉ là những ngôi già lam lớn, trong đó những chùa nhỏ có thể lấy đó mà rõ biết. Trên mặt Thế Đế, nhân sự mà ra đó. Trước lấy trong thành làm đầu, rồi lần lượt ra ngoài thành theo thứ lớp mà nêu danh, khắp cả xa gần làm thành 5 chương. Tài năng của tôi chẳng đáng đủ để trước thuật, nên có lắm nhiều sai sót. Mong các bậc Quân tử sau này rõ xem mà bổ khuyết đó vậy!

Năm Thái Hòa thứ 17 (63) thời Nguyên ( Bắc) Ngụy, Cao Tổ (tức vua Hiếu Văn Đế – Nguyên Hoành – Thác Bạt Hoành 77-500) dời đô Lạc Dương, ban chiếu Tư Đồ Công Mục Lượng tạo dựng cung thất, cửa thành Lạc Dương y theo tôn xưa cũ của thời Tiền Ngụy và nhà Tần. Về phía Đông có 3 cửa, bắt đầu ở phía Bắc cửa thứ nhất tên là “Kiến xuân môn”, thời nhà Hán gọi là “Thượng đông môn”. Trong thơ Nguyễn Tạ nói “Đi bộ ra Thượng đông môn” là đó vậy, thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi đó là “Kiến xuân môn”. Cao Tổ nhân đó mà chẳng cải đổi. Tiếp theo về phía Nam gọi là “Đông dương môn”. Thời nhà Hán gọi là “Đông trung môn”, thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Đông dương môn”. Cao Tổ nhân đó mà chẳng cải đổi. Tiếp về hướng Nam là “Thanh dương môn”. Thời nhà Hán gọi là “Vọng kinh môn”. Thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Thanh minh môn”, Cao Tổ cải đổi là “Thanh dương môn”. Về phía Nam có 3 cửa, bắt đầu cứa thứ nhất ở hướng Đông tên là “Khai dương môn”. Đầu thời Đông Hán, Quang Võ Đế (Lưu Tú 25-58) dời đô đến Lạc Dương tạo dựng cửa ấy, lúc mới hoàn thành mà chưa có tên, bỗng nhiên trong đêm có cột trụ tự đến trên lầu, sau đó Lang da quận khai dương huyện nói cửa phía Nam bay mất đi một trụ, sai sứ đến trông xem thì đúng thật cột trụ ấy vậy, bèn lấy tên là Khai Dương, từ thời Tiền Ngụy đến thời nhà Tấn nhân đó mà chẳng cải đổi, Cao Tổ cũng theo như vậy, tiếp về phía Tây là “Bình Xương môn”. Thời nhà Hán gọi là “Bình môn”. Thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Bình xương môn”. Cao Tổ nhân đó mà chẳng cải đổi, tiếp theo về hướng Tây là “Tuyên dương môn”. Thời nhà Hán gọi là “Tân môn”, thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Tuyên dương môn”. Cao Tổ nhân đó mà chẳng cải đổi. Về phía Tây có cửa, bắt đầu cửa thứ nhất ở hướng Nam tên là “Tây minh môn”. Thời nhà Hán gọi là “Quảng dương môn”. Thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn nhân đó mà chẳng cải đổi. Cao Tổ đổi tên là “Tây minh môn”. Tiếp về phía Bắc là “Tây dương môn”. Thời nhà Hán gọi là “Ung môn”. Thời tiền ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Tây minh môn”. Cao Tổ đổi tên là “Tây dương môn”, tiếp về phía Bắc là “Lư hạp môn”. Thời nhà Hán gọi là “Thượng tây môn”. Phía trên có đồng, ngọc tuyền ngọc ky cân để ngang thất chính. Thời Tiền ngụy và thời nhà Tấn gọi là Lư hạp môn”. Cao Tổ nhân đó mà không cải đổi. Tiếp về phía Bắc gọi là “Thừa minh môn”. Thừa minh là do Cao Tổ dựng lập. Ngay trước thành Kim Dong theo hai phía Đông-tây có một con đường lớn, lúc mới đầu dời kinh đô, cung quyết tạo dựng chưa hoàn thành, Cao Tổ bèn trú tại thành Kim Dong. Về phía Tây thành có chùa Vương Nam, Cao Tổ từng có vài lần đến chùa cùng các Sa-môn luận bàn, quen đi cửa đó mà chưa có tên, người đời gọi đó là “Tân môn”. Bấy giờ các hàng Vương Công Khanh Sĩ thường nghinh giá đến Tân môn. Cao Tổ bảo cùng Ngự sử trung úy Lý Bưu rằng: “Trong thơ Tào thực nói: “Bái yết vua tại lều Thừa minh”, vì vậy cửa này nên lấy chữ “thừa minh” mà gọi vậy”. Và bèn đặt tên như thế về phía Bắc có hai cửa, cửa thứ nhất ở hướng Tây tên là “Đại Hạ môn”. Thời nhà Hán gọi là “Hạ môn”, thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Đại hạ môn”. Từng tạo dựng lầu ba tầng cách đất cao 25 trượng. Cửa lầu thành Lạc Dương đều hai lớp cách đất cao năm thước. Chỉ có nóc ngói “Đại hạ môn” cao vút tận mây và cửa phía Đông là “Quảng mạc môn”, thời nhà Hán gọi là “Cốc môn”. Thời Tiền Ngụy và thời nhà Tấn gọi là “Quảng mạc môn”. Cao Tổ nhân đó mà không cải đổi. Từ “Quạng mạc môn” trở về hướng Tây đến “Đại hạ môn”, cung Quán nối tiếp liền khắp trên các thành mỗi một cửa có 3 đường đi, chỗ gọi là cửu quỳ (Đường thông tám phía).

CÁC NGÔI GIÀ LAM TRONG THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 1

1. CHÙA VĨNH MINH

Chùa Vĩnh Minh do Linh Thái hậu Hồ Thị tạo dựng năm Hy bình thứ nhất (516) thời Bắc Ngụy tại trước cung cách một dặm về phía Nam “Lư hạp môn” và thuộc phía Tây Ngự Đạo. Phía Đông của đó có phủ Thái úy và phía Tây là đối diện với là Vĩnh Khương, ranh giới phía Nam là Chiêu huyền tào và phía Bắc gần Ngự sử đài. Trước Lư hạp môn về phía Đông Ngự đạo có tả vệ phủ, phía Nam phủ ấy có Tư đồ phủ, phía Nam Tư đồ phủ có Quốc tử học đường, bên trong có tôn tượng Khổng Khâu. Nhan Uyên hỏi Nhân Tử Lộ hỏi Chánh trị tại bên cạnh. Phía Nam Quốc tử học đường có chùa Tông chánh. Phía Nam chùa ấy có Thái miếu, phía Nam Thái miếu có Hộ quân phủ. Phía Nam phủ ấy có làng y quan. Từ Ngự đạo về phía Tây có Hữu vệ phủ, phía Nam phủ ấy có Thái úy phủ, phía Nam phủ ấy có Tướng tác tào, phía Nam Tào ấy có Cửu cấp phủ, phía Nam phủ ấy có Thái xã, phía Nam xã ấy có làng Lăng Âm, tức nơi Tàng băng ở thời tứ triều. Bên trong có một ngôi tháp tầng, giá gỗ tạo dựng nên cao 0 trượng. Lại có ngôi chùa cao 10 trượng, hợp cùng cách đất 1. 000 thước. Ở cách xa kinh thành trăm dặm cũng trông thấy đó.

Mới đầu, đào móng xuống dưới suối vàng, có được 3.000 tôn tượng bằng vàng, Thái hậu cho đó là điềm chứng của sự kinh tin Phật pháp, do đó tạo dựng quá độ. Trên chùa có bình vàng báu dung chứa 25 bình đá báu, phía dưới có mâm vàng thừa lộ 30 lớp. Bao quanh đều có rủ linh vàng lại có xích sắt. Bốn đường dẫn từ chùa đến tháp, bốn góc trên móc xích cũng có linh vàng, linh lớn nhỏ hình như cái cải hủ đá. Tử phù đồ có cấp góc cạnh, mỗi góc đếu có treo linh vàng. Trên dưới cả thảy có 120 cái linh. Tháp có mặt, mỗi mặt có 3 cửa thông và 6 cửa sổ, cửa thông đều sơn son. Trên cảnh cửa có 5 hàng linh vàng. Gồm cả thảy có 5.00 cái. Lại có vòng vàng thiết bày ở đầu, hết công của cây đất, cùng sức của tại hình, Phật sự tinh diệu không thể nghĩ bàn. Cột trụ thêu vẽ vàng phô bày kinh lóa cả tâm mắt mọi người, đến lúc gío cao lay động, trọn đêm linh báu hòa vang, âm thanh leng keng vang xa hơn 10 dặm.

Từ tháp về phía Bắc có một điện Phật hình dáng như điện Thái cực, bên trong có một tôn tượng bằng vàng cao trượng tám, bên trong lại có 10 tôn tượng bằng vàng lớn, 3 tôn tượng được thêu bằng châu ngọc, 5 tôn tượng dệt thành, công phu kỳ xảo hơn hẳn trong đời. Tăng phòng lầu quán có hơn ngàn gian, chạm trổ xà ngạch, vách tường sắc màu rực rỡ khó thể nói tả. Các loại cây Quát bách tùng thung nâng phất mái rậm, trúc hương cỏ trải khắp mặt thềm. Vì thế trong văn bia, thường cảnh ghi tả rằng: “Điện báu núi Tu Đi, cung tịnh trời Đâu suất chẳng nơi nào hơn đây vậy”. Với kinh tượng của các nước khác dâng tặng đều tôn trí tại chùa ấy, tường vách chùa viện đều đặt rui ngắn, lợp ngói che phủ trên như trường cung ngày nay vậy, khắp bốn mặt mỗi mỗi đều mở một cửa. Cửa lầu phía Nam ba lớp thông liền. Ba tường cách đất 20 trượng, hình dáng chế tác tợ như Đoan môn đồ nay vậy. Dùng mây khí họa tô hình thể tiêu linh đem xem tiền vàng xích xanh rực rỡ hoa lệ. Vòng quanh cửa hẹp có lực sĩ, sư tử được trang sức bằng vàng bạc và đan xen châu ngọc hoa lệ rực rỡ hiếm thầy trên đời. Hai cửa Đông-tây cũng đều như vậy. Điểm hơi khác là chỉ hai lớp tầng lầu. Cửa phía Bắc một đường không thiết bày phòng nhà, tợ như cửa Điểu đầu. Ngoài bốn cửa trồng cây hòe xanh mát vòng quanh nước biếc. Mọi người đi đến kinh ấp phần nhiều nương nghỉ phía dưới. Đường đi không có bụi bay bởi đượm thấm mây cuộn, gió trong lành thổi mát, đâu bừa bãi hợp phát hân hoan.

Thái hậu bảo ban Trung thư xá nhân Thường cảnh soạn viết văn bia của chùa. Thường cảnh tự là Vĩnh Xương, vốn người xứ Hà Nội, là bậc học thông hiểu rộng vang danh khắp trong nước nhà. Năm Thái Hòa thứ 1 (5) thời Bắc Ngụy, hường cảnh rất được Cao Tổ (tức vua Hiếu Văn Đế – Thác Bạt Hoành 71-50) tin dùng, nên được đề bạc làm Luật học bác sĩ. Với mọi sự hình pháp nghi ngờ về tu ngục, phần nhiều đều hỏi Thường Cảnh. Đến đầu niên hiệu Chánh Thỉ (50), vua Tuyên Võ Đế (nguyên khác) thời Bắc Ngụy ban sắc khắc Luật lệnh, trọn làm thể thức chung, ban sắc thường cảnh cùng chỉnh sửa văn sách. Thị ngự sử Cao Tăng Dụ, Vũ Lâm Giám Vương nguyên Huy, Thượng thư lang tổ Oanh, Viên ngoại tán kỵ thị lang Lý Diễm Chi v.v… soạn tập việc ấy. Lại ban sắc chiếu Thái sư bành thành Vương Hiệp, Thanh châu Thứ sử Lưu Phương vào dự bàn nghị đó. Thường Cảnh xét chỉnh khoa điều, suy lường xưa nay rất có lẽ thường tuần tự, hiện lưu hành nơi đời, tức bộ luật gồm 12 chương ngày nay hiện thấy vậy. Thường Cảng lại cùng Lưu Phương tạo tên của Lạc Dương cung điện môn các, hiệu của đường đi trải qua thôn ấp, ban xuất bãi bỏ Trường An lệnh. Người thời bấy giờ sánh ví Thường Cảnh như Phan Nhạc. Về sau Thường Cảnh trải qua các chức vị như Trung thư xá nhân, Hoàng môn thị lang bí thư giám, U châu thứ sử, Nghi đồng tam ty. Học trò rất lấy đó làm vinh hạnh vậy. Thường Cảnh vào dự tham Cận thị, ra làm Hầu mục, nhà ở nghèo nàn cần kiệm, mọi sự tợ như nhà nông, chỉ có kinh sử đầy xe ngập giá, có trước thuật văn tập hơn vài trăm chương, do cấp sự Phong Vĩ Bá viết lời tựa lưu hành nơi đời, khi công việc trang sức hoàn tất, vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 516-528 thời Bắc Ngụy) cùng Thái hậu đồng đến dự thăm. Thường Cảnh xem việc trong cung tợ như trong lòng bàn tay, xét cùng khắp kinh đô chỉ tợ như ở sân nhà. Vì mắt thấy trong cung mọi sự nên cấm người chẳng cho lên. Huyễn Chi thường cùng Hà Nam Quân Hồ Hiếu Thế đồng đến dự thăm, từ trên nhìn xuống như mây mưa, tin thật chẳng hư dối bày.

Bấy giờ có Sa-môn Bồ-đề Đạt-ma người xứ Tây Vức và người Hồ ở nước Ba Tư, phát xuất từ hoang duệ rảo bước đến Trung Hoa, trông thấy mâm vàng rực rỡ soi sáng ngoài mây, khánh báu ngậm gió vọng tiếng vượt ngoài trời, bèn ca vịnh tán thán cho rằng thật là thần công, và tự nói là đã 150 tuổi, vân du trải qua các nước không nơi nào chẳng đến, mà chùa đây tinh sáng hoa lệ, khắp Diêm-phù chỉ một không hai, cùng cảnh giới mọi vật cũng chưa có. nên đứng đó miệng xưng “Nam mô” hoặc chắp tay liền ngày.

Đến trong năm Hiếu Xương thứ 2 (526) thời Bắc Ngụy, gió lớn nổi dậy sập nhà trúc cây, bình báu trên chùa theo gió mà rơi xuống đất xa hơn cả trượng. Lại bảo các thợ chú đúc bình mới. Năm Kiến Nghĩa thứ nhất (528) thời Bắc Ngụy, Thái Nguyên Vương, Nhĩ Chu Vinh, Tổng Sĩ Mã đến chùa đó. Chu Vinh tự là Thiên Bảo, người xứ Tú cốc; đất Bắc, ở đời là Đệ nhất lãnh, dân Tù trưởng. Bác Lăng Quận công bộ lạc có hơn 8.000 nhà, có đến vài vạn con ngựa, giàu có sánh ngang bằng Thiên phủ.

Đến trong tháng 2 năm Võ Thái thứ nhất (528), vua Hiếu Minh Đế bằng hà, lập Lâm Thao Vương thế tử Chiêu nối nghiệp. Đại nghiệp vừa mới 3 tuổi, Thái hậu phải tham nắm triều chánh để lập đó. Chu Vinh nói cùng Tinh Châu thứ sử Nguyên Thiên Mục rằng: “Hoàng đế (tức Hiếu Minh đế) băng hà chỉ mới 1 tuổi, khắp trong nước các hàng sĩ thứ còn gọi là “Ấu vương” huống hồ nay đây kính phụng trẻ con chưa biết nói, để đến với thiên hạ mà trông mong thanh bình, việc ấy có thể được ư? Đời tôi mang đội ân sủng của nước nhà, không thể ngồi yên mà trông nhìn mọi sự thành bại, nay muốn đem 5.000 ngựa sắt đến Ai sơn lăng, và hỏi các thị thần về nguyên do của Hoàng đế băng hà, Ý ông nghĩ thế nào?”. Nguyên Thiên Mục nói rằng: “Ông sáng suốt, đáng cho đời noi theo, lại ban chí khí hùng tài kiệt xuất. Dân chúng trong bộ lạc trương cung cả một vạn. Phương Nam ấy lại thấy ở ngày nay!”. Chu Vinh liền cùng Nguyên Thiên Mục kết nghĩa anh em khác dòng họ. Nguyên Thiên Mục tuổi lớn hơn nên làm anh, Chu Vinh phải phụng sự đó và làm manh chúa, Nguyên Thiên Mục cũng kính bái Chu Vinh, từ đó kín bàn. Trong quân trưởng các Vương chẳng biết ai sẽ đáng tước, bèn đến Tấn Dương lệnh riêng chú đúc tượng mà không thành, chỉ có tượng của Trường Lạc Vương Tử Du tướng sáng đủ đầy, đoan nghiêm kỳ diệu đặc thù, do đó Chu Vinh để ý ở Trường Lạc, sai phái Thương Đầu Vương phong vào Lạc Dương dò xét để làm chủ. Trường Lạc liền hứa thuận và cùng khắc minh khế. Ba quân của Chu Vinh sáng thuần, phất cao cờ ra phương Nam. Thái hậu nghe Chu Vinh cử động binh lính. Lúc mời các Vương công nghị bàn, Hồ Thị chuyên sủng ái, Hoàng tông oán đợi. Lúc vào bàn nghị chẳng ai chịu mở lời, chỉ có Hoàng môn thị lang Từ Thống nói rằng: “Nhĩ Chu Vinh ngựa ấp nhỏ, người Hồ, tài năng kém cỏi, chẳng độ đức lượng, sức kích dài tay khuyết thiếu. Chỗ đáng gọi là vết cùng chống cự bánh xe, củi chất đợi thiêu rụi. Nay Túc vệ Văn Võ cũng đủ để một trận chiến, chỉ giữ lấy Hà Kiều để xét xem ýthú ấy. Nhĩ Chu Vinh kéo quân ra ngàn dặm, quân lính già tướng tệ vì vượt quá, đợi nó nhọc mệt, đánh phá hẳn thắng vậy”. Thái hậu chấp thuận theo lời Từ Thống, liền sai Đô đốc Lý Thần Quỷ, Trịnh Quý Ninh v.v… dẫn 5.000 binh lính ra trấn giữ Hà Kiều. Đến ngày 11 tháng 0, Nhĩ Chu Vinh qua Hà Nội đến trạm Cao Đầu, Trường Lạc Dương từ Lôi Lăng theo hước Bắc vượt đến chỗ quân lính của Nhĩ Chu Vinh, Lý Thần Quỷ, Trịnh Quý Minh v.v… thấy Trường Lạc Vương sang, bèn mở cửa hàng phục. Ngày 12 tháng 0. Nhĩ Chu Vinh dẫn binh lính đến phía Bắc của Mang Sơn là nơi đồng trống của Hà Âm. Ngày 13 tháng 0, chiêu tập trăm quan lên giá, những người đến đều bị giết hết, các hàng Vương công khanh sĩ và cả triều thần bị chết hơn 3. 000 người. Ngày 1 tháng 0, xa giá vào thành, đại xá cho thiên hạ, cải đổi niên hiệu là Kiến Nghĩa năm thứ nhất (528), vua là Hiếu Tang Đế (Nguyên Tử Du).

Bấy giờ vừa mới trải qua đại binh, người vật chết hết, các bọn Lưu Bính kinh sợ chưa dám ra, Hiếu Trang Đế lên ngôi Thái Cực, mở lưới ban trải đức nhân, chỉ có một mình Tán kỵ thượng thị Sơn Vĩ bái nhận ân nam quyết, phong thêm Nhị Chu Vinh là Sứ trì tiết trung ngoại chư quân sự đại tướng khai phủ bắc đạo đại hành Đài Đô đốc. Các quân sự ở mười châu Đại tướng quân lãnh tả hữu. Thái nguyên vương kỳ Thiên Mục làm Thệ trung thái úy công thế tập tinh châu thứ sử, Thượng đảng vương khởi gia làm Công khanh mục thú, không thể tính kể. Đến ngày 20 tháng , trong thành vẫn thô sơ còn chưa tự an, sống chết cùng oán đối, mọi người ôm hoài suy tư khác nhau. Các dúy thất hào gia vất bỏ vườn nhà đua nhau chạy trốn, các hàng phu sĩ nghèo khổ chạy trốn. Do đó, ban phát chiếu chỉ, đối với người lạm tử khắp được thêm tặng thưởng. Các hàng tam phẩm trở lên thì tặng tam công, các hàng Ngũ phẩm trở lên thì tặng lệnh bộc, các hàng thất phẩm trở lên thì tặng châu mục, dân trắng thì tặng quận trấn. Từ đó hơi được bình an. Hiếu Trang Đế lấy con gái của Nhĩ Chu Vinh làm Hoàng hậu, tôn phong Nhĩ Chu Vinh làm Trụ quốc đại tướng quân lục thượng thư sự, các quan khác vẫn như cũ, tôn phong Thiên Mục làm Đại tướng quân, các quan khác đều như cũ.

Đến tháng 5 năm Vĩnh An thứ 2 (52) thời Bắc Ngụy, Hải Bắc Vương Nguyên Hạo lại vào Lạc Dương, nhóm tập binh lính tại chùa ấy. Nguyên Hạo là anh của Hiếu Trang Đế, khoảng cuối niên hiệu Hiếu Xương (528) thời Bắc Ngụy, Nguyên Hạo trấn tại cấp quận, nghe Nhĩ Chu Vinh vào Lạc Dương, bèn theo hướng Nam bôn chạy đến Tú Diễn. Năm đó vào Lạc Dương thì Hiếu Trang Đế đang tuần du tại phương Bắc, Nguyên Hạo bèn lên ngôi vị Hoàng đế, cải đổi niên hiệu là năm Kiến Võ thứ nhất (?). Nguyên Hạo gởi cho Hiếu Trang vương bức thư viết rằng: “Đạo lớn đã ẩn, thiên hạ chẳng công, họa phước không truy tìm cùng khả năng nghĩa tuyệt. Trẩm còn mong hầu Ngũ đế không lấy sáu quân, chánh vì vỏ trấu muôn xe chẳng đáng sánh cùng báu lớn. Chẳng tham sự tôn quý của Hoàng đế, đâu mưu đồ giàu sang của Lục hợp. Vì Nhĩ Chu Vinh năm trước vào Lạc Dương, thuận mà cầu vương, trọn làm giặc của nhà Ngụy ta, đạo nghịch lại thêm ở Quân vương gần. Tên nhọn lại ban giao cho khanh tể. Vốn dân thiếu lớn mới muốn không nghi, đã có bày tâm luôn trộm ngang Tề, há không tính kế lục khanh phân Tấn? Chỉ vì bốn biển rộng nhiều muốn gom cùng chưa thể được, tạm dựng quân thần, giả cùng bái đặt. Hại anh em khanh riêng phu giới lập, tuân dưỡng đợi thời, thần tiết há lâu dài? Trẫm thấy lòng đây lạnh xa ném xuống sông, bày khóc thỉnh cầu Lương Triều, thể che xấu hổ. Gió thổi tới kiến nghiệp, sấm xét đến Tam xuyên, chánh vì muốn hỏi tội đối với Nhĩ Chu Vinh, đưa công khanh ra khỏi gông cùm, giúp cốt nhục vượt thoát oán sâu, mở dứt trói ngược cho muôn dân. Nghĩa là mắt khanh sáng khơi tiết tự trông thấy. Tôi cùng tiếp theo buồn khổ đồng đánh xét hung yết, chẳng đế ý xa giá vào thành cao tiện. Ông từ phương Bắc vượt vào tuy bức bách bởi hung thư, thế chẳng tự do. Hoặc Nhị sinh ôm hoài trong trắng vất bỏ kiếm mà phỏng đoán. Tôi nghe thế mà trọn than, vỗ về cổ áo mà mất đó sao? Trẫm đối với khanh anh em tuy xa, liền cành rẽ lá, hưng thạnh hay hủy bại cùng nương. Giả sử như có bên trong dòm ngó, ngoài còn lấn áp. Huống hồ tôi cùng với khanh hòa mục sâu dày, riêng thuần đối với cấp nạn. Phàm này chẳng như bỏ thân tức thù, nghĩa tướng sao tựa vậy? Vả lại, Nhĩ Chu Vinh chẳng dấu vết của bề tôi, bạo dữ ở bàng ngọ, mưu đoạt xã tắc của nhà Ngụy ta, mọi người ngu trí đồng thấy đó, khanh rất rõ ràng, nghi là hẳn vậy, gá mạng nơi lang sói, bỏ thân nơi miệng hổ. Bỏ thân thích giúp giặc thù. Anh em tìm kiếm đánh nhau, giả sử giành được dân chúng và đất đai, vốn chỉ là vật của Nhĩ Chu Vinh có được, như bình định được thành ấp, trọn chẳng phải của khanh có. Nhọc ngay Tông quốc để rộng lớn cướp thù, khoái lông giặc lan tỏa, gá lợi của Biện trang. Những kẻ sĩ có nhận biết đều lấy đó làm xấu hổ. Nay mọi sự hưng suy của nước nhà do nơi khanh cùng tôi. Nếu Đạo trời thuận giúp, thề cùng nghĩa cử đây, thì tông xã của triều đình nhà Ngụy ta và thời vận chẳng cùng. Thảng như trời chẳng dẹp loạn, Hồ yết chưa diệt hết, chim si kêu, lang sói cắn, hiến dâng Hà Bắc, đó là phước của Nhĩ Chu Vinh mà là họa của khanh vậy, ấy đâu phải thuộc người khác, thước sách Đạo ý, khanh nên ba phen đáp lại nghĩa lợi, là mưu đồ phú quý có thể bảo trọng, chết người chẳng lo, trọn không nuốt lời, tự cùng như thịt cá, khéo chọn sự tốt lành, chớ để về sau phải hối hận”. Hoàng môn đây tức ngôn từ của Tô Oánh vậy.

Bấy giờ, Hiếu Trang Đế đang ở tại thành Trường Tử, Thái Nguyên Vương Thượng Đảng Vương cùng đến cấp nạn. Đến tháng 06, Hiếu Trang Đế bao vây Hà Nội, Thái thú Nguyên Đào Thang, xa kỵ tướng quân tông chánh trân tôn v.v… vì Nguyên Hạo trấn giữ đánh đó chẳng thắng, khi đó nắng nóng hừng hực, tướng sĩ đều nhọc mệt. Thái Nguyên Vương muốn khiến Hiếu Trang Đế đến Tấn Dương, sang mùa thu sẽ lại cử Đại nghĩa. Chúa quyết định, bèn vời gọi Lưu Trợ đến đoán xem. Lưu Trợ nói: “Hẳn là đánh thắng”. Từ đó đến sáng ngày sau dốc hết sức cùng đánh, quả thật đúng như lời nói ấy, Nguyên Đào Thang, Chánh Trân Tôn đều chém đầu, vì chết hết ba quân. Nguyên Hạo nghe ở Hà Nội không thể giữ gìn được, bèn đích thân dẫn đầu trăm quan liêu ra trấn Hà Kiều, đặc biệt kín chuyển dời Thị trung an phong vương Diên Minh sang trấn thú tại Hiệp Thạch. Qua tháng 07, Hiếu Trang Đế đến Hà Dương, tuy cách dòng sông với Nguyên Hạo nhưng cùng trông thấy. Thái Nguyên Vương bảo xa kỵ tướng quân Nhĩ Chu Triệu ngầm bắt chước vượt sông đánh phá Diên Minh tại Hiệp Thạch. Nguyên Hạo nghe Diên Minh bị thất bại nên cũng tan chạy. Con em cùng dẫn theo ở Giang Chuẩn cả thảy 5. 000 người không ai chẳng cởi bỏ áo giáp cùng khóc, nắm tay xếp thành hàng. Nguyên Hạo cùng vài mươi xa kỵ muốn bôn chạy ra Tú diễn. Vừa đến Trường xã, bị dân chúng xã đó chém đầu mang đưa về kinh đô. Đến ngày 20 tháng 07, Hiếu Trang Đế trở về Lạc Dương, tôn phong Thái Nguyên Vương làm Thiên trụ đại tướng quân, các quan khác cũng vẫn như cũ, tôn phong Thượng Đản Vương làm Thái tể, các quan khác cũng vẫn như cũ.

Đến năm Vĩnh An thứ 03 (530) thời Bắc Ngụy, Nhĩ Chu Triệu phản nghịch, bắt giam Hiếu Trang Đế tại chùa. Khi ấy, Thái Nguyên Vương ở ngôi vị cao tột, tâm sinh kiêu căng ý lại công cao, tình ý xa xỉ, cho cướp đoạt kho tàng, phỏng ý tự tiện. Hiếu Trang Đế oán giận bảo cùng mọi người rằng: “Trẫm thà là khanh công cao quý mà chết, chứ không làm như Hiến Đế (Lưu Hiệp 10-220) thời Đông Hán mà sống. Đến ngày 25 tháng 0 dối bày nói là mới sinh Thái tử, Nhĩ Chu Vinh, cùng Thiên Mục đều vào chầu. vua Hiếu Trang Đế tự tay nắm dao giết Nhĩ Chu Vinh tại điện Quang Minh. Thiên Mục bị phục binh nên vừa trốn chạy liền bị giết. Thế tử bộ lạc đại nhân của Chu Vinh cũng bị chết. Bộ hạ xa kỵ tướng quân Nhĩ Chu Dương Đô v.v… gồm 20 người của Nhĩ Chu Vinh cùng vào Đông Hoa môn cũng bị binh phục giết chết. Chỉ có Tả bộc xạ Nhĩ Chu Thế Long vốn ở nhà nghe Nhĩ Chu Vinh bị chết bèn gồm tất cả bộ khúc của Nhĩ Chu Vinh thiêu đốt tại Tây Dương môn, rồi bôn chạy đến Hà Kiều.

Đến ngày mồng 01 tháng 10, Nhĩ Chu thế Long cùng vợ là Bắc Hương quận trưởng công chúa đến chùa Bằng Vương ở Mang Sơn vì Nhĩ Chu Vinh mà thiết trai tu phước. Và bèn sai phái Nhĩ Chu Hầu đến xét đánh. Nhĩ Chu Na, Luật Quy v.v… dẫn đầu 1.000 Hồ kỵ đồng mặc y phục sắc trắng đến dưới thành quách đòi thí táng của Thái Nguyên Vương, khi ấy Hiếu Trang Đế lên Đại hạ môn trông nhìn thấy thế, bèn sai chủ thứ Ngưu Pháp Thượng nói cùng Luật Quy v.v… rằng: “Thái Nguyên Vương lập công chẳng trọn, mưu đồ ngầm muốn phản nghịch, vương pháp không thâu gần, đã y theo chánh luật hình xử tội Chỉ Vinh Thân, ngoài ra đều chẳng cần phải hỏi. Các khanh v.v… sao bị giáng quan tước như cũ”. Luật Quy nói rằng: “Thần từ Thái Nguyên Vương đến chầu, bệ hạ sao nhẫn ngày nay đặt để oan uổng vô lý như vậy. Thần muốn trở về lại Tấn Dương, chẳng nhẫn đi không, nên nguyện xin được nhận thi táng của Thái Nguyên Vương thì có sống chết cũng không hận”. Vừa nói: vừa lệ đổ như mưa chẳng thể tự cản ngăn, Quân Hồ khóc rống vang tiếng chấn động cả kinh thành. Hiếu Trang Đế nghe thế cũng xót xa cõi lòng nên sai phái Thị Trung Chu Nguyên Long bày thiết khoán cùng Thế Long đợi đó chẳng chết, quan vị vẫn y như cũ. Thế Long nói cùng Nguyên Long rằng: “Thái Nguyên Vương, công sánh như đất trời, cứu tế muôn dân, lòng son phụng sự nước nhà, có thần minh nhận biết. Trường chẳng đoái hoài tin thế, uổng hại bậc trung lương, ngày nay đưa hai hàng chữ sắt, đâu đủ đáng tin ư”. Tôi quyết vì Thái nguyên Vương mà báo thù trọn không quy hàng”. Nguyên Long thấy Thế Long gọi Hiếu Trang Đế là “Trường Lạc”, biết đó là chẳng thành thực, vả lại đem điều ấy nói cùng Hiếu Trang Đế. Hiếu Trang Đế liền ban xuất mọi vật trong kho ra đặt ngoài cửa phía Tây thành chiêu mộ những kẻ sĩ cảm tử để đánh Thế Long. Chỉ trong một ngày mà có được hơn vạn người, cùng Luật Quy v.v… đánh nhau ngoài thành quách. Hung thế chẳng suy bại, Luật Quy v.v… đã từng trải qua trường lính nên tiện lợi đánh giết. Dân sĩ ở kinh đô, phần nhiều chưa tập qua quân trận, nên tuy đều là những bậc nghĩa dõng nhưng sức lực chẳng theo tâm chí. Suốt 3 ngày từng đánh mà du hồn chẳng dứt. Hiếu Trang Đế lại chiêu mộ cắt đoạn Hà Kiều, có Lý Tuân người xứ Hán Trung là Thủy quân từ Thượng lưu phóng lửa đốt cầu. Thế Long thấy cầu bị cháy, bèn cướp bóc dân sống theo hướng Bắc lên Thái Hành. Hiếu Trang Đế lại sai phái Thị Trung Nguyên Tử Cung, Hoàng môn Lang Dương Khoan dẫn đầu bộ kỵ có cả 3 vạn đến trấn tại Hà Nội.

