DUY MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ
QUYỂN 10
Hán dịch: Tiền Đường, Sa-môn Thích Trí Viên thuật.
PHẨM PHẬT ĐẠO
(Từ đây trở về sau đều cùng Chương An soạn riêng)
Nói từ không nhập giả quán, có hai: a, nêu chương. b, tùy giải thích, nói ý có phẩm này. Ngài Kinh Khê nói: “Chánh thành phẩm Thăm Bệnh mà nói Biệt giáo… hỏi: Tướng chung ba quán nghĩa ở viên, nay sao nói ở Biệt? Đáp: Đối xuất giả biên, nghĩa nói là biệt mà thôi. Trong văn ủy dụ của ba giáo trước tướng chung “thông tướng) vẫn còn ý thứ lớp, chính là do đây.
Giải thích tên phẩm, nêu tên. Lược nói từ nhân mà đạt được quả, nhân quả tuy khác mà lý thể Không hai. Mới quán gọi là nhân, quán sau rốt gọi là quả. Nhân quả trước sau, đều không lìa lý, hay thông suốt đến hai nghĩa đều thành.
Thử dĩ…” là tổng kết. Phật tức là trí, đạo tức là lý, cũng có thể nói năng sở mà nêu tên. Phật là năng giác, đạo là sở giác. Cũng có thể nói nhân pháp mà nêu tên. Phật tức là nhân, đạo tức là pháp. Tuy đây chẳng đồng nhưng không ngoài lý trí. Vì người có trí hay giác về lý, và lý là pháp được giác. “Chánh như …” là dẫn văn rộng giải thích, có hai: dẫn văn và “nói chẳng phải…” là giải nghĩa. Có ba thứ đạo. Đạo này cũng do thông suốt làm nghĩa. Phiền não thông suốt nghiệp, nghiệp thông suốt khổ, khổ thông suốt hoặc, hoặc lại thông suốt nghiệp, lần lược lần lượt thông nhau nên gọi ba đạo.
Lý chẳng phải đạo… ngài Kinh Khê nói: văn tuy nói giả, nhưng ý lại thông ở trung, nên nói là lý. Cho đến công đức trí tuệ của Phật đạo đều là giả nhiếp lý mà nói, tức chỉ ba đạo vốn là thể ba đức, lại toàn là pháp tánh trung đạo. Xuất một mà giải thích thì là thông là cực, vì giáo nghĩa Phương đẳng nên khiến như thế. Thật tướng trí tuệ của chư Phật, thì khổ tức là thật tướng, hoặc tức là trí tuệ, nghiệp tức là công đức. Ba thứ này đều lý, nên nói là lý. Liệu giản, nói phi đạo Phật đạo tức là nhân duyên Phật tánh, nói phi đạo tức nhân duyên, hỏi, ngài Kinh Khê nói: Phẩm này không ước nhân duyên… trong tám đoạn sau không có mười hai tên. Đáp, nói chín giới mỗi giới đều có đủ ba đạo, ngài Kinh Khê nói: Ý đáp là tuy không nói riêng mà thành chung cả, đâu chẳng phải tám đoạn mười hai nhân duyên ư? Nói tất cả phi đạo… như đây đã nêu, đâu vượt ngoài ba đạo. Đối văn mà điểm thì nghĩa tự bày rõ, huống lại chín đạo gồm thâu tất cả ba đạo nội ngoại giới, để khiến phi đạo tức Phật đạo. Cho nên nói chín giới đầy đủ, như nêu dưới đây. “Chỉ đây…” là nói nguyên nhân chẳng chọn Bồ-tát, dựa vào văn chẳng chọn, tên Bồ-tát thông cả Biệt Viên. Cho nên Ngài Kinh Khê nói: “Vì có đạo Bồtát bốn giáo nên đồng. Hai Bồ-tát trước chỉ là đạo Bồ-tát Nhị thừa nên không nói. Biệt giáo chính là đạo Bồ-tát. Còn Viên giáo thì hoặc là Phật hoặc là Bồ-tát. Nay nói Biệt Viên nhập trung, vì sơ tâm của biệt cũng tu trung, nên lại được nói là tu Phật đạo. Tạng, Thông có bi nguyện giúp viên đốn. Nên ngài Kinh Khê nói: “Phương tiện …” là chỉ cho Tạng, Thông tiến đến tạm kết trọn về lỗi ấy. “Lại nữa…” là ước nghĩa cần chọn. Ngài Kinh Khê nói. “Lại nữa phẩm này…” là nêu cạn theo sâu, tất cả đạo đều thuộc phương tiện. Phương tiện đã khắp, há ngăn cách Tạng, Thông. Khắp nhập lại đoạn, nên viên là chánh. Song đạo đối phi đạo, phi đạo đủ cả mười. Cho nên biết mười giới, hoặc từ tên nhiếp, hoặc từ thể phân ra, hoặc nhân quả tướng hình, hoặc ban cướp tạm lập. Cho nên Phật giới hoặc chỉ ở viên, hoặc lui về lấy biệt, hoặc đều lấy địa trụ, hoặc mất địa chỉ có trụ, hoặc thông nhân, hoặc chỉ ở tại quả. Rốt ráo mà luận thì viên quả là chánh. Nghĩa thông từ thể nhiếp sơ tâm của viên. Nói Phật đạo tức là Phật tánh, có hai: a, hỏi. b, đáp. Nói phi đạo là ba nhân, có hai: hỏi và đáp. Ngài Kinh Khê nói. Đại kinh nói mười hai nhân duyên là Phật tánh… hỏi tên Phật tánh há riêng duyên liễu. Dẫu thông nghĩa duyên liễu mà dự vào sinh tử, thì vì sao sinh tử lại gọi là nhân duyên liễu. Nếu nói chỉ chánh không phải duyên liễu, thì sinh tử ba đạo sao gọi là chánh? Ba thứ đều không thành, thì ý kinh ở đâu? Thế nên cần phải nương vào ba đạo, ba đức, ba thứ chánh chủng Phật tánh này vậy. Cho nên lại dẫn Đại kinh để lập trung đạo. Trung đạo nếu lập thì duyên liễu có thể thành. Huống là mười giới một tâm, đủ cả mười hai. Trăm giới mỗi mỗi không đâu không phải là đạo tràng. Cho nên biết trong đây đều là chánh nhân của hai thân. Duyên liễu của pháp thân, ba tánh của sát-na, ba đức của sinh tử, luôn hiểu rõ như thế thì mới giải thích được