Thế Long đến Cao Đô, lập Thái nguyên thái thú Trưởng Hoàng Vương Hoa làm chúa, đổi niên hiệu là kiến nguyên năm thứ nhất (?) dòng họ Nhĩ Chu tự phong vương gồm cả thảy 8 người. Trưởng Hoàng đóng vương đô tại Tấn Dương, sai phái Dĩnh Xuyên Vương Nhĩ chư Triệu dẫn binh lính đến kinh đô. Quân của Nguyên tử Cung bị thất lợi. Nhĩ Cung Triệu từ Lôi pha vượt sông đến bắt Hiếu Trang Đế tại Điện Thức Càn. Hiếu Trang Đế mới đầu theo đường Hoàng Hà mà chạy gấp, chưa nghĩ rằng Nhĩ Chu Triệu bắt được, không để ý Nhĩ Chu Triệu lợi dụng mái chèo nương theo dòng nước mà qua. Ngày đó nước cạn nên chẳng đắm nhìn bụng ngựa. Đến đó chỗ ghi thư khế chưa gì đã có.

Huyễn Chi nói rằng: “Xưa trước Quang Võ (Quang Võ Đế – Lưu Tú 25 – 58 thời Đông Hán) vâng nhận mạng trời, cầu băng ngưng đóng tại Lự thủy. Chiêu Liệt Trung khởi, Đích Lô nhảy ở Nê-câu, đều là lý hợp với trời, thần kỳ giúp đỡ, nên có thể ra sông cứu tế nước nhà, lớn giúp muôn dân. Nếu Nhĩ Chu Triệu là kẻ mắt ong tiếng sói hành vi thấp cùng như kiêu kỉnh, cản trở binh lính, sao nhẫn làm giặc hại quân thân, Hoàng Linh có nhận biết, xét soi hung đức ấy. Trái lại khiến Mạnh Tân, Do Tất ngầm ý phản nghịch, đổi xưng là Đại Đạo. Họa mang thai nghén quỷ thần phước khinh hiềm. Lấy đo nghiệm xét, biết hẳn là dối bày”. Bấy giờ, Nhĩ Chu Triệu đóng quân Thượng thư tỉnh kiến. Thiên tử ở sân Kim Bành bày lậu khắc, Tần Ngự Phi Chúa đều bưng bít ở màn vây. Hiếu Trang Đế ở trên lầu cửa chùa, lúc đó đang là tháng 12, Hiếu Trang Đe cảm mắc rét lạnh nên cầu xin Nhĩ Chu Triệu cho khăn trùm đầu. Nhĩ Chu Triệu không cho mà bèn bắt tù Hiếu Trang Đế đưa về Tấn Dương. Hiếu Trang Đế bèn thắt cổ tự sát tại tầng cấp thứ 3 của chùa. Lúc sắp qua đời, Hiếu Trang Đế vào chùa lễ Phật, nguyện chẳng làm Quốc vương, có trước thuật bài Từ Ngũ Ngôn rằng:

“Quyền bỏ đường sống ngặc
Buồn đến đường chết dài
Ôm hận ra cửa nước
Ngậm buồn vào làng ma
Cửa hầm một lúc đóng
Sân tối đâu sáng lại?
Xưa nay nghe chết khổ
Sao nói thân phải mang?”

Đến mùa Đông năm Thái Xương thứ nhất (531) thời Bắc Ngụy mới nghinh Tử cung đến kinh đô an táng nhục thân Hiếu Trang Đế ở Tĩnh Lăng. Bài thơ ngũ ngôn do Hiếu Trang Đế trước tác tức là Vãn Ca Từ, mọi người từ triều đình đến thôn dã nghe đó đều thương khóc, dân chúng trông thấy đó đều bưng lệ mà thôi.

Đến tháng 2 năm Vĩnh Hy thứ 3 (53) thời Bắc Ngụy, Phù đồ bị nạn lửa đốt cháy. vua Hiếu Võ Đế (Nguyên tu 531-53) lên đài Lăng Vân trông nhìn thấy lửa bèn sai Nam Dương Bảo Cự Lục, Thượng thư Trưởng Tôn Trĩ dẫn 1.000 võ lâm đến cứu chữa. Đến nơi lửa cháy không ai chẳng buôn tiếc rơi lệ mà đi. Mới đầu lửa từ trong tầng cấp thứ 8 phát ra lúc sáng sớm. Khi ấy sấm mưa mịt mù, xen lẫn tuyết rơi, các hàng đạo tục dân chúng đều đến trông nhìn lửa, tiếng buồn khóc chấn động cả kinh thành thôn ấp. Khi đó có 3 vị Tỳ-kheo nhảy vào trong lửa mà chết, qua 3 tháng sau lửa vẫn chưa tắt hết, có nơi lửa ngầm vào lòng đất tìm theo cột trụ, tròn một năm sau mà vẫn còn hơi khói.

Trong tháng 5 năm đó, có người từ tượng quận đến nói rằng: “Thấy Phù Đồ ở trong biển, ánh sáng tỏa chiếu, nghiễm nhiên như mới. Dân chúng trên biển cảm đều trông thấy vậy, bỗng chốc sương móc nổi dậy, Phù Đồ bèn ẩn”. Đến trong tháng 7, Bình Dương Vương vì Thị Trung Hộc Tư Thông Sử khiến vội đến Trường An. Qua tháng 10 thì dời kinh đô đến đất nghiệp.

2. CHÙA KIẾN TRUNG

Chùa Kiến Trung do Thượng thư lệnh Lạc Bình Vương Nhĩ Chu Thế Long dựng lập năm Phổ thái thứ nhất (531) thời Bắc Ngụy. Đó vốn là vườn nhà của yêm quan tư không Lưu Đằng. Nhà cửa phòng ốc xa xỉ, rườn cột vượt qua quy chế, trong khoảng không gian một dặm mà hiên vũ đầy khắp, nhà sánh như Điện Tuyên Quang, cửa so tợ Càn minh môn, thoáng rộng tráng lệ, các vương hầu chẳng thể sánh kịp. Tại phía Bắc Ngự Đạo trong Tây dương môn, chỗ gọi là làng Diên niên. Phía Đông vườn nhà Lưu Đằng có chùa Thái Bộc, phía Đông chùa ấy có Thừa Hoàng thự, phía Đông thự ấy có Võ Khế thự tức là Ngụy tướng quốc tư mà văn vương phủ, phía Đông phố đó là đến Lư Hạp môn. Về phía Nam ngự đạo trong Tây dương môn có làng Vĩnh Khương, trong làng đó lại có vườn nhà của Lãnh quân tướng quân Nguyên Nghĩa, đào bới giếng cũ có tảng đá khắc ghi là: “Đây là vườn nhà của Thái úy Tuân Lận, thời nhà Hán”. Trong niên hiệu chánh quang (520-525) thời Bắc Ngụy. Nguyên Nghĩa chuyên quyền, Thái hậu U cách vĩnh hạng. Lưu Đằng làm mưu chủ. Nguyên nghĩa là con của Giang Dương Vương Kế là em rễ Thái hậu, khoảng đầu niên hiệu Hy Bình (516) thời Bắc Ngụy, vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 516-528) đảng là trẻ nhỏ, các Vương hầu khuyên tâu Thái hậu mời Nguyên Nghĩa làm thị trung, lãnh quân tả hữu lệnh tống cấm binh, đem tất cả nỗi lòng giao phó, trái lại bị U cách vĩnh hạng nên đến năm thứ 6 (?), Thái hậu khóc nói rằng: “Nuôi dưỡng hổ tự cắn, hủy lớn thành rắn”. Đến năm Hiếu Xương thứ 2 (526) thời Bắc Ngụy, Thái hậu trở lại cầm nắm chính quyền, bèn giết Nguyên Nghĩa v.v… vùi lấp ruộng vườn của Lưu Đằng. Ngày Nguyên Nghĩa bị giết thì Lưu Đằng đã là đồ vật xưa cũ, Thái hậu nghĩ nhớ tội Lưu Đằng nên phá mộ tàn hại xương cốt, khiến thần linh Lưu Đằng không nơi trở về, đem vườn nhà đó mà cấp tặng cho Cao Dương Vương Ung. Đến năm Kiến Nghĩa thứ nhất (528) thời Bắc Ngụy, Thượng thư lệnh Lạc Bình Vương Nhĩ Chu Thế Long vì Nhĩ Chu Vinh mà tu tạo phước, nên đề bảng làm chùa, cửa son gác vàng, chỗ gọi là nơi tiên ở, lấy tiền sảnh làm điện Phật, lấy hầu đường làm giảng thất, hoa vàng lọng báu khắp đầy ở trong, có một ngôi chùa gió mát vốn là chỗ lánh nắng nóng của Lưu Đằng, mát mẻ thường lạnh qua mùa hạ không ruồi lằn. Có những cây gỗ đã vạn năm ngàn năm sống ở đó vậy.

3. CHÙA TRƯỜNG THU

Chùa Trường Thu do Lưu Đằng dựng lập. Mới đầu, Lưu Đằng làm Trường thu lệnh, nhân lấy đó mà đặt tên, chùa nằm cách ngự đạo 1 dặm về hướng Bắc trong Tây dương môn, cũng tại làng Diên niên, tức nơi chùa kim thị trong triều đại nhà ấn, về phía Bắc có ao Mông phiếm, mùa hạ thì có nước, mùa Đông thì khô cạn, bên trong có ngôi Phù Đồ cao 3 tầng, mâm vàng chùa linh sáng rỡ khắp trong thành, có tạo hình tượng voi tắng 6 ngà mang chở Đức Thích Ca ở giữa không trung, mọi Phật sự trang nghiêm thảy đều sử dụng bằng vàng ngọc, thợ làm kỳ lạ khó thể tỏ bày cụ thể. Vào ngày mồng tháng , tượng ấy thường ra, sư tử dẹp tà dẫn đường đi trước đó, ngậm nuốt dao, phun nhả lửa nhảy vọt một mặt, vẽ thêu trên trướng hết sức xảo quyệt khác thường, kỹ năng tài giỏi vận mặc khác thường đến khắp cùng đô thị. Những nơi tượng đến dừng nghỉ, mọi người đua nhau đến trông xem như tường ngăn, giẫm đạp lên nhau, thường có người chết.

4. CHÙA DAO QUANG

Chùa Dao Quang do Thế Tông Tuyên Võ Hoàng Đế (tức vua Tuyên Võ Đế – Nguyên khác 500-16) thời Bắc Ngụy tạo lập. Chùa ở tại phía Đông bắc Ngự đạo trong Lư hạp môn cách Thiên thu môn khoảng 2 dặm. Về phía Bắc đường đi trong Thiên thu môn có vườn Tây du, trong vườn ấy có đài Lăng vân, tức do vua Văn Đế (?) thời Bắc Ngụy tạo lập. Trên đài có giếng ở 8 góc, Cao Tổ (Hiếu Văn Đế – Thác Bạt Hoành 71-500 thời Bắc Ngụy) tạo dựng Lượng phong Quán ở phía Bắc giếng. Lên đó trông nhìn xa hết tầm mắt thì thấy được Lạc Xuyên, phía dưới đài có ao cong Bích Hải, phía Đông đài có Tuyên Từ quán cao cách đất 10 trượng, phía Đông quán ấy có Linh Chi điếu đài được dùng nhiều gỗ tạo dựng nên, đưa ra trong biểu cách đất cao 20 trượng, gió thoáng cửa thông cửa sổ mây nổi nơi xà rườn, cột sơn son khắc chạm xà đồ họa ghi tả liệt tiên, khắc đá làm lúng cả kinh gánh mang Điếu đài, đã như từ đất nhảy vọt lại tợ từ không trung bay xuống, phía Nam Điếu đài có điện Tuyên quang, phía Bắc có Điện gia phước, phía Tây có điện Cửu Long, trước điện có con rồng phun nước thành một biển. Cả điện ấy đều có các bay qua lại đến Linh Chi đài. Vào tháng Tam phục (?), vua thường ở tại Linh Chi đài để tránh nắng nóng. Có một ngôi Phù Đồ cao 5 tầng cách đất cao 50 trượng, bàn tay tiên lấn lướt giữa hư không, Linh khánh rủ ở ngoài mây, thờ lạm khéo léo ngang bằng như ở chùa Vĩnh Minh. Giảng đường phòng Ni có hơn 500 gian đan xéo liền quanh, cửa thông cửa sổ nối liền nhau, gỗ quý cỏ thơm, không thể tả hết, cây gỗ ngưu sừ cẩu cốt, giống cỏ kê đầu cáp cước cũng đều có đủ. Tiêu phòng chỗ Tần ngự học đạo, dịch đình mỹ nhân đều tại trong đó. Cũng có các hàng dòng họ cao quý xử nữ tánh mến Đạo tràng xuống tóc giả từ thân thuộc đến nương ở đó. Tiết lắng trân lệ, áo mặc tu Đạo, gieo tâm vào chánh quy hướng Nhất thừa.

Trong năm Vĩnh An thứ 3 (530) thời Bắc Ngụy, Nhĩ Chu Triệu vào Lạc Dương thao túng binh lính cướp bóc đại loạn, bấy giờ có Tú Dung Hồ Kỳ vài mươi người vào chùa Dao Quang dâm uế, từ đó về sau luôn bị dèm chê, nên tại kinh đô có lời nói rằng: “Nam nhi Lạc Dương gấp làm búi tóc, Ni chùa Dao Quang cưỡng đoạt làm rể”. Phía Bắc chùa Dao Quang có Thừa minh môn, có thành Kim Dong, tức do dòng họ nhà Ngụy tạo dựng nên đó. Về góc Đông Bắc của thành có lầu cao trăm thước của vua Văn Đế thời nhà Ngụy, năm tháng trải qua tuy đã dài xa mà hình chế tợ như mới. vua Cao Tổ (Hiếu Văn Đế) tạo điện Quang cực ở tại trong thành, nhân đó mà gọi là thành Kim Dong, cửa đề là Quang cực môn, lại làm lầu tầng các bay, khắp trên dưới thành, từ đất mà trông nhìn đó có như mây vậy.

5. CHÙA CẢNH LẠC

Chùa Cảnh Lạc do Thái phó Thanh Hà Văn Hiếu Vương Dịch tạo dựng. Vương Dịch là con của Hiếu Văn Hoàng Đế (Thác Bạt Hoành) là em của Tuyên Võ Hoàng Đế (Nguyên Khác). Chùa ở tại phía Nam Lư hạp môn từ phía Tây Ngự đạo trông nhìn thấy chùa Vĩnh Ninh, mắt chánh tương đương. Phía Tây chùa ấy có Tư đồ phủ, phía Đông có vườn nhà của Đại tướng quân Cao Triệu, phía Bắc tiếp liền làng Nghĩa tỉnh, ngoài cửa phía Bắc làng Nghĩa tỉnh có vài gốc cây tùng cành nhánh tươi tốt, phía dưới có một cái giếng nước mát ngọt có máng đá lọ sắt cung cấp cho người đi đường uống nước. Che phủ râm mát, có nhiều người dừng nghỉ. Có một ngôi Phật điện, kiệu tượng tại đó, điêu khắc chạm trổ rất mực xảo diệu, nổi bật hơn hẳn một thời, mái nhà bao quanh, phòng cong tiếp liền, cành nhẹ phẩy cửa, hoa nở đầy sâu, trong 6 ngày trai thường bày nữ nhạc, tiếng ca nhiễu quanh cầu, áo vũ từ từ xoay chuyền, tiếng ty sáo vang xa hài hợp khéo nhập thần, vì đó là chùa Ni, nên các hàng nam tử trượng phu không được vào. Những người được đến trông xem đều cho là đến chốn thiên đường. Đến lúc Văn Hiến Vương (?) qua đời, chùa cấm có phần khoan dung, nên dân chúng vào ra không còn phải loạn ngại. Về sau, Nhữ Nam Vương Duyệt lại đến tu ở chùa đó, Vương Duyệt là em của Văn Hiến, chiêu tập các âm nhạc đến trình diễn ở trong chùa, chim kỳ thú lạ vũ vỗ nơi sân điện, bay liệng huyền hoặc trên không, đập lửa ném xuống giếng, trồng táo trồng dưa chỉ phút chốc đều được có ăn. Các hàng sĩ nữ đến trông xem mê loạn cả mắt. Từ niên hiệu Kiến Nghĩa (528-528) thời Bắc Ngụy trở về sau, tại kinh đô từng có lắm binh loạn, nên vui thú ấy bèn ẩn mất.

6. CHÙA NI CHIÊU NGHI

Chùa Ni Chiêu Nghi do các Hoạn quan tạo lập. Chùa ở cách một dặm phía trong Đông dương môn thuộc phía Nam Ngự đạo. Phía Bắc đường đi trong Đông dương môn có hai Quan thự của Thái Bắc Thương Đạo. Phía Đông nam có làng Trị Lật, Thương ty Quan thuật ở tại trong đó. Lúc Thái hậu vào triều, chùa Hôn chuyên mến mộ. Nhà của Quan nên vàng chất tràn đầy. Do đó, Tiêu Hân nói rằng: “Thăng đấu của Cao Hiên đều là Ly phụ của Yêm ( Hoạn) quan, Ngựa Hồ kêu ca không gì chẳng là dưỡng nghỉ của Hoàng môn”. Tiêu Hân vốn người xứ Dương Bình, rất ưa chuộng văn chương sinh vở, ít có danh dự, thấy chùa Hôn mến mộ lớn bèn nói lên lời đó, và nhân đó mà vang danh, làm Trị thư thị ngự sử. Chùa có 1 tôn tượng Phật và hai tôn tượng Bồ-tát, người thợ đắp họa rất tinh xảo, khắp chốn kinh đô không đâu có như thế hằng năm, ngày mồng 07 tháng 0, thường nghinh thỉnh ra chùa Cảnh Minh, 3 tôn tượng ở chùa Cảnh Minh cũng luôn ra nghinh đón kỹ nhạc lắm nhiều cùng sánh ngang bằng như Lưu Đằng. Trước nhà có cây tửu gỗ miếng. Tại chùa Chiêu Nghi có ao, học đồ ở chốn kinh đô gọi đó là Địch Tuyền. Theo Huyễn Chi căn cứ Đỗ Dự chú thích sách xuân thu rằng: “Địch Tuyền tại phía Tây nam của Tấn Thái Thương. Xét Tấn Thái Thương tại trong kiến xuân môn”. Nay Thái Thương tại trong Đông dương môn. Xứ nay tại phía Tây nam của Thái Thương, nên rõ ràng chẳng phải là Địch Tuyền vậy. Theo Ẩn sĩ Triệu Dật nói “Xứ này là ao nhà của Thị Trung Thạch Sùng thời nhà Tấn”. Phía Nam ai có lầu Duyên cầu, do đó Học đồ lúc mới ngủ dậy đi ngang qua đó tưởng thấy được dung mạo của Duyên Cầu. Về phía Tây nam ao ấy có chùa Nguyện Hội, do Trung thư xá Nhân Vương Dực xả thí vườn nhà để tạo dựng đó. Trước Phật đường có một cây dâu thẳng cao lên 5 thước, cành nhánh bủa quanh, mầm lá trải rủ hình dáng như lọng vũ, lại cao 5 thước, là sắp xếp 5 lớp, mỗi lớp là cành mỗi khác. Các hàng Đạo tục ở kinh đô cho đó là cây dâu thần, mọi người đến trông xem đông thành chợ, lắm nhiều người bố thí cúng dường. vua (?) nghe thế mà sinh tức ghét cho là dối hoặc quần chúng, bèn bảo cấp sự trung Hoàng môn thị lang Nguyên Kỷ chặt phá. Ngày đó mây móc phủ tối mịt mù, nơi hạ búa, huyết đổ xuống đất, các người trông thấy không ai chẳng buồn khóc. Phía Nam chùa có làng Nghi thọ, trong làng ấy có vườn nhà của Bảo Tín, Huyện lệnh Đoàn Huy, thường nghe có tiếng chuông ngân vang dưới đất, có lúc thấy ánh sáng 5 sắc soi chiếu nơi phòng nhà. Đoàn Huy lấy làm lạ bèn đào bới nói chỗ, ánh sáng phát ra mà có được một tôn tượng bằng vàng cao 2 thước, có 2 tôn tượng Bồ-tát trên mu bàn chân khắc ghi rằng: “Ngày 15 tháng 5 năm Thái Thỉ thứ 2 (266) thời Tây Tấn, do Thị trung trung thứ giám Tuân Úc tạo”. Đoản Huy bèn xả thí vườn nhà tạo lập thành chùa Quang Minh. Mọi người thời bấy giờ đều gọi đó là vườn nhà xưa cũ của Tuân Úc. Về sau có kẻ trộm muốn trôm lấy tôn tượng đó. Tôn tượng ấy cùng hai tôn tượng Bồ-tát đồng tiếng kêu: “Giặc”. Kẻ trộm kinh sợ liền ngã té. Chư Tăng nghe tiếng tôn tượng kêu bèn ra bắt được giặc cướp. Chùa Hồ Thống do Thái hậu theo cô dựng lập nên, vào xuất gia vào đạo làm Ni ở tại chùa đó. Từ chùa Vĩnh Ninh đi về phía Nam cách khoảng 1 dặm có ngôi tháp báo cao 5 tầng, chùa vàng cao rộng, phòng suốt liền nhau, cửa thông giao đối, cột trụ sơn son, tường vách sắc trắng rất đẹp xinh tráng lệ. Chư Ni ở chùa đó đều là những bậc Danh đức ở chốn Đế thành, khéo hay biệc mở dẫn tài giỏi đàm luận về nghĩa lý, thường vào trong cung cùng Thái hậu giảng nói pháp. Mọi sự cung cấp cúng dường cho Ni chúng ở đó, chẳng đâu sánh bằng vậy.

7. CHÙA TU PHẠM

Chùa Tu Phạm tại phía Bắc Ngự đạo trong Thanh dương môn. Chùa Tung Minh lại ở phía Tây chùa Tu Phạm, đều là khắc tường vút cao mái ngang phòng nhà liền rui cũng là chùa danh tiếng vậy. Chùa Tu Phạm có Kim cang nên cưu cáp chẳng vào, chim tước chẳng nương đậu. Sa-môn Bồ-đề Đạt-ma nói là: “Có được chân tướng vậy”. Phía Bắc chùa đó có làng Vĩnh Hòa, là nơi vườn nhà của Thái sư Huân Trác thời nhà Hán. Nay hiện còn có nước, suốt mùa đông mùa hạ chẳng cạn khô. Trong thôn có vườn nhà của Thái Phó Lục Thượng Thư Trưởng Tôn Trĩ, Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Quách Tộ, Lại Bộ Thượng Thư Hình Loan, Đình Uy Khanh Nguyên Hồng Siêu, Vệ Úy Khanh Hứa Bá Đào, Lương Châu Thứ Sử Uất Thành Hưng v.v… cả thảy 6 ngôi, đều là cửa cao nhà đẹp, trai quán thoáng xinh, cây thu cây hòe che râm đường đi cây ngô đồng cây dương trồng thoáng, người thời bấy giờ gọi đó là làng phú quý, mọi người đào nới đất xứ đó liền được các vật bằng vàng ngọc quý báu. Nhà Hình Loan từng đào bới được cát đỏ và vài mươi vạn tiền có khắc ghi là vật của Huân Thái sư. Sau đó trong đêm Huân Trác theo Hình Loan đòi vật ấy, Hình Loan chẳng chịu trả cho, qua năm sau Hình Loan bèn chết vậy.

8. CHÙA CẢNH LÂM

Chùa Cảnh Lâm tại phía Đông Ngự đạo trong Khai dương môn, giảng đường chánh điện xây theo hàng lớp, phòng nhà nối liền nhau, cột son sáng rỡ như mặt nhật, trụ xà thêu vẽ đón gió, thật là Thắng địa. Phía Tây chùa có khu vườn có lắm nhiều cây trái kỳ lạ, mùa xuân có chim mùathu có ve tiếng kêu hót liên tục. Bên trong có một Thiền phòng, trong đó lại thiết đặt tinh xá kỳ hoàn, hình chế tuy nhỏ, nhưng tạo dựng khéo léo khó thể thêm vì Thiền các tĩnh lắng, thất ẩn ngưng sâu, cây quý cặp tường, trụ xinh men thềm, tuy nói là nơi triều đình phố thị mà tưởng đồng như hang cốc. Chư Tăng tĩnh hạnh ngồi trên thằng sàng bên trong, hưởng gió đượm nhuần Đạo ngồi kiết già quán sở tức. Lại có một bia minh bằng đá, do Bác sĩ Lư Bạch Đầu trước thuật văn bia ấy. Lư Bạch Đầu tự là Cảnh Dụ người xứ Phạm Dương, tánh tình ưa thích đạm bạc tĩnh lắng, rong chơi vườn đồi. Học cùng 6 kinh, nói rành Bách Gia Chư Tử. Đấu niên hiệu Phổ Thái (531) thời Bắc Ngụy, từ nhà ra làm Quốc từ bác sĩ, tuy ở chốn cửa son, mà lấy việc chú thuật làm chính. Có chú giải Chu dịch lưu hành nơi đời vậy.

9. CHÙA TƯ NÔNG Ở KIẾN XUÂN MÔN

Tại phía Nam Ngự đạo trong Kiến Xuân Môn có ba dinh thự cú tuần điển nông tịch điền, phía Nam tịch điền có chùa Tư Nông, phía Bắc Ngự đạo có khoảng đất trống không, phỏng dịch làm Đông cung, trong thời Trung Triều nhà Tấn đó là Thái Thương, phía Nam Thái Thương có Địch Tuyền, chu vi bao quanh ba dặm tức như trong sách Xuân Thu nói là Vương Tư Hổ Tấn Hồ Yển kết thề tại Địch truyền, nay nước còn lắng trong thấu suốt tời đáy rõ ràng, các loài thủy tộc ẩn tàng bên trong phân rõ được cá và ba-ba. Cao Tổ (Hiếu Văn Đế – Thác bạt Hoành 71-500) thời Bắc Ngụy đặt ở phía Bắc suối phía Nam sông. Ở thời Trung Triều nhà Tấn Bộ rộng cả trăm dặm vậy. Phía Tây suối có Hoa lâm viên, Cao Tổ cho rằng suối nằm ở phía Đông Hoa lâm viên, nhân đó gọi tên là Biển thương Long. Trong Hoa lâm viên có biển lớn, tức ao Thiên uyên ở thời nhà Hán. Trong ao còn có đài cửa hoa của Văn Đế (?). Cao Tổ tạo điện Thanh Lương tại trên đài. Thế Tông (Tuyên Võ Đế – Nguyên Khác 500-516) thời Bắc Ngụy tạo núi Bồng lai tại trong biển. Trên núi có Tiên nhân quán. Núi ấy còn có điện Điều Đài và đều tạo các cầu vồng nương giữa không trung mà qua lại. Hằng năm vào ngày hễ trong tháng 3 và tháng , vua cưỡi thuyền rồng vẽ hình chim nghịch vân du trên đó. Phía Tây biển có táng băng thất, tháng 6 thường lưu xuất băng cung cấp cho trăm quan. Về phía Tây Nam biển có điện Cảnh Sơn. Về phía Đông của núi có đảnh Hy Hòa, trên đảnh có Ôn Phong Thất, phía Tây núi có ngọn núi Hằng nga, trên đảnh có Lộ Hàn quán đều có gác bay thông liền nhau, lướt núi đạp hang. Ở phía Bắc núi có ao Huyền võ, phía Nam núi có điện Thanh Thử, phía Đông điện ấy có điện Lâm giản Đình, phía Tây có đài Lâm Nguy. Phía Nam núi Cảnh dương có vườn có trăm thứ trái cây, trái cây xếp bày làm rừng. Mỗi rừng có một ngôi nhà. Có giống táo tiên nhân lớn 5 tấc, bổ nó hai đầu đều ra, hạt nhỏ như kim châm, đến lúc sương giáng mới chín, ăn nó rất ngon, ở đời tương truyền lưu xuất ra núi Côn lôn, một thuyết khác nói là táo tây vương mẫu. Lại có đào tiên nhân, sắc màu đo suốt cả trong ngoài, gặp được sương lạnh liền chín, cũng lưu xuất ra núi Côn lôn, một thuyết khác nói là Đào vương mẫu. Phía Nam rừng nai có một bia đá do vua Minh Đế (Hiếu Minh đế – Nguyên Hủ 516-528) thời Bắc Ngụy tạp lập. Đề là bia “Miêu Tỳ”. Ở phía Bắc bia ấy, Cao Tổ có tạo lập Miêu tỳ đường. Trong khoảng nhiếp hóa Vĩnh An (528-530) thời Bắc Ngụy, vua Trang Đế (tức Hiếu Trang Đế – Nguyên Tử Du) cưỡi ngựa bắn tên tại Hoa lâm viên, trăm quan đều đến đọc văn bia ấy, nghi ngờ chữ “Miêu” viết sai nhầm. Quốc tử bác sĩ Lý Đồng Quỷ nói rằng: “vua Minh Đế là bậc anh tài người đời tôn xưng là Tam Công Tổ Cán, Trọng Tuyên lấy đó làm lông cánh, chỉ vì chưa hiểu bản ý như thế nào chứ không thể nói là sai nhầm vậy”. Đến lúc Huyễn Chi làm phụng triều thỉnh, nhân đó liền giải thích rằng: “Dùng cỏ rơm khô che phủ lên trên đó, nên gọi là Miêu Tỳ sao gọi là sai nhầm!”. Mọi người đều ngợi khen là khéo tài, rất lấy làm đạt được chỉ quy ấy vậy, phía Tây rừng nai có Đô Đường, có ao lưu thương, phía Đông Đô đường có biển phù tang. Phàm các biển đây đều có đá khoét lỗ rút chảy xuống đất. Phía Tây có sông Thông cốc, phía Đông có cầu Liên dương, cũng cùng liền thông với Địch Tuyền. Nếu thần nắng hạn làm hại lúa thóc thì nước rưới xuống khiến chẳng khô cạn, lìa xong bên cạnh đượm thấm dương cốc rò rỉ chẳng tràn. Đến như vây vãy khác loài, lông cánh khác giống, rửa gợn nổi sóng tợ như tự nhiên vậy.

CÁC NGÔI GIÀ LAM TRONG THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 1 (Hết)

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA ĐÔNG THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 2

10. CHÙA NI MINH HUYỀN

Chùa Ni Minh Huyền do Bành Thành Võ Tuyên Vương Hiệp tạo lập. Chùa ở vị trí phía Nam cầu đá ngoài Kiến Xuân Môn, lúa nước bao bọc chung quanh. Từ thành đến ngoài Kiến Xuân Môn, phía Đông vào cầuđá Dương cừ, cầu có trụ. Tại phía Nam đường đi có khắc ghi là: “Năm Dương Gia thứ (135) thời Đông Hán, do Tướng Tác Đại Tượng Mã Hiến tạo”. Mãi đến năm Hiếu Xương thứ 3 (527) thời Bắc Ngụy gặp phải mưa lớn sụp đổ cầu, trụ mới bị chôn lấp. Hai trụ phía Bắc đường đi đền nay vẫn hiện còn. Theo Huyễn Chi xét cứ “Sơn xuyên cổ kim ký” của Lưu Trừng và “Tây Chinh Ký” của Đái Diên đều nói là “tạo dựng vào năm Thái Khương thứ nhất (280) ở thời Tây Tấn”. Đó thì lạc mất đã lâu xa vậy. Xét về Lưu Trừng v.v… đều sinh sống tại giang biểu chưa đến Trung Hoa, giả sử có đi lính tạm đến ngang qua, đến như đối với việc cũ đều chẳng phải thâu gần trông thấy, nghe ở các đầu đường sá, bèn vì xuyên tạc, lầm hoặc chúng ta hàng hậu học ngày tháng cách xa lắm vậy. Có một ngôi tháp 3 tầng chưa trang nghiêm hoàn tất. Phía Đông chùa ấy có bịch đựng thường đầy ở thời Trung Triều, Cao Tổ (Hiếu Văn đế – Thác Bạt Hoành 71-500) thời Bắc Ngụy bảo làm trường thuế, là nơi tích chứa mọi thứ cúng tặng của trong thiên hạ vậy.

11. CHÙA LONG HOA

Chùa Long Hoa đó Túc Vệ Vũ Lâm Hổ phần dựng lập. Chùa nằm tại phía Nam Dương cừ ở ngoài Kiến Xuân Môn. Phía Nam chùa có trường thu thuế, phía Bắc Dương cừ có làng Kiến Dương. Trong làng có đài đất cao 3 trượng, phía trên tạo dựng 2 tinh xá. Theo Triệu Dật nói: “Đài đó là đình Trung Triều Kỳ”. Phía trên có lầu hai tầng, treo trống đánh lễ bãi chợ, có một quả chuông gióng đánh tiếng vang xa 50 dặm.

Thái hậu nhân tiếng chuông vang xa bèn dời về đặt trong cung tại giảng đường Ngưng nhân, trước khi giảng nội điển, vị Sa-môn gỏ đánh để phân rành thời tiết. Mới đầu, con của Tiêu Diễn là Dự Chương Vương Tống vừa đến nghe tiếng chuông ấy lấy làm kỳ lạ, bèn làm 3 bài “Thính chung ca từ” lưu truyền nơi đời. Vương Tông tự là Thế Tán là con rơi của Hôn chúa Bảo Quyển thời Ngụy Tề. Bảo Quyển dự tham triều chánh mà dâm loạn, dân chúng đất Ngô rất khổ sở đó. Ung Châu Thứ Sử Tiêu Diễn lập Nam Khương Vương Bảo dung làm chúa, cử binh lính đến Mạc Lăng, sự việc đã ổn định nhanh chóng, bèn giết Bảo Dung mà lập Bảo Quyển. Có mỹ nhân Ngô Cảnh Huy, lúc đầu mới mang thai Vương Tống vừa 1 tháng, Tiêu Diễn nhân lấy Cảnh Huy kịp đến lúc Vương Tống chào đời bèn nhận làm con của mình. Thuở nhỏ, Vương Tống tên là Duyên Giác, được phong là Dự Chương Vương. Dáng mạo cử chỉ của Vương Tống rất giống như Hôn chúa. Được mẹ báo cho biết, khiến tự liệu phương tiện, Vương Tống bèn quy hướng về triều đình nhà ta, lại đổi tên là Thế Tán, tự là Thế Vụ, mới đầu vì Bảo Quyển mà chịu tang 3 năm. Vua Minh đế (Hiếu Minh Đế – Nguyên Hủ 516-528) thời Bắc Ngụy bái nhận Vương Tống làm Thái Úy Công Phong Đan Dương Vương. Trong khoảng niên hiệu Vĩnh An (528-530) thời Bắc Ngụy, mến chuộng em gái của Hiếu Trung Đề (Nguyên Tử Du) là Thọ Dương Công chúa tự là Cử Lưu. Công chúa dung mạo, nhan sắc rất đẹp xinh, Vương Tống rất kính mến đó. Những lúc cùng nói năng với Công chúa, Vương Tống thường tự xưng là hạ quan, được phong trao làm Từ Châu Thứ Sử và thêm Khai phủ, kịp đến lúc kinh đô sụp đổ, Vương Tống vất bỏ châu theo hướng Bắc mà trốn chạy. Bấy giờ Nhĩ Chu Thế Long chuyên quyền sai bắt lấy Công chúa đưa đến Lạc Dương, Thế Long cưỡng bức, Công chúa bèn mắng rủa rằng: “Loại chó hổ mà dám làm nhục con gái Thiên vương ư?”, Thế Long tức giận đó bèn thắt cổ mà giết chết Công chúa.

12. CHÙA ANH LẠC

Chùa Anh Lạc ở tại phía Bắc Ngự đạo ngoài Kiến Xuân Môn, chỗ gọi là làng Kiến Dương, tức là nơi ở của Bạch xã trì Huân oai liễn vào thời Trung Triều vậy. Trong làng ấy có các chùa Anh Lạc, Từ Thiện, Huy Hòa, Thông Giác, Huy Huyền, Tông Thánh, Ngụy Xương, Huy Bình, Sùng Chân, Nhân Giả v.v… cả thảy 10 ngôi. Trong làng ấy có hơn ngàn hộ sĩ thứ, rất kính tin tôn sùng Tam bảo. Mọi sự lợi dưỡng của chúng Tăng đều do dân chúng cúng dường.

13. CHÙA TÔNG THÁNH

Chùa Tông Thánh có 1 tôn tượng cao 3 trượng 8 thước, đoan nghiêm đặc thù, tướng tốt đầy đủ. Các hàng sĩ thứ đến chiêm ngưỡng, mắt chẳng tạm máy động. To ấy một lúc nghinh đưa ra chợ giếng đều phóng ánh sáng tỏa rực giữa không trung, riêng tuyệt ngoài đời, vang vọng các thứ kỷ nhạc đan xen kỳ diệu, sánh kế gần như Lưu Đằng; Các hàng sĩ nữ ở phía Đông thành phần nhiều đều đến chùa ấy mà tông xem vậy.

14. CHÙA SÙNG CHÂN

Chùa Sùng Chân, có Tỳ-kheo Thích Huệ Ngung qua đời 7 ngày sau sống lại, qua chỗ kiểm xét của vua Diêm-la, vì sai nhầm tên nên được thả khỏi. Sa-môn Huệ ngưng trình bày lại đầy đủ mọi sự trước đó có 5 vị Tỳ-kheo đồng bị kiểm xét. Một vị Tỳ-kheo nói là “Tên Trí Thánh ở chùa Bảo Minh chuyên tọa thiền, tu hành khổ hạnh”, bèn được lên Thiên đường. Có một Tỳ-kheo khác nói “Tên là Đạo Phẩm ở chùa Bát Nhã”, do trì tụng 0 quyển kinh Niết-bàn nên cũng được sinh lên Thiên đường. Có một vị Tỳ-kheo nói “Tên là Đàm Vô Tối ở chùa Dung Giác, thường giảng kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm, nhiếp lãnh Tăng chúng ngàn vị”, vua Diêm-la bảo: “Người giảng kinh mà tâm cứ ôm hoài bỉ ngã, vì tự kiêu mà lấn lướt người vật là hạnh thô thứ nhất trong pháp Tỳ-kheo. Nay đây chỉ xét thử về tọa thiền tụng kinh, không hỏi đến việc giảng kinh”. Tỳ-kheo Đàm Vô Tối nói rằng: “Bần đạo từ lúc lập thân trở lại chỉ chuyên giảng kinh thật chẳng hề trì tụng”. vua Diêm-la liền giao cho Quan ty, liền có 10 người mặc áo xanh đưa Đàm Vô Tối đi đến cửa phía Tây bắc, phòng nhà đều đen tối, tợ như chẳng phải chỗ tốt đẹp. Lại có một vị Tỳ-kheo nói: “Tên là Đạo Hoằng ở chùa Thiền Lâm”. Và tự nói: “Giáo hóa bốn chúng đàn-việt tạo hết thảy kinh, chú đúc 10 tôn tượng”. vua Diêm-la bảo: “Thể của Sa-môn hẳn phải nhiếp tâm giữ đạo, chỉ ý đặt để Thiền tụng, chẳng nên liên can đến việc đời, chẳng tạo tác mọi sự hữu vi, tuy có tu tạo kinh tượng cũng chính vì muốn được tài vật của người khác, đã có được tài vật, tham tâm liền khởi, đã ôm hoài tham tâm tức là ba độc, chẳng dứt trừ phiền não đầy đủ”. Cũng giao phó cho Quan ty, bèn cùng Tỳ-kheo Đàm Vô Tối đồng vào trong cửa đen tối. Lại có một Tỳ-kheo khác nói: “Tên là Bảo Minh ở chùa Linh Giác. Trước lúc xuất gia, từng làm Lũng Tây Thái Thú, tạo lập chùa Linh Giác, khi chùa đã hoàn thành bèn bỏ quan vị mà xuất gia tu Đạo, tuy không tọa thiền tụng kinh nhưng lễ bái chẳng bỏ thiếu vua Diêm-la bảo: “Ngày ông làm Thái thú xử trị oan uổng, cướp đoạt tài vật của dân, giả tạo dựng chùa ấy, kỳ thực chẳng phải do công sức của ông, sao nhọc nói ra đây? Và cũng giao phó cho Quan ty, các người mặc ác xanh đưa vào cửa đen tối. Thái hậu nghe thế bèn sai Hoàng Môn Thị Lang Từ Hột y theo lời của Sa-môn Thích Huệ ngưng nói mà phỏng hỏi đến chùa Bảo Minh. Ở phía Đông thành có chùa Bảo Minh, ở phía trong thành có chùa Bát Nhã. Ở phía Tây thành có 3 chùa Dung Giác, Thiền Lâm và Linh Giác. Hỏi đến các Tỳ-kheo Trí Thanh, Đạo Phẩm, Đàm Vô Tối, Đạo Hoằng, Bảo Minh thỉnh 100 vị Tăng tọa thiền thường ở tại trong điện để cúng dường. Có sắc chiếu không chấp thuận. Mong kinh tượng men theo đường mà cầu xin, nếu riêng ai có tài vật tu tạo kinh tượng thì tùy ý. Sa-môn Huệ Ngưng cũng vào núi Bạch lộc ở ẩn tu Đạo. Từ đó về sau, các vị Tỳ-kheo ở khắp kinh ấp thảy đều hành trì tọa thiền tụng kinh, chẳng mấy ai chăm việc giảng kinh lấy làm chí ý. Ra ngoài Kiến xuân môn cách hơn một dặm đến phía Đông có cầu đá đi theo hướng Bắc nam, tạo dựng vào năm Thái Khương thứ nhất (280) thời Tây Tấn, phía Nam cầu ấy có chỗ của Mã thị Hình Khê Khương ở thời Triều Ngụy (?). Về phía Tây đường lớn ở phía Bắc cầu ấy có làng Kiến Dương, phía Đông đường lớn có làng Tuy Dân, trong làng đó có vườn nhà của Hà gian lưu Tuyên Minh. Trong niên hiệu Thần Quy (518-520) thời Bắc Ngụy, vì Trực gián trái ngược ý chỉ nên chém tại Đô thị xong rồi mà mắt chẳng nhắm, thi thể chạy đi cả trăm bộ. Mọi người lúc ấy bàn luận cho đó là chết oan. Tuyên Minh thuở nhỏ rất có danh dự, tinh thông kinh sử, nguy hành đến nỗi bị giết chết vậy.

15. CHÙA NI NGỤY XƯƠNG

Chùa Ni Ngụy Xương do Yêm Quan Doanh Châu Thứ Sử Lý Thử Thọ tạo dựng tại góc Đông nam của làng, tức chỗ chợ trâu ngựa trong triều, chỗ của Hình Kê khương, phía Đông gần cầu đá. Cầu đó đi theo hướng Nam bắc. Năm Thái Khương thứ nhất (280) thời Tây Tấn có chợ ở thời Trung Triều phía Nam là cầu đó. Lưu Trừng Chi v.v… lại thấy ở phía Bắc cầu có khắc ghi, nhân đó mà cho là cầu ấy được tạo dựng vào khoảng đầu niên hiệu Thái Khương (280) thời Tây Tấn vậy.

16. CHÙA NI CẢNH HƯNG Ở PHÍA NAM CẦU ĐÁ

Tại đường đi phía Nam Cầu đá có chùa Ni Cảnh Hưng cũng do các hoạn quan v.v… tạo dựng. Chùa ấy có kiệu giá tượng cao cách đất 3 thước, thiết bày lọng báu, bốn phía đều rủ linh vàng và ngọc 7 báu, kỹ nhạc bay vọng giữa trời, trông thấy vượt ngoài mây, các thợ làm nên rất tinh xảo khó thể suy cử thêm. Ngày nghinh đưa tôn tượng ra, thường ban bảo trăm người Vũ lâm nâng cất tôn tượng ấy, đàn sáo các kỹ nhạc xen tạp đều do chỉ cấp.

17. CHÙA THÁI KHƯƠNG Ở LÀNG KIẾN DƯƠNG

Phía Đông làng Kiến Dương có làng Tuy Dân. Trong làng ấy có Lạc Dương huyện, Lâm Cừ Thủy huyện. Ngoài cửa có văn bia Lạc Dương lệnh dương có thanh đức. Phía Đông làng Tuy Dân là làng Sùng Nghĩa. Trong làng ấy có vườn nhà của Đỗ Tử Hưu; người xứ Kinh Triệu Thế đất cao thoát, cửa gần ngự đạo. Bấy giờ có ẩn sĩ Triệu Dật nói rằng: “Ông ta là người thời vua Võ Đế (Tư Mã Viêm 265-275) thời Tây Tấn, nên mọi việc xưa trước trong triều đại nhà Tần phần nhiều đều có ghi chép lại”. Khoảng đầu niên hiệu Chánh Quang (520) thời Bắc Ngụy, Triệu Dật đến kinh đô (Lạc Dương) thấy vườn nhà của Tử Hưu mà than thở rằng: “Trong vườn nhà này có chùa Thái Khương ở thời Trung Triều”. Mọi người lúc ấy chưa tin nên hỏi về nguyên do của ngôi chùa. Triệu Dật bảo rằng: “Long tương tướng quân Vương Tuấn sau khi bình trị đất Ngô mới tạo dựng chùa ấy. Vốn có ngô Phù Đồ 3 tầng được xây dựng bằng gạch”. Và chỉ trong vườn Tử Hưu mà bảo: “Đây là chỗ cũ”. Tử Hưu bàn đào bới lên để xét nghiệm đó, quả nhiên có được vài mươi vạn viên gạch và có tảng đá khắc ghi là: “Ngày mồng 08 (Tân tỵ) tháng 0 (Giáp tuất) năm Ất tỵ (285) tức năm Thái Khương thứ 6 thời Tây Tấn, Nghi đồng tam ty tương dương hầu Vương Tuấn kính tạo”. Bấy giờ trong vườn có rau quả rất tươi tốt, cây rừng sơ sài, mới đượm nhuần lời nói của Triệu Dật và tôn xưng là Thánh nhân Đổ Tử Hưu bèn xả thí vườn nhà tạo dựng nên chùa Linh Ứng. Với số gạch đào bới được đó trở lại xây dựng ngôi Phù Đồ 3 tầng. Bấy giờ có người ưa thích tò mò bèn tìm theo hỏi: “Kinh đô của triều đại Tây Tấn có như ngày nay chăng?” Triệu Dật đáp: “Ở thời Tây Tấn, dân ít so với ngày nay. Vườn nhà Để Thất của các Vương hầu thì tương tợ như ngày nay”. Triệu Dật lại bảo: “Từ khoảng niên hiệu Vĩnh Gia (307-313) thời Tây Tấn trở lại nay, trải qua hơn 200 năm, những vị xây dựng nước nhà xưng vua có cả thảy 16 người, đều vân du đến Đô ấp này, chính mắt trông thấy việc đó. Sau khi đất nước diệt mất, xét xem về sách sử phần nhiều đều chẳng phải thực lục, không đâu chẳng suy tôn quá mức. Đối với người dân thiện từ hướng đời sống bềnh bồng, tuy khéo ham thích rượu thịt cũng xưng gọi là nhân đức không giết hại. Trông xem về người xử trị pháp luật chưa lấy làm hung bạo, mà xét rõ về sử thị mọi điều ác trong thiên hạ đều quy đổ về. Như Phù Kiên tự là bậc Hiền chúa, mà quân giặc đánh lấy ngôi vị rồi vọng ghi là ác quân. Phàm các Sử quan đều thuộc loại ấy, mọi người đều xa sang gần hèn lấy đó làm tin vậy. Người ngày nay cũng vậy. Lúc sống thì ngu khi chết thì trí dối hoặc mình thật quá lắm vậy”. Có người hỏi về nguyên do? Triệu Dật đáp: “Có người lúc sống thì trong quê mùa hèn mạt nhưng đến khi chết rồi trên văn bia mộ chỉ không đâu chẳng đề đức lớn khắp cùng đất trời dốc trọn đời làm mọi việc cho dân sống. Làm vua thì ngang hàng như vua Nghiêu vua Thuấn, làm tôi thì bằng vết với Y Doãn, Cao… Quan chăn dân như cọp nổi ham mê thanh trần. Lại cầm nắm luật pháp chôn vùi luân thường, chết rồi ghi đề là cứng rắn thẳng ngay. Chỗ đáng gọi là sống làm đạo chích chết làm di tề, lời dối tổn thương chân thật hoa tư hư hại lẽ phải”. Khi ấy những kẻ sĩ văn chương châm chọc xấu hổ với lời nói ấy của triệu dật. Bộ Binh Hiệu Úy Lý Trừng hỏi rằng: “Ngôi Phù Đồ trườc phủ Thái úy hình chế rất xưa cũ mà hiện còn chưa hư hoại, chưa rõ biết ngày trước tạo dựng vào lúc nào vậy?” Triệu Dật đáp: “Năm Nghĩa Hy thứ 12 (16) thời Đông Tấn, do Lưu Hoằng đánh giết quân nhân Diêu Hoằng tạo dựng vậy”. Khi ấy, Nhữ Nam Vương nghe nói thế mà lấy làm lạ bèn kính bái Triệu Dật làm nghĩa phụ, nhân đó mà hỏi rằng: “Do ăn dùng chất gì mà sống lâu năm như thế?” Triệu Dật đáp: “Tôi không rãnh để dưỡng sinh mà tự nhiên trường thọ. Quách Phác từng đoán bói nói tôi thọ 500 tuổi, nhưng đến nay mới hơn một nửa. Tôi thường đi bộ kéo một chiếc xe rảo bước khắp các làng chợ, phàm những nơi đi ngang qua, phần nhiều ghi lại những dấu vết xưa cũ”. Sau đó 3 năm, Triệu Dật bỏ đi, chẳng ai biết ở nơi nào. Phía Đông làng Sùng Nghi có cầu 7 dặm được xây dựng bằng đá, là nơi Trung Triều Đỗ Dự đến Kinh Châu ra nhanh chóng. Phía Đông cầu 7 dặm cách khoảng 1 dặm cửa quách mở ra 3 đường, người thời bấy giờ gọi là 3 cửa. Người ly biệt phần nhiều đưa ra đường đó. Các hàng sĩ tử ở kinh đô đưa đi nghinh về thường tại nơi đó vậy.

18. CHÙA TRANG NGHIÊM

Chùa Trang Nghiêm tại phía Bắc Ngự đạo cách 1 dặm ngoài Đông dương môn, đó còn gọi là làng Đông An. Phía Bắc có làng Tô Trường. Trong làng ấy có vườn nhà của Phụ Mã Đô Úy Tư Mã Hoãng, Tế Châu Thứ Sử Phân Tuyên, U Châu Thứ Sử Lý Chân Nô, Dự Châu Thứ Sử Công Tôn Tương v.v… cả thảy ngôi.

19. CHÙA TẦN THÁI THƯỢNG QUÂN

Chùa Tần Thái Thượng Quân do Hồ Thái hậu tạo lập. Chùa nằm tại phía Bắc Ngự đạo cách Đông dương môn 2 dặm. Đó còn gọi là làng Huy Văn. Trong làng ấy có vườn nhà của Thái Bảo Thôi Quang, Thái Phó Lý Diêu Thật, Ký Châu Thứ Sử Lý Thiều, Bí Thứ Giám Trịnh Đạo Chiêu v.v… cả thảy ngôi, đều là nhà giàu nổi trội, cửa cao mở suốt. Triệu Dật nói rằng: “Làng Huy Văn tức là làng Mã Đạo ở thời nhà Tấn. Vườn nhà của Diên Thật là vườn nhà của Thục chúa Lưu Thuyền, phía Đông vườn nhà của Diên thật có vườn nhà của tu Hòa, tức là vườn nhà của Ngô Vương Tôn Hạo. Vườn nhà của Lý Thiều là vườn nhà của Tư Không Trương Hoa thời nhà Tấn”. Bấy giờ, Thái hậu hiệu là Sùng Huấn. Mẫu nghi thiên hạ gọi là cha, vì mẹ của Tần Thái Thượng Công, vì Tần Thái Thượng xuân và vì mẹ mà tu tạo phước đức, nhân đó mà đề tên hiệu như vậy. Bên trong có ngôi Phù đồ cao 5 tầng, mái chùa vút ẩn vào mây, cửa cao hướng về đường cái suốt thông, mọi Phật sự trang nghiêm tương đương như chùa Vĩnh Minh. Thất tụng kinh, nhà tạo thiền bao quanh từng lớp, hoa rừng cỏ thơm khắp đầy thềm tường, thường có các vị Đại Đức danh Tăng giảng hết thảy kinh, các hàng Samôn đến thọ học cũng có hàng ngôn vị. Thái Phó Lý Diên Thật là cậu ruột của vua Hiếu Trang Đế (Nguyên Tử Du 528-530 thời Bắc Ngụy). Trong năm Vĩnh An (528-530), dẹp trừ Thanh Châu Thứ Sử, lúc sắp đi vâng phụng giả từ, Hiếu Trang đế nói cùng Lý Diên Thật rằng: “Tục Hoài Chuyên (ôm gạch) ở đời gọi là khó trị. Cậu nên khéo dụng tâm để giúp việc triều đình giao phó”. Lý Diên Thật đáp rằng: “Thần tuổi đã xế bóng, khí hơn đồng như sương móc sớm mai, cõi người hơi xa, ngày tháng gần với đồi tùng. Từ lâu, thần đã từng xin được lui nghỉ. Bệ hạ dấy khởi vị dương nghỉ nhớ mên thương đến Lão thần, sai người hành tội ban đêm cắt rọc gấm dài muôn dặm. Kính cần vâng tuân minh sắc, không dám để rơi mất”. Bấy giờ, Hoàng Môn Thị Lang Dương Khoan ở bên cạnh vua, không hiểu nghĩa của Hoài Chuyên, nên hỏi cùng Xá Nhân Ôn Tử Thăng. Ôn Tử Thăng đáp rằng: “Nghe đến Tôn huynh là Bành Thành Vương làm Thanh châu thứ sử, hỏi Tân khách từng đến Thanh châu là dân chúng đất Tề có phong tục cạn mỏng, luận đàm cao hư chuyên đặt để nơi vang danh lợi. Các Thái thú mới đầu muốn vào cảnh vức ấy đều phải ôm gạch cúi đầu để tỏ ý tốt lành vậy. Kịp đến lúc thay xuồng trở về nhà đem gạch nói đánh, xoay đến sau lưng nhanh chuyển lại trong lòng bàn tay. Do đó tại kinh đô có lời dèm pha là: “Trong ngục không trói tù, trong nhà không Thanh châu”. Mướn khiến những kẻ ôm lòng xấu ác trong nhà không phải nghĩ nhớ buồn rầu”. Nghĩa của Hoài Chuyên phát xuất tại đó vậy”. Tuân Tế ở Dĩnh Xuyên là bậc Danh sĩ phong lưu, suy xét cao xa khéo hiểu biết riêng trội vượt ở đương thời. Thôi Thúc ở Thanh hà là bậc nhân đức xứng với Đại phu Tề sĩ, nói rằng: “Người xứ Tề bên ngoài ngắn ngủi về nhân nghĩa, bên trong ôm hoài bỉ lận (xấu xa keo kiệt), xem nhẹ đồng như lông cánh, lợi ngang bằng cán dao, ưa thích rong ruỗi với vẻ vang hư dối nương gá thành danh, tại chỗ oai thế, nghiêng vai chen vào, tìm cầu vinh lợi, điềm nhiên thầm nhuần khắp phương, mến mộ thế lực rất lặm thì gọi đó là Tề sĩ, là gã mến mộ oai thế”. Các Lang Lâm Truy Quan Đồ có mặt tại kinh ấp nghe Hoài Chuyên mến mộ oai thế đều cùng nhau hổ thẹn đó. Chỉ có một mình Thôi Hiếu Trung không lấy làm để ý. Hỏi về nguyên do, Hiếu Trung đáp rằng: “Phong tục của Doanh Khâu là nếp sống dư thừa của Thái công. Rừng nho dưới xã tắc là từ lễ nghĩa sinh ra. Nay tuy có lấn lướt, đủ làm khuôn mẫu trong thiên hạ. Người Tuân Tế chẳng phải là Hứa Quách, không biết Đông Gia. Tuy là lời nói tốt đẹp từ miệng phát ra chưa đáng là vinh nhục vậy.

20. CHÙA CHÁNH THỈ

Chùa Chánh Thỉ do trăm quan tạo lập, và được xây dựng trong niên hiệu Chánh Thỉ (50-508) thời Bắc Ngụy, nên đề hiệu như thế. Chùa ở làng Kính Nghĩa thuộc phía Tây Ngự đạo, ngoài Đông dương môn. Trong làng đó có Điển Ngu tào mái nhà sạch sẽ đẹp xinh sánh tợ như Tống lâm, trước phòng chúng Tăng, cây rừng cao đối diện cửa sổ. Tùng xanh vấn vít cây sinh liền cành giao ánh, có lắm nhiều cây chỉ, mà không thọ thực giữa trưa. Có một bia đá, sau lưng đề Thị Trung Thôi Quang cúng thí 0 vạn tiền, Trần Lưu Hầu Lý Sùng cúng thí 20 vạn tiền, ngoài ra trăm quan mỗi mỗi đều có ít nhiều khác nhau nhưng không dưới 5.000 tiền trở xuống. Do người đời sau khắc ghi vậy. Phía Nam làng Kính Nghĩa có làng Chiêu Đức. Trong làng đó có vườn nhà của Thượng Thư Bộc Xạ Du Triệu, Ngự Sử Úy Lý Bưu, Binh Bộ Thượng Thư Thôi Lâm, U Châu Thứ Sử Thường Cảnh, Tư Nông Trương Luân v.v… cả thảy 5 ngôi, Lý Bưu, Thường Cảnh đều xuất phát từ Nho sinh ở nhà cần kiệm thuần tố, chỉ có Trương Luân là giàu sang xa xỉ phòng nhà sáng rỡ, mang mặc khác thường, xe ngựa vào ra vượt hơn cả Bang quân, vẻ đẹp của vườn rừng núi ao, các vương hầu chẳng sánh kịp. Trương Luân tạo núi Cảnh Dương có như tự nhiên, trong đó đảnh liền hang lớp trót vót cùng thông, khe sâu hang suốt sâu xa tiếp liền. Rừng cao cây lớn đủ khiến nhật nguyệt che khuyết, dây treo lưới rũ hay khiến gió khơi vào ra, gập ghềnh đường đá tợ bít mà thông, cao vợi đường khe quấn quanh lại thẳng. Do đó, các kẻ sĩ buông tình hứng chí vui cảnh núi đồng rảo bước đến mà quên về. Có Khương Chất; người xứ Thiên Thủy, Chí Tánh rỗng rang áo gai khăn vải có tiết tháo vượt dân thường, thấy mà riêng mến thích đó như chẳng thể thôi, bèn trước thuật bài phú “Đình sơn” lưu truyền nơi đời, với văn từ rằng:

“Nay riêng quý trọng, mến trọng cái của người dân xưa trước, như phác như thuần nhưng mà thể của thuần phác cùng với tạo hóa mà làm bến bờ khách tại trên ao. Lại ở dưới trụ, nằm vô vi để tỏ rõ tâm, gá tự nhiên để đồ họa chí, liền dùng núi sông làm giàu, không lấy chương phủ làm quý, mặc tình chìm nổi như nước nhạc không mùi vị. Nay Tư nông họ Trương thật mến trọng người ấy. Lượng lớn rực sáng vượt ngoài vật, yêu kiều suốt thấu nguồn phân. Tùng xanh chưa hơn vẻ sạch ấy, ngọc trắng chẳng sánh điểm quý đó. Tâm gá không mà nương náu hữu tình, vào cũ vì như mới. Đã chẳng chuyên lưu đãng, lại không riêng hoa chuộng. Bơi ở giữa khoảng động tĩnh chẳng vì sông núi làm quên. Đình nổi nửa gò nửa hang, nghe vì mắt thấu tâm tưởng, tới chẳng là vinh thân lui không là ẩn phóng. Ấy mới là khoét đá thông suối trôi đảnh, trước hang vẹo uốn cùng như mây cao, cao cùng uốn cong nói mái tiếp liền, sương móc cao của dưới Thiên Tân, dệt khói xa của thương hải, lưới bày tướng trạng mỗi một như xưa, thế dáng đổ xé tợ đã ngàn năm. Nếu lên tột đỉnh sườn treo ngát ngơ sa đà, nước cuộn quanh từ từ như sóng, chơm chởm núi đá cao thấp. Lại cao phần nhiều 5 tầm trăm bạt, mười bộ ngàn qua, thì biết núi vu chẳng kịp, chưa xét Bồng lai như thế nào. Trong đó, hoa khói cỏ sương hoặc nghiêng hoặc ngã. Sương cành gió nhánh nửa ngang nửa rũ, lá ngọc cành vàng, tan đầy thềm tường. Dệt xéo loạn mắt, thơm ngát xé mũi. Đã cùng tốt tươi ngang bằng ở Dương Xuân, lại cùng trong sạch đền với Bạch tuyết. Hoặc có người nói đó là tốt của thần minh, tinh của âm dương. Đất trời chưa tỏ rõ, sống nơi đó khác người. Sao biết trong đó, loài cánh phân mỏng, tạp sắc xanh vàng, đầu xanh má tía, biếc đẹp liền thơm, ly trắng sinh nơi khác luyện, chân đỏ phát xuất từ tha hương, đều từ xa cùng lại đến đó, gá cây nước để liệng quanh, chẳng nghĩ nhớ mùa xuân nơi Sa Hán, bèn quên bặt mùa thu ở chốn Cao Dương. Chẳng phải cảm đến của người đó, dò mê tối của khỉ chim, đâu phải chỗ chuyên của hàng hạ tục, vào có khác lạ của thần quái. Người hay đến ấy hẳn là thơ, kẻ dám sang không ai chẳng phú. Hoặc đến nơi lắm gió, hoặc vào chốn nhiều mây. Khí lãnh cùng với mai sầm, tùy chỗ ngộ của xuân, xa là chỗ thần tiên tưởng thưởng, gần là chỗ hàng Triều sĩ cùng hay. Cầu giải thoát ở đeo mang, dự tham thứ nơi núi rũ. Tử anh cá lội nơi ngọc chất, vương kiều buộc Hộc ở cánh tùng, phương trượng chẳng đủ để khéo vịnh ca trạng thái xứ này lắm kỳ lạ, từ Tông nghe thế mà đồng phách, Thúc dạ nghe vậy mà kinh hồn. Hận chẳng thể khóa đất một lần ra say cửa núi này riêng có dung nghi Vương tôn công tử ẩn náu, nghĩ núi nhớ sông bảo xa giá cùng theo, gặp núi mến khúc, gặp đá leo nương. Sân làm ruộng của Nhân trí nên hay gieo giống đá núi này. Sum la chữ cây cỏ, trưởng dục chừ gió mây, tùng lẽ đã hay liền già, nửa đá cũng có thể để tuổi. Nếu chẳng nằm ngồi chừ ở bên cạnh đó, xuân thu chừ ấy leo đi, cốt trắng chữ nhọc tự rả mục, tấc lòng chữ nghĩ nhớ nơi nao?”