kinh nay. Nói Phật tánh được nói cùng Đại kinh không khác, nói Phương đẳng cũng nói Phật tánh, dẫn xưa để nói lỗi mà hỏi. b, chuẩn theo kinh bày hủy báng mà đáp. Ngài Kinh Khê nói: Nay Phương đẳng này… là gồm chê xưa. Nay trong kinh này bộ không có mười hai, đâu không có Phật tánh. Ý nói Đại thừa Không có chẳng đủ, rộng hỏi mà ghi. Ý này chính nói có ba thứ nhất định đại mà không có ba thứ nhất định tiểu. Bất tất phải mười hai mới gọi là đại. Chỉ có Niết-bàn, Pháp Hoa đủ mà lại đại, còn các bộ khác đầy vơi bất thường hỏi: Kinh này văn nào chánh đáng là ba bộ? Đáp: Đều là bất tư nghì cả, há không phải là Phương quảng, tuy không có biệt ký mà có thông ký. Tất cả chúng sinh tức là ba đạo, cho nên không có thứ nào mà chẳng đủ, lý đáng được thành, ký há ở ngoài đây mà nói là không có ư? Phẩm Phương Tiện trước là vô vấn tự ký. Lúc đầu tuy là cư sĩ nhưng ấn cuối nào khác. Huống lại Niết-bàn chỉ cho mười hai bộ, trông mười hai bộ để định Đại Tiểu. Cho nên chỉ có Phương quảng mười hai thứ khéo thành. Vô vấn và ký cũng thông cả đại tiểu. Cho nên không có hai nghĩa này cũng khéo thành. Nói hai kinh tên khác mà nghĩa đồng, có hai: hỏi và đáp, chánh bày tên khác thể đồng. Ngài Kinh Khê nói: Chủng tánh tức là tên khác của mắt mày. Tuy là tên khác nhưng đều là nghĩa Biệt. Nếu nói thường sinh thì phải từ chủng mà lập. Nếu nói không đổi, thì phải lấy tánh làm tên. Chỉ tùy tiện lợi mà nêu nghĩa lý đều gồm đủ. Kinh nay vả lại từ thường sinh làm tên. Thế nên trong văn phần nhiều đều từ chủng mà lập. Phải biết chủng là chủng tánh gia, tánh là tánh chủng gia. Không biến nên hay sinh, hay sinh nên không biến đổi. Hai thứ này tất cả đều vô thỉ vô chung, lâu xa thường còn hãy tin chắc như thế. “ Nếu bảo …” là dẫn luôn nương hai đế mà hỏi lại. Nói chủng tánh mỗi thứ đều có ba nghĩa họp nhau, có hai: hỏi, ngài Kinh Khê nói: Nếu Phật tánh có ba… là ý muốn nói đồng trước từ hơi khác. Văn trước tuy nói đạo tức là tánh, đây chỉ là thông tên đường mà nêu tên phẩm. Nay hỏi trong phẩm có ba chủng chăng? Đáp, hiểu đồng Niết-bàn. Chủng chi …” là kết bày dẫn chứng. Ngài Kinh Khê nói: Chủng tướng thể tánh. Ý trong đây dẫn bốn tên, tên khác mà nghĩa đồng. Nay chủng tánh này khiến khác hẳn, hình tướng bày bên ngoài, còn tánh thì đồng, chủng từ trong sinh ra thì lý phù hợp với tánh. Nói chủng tánh đều là lý thường…, ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Chủng lấy thường sinh (năng sinh) làm nghĩa… tất cả chư Phật hai nghĩa là gốc. Cho nên biết chân như, pháp giới, pháp tánh bí tạng đều phải đối với chủng mà hỏi. Đáp, ngài Kinh Khê nói: “Trung, tức lấy duyên liễu làm chủng, nghĩa từ trong mà tìm. Phương tiện so sánh mà nói mới bày được chánh tánh cũng gọi là chủng. Cho nên biết ba đạo thường sinh ba tánh, hà tất phải chấp chặt là do bên ngoài sinh. Huống lại cũng phải chọn loại mà giải thích chủng, đầy đủ như phẩm Dược Thảo Dụ của Pháp Hoa mà sớ đã nói. Cho nên không phải chỉ chánh chủng, không phải nhân mà nhân. Nghiệp hoặc duyên liễu cũng như thế. Thế thì …” là hiển nghĩa có chủng. Cho nên đối nghịch mà nói duyên liễu cũng được gọi là tánh. Thế thì ba tên đều chủng đều tánh, nghĩa đồng. Cần nên khéo nghĩ. Tâm cảnh chẳng khác, nghĩa lý tự hợp. Nói hai kinh hiển và mật lợi ích đồng, chấp Niết-bàn hiển ích nói khác mà hỏi. Dựa vào kinh nay mật tích bày đồng mà đáp. Ý đáp: Bồ-tát thì hiển nhập, Nhị thừa thì mật nhập. Thấy lý Phật tánh ích đồng Niết-bàn. Nhờ đây mà khiến Nhị thừa và độn căn Bồ-tát chưa được liền ngộ. Cũng nhân trách tích để thành đề hồ. Cho nên hai kinh nói lý thường không khác dấu. Chỉ khai và chưa khai nên có phân cao thấp. Nói nhân duyên đối tánh chung riêng, Hỏi: Sao lấy thiên mà phán quyết… nghĩa là lấy ba đạo mỗi thứ đối một tánh gọi là thiên phán quyết. b, Đáp, ngài Kinh Khê nói: Nếu như chỗ hỏi thì là nghĩa chung. Chung riêng chỉ có nghĩa là ly hợp. Đủ như trong Pháp Hoa sớ và Bất Nhị Môn. Pháp tánh năm ấm có vô minh ác nghiệp… vô minh là hoặc, ác nghiệp là nghiệp. Năm ấm vô ký vốn tên là pháp tánh. Do có thêm hoặc nghiệp nên chấp ấm thành mê. Cũng là pháp tánh xưa nay thanh tịnh, cho nên sử ba thứ mê thì đều mê. Mê lý bổn tịnh, nhân quả đối nhau mà nói. Cho nên nói có vô minh ác nghiệp liền thành sinh tử, chuyển đổi liền gọi là tịnh. Nói vô minh tức liễu nhân, có hỏi và đáp. Bảy thức là chấp kiến. Tiêm sư nói: Luận ấy quyển năm nói: Hai thứ có ý nhiễm ô cùng bốn thứ phiền não tương ưng:
- Thân kiến.
- Ngã mạn.
- Ngã ái.
- Vô minh.
Ngài Kinh Khê nói: Bảy thức là một do chấp mà thành khác. Do kiến thức này là chứng liễu nhân. Từ liễu gọi là trí, từ mê gọi là kiến. Người xưa không cùng chấp chung nên có tranh cãi. Sáu thức làm duyên thì cũng thế. Nói Bát-nhã, Pháp Hoa luận tánh không khác, có hỏi và đáp, nói năm tên Phật tánh Bát-nhã. Đã gọi là Bát-nhã nên biết Bátnhã là tên khác của Phật tánh. b, nói Pháp Hoa giải hai quán. Quán tức năng quán, tâm tức sở quán. Năng quán là Phật, sở quán là đạo, nên gọi Phật đạo. Vì nhân duyên ba đạo vốn một tâm, nên tức ba đức. Cho nên đủ như chỉ quán thiền cảnh dùng mười thừa quán nhân duyên vậy. Ngài Kinh Khê nói: quán tâm, là trước tuy đã ước mười hai nhân duyên, mười giới ba đạo, nhưng chưa nói các thứ này là quán cảnh. Nay nói mười giới, mười hai nhân duyên chỉ là một niệm, cùng trước nào khác, e người không hiểu nên phải riêng nói. Ở việc vừa rồi không có gì khác. Một tâm một sắc đều là mười giới tức không, giả, trung. Huống lại nêu tâm và hoặc đã thành trí. Nghiệp tùy quán chuyển, tự được tên giải thoát. Rốt ráo mà luận thì khổ là chánh cảnh. Khổ trên nghiệp hoặc cũng rất rõ ràng. Cho nên khổ, sắc, tâm ba nghĩa đầy đủ. Thế thì đến không chướng ba đức, là hay thông đến tột cùng, nên gọi không chướng. Như chữ y là nhân quả sự lý đều được dụ như chữ y. Chuẩn theo chỗ khác nói thì lý một tu hai nhân cùng quả đều không thành chữ y. Thường, vô thường… lý cần nói rõ. Vào văn giải thích, phân khoa nêu ý, ngài Kinh Khê nói: Nếu căn cứ gọi Như Lai chủng, thì ba đạo này đều có nghĩa thường sinh và duyên liễu. Hay sinh duyên liễu đã như trước lập. Lại phải hỏi rằng: Chánh há chẳng phải chủng. Tự hành đến công đức là từ tự hành mà nói, chỉ do hai trí hay hiển pháp thân và giải thoát. Dùng hai trí quyền thật Bát-nhã khế hợp với cảnh, không gọi là công đức. Hóa tha hai trí cùng gọi là quyền. “ Văn đầu …” là tùy văn giải nghĩa, có ba: a, nói Phật đạo, có hai: a, phân khoa. Tùy giải thích, ngài Văn-thù lược hỏi. Ngài Tịnh Danh lược đáp. Ngài Kinh Khê nói: phải biết ý đáp đầy đủ hai nghĩa:
- Xuất giả.
- Tức lý.
Nếu không xuất giả thì không do đâu mà hiển rõ thông tướng thứ lớp. Nếu không tức lý thì không do đâu mà hiển lý giả thông nhân. Bảy đoạn dưới trở đi là hiểu sâu ý này, thì mới gọi là đại chỉ của văn phẩm này. “Lại nữa …” là lại phân biệt xuất giả. Phi đạo căn cứ sự Phật đạo đầy đủ chỉ nói giả trí là phi đạo… kiến tức là nhập ngoại đạo. Nhập phải viết là (thị) vì nhầm. Ngài Văn-thù lại hỏi. Ngài Tịnh Danh rộng đáp, có hai phân khoa. và tùy giải thích:
Dựa nhân quả vô gián, lược nêu. Ngài Kinh Khê nói: Thị hiện chịu quả ở tam đồ.
Hỏi: Quả vô gián sao gồm cả quỷ súc mà gọi chung là tam đồ ư?
Đáp: Hai thứ kia tức là quyến thuộc với vô gián “địa ngục), vì khi có nghiệp nhân thì sẽ theo nhau. Hai nghiệp ác thú cũng có thể là dư báo thông với hai cái kia. Đây là nói môn Bồ-tát lợi vật cũng do quán xưa có nguyện lực nghịch tâm. Cho nên thành quán nhân mặc tình khế hợp.