21. CHÙA BÌNH ĐẲNG

Chùa Bình Đẳng là do Quảng Bình Võ Mục Vương Hoài xả thí vườn nhà mà tạo dựng, chùa ở tại phía Bắc Ngự đạo, cách 2 dặm ngoài Thanh dương môn. Đó tức là làng Hiếu kính vậy. Nhà mái rộng đẹp, cây rừng phủ che rậm rạp, Bình đài phủ kín đường đi, riêng nổi bậc ở đương thời. Ngoài cửa chùa có một tôn tượng bằng vàng cao 2 trượng 8 thước, tướng hảo đoan nghiêm thường có thần nghiệm, mọi sự tốt xấu trong nước nhà, trước hiện rõ ràng tốt lành khác lạ. Trong tháng 12 năm Hiếu Xương thứ 3 (527) thời Bắc Ngụy, khuôn mặt tôn tượng ấy tỏ vẻ thuyết buồn, hai mắt rơi lệ, khắp hình thể đều thấm ướt, người thời bấy giờ cho là Phật đổ mồ hôi. Các hàng sĩ nữ ở kinh đô bỏ trống chợ làng song đó trông xem. Có vị Tỳ-kheo dùng bông tơ mới sạch lau chậm nước mắt ấy, chỉ chốc lát, bông tơ thấm ướt hết cả, lại phải đổi thay bông tơ khác, cũng chỉ chốc lạt lại thầm ướt, như vậy suốt 3 ngày mới thôi. Đến tháng năm sau, Nhĩ Chu Vinh vào thành Lạc Dương giết chết trăm quan, người chết đầy đường. Đến tháng 03 năm Vĩnh An thứ 2 (52) thời Bắc Ngụy, tôn tượng ấy lại đổ mồ hôi, các hàng sĩ thứ lại sang trông xem. Bắc Hải Vương (Nguyên Hạo) vào Lạc Dương, vua Hiều Trang Đế (Nguyên Tử du) đi tuần phương Bắc, qua tháng 7 thì Bắc Hải Vương (Nguyên Hạo) đại bại, con em mang dẫn theo từ Giang Chuẩn cả thảy 5. 000 người đều bị bắt giam tù, không một ai được trở về. Đến tháng 07 năm Vĩnh An thứ 3 (530) thời Bắc Ngụy, tôn tượng ấy lại buồn khóc như lần đầu tiên. Mỗi lần trải qua đều có thần nghiệm, khiến lo sợ đêm ngày, nên cấm mọi người không cho đến trông xem, qua tháng 12, Nhĩ Chu Triệu vào thành Lạc Dương bắt vua Hiếu Trang Đế ở Tấn Dương. Tại kinh đô cung điện rỗng hoang suốt trăm ngày không có chủ. Chỉ có Thượng Thư Lệnh Tư Châu Mục Lạc Bình Vương Nhĩ Chu Thế Long trấn giữ tại kinh đô, khách buôn trú ngụ cùng bốn phía, giặc trộm chẳng làm gì. Đến năm Kiến Minh thứ 02 (531) thời Bắc Ngụy, Trường quảng Vương từ Tấn Dương đến kinh đô. Vừa đến ngoài thành quách, Thế Long cho rằng Trường Quảng vốn chi phái nhạc xa, chánh hành không rõ ràng, bèn bức ép trao truyền cho Quảng Lăng Vương Cung. Quảng Lăng Vương Cung là từ khi Hiếu Trang Đế (Nguyên Tử Du) theo cha anh, trong khoảng niên hiệu Chánh Quang (520-525) thời Bắc Ngụy, làm Hoàng Môn Thị Lang, thấy Nguyên Nghĩa cầm nắm quyền chánh, phần nhiều quy hướng về gần chiêu tập, bèn giả vờ câm không nói, không dự can việc đời. Đến trong nhiếp hóa Vĩnh An (528-530) trốn ở núi Thượng Lạc, Trung Châu Thứ Sử Tuyền Xí bắt giữ mà đưa về. vua Trang Đế nghi ngờ Vương Cung, nên dối bày trong đêm sai bảo người đến trộm lấy áo quần mọi vật, lại muốn rút dao kiếm muốn giết Vương Cung, Vương Cung bèn há miệng đưa tay chỉ vào lưỡi, trọn chẳng nói năng, Hiếu Trang Đế mới tin Vương Cung thật là kẻ trung thành, bèn phóng thả khiến trở về Để thất. Quảng Lăng Vương Cung thường ở tại chùa Long Hoa. Đến lúc Thế Long v.v… phế bỏ Trường Quảng mà lập nên. Thiền Văn nói rằng: “Hoàng đế thở than với Quảng Lăng Vương Cung từ khi triều đình Nguyên Ngụy nhà ta có được thiên hạ, đã trải qua nhiều Thánh mở giúp, lắm nền móng xây lớn nghiệp, lâu dần mới có vạn ban, mở rộng cùng bốn biển, nên Đạo tràn đến trăm vương, đức dần không ngoài, mà từ khi vua Hiều Minh Đế (Nguyên Hủ) băng hà. Người thần khuyết thiếu chúa. Trụ Quốc Đại Tướng Quân Đại thừa Tướng Thái Nguyên Vương Nhĩ Chu Vinh thật được phong đất ở Thiểm Tây, trách nhiệm chỉ là ngoại tướng, mới để tâm đến Vương thất rất lo sợ sụp đổ mất, nên mới suy lập trường Lạc Dương Nguyên Tử Du (Hiếu Trang Vương) để tiếp nối sự nghiệp, ngõ hầu vận mạng cửu đảnh ngày một mở lớn, vận tốt của 700 chỉ trọn. Nhưng đàn bầy bay chưa tạm bình an, mà dòng xé rách ngang tới kịp, đều là lang sói trông nhìn chim cú trương bày. Núi cao lập dựng nên nhà, chỉ một mình Thừa tướng phất cờ chỉ huy trong nước bình an, mà Nguyên Tử Du chẳng đoái hoài tông xã, thù oán tưởng thưởng đức, nhóm tập hạng khinh thường, tả hữu mặc tình mọi người, bèn khiến trái nghịch rất hại tim, đau nhói bằng cắn kiếm. Đâu chỉ bảng vàng niêm báo oán, chim lớn cảm đức mà thôi. Do đó, sự hoài mong của thiên hạ bỗng chốc đã đổi dời. Trộm nghĩ cung vàng không thể dùng đồ vật khoáng thần, đâu dung không chủ. Quyền theo mọi người bàn nghị, nên tạm ngự trị triệu dân. Nay sáu quân từ phương Nam xa đã lần lượt đến Hà bồ trông nhìn về Đế kinh đỏ bừng dấy thẹn, tự chỉ mỏng dạc, gốc cành xa xăm, hà nên ngưỡng mong, Thiên tình rũ trái, dân mong chỉ vua, Đức bày ngoài sinh dân, tiếng vang cao ngàn xưa. Xưa trước vì vận thuộc đầy lo, thời lắm gặp nạn. Cuộn lòng đã lâu dài, bó đấy có mấy năm. Nay trời quyến minh đức, dân nghĩ mong áo chúa, lịch số đáng tụ tập ca tụng vừa đến, mới từ từ phát ra then chất, giúp mong đợi đây, tiện kính vâng thao ấn về ở nhà riêng. vua là kính theo, thành nghiệp đáng cầm nắm trong cung. Tuy tốt lành chớ ngơi nghỉ, mỗi ngày cẩn trọng mỗi ngày, kính đó thay, kính đó thay!” Quảng Lăng Vương cùng khước nhường rằng: “Mạng trời rất nặng trọng. Lịch số chẳng nhẹ khinh, từ vì chẳng phải đức hợp với Tam Tài, công ngang bằng bốn biển, không vì vào tuyển chọn. Đế Đồ đáng giao trao Sứ tích, thần đã là mờ tối, nhận biết chẳng trước xa. Cảnh mạng tuy ban đến nhưng chẳng dám ngửa mong tiếp thừa, xin thâu lại thành chỉ để hợp lòng ngu thần!”. Lại nói: “vua đã là Đức ứng với Đồ lục, thêm thuộc thừa trở về. Tiện có thể xứng hợp nắm cầm trong đó. Vào tỏa sáng sườn núi lớn, chẳng nhọc máy động lẫn trốn. Cuối cùng hẳn sáng thoánh nhân thần”. Quảng Lăng Vương Cung khước nhường đến 3 lần. Sau đó bèn lên ngôi Hoàng đế (tức Tiết Mẫn Đế – Nguyên Cung) đổi nhiếp hóa là Phổ Thái (531-531) thời Bắc Ngụy. Hoàng Môn Thị Lang Hình Từ Tài làm xá văn, thuật lại tương trạng của Hiếu Trang Đế giết oan Thái Nguyên Vương Nhĩ Chu Vinh. Quảng Lăng Vương (Nguyên Cung) nói rằng: “Vĩnh An ( Hiếu Trang Vương – Nguyên Tử Du) là tay kéo mạnh mẽ, thần chẳng phải là thất đức. Ngay vì trời chưa dẹp loạn, gặp phải họa của Thánh tế. Nghĩa là tả hữu mang chiếu lại, trẫm tự làm đó, thẳng lời nói cùng môn hạ. Trẫm là kẻ kém đức, m vận thuộc vui thích đẩy đưa, nghĩ cùng ức Triệu đồng vui mừng lớn này, ban khao mù mờ, mỗi một đều y cứ theo thể thức thường”. Quảng Lăng Vương Nguyên Cung ngậm miệng suốt đã 8 năm, đến đó mới mở lời, các hàng sĩ thứ trong nước nhà đều xưng gọi là Thánh quân. Từ đó, suy phong Trường Quảng Vương làm Đông Hải Vương (tức là Nguyên diệp 530-531). Thế Long lại thêm Nghi Đồng Tam Ty Thượng Thư Lệnh Lạc Bình Vương. Các quan khác vẫn như cũ. Truy tặng Thái Nguyên Vương ( Nhĩ Chu Vinh) Tướng Quốc Tấn Vương, thêm cửu tích, lập miếu thờ tại đỉnh núi Mang. Ở đầu phía Nam xưa trước có miếu của Chu Công. Thế Long muốn đem công khó của Thái Nguyên Vương sánh với Chu Công nên tạo lập miếu ấy, khi miếu vừa hoàn thành gặp phải nạn lửa thiêu đốt. Có một cột trụ cháy chưa hết. Sau đó 3 ngày sấm mưa sét nổ chấn động đánh phân đứt làm mấy đoạn. Đá dưới cột trụ và ngoái trên mái miếu đều vỡ vụn rơi đổ xuống núi. Thế Long lại bảo trăm Quan cùng bàn luận về Thái Nguyên Vương để phối cùng tế. Tư Trực Lưu Quý Minh bàn nghị không nên hợp tế. Thế Long hỏi về nguyên do. Lưu Quý Minh tâu rằng: “Nếu phối với Thế tông thì đối với Tuyên Võ Đế (Nguyên khác 500-516) không công khó gì, nếu phối với Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 516-528) thì thân gồm như hại đến mẹ. Nếu phối với Hiếu Trang Đế (Nguyên Tử Du 528-530) thì là kẻ thần bất trung. Do đó mà bị Hiếu Trang Đế giết hại. Lấy đó để luận bàn thì Thái Nguyên Vương (Nhĩ Chu Vinh) không hợp phối vào đâu”. Thế Long tức giận bảo: “Vậy khanh cũng đáng phải chết”. Lưu Quý Minh nói: “Hạ thần đã là kẻ bề tôi được bàn nghị nên y theo lễ mà nói, nếu chẳng hợp với Thánh tâm thì đánh giết tùy mạng”. Mọi người cùng dự bàn nghị đều ngợi khen Lưu Quý Minh chẳng tránh né áp bức mạnh mẽ, nên không ai chẳng thán phục. Thế Long đã có lời tức giận, Lưu Quý Minh trọn thoát khỏi hạn nạn.

Mới đầu, Thế Long từ phương Bắc trở lại, Hiếu Trang Đế sai An Đông Tướng Quân Sứ Ngũ Long, Bình Bắc Tướng Quân Dương Văn Nghĩa, mỗi người dẫn đầu 3. 000 binh lính đến trấn giữ đỉnh núi Thái Hành, Thị Trung Nguyên Tử Cung trấn tại Hà Nội. Đến lúc Nhĩ Chu Triệu từ mã đầu theo hướng Nam mà lại, Ngũ Long, Dương Văn Nghĩa v.v… dẫn binh lính ra đầu hàng trước. Nguyên Tử Cung thầy Ngũ Long, Dương Văn Nghĩa đầu hàng cũng trông theo thời cuộc mà ngầm tan. Nhĩ Chu Triệu nương thế thắng đuổi hướng Bắc mà vào kinh đô, binh lính đến nơi cung quyết, mất dòng Vương thất. Đến khi luận bàn về công thì Ngũ Long, Dương Văn Nghĩa mỗi người được phong tặng ngàn hộ. Quảng Lăng Vương (Nguyên Cung) bảo: “Ngũ Long, Dương Văn Nghĩa đối với vua thì có được tưởng thưởng, nhưng đối với nước nhà thì là kẻ chẳng công lao gì”. Nên trọn không chấp thuận. Khi ấy mọi người tôn xưng vua (Nguyên Cung – Tiết Mẫn Đế) là cương trực. Có Bành Thành Vương Nhĩ Chu Trọng là anh bà con xa với Thế Long trấn tại Cốt Đài, dâng biểu xin dùng xuống dưới. Đô đốc viện làm Tây Duyên châu thứ sử trước dùng sau dâng biểu. Quảng Lăng Vương đáp rằng: “Đã có thể gần phụ giúp, sao nhọc xa nghe?” Thế Long hầu bên cạnh vua, Tiết Mẫn Đế (Nguyên Cung) từng nói: “Thái Nguyên Vương (Nhĩ Chu Vinh) có công tham ngôi vua, lấy làm sức lực của mình. Tội ấy cũng đáng chết”. Thế Long v.v… kinh ngạc, từ đó trở về sau không dám vào chầu. Bèn chuyên nắm Quốc quyền, hung ác ngấm dần rất lắm, ngồi ở Phù Đài tỉnh huyện, nhà cửa cả thảy muôn máy, mọi sự không kể lớn nhỏ trước tiên hẳn đến nơi để thất của Thế Long sau đó mới lưu hành Thiên tử (Tiết Mẫn Đế – Nguyên Cung) v.v… khoanh tay xoay mặt phía Nam, chẳng hề can dự.

Đến năm Vĩnh Hy thứ nhất (532) thời Bắc Ngụy Bình Dương Vương vào thâu gồm Đại nghiệp, mới đầu tạo ngôi tháp cao 05 tầng, Bình Dương Vương, Võ Mục Vương hiếm ít con, ban chiếu bảo trung thư thị lang Ngụy Thâu v.v… làm văn bia của chùa. Đến ngày mồng 05 tháng 02 năm Vĩnh Hy thứ 02 (533) thời Bắc Ngụy, mọi việc cây gỗ, đất cát đã hoàn tất, vua (Hiến Võ Đế -nguyên Tu 531-53) dẫn đầu trăm quan liêu thiết hội cúng dường một vạn vị Tăng. Ngày ấy có tượng một con voi Đá ngoài cửa chùa vô cớ mà tự chuyển động cúi đầu ngẫn đầu trọn ngày mới thôi nghĩ, vua đích thân ra lễ bái, lấy làm quái lạ. Trung thư xá ngân Lư Cảng Tuyên nói rằng: “Đá đứng thì xã tắc dời từ xưa đã có thế. Bệ Hạ sao phải lấy làm quái lạ”. vua mới trở về lại cung. Đến trong tháng 07, vua vì Trung Thư Hộc tư thông thúc bức, vội chạy đến Trường An. Qua tháng 10 thì kinh đô chuyển dời đến đất nghiệp vậy.

22. CHÙA CẢNH NINH

Chùa Cảnh Ninh do Thái Bảo Tư Đồ Công Dương Thông tạo lập. Chùa nằm tại phía Bắc Ngự đạo cách 3 dặm ngoài Thanh dương môn, chỗ gọi là làng Cảnh Ninh. Khi Cao Tổ (Hiếu Văn Đế – Thác Bạt Hoành 71-500) dời đô đến Lạc Ấp, Dương Thông mới bắt đầu đến ở làng đó, bèn phân chia vườn nhà mà tạo dựng chùa đó, nhân đó mà đề hiệu như vậy. Dựng xây nghiêm sức rất đẹp, trụ dệt mành châu. Em của Dương thông là Dương Thận làm ký châu thứ sử, em của Dương Thận là Dương Tân tư không đều lập tánh khoan nhã quý trọng Đạo nghĩa xem thường của cải. Trong gia đình đời cùng chung sống một nhà. Một nhà Tam tùng, các hàng triều quý nghĩa ở chưa từng có thế. Đến trong niên hiệu Phổ thái (531-531) thời Bắc Ngụy, vì Nhĩ Chu Thế Long giết hại sao đó xả thí vườn nhà tạo dựng chùa Kiến Trung. Ngoài Thanh dương môn cách 3 dặm về phía Bắc Ngự đạo có làng Hiếu Nghĩa, góc Tây Bắc làng ấy có phần mộ của Tô Tần, bên cạnh phần mộ có chùa Bảo Minh, chúng Tăng chùa đó thường thấy Tô Tần vào ra nơi phần mộ đó, xe ngự vũ nghi tùy tùng như Thừa tướng ngày nay vậy. Phía Đông làng Hiếu Nghĩa tức là chợ nhỏ thành Lạc Dương, phía Bắc có vườn nhà của Xa Kỵ Tướng Quân Trương Cảnh Nhân, Trương Cảnh Nhân vốn người Sơn Âm; Cối Kê, khoảng đầu niên hiệu Chánh Quang (520) thời Bắc Ngụy, theo Tiêu Bảo Di mà quy hướng phong hóa, phục bái Vũ Lâm Giám được ban cấp vườn nhà ở làng Quy Chánh tại chùa Nam Thành, trong dân gian gọi đó là phường người Ngô. Mọi người từ phương Nam đến quy phục phong hóa phần nhiều đều ở trong đó. Gần thành Lạc Dương có hai dòng sông, mặc tình tập tục đó, trong làng Ngự có hơn ngàn gia đình tự lập chợ hạng, chợ ấy bán các thức ăn phần nhiều là loại thủy tộc. Người thời bấy giờ gọi đó là chợ Ngư Miết. Trương Cảnh Nhân ở tại đó cảm thấy xấu hổ bèn dời đến ở làng Hiếu Nghĩa. Bấy giờ triều đình mới muốn dời gom mọi người hoang phục, tiếp đãi người Ngô rất nồng hậu. Mọi người vèn kéo áo quần vượt đến sông đều sống không vị trí thứ lớp, Trương Cảnh Nhân chẳng nhọc ngựa đổ mồ hôi, là Quan Cao Thông hiển. Năm Vĩnh An thứ 2 (52) thời Bắc Ngụy, Tiêu Diễn sai phái Chủ Thư Trần Khánh Chi đưa Bắc Hải vào Lạc Dương để soán tiếm ngôi vua. Trần Khánh Chi làm thị trung, ngày còn ở tại phía Nam thành Trương Cảnh Nhân có sự quen biết với Trần Khánh Chi nên bèn thiết bày tiệc rượu để mời chung vui, Trần Khánh Chi đến vườn nhà của Trương Cảnh Nhân, Tư Nông Khanh Tiêu Bưu, Thượng Thư Hữu Thừa Trương Tung đều cùng có dự đại tiệc. Tiêu Bưu cũng là người ở phía Nam thành. Chỉ có Trung Đại Phu Dương Nguyên Thận, Cấp Sự Trung Đại Phu Vương Tuần là hàng sĩ tộc ở Trung Nguyên. Trần Khánh Chi nhân ngà say nói cùng Tiêu Bưu, Trương Trung v.v… rằng: “Triều Đại Nguyên Ngụy rất là hưng thạnh nhưng còn gọi là Ngũ Hồ, còn tương thừa chánh lóc thì đang tại giang tả. Ngọc ấn của Tần Hoàng hiện tại ở Lương Triều” Dương Nguyên Thận nghiêm sắc mặt nói: “Giang tả là nơi gá nghỉ lánh ở một góc, đất xứ đó lắm ẩm thấp sâu chật chen ở dưỡng nuôi trùng kiến, đất xứ biên cương dịch bệnh, ếch ruồi cùng sống chung hang người chim đồng đàn, lũ tóc ngắn không dung mạo mềm mỏng, Dân Văn Thân bẩm chất xấu xí nổi trôi nơi ba sông bơi lội trong năm hồ, lễ nhạc không đượm nhuần, hiến chương chẳng cải đổi. Tuy là mọi sự tạp tội dư thừa của Hán Tần lấy làm Hoa âm, lại thuộc loại mân sở khó nói, không thể cả biến. Tuy có lập vua tôi nhưng trên thì khinh mạn dưới thì hung bại. Vì vậy mà Lưu Thiệu giết cha ở trước Hưu Lang thông dâm với mẹ ở sau, trái nhịch nhân luân, chẳng khác cầm thú. Thêm về Sơn Âm cầu Rể mua dâm cùng bạn chồng, đối với gia đình chẳng đoái hoài mọi sự cười chê. Ông tắm gội Di phong ấy chưa đượm nhuần lễ hóa, chỗ gọi là dân chúng của Dương Địch, không biết ung nhọt ấy là xấu xa. Triều đại Nguyên Ngụy nhà ta Ứng phù thọ đồ, định Đảnh ở Tung Lạc, lấy 5 núi làm trấn, lấy biển làm nhà, phép tắc dời phong đổi tục, cùng đồng dấu vết như Ngũ Đế, Lễ nhạc hiến chương hưng thạnh, vượt trội trăm vương mà riêng cao. Đâu như các ông là bọn cá rùa, mến mộ nghĩa đến chầu, uống nước ao hồ của ta, ăn gặm thóc gạo của ta, không gì chẳng hao tốn”. Nói đến đây, thì Trần Khánh Chi v.v… thấy Dương Nguyên Thận lời trong tiếng nhã tuông phát dọc ngang, bèn ngậm miệng đổ mồ hôi, chấp tay không nói. Sau đó vài ngày, Trần Khánh Chi cảm mắc bệnh trên tim rất đau nhói, tìm hỏi người để giải trị. Dương Nguyên Thận tự nói rằng: “Ta có thể giải trừ bệnh của Trần Khánh Chi”. Trần Khánh Chi bèn phải nhờ đến Dương Nguyên Thận. Dương Nguyên Thận liền ngậm nước phun. Trần Khánh Chi nói: “Quỷ của người Ngô sống ở Kiến Khương, nhỏ thì làm mũ khăm bịt đầu, ngắn thì làm xiêm y. Tự kêu là A-nông. Nói thì A-bàng, lấy rau cỏ lúa đắng làm cơm ăn, lấy noản chè uống làm nước tương, mút nếm rau đắng lang, mút hút cua vàng, tay nắm đậu khấu, miệng nhấm tân lang. Chợ đến xứ Trung Hoa, nghĩ nhớ về quê cũ. Gấp vẫy tay đi nhanh trở về đến Sơn dương như quỷ cửa lạnh ấy, mới đầu cần lưới cá lọc rùa ở sông hồ, gặm nhấm của ấu ngó sen, nhặt lượm đầu gà ếch lang thịt trai lấy làm ngon lành, mặc áo vải mang giày cỏ cưỡi ngược trâu nước khắp nguyên tương giang hán, vẫy mái chèo ngau du, theo gợn tìm sóng miệng ngáp nổi chìm, mặc áo gai trắng đánh sóng ngâm ca, gấp tay liền đi”. Về đến Dương Châu, Trần Khánh Chi nắm gối nói rằng: “Dương Quân (Dương Nguyên Thận) thấy thật nhục lắm vậy”. Từ đó về sau con em người Ngô trọn không dám mở miệng nói. Khi Bắc Hải Vương tìm ngầm phục giết hại, Trần Khánh Chi lại bỏ chạy, Tiêu Diễn dùng làm Tư Châu Thứ Sử, khâm trọng người đất Bắc đặc dị khác thường. Chu Di lấy làm lạ lại hỏi Trần Khánh Chi rằng: “Từ thời nhà Tấn nhà Tống trở lại, gọi xứ Lạc Dương là vùng đất hoang. Trong đây nói Trường Giang trở về hướng Bắc đến tận xứ Di Địch. Hôm trước đến Lạc Dương mới biết áo mũ của hàng sĩ tộc đều là nghi lễ ở Trung Nguyên. Người vật giàu đông cao lớn, chỗ mắt không biết, miệng chẳng thể nói bày. Chỗ gọi là Đế kinh phép tắc nghiêm trọng hơn cả bốn phương. Người có lên núi Thái mới thấy gò đống là thấp, người có ra biển cả mới tương nguyên là nhỏ. Đối với người đất Bắc sao có thể không kính trọng mến quý họ?” nhân đó mà vũ nghi trang phục thảy đều theo khuôn phép của Nguyên Ngụy. Các hàng sĩ thứ ở Giang Biểu đua nhau cùng bắt chước áo bào. . . . đai.

Dương Nguyên Thận người xứ Hoằng nông là cháu 6 đời của Ký Châu thứ sử kiệu ở thời nhà Tấn. Tằng Tổ (ông cố) tên là Thái theo Tống Võ (?) vào Quang Trung làm Thượng lạc thái thú… năm, trở lại triều đình Nguyên Ngụy, vua Minh Đế (?) ban tước Lâm Tấn Hầu, Quảng Võ Quận, Trần Quận Thái Thú, tặng làm kinh châu thứ sử, thụy hiệu là Liệt Hầu. Tổ phụ (ông nội) tên là Phủ thông rành kinh sử, làm Trung Bác sĩ. Thân phụ tên là Từ, từ khi có được hang đồi chẳng chuyên kính thờ Vương hầu. Có người chú ruột tên Hứa làm Hà Nam lệnh, Thục Quận Thái Thú. Đời đời lấy sự học hành mà vẻ vang tiếng tăm vang cùng khắp làng huyện. Dương Nguyên Thận tánh tình mến chuộng cao xa. Thuở nhỏ rất có tiết tháo trội cao, nhân từ mặc tình tự buông, chẳng vì thời thiết buộc ràng, thích núi mến sông ưa rảo bước rừng chầm, biết rộng văn sâu, lời trong nhập thần, nhanh nhẹn đối đáp chẳng ai xứng bằng, Đọc Lão Trang, khéo nói Huyền lý, tánh lại ưa thích uống rượu, uống cả thạch mà thần chẳng loạn, thường bùi ngùi tự than không được sinh sống đồng thời với Nguyễn Tịch, chẳng ước muốn làm sĩ quan, tuy làm Trung tán mà luôn lấy cớ bệnh để khước từ trở về nhàn tĩnh, chưa từng kính mến các bậc sang quý, cũng chẳng chia buồn mừng vui với người thân gần, chỉ biết đến các người quý thì kết giao làm bạn, nên người thời bấy giờ chẳng mấy ai hay biết. Hoặc có người mến kính cao nghĩa dó, ném chích nơi cửa nhưng Dương Nguyên Thận vẫn cáo bệnh mà nằm. Lại thêm, Dương Nguyên Thận rất có ý nghĩ sâu dài, khéo giỏi về giải mộng. Trong khoảng niên hiệu Hiếu Xương (525-528) thời Bắc Ngụy, Quảng Lăng Vương Nguyên Uyên mới đầu dẹp trừ nghi đồng Tam ty. Dẫn binh lính cả 10 vạn đánh diệt các Vinh, ban đêm mộng thấy mình mặc áo lễ tựa cây hòe mà đứng cho đó là điềm ứng tốt lành, đem hỏi cùng Dương Nguyên Thận. Dương Nguyên Thận bảo “Tam Công có được tốt lành vậy”. Nguyên Uyên rất lấy làm vui mừng. Sau khi trở về Dương Nguyên Thận nói với mọi người rằng: “Quảng Lăng Nguyên Uyên ắt chết vậy. Chữ hòe là cây đứng tựa bên cạnh quỷ. Sau khi chết sẽ được Tam Công”. Quả nhiên Quảng Lăng Nguyên Uyên bị Cát Vinh giết chết, và được truy phong là Tư không Công. Trọn đúng như lời Dương Nguyên Thận nói. Khoảng đầu niên hiệu Kiến Nghĩa (528) thời Bắc Ngụy, . . . Dương Thành Thái Thú Tiết Lệnh Bá nghe Thái Nguyên Vướng (Nhĩ Chu Vinh) giết trăm quan lập vua Trang Đế (Hiếu Trang Đế – Nguyên Tữ Du 528-530), bèn bỏ quận theo hướng Đông mà chạy, mộng thấy bắn được chim nhạn, đem hỏi Dương Nguyên Thận. Dương Nguyên Thận nói: “Ông cầm dê, Đại phu cầm nhạn, ông sẽ được chức Đại phu”. Bỗng nhiên Tiết Lệnh Bá diệt trừ được bèn làm Gián nghị đại phu. Kinh Triệu Hứa Siêu mộng thấy trộm dê vào ngục, đem hỏi Dương Nguyên Thận, Dương Nguyên Thận nói: “Ông sẽ được Dương thành lệnh. Về sau, Hứa Siêu có công, được phong Dương thành lệnh, Dương Nguyên Thận giải mộng nêu nghĩa muôn đường, theo ý hợp tình đều có thần nghiệm. Tuy lệnh cùng với Hầu, nhỏ trái xét lệnh, nay trong trăm dặm tức là chư Hầu xưa trước vậy. Lấy đó mà luận bàn cũng là huyền diệu hiển trước. Người thời bấy giờ ví Dương Nguyên Thận tợ như Chu Tuyên kịp đến lúc Nhĩ Chu Triệu vào thành Lạc Dương, Dương Nguyên Thận liền bỏ quan vị cùng với Hoa Âm ẩn sĩ Vương Đằng, vân du đến núi Thượng lạc, làng Hiếu Nghĩa. Về phía Đông có chợ, phía Bắc chợ là làng Thực Hóa. Trong làng đó có Lưu Hồ người dân Thái Đường, chuyên lấy việc giết hại làm nghề sống. Anh em có cả thảy người. Trong khoảng niên hiệu Vĩnh An (528-530) thời Bắc Ngụy, Lưu Hồ giết heo, bỗng nhiên heo kêu xin tha mạng, tiếng vang khắp bốn phía, mọi người ở láng giềng cho là anh em của Lưu Hồ đấu tranh cải lộn, bèn lại trông xem mới thấy là heo vậy. Lưu Hồ liền xả thí vườn nhà tạo dựng chùa Quy giác, mọi người trong nhà đều vào Đạo. Đến năm Phổ Thái thứ nhất (531) thời Bắc Ngụy, ở chùa đó có tôn tượng bằng vàng bỗng nhiên sinh mọc lông mi và tóc đều đầy đủ, Thượng Thư Tả Thừa Ngụy Quý Cảnh nói với mọi người rằng: “Ở thời Trương Thiên tích có xảy ra việc ấy và nước đó bèn diệt mất, nay đây cũng là điềm ứng chẳng lành vậy”. Qua năm sau quả nhiên, Quảng Lăng Vương (Tiết Mẫn Đế – Nguyên Cung) bị phế truất giết chết vậy.

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA ĐÔNG THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 2 (Hết)

 

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA NAM THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 3

23. CHÙA CẢNH MINH

Chùa Cảnh Minh do Tuyên Võ Hoàng đế (Nguyên Khác 500-516) tạo dựng. Chùa xây dựng trong niên hiệu Cảnh Minh (500-50) thời Bắc Ngụy, nhân đó mà đặt tên chùa như vậy. Chùa ở tại phía Đông Ngự đạo cách 1 dặm ngoài Tuyên dương môn. Bốn phía chùa ấy thoáng rộng 500 bộ, phía trước trông nhìn đến Tung sơn Thiếu thất tức đeo mang Đế thành, rừng xanh rủ bóng, nước biếc gợn văn, hình đất ưu thắng thoáng cao riêng đẹp, núi treo đài nhà sáng rỡ quán điện lớn hơn ngàn gian, giao thông đối mái. Đài xanh các tía, đường nổi cùng thông nhau. Bên ngoài tuy có thời tiết mùa mà bên trong không có lạnh nắng. Phía ngoài mái phòng đều là núi ao trúc tùng lan chỉ rủ bày thềm tường ngậm gió vây sương, tỏa hương phảng phất.

Đến trong niên hiệu Chánh Quang (520-525) thời Bắc Ngụy, Thái hậu mới tạo một ngôi phù đồ cao 7 tầng, cao cách đất trăm nhận. Do đó, trong văn bia, Hình Tứ Tài ghi rằng: “Cúi nghe sét đánh bên cạnh gần như sao băng” ấy vậy. Trang sức hoa lệ ngang đồng như chùa Vĩnh Ninh, mâm vàng khánh báu sáng rực vượt ngoài mây. Chùa có 3 cái ao. Cỏ lau ngó sen cỏ ấy các vật nước sống, hoặc mình vàng vảy tía vào ra giữa rong phủ, hoặc le xanh hạc tráng nổi chìm trong nước biếc, cối giã sàn rây đều dùng bằng sức nước. Mọi sự tối diệu của chùa rất được xứng hàng đầu. Mọi người muốn tu tạo phước đức ở thời bấy giờ cứ vào ngày mồng 07 tháng 0 hàng năm, các tôn tượng ở trong chốn kinh thành đều nghinh đưa đến chùa đó. Thương Thư Tư Bộ Tào ghi tính có hơn ngàn tôn tượng, qua ngày mồng 08 lần lượt nghinh đưa vào Tuyên dương môn, đến trước cung Lư Hạp nhận sự tung rải hoa của Hoàng đế. Khi ấy hoa vàng sáng rực trời, lọng báu nổi giữa mây, phan phướn như rừng khói hương sương móc, pháp âm phạm nhạc om sòm động cả đất trời. Trăm thứ vui đùa của Đằng Tương, Ở đây đều sánh kịp. Các bậc danh Tăng đức chúng mang tích đến thành đoàn, các hàng tín đồ pháp lữ mang hoa cúng thành rừng, xe cưỡi đầy nghẹt, gièm trải cùng cả khoảnh. Bấy giờ có vị Sa-môn người Hồ ở Tây Vức thấy thế, xưng gọi là cõi nước Phật.

Đến trong niên hiệu Vĩnh Hy (532-53) thời Bắc Ngụy, mới ban sắc Quốc Tử Tế Tửu Hình Tử Tài viết thuật văn bia chùa. Hình Tử Tài người xứ Hà Gian, chí tánh thông mẫn, phong tình nhã đượm, dưới màn sâu rộng, ôn cũ biết mới. Nói Học Phủ Văn Tông đạp Ban Mã mà riêng lên, khuôn phép Anh Thắng vượt Hứa Quách mà riêng cao. Do đó mà các bậc tài sĩ áo mão chen nhau đến cửa, những khách mến đạo qua lại đầy phòng nhà. Lên đến phòng nhà ấy như đến cửa nhà họ Khổng. Đượm sự tưởng thưởng ấy như nghe câu của Đông Ngô, có tiếng ở đương thời. Tiêng tăm vang vọng xa gần. Khoảng cuối nhiếp hóa Chánh Quang (525) thời Bắc Ngụy, vì Thế Tông làm Vãng lang phụng triều thỉnh, sau đó tiến cử Trung Thư Thị Lang Hoàng Môn. Hình Tử Tài hợp nghe rộng thấy, không gì chẳng thông. Mọi việc quân quốc chế độ không gì chẳng phỏng hỏi. Kịp đến lúc Vương thất không yên tĩnh, Hổ môn phế nghiệp, lại chuyển sang Quốc tử tế tửu mô huấn thượng tường. Hình Tử Tài phạt kẻ biếng nhác thưởng người chuyên cần, chuyên tâm khuyến dụ, môn sinh học trò đua nhau ôm hoài nhã thuật, phong hóa của Chu Tứ từ đó trở lại hưng thạnh. Đến cuối niên hiệu Vĩnh Huy (53) thời Bắc Ngụy, vì mẹ già nên cáo từ, vua Hiếu Võ Đế (Nguyên Tu) không chấp thuận, Hình Tử Tài lắm phen khẩn thiết cầu xin, nói năng đổ rơi theo dòng lệ, vua mới chấp thuận đó và ban sắc chiếu là Quan lục đại phu, về nuôi dưỡng tại nhà riêng nơi quê cũ, có 5 người cấp giúp mọi việc. Mỗi năm có một lần chầu để đủ đầy đoái hoài han hỏi. Các vương hầu tổ đạo đưa hai văn sớ như Hán Triều, kịp đến lúc triều đình dời đò đến đất nghiệp, dân chúng kiện tụng lắm nhiều, trước cách đổi, sau chiếu gọi, tự cùng nhau đồng cướp đoạt, pháp lại nghi ngục, sổ bộ lãnh chất thành núi, vua mới ban sắc dời Hình Tử Tài cùng Tán Kỵ Thượng Thị Niết Tử Thăng soạn viết bộ “Lân Chỉ Tân Chế” gồm 15 chương, các tỉnh phủ lấy đó để quyết nghi các châu quận dùng đó làm tự bản. Đến trong niên hiệu Võ Định (53-550) thời Đông Ngụy, trừ Phiếu Kỵ Đại Tướng Quân Tây Duyên Châu Thứ Sử, làm cho nền quốc chánh bình lặng. Lại dân an ổn. Về sau trưng nên làm Trung thư lệnh. Bấy giờ binh ngựa nơi bang giao, triều đình lắm sự, Quốc lễ triều nghi đều từ Hình Tử Tài ban xuất. Hình Tử Tài trước thuật chế – văn, thư, phú, chiếu, sách, chương, biểu, địa, tụng, tán kỵ v.v… có đến 500 chương đều lưu truyền nơi đời. Các nước láng giềng đều khâm trọng khuôn phép ấy, từ triều đình đến thôn đều lấy làm đàm tán tốt lành vậy.

24. CHÙA ĐẠI THỐNG

Chùa Đại Thống ở phía Tây chùa Cảnh Minh, đó còn gọi là chùa làng Lợi Dân. Ở phía Nam có vườn nhà của Tam Công Lệnh Sử Cao Hiển Lược. Thường đêm thấy có ánh sáng sắc đỏ đi đến trước nhà, như thế không chỉ một lần, bèn tìm theo hướng ánh sáng đó đào bới xuống đất sâu hơn một trượng có được trăm căn vàng ròng và có bài minh khắc ghi rằng: “Đó là vàng của gia đình Tô Tần, nếu người nào gặp được thì nên vì tôi mà tu tạo công đức”. Cao Hiển Lược bèn tạo dựng chùa Chiêu Phước. Có người nói xứ đó là nơi vườn nhà xưa trước của Tô Tần. Bấy giờ Nguyên Nghĩa đang cầm nắm chính quyền, nghe có được số vàngấy bèn đến nhà Cao Hiển Lược đòi lấy. Cao Hiển Lược giao cho 25 cân. Theo sự cứu xét của Diễn Chi thì vào thời của Tô Tần chưa có Phật pháp nên nói Phật pháp nên nói công đức chưa hẳn là tạo dựng chùa chiền. Ứng theo đó tạo lập bia minh ca tụng vết tích tiếng tam ấy vậy.