“Dị nhị hà giả …” là rộng giải thích, giải thích nhân ngũ nghịch, nói tự hành, nói thông đạt Phật đạo, có hai: a], căn cứ nhân chánh bày thông đạt. Ngài Kinh Khê nói: “Hà giả …” là nêu quán xưa để làm nhân giả, há đợi khi nhập mới gọi là thuận. “Huống có …” là lấy nhân so quả. Tức chữ A… đã là thông tướng của quán nhập giả. Cho nên được dùng chung quán môn vô sinh và vô cấu… để làm hạnh ấy. Nếu thế thì cũng được gọi là giả bất tư nghì. Nhưng đối với Biệt giáo cũng gọi là thứ lớp. Và độn Bồ-tát vẫn gọi là sinh tô. Đối với người lợi căn liền gọi nhập trung. Hội này được nhập đã gọi là thượng thượng. Ở trong thượng thượng đều có trước sau. Mọi chỗ đều kết tướng đắc đạo. Từ “Nếu biết” đến “thông đạt Phật đạo” tức là văn ấy. “Nghịch tâm …” là dùng quán tâm. Chủng tánh không đồng khắp ở các giáo các vị, các hạnh, các đạo. Nói đốn tiệm… là đủ vượt đầu cuối khiến một đời hóa độ không đâu không phải là Phật đạo, giả bất tư nghì. Cho nên biết thông tướng gồm đủ giả ba thứ Bồ-tát và giả của địa trụ bất tư nghì. Chuẩn nghĩa cũng gồm giả của ba kỳ. Nhưng chỉ ước hiển giáo không phải từ không mà xuất. Thế nên trong đây không được luận. “Đây tức …” là đối quả kết thành ba đạo, chánh bày ba đạo. “nay lấy …” là nêu nặng so nhẹ. Ngài Kinh Khê nói: Nay lấy ác nhất… nó là ác bậc nhất trong các ác. “Vốn “không…” là đối thăm bệnh mà kết bày. Bồ-tát …” là nói hóa tha, có hai: kết trước sinh sau. Thị hữu …” là chánh nói hóa tha. Ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ bày đủ hai chủng tướng. Nếu chỉ bày có thể sám hối thì sợ người bảo rằng nói nghịch tội không có quả. Nếu chỉ không sám hối thì e người cho rằng nói tội không thể diệt mất. Để trừ tà chấp và sinh hai thiện, nên tùy căn cơ mà lập hai thứ này. Ta chịu… đây có hai nghĩa. Nay từ nội thật rõ ràng mà không mất vui lăng nghiêm. Há chỉ riêng nói ba thiền mà thôi. Nếu từ tích mà luận bèn thị hiện kháng cự tột cùng không xấu hỗ. Cho nên nay từ bên xuất giả đó mà nói ba thiền. Bèn là lời khai tích. Do đó mà được làm bổn tích để giải thích. Các kinh Đại thừa chỉ trừ bí mật cửu bổn của Như Lai và lời ký Tiểu thừa thành Phật. Ông Điều-đạt mở văn kinh luận cùng có. Phương đẳng Bà-tẩu tức là lệ ấy. “ Đến như …” là giải thích quả tam đồ. Nhập vô cấu Tam-muội, ngài Kinh Khê nói: Các văn trong đây đều dùng các Tam-muội trong hai mươi lăm Tam-muội. Vì vương Tam-muội chỉ là tam đế Tam-muội mà thôi. Vì nương thứ lớp nên chỉ dùng tục. Các câu tiếp theo mỗi mỗi đều như thế. Bà-tẩu như trước đã ghi. Tượng… đủ như trong Chỉ quán ký. Đoác điểu, Nhĩ Nhã, Quách Phác chú rằng: Lớn như con bồ câu, giống con trỉ mái. Căn cứ sắc ở Vô sắc giới. Mười một Tam-muội. Là hai mươi lăm Tam-muội đối phá hai mươi lăm hữu, đủ như trước đã ghi. Nay nói mười một, tức là bốn Thiền, bốn Không, Phạm vương, Vô tưởng, Nahàm vậy. Căn cứ ba cõi. Căn cứ mười tế. Ngài Kinh Khê nói: mười thứ này phần nhiều là đẳng. Đã không phân biệt phần nhiều là nói chung. Song chuẩn về phá giới thì nhất định là thuộc nghiệp đạo. Các thứ kia phần nhiều đều là phiền não nên nói nhiều. Cho nên biết nếu bên trong khởi tức thuộc phiền não. Không thể chế phục, là phần nhiều thuộc nghiệp đạo. Vì không chỗ thọ mà thọ mười tế. Tuy dịch mười tế thành độ, nhưng đối các tế đều thấu đạt trung. Căn cứ Nhị thừa, ngài Kinh Khê nói: Như các ngài Thân Tử, Thiện Cát… phải biết là bị chê trách và được gia bị, chỉ là từ tích mà thị hiện hạnh thứ lớp. Nay căn cứ vào bổn thuyết mà nói không thọ….
Căn cứ ác báo nhân gian, ngài Kinh Khê nói: Thị nhập đến nhận bốn châu thiên hạ… kinh không có bốn tên phải từ nghĩa mà lập. Vì sao, nếu chuẩn về hạ tiện xấu xí mà nói thì phần nhiều là ở Nam bộ châu. Còn việc giả bệnh và thê thiếp thì chung cả tám châu kia. Bắc châu lại dánh được không có bệnh hoạn. Độn căn thì có thể chung cả bốn châu, nên được gọi chung là bốn thiên hạ. Kinh không có nói Tu-la và trời Lục dục. Tu-la ly hợp có không có thể biết. Lục dục hoặc là lệ là lệ theo trên nên lược bỏ. Trong văn thứ lớp, lược nêu lục dục. Đoạn dứt nhân duyên ước bốn giáo. Nhân vị Biệt Viên cũng thuộc các đạo vì chưa thuần tịnh, cho nên đoạn chung các thứ.
Căn cứ nhập vô dư, trừ bậc Diệu giác của Viên. Ngài Kinh Khê nói: “Họ nói phi đạo việc ấy rất gần. Nay nói chỉ còn một phẩm vô minh kia. Vì còn là phi đạo, nên chỉ trừ có Phật là Phật đạo tột cùng. Song ngài La-thập giải thích phi đạo có ba thứ:
- Quả báo ác thú.
- Hạnh nghiệp ác thú.
- Thế tục thiện nghiệp và thiện quả báo.
So trong lời giải nay rõ ràng là rất gần.
Tổng kết. Nói Như Lai chủng, có hai: a, nêu ý phân khoa, ngài Kinh Khê nói: “Hai Đại sĩ này… là họ cùng vấn đáp nhau cũng như hai chày giả đập nhau. b, tùy văn giải thích, ngài Tịnh Danh hỏi. Ngài Vănthù đáp, huyền nói nghĩa chỉ, lược nêu. Nói như …” là rộng giải thích, chánh giải thích Như Lai chủng, có hai: a+, dẫn luận nói chung. Ngài Kinh Khê nói: Như hiểu về pháp tướng… như phi đạo ấy tức là Phật đạo pháp tướng. Sinh hiểu biết lại y đó mà nói mới xứng Như Lai, hay nương quán này tức là Như Lai hạnh. Thế nên dẫn mà nói chung là hạnh. “ Ba thứ …” là dựa vào nghĩa riêng mà giải thích, giải theo ly, ước chủng mà nói, “nói như …” là căn cứ Như Lai mà nói. Dùng ba chủng trước mà sinh ba Như Lai. Chánh nhân thì sinh pháp thân, liễu nhân thì sinh báo thân, duyên nhân thì sinh ứng thân. “ Như pháp …” là giải thích theo hợp, dẫn văn tóm lập. b, “chủng dĩ …” là ước nghĩa giải thích thành. Ngài Kinh Khê nói: Chủng lấy năng sinh, tánh, loại ba nghĩa, trước đã cùng hội, nay cần đối luận, cho nên lại luận. Thật ra năng sinh sinh chủng loại. Sinh loại này dứt khoát không biến đổi. Nếu không có khổ đạo sao có tướng một, nếu không có nghiệp đạo sao có đờn chỉ. Nếu không có phiền não sao có trí tuệ. Thuận giáo phương tiện cũng gọi là chẳng cùng loại. Cho nên các kinh khác đều lập riêng. Nay nói có nghĩa loại sinh có thể thành. Sinh tất không từng đoạn mà thẳng đến quả. Cho nên nay lập cùng thành hóa tướng. Cho nên giải thích chủng loại bèn phụ thêm cận tình. Do ước loại mà nói, e người không hiểu mà cho là diệt mất chủng không phải loại cho nên khi phụ thêm tình thời mà phân biệt các giáo khác. Biết giáo phương tiện không nói chân chủng, tức phụ thêm tình mà nói nghĩa, là văn đó. “ Nay ước …” là căn cứ chúng sinh mà giải thích thành, có kết trước nêu chung. Ba cái không có trước sau, vì hoặc nghiệp cùng thân đồng thời mà có. Trọn không có một người trước có hoặc nghiệp, sau mới có thân. Nếu hoặc nghiệp có trước đâu khác gì mờ mịt lúc xưa. Do đó suy ra biết là không có trước sau. Nếu nói đồng thời, sao nói rằng hoặc nghiệp làm nhân cho thân. Cho nên biết tuy không trước sau, nhưng cần nhân phiền não thì mới có thân. Ví như đèn và sáng đồng thời mà có. Cần nói nhân đèn mà có sáng, không thấy mà nói, thì nhân sáng mà có đèn. Cho nên nói cũng không phải cùng một lúc. Cho nên biết mê vọng ba đạo còn chẳng dọc ngang thấu suốt vọng ba đạo là chân ba đế, há là dọc ngang ư? “ Nếu phụ …” là dựa vào nghĩa giải thích riêng, có hai: a, phụ tình căn cứ nghĩa tư nghì mà giải thích, ước chướng chánh nói, phá chướng thành chủng. “ Đây nhiều …” là kết bày phán quyết mà giải thích, kết nêu không phải Viên. “Nếu trừ…” là ước người phán quyết giải thích, nói Nhị thừa Không có chủng. “Cho nên đại…” là chứng phàm phu cùng có. Ngài Kinh Khê nói: Cho nên Đại kinh đến người thiện căn không có, là hiển bày phi đạo có thể diệt, thiện đạo có thể thành. Lại đem không này nhập vào câu sau có người thiện là đó. Lại người thiện là chỉ cho có thiện hữu lậu. Đến lúc nghe sau thì kham thành nhân duyên. Thế nên duyên này từ xưa đã gọi là chủng. Nói đều không, tức chỉ cho liễu nhân, ngại gì một câu vô thỉ toàn không. Cho nên nay từ ở toàn không mà nói. Hoặc là liễu từ hiển liễu mà nói. Nếu thế thì duyên liễu cũng là không.