25. HAI NGÔI CHÙA THÁI THƯỢNG CÔNG

Từ chùa Cảnh Minh về phía Nam cách khoảng 1 dặm có chùa Tây, do Thái hậu tạo lập và chùa Đông do Hoàng Di tạo lập. Đều vì thân phụ mà tu tạo phước đức, nhân đó mà đều gọi là chùa Thái Thượng Công. Người thời bấy giờ gọi là chùa 2 người con gái, và đều gần Lạc Thủy. Cây rừng trải rộng lá cành rủ che. Mỗi chùa đều có một ngôi Phú đồ nằm tầng cao 50 trượng, chạm trổ khắc họa sánh tợ chùa Cảnh Minh. Vào 6 ngày trai thường có một người trong Hoàng môn đến trông xem Tăng xá, cúng dường mọi thứ không đâu sánh bằng. Ở phía Đông chùa có một Linh đài, nền móng tuy đã đổ nát mà còn cao hơn 5 trượng, do Quang Võ Đế (Lưu Tú 25-56) thời Đông Hán tạo lập. Phía Đông Linh đài lại có Tịch ung, do Ngụy Võ (?) dựng lập. Đến trong niên hiệu Chánh Quang (520-525) thời Bắc Ngụy, tạo dựng minh đường tại phía Tây Nam của Tịch Ung, trên tròn dưới không, có 8 cửa sổ và cửa nách. Nhữ Nam Vương lại tạo một ngôi Phù đồ bằng gạch ở trên Linh đài, khoảng đầu niên hiệu Hiếu Xương (525) thời Bắc Ngụy, yêu giặc nổi loạn xâm chiếm bốn phương các châu quận mất nơi chiếm cứ, Triều đình lại thiết bày chiêu mộ chinh chiến, chánh tại phía Bắc đường. Mọi 836 người theo lính, bái thuận khoáng dịch tướng quân, Thiên tướng quân, Bì tướng quân. Các hàng quan sĩ áo giáp mũ trụ ở đương thời xưng gọi đó là Quân đội của Minh đường. Bấy giờ, Hổ Phần lạc Tử Uyên tự nói là vốn người xứ Lạc Dương. Xưa kia trong khoảng niên hiệu Hiếu Xương (525-528) thời Bắc Ngụy, đi lính ở Bành Thành. Có người đồng doanh trại tên là Phiền Nguyên Bảo được tạm về nhà ở kinh đô. Lạc Tử Uyên gởi một lá thư về nhà và nói là “vườn nhà tại phía Nam Linh đài”, gần Lạc thủy. Ông chỉ đến đó sẽ có người nhà tự ra tiếp đón nhận”. Nguyên Bảo y theo lời đó, đi đến phía Nam Linh đài, trọn không có người nào để hỏi nhà, chần chừ sắp muốn đi, bỗng thấy một cụ già đi lại hỏi: “Từ đâu đến mà bàng hoàng như thế? Khi ấy Nguyên Bảo tỏ bày cụ thể sự việc. Cụ già ấy bèn nói: “Tủ Uyên là con của tôi vậy”. Và nhận lấy thư. Vẫn đưa Nguyên Bảo đi vào. Bỗng thấy quán các cao thoáng, phòng nhà đẹp xinh, cụ già gọi kẻ tớ đưa rượu ra, phút chốc bỗng thấy kẻ tợ ân bồng một trẻ con bị chết đi ngang qua. Mới đầu, Nguyên Bảo rất lấy làm quái lạ, bỗng chốc lại thấy rượu đưa đến sắc màu hồng mùi vị thơm ngon khác thường, lại thiết bày các thức ăn ngon lành khác lạ đủ các món của đất liền và biển cả. Ăn uống xong, giả từ ra đi. Ông cụ già ấy tiễn đưa Nguyên Bảo đi ra mà bảo rằng: “Về sau khó có kỳ hạn gặp lại, rất lấy làm buồn xót”. Cách biệt ân cần xong, cụ già trở vào lại. Bỗng nhiên, Nguyên Bảo không thấy cửa nhà ấy nữa, chỉ thấy bờ cây nước biếc gợn sóng về hướng Đông. Và chỉ thấy có một đứa trẻ tuổi khoảng 15 vừa mới bị chết đắm, trong mũi còn trào máu. Mới biết rượu uống hồi nãy là máu ấy vậy. Và khi trở lại Bành thành thì Tử Uyên cũng đã biến mất. Nguyên Bảo cùng Tử Uyên đồng ở lính 3 năm, ma không biết đó là Thần của Lạc thủy vậy.

26. CHÙA BẢO ĐỨC

Chùa Bảo Đức do Hiếu Văn Hoàng đế (Thác Bạt Hoành 71-500) thời Bắc Ngụy tạo lập, là vì Phùng Thái hậu mà tu tạo phước đức vậy. Chùa ở tại Ngự đạo Khai dương môn, cách 3 dặm ngoài Khai dương môn, phía Đông có Hán Quốc tử học đường. Trước học đường có bản kinh bằng đá khắc ghi 3 thứ chữ, và 25 văn bia khắc viết cả trong ngoài, ghi tả 2 bộ Xuân Thu Thượng Thư, làm bằng ba thứ chữ Triện khoa, đấu, lệ. Là di tích nét bút của Hữu Bộ Thị Lang Thái Ung hiện còn 18 văn bia ngoài ra đều bị hư hoại. Lại có 8 bản bia đá trong ngoài ghi tả bộ chu dịch Thượng Thư Công Dương Lễ ký theo lối chữ Lệ. Lại có một văn bia đọc sách đều tại trước học đường. vua Văn Đế (?) thời nhà Ngụy làm 6 văn bia điển luận. Đến năm Thái Hòa thứ 17 (3) thời Bắc Ngụy hiện còn văn bia. Cao Tổ (Hiếu Văn Đế – Thác Bạt Hoành) đề tên đó là làng Khuyến Học. Trong làng đó có 3 ngôi chùa Đại Giác, Tam bảo và Ninh Viễn. Đến năm Võ Định thứ (56) thời Đông Ngụy, Đại tướng quân dời bản kinh Đà đến Dĩnh, chung quanh có vườn là nơi phát xuất các thứ cây ngon lạ, có Lê Đại Cốc, trái nại của Thừa Quang. Tại chùa Thừa Quang cũng có nhiều cây trái, mùi vị trái nại rất ngon lành chiếm ưu thế tỏa khắp kinh đô. Phía Đông làng Khuyến Học có làng diên Hiền. Trong làng đó có chùa Chánh giác do Thượng Thư Lệnh Vương Túc tạo lập. Vương Túc tự là Cung Ý; người xứ, là con của Ung ChâuThứ Sử Hoán ở thời Ngụy Tề, rất tinh thông về Chiêm học, tài biện văn từ hay khéo, làm bí thư thừa ở thời nhà Tề, đến năm Thái Hòa thứ 18 () thời Bắc Ngụy, phản nghịch lại quy thuận theo Nguyên Ngụy. Bấy giờ Cao Tổ (Thác Bạt Hoành) vừa mới xây dựng Lạc Ấp, có nhiều việc chế tạo, Vương Túc rộng hiểu biết mọi việc xưa cũ có nhiều bổ ích, vua Cao Tổ rất mến trọng đó, thường kêu gọi là tên là Vương Sinh Diên Hiền, nhân đó mà Vương Túc lập tên làng như vậy. Ngày ở tại đất phương Nam, Vương Túc lấy con gái nhà họ Tạ làm vợ. Khi đến kinh đô lại mến chuộng công chúa, con gái họ Tạ làm bài thơ Ngũ ngôn để tặng Vương Túc, ghi rằng:

“Xưa lam tằm trên ni
Nay là tơ trên máy
Được đường đuổi đi thẳng
Nhớ thời buộc tơ chăng?”

Công chúa bèn thay Vương Túc đáp lại con gái họ Tạ rằng:

“Kim là vật xỏ chỉ
Trong mắt thường có tơ
Được lụa may mới đi
Sao hay nhận xưa cũ”.

Vương Túc tỏ vẻ rất thẹn với con gái họ Tạ, bèn tạo dựng chùa Chánh giác để ở nghỉ. Vương Túc nhớ ngày trước thân phụ mắc họa phi lý nên thường có ý báo sở của Tử Tư, nên trọn đời mặc y phục sắc trắng, không nghe âm nhạc. Người thời bấy giờ vì vậy mà kính xưng. Khi mới vào xứ Nguyên Ngụy (Lạc Dương), Vương Túc không ăn thịt dê và các vật Tô Lạc, tương v.v… thường ăn cơm với canh cá giếc, khát thì uống nước noản chè. Các hàng sĩ tử ở kinh đô nói: “Mỗi lần Vương Túc uống nước hết một hộc, nên gọi ông là Lậu Chi (chén nước tràn). Qua sau vài năm, Vương Túc cùng Cao Tổ (Thác Bạt Hoành) dự hội nơi điện, ăn thịt dê cháo lạc rất nhiều, Cao Tổ lấy làm quái lạ, bèn hỏi Vương Túc rằng: “Khanh cảm thấy mùi vị tại Trung Quốc đây thì thịt dê so với canh cá như thế nào? Uống nước noản che so với nước sữa lạc như thế nào?” Vương Túc đáp rằng: “Dê là sản vật ưu tối của đất liền, cá là vật dài lâu của loài thủy tộc, về sự ngon lành thì có khác nhau nhưng mỗi mỗi đều được là ngon lành cả. Nếu lấy mùi vị để nói thì có sự rất hơn kém. Ví như dê sánh với bang lớn Tề Lỗ, cá sánh với nước nhỏ Chu Cử. Chỉ có noản chè chẳng trung, cùng với Lạc làm nô”. Cao Tổ cười lớn, nhân đó nâng chén rượu lên nói rằng: “Ba ba hoành, hai hai tung, ai có thể biện đối được đó thì ban thưởng cho chung vâng”. Khi ấy, ngự sử Trung Thừa Lý Bưu nói rằng: “Bà già bán rượu vò rót bình, trẻ con giết thịt cùng cân đồng”. Thượng Thư Hữu Thừa Chân Sâm nói rằng: “Người Ngô nổi trên nước tự đi, trẻ con công kỷ ném đây giữa không trung”. Vương Hiệp ở Bành thành nói: “Thần mới hiểu đó là chữ “Tập”. Cao Tổ liền đem chung vàng tặng cho Lý Bưu, cả triều đình đều đượm nhuần Lý bưu thật là người thông minh có trí. Chân sâm hòa theo đó cũng nhanh chóng. Vương Hiệp nói cùng Vương Túc rằng: “Ông chẳng trọng nước lớn Tề Lỗ, mà lại mến nước nhỏ Chu Cử”. Vương Túc đáp rằng: “Ông quanh co sự tốt đẹp, không thể chẳng tốt đẹp”. Vương Hiệp lại nói rằng: “Ngày mai tới nhà tôi, tôi sẽ vì ông mà thiết bày thức ăn của Chu Cử, cũng có Lạc nô”. Nhân đó mà lại gọi uống noản chè là Lạc nô. Khi ấy, cấp sự nhân Lưu Hạo mến mộ phong hóa của Vương Túc, chuyên tập uống noản chè. Vương Hiệp nói cùng Lưu Hạo rằng: “Ông không ưa thích bát trân của Vương hầu mà lại mến thích thủy ách ở đầu biến. Tại Hải thượng có chồng của Xú Toại, trong làng có vợ của Học Tần, vì ông nói đó tức là ấy vậy”. Nhà của Vương Hiệp có Ngô nô, vì lời nói ấy mà cười vậy. Từ đó mỗi lúc triều quy bày yến hội, tuy có thiết nước noản chè nhưng mọi người đều hổ thẹn chẳng chịu uống. Chỉ có hạng dân nghèo tiện ở Giang Biểu từ xa lại hàng phục ưa thích uống. Về sau, con của Tiêu Diển là Tây Phong Hầu Tiêu Chánh Đức quy hàng. Khi ấy Nguyên Nghĩa vì đó mà thiết đãi uống nước noản chè. Trước tiên hỏi rằng: “Ông ở tại Thủy ách được bao lâu?” Chánh Đức không hiểu ý Nguyên Nghĩa bèn đáp rằng: “Hạ quan sinh tại thủy hương mà từ khi lập thân trở lại nay chưa từng gặp nạn của Dương Hầu”. Nguyên Nghĩa cùng tất cả khách trong Hội đều cười lớn vậy.

27. CHÙA LONG HOA

Chùa Long Hoa do Quảng Lăng Vương dựng lập. Chùa Truy Phước do Bắc Hải Vương dựng lập, đều ở tại phía Đông chùa Bảo Đức. Mọi Pháp sự Tăng phòng đều sánh như chùa Tần Thái Thượng Công. Ở kinh đô, các chùa đều trong cây trái đủ thứ nhưng ở vườn rừng ba chùa này rất tươi tốt không đâu sánh bằng.

Cách bốn dặm ngoài Tuyên dương môn đến Lạc thủy thượng làm cầu nổi, chỗ gọi là Vĩnh Kiều. Trong niên hiệu Thần Quy (518-520) thời Bắc Ngụy, Thường Cảnh làm Cần Minh, ngôn từ viết rằng:

“Mênh mông sông lớn
Khơi thoáng dòng trong
Dẫn nguồn Hùng nhĩ
Ngăn dòng ngạch lớn
Nhận cốc thổ y
Suốt cùng hào ngâm
Gần đến Hà tông
Xa chầu hải nhã
Điềm chỉ lạc thực
Thật đồng Trung Hoa
Trên ánh Trương liễu
Dưới tựa Hà Tung
Lạnh nóng thửa hợp
Nhật nguyệt chuyển dung
Đời vua tỏa sáng
Miệng bít hạ phong
Trước gần Thiếu thất
Tức mang Thái hành
Chế đảnh Đông ấp
Cao vọi Tây cương
Đất bốn mặt hiếm
Trang của sáu đạt
Nương đức thì bền
Thất đạo thì mất
Rõ xem xưa bày
Xét thấy khâu phần
Mới soán mới đổi
Hoặc chất hoặc văn
Khắp hơn chín lệ
Ba phần cuối Hán
Phong Nguy suy sau
Đất Tấn khắc xông
Trời đất phát huy
Đồ thư nhận mạng
Vận vua có cùng
Công thần chẳng tranh
Ngụy lục trông trời
Huyền phù nắm kiếng
Ấn vận Hội Xương
Long Đồ nhận mạng
Mới nhìn sách luật
Ôm hoài Bảo Định
Bày vết cảnh đây
Truyền khuôn đẹp lớn
Tiếp áo mão ta
Chính chất thần ta
Nước đất cùng hợp
Chu Trịnh cùng thông
Bèn khắc Lạc nhuế
Báo cùng Trung kha”.

Hai bờ Nam-bắc có Hoa biểu cao 20 trượng, trên Hoa Biểu làm phụng Hoàng, thế tợ như xung thiên, từ Vĩnh Kiều trở về hướng Nam, và từ Viên Khâu trở về phía Bắc, khoảng giữa ấy là Y Lục, cặp theo Ngự đạo có bốn Di Quán. Đường phía Đông có Quán, tức một là Quy Chánh, hai là Quy Đức, ba là Mộ Hoa, bốn là Mộ Nghĩa. Người Ngô đến Trung Hoa thì sắp đặt ở Kim Lăng Quán, ba năm trở vễ sau ban cấp vườn nhà ở làng Quy Chánh, khoảng đầu niên hiệu Cảnh Minh (500) thời Bắc Ngụy, Tấn An Vương Tiêu Bảo Di Thụy Ngụy Tề đến hàng phục, được phong là Cối Kê Công vì tạo lập vườn nhà ở làng Quy Chánh. Về sau Tăng chức tước làm Tề Vương, chuộng Nam Dương Trưởng công chúa. Tiêu Bảo Di xấu hổ vì xếp đồng hàng như người Di, nên khiến công chúa tâu bày cùng Thế Tông (Tuyên Võ Đế – Nguyên Khác). Thế Tông cũng chấp thuận cho đó mà ban cấp vườn nhà ở làng Vĩnh An. Trong năm Chánh Quang thứ (523) thời Bắc Ngụy, con của Tiêu Diễn là Tây Phong Hầu Tiêu Chánh Đức đến hàng phục, được xếp đặt ở Kim Lăng quán, vì tạo lập vườn nhà ở làng Quy Chánh. Tiêu Chánh Đức xả thí vườn nhà tạo dựng chùa Quy Chánh. Mọi người ở Bắc Di đến nương gá, được xếp đặt ở Yến Nhiên quán, ba năm trở về sau, ban cấp vườn nhà ở làng Quy Chánh. Năm Chánh Quang thứ nhất (520) thời Bắc Ngụy, người Nhuyễn Nhuyễn đến kinh đô, Cửu Lư Ban Hoằng đến triều chầu, Quan chấp sự chẳng biết họ là người xứ nào. Trung Thư Xá Nhân Thường Cảnh bàn nghị rằng: “Trong niên hiệu Hàm Ninh (275-280) thời Tây Tấn, Đơn Vu đến triều, đời nhà Tấn xếp đặt họ ở dưới Vương Công đặc tấn, nên có thể ban cho Ban Hoằng ở giữa khoảng Phiên Vương Nghi Đồng”. Triều đình bèn theo sự bàn nghị ấy, lại xếp đặt ở yến Nhiên quán, ban cấp vườn nhà ở làng Quy Đức. Bắc Di Tù trưởng sai con vào hầu, thường là mùa thu đến mùa xuân đi, lánh sự nắng nóng ở Trung Quốc, nên người thời bấy giờ gọi đó là Nhạn thần. Người Đông Di đến nương náu, được xếp đặt ở làng Phù Tang, ban cấp vườn nhà ở làng Mộ Hóa. Người Tây Di đến nướng náu được xếp đặt ở Yêm Tư quán, ban cấp vườn nhà ở làng Mộ Nghĩa. Mọi người từ Thông Lãnh trở về hướng Tây đến xứ Đại Tần, trăm nước ngàn thành không ai chẳng mừng vui đến nương náu. Khách thương buôn bán ngày một đua nhau đến dưới tái (bờ cõi), chỗ có nghĩa là khắp khu vực của đất trời đã mến mộ thổ phong của Trung Hoa vậy, nhân đó mà vườn nhà lắm nhiều không thể xiết kể, vì vậy dân chúng đến nướng náu phong hóa có hơn vạn nhà, cửa hẹp sửa sang, xóm làng khắp đầy. Hòe xanh che rủ bóng lối đường, cây biếc tỏa sân. Mọi vật khó có được trong thiên hạ, tại xứ đó thảy đều có. Riêng lập chợ ở phía Nam Lạc Thủy, gọi là chợ Tứ Thông, trong dân gian gọi đó là chợ Vĩnh Kiều. Cá ở Y Lạc phần nhiều bán tại chợ ấy. Các hàng sĩ thứ cần có nem thái thì đến đó mua lấy, mùi vị các rất ngon. Người ở chốn kinh đô nói: “Cá chép cá mè ở y lục quý sinh như thịt trâu thịt dê”. Phía Đông đường phía Nam Vĩnh Kiều có hai phường bạch Tượng và Sư Tử. Bạch Tượng là do vua người Hồ ở nước Kiền-đà-la hiến tặng ở năm Vĩnh Bình thứ 2 (50) thời Bắc Ngụy và tặng Bình Phong 5 sắc, tòa 7 báu, sàng cốc vài người, thật là vật báu lạ, thưởng nuôi dưỡng voi (bạch tượng) tạu chuồng Thừa hoàng. Voi luôn phá hoại phòng nhà làm đổ nát tường vách, tuông chạy ra ngoài, gặp cây liền nhổ, gặp tường vách cũng xô ngã đổ. Dân chúng kinh sợ đua nhau chạy tránh, Thái hậu bèn dời voi đến ở phường ấy. Còn sư tử do vua người Hồ ở nước Ba Tư dâng tặng, làm giặc nghịch phản Vạn Hầu Xú Nô bắt được, lưu giữ trong quân giặc. Đến cuối niên hiệu Vĩnh An (530) thời Bắc Ngụy, Xú Nô phá diệt mới tới được kinh đô. vua Trang Đế (Hiếu Trang Đế – Nguyên Tử Du) nói cùng Thị Trung Lý Hoặc rằng: “Trẫm nghe hồ thấy sư tử hẳn liền nép phục, nên tìm kiếm để thử xem”. Bèn ban chiếu ở các quận huyện gần núi săn bắt hổ đưa đến. Cùng huyện Sơn Dương cùng đưa đến một con hổ hai con báo.

Vua đến Hoa lâm viên mà trông xem đó. Khi ấy, hổ và báo vừa thấy sư tử thảy đều liền nhắm mắt không dám ngửa mặt trông nhìn. Trong Hoa lâm viên vốn có nuôi một con gấu tánh rất thuần. vua bảo đem đến thử xem. Người Ngô dẫn con gấu nuôi ấy đến, vừa nghe hơi sư tử, gấn bèn kinh sợ nhảy vọt, vượt khóa mà chạy. vua Hiếu Trang Đế cười lớn. Đến năm Phổ Thái thứ nhất (531) thời Bắc Ngụy, Quảng Lăng Vương (Tiết Mẫu đế – Nguyên Cung) lên ngôi, ban sắc chiếu rằng: “Với loài cầm thú mà giam giữ nó tức là trái với tánh của nó, nên phóng thả nó về lại núi rừng. Sư tử cũng nên đưa nó trở về với đất nước xưa cũ”. Người dẫn đưa sư tử, vì đường đến nước Ba Tư quá xa không thể đưa đến, nên mới nửa đường mà giết hại sư tử rồi trở về. Quan Hữu ty buộc hạch xét tội cho là trái với chỉ luận. Quảng Lăng Vương bảo: “Đâu nêu vì sư tử mà buộc tội người vậy”. Bèn tha cho kẻ ấy.

28. CHÙA BỒ ĐỀ

Chùa Bồ-đề do người Hồ ở Tây Vức tạo lập tại làng Mộ Nghĩa. Sa-môn Đạt-đa khai phát phần mộ lấy gạch, bèn có người nên tấu trình, khi ấy Thái hậu cùng vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 516-528) thời Bắc Ngụy đang ở tại Hoa lâm đô đường, lấy làm quái dị, bèn hỏi cùng Hoàng Môn Thị Lang Từ Hột rằng: “Từ xưa đến nay đã có việc như vậy chăng?” Từ Hột đáp rằng: “Xưa kia vào thời Tiền Ngụy, khai phát phần mộ có được con rể của Hoắc Quang là Phạm Minh Hữu. Đứa tờ ở trong nhà nói triều đình nhà Hán hẳn bị phế lập. Cùng với sử sách rất phù hợp, nay đây chẳng có gì phải lấy làm lạ”. Thái hậu bảo từ Hột hỏi tên họ người chết ấy, từ lúc chết đến nay đã bao nhiêu năm? Và thường ăn uống vật gì? Người chếtấyđáp: “Thần vốn dòng họ Thôi, tên là Hàm, tự là Tử Hồng, người xứ an Bình; Bác Lăng. Cha tên là sướng, mẹ dòng họ Ngụy, nhà ở tại Phụ Tài phía Tây thành. Lúc chết vừa 15 tuổi, đến nay là 27 tuổi, ở trong lòng đất đã 12 năm, thường tợ như say nằm chẳng ăn uống gì. Có lúc lại du hành, hoặc gặp cơm ăn, tợ như trong mộng, chẳng thể nêu bày rõ ràng”. Thái hậu sai phái môn hạ Lục Sự Trương Tú Huề đến làng Phụ Tài phỏng hỏi về cha mẹ của Hàm, quả nhiên có được ông Thôi Sướng và người vợ là dòng họ Ngụy. Trương Tú Huề hỏi Thôi Sướng rằng: “Ông có đứa con đã chết ư?” Thôi Sướng đáp: “Có đứa con tên là Hàm đã chết lúc 15 tuổi”. Trương Tú Huề nói: “Có người khai phát phần mộ, ngày nay nó sống lại, hiện ở trong Hoa lâm viên. Người chủ cố sai tôi đến đây cùng phỏng hỏi”. Nghe thế, Thôi Sướng kinh sợ nói: “Thật tôi không có đứa con ấy. Người bảo đến đây nói sai lầm vậy”. Trương Tú Huề trở về nói lại đầy đủ việc ấy cùng Thái hậu. Thái hậu sai Trương Tú Huề dẫn đứa Thôi Hàm trở về lại nhà. Thôi Sướng nghe Thôi Hàm đến trước cửa, bèn nổi lửa, tay nắm dao, còn vợ cầm lấy cành đào, bảo rằng: “Ngươi chẳng cần phải lại đây. Ta chẳng phải là cha của ngươi, ngươi chẳng phải là con của ta, hãy gấp gấp đi nhanh, không được làm hại”. Thôi Hàm bèn xoay bỏ đi đến nương náu nơi chốn kinh đô, thường ngủ qua đêm dưới cổng chùa. Nhữ Nam Vương tặng cho chiếc áo sắc vàng và một ngọa cụ. Tánh Thôi Hàm lo sợ ban ngày, chẳng dám ngửa mặt trông nhìn, lại sợ nước lửa và đao binh, thường chạy đến giữa đường, gặp sóng thì dừng, chẳng đi chậm rãi. Người thời bấy giờ cho đó là Quỷ. Phía Bắc chợ lớn Lạc Dương có hàng phụng chung. Người trong làng ấy phần nhiều bán vật dụng chôn cất người chết cho đến cả quan quách. Thôi Hàm bảo cùng họ rằng: “Nên làm quan (hòm) bằng gỗ bách, chớ dùng gỗ dâu làm nhương”. Có người hỏi về nguyên do, Thôi Hàm đáp: “Khi tại dưới đất, có người khai phát lính quý, có một con quỷ dối xưng là quan băng gỗ bách nên miễn khỏi chúa binh, kẻ lại bảo: “Ngươi tuy có quan bằng gỗ bách nhưng mà dùng gỗ dâu làm nhương”, bèn không miễn khỏi. Ở chốn kinh đô nghe thế, gỗ Bách bỗng nhiên nhảy vọt gia. Có người nghi ngờ là người bán quan đúc lót Thôi Hàm nói lời ấy vậy”.

29. CHÙA CAO DƯƠNG VƯƠNG

Chùa Cao Dương Vương là vườn nhà của Cao dương Vương Ung, tại bên cạnh phía Tây Ngự đạo cách 3 dặm ngoài Tân dương môn. Vương Ung vì Nhĩ Chu Vinh làm hại bèn xả thí vườn nhà để làm chùa. Trong niên hiệu Chánh Quang (520-525) thời Bắc Ngụy, Vương Ung làm Thừa tướng, được cấp xe kiệu Vũ Bảo cổ xúy Hổ phần ban kiếm cả trăm người, cao quý cùng cực trong nhân thần, sang giàu gồm cả núi biển. Ở nơi Đề thất vườn nhà sánh bằng đế cung, Điện trắng hạm son, yểu diệu vòng quanh, diềm bay nghiêng nhà, chắng chịt cùng thông, tôi tớ có 6000 người, kỹ nữ có 500, ngón chân đeo ngọc chiếu ánh như mặt nhật, áo lướt thướt bay theo gió. Từ thời nhà Hán nhà Tấn trở lại, các bậc vương hầu hào gia xa xỉ chưa ai có vậy. Lúc đi ra, Xô kêu Ngự đạo, văn vật thành hàng, nao thổi vọng phát, tiếng kèn lá buồn chuyển, khi vào thì ca phi vũ nữ đánh trúc thổi sênh, tiếng đàn tiếng saó đắp đổi hòa tấu liền đêm hết ngày. Ở đó, rừng trúc ao cá sánh bằng như Phạm Uyển, cỏ thơm như chất chứa, gỗ quý che râm liền. Vương Ung ưa thích khẩu vị nông hậu, tự phụng dưỡng, mỗi ngày hẳn dùng cả vài vạn tiền làm hạn định. Các vật ngoan lành trên đất liền và giữa biển cả, phương trượng ở trước. Trần Lưu Hầu Lý Sùng nói với mọi người rằng: “Cao Dương (Vương Ung) xái dùng một ngày đáng của ta cả ngàn ngày”. Lý Sùng làm thượng thư lệnh nghi đồng Tam ty cũng giàu sang khuynh cả thiên hạ, tôi tớ có cả ngàn người, mà tánh rất cần kiệm rít lậu, mặc áo xấu, ăn cơm thô, thường không có thịt, chỉ có củ cải dưa muối. Khách của Lý Sùng là Lý Nguyên Hựu nói với mọi người rằng: “Lý lệnh công (Lý Sùng) mỗi ngày ăn 18 món”. Có người hỏi về nguyên do. Lý Nguyên Hựu đáp: “hai lần ( cửu số – cửu là rau hẹ) là 18. Mọi người nghe đều cười lớn. Người thời bấy giờ bèn lấy đó mà gièm pha mắng chửi. Sau khi Vương Ung qua đời, các kỹ nữ thảy đều được vào Đạo, hoặc có người đi lấy chồng. Người đẹp Từ Nguyệt Hoa là người khéo giỏi về đàn không hầu, hay làm ca khúc của Minh cơ ra biên ải. Người nghe không ai chẳng đổi thay sắc mặt. Trong khoảng niên hiệu Vĩnh An (528-530) thời Bắc Ngụy, bèn kết làm vợ lẽ của Vệ Tướng Quân Nguyên Sĩ Khương, Từ Nguyệt Hoa đánh thổi không hầu mà ca, tiếng buốn vút tận vào mây, mọi người đi đường dừng lại lắng nghe bỗng chốc đông thành chợ. Từ Nguyệt Hoa từng nói cùng Nguyên Sĩ Khương rằng: “”Vương (?) có hai Mỹ cơ, một người tên là Tu Dung và một người tên là Diễm Tư đều là mày ngài răng trắng, dáng mạo sạch đẹp nghiêng thành. Tu Dung cũng rất có tài năm làm Lục Thủy ca ( Bài ca nước biếc), còn Diễm Tư khéo giỏi về múa vũ Hỏa phụng, đều được mến thương nghiêng cả hậu thất, sủng ái hơn hẳn các cơ”. Nguyên Sĩ Khương nghe thế bèn thường bảo Từ Nguyệt Hoa đánh khúc nhạc Lục thủy và Hỏa phụng.

Phía Bắc vườn nhà của Cao Dương Vương Ung có làng Trung Cam, trong làng ấy có Cẩu Tử Văn người xứ Dĩnh Xuyên tuổi mới 13, tuy nhỏ bé mà thông minh tài biện, thần tình trội vượt khác lạ, tuy Hoàng Uyển văn cử, không lấy gì làm thêm. Đầu niên hiệu Chánh Quang (520) thời Bắc Ngụy, có Phan Sùng Hòa người xứ Quảng Tông giảng Phục Thị xuân thu tại làng chiêu Nghi ở phía Đông thành. Cẩu Tử Văn nhiếp Tề xoay mặt hướng Bắc đến Phan Sùng Hòa để thọ học Đạo. Khi ấy, Triệu Quận Lý Tài hỏi Cẩu Tử Văn rằng: “Cẩu sinh ở tại xứ nào?” Cẩu Tử Văn đáp: “Kẻ tớ ở làng Trung Cam”. Lý Tài lại hỏi: “Vậy sang xứ nào?” Cẩu Tử Văn đáp: “Sang phía Nam thành”. Phía Nam thành có Quán Tử Di, Lý Tài bèn lấy đó mà dèm chê Cẩu Tử Văn. Cẩu Tử Văn đáp rằng: “Nước nhà có chỗ đất Dương Thắng, cớ sao ông lấy làm quái lạ. Nếu nói về sông khe thì y lạc tranh vanh, nói về sự xưa cũ thì Linh đài bản kinh Đá, nói về vẻ đẹp của Chiêu đề, Báo Đức, Cảnh Minh đều là giàu sang phú quý ở đương thời. Cao Dương Quảng Bình, phong tục của bốn phương, muôn nước ngàn thành. Nếu luận về người và vật thì có tôi mà không ông. Lý Tài không lấy gì để đối đáp lại. Phan Sùng Hòa bảo rằng: “Ông (Cẩu Tử Văn) là kẻ sĩ của Dĩnh Xuyên bén nhọn như chùy (cái dùi), còn kẻ sĩ Yên Triệu chậm lụt như quả cân, tin thật chẳng hư dối vậy”. Mọi người dự học thảy đều cười vang vậy.

30. CHÙA SÙNG HƯ

Chùa Sùng Hư ở tại phía Tây thành, tức các Dược Long của thời nhà Hán vậy. Năm Diên Hy thứ (165) thời Đông Hán, Hoàng Đế, (Lưu Chí 17-168) cúng tế Lão Tử ở Dược Long, vườn nhà trải tòa hoa lọng, dùng nhạc của giao thiên, tức là xứ đất ấy vậy. Lúc mới chuyển dời kinh đô, Cao Tổ (Thác Bạt Hoành) đem đất ấy cấp cho dân chúng ở. Mọi người đến nghỉ ở phần nhiều trông thấy yêu quái. Do vậy mọi người bỏ đi, bèn dựng lập chùa ấy vậy.

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA NAM THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 3 (Hết)

 

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA TÂY THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 4

31. CHÙA XUNG GIÁC

Chùa Xung Giác do Thái Phó Thanh Hà Vương Dịch xả thí vườn nhà mà tạo lập nên, chùa ở phía Bắc Ngự đạo cách 1 dặm ngoài Tây kinh môn, Vương Dịch thân gần bên trong của vua nên rất có danh hạnh, vua Thế Tông (Tuyên Võ đế – Nguyên Khác 500-516) thời Bắc Ngụy rất mến quý đó đặc ưu hơn cả các người em. Đến năm Diên Xương thứ (516) thời Bắc Ngụy, vua Thế Tông (Nguyên Khác – Tuyên Võ đế) bằng hà, Vương Dịch cùng Cao Dương Vương Ung, Quảng Bình Vương Hoai đều nhận di chiếu phụ giúp cho Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ). Vì bấy giờ Hiếu Minh Đế vừa mới 6 tuổi, Thái hậu thay quyền nắm cả muôn cơ, vì Vương Dịch là người danh đức vẻ vang thân gần, rõ hiểu Đạo, sống thẳng ngay, nên mọi sự bất kể lớn nhỏ phần nhiều đều đến dò hỏi. Vì thế trong khoảng niên hiệu Hy Bình (516-588) và Thần Quy (518-520) thời Bắc Ngụy, thế của Vương Dịch khuynh loát người chúa, Để thất giàu sang rộng lớn vượt hơn hẳn Cao Dương Vương Ung. Về phía Tây bắc có lầu vượt cao hơn cả Lăng Vân Đài, ở gần nơi Triều chợ, mắt nhìn đến tận kinh đô, nên trong thơ xưa nói là: “Tây bắc có lầu cao, trên ngang bằng mây nổi”. Dưới lầu có Nho Lâm Quán, Thối Tân đường, hình thế thiết chế đều như Điện Thanh Thử, Thổ Sơn Điếu đài trùm ở đương thời. Núi vẹo vào cửa sổ, ao cong lượng quanh nhà, cây vang tiếng chim bay, thềm tràn đầy hoa thuốc. Vương Dịch mến thích tân khách, quý trọng văn hoa, nên các bậc tài tử khắp trong nước nhà không ai chẳng đến, các hàng quan tá phủ liêu đều chọn dân anh tuấn. Đến như lúc sớm mai cảnh sáng thẳng rong trông Nam đài, các vật ngon lành thiết bày đủ đầy, Đàn cầm, sênh đều tấu trổi, rượu ngon đầy chén, báu tốt đầy sàng, khiến Lương Vương thẹn phiêu du của Thố ViênTrần Tư hổ cùng Yến của Tước Đài. Đầu niên hiệu Chánh Quang (520) thời Bắc Ngụy, Nguyên Nghĩa cầm nắm quyền bính, bắt giam Thái hậu ở hậu cung hại Vương Dịch chết ở Hạ Tĩnh. Đến năm Hiếu Xương thứ nhất (525) thời Bắc Ngụy, Thái hậu trở lại cầm nắm vạn cơ, truy tặng Vương Dịch là Thái tử thái sư đại tướng quân đô đốc nội ngoại các quân sự, mượn Hoàng nhung cấp binh lữ, xe loan lớn vàng rực nhà, cờ tiết mao xe ôn lương trước sau xếp bộ vũ bảo, đánh thổi hổ phần ban kiếm cả trăm người, hai bộ vãn la, tang lễ y cứ theo việc cũ An Bình Vương Phù thời nhà Tấn, phong thụy hiệu cho Vương Dịch là Văn Hiếu, đồ họa hình tượng Vương Dịch tại điện kiến thủy, đề cửa Thanh hà quốc lệnh Hàn Tử Hy làm Hoàng môn thị lang, dời đổi hàng Vương quốc tam khanh làm chấp kích. Ở đời gần đây không có như vậy. Vì Văn Hiếu (Vương Dịch) mà tu tạo phước đức, xây dựng một ngôi Phù đồ 5 tầng, thợ làm tương tợ như ở chùa Dao Minh vậy.

32. CHÙA TUYÊN TRUNG

Chùa Tuyên Trung do Thị Trung Ty Châu mục thành Dương Vương Huy tạo lập tại phía Nam Ngự đạo cách một dặm ngoài Tây Đương môn. Trong niên hiệu Vĩnh An (528-530) thời Bắc Ngụy, Bắc Hải Vương vào Lạc Dương, vua Hiếu Trang Đế (Nguyên Tử Du) đi tuần phương Bắc, các quan tướng mỗi mỗi đều ôm hoài hai ước mong, chỉ một mình Vương Huy là theo Hiếu Trang Vương đến thành Trưởng tử, gặp phải binh lính đông nhiều ngăn cản sông, trống mái chưa quyết định, Vương Huy nguyện vào Lạc Dương xả thí vườn nhà làm chùa, kịp đến lúc Bắc Hải Vương bại tan, Quốc đạo trở lại mở mang, bèn xả thí vườn nhà vậy. Đến cuối niên hiệu Vĩnh An (530) thời Bắc Ngụy, vua Hiếu Trang Đế tính mưu muốn giết Nhĩ Chu Vinh, sợ sự việc không thành nên hỏi bàn với Vương Huy. Vương Huy nói lấy cớ sinh Thái tử làm bài từ, Nhĩ Chu Vinh hẳn sẽ vào triều, nhân đó sẽ giết hại vậy. Hiếu Trang Vương nói: “Hoàng hậu mang thai đến 10 tháng, nay chỉ mới tháng thứ , có thể làm như vậy được chăng?” Vương Huy nói: “Phụ nữ sinh con có người kéo dài ngày tháng, có người giảm bớt ngày tháng, chẳng có gì phải lấy làm quái lạ”. vua Hiếu Trang Đế nhận chịu mưu tính đó bèn xướng là sinh Thái tử và sai phái Vương Huy đến để thất của Thái Nguyên Vương (Nhĩ Chu Vinh) báo là Hoàng tử đã sinh nở, gặp lúc Nhĩ Chu Vinh cùng Thượng Đảng Vương Thiên Mục vui đùa đánh cờ, Vương Huy cởi khăn mão của Nhĩ Chu Vinh, khuyên vũ xoay quanh mâm. Vương Huy vốn là người độ lượng lớn, không tỏ vẻ mừng giận trên sắc mặt, đi quanh điện, trong ngoài mừng vui reo hò, Nhĩ Chu Vinh bèn tin là thật, nên cùng Thiên Mục đồng vào triều. Vua Hiếu Trang Đế nghe Nhĩ Chu Vinh vào bất chợt mà đổi mặt. Trung Thư Xá Nhân Ôn Tử Thăng nói rằng: “Bệ hạ sắc mặt biến đổi”. Vua liền đòi lấy rượu để uống, sau đó bèn hành sự, Nhĩ Chu Vinh và Thiên Mục đã bị giết chết, vua Hiếu Trang Đế bèn bái Vương Huy làm Thái Sư Tư Mã, còn các quan khác vẫn như cũ. Phép tắc nắm cầm tất cả binh lính riêng giao nhậm cả. Kịp đến lúc Nhĩ Chu Triệu bắt giam vua Hiếu Trang Đế, Vương Huy bèn đến Lạc Dương Lệnh Khấu Tổ Nhân. Tổ Nhân là một nhà Thư sử đều là tướng của Vương Huy, ít có ân xưa cũ nên sang đó vậy. Tổ nhân nói cùng các con em v.v… rằng: “Mới đầu nghe Nhĩ Chu Triệu kính mộ Thành Dương Vương Huy rất trọng, nếu ai bắt được thì sẽ phong tặng tước hầu có ngàn nhà. Ngày nay sang giàu đã đến vậy”. Bèn chém giết Vương Huy mà tấu trình. Mới đầu Vương Huy đến nhà của Tổ Nhân có mang theo 100 cân vàng và 50 con ngựa. Tổ Nhân thấy của cải tài lợi ấy nên thực hành việc đó, vàng và ngựa có được, trong ty thân đều quân bình phân phát; chỗ gọi là kẻ thất phu không tội, ôm chầm lấy ngọc mắc tội, ấy thật đáng tin vậy. Nhĩ Chu Triệu có được cái đầu của Vương Huy, cũng chẳng tưởng thưởng gì cho Tổ Nhân, Nhĩ Chu Triệu bỗng nhiên cảm mộng Vương Huy bào rằng: “Ta có 200 cân vàng và 100 con ngựa hiện ở tại nhà Tổ Nhân, ông nên sang lấy vật đó”. Sau khi tỉnh giấc, Nhĩ Chu Triệu liền tự nghĩ lường, Thành Dương địa vị lớn trọng, chưa nghe đến sự thanh bần, phải tự vào nhà đó để xét xem, nếu vốn không có vàng bạc thì mộng đây có thể thật vậy. Đến sáng sớm, Nhĩ Chu Triệu bắt Tổ Nhân để nêu đòi vàng và ngựa đó. Tổ Nhân cho là có người kín mách báo nên trông nhìn phong thái mà thành thật phục nói là: “Thật có được 100 cân vàng và 50 con ngựa”. Nhĩ Chu Triệu nghi Tổ Nhân còn cất giấu, nên y theo mộng báo mà nêu bày số lượng. Tổ Nhân đến phòng vốn chỉ có 30 cân vàng và 30 con ngựa đều đưa đến hết cho Nhĩ Chu Triệu. Do không mang đến đủ số lượng, nên Nhĩ Chu Triệu mới tức giận, bắt Tổ Nhân treo đầu trên cây cao, dưới chân lại buộc đá lớn kéo xuống, dùng roi quấc đánh mãi đến lúc chết. Người thời bấy giờ cho đó là giao báo. Dương Huyễn Chi bảo là: “Người tích chứa điều lành hẳn có niềm an lạc dư thừa, kẻ tích chứa điều dữ, ương họa thảy đều đến. Tổ Nhân là kẻ mang ân trái lại bêu ríu, tham của cải mà giết hại Vương Huy. Vương Huy bèn gá mộng báo tăng thêm số lượng vàng và ngựa, mượn tay của Nhĩ Chu Triệu mà trở lại giết Tổ Nhân, khiến Tổ Nhân trải qua nhận chịu đủ thứ khổ sở tật cùng đồ thán. Tuy Ngụy Hầu đánh roi chuột đồng, Tần chúa giết hại 8 Diêu Trành. Lấy đó mà luận bàn cũng không thể thêm hơn vậy”.

33. CHÙA VƯƠNG ĐIỂN NGỰ

Phía Đông chùa Tuyên Trung có chùa Vương Điển Ngự, do Hoạn quan Đương Vương Đào Thang tạo dựng. Bấy giờ các ngôi già lam do Hoạn quan tạo dựng đều là chùa chư Ni ở. Chỉ có chùa của Đào Thang dựng lập là chùa chư Tăng ở, nên người thời bấy giờ xưng gọi Đào Thang là anh hùng. Tại cửa có một ngôi Phù đồ 3 tầng, các thợ xây dựng khéo đẹp hơn hẳn với ở chùa Chiêu Nghĩa. Các chùa do quan lập thì chùa Chiêu Đề rất có tiếng nhập thất, mỗi tháng vào 6 ngày trai thường có đánh trống ca múa vậy.

34. CHÙA BẠCH MÃ

Chùa Bạch Mã, do vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Đông Hán tạo lập, là ngôi chùa đầu tiên đánh dấu Phật giáo lưu truyền đến Trung Hoa. Chùa nằm tại phía Nam Ngự đạo cách 3 dặm ngoài Tây Dương Môn. vua Minh Đế mộng thấy vị thần vàng cao lớn trượng sáu, lưng cổ đeo mang ách sáng Nhật Nguyệt, thần vàng ấy hiệu là Phật, bèn sai phái kẻ sứ đến Tây Vức để tìm cầu, mới thỉnh cầu được kinh tượng. Khi ấy dùng ngựa trắng mang chở về, nhân đó tạo lập chùa đặt hiệu là chùa Bạch mã ( ngựa trắng). Đến sau khi vua Minh Đế băng hà, xây dựng tinh xá kỳ hoàn ngay trên gò mộ. Từ đó trở về sau, trên gò mộ của dân chúng đều có làm Phù đồ. Trên chùa có hộp kinh đến nay vẫn hiện còn và thường đốt hương cúng dường đó. Hộp kinh ấy có lúc tỏa phóng ánh sáng soi chiếu khắp phòng nhà, vì thế, các hàng Đạo tục rất mực lễ kính như kính ngưỡng chân dung vậy. Phía trước Phù đồ có rừng trái nại, Bồ Đào khác hẳn so với những nơi khác, cành lá tốt tươi tỏa rộng, trái hạt thật rất lớn, trái nại nặng thật đến 7 cân, Bồ Đào lớn tợ trái táo, mùi vị đều đẹp lạ hẳn các thứ ở chốn kinh đô. Đến lúc chín, vua thường đến đó hái lấy hoặc đem tặng cho cung nhân, cung nhân có được đó lại chuyển tặng cho bà con thân thích. Vì nó có mùi vị kỳ đặc nên những người có được chẳng dám ăn liền, phải xoay chuyền trải qua vài nhà. Tại kinh đô có lời nói rằng: “Một trái lựu ngọt ngon ở chùa Bạch mã trị giá bằng một con bò”. Có Sa-môn Bảo Công, không biết là người ở xứ sở nào, thân hình tướng mạo rất xấu xí, nhưng tâm có thông đạt, thấu suốt mọi sự ở quá khứ và tương lai, dự biết thấy rõ cả ba đời. Mở lời nói tợ như sấm, không hề hiểu nỗi, sau khi sự việc đã qua, mới nghiệm chứng đó là thật. Hồ Thái hậu nghe thế bèn hỏi về việc đời.

Sa-môn Bảo Công nói: “Nắm thóc cho gà ăn, miệng gọi chu, chu”. Mọi người lúc ấy không ai có khả năng nhân hiểu. Đến năm Kiến Nghĩa thứ nhất (528) thời Bắc Ngụy, Thái hậu bị Nhĩ Chu Vinh làm hại mới nghiệm biết về lời nói ấy. Bấy giờ, cũng có Triệu Pháp Hòa là người xứ Lạc Dương xin đoán về sớm mượn có được tước vị chăng? Sa-môn Bảo Công nói: ‘Tre lớn chẳng cần lông cánh, nhà chái phía Đông gấp tay làm”. Khi đó chẳng hiểu trong ý muốn nói gì. Qua hơn 10 ngày sau, Triệu Pháp Hòa chịu tang thân phụ. Tre lớn tức là chiếc gậy, nhà chái phía Đông tức là Ỷ Lô tạo 12 bản thần ca. Trọn lời nói ấy vậy.

35. CHÙA QUANG BẢO

Chùa Quang Bảo tại phía Bắc Ngự đạo ngoài Tây dương môn. Có một ngôi Phù đồ 3 tầng được xây dựng nên mòng bằng đá, hình dáng chế tạo rất xưa cổ, Họa Công khắc chạm. Ẩn Sĩ Triệu Dật trông thấy mà than rằng: “Chùa Thạch tháp ở triều Đại nhà Tấn nay gọi là chùa Quang Bảo vậy”. Có người hỏi về Nguyên do. Triệu Dật đáp rằng: “Trong Triều Đại nhà Tấn có 32 ngôi chùa, đến nay đều đã bị hư hoại, chỉ riêng còn sót lại một ngôi chùa này”. Và đưa tay chỉ một chỗ trong vườn mà bảo rằng: “Đây là nơi nhà tắm, phía trước các 5 bộ có một cái giếng”. Chúng Tăng bèn đào bới quả nhiên có nhà và giếng. Giếng tuy đã bị lấp bít mà gạch ở miệng vẫn như mới đầu, dưới nên nhà tắm có vài mươi viên đá. Bấy giờ, ao vườn bằng phẳng thoáng rộng, rau quả hành xanh, không ai chẳng than thở vậy. Trong vườn có một cái biểu hiện là Hàm Trì, lan phù che bờ, ấu sen phủ nước, tùng xanh trúc biếc mọc tràn bên cạnh. Các hàng sĩ tử ở kinh ấp, vừa lúc sáng sớm mặt nhật đẹp xinh, tắm gội rồi trở về, nêu bảo cùng bè bạn đồng đi đến chùa ấy. Xe mây tiếp vết, lọng cách thành râm, hoặc đặt rượu nơi rừng suối, hoặc đề thơ ở vườn hoa, bẻ ngó sen, dưa nổi, lấy làm thích thú. Đến cuối niên hiệu Phổ Thái (531) thời Bắc Ngụy, Ung Châu Thứ sử Lũng Tây Vương Nhĩ Chu Thiên quang dẫn cả binh ngựa đến chùa ấy. Cửa chùa vô cớ tự nhiên sụp đổ. Thiên Quang trông thấy mà phát ghét. Năm đó, Thiên Quang chiến bại, bị chém ở phía Đông chợ.

36. CHÙA PHÁP VÂN

Chùa Pháp Vân do Sa-môn Đàm-ma-la; người hồ ở nước Ô Trường tại Tây Vức tạo dựng. Chùa nằm phía Tây chùa Quang Bảo, cách tường mà cùng cửa. Sa-môn Đàm-ma-la là người thông tuệ lợi căn, học cùng giáo điển Phật giáo, khi đến Trung Hoa liền hiểu ngôn ngữ của Trung Hoa thời nhà Ngụy và khéo biết viết lối chữ lệ, phàm mọi sự thấy nghe, không gì chẳng thông hiểu. Vì vậy các hàng Đạo tục sang hèn đồng nhau. Quy hướng kính ngưỡng, tạo một ngôi chùa Kỳ Hoàn, các thợ thiết chế rất tinh xảo, điện Phật phòng Tăng đều kiến trúc theo của người Hồ, đỏ trắng ánh ngời hình sắc, vàng ngọc tựa rủ bóng ngời, mô phỏng tạo chân dung tợ như thân Phật cao trượng sáu thấy ở Lộc Uyển, Thần Quang tráng lệ như Kim cang ở tại song lâm. Trong khuôn viên già lam hoa quả tốt tươi, cỏ thơm mọc tràn, gỗ quý rủ bóng giữa sân. Các Sa-môn ở kinh đô mến thích giáo pháp của người Hồ đều đến chỗ Sa-môn Đàm-ma-la mà thọ học hàng trì. Sa-môn Đàm-ma-la giới hạnh thật khổ, khó thể khen lao. Bí chú rất thần nghiệm, khắp chốn Diêm phù hiếm có như thế, chú cây khô có thể đâm mọc lại cành lạ, chú người biến làm thành lừa ngựa. Trông thấy vậy không ai chẳng vui mừng và lo sợ. Từ Tây Vức, Sa-môn Đàm-ma-la mang theo cốt xá-lợi, răng Đức Phật và kinh tượng đều đem đến chùa ấy.

Phía Bắc chùa đó có vườn nhà của Trung Thượng Thư Lệnh Lâm Hoài Vương Lận. Vương Lận là người thpông rộng sách vở, trí tuệ biện tài trong nhã, phong nghi rõ xét, dung chỉ khả quan, tổ đạt Tam nguyên Triệu Khánh, muôn nước đều quý trọng, vàng xâu nối liền ngời sáng trên đầu, ngọc báu đeo kêu ở eo lưng, mang sen nắm hốt, đi lượn nhiều đường, mọi người trông nhìn quên cả nhọc mệt, không ai chẳng thán phục. Tánh Vương Lận ưa thích suối rừng lại quý trọng tân khách. Đến lúc gío xuân lay thổi, cây hoa như gấm, ăn dùng bữa sáng tại Nam quán, đêm về rảo bước trong Hậu viên. Các bậc Liêu quan đông thành đoàn, dân chúng tài tuấn đầy chỗ ngồi, Tơ đồng phát hưởng, thương vũ lưu hành, thi phú đều bày, lời trong chợt nổi, không ai chẳng thấm đượm huyền áoấy, quên hẳn sự bỉ lậu nơi chính mình. Do đó, vào nhà Vương Lận, mọi người đều cho là đến cảnh Tiên. Có tú tài Trương Bùi Thường ở Kinh Châu làm bài từ ngũ ngôn, có câu Thanh Bạt nói rằng: “Thu Khác, Hoa cùng sắc; cây riêng, chim đồng lời”. Vương Lận bèn đem gấm giao long mà tặng cho đó, cũng có người được lụa đào sợi to, lùa đào sợi mỏng, chỉ có Bùi Tử Minh ở Hà Đông làm thơ không đạt nên bị phạt một thạch rượu. Suốt 8 ngày Bùi Tử Minh say ngủ, người thời bấy giờ ví dụ đó như là Sơn Đào, kịp đến lúc Nhĩ Chu Triệu vào kinh đô, Vương Lận bị giặc loạn giết hại, mọi người khắp chốn triều đình đền thôn dã đều đau thương mến tiếc.

Ra ngoài Tây minh môn, cách dặm về phía Nam Ngự đạo có chợ lớn Lạc Dương chu vi rộng 8 dặm. Phía Nam chợ có Hoàng nữ Đài do Đại tướng Quân Lương ký dựng lập ở thời nhà Hán, hiện còn cao hơn 5 trượng. Trong khoảng niên hiệu Cảnh Minh (500-50) thời Bắc Ngụy, Tỳ-kheo Thích Đạo Hằng tạo dựng chùa Linh Tiên tại trên đó, phía Tây đài ấy có Hà Dương huyện Đài, bên trong có vườn nhà của Thị trung hầu cương. Về phía Tây Bắc chợ có ao cá Thổ Sơn cũng do Lương ký tạo lập, tức như trong Hán thư nói là: “Nhặt đất đắp núi mười dặm, chín sườn núi dùng voi hai Hào” vậy. Phía Đông chợ có hai làng Thông Thương và Đạt Hóa, người dân torng làng phần nhiều khéo giỏi mổ giết buôn bán làm nghề sống, của cải giàu có bạc vạn. Có Lưu Bảo là nhà rất giàu có, là nơi châu quận đều tụ hội, đều tạo lập một vườn nhà, mỗi mỗi nuôi một con ngựa. Đến như các thứ muối thóc sang hèn giá chợ cao thấp đều tại một hàng, xe thuyền lưu thông, nơi vết chân giẫm bước không đâu chẳng buôn bán khách thương. Vì vậy mà của cải đều chất chứa nơi sâu nhà Lưu Bảo, tài sản sánh như núi Đồng, nhà cửa cất giấu hang vàng. Vườn nhà vượt hẳn, tạo dựng lầu quán vút ngoài mây, xe ngựa mặc mang trang sức như Vương giả. Phía Nam chợ có hai làng Điều Âm và Nhạc Luật. Người dân trong làng khéo giỏi đàn sáo âu ca, những diệu kỷ trong thiên hạ đều phát xuất từ đó. Có Điền Tăng Siêu là người khéo giỏi thổi kèn lá, hay làm Tráng sĩ ca và Hạng vũ ngâm, Chinh Tây Tướng Quân Thôi Diên Bách rất mến thích đó. Đến cuối niên hiệu Chánh Quang (525) thời Bắc Ngụy, Cao Bình mất điểm chiếm cứ, nghịch lại xích bác khắp tràn, giặc soái Vạn Hầu xú nô bạo cướp ở vùng kinh kỳ. Triều đình vì vậy mà đói kém. Thôi Diên Bách dẫn đầu bộ kỵ gồm 5 vạn binh lính đi đánh dẹp đó. Thôi Diên Bách dẫn quân lính ra kinh đô đến cầu trương phương ở phía Tây thành Lạc Dương tức chỗ Đình Tịch Dương ở thời nhà Hán vậy, khi ấy các bậc công khanh tổ đạo xa kỵ sắp thành hàng. Thôi Diên Bách đội mũ cao, nắm kiếm dài khu võ sáng ở trước, Điền Tăng Siêu thổi khúc tráng sĩ ca theo sau. Người nghe thấy, kẻ yếu mềm trở thành cứng mạnh, kẻ kiếm khách nghĩ ngợi phân phát, Thôi Diên Bách can đảm chẳng ai bằng, oai danh nổi vượt, vì nước nhà mà khai triển sức lực, hơn 20 năm đánh không nhọc thành, chiến không cống trận. Do đó, mà cả triều đình đều dốc lòng đưa tiễn. Mỗi lần vào trận, Thôi Diên Bách bảo Điền Tăng Siêu làm tiếng tráng sĩ, nên những kẻ sĩ áo giáp mũ trụ nhãy nhót cùng Thôi Diên Bách lên ngựa vào trận, bên cạnh như không có người, hùng dũng trùm cả tam xa, oai phong chấn động cả kiếm dựng, chỉ trong thời gian 2 năm hiến tiệp tương tục. Xú nô chiêu mộ tay thiện xạ bắn Điền Tăng Siêu chết, Thôi Diên Bách buồn tiếc rống khóc. Mọi người chung quanh cho rằng: “Bá Nha mất Chung Tử Kỳ chưa lấy làm quá lắm vậy. Về sau, Thôi Diên Bách vì trong dòng mất ở giữa bèn chết trong quận trận, cả 5 vạn binh lính đồng một lúc tan mất! Phía Tây chợ có hai làng Thối Cô và Trị Thương, người dân trong làng phần nhiều ủ rượu làm nghề sống chính. Có Lưu Bạch Đọa người xứ Hà Đông khéo giỏi ủ men rượu, vào lúc tháng 6 thời tiết nắng nóng dùng vò chứa rượu phơi giữa trời, trải qua một tuần, rượu ấy ngưng đóng không máy động, uống vào thì nghe mùi vị rất thơm ngon mà say trả qua cả tháng chưa tỉnh. Các hàng Triều quý ở kinh đô phần nhiều ra quận đến phiên, xa cùng đem tặng thưởng vượt cả ngàn dặm. Vì rượu ấy từ xa đến, nên gọi là Hạc Thương, cũng gọi là tượu cưỡi lừa. Trong niên hiệu Vĩnh Hy (532-53) thời Bắc Ngụy, có Nam Thanh Châu Thứ Sử Mao Hồng Tân mang rượu đó đến phiên, gặp giặc giữa đường trộm cướp lấy uống liền say và đều bắt được. Nhân đó còn gọi là rượu bắt gian. Du Hiệp nói rằng: “Không sợ trương cung rút dao, chỉ sợ rượu đục của Lưu Bạch Đọa. Phía Bắc chùa có hai làng Từ Hiếu và Phụng Chung, người dân trong làng phần nhiều làm nghề bán quan quách, chuyên nghiệp kéo xe mướn, có Vãn Ca Tôn Nham lấy vợ đã 3 năm, chẳng cởi áo mà nằm, Tôn Nham nhân đó lấy làm quái lạ, bèn dòm ngó người vợ lúc ngủ, ngầm cởi áo ra thấy có 3 sợi lông dài 3 thước hình dáng tợ như đuôi Dã Hồ, Tôn Nham khiếp sợ mà chạy ra. Đến lúc sắp đi, người vợ ấy nắm dao cắt tóc Tôn Nham mà chạy đi, người láng giềng rượt đuổi theo, bèn biến thành một con chồn cáo nên đuổi bắt nó không được. Sau đó trong kinh ấp có hơn 130 người bị cắt tóc. Mới đầu con chồn cáo ấy biến làm người phụ nữ ăn mặc sạch đẹp, khiến người đi đường trông thấy mà vui thích, khi đến gần nó đều bị cắt tóc. Bấy giờ có một phụ nữ mặc áo lụa thêu, mọi người đều cho đó là chồn cáo làm mê hoặc. Từ trong tháng 0 năm Hy Bình thứ 2 (517) thời Bắc Ngụy cho đến tháng 8 mới ngưng bút. Riêng có hai làng Chuẩn Tài và Kim Tứ. Những nhà giàu có phần đông đều ở trong đó. Phàm xứ đó trong khoảng 10 dặm, dân chúng lắm nhiều là công thương buôn bán, mỗi một ngôi nhà sánh cả ngàn vàng, tầng lầu đối mặt, cửa lớp mở cánh, đường gác giao thông, lần lượt cùng trông gần, vàng bạc gấm lụa, tôi tớ xiêm y, năm thứ mùi vị thức ăn, có đủ tám thứ ngon lạ, đứa ở kẻ làm cả thảy đều no miệng. Trong niên hiệu Thầy Quy (518-520) thời Bắc Ngụy, vì các công thương tấu trình bàn nghị không cho vận mặc vàng bạc gấm lụa. Tuy lập ra định chế đó mà trọn chẳng thi hành.

37. CHÙA KHAI THIỆN Ở LÀNG CHUẨN TÀI

Chùa Khai Thiện là vườn nhà xưa cũ của Vi Anh người xứ Kinh Triệu. Vi anh chết sớm, có người vợ vốn dòng họ Lương chẳng chịu để tang mà lại lấy chồng nên đính ước với Hướng Tử Tập người xứ Hà Nội làm chồng, tuy nói là cải giá nhưng vẫn ở nhà của Vi Anh. Vi Anh nghe vợ lại lấy chồng, bèn giữa ban ngày cưỡi ngựa trở về cùng dẫn theo vài người, vừa đến trước sân nhà, kêu rằng: “A Lương! Khanh quên ta rồi ư?” Hướng Tử Tập kinh sợ nâng cung bắn, ứng với mũi tên mà ngã té, Vi Anh liền biến làm người Đào, con ngựa cưỡi theo đó biến làm thành ngựa mao, vài người cùng đi theo cũng biến làm thành người Bồ. Lương Thị (vợ Vi Anh) kinh sợ xả thỉ vườn nhà để lập thành chùa.

Có hầu khánh người xứ Nam Dương có một tôn tượng bằng Đồng cao hơn một trượng. Hầu khánh có một con trâu, nghĩ phỏng làm sắc màu vàng ròng, gặp phải việc gấp bèn giao trâu cho người khác sử dụng. Qua 2 năm sau, vợ của Hầu khánh vốn dòng họ Mã bỗng nhiên cảm mộng tôn tượng đó bảo rằng: “Vợ chồng nhà ngươi mắc nợ ta sắc màu vàng ròng đã từ lâu mà không bồi thường. Nay ta lấy con của ngươi là Xú Đa để thay thế vàng ròng ấy”. Sau khi tỉnh giấc, trong lòng bồi hồi không an. Mãi đến sáng sớm, Xú Đa cảm mắc bệnh mà chết. Hầu Khánh đã 50 tuổi mà chỉ có một đứa con nên vô cùng xót thương đó, tiếng khóc than cảm động người đi đường. Ngày Xú Đa chết, tôn tượng ấy tự nhiên tỏa phóng ánh sáng sắc màu vàng ròng soi chiếu khắp bốn phía. Trong khoảng một dặm mọi người nghe có mùi hương thơm khác lạ, các hàng Tăng tục lớn nhỏ đều đến trông xem. Thượng thư Hữu Bộc Xạ Nguyên Thận nghe trong làng ấy từng xảy ra các điều quái lạ bèn đổi tên làng chuẩn tài thành tên làng Tề Hài.

Từ làng thối cô trở về hướng Tây, Trương Phương khơi dòng nước đổ về hướng Đông, phía Nam gần Lạc thủy, phía Bắc đến tận mang sơn. Giữa khoảng Đông Tây rộng 02 dặm, Nam Bắc dài 15 dặm, đều gọi là làng Thọ Khâu, là nơi ở của dòng tộc Hoàng Tông, trong dân gian gọi đó là phường Vương Tử. Bấy giờ bốn biển bình yên, tám xứ dẫn chức, đấy châu ghi vui mừng, đuốc ngọc đốt điều thời khắc, dân chúng giàu có đông đúc, thường năm bày lên niềm vui trong đời. Quan quả (góa vợ góa chồng) không nghe ăn của heo chó, trơ trọi một mình chẳng thấy áo của trâu dê. Do đó dòng tộc vương hầu, công chúa ngoại thích, chiếm sự giàu có của núi biển, ở nơi đầy đủ của sông rừng, tranh nhau sửa sang vườn nhà, cùng nhau kheo trương, cửa cao nhà lớn, cửa suốt phòng liền, Quán bay nổi gió, tấng lầu bốc sương, đài cao cỏ thơm cây quý nhà nhà đều dựng xây, rừng hoa ao cong vườn vườn đều có, không đâu chẳng Đào lý xanh bóng ngày Hạ, trúc bách biếc là mùa Đông. Mà Hà gian Vương Sâm rất là đứng đầu giàu có, từng cùng Cao Dương tranh quyền hành tạo dựng văn Bách đường, hình dáng như điện Huy Âm, đặt giếng ngọc lọ vàng, dùng vàng 5 sắc bện làm dây, kỷ nữ có 300 người đều là hạng quốc sắc. Có đứa tớ tên là Triều Vân khéo thổ sáo trì (có 8 lỗ), hay làm đoàn phiến ca âm thanh Lũng thượng. Vương Sâm bảo Triều Vân giả làm bà già nghèo khổ thổi sáo trì để xin ăn. Các rợ khương nghe đó thảy đều rơi lệ, lần lượt cùng nói với họ rằng: “Cớ sao đành bỏ phần mộ giếng nước ở núi hang mà làm giặc vậy?” Họ bèn cùng nhau dẫn trở về hàng phục. Tần Thị nói rằng: “Khoái thích con của Mã Kiện chẳng bằng bà già thổi sáo trì”. Vương Sâm ở tại Tần châu phần nhiều không công tích quốc chính, sai sứ đến Tây Vức tìm kiếm danh mã (ngựa tốt giỏi). Kẻ sứ bèn xa đến nước Ba Tư có được con ngựa đi ngàn dậm, đặt tên là “Truy phong xích ký”, tiếp theo có hơn 10 con đi được 700 dặm, đều có đặt tên gọi. Dùng bạc làm chuồng, lấy vàng làm vòng khóa. Các vương hầu phục sự giàu sang đó. Vương Sâm bảo cùng mọi người rằng: “Thạch Sùng ở thời nhà Tấn chỉ là dòng họ thứ dân mà còn có thể dùng đầu chim trỉ, da nách chồn cáo họa mèo khắc củi. Huống hồ ta đây là nước Đại Ngụy Thiên vương, chẳng lấy làm xa hoa hao tốn”. Bèn tạo dựng nghinh phong quán ở vười sau, trên cửa sổ liệt bày vòng khóa tiền xanh, phụng ngọc ngậm khánh, rồng vàng nhả ngọc bội. Nại trắng lý đỏ cành nhánh rủ vào diềm, kỹ nữ trên lầu ngồi mà hái ăn. Vương Sâm thường nhóm tụ tông thất bày các vật báu nào bình vàng lọ bạc có hơn trăm cái, âu chén, đế đèn mâm hộp cân xứng, ngoài ra đồ vật đựng rượu có bát thủy tinh, chén mã não, lưu ly, chén ngọc sắc đỏ có vài mươi cái, thợ làm rất kỳ diệu, ở xứ Trung Hoa không có, đều mang đến từ xứ Tây Vức. Lại bày các nữ nhạc cho đến các danh mã. Lại dẫn các vươnghầu xét xem phủ khố, tơ len ngọc ky, lưới băng màn mốc tích chứa đầy bên trong, tú, hiệt, dầu, tơ, lụa sắc màu, việt cát, tiền, vải quyên v.v… nhiều không thể tính kể. Bỗng nhiên, Vương Sâm nói cùng Chương Võ Vương Dung rằng: “Ta không hận chẳng thấy Thạch Sùng, chỉ hận Thạch Sùng chẳng thấy được tôi”. Vương Dung tánh nết tham bạo, chỉ ý ham muốn không hạn, thấy vậy mà oán thán, bất chợt sinh bệnh trở về nhà nằm suốt ba ngày không dậy. Có Giang Lăng vương kế đến trông xem bệnh mà nói rằng: “Tài sản của ông đáng được cân bằng, sao than tham tiện mà đến nỗi này?” Vương Dung nói: “Thường cho rằng tại Cao Dương có một người nhiều của báu đó chỉ là Vương Dung, ai biết đến Hà giang trông thấy đó đã đứng trước vậy”. Vương Kế cười bảo: “Ông muốn làm viên thuật chi ở Hoài Nam, chẳng biết trong thế gian lại còn có Lưu Bị”. Vương Dung mới gắng dậy, đặt rượu làm vui.

Bấy giờ trong nước nhà giàu có thịnh vượng, kho chứa tràn đầy, tiền bạc vải quyên bày chất ngoài hiên, không thể tính kể. Đến lúc Thái hậu ban tặng trăm quan tùy ý tự lấy mang vác vải quyên. Các hàng triều thần không ai chẳng dốc sức lấy mang đi. Chỉ có Vương Dung cùng với Hầu Lý Sùng ở Trần Lưu mang vải quyên đi qua đạp ngã sủng bày thân hình. Thị trung Thôi Quang chỉ lấy 2 xấp, Thái hậu hỏi Thôi Quang cớ sao lấy ít. Thôi Quang đáp rằng: “Thần có 2 tay chỉ kham lấy 2 xấp là nhiều lắm vậy”. Các hàng Triều Quý kính phục sự thanh liêm ấy. Trải qua lính của Hà Âm gia nguyên giết hết, để thất của các vương hầu phần nhiều đề làm chùa. Cổng làng thọ khâu liệt bày chùa cùng trông nhau, kỳ hoàn ùn nổi, tháp bàu vút cao. Hằng năm vào ngày mồng 8 tháng 04, các hàng sĩ nữ ở kinh đô phần nhều đến chùa Hà giang trông xem hiên vũ xen nhau ánh lệ, không ai chẳng ngợi ca cho là Bồng lai tiên thất cũng chẳng hơn vậy! Vào sau vườn đó, thấy bờ đê ngồi rảnh đá phẳng đá ngầm, sen đổ nổi trên, lục bình xanh biết nổi giữa dòng nước, cầu bay đạp đến các cao, cây vút ngoài mây, thảy đều nức nở khen hoài cho rằng tuy vườn thỏ của Lương vương tưởng cũng chẳng như thế.

38. CHÙA TRUY QUANG

Chùa Truy Quang là vườn nhà của Thượng Thư Lệnh Đông Bình Vương Lược. Vừa mới sinh mà vương lược đã trành oanh, tuy bé nhỏ nhưng khuôn mặt tợ lão thành, rộng thấm đượm các sách, mến thích Đạo chẳng mỏi mệt. Trong khoảng niên hiệu Thần Quy (518-520) thời Bắc Ngụy, Vương Lược làm Hoàng Môn Thị Lang, Nguyên Nghĩa Chuyên Quyền chấp chánh, trái ngược thêm Tể phụ, Vương Lược kín cùng người anh là Tương Châu Thứ Sử Trung Sơn Vương Hy muốn dấy khởi nghĩa binh hỏi tội Quân hèn dốt, Hùng Quy chẳng đến, động khởi đồng mưu. Anh em của Vương Lược có người đều bị sa lưới đồ thán, chỉ có một mình Vương Lược lánh mình chạy đến Giang Tả. Tiêu Diễn vốn nghe tên Vương Lược, thấy Vương lược khí độ khoan nhà, văn học ưu chiêm, nên rất lấy làm kính trọng, hỏi rằng: “Tại Lạc Trung, có như Vưởng Lược có được bao nhiêu người?” Vương Lược đáp rằng: “Ngày thần ở tại bản triều, nhân thiếu nên tiếp làm Quan. còn đến như vẻ đẹp của Tông miếu, giàu sang của trăm quan, Uyên Ương tiếp cánh, kỷ tử thành râm. Cỡ như thần mà sánh thì Triệu Tư đã nói là xe chở đong lường không tính hết được”. Tiêu Diễn cười lớn, mới phong làm Trung Sơn Vương, thực ấp 1.000 hộ, nghi vũ sánh như Hoàng tử, kịp đến lúc dẹp trừ tuyên thành thái thú, cấp cổ thứ một bộ, lính kiếm 1.000 người. Vương Lược làm chính thanh túc, rất có tiếng tăm sửa trị. Các hàng Triều Quý ở Giang Đông xa xỉ kiêu căng cao ngạo, thấy Vương Lược vào triều, không ai chẳng kính sợ sự tiến dừng của Vương Lược. Sau đó dời đổi làm Tín Võ Tướng Quân Hành Châu Thứ Sử. Đến năm Hiếu Xương thứ nhất (525) thời Bắc Ngụy, vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ) rộng tha thứ cho Giang cách; người xứ ngô, thỉnh mời Vương Lược trở về lại nước nhà. Giang Cách là Đại tướng của Tiêu Diễn. Tiêu Diễn nói rằng: “Trẫm thà mất giang cách chứ không thể không có Vương Lược”. Vương Lược nói” “Thần gặp phải hoạn nạn tai họa của gia đình, xương cốt người thân chưa gom nhặt, nên xin trở về lại bản triều thâu gom coi thử còn mất”. Nhân đó liền buồn khóc. Tiêu Diễn cũng xót thương đó mà sai phái đi, và cấp tặng 500 vạn tiền, 200 cân vàng, 500 cân bạc, tơ lụa các vật báu nhiều không thể tính kể, đích thân Tiêu Diễn dẫn trăm quan đưa tiễn đến Giang thượng. Làm thơ ngũ ngôn biếu tặng có hơn trăm người. Phàm được lễ kính đến nỗi như thế. Mới đầu, Vương Lược vừa đến sông Hoài, vua Hiếu Minh Đế mời làm thị Trung Nghĩa Dương Vương, ban cấp thực ấp 1. 000 hộ. Vương Lược đến cung quyết có sắc chiếu nói rằng: “Xưa trước Lưu Thương khéo thiện lợi tạo dựng Đông Bình, Tào Thức hay văn mở lớn nước Trần. Đó là dùng tiếng Bưu Bàng Thạch Nghĩa Uất Duy Thành, Thị Trung Nghĩa Dương Vương Lược thể tự phồn hoa, vốn nhà hun đúc xưa trước nỗi bày, trong đượm nhuần, ngoài tỏa sáng, anh em kỳ vĩ như đã thấy nghĩa mà mất nhà, vất bỏ mạng sống vì đất nước, trọn nói trung liệt, ngày nào mới quên đó, trước kia tuy buông gánh vì lương, nay tiện nói xoay trở lại dưới cung quyết, thật là có chí có tiết, hay thỉ hay chung, mới truyền vẻ đẹp đỏ xanh, treo sánh như nhật nguyệt”. Ngày trước chưa đến, Vương Lược ngay tâm lập xứng, nên phong làm Nghĩa Dương Vương, nhưng nước đã thuộc xứ biên địa, ngụ ở ăn dùng tại ấp khác, cầu xin đó đôi ba phen mà chưa thật là hết sức tốt lành. Nên sánh đức cân phong tìm mùi thơm đùm bọc anh liệt, có thể đổi phong làm Đông Bình Vương, số hộ vẫn như cũ, sau lại tiến phong làm Thượng thư nghi đồng tam ty, Lãnh quốc tử tế tửu thị trung vẫn như cũ. Vương Lược thông dong nhàn nhã vốn tự là bẩm chất, ra Nam vào Bắc, chuyển lại cao xa, nói luận động tỉnh, đáng làm bậc mô phạm từ triều đình đến thôn dã. Đến năm Kiến Nghĩa thứ nhất (528) thời Bắc Ngụy, Vương Lược qua đời tại Giang Âm, được phong tặng là Thái bảo, thụy hiệu là Văn Trinh. Người phụng thờ tiếp nối là vương Cảnh Thức xả thí vườn nhà tạo lập nên chùa ấy.

39. CHÙA DUNG GIÁC

Chùa Dung Giác do Thanh Hà Văn Hiếu Vương Dịch tạo lập, tại phía Nam Ngự đạo ngoài Lư hạp môn. Có một ngôi Phù đồ 5 tầng, cùng ngang bằng như chùa Xung giác v.v… điện Phật phòng ăng đầy tràn một dặm. Có Tỳ-kheo Đàm Mô rất khéo giỏi về thiền học, giảng các kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm, Tăng Đồ có cả ngàn người. Có Sa-môn Bồ-đề Lưu Chi vốn người Hồ ở nước Thiên Trúc thấy thế mà kính lễ tôn xưng là Bồ-tát. Sa-môn Bồ-đề Lưu Chi thấu hiểu Phật nghĩa rất nổi danh. Các giống người Di ở những nước phía Tây đều xưng gọi là A-la-hán, thông hiểu tiếng Trung Hoa thời Nguyên Ngụy và khéo viết lối chữ lệ, phiên dịch các kinh luận như Thập địa, Lăng Già v.v… Cả thảy 23 bộ. Tuy ở thạch thất mà ghi tả lời vàng, nhà cỏ mà truyền chân giáo. Chẳng đâu có thể hơn vậy. Sa-môn Bồ-đề Lưu Chi đọc bộ “Đại thừa Nghĩa Chương” của Đàm Mô Tối, từng khảy móng tay tán thán xướng lời vi diệu, tức là Hồ thủ ghi tả và lưu truyền vậy. Các Sa-môn người Tây Vức ở Tây Vức thường hướng về phương Đông xa kính lễ đó, tôn xưng Đàm Mô Tối là Thánh nhân ở phương Đông vậy.

40. CHÙA ĐẠI GIÁC

Chùa Đại Giác do Quảng Bình Vương Hoài xả thí vườn nhà mà tạo lập, chùa ở tại phía Tây cách chùa Dung Giác một dặm. Về phía Bắc thì trông nhìn đến mang lãnh, phía Nam nhìn tới Lạc nhuế, phía Đông trông tới Cung quyết, phía Tây ngoảy nhìn tới Kỳ Đình, thần cao bày thoát thật là Thắng Địa vậy. Do đó. Trong văn bia, Ôn Tử Thăng ghi tả rằng: “Tây sông, Bắc núi, tả triều, hữu chợ” là đó vậy. Vây quanh chỗ ở, trên điện đường thiết trí 7 tôn tượng Phật, rừng, ao, các bay sinh như ở chùa Cảnh Minh. Đến như gió xuân lay động cây thì lan bày lá tía, sương thu rơi cỏ thì cúc nhả hoa vàng. Các bậc danh tăng vắng lặng để dứt phiền. Đến trong niên hiệu Vĩnh Hy (532-53) thời Bắc Ngụy, Bình Dương Vương (?) lên ngôi, tạo dựng một ngôi Phù Đồ bằng gạch, các thợ thiết chế đất đá rất mực tinh diệu tráng lệ, ban sắc Trung Thư Xá Nhân Ôn Tử Thăng soạn thuật văn bia ấy vậy.

41. CHÙA VĨNH MINH

Chùa Vĩnh Minh do Tuyên Võ Hoàng Đế (Nguyên Khác 500-516) tạo lập tại phía Đông chùa Đại Giác. Bấy giờ, Phật pháp kinh tượng rất hưng thạnh tại Lạc Dương. Những Sa-môn ở các nước khác đều đến đông nhiều, mang tích trì kinh thích đến đất Lạc này, nên vua Thế Tông (Tuyên Võ đế – Nguyên Khác) tạo lập nên chùa này để ở nghỉ. Phòng nhà liền tiếp vây quanh có hơn ngàn gian. Sân bày trúc dài, diềm mái phẩy phất tùng cao, hoa kỳ cỏ lạ phủ tràn thềm cấp. Chư vị Sa-môn trong trăm nước có hơn 3.000 người. Có vị từ Tây Vức xa cho đến nước Đại Tần, khắp cùng biên thùy phía Tây của đất trời, đánh đệt quán điểm hoang dã của muôn dân, làm thành ấp nhà cùng trông nhau, y phục xe ngựa phỏng theo phong nghi ở Trung Hoa. Ở phía Nam trung có nước Ca Doanh, cách kinh đô rất xa, phong thổ cách tuyệt, đời đời chẳng cùng giao thông với Trung Hoa. Tuy hai triều đại nhà Hán (Tây Hán và Đông Hán) cho đến thời Tiền Ngụy cũng chưa từng đến vậy. Nay mới bắt đầu có Sa-môn Bồ-đề Bạt-đà tự nói là từ phía Bắc đi một tháng mới đến nước Câu Trĩ. Lại theo hướng Bắc đi 12 ngày đến nước Tôn Điển. Từ nước Tôn Điển theo hướng Bắc đi 30 ngày đến nước Phù Nam, vuông 500 dặm, đó là nước của Nam Di rất lớn mạnh, dân chúng đông nhiều, là nơi sản sinh các thứ minh châu vàng ngọc và thủy tinh đẹp lạ, có lắm nhiều cây cau. Tứ nước Phù Nam theo hướng Bắc đi một tháng đến nước Lâm Ấp, ra nước Lâm Ấp vào nước Tiêu Diễn. Sa-môn Bồ-đề Bạt-đà đến ở Dương châu hơn một năm, lại theo Tỳ-kheo Pháp Dung từ Dương châu đến kinh đô. Tỳ-kheo Pháp Dung hỏi về phong tục ở phương Nam. Sa-môn Bồ-đề Bạt-đà nói rằng: Xưa trước có nước Nô Điều, cưỡi xe ngựa bốn bánh, từ nước Nô Điều ấy ra chợ Hỏa hoàn được dùng bằng da cây mà làm nên. Cây ấy đưa vào lửa không bị đốt chày. Phàm các nước ở phương Nam đều nhân vơi thành quách mà ở, có lắm nhiều trân lệ. Dân chúng có tập tục thuần thiện, ngay thẳng chân chất. Mến mộ nghĩa tình, cũng như các nước Tây Vức, Đại Tần, An Tức, Thân Độc v.v… thường luôn giao thông qua lại, hoặc ba phương bốn phương nổi sóng nương theo gió đi khoảng trăm ngày bèn đến. Dân chúng rất mực kính phụng Phật giáo, ưa thích sự sống chán ghét sự chết.

Về phía Tây của chùa có làng Nghi Ngưu, trong làng ấy có 2 vườn nhà của Trần Lưu Vương Cảnh Hạo, và Thị Trung An Định Cung Hồ Nguyên Cát Vương Cảnh Hạo vốn là con của Hà Nội Thứ Sử Trần Lưu Trang Vương Tộ, lập tánh thoáng rỗng, từ thuở thiếu thời đã có độ lượng lớn, mến người thích việc, tiếp đãi vật không để sót, rất khéo giỏi Huyền ngôn vốn nghiệp của Đạo gia, bèn xả thí nửa vườn nhà an đặt

Phật đồ, diễn xướng Đại thừa vào bộ đều tiến. Có bốn Đại đức Pháp sư Siêu, Quang, Thiền, Vinh ở kinh đô và Tam tạng Pháp sư Sa-môn Bồ-đề Lưu Chi người Hồ v.v… , đều dự nơi pháp tịnh đó. Những bậc tài sĩ kỹ thuật ở các phương không ai chẳng tìm đến. Bấy giờ, có Phụng Triều Thỉnh Mạnh Trọng Huy vốn người xứ võ Thành, thân phụ tên là Tân làm Kim thành thái thú. Trọng Huy chí tánh thông minh học thông giáo điển Phật giáo. Nghĩa lý Tứ Đế thấu cùng chỉ quy, thường đến nơi để thất cùng các Sa-môn luận bàn nghĩa lý. Người thời bấy giờ xưng gọi là Huyền Tông tiên sinh. Trọng Huy bèn tạo một tôn tượng giáo trừ bằng người cở trung, tướng hảo đoan nghiêm, trong đời hiếm có, thiết trí trước sảnh của Vương Cảnh Hạo, phút chốc trọn thành tòa báu.

Trong năm Vĩnh An thứ 2 (52) thời Bắc Ngụy, tôn tượng ấy hằng đêm thường đi nhiễu quanh chỗ ngồi, khắp bốn mặt đều có dấu chân dấu ẩn nơi đất thành đường văn. Từ đó, các hàng sĩ thứ lấy làm lạ đều đến trông xem. Do đó mà người phát tâm cũng lại đông nhiều vô lượng. Đến mùa thu năm Vĩnh Hy thứ 3 (53) thời Bắc Ngụy, tôn tượng ấy tự nhiên biến đi chẳng biết đến xứ nào, qua mùa Đông năm đó, kinh đô Lạc Dương dời đến đất nghiệp. Đến năm Võ định thư 5 (57) thời Đông Ngụy, Trọng Huy làm Lạc châu khai phủ trưởng sử, lại gia công dò xét tìm kiếm, vắng vẻ không ảnh vết. Ra Lư hạp môn cách ngoài thành 7 dặm, đến cầu Trường Phân, vào thời Trung Triều vì cốc Thủy lăng gấp trút xuống dưới thành hư hoại lắm nhiều nhà dân, bèn lập cầu Đá để phân hạn đó, nói dài thì phần dòng chảy vào Lạc, nên gọi là Trường Phân. Hoặc có người nói: Vào thời nhà Tần, Hà Giang Vương ở tại Trường An sai phái Trương Phương đi đánh dẹp Trường Sa Vương, đóng quân tại đó, nhân đó mà gọi là cầu Trường Phương, chưa biết ai đúng. Nay trong dân gian nói lầm vậy, gọi là cầu Trường Phu nhân. Các hàng triều sĩ lúc đưa tiễn hay nghinh đón phần nhiều đều ở tại đó. Phía Tây cầu Trường Phân có đập đê ngàng vàng, tính về ích lợi của thủy lợi mỗi ngày có cả ngàn vàng, nhân đó mà gọi tên vậy. Ngày trước đập đê ấy là do Đô thủy sứ Trần Hiệp tạo dựng nên, đến nay đã cả ngàn năm, nên thường tu sửa vậy.

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA TÂY THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN (Hết)

 

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA BẮC THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 5

 

42. CHÙA THIỀN HƯ

Chùa Thiền Hư tại phía Tây Ngự đạo, Đại hạ môn. Trước chùa có Trường Duyệt Võ. Đến lúc cuối năm, dân nông nhàn rỗi, các hàng sĩ giáp tập chiếu, ngàn chở muôn cưỡi thường đến tại đó. Có Mã Tăng Tướng ở Vũ Lâm khéo hay lúc chạm, vui đùa ném kích cùng cây cao trăm thước ngang bằng. Có Trương Xa Cừ ở Hổ Bí, ném đao ra lầu cao một trượng. vua cũng thường trông xem vui đùa ở lầu, từng bảo hai người đối nhau vui đấu. Vào thời Trung Triều thì Trường Nguyên Võ ở tại phía Đông Bắc Đại hạ môn, nay đó là vườn phong quang có lắm nhiều rau mục túc sinh sống vậy.

43. CHÙA NGƯNG VIÊN

Chùa Ngưng Viên do Hoạn Quan Tế Châu Thứ Sử Giả Xán tạo lập, chùa ở tại phía Đông Ngự đạo cách một dặm ngoài Quảng mạc môn, đó gọi là làng Vĩnh Bình. Có ghi chú đó là nơi của Thái Thượng Vương quảng thời nhà Hán. Lúc mới đầu chuyển dời kinh đô đến ở tại làng đó, nhân gặp phải thân mẫu qua đời bèn xả thí vườn nhà làm chùa. Thế đất ở đó cao bày, phía dưới gần thành quyết, phòng nhà tráng lệ tinh sạch, tùng bách thành rừng, thật là nơi của các hàng tịnh hạnh tức tâm. Các hàng Vương Công Khanh Sĩ đến thăm xem làm thơ ngũ ngôn không thể tính hết số lượng.

Phía Đông Bắc thành Lạc Dương có làng Thượng Cao Cảnh, là nơi lắm nhiều Dân ngu ở. vua Cao Tổ (Hiếu Văn Đế – Thác Bạt Hoành) đặt gọi đó là làng Văn nghĩa. Mới đầu, lúc dời kinh đô, các hàng triều sĩ đến ở trong đó, lần lượt hiềm khích châm chích nhau cuối cùng đều bỏ đi, chỉ có người làm đồ gốm ở lại trong đó. Các thứ vật dụng bằng gốm sứ tại kinh đô đều xuất phát từ làng đó. Người đời có lời ca rằng: “Làng thượng cao ở phía Đông bắc thành Lạc Dương là nơi xưa trước đông nhiều dân ngu sinh sống, ngày nay trăm họ làm nên bình gốm”. Mọi người đều bỏ đi, kẻ ở lại xấu hổ. Chỉ có Quán Quân Tướng Quân Quách Văn Viễn đến ở trong đó. Nhà cửa vườn rừng sánh cùng Bang quân. Có Lý Nguyên Khiêm ở Lũng Tây thích song thanh ngữ, thường đi ngang qua trước vườn nhà của Quách Văn Viễn, trông thấy cửa nẻo đẹp xinh mới nói rằng: “Là vườn nhà ai đây mà đẹp xinh quả vậy?”. Đứa ở là Xuân Phong liền ra nói rằng: “Đây là nhà của Quách Quán Quân”. Lý Nguyên Khiêm bảo: “Đây là đứa ở Song Thanh?”. Xuân Phong liền nói: “Sao đứa ở mà khinh mạn mắng chửi vậy?” Lý Nguyên Khiêm bèn phục tài năn của đứa ở. Từ đó ở kinh đô tự nhiên truyền gọi đó là làng Văn Nghĩa. Có vườn nhà của Tống Vân người xứ Đôn hoàng đã từng cùng với Tuệ sinh đồng đi sứ Tây Vức. Tháng 11 năm Thần Quy thứ nhất (518) thời Bắc Ngụy, Thái hậu sai bảo sùng lập chùa đó, Tỳ khưu Thích Tuệ Sinh từ Tây Vức thỉnh mang kinh về được 170 bộ, đều là Diệu điển Đại thừa. Mới đầu phát xuất tại kinh đô theo hướng Tây đi 0 ngày đến xích lãnh tức biên cương phía Tây của nước Trung Hoa, quan ải cấm phòng của Hoàng Triều Nguyên Ngụy đóng tại đó. Xích lãnh là nơi không có cỏ cây sinh sống, nhân vì vậy mà gọi tên là đỉnh núi đỏ (xích lãnh) vậy. Núi đó có chim chuộc đồng ở một hang, khác giống mà cùng chung loài, chim trống chuộc mái cùng làm âm dương, tức chỗ gọi là chim chuộc đồng hang vậy. Lại phát xuất từ Xích lãnh theo hướng Tây đi 23 ngày vượt qua Lưu sa đến nước Thổ Cốc Hồn, giữa đường rất lạnh lắm nhiều gió tuyết, cát bay đá chạy khắp mắt đều đầy. Chỉ hai bên phải trái thành Thổ Cốc hồn hơi ấm hơn so với các nơi khác. Nước đó có chữ viết hình dạng đồng như ở nước Ngụy (Trung Hoa), phong tục chánh trị phần nhiều là Di Pháp. Từ nước Thổ Cốc Hồn theo hướng Tây đi 3.500 dặm đến thành Thiện Thiện. Thành đó tự lập vua, bị nước Thổ Cốc Hồn thôn tính. Nay trong thành đò có Đệ Nhị Tức Ninh Tướng Quân của Thổ Cốc Hồn hiện đang ở, gồm cả thảy 3.000 bộ lạc để phòng ngự Tây Hồ. Từ thành Thiện thiện theo hướng Tây đi 1.60 dặm đến thành Tả Mạt. Trong thành đó dân chúng sinh sống có khoảng trăm nhà. Đất đai không có mưa nên phải khơi nước trồng lúa, không biết dùng trâu bỏ để cày bừa làm ruộng. Trong thành đó đồ họa hình tượng Phật và Bồ-tát đều không giống dung mạo người Hồ mà phòng theo hình Cổ Lão, đó là do Lã Quang đánh chiếm nước người Hồ mà làm nên vậy. Từ thành Tả mạt theo hướng Tây đi 1.275 dặm đến cuối thành, bên cạnh cuối thành hoa quả đều tương tợ như ở thành Lạc Dương, chỉ có nhà đất ngang bằng đầu là khác lạ. Từ cuối thành theo hướng Tây đi 2 dặm đến thành Hãn Ma. Từ thành ấy về phía Nam cách khoảng 15 dặm có một ngôi chùa lớn. Chúng Tăng có hơn 300 vị. Có một tôn tượng bằng vàng cao trượng sáu, nghi dung siêu tuyệt tướng tốt rực rỡ, mặt thường xoay về hướng Đông mà đứng, chẳng chịu trông nhìn về hướng Tây. Các bậc lão thành tương truyền rằng: Tôn tượng đó từ phương Nam bay vọt giữa không trung mà đến. vua nước Vu Điền đích thân đến lễ bái, thỉnh chuyển đưa về nước, vừa đi nửa đường đang lúc ban đêm bỗng nhiên không thấy tôn tượng nữa, sai người kiếm thì thấy tôn tượng trở về nơi chỗ cũ, bèn vì tạo dựng tháp, phong 00 hộ lo việc cúng dường quét tước. Trong số hộ đó như có người cảm mắc bệnh dùng vàng mỏng thếp tượng bôi thoa vào chỗ bệnh liền được lành khỏi. Người đời sau đến bên cạnh tôn tượng ấy tu tạo tôn tượng cao trượng sáu và các tháp tượng có đến số ngàn ngôi, treo phan lọng lụa thêu cũng có hàng vạn cái, phan của nước Ngụy (Trung Hoa) có hơn một nửa. Trên đầu phan có ghi viết theo lối chữ lệ là “Năm Thái Hòa thứ 1 (5)”, “năm Cảnh Minh thứ 2 (501”, “năm Diên Xương thứ 2 (513)” (đều thuộc thời Bắc Ngụy) chỉ có một bức. Trông xem các niên hiệu đây tức là phan của thời Diêu Tần vậy.

Từ thành Hãn ma theo hướng Tây đi 878 dặm đến nước Vu Điền. Trên đầu vua đội mũ vạng tợ như gà, khăn vén tóc bịt rủ sau đầu dài 2 thước bằng sinh gạ quyên, rộng 5 tấc để trang sức. Oai nghi có trống kèn, chiêng vàng, cung tên một bộ đủ, hai cái kích, năm trương dáo, kẻ hầu hai bên đeo mang dao không quá trăm người. Nước đó có phong tục người nữ mặc khố áo sam buộc đai cưỡi ngựa rong chạy không khác phái nam. Người chết rồi thì dùng lửa thiêu đốt, gom nhặt hài cốt để an táng, phía trên tạo dựng Phù đồ, người đang chịu tang thì cắt tóc rạch mặt lấy làm buồn đau. Tóc dài bốn tấc tức là bình thường. Chỉ có vua chết thì không thiêu đốt, đặt liệm trong quan rồi đưa đi xa đến an táng nơi đồng hoang trống, và tạo lập miếu phụng thờ cúng tế, theo thời mà nghĩ nhớ đó. vua nước Vu Điền không tin Phật pháp. Có người thương buôn nước Hồ dẫn một Tỳ-kheo tên là tỳ-lô-chiên đến dưới cây hạnh ở phía Nam thành, rồi chạy đến chỗ vua mà chịu tội và nói rằng: “Nay có dẫn đưa đến một vị Sa-môn người nước khác lượn đang ở dưới cây hạnh tại phía Nam thành”. vua nghe thế, tức giận liền sang trông xem Tỳ-lô-chiên. Sa-môn Tỳ-lô-chiên nói rằng: “Đức Như Lai bảo tôi lại đây khuyên vua tạo một cái chén che đậy ngôi Phù đồ để khiến vận phước của vua được vĩnh viễn hưng thạnh”. vua bảo: “Hãy làm cho ta thấy được Phật thì ta sẽ vâng mạng”. Sa-môn Tỳ-lô-chiên liền gióng chuông cáo bạch, Đức Phật bèn sai Tôn giả La-hầu-la biến đổi thân hình làm Phật từ giữa không trung mà hiện chân dung. vua liền gieo cả năm vóc xuống đất lễ kính, và ngay dưới cây hạnh tạo lập chùa nhà, họa làm hình tượng Tôn giả La-hầu-la. Bỗng nhiên tự ẩn mất, vua nước Vu Điền lại tạo dựng tinh xá bao bọc chung quanh đó, bảo dùng ngói lợp che đậy lại nhưng ảnh bóng vẫn thường lưu xuất hiện rõ bên ngoài phòng nhà. Những người trông thấy không ai chẳng xoay tâm chuyển hướng. Trong đó có chiếc giày của vị Bích Chi Phật. Mãi đến nay vẫn chưa rã nát, chẳng phải bằng da, chẳng phải loại lụa dày, không ai có khả năng xét biết được. Cảnh vức của nước Vu Điền từ Đông sang Tây không quá 3.000 dặm.

Đến ngày 2 tháng 7 năm Thần Quy thứ 2 (510 thời Bắc Ngụy, vào nước Chu-câu-ba. Dân chúng nước đó nương tựa núi để sống, ngũ cốc rất tốt tươi. Ăn dùng bún miếng lúa thóc, không có nhà nào giết hại súc vật, người ăn thịt tức dùng thịt tự chết. Phong tục ngôn ngữ nói năng tương tợ như ở nước Vu Điền, chữ viết đồng như của Bà-la-môn. Biên giới nước đó, đi khoảng năm ngày thì cùng khắp. Qua đầu tháng 08 là vào biên giới nước Hán Bàng Đà. Lại theo hướng Tây đi 6 ngày lên núi Thông Lãnh. Lại theo hướng Tây đi 3 ngày đến thành Bát vu. Tiếp đi 3 ngày nữa đến núi Bất khả y (không thể nương ở). Xứ đó rất lạnh, bất kể mùa đông mùa hạ đều có tuyết đóng. Trong núi có ao. Rồng độc ở đó. Xưa trước có một thương nhân, đến dừng nghĩ qua đêm bên cạnh ao, gặp rồng tức giận, bèn chú giết hại thương nhân đó. vua Bàng Đà nghe vậy, bèn tạo trao ngôi vị cho con, đi đến nước Ô Trường học pháp chú thuật của Bà-la-môn, trong vòng năm, khéo biết hết chú thuật ấy, trở về giữ lại ngôi vua, lại chú nguyện vào ao rồng. Rồng độc ấy biến làm một người tìm đến nơi vua sám hối tội quá. vua liền chuyển dời nó đến núi Thông lãnh cách khỏi ao ấy hơn 2.000 dặm. vua ấy tức vị tổ đã 13 đời của vua ngày nay vậy. Từ đó trở về hướng Tây, đường núi cây xanh um tùm bên cạnh, sườn núi dài ngàn dặm, men sườn cao muôn nhân hiểm nguy tận trời xanh, thật là tại đó vậy, nên Thái Hành mạnh môn sách đây chẳng phải nguy hiểm, như núi Hào, quan ải, sười núi Lũng mời ngang bằng đây vậy. Phát xuất từ Thông lãnh từng bước dần cao, cứ đi như thế suốt ngày mới lên đến trên đảnh. Y cứ mà ước tính từ giữa trở xuống dưới thì đó thật đã giữa khoảng trời xanh vậy. Nước Hán Bàng Đà ngay tại trên đỉnh núi. Từ Thông lãnh trở về hướng Tây các dòng nước đều xuôi đổ về Tây. Người đời gọi đó là khoảng giữa của đất trời. Dân chúng khơi thác dòng nước để gieo trồng được, nên cười bảo: “Trời cớ sao có thể cùng mong vậy?”. Về phía Đông của thành có sông Mạnh Tân, theo hướng Đông bắc xuôi chảy đến nước Sa Lặc. Tại Thông lãnh nơi cao vút trơ trọi, cỏ cây không sinh mọc. Bấy giờ đang là thời tiết tháng 08, khí trời đã lạnh, gió bắc xua đuổi chim nhạn, tuyết bay ngàn dặm. Đến trung tuần tháng thì vào nước Bát Hòa, xứ ấy núi cao hang sâu, đường nguy hiểm như thường, chỗ ở của vua nước ấy nhân tựa núi mà làm thành quách, dân chúng vận mặc chỉ chuyên dùng áo giạ, đất đai rất lạnh, phải đào hang mà ở. Gió tuyết cứng mạnh cắt xé, người vật cùng nương tựa nhau. Biên giới phía Nam nước đó có núi tuyết lớn, lúc sáng mai tạm giản lỏng đến chiều tôi đông kết, trông nhìn tợ như ngọn núi Ngọc.