Đâu chỉ riêng ở liễu, làm thành bốn câu. Cho nên duyên từ có mà nói. Liễu nhân lại từ tướng che mà nói. Căn cứ thức gồm giải thích, căn cứ thức chánh nói. Ngài Kinh Khê nói. Không có tám thức thì không có sinh tử Niết-bàn. Thức thứ tám là dị thục nên nói là sinh tử, tức thể sinh tử này là Niết-bàn. Lại tánh thể của thức này gồm hai thứ này. Nếu thế thì thức thứ sáu thứ bảy cũng là sinh tử, sao không được gọi tức Niếtbàn? Đáp: Nếu đối chung thì nghĩa cũng có thể như thế. “Chân đế…” là hai sư chấp khác, kể giải thích của hai sư. Ngài Kinh Khê nói: Như Địa luận chấp nhận thức thứ bảy để đoạn, thức thứ sáu để diệt trí chướng, là nói thức thứ bảy thường lấy tướng thanh tịnh của tám thức, chân tu chưa hiển đều thuộc sáu thức. Nên nay trong sáu thức thì trí chướng diệt. Tức hiển bày thanh tịnh chân tu trong tám thức. Dựa theo trung luận mà phá. Ngài Kinh Khê nói: Các sư Địa luận lấy tám thức làm tự, các sư Nhiếp luận thì lấy tám thức làm tha, cho nên bị Trung luận kiểm phá. “Kinh nay…” là phụ căn cứ lý bất tư nghì để giải thích, nói tức chướng thành đức, pháp, ngài Kinh Khê nói: Kinh này thức, phiền não, bất thiện… dùng Trung luận phá rồi, thì mới hiển ba chủng đạo kinh này. Nói thân… là thức thứ sáu thứ bảy trong thân tự có báo pháp đều thuộc khổ đạo. Khởi phiền não, tức thuộc phiền não, kết nghiệp thành tựu liền thuộc bất thiện. Ba tức ba nhân, sao luống tranh cãi. Dụ. Hợp dụ. “ Nếu bồ …” là căn cứ chứng ngộ để hiển dung nạp, có hai: a, dựa vào sáu phen nói chứng ngộ, tức Trụ Hạnh Hướng Địa Đẳng giác Diệu giác. Nhờ sáu chủng tánh của Anh lạc mà nói ba thứ đẳng tu, trước đều là đẳng, nhưng chỉ thứ lân quả này riêng được tên đẳng. “ Ba thứ này …” là kết ba tánh hiển bày cùng dung nạp. Ngài Kinh Khê nói: Không phải đẳng trước sau. Chỉ khi ba đạo tự không phải dọc ngang, há được chí quả mới như chữ nhất. Chủng nếu dọc ngang thì quả không phải vốn có lý tánh của y. Quán sâu ba đạo là ở chỗ nào, đã ở tại một niệm thì không thể dọc ngang. Cho nên biết nhân quả đều như chữ nhất. “Đến văn …” là phân khoa nêu chung, phân khoa sáu đoạn. Kết thành ba chủng, nêu ba chủng chung riêng. Ngài Kinh Khê nói: phàm ba môn không đồng khổ môn, thông môn, biệt môn, văn sau mỗi mỗi đều thứ lớp nêu rõ. Nếu ở khổ môn mà nói nghĩa, thì ba đạo theo nhau đều là thuộc khổ. Thông tướng đã nói mỗi mỗi đều ba, đối bổn khổ môn nên có ly hợp. Ba đạo lại biệt nên không thể chuyên thông. “Nhưng chúng …” là hiển bày công năng liễu nhân. Do tuệ thấu suốt phiền não, trái hoặc thành trí, cho nên ở mê do hoặc nhuận sánh, ở ngộ thì do trí hiển lý. Mê ngộ tuy khác nhưng công năng thật đồng. Nếu căn cứ vị, thì liễu nhân tức là vị danh tự.
Nghe viên mà khởi tin, trái hoặc thành trí, đạt bổn thì có lý. Lý tức chánh nhân, dùng trí dắt hạnh, hạnh tức duyên nhân gọi là quán hành tương tợ. Ba nhân thành tựu, đây bèn là một tánh hai tu cùng thành ba nhân. Lý tức chánh nhân danh tự…, ba tức duyên liễu vậy. Như vừa phân biệt lấy trí dắt hạnh, hạnh và trí khế lý, ba pháp phù hợp nhau không khác mà khác. Đến thập tín thì gọi là thành tựu. Vào vị sơ trụ phá hoặc vô minh, thấy bổn có lý, nên nói là pháp thân hiển hiện. Song đến sơ trụ tu tánh nhất hợp, lại không có phân bày, ba pháp đều hiển. Nay từ hơn mà nói, lại nói là pháp thân. Cho nên văn …” là dẫn chứng công năng của liễu nhân. Thế nên biết tất cả những vốn có xưa nay là do vô trí, nên dùng hàng ngày mà không biết. Do có trí nên dắt hạnh đến quả có hạnh. Vô trí là nhân sinh tử mà thôi. “ Có thân …” , là tùy văn giải nghĩa, Dựa vào khổ đạo xưa có thân… ngài Kinh Khê nói: Văn trước đã đem thân làm khổ đạo, tức là chánh nhân. Tiếp duyên nhân, và liễu nhân. Nay hợp lại làm chánh nhân. Lại thân làm chủng, thường sinh phước tuệ, là đối ba thứ có thể biết. Đây là văn kinh nói ba chủng. E cũng chấp quyền mà siêng năng thị hiện. Như người mắt có màng… chánh là căn cứ Phương đẳng, hình ở Nhị thừa mà dụ. Trước dụ Nhị thừa, kế dụ phàm phu. Đều là tánh không thấy mà dụ cho mắt có màng. Nhị thừa chán ghét sinh tử lại