Qua đầu tháng 10, đến nước Yết Đạt, xứ đó đất ruộng rộng nhiều, núi chầm càng trông xa. Dân chúng sống không thành quách, quân lính bằng đường thủy mà sửa trị, dùng đệm giạ làm phòng nhà, tùy thuộc theo cỏ nước, mùa hạ thì tùy chỗ mát, mùa đông thì theo chỗ ấm mà ở. Làng nước không biết chữ nghĩa, lễ giáo đều thiên khuyết, âm dương chuyển vận không biết mức độ đó, thường năm không có đầy nhuận, tháng chẳng có phân đủ thiếu, cứ lấy 12 tháng làm thành một năm, nhận thọ các nước triều cống, phía Nam đến nước Điệp la, phía bắc đến tận nước Sắc Lặc, phía Đông trùm cả nước Vu Điền, phía Tây đến cả nước Ba Tư, có hơn 0 nước đều đến triều cống. vua trương bày một tấm giạ lớn ruộng vuông 0 bộ, chung quanh dùng thảm làm tường chắn, vua mặc áo gấm, ngồi giường vàng, dùng con phụng hoàng bằng vàng làm sàn gác chân. Thấy kẻ sứ của nước Đại Ngụy (Nguyên Ngụy – Trung Hoa) đến, có người lại bái quỳ nhận chiếu thư. Đến lúc thiết hội, có một người xướng thì khách bước đến trước, sau đó xướng thì bải hội, chỉ có pháp thức đó, không thấy âm nhạc. Vương phi nước Yết Đạt cũng mặc áo gấm xủ rủ giữa đất dài ba thước, có kẻ sử cầm nắm lấy đeo nơi đầu một góc dài tám thước, thừa dài ba thước, dùng ngọc mai côi năm sắc để trang sức trên đó. Lúc Vương phi đi ra thì cùngtheo đó, đi vào thì ngồi giường vàng, dùng voi trắng 6 ngà và sư tử làm sàn, ngoài ra vợ của Đại thần đều tùy theo, đầu tán cũng tợ như có góc đoàn viên rủ xuống, tướng trọng tợ như lọng báu. Xem thấy các hàng sang hèn ở xứ ấy cũng có phục chương. Với trong khoảng tứ Di thì rất là lớn mạnh. Xứ ấy không kính tin Phật pháp, phần nhiều là phụng thờ ngoại thần, sát hại sinh vật ăn uống máu thịt, vật dụng làm bằng bảy báu. Các nước đến hiến tặng có rất nhiều thứ quý lạ. Xét thấy nước Yết Đạt các kinh đô (Lạc Dương) khoảng hơn hai vạn dặm. Đến đầu tháng 11 thì vào nước Ba Tư, đất đai nước ấy rất nhỏ hẹp, chỉ 7 ngày đi qua. Dân chúng ở men theo núi, vốn nghiệp cùng tiễn, phong tục hung ác khinh mạn, thấy vua không kính lễ. vua đi ra đi vào chỉ có vài người cùng theo. Nước đó có dòng sông, xưa trước rất cạn, về sau bị núi sụp đổ nên ngăn cách dòng biến thành hai cái ao, có rồng độc ở đó và có lắm nhiều tai họa khác lạ, mùa hạ thì vui mừng mưa bảo, mùa đông thì băng tuyết đóng chứa. Người đi đường vì thế nên phần nhiều rất khốn khó. Tuyết có ánh sáng sắc trắng chiếu rọi vào mắt người, khiến người nhắm mắt mịt mờ không thấy, phải cúng tế vua rồng sau đó mới bình phục. Đến giữa tháng 11 thì vào nước Xa Di, nước đó dần ra ngoài Thông lãnh, đất ruộng cằn cỏi, dân chúng phần nhiều là nghèo hèn khốn khổ, đường đi gập ghềnh nguy hiểm, người ngựa phải cận thận bước qua, đi thẳng một đường. Lại từ nước Bát-lô-lặc hướng đến nước Ô Trường, được dùng móc sắt làm cầu treo giữa khoảng không mà vượt qua, trông nhìn xuống không thấy đáy, bên cạnh lại không có vật để nắm kéo, chỉ trong khoảng khắc ném mình xa muôn nhận. Vì thế người đi trông nhìn gió mà rơi lạc đường vậy.

Qua đầu tháng 12, vào nước Ô Trường. Xứ đó phía Bắc tiếp giáp với Thông lãnh, phía Nam nối liền với Thiên Trúc, đất đai khí hậu hòa ấm, địa phương có vài ngàn, dân vật đông nhiều sánh cùng như ở thần châu của Lâm Truy, ruộng nương tốt mầu ngang bằng trên dưới của Hàm Dương. Nơi Tỳ-la-xả thí con thơ, chỗ Tát-đỏa ném mình bố thí. Tục cũ tuy xa, thổ phong hiện vẫn còn, vua nước đó chuyên tinh ăn dùng rau quả trường trai, sớm tối lễ Phật, đánh trống thổi ốc, tỳ bà, không hầu, sênh, tiêu, đều có đủ, từ giữa ngày trở về chiều mới lo việc trị nước an dân. Giả sử như có người phạm phải tội chết, chẳng lập định hình luật giết hại, chỉ đưa vào trong núi trống không mặc tình ăn uống, mọi sự trải qua nghi tợ như dùng thuốc để điều phục vậy, đục trong hẳn có ứng nghiệm, tùy việc nặng nhẹ liền giải quyết tức thời. Đất đai xứ đó tốt đẹp, người vật giàu có đông nhiều, trăm thứ lúa má đều tươi tốt, các thứ cây trái chín nhiều. Về đêm, nghe tiếng chuông ngân vang khắp cùng thế giới. Cứ đó lắm nhiều hoa lạ, mùa đông mùa hạ luôn nối tiếp nhau, các hàng Đạo tục hái lấy đem dâng cúng dường Phật.

Vua nước đó thấy Tông Vân, nói rằng: “Sứ giả của nước Đại Ngụy đến”. Bèn vái dài mà nhận chiếu thư. Nghe Thái hậu rất sùng kính Phật pháp, liền xoay mặt về hướng Đông chấp tay xa dốc lòng kính lễ. Và sai người hiểu biết ngôn ngữ Trung Hoa mà hỏi Tống Vân rằng: “Ông là người nhật xuất xứ nào vậy? Tống Vân đáp rằng: “Ở biên giới phía Đông nước chúng tôi có biển nước lớn, nhất xuất từ trong đó”. Thật là ý chỉ của Như Lai”. Vua lại hỏi rằng: “Nước ấy có các bậc Thánh nhân xuất hiện chăng?”. Tống Vân bèn trình bày cụ thể về đức hạnh của Chu, Khổng, Lão, Trang tiếp nói về trên núi bồng lai là cửa bạc nhà vàng, các bậc thần tiên đều ở trên đó, nói về Quản lộ khéo giỏi bói đoán, Hoa Đà trị bệnh, Tả Từ có phương thuật v.v… mọi việc như thế lần lượt phân biệt nói bày. Vua nói: “Nếu đúng như lời ông nói thì đó tức là cõi nước của Phật, đến lúc mạng chung, ta nguyện sinh về cõi nước ấy!”

Tống Vân cùng Sa-môn Tuệ Sinh khi ấy đi ra ngoài thành, lần tìm các giáo tích của Đức Như Lai. Về phía Đông dòng sông có nơi xưa kia Đức Phật hong phơi pháp y. Mới đầu, Đức Như Lai hành hóa tại nước Ô Trường, vua rồng tức giận nổi đùng gió mưa lớn, y Tăng-già-lê của Đức Phật trong ngoài đều thấm ướt. Đến lúc mua dứt, Đức Phật dưới tảng đá xoay mặt về hướng Đông ngồi để hong phơi pháp y ca sa. Năm tháng tuy đã qua lâu xa, mà đường vắng vẫn rõ như mới, chẳng phải đường thẳng tắp rõ thấy, đến như vải vụn cũng rõ ràng. Chợt vừa sang trông thấy tợ như chưa suốt cùng, mới bảo người vạch rọc, thì đường vằn ấy càng hiện rõ. Nơi xưa kia Đức Phật ngồi và nơi hong phơi y đều có tạo lập tháp ghi rõ. Về phía Tây dòng sông có một cái ao là nơi vua rồng ở, bên cạnh bờ ao có một ngôi chùa, chư Tăng có hơn 50 vị. Mỗi lúc vua rồng tạo ra thần biến, thì vua nước đó đến cầu xin, đem vàng ngọc vật báu ném vào trong ao, sau đó nổi lên khiến chư Tăng vớt lấy. Mọi thứ ăn mặc ở chùa đó đều do tiếp đãi rồng mà dâng cúng, nên người đời xưng gọi đó là chùa long Vương. Từ Vương Thành đi về hướng Bắc khoảng 18 dặm, có dấu vết xưa kia Đức Như Lai giẫm bước trên đá, có xây dựng tháp che phía phía trên. Nơi giẫm bước trên đá, nếu dùng bùn sình cạn mà lường đó không nhất định, hoặc dài hoặc ngắn. Nay đã có dựng lập chùa và có hơn 70 vị Tăng ở đó. Từ tháp đó đi về phía Nam khoảng 12 bộ có một suốt đá, xưa kia Đức Phật vốn thanh tịnh nhắm thành Dương rồi cắm xuống đất, liền sinh mọc lên, đến nay thành cây Đại thọ. Người Hồ gọi đó là cây Bà lâu. Ở phía Bắc thành, có chùa Đà-la, rất lắm nhiều Phật sự, Phù đồ cao lớn, Tăng phòng bít liền bên cạnh bao quanh. Có 6.000 tôn tượng bằng vàng. Mỗi năm, vua thường thiết lập Đại hội đều tại chùa ấy, các hàng Sa-môn khắp trong nước đều đông đảo nhóm tập về. Tống Vân và Sa-môn Tuệ Sinh thấy các Tỳ-kheo ấy giới hạnh tinh khổ, trông nhìn phong thái phép tắc đặc thù, càng thêm tỏ sự cung kính, bèn lưu lại hai Tỳ cung cấp lo việc quét tước. Các Vương thành về hướng Đông nam đi bằng đường núi khoảng 8 ngày, đến nơi xưa kia Đức Như Lai tu hành khổ hạnh ném mình cho hổ đói. Núi cao lũng tủng vút ẩn vào mây nguy hiểm, cây gỗ quý cỏ linh sinh mọc thành rừng trên đó, suối rừng uyển lệ, sắc hoa ánh ngời mắt thấy. Tống Vân cùng Sa-môn Tuệ Sinh cắt xả bốt tư trang lương thực, đến trên đỉnh núi tạo dựng một ngôi Phù đồ, khắc ghi trên đá bài minh theo lối chủ lệ là “Công đức của nước Đại Ngụy”. Trên núi đó có chùa Thâu cốt có hơn 300 vị Tăng ở. Từ Vương thành về phía Nam đi hơn trăm dặm có nơi xưa kia Đức Như Lai làm vua nước Ma-hưu rạch lột da làm giấy chẻ cốt xương làm bút. vua A-dục tạo dựng ngôi tháp che phủ phía trên cao 10 trượng. Nơi chẻ cốt xương làm bút, tủy rơi dính trên đá, trông xem sắc màu như mở, béo nhờn như mới. Từ Vương thành về hướng Tây nam cách 500 dặm, có núi Thiện Trì, Ở đó suối ngọt, cây trái xinh đẹp thấy như trong kinh ghi tả. Hang núi hòa ấm, cây cỏ mùa Đông xanh tươi. Khi ấy đang lúc thái thấu ngự thần, ấm nóng đã quạt, chim hót cây xuân, bướm lượn hoa rừng. Tống Vân xa ở nơi cùng cảnh vức, nhân trông nhìn cảnh xinh đẹp đó, quay nghĩ lại trong lòng riêng quanh co nỗi lòng, bèn động vật thương xưa cũ, nên phái bó buộc bông tơ qua cả tháng, may gặp được chú thuật của Bà-la-môn, sau đó mới được bình phục tốt lành. Từ đỉnh núi về phía Đông nam có thạch thất của Thái tử chỉ một cửa mà hai phòng. Trước thất của Thái tử cách khoảng 10 bộ có một tảng đá vuông lớn, nghe rằng xưa kia Thái tử thường ngồi trên đó. vua A-dục tạo dựng tháp ghi chép lại. Từ tháp đó về hướng Nam cách một dặm là nơi am tranh của Thái tử. Từ tháp đó cách một dặm về hướng Đông bắc xuống núi đi khoảng 50 bộ, có nơi hai người con trai gái của Thái tử chạy vòng quanh cây gỗ không chịu đi, bị vị Bà-la-môn dùng gậy đánh đập máu đổ vãi trên đất, cây ấy đến nay vẫn hiện còn. Nói chỗ đất có máu đổ vãi, nay biến làm thành dòng suối, từ thạch thất đi về hướng Tây cách 3 dặm là nơi trời Đế-thích biến hóa thân làm con sư tử ngôi xổm giữa đường cản ngăn Man-khư. Dấu vết mỏng vuốt và lông đuôi trên đá, đến nay thảy đều còn rõ rệt. Nói hàng của A-chu-đà và con cái cung phụng nuôi dưỡng cha mẹ mù đều có tạo dựng tháp ghi lại. Trong núi có nơi sàn giường của 500 vị A-la-hán xưa kia tại hai phía Nam-bắc sắp thành hai hàng hướng về nhau mà ngồi lần lượt tương đối. Có chùa lớn, Tăng chúng có 200 vị. Nơi Thái tử ăn, từ dòng suối nước về hướng Bắc có một ngôi chùa, thường dùng vài con lừa vận chuyển lương thực lên núi, không người xua đuổi, tự nhiên qua lại, phát xuất từ giờ đầu tới giờ ngọ thì đến nơi. Mỗi lúc đến xung xan, đó là do Thần hộ tháp Ác-bà-tiên sai sử nên vậy. Tại chùa đó, xưa trước có một vị Sa-di thường trừ bỏ tro bụi, nhân nhập định, vị Duy-na đến lay kéo, bất chợt da liền cốt xương lìa nhau. Nơi Ác-bà-tiên thay Sa-di ấy từ bỏ tro bụi, vua nước đó cùng Ác-bà-tiên lập miếu, đồ họa hình tượng ấy, dùng vàng thếp phết lên. Cảnh đỉnh núi có chùa Bà giang do Dạ-xoa dựng lập, Tăng chúng có 80 vị ở đó, nói rằng: “A-la-hán Dạ-xoa thường lại cúng dường quét tước lượm củi, các vị Tỳ-kheo phàm tục không được ở chùa đó”. Cũng trong thời Đại Ngụy (Nguyên Ngụy) có Sa-môn Đại Vinh đến đó lễ bái rồi đi, không dám dừng ở lại.

Đến trung tuần tháng năm Chánh Quang thứ nhất (520) thời Bắc Ngụy, vào nước Kiền-đà-la, đất đai xứ đó cũng tợ như ở nước Ô Trường, vốn tên là nước Nghiệp-ba-la, bị sự phá diệt của nước Yết Đạt, bèn lập sắc cần làm vua, từ lúc trị nước đến nay đã trải qua hai đời, lập tánh hung bảo, phần nhiều làm điều giết hại, không tin Phật pháp, ham thích phụng thờ quỷ thần. Dân chúng trong nước đều là chủng tộc Bà-la-môn sùng phụng Phật giáo, ưa thích đọc tụng kinh điển, bỗng nhiên gặp phải vua đó, rất trái với tình nguyện, bèn cậy ỷ sức mạnh cùng tranh cảnh vức với nước Kế Tân, liền cất binh lính chiến đấu đã trải qua 3 năm. vua nước đó có 700 con voi chiến đấu, mỗi con mang chở 10 người, tay nắm dao tra, buộc dao nơi mũi voi, cùng địch đánh nhau, vua thường đứng trên cảnh núi trọn ngày không trở về, tướng soái già dân nhọc, trăm họ thán oán. Tống Vân đến trong Quân thông trình chiếu thư. vua hung bạo khinh mạn vô lễ, ngồi nhận chiếu thư. Tống Vân thấy đó Xa Di không thể chế phục, mặc tình sự cứ ngạo, không thể trách móc đó. vua sai quan Truyền sự nói cùng Tống Vân rằng: “Ông trải qua các nước, giẫm trải đường sá nguy hiểm, có được không nhọc khổ chăng?”. Tống Vân đáp rằng: “Hoàng đế chúng tôi rất đượm vị Đại thừa, xa tìm cầu kinh điển, đường sá tuy hiểm trở, nhưng chưa dám nói là nhọc mệt. Đại vương đích thân thống lãnh ba quân xa đến nơi biên cảnh, nóng lạnh chợt đổi thay, không gì chẳng hỏng tệ!”. Vua ấy đáp rằng: “Không thể hàng phục nước nhỏ, thật thẹn lời hỏi ấy của ông”. Mới đầu, Tống Vân thấy vua ấy là giống người Di, không thể dùng lễ mà trách cứ, mặc tình để ngồi nhận chiếu thư, kịp đến lúc thân gần qua lại mới có tình người, bèn trách vua ấy rằng: “Núi có cao thấp, sông có lớn nhỏ, người ở trong thế gian cũng có tôn ti, vua ở các nước Yết Đạt, Ô Trường đều kính bái mà nhận chiếu thư, cớ sao riêng một mình Đại vương không kính bái?”. vua ấy đáp rằng: “Ta thấy Ngụy chúa thì kính bái, được thư thì ngồi đọc, có gì đáng lấy làm lạ. Người đợi nhận được thư của cha mẹ, còn tự ngồi mà đọc. Đại Ngụy như cha mẹ của ta, ta cũng ngồi đọc thư, đối với lý không mấy vậy”. Tống Vân không lấy gì để khuất phục đó, bèn dẫn Sa-môn Tuệ Sinh đến một ngôi chùa, mọi sự cung cấp tiếp đãi rất lạnh dạc. Khi ấy từ nước Bạt-đề đưa sang hai con sư tử con tặng cho vua nước Kiều-đà-la. Tống Vân v.v… thấy đó, xét xem ý khí hùng mạnh các hình tượng họa ở Trung Hoa chẳng dự xen phần nào nghi dung ấy.

Khi ấy lại theo hướng Tây đi 5 ngày đến nơi xưa trước kia Đức Như Lai xả bỏ đầu mặt cấp thí cho người, cũng có chùa tháp và hơn 20 vị Tăng ở đó. Lại theo hướng Tây đi 3 tháng đến sông Tân Đầu, trên bờ sông phía Tây, có nơi xưa kia Đức Như Lai làm thân cá Ma kiệt lớn từ sông mà ra, suốt trong thời gian 12 năm dùng thịt mình cứu giúp cho người. Ở đó có tạo lập tháp ghi chép lại, trên đá hiện còn có đường văn vảy cá. Lại theo hướng Tây đi 13 ngày đến thành Phật sa phục, xứ đó sông đồng tươi tốt, thành quách ngay thẳng, dân chúng giàu có đông nhiều, rừng suối xanh tươi, đất đai sản sinh lắm thứ vật báu. Phong tục thuần thiện, trong và ngoài thành đó có các ngôi chùa cổ và nhiều danh Tăng chúng đức đạo hạnh cao kỳ. Từ thành đó về hướng Bắc cách khoảng một dặm có cung Bạch tượng, trong chùa các Phật sự đều bằng tôn tượng đá trang nghiêm rất mực hoa lệ, số lượng rất nhiều, khắp thân tôn tượng đều thếp vàng sáng rỡ lóa cả mắt người. Trước chùa có nhiều cây gỗ bạch tượng. Chùa ấy hưng thạnh thật do từ đó, hoa lá tợ như táo đến cuối mùa Đông mới chín. Các bậc lão đức tương truyền rằng: “Cây đó hủy diệt thì Phật pháp cũng hủy diệt vậy”. Trong chùa có đồ họa hình tượng vợ chồng Thái tử đem hai người con trai gái tặng cho vị Bà-la-môn cầu xin. Những người nước Hồ trông thấy đó không ai chẳng buồn khóc. Lại theo hướng Tây đi một ngày đến chỗ xưa kia Đức Như Lai khoét mắt cho người, cũng có xây dựng chùa tháp. Trên đá ở chùa ấy còn có dấu vết của Đức Phật Ca-diếp.

Lại theo hướng Tây đi một ngày, dùng thuyền vượt qua một dòng sông sâu xa hơn 300 bộ, lại theo hướng Tây nam đi hơn 60 dặm đến thành Kiền-đà-la, lại về phía Đông nam, có Phù đồ Tước Ly. Theo truyền của Sa-môn Đạo Minh nói là từ thành về phía Đông cách dặm. Suy xét về cội nguồn thì lúc Đức Như Lai còn tại thế cùng các đệ tử vân du giáo hóa xứ đó. Đức Phật chỉ về hướng Đông mà bảo rằng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn khoảng 300 năm có một vị Quốc vương tên là Ca-ni-sắc-ca tạo lập Phù đồ tại xứ này”. Sau khi Phật nhập Niếtbàn 300 năm, quả nhiên có vị Quốc vương tự là Ca-ni-sắc-ca vân du ra phía Đông thành thấy Đồng tử dùng phẩn trâu đắp tháp cao 3 thước, bỗng nhiên ẩn biến mất. Theo truyện Sa-môn Đạo Vinh nói là Đồng tử ở giữa không trung mà nói kệ, vua lấy làm quái lạ về các đồng tử đó nên liền làm tháp che phủ phía trên, tháp bằng phần ấy dần cao trội vượt ra bên ngoài cách đất cao 00 thước, sau đó bèn ngưng, vua mới lại mở rộng nền móng tháp hơn 300 bộ. Theo truyện Sa-môn Đạo Vinh nói là cao 30 bộ, từ đó lại kết cấu cây gỗ mới được ngang bằng, theo truyện Sa-môn Đạo vinh nói là cao 3 trượng và đều dùng bằng đá văn để làm thềm cấp, trụ đội, phía trên mới kết cấu các cây gỗ. Có cả thảy 13 thềm cấp, phía trên có trụ sắt cao 3 thước, có 13 lớp mâm vàng hợp lại, cách đất cao 700 thước. Theo truyện Sa-môn Đạo Vinh nói là trụ sắt cao 88 thước, có 80 vòng vây, có 15 lớp mâm vàng. Cách đất cao 63 trượng 2 thước, khi công việc thi hành đã hoàn tất, tháp bằng phẩn kia trở lại như mới đầu. Từ tháp lớn về phía Nam cách 3 bộ là nơi có vị Bàla-môn không tin tháp ấy bằng phẩn nên đưa tay sờ mó xem, bèn làm thủng một lỗ, năm tháng trải qua tuy đã lâu dài nhưng phẩn ấy vẫn còn không rã hoại, có người dùng hương nên để bít lấp lỗ ấy nhưng không thể đầy. Nay làm lồng thiên cung trùm phủ lên đó. Ngôi Phù đồ Tước Ly kể từ khi tạo lập đến nay đã trải qua 3 lần bị lửa trời thiêu đốt, Quốc vương tu sửa trở lại như cũ. Các bậc lão thành nói: “Ngôi Phù đồ ấy bị lửa trời thiêu đốt tức Phật pháp sẽ hủydiệt vậy”. Theo truyện Sa-môn Đạo Vinh nói khi vua tu sửa Phù đồ, thợ gỗ làm đã xong, chỉ còn có trụ sắt không sao cất lên nỗi, vua mới bảo ở bốn góc xây dựng các ngôi lầu cao, thiết đặt vàng bạc và các vật báu. vua cùng phu nhân và các Vương tử đều ở tại trên lầu, đốt hương rải hoa chí tâm tinh thành, sau đó dùng con lăn ròng rọc thắt chặt và kéo, chỉ một lần dất bèn lên đến nơi. Các người Hồ đếu nói đó là bốn Thiên vương hỗ trợ. Nếu chẳng như thế thì thật sức người không thể nâng dất. Mọi vật rong tháp thảy đều bằng vàng ngọc, ngàn biến muôn hóa, khó thể xưng kể. Lúc mặt nhật vừa ló dạng thì mâm vàng sáng rực, gió nhẹ dần lay động các linh báu hò reo. Đó là ngôi Phù đồ ưu việt đứng đầu trong các ngôi Phù đồ ở Tây Vức. Tháp đó lúc mới hoàn thành thì dùng trân châu làm lưới che phủ phía trên, sau đó vài năm vua mới suy lường là lưới châu ấy giá trị cả muôn vàng, sau khi ta qua đời sợ có người cướp đoạt, lại nghĩ đến lúc tháp lớn hư hoại không người tu bổ, nên bèn mở lưới châu ngọc ấy và dùng vạc đồng đựng đầy đo, đưa về phía Tây bắc các tháp trăm bộ đào bới đất mà chôn lấp đó, phía trên trồng cây, cây tên là Bồ-đề, cành nhánh bủa bốn phía, lá che phủ kín trời. Bốn mặt phía dưới cây đều có tôn tượng ngồi, mỗi mỗi cao trượng năm. Thường có con rồng gìn giữ châu ngọc đó, nếu có người khởi tâm ý muốn lấy thì liền có họa biến tai ương, nên khắc đá làm bia minh căn dặn cùng người đời sau vậy. Nếu tháp đó hư hoại thì nhọc phiền các bậc hậu hiền phải cầu kiếm ra châu ngọc để tu sửa lại. Từ Phù đồ Tước Ly về phía nam cách 50 bộ có một tháp đá hình thế tròn thẳng cao 2 trượng rất có thần biến, hay cùng với người đời mà biểu lộ mọi sự tốt xấu. Xúc chạm vào tháp, nếu là người có được tốt lành thì linh báu liền ứng vang, còn nếu là người mắc phải xấu ác thì giả sử có khiến người lau động cũng không chịu phát ra tiếng. Sa-môn Tuệ Sinh hiện tại xa cách nước nhà, sợ có điều không tốt lành khi trở về, bèn kính lễ thần tháp cầu xin một ứng nghiệm, khi ấy đưa tay xúc chạm lấy, linh liền ứng vang tiếng. Có được điềm ứng ấy, Sa-môn Tuệ Vinh bèn dùng để ủy tâm riêng của mình, về sau, lúc trở về quả nhiên thật được tốt lành.

Mới đầu xuất phát từ kinh đô, Sa-môn Huệ Sinh được Hoàng thái hậuban giao 1.000 bức lụa 5 sắc dài trăm thước, 500 chiếc đãy bằng lụa thơm, các hàng vương công khanh sĩ dâng tặng 2.000 bức, từ trước vu điền đến nước Kiền-đà-la trải qua các nơi có Phật sự, Sa-môn Huệ Sinh đều để lại cúng dường bố thí. Đến đây thì đã gần hết, chỉ lưu lại một bức lụa trăm thước của Hoàng thái hậu, phỏng nghĩ muốn để dâng cúng tháp vua Thi Tỳ. Tống Vân lưu lại hai người tôi tớ phụng dâng ở Phù đồ Tước Ly trọn sung công việc quét tước. Sa-môn Huệ Sinh bèn cắt giảm lương thực tư trang, khéo chọn thợ giỏi dùng Đồng phỏng tạo nghi dung Phù đồ Tước Ly và tháp biến của Đức Phật Thích Ca.

Từ đó lại theo hướng Tây bắc đi 7 ngày, vượt qua một dòng sông lớn đến nơi kia Đức Như Lai làm vua Thi Tỳ cứu chim bồ câu, ở đó cũng có tạo dựng chùa tháp. Xưa kia lẫm kho của vua Thi Tỳ bị nạn lửa đốt cháy. Trong đó gạo canh cháy tiêu đến nay vẫn còn, nếu như ăn được một hạt thì trọn không cảm mắc bệnh sốt rét. Dân chúng nước đó cầu thuốc thường ngày đến lấy đó. Theo truyện Sa-môn Đạo Vinh nói đến nước Na-ca-la-ha có cốt xương đỉnh đầu Đức Phật, vuông tròn tấc sắc màu vàng trắng, phía dưới có lỗ hổng xỏ lọt ngón tay người, nghiêng mình trông nhìn tợ như tổ ong lật ngửa. Đến chùa kỳ Hạ lam, có pháp y ca sa 13 điều của Đức Phật, dùng thước để đo lường thì hoặc ngắn hoặc dài không nhất định. Lại có chiếc tích trượng của Đức Phật dài khoảng trượng bảy, dùng nước ông trúc dựng đầy đó, dùng vàng dác mỏng phía trên, tích trượng ấy nặng nhẹ cũng không nhất định. Gặp có lúc nặng cả trăm người nâng cũng không nỗi, gặp có lúc nhẹ thì chỉ hai người bèn nâng được. Trong thành Na-kiệt có cốt răng và tóc của Đức Phật, đều làm hộp báu mà đựng để tôn thờ, sớm tối lễ bái cúng dường. Đến Cù-lala-lộc thấy ảnh bóng của Đức Phật. Vào hang núi đi khoảng 15 bộ, đến gần để xem thì mịt mờ không thấy, đưa tay sờ má vào nhau nổi trội ưu đặc thật hiếm có ở đời. Trước hang có một tảng đá vuông, trên tảng đá có dấu chân Đức Phật, từ hang về phía Tây nam cách khoảng 100 bộ có nơi xưa kia Đức Phật giặt nhuộm y, về phía Bắc của hang cách một dặm có hang của Tôn giả Mục Kiền Liên. Từ hang đó về phía Bắc có núi, dưới núi có ngôi Phù đo do chính tay đạo phẩm đắp xây cao 10 trượng và có ghi là “Ngôi Phù đồ này vùi lấp trong đất thì Phật pháp sẽ hủy diệt”. Lại thêm có làm 7 ngôi tháp khác. Phía Nam của 7 ngôi tháp ấy có một tảng đá khắc ghi rằng: “Tự tay Đức Như Lai ghi viết chữ người Hồ rõ ràng, đến nay có thể nhận biết vậy”. Sa-môn Huệ Sinh ở tại nước Ô Trường 2 năm. Phong tục của người Hồ phương Tây đại đồng tiểu dị không thể ghi tả hết cụ thể.

Đến tháng 2 năm Chánh Quang thứ 2 (521) thời Bắc Ngụy, nay trở về kinh đô, Huyễn Chi căn cứ theo hành ký của Sa-môn Huệ Sinh có nhiều sự không ghi tả hết. Nay y cứ theo truyện Sa-môn Đạo Vinh và ghi chép ở nhà của Tống Vân, nên đều ghi chép lại đây để hoàn bị phần văn khuyết thiếu ấy.

Hai phía Đông-tây cỉa kinh đô Lạc Dương dài 20 dặm, hai phía Nam-bắc rộng 15 dặm, có hơn mười vạn chín trăm hộ dâu. Ngoài các miếu, xả, cung, thất, phủ, tào ra, cứ vuông 300 bộ làm thành một làng, mỗi làng mở cửa. Mỗi cửa đặt 2 người chánh làng, người quan lại và 8 người Môn sĩ, gồm cả thảy có 220 làng. Có 1. 367 ngôi chùa. Vào năm Thiên Bình thứ nhất (53) thời Đông Ngụy, chuyển dời kinh đô Lạc Dương đến Nghiệp thành. Tại Lạc Dương, ngoài 21 ngôi chùa, về phía Bắc trên Mang sơn có chùa Bằng vương, chùa Tề Hiến Võ vương. Từ kinh đô về cửa đá phía Đông có chùa Nguyên Lãnh Quân, chùa Lưu Trường Thu, trong Tung Cao có chùa Nhàn Cư, chùa Tê Thiền, chùa Tung Dương, chùa Đạo Tràng, phía trên có chùa Trung Đảnh, phía Đông có chùa Thăng Đạo. Cửa Quyết phía Nam kinh đô có chùa Thạch Quật, chùa Linh Nham. Phía Tây kinh đô, nói sông Triền có chùa Bạch Mã, chùa Chiếu Lạc. Các chùa như thế v.v… đều nằm ngoài thành quách, không thuộc trong số hạn, cũng ghi rõ đó vậy.

CÁC NGÔI GIÀ LAM Ở PHÍA BẮC THÀNH LẠC DƯƠNG

QUYỂN 5 (Hết)

 

LỜI BẠT GHI VỀ CÁC NGÔI GIÀ LAM TẠI THÀNH LẠC DƯƠNG

Ở đời tương truyền bộ “Lạc Dương Già Lam Ký” ( ghi về các ngôi già lam tại thành Lạc Dương) thì bản khắc ở nhà Như Ẩn thời nhà Minh là xa xưa nhất. Huân Khương cũng có một bản, trong quyển 2 khuyết mất 8 (chữ?) cả thảy gồm 3 trang. Căn cứ theo “giai hiệu lục” của Viên Tuy và lời bạt của Mao Phủ Quý đã ghi là: “Trong quyển 2 thoát mất 3 trang giấy, có người khéo biết việc lưu truyền ghi tả để bổ chú. Mỗi người có sự chẳng đồng là do từ xưa trước vậy, theo thư mục Thiết cầm (đàn sắt) Đồng kiếm (kiếm đồng) lâu (lầu) của Cù Thị cũng xưng nói ở quyển một quyển hai có khuyết thiếu trang, căn cứ theo Cổ giản tân hiệu bản bổ lục, thì tiếc xa ở tại trong nam không thể đến, nhân theo bản chữ Quát ở nhà Ngô Chân Ý tại Hoàng xuyên bổ thích 3 trang ấy. Vọng nghe Ngô Chân Ý cùng Ngô Nhã Chuẩn tập chứng, đều phát xuất từ nguồn của Như Ý, nay lấy để xét đối cũng chưa hẳn hết. Nhưng đại khái mỗi mỗi đều có hiệu đính và cải đổi. Bản khắc của Như Ẩn tợ hồ xuất phát từ thời Gia Tĩnh tức niên hiệu Gia Tĩnh 1522-1567 thời nhà Minh), chưa rõ là do ai làm ra. Y cứ theo thể thức ấn hành để tặng cho người có đồng chí hướng là Võ Tấn Huân Khương vào đầu mùa hạ năm Ất mão (1555) vậy.

Trong thời Nguyên Ngụy, từ Hiển Tổ (?) mến chuộng cái học của Phù đồ ( Phật Đà), đến Thái hậu mà lạm thương. Nguyên do làm bộ “Già Lam ký” này là phô bày xiển dương nhà Phật, và nhân đó mà đề cập đến văn hóa con người. Trước soạn mọi sự kỳ lạ của vườn, rừng, ca – vũ, quỷ – thần, kỳ – quái, hưng – vong đệ ngụ cho mọi sự khen chê, lại chẳng phải nhọc ghi về các ngôi Già lam mà thôi vậy. Nét bút xảo diệu tinh hoa, ý tứ kỳ đặc trong sạch cao vút, tuy truyện Phong Thần của Vệ Thúc Bảo, sách Tư Thái của vương di Phủ cũng chưa đủ để sánh ví với đây vậy. Trông xem lại Cao Tòng (?) cho rằng Đất Bắc là chất lỗ, dời đô Lạc Dương, lập Quốc tử Thái học, bốn lớp tiểu học. Như các ông Lý Xung, Lý Bưu, Cao Lư, Vương Túc, Quách Tộ, Tống Biện, Lưu Phương, Thôi Quang v.v… đều dùng văn nhã đáng nhìn, thân gần chế tác lễ nhạc tốt tươi khả quan. Có triều đại Nguyên (Bắc) Ngụy trải suốt thời gian 1 năm (386-53), rất là hiếm có. Lại chưa thể cho rằng từ niên hiệu Vĩnh Bình (508-512) thời Bắc Ngụy trở về sau mới chuyên chuộng Phật giáo mà thiếu vậy!

Mao Tấn ở Hồ Nam kính ghi.