đem khổ thấy mà dụ; phàm phu không chán nên chỉ nói là mắt bệnh. Nếu đến thầy thuốc vụng, tức cơ phát dụ đến, giáo chủ tam tạng gọi là thầy thuốc vụng, tích pháp quán trí như châm cứu. Trợ đạo của Tiểu thừa như thuốc thoa. Ra khỏi khổ ba cõi như hết đau. Không được Phật trí Phật nhãn như mắt hư. Mê lý trung đạo như không thấy sắc. Bốn chữ không chủng Như Lai tức hợp dụ. Nếu người …” là dụ phàm phu. Phiền não còn nguyên thì chủng Như Lai còn, nên dụ nhãn căn không hư. Sau nếu gặp thầy. Đây tức thầy thuốc khéo chỉ dùng bùa chú. Như giáo chủ Viên chỉ nói viên đốn hiểu rõ chướng tức đức, dụ cho bệnh lành. Năm mắt đầy đủ, thấy lý ba đế, nên dụ nhãn căn thanh tịnh. Rộng căn cứ đạo phiền não, ngài Kinh Khê nói: Cũng là ba chủng Phật Như Lai. Ý cũng như khổ đạo trước nói: Tham ái tuy tức đã thuộc phiền não, nương thân nhờ nghiệp cũng có đủ ba, há cũng còn quán hoặc và hay phá hoặc ư? Tất quán hoặc đủ và hoặc do nghiệp khổ. Phiền não đã thế. Đối hai cái thùy miên trạo cử của năm cái, cũng là báo pháp. Vì tương đới “đeo nhau) nên cũng đồng khổ. Do đó đều nói là ba. Nếu lìa chấp ngã thì riêng lệ ở ba. Chung riêng có ngã nên chỉ thành ba. Nếu lìa khỏi ngã, ngã khắp có ba bèn thành đẳng phần. Biệt môn mà nói nghĩa, là chấp đảo ở ấm nên chung thuộc thân vì thường đẳng biệt cho nên ở khổ môn. Trong khổ đạo mà lìa khỏi bốn đảo. Biệt môn tức là biệt tướng niệm xứ thêm hay quán niệm nên xứ gọi là sinh. Nếu từ tướng sinh thân… lại nhận chánh cần, như ý cho đến giác đạo… các tên. Cho nên biết có thân… các văn cũng chuyển nhập vào sáu môn dưới. Đây… đều phải vô tác mà giải thích. Phải biết bốn đảo phi đạo sinh ra ba mươi bảy phẩm Phật đạo. Hay sinh căn bản….
Hỏi: Cái hay che thiền trái nhau với thiền tướng. Cái đi, thiền phát hay sinh ở đâu?
Đáp: Nếu căn cứ Tiểu thừa thì cái là trái nhau. Nếu từ đại giáo thì trái với cái thành định, nên dựa đại giáo mà gọi tương sinh.
Nếu thế vì sao sinh ở căn bản thiền?
Đáp: Sự lý đều nói cho nên gồm phát sự. Hoặc là nguyên lấy tiểu giúp đại. Đây ở Biệt Thông không ngại. Vì do trong cái cũng đủ ba đạo, cho nên ước đạo mà nói ba. Lại ước khổ đạo. Hoa Nghiêm nói mười thứ sáu căn…, Tiêm sư nói: Cựu kinh quyển ba mươi lăm nói Phật tử Bồ-tát Ma-ha-tát có mười thứ nhãn: Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ minh pháp nhãn, Phật nhãn, Trí nhãn, Minh nhãn, Xuất sinh tử nhãn, Vô ngại nhãn, Phổ nhãn. Phật tử là Bồ-tát mười thứ nhãn căn. Nếu Bồ-tát thành tựu nhãn này thì được nhất thiết chư Phật vô thượng đại trí tuệ nhãn. Nhĩ… bốn căn còn lại mỗi thứ đều có mười loại, danh tướng đều khác, tất cả đều kết rằng được chư Phật vô thượng nhĩ cho đến vô thượng ý. Cho nên nay nói nhân là được nhập sáu căn Như Lai. Bởi vì sao …” là nên biết. Nói thức trụ là thức được an trụ. Thức nghĩ nhớ rõ ràng không có não loạn. Vô hoại, tên ấy là trụ. Ác thú thì khổ đau làm hư hoại, tứ thiền thì vô tưởng phá hoại, phi tưởng thì diệt định phá hoại. Cũng địa ấy tâm tưởng đều vi tế mịt mờ, vì niệm không rõ ràng, nên thức không an trụ.
Hỏi: Dục giới cũng có ác thú phá hoại, sao lại lập thức trụ?
Đáp: Lấy địa hoại mà không lấy giới hoại. Ở Dục giới ác thú thiện thú, các thú trái địa khác khổ lạc. Nghĩa rất khác không dính líu gì nên không phá hoại nhau, ngài Kinh Khê nói: Bảy thức trụ, thì xứ là sở trụ, trụ là năng trụ. Nếu theo ngài La-thập thì ở khổ tùy chỗ trụ xứ. Ba đạo đầy đủ cũng thành thông nhau. Tướng ba thông ước với lạc trụ của Tiểu thừa dồn thành vô chủng. Tuy nói lý bất lạc nhưng không phải toàn không.
Lại lược căn cứ ạo phiền não. Ngài Kinh Khê nói: “Là sinh thiện duyên. Lại từ đối trị chung làm quán cảnh, chủng nào mà chẳng thành.
Căn cứ nghiệp đạo, ngài Kinh Khê nói: Nhân ác sinh thiện… đây là dẫn có thể chuyển đổi để làm chuẩn. Tất cả đại ác đều là lý không chuyển, đã chuyển là thiện sinh. Ba thứ bất hộ cần phải biết. Ác thể là thể bất hộ. Ví như đất ẩm hay sinh đất khô, khi thành đất khô rồi thì liền thành gạch ngói. Cho nên biết đất ẩm là thể của gạch ngói.
Căn cứ phiền não kết chung.
Ngài Tịnh Danh lại hỏi. Kinh nói “viết” là nói gì. Viết là đầu mối phát ra lời. Hứa Thận trong Thuyết Văn nói: Mở miệng thấy lưỡi gọi là viết. Ngài Tịnh Danh đã nghe ngài Văn-thù nói rộng ba đạo làm chủng. E người khác không hiểu nên có lời hỏi này. Để sinh việc nói ngài Vănthù chê trách Tiểu thừa.
Ngài Văn-thù giải thích, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chánh đáp, thí dụ làm sáng tỏ, nêu bày phân khoa. “ví như …” là tùy văn giải nghĩa, có bốn:
- Dụ liễu nhân chủng.
- Dụ nhân duyên chủng. Ngài Kinh Khê nói: Kinh nói trồng trọt ở trên không, không có phân đất gọi là không, chẳng phải là hư không.
Phân hoại mục là nói trừ bỏ đồ dơ. Chu Lễ nói đồ rã mục cũng là đất.
- Dụ chánh nhân chủng.
- Dụ chung về sinh ba chủng.
Ngài Đại Ca-diếp nhận khen thành, có hai: phân khoa. Và tùy giải thích, khen sự trù liệu của kinh. Khổng An Quốc nói: Trù là phân loại, thí dụ làm sáng tỏ, giải thích ý, nói quyến thuộc, nêu ý phân khoa, từ khoa trước bắt đầu thành đạo trước và nghĩa chủng. Ngài Tịnh Danh nói phi đạo là đạo. Ngài Văn-thù nói phi chủng là chủng. “Lại nữa …” là y theo phẩm trước hiển bày thành. “ Văn có …” là phân khoa. “Sơ vấn…” là tùy văn giải nghĩa. Hỏi nói người hay hỏi. Chánh nêu lời hỏi, hỏi quyến thuộc. hỏi tư sinh.
Đáp, gồm phân khoa, “đáp …” là tùy giải thích, chánh đáp pháp thân quyến thuộc tư sinh tức là tự hành, nói quyến thuộc, nêu y nói chung, có hai: a, nêu lời đáp nói ý. b, quan …” là phụ việc thành lý đại thần, tá, lại, thứ dân là mười Địa giúp Phật. Hành hóa hàng ma trừ địch như đại thần. Thập hướng sự lý sâu dần, chức gần bên vua như tá. Thập hạnh, sức tu các pháp các việc đuổi bắt như lại. Thập trụ như dân. Trước nhập cảnh giới Phật là khách mở đất đều là dân của vua. Nhiều lúa gạo phải làm kho chứa là dụ thiền định sinh một trăm lẻ tám Tammuội. Nhiều vật phải làm kho, kho là dụ thật tướng hay phát mười tám trí tuệ không.
“Trí độ …” là tùy văn giải thích riêng, rộng giải thích các hạnh, giải thích sự, giải thích cha mẹ quyền thật, ước nghĩa lược giải thích. Nếu đến …” là y kinh giải thích rộng, đối phẩm trước luận nghĩa, ước phẩm chánh nêu. Cố kim …” là dẫn chứng giải thích thành hai. Lại hành …” là trưng khoa trước luận nghĩa. An trụ thế đế là khi mới xuất thai. Vô minh cùng pháp sinh ra tất cả cách ngăn và trải phân biệt nên gọi là thế đế. An trụ là dùng chỉ quán mà an ở thế đế, tức là quán cảnh bất tư nghì, thành vị quán hành nên gọi là an trụ. Vì an trụ nên gọi là gá Thánh thai. Sơ trụ phá vô minh, khai Phật tri kiến nên gọi là mới xuất thai. Dùng quyền đến nhập giả là thật trí thì nhập không, quyền trí thì nhập giả.
Giải thích Đạo sư. Do sinh hai khí trời đất, trời là khí dương, đất là khí âm. Dương Tử trong pháp ngôn nói: Cha mẹ con là trời đất. Quán giải. Cúi đầu lễ Phật, trí độ không con, là văn đầu kệ quy kỉnh của Đại luận mà ba bổn luận xưa không đồng, hoặc viết chữ đẳng hoặc viết chữ (tử), hoặc viết chữ (tử) vì thể chữ dễ lầm nên lại viết chữ. Nói hoặc bảo tử là chủng tử, hoặc bảo tử là con cháu. Mỗi thứ đều có nghĩa, nên xưa nay chưa ai dám nhất định, nên nêu chung bốn nghĩa mà giải thích. Cho nên Cổ Luận Âm Nghĩa nói:
- Không đồng “đẳng), tất cả chúng sinh cùng Phật không đồng (không bằng Phật).
- Vô ngại, Phật là pháp vương đối với pháp rất tự tại.
- Không con. Lại có hai nghĩa: 1. Ở lý, Phật hay thể ngộ mà không sinh ra chân lý, nên nói là không con. b. Ở sự, Như Lai thì chủng tử sinh tử đã hết, nên gọi là không con.
Không con cũng có hai nghĩa: a. Bát-nhã gọi là Phật mẫu. Mẹ có bảy con, tức là Phật, Bồ-tát, Bích-chi và bốn quả, tức trong bảy vị này Phật là lớn nhất, nên nói không con. b. Trong vô minh tế không có con trí tuệ. Thích thiêm có dẫn đủ văn này. Chỉ vì cách viết đổi chữ nên người học lắm mù mờ. Nay văn dẫn trong bốn nghĩa thì dùng nghĩa con cháu. Chỉ vì ở nhân nên gọi là con. Cho nên ngài Phổ Hiền gọi chân Phật tử. Cực quả siêu nhân nên nói là không con. Đây cùng với giải thích xưa hình như khác. Nếu lấy người lớn của bảy con thì cũng hơi thông.
“Pháp hỷ…” là lược giải các câu. Tướng Từ và Bi phù hợp đồng nhau, phù là hợp, cho nên ngài Kinh Khê nói: Tánh nữ thì nhu hòa, không cùng người khác tranh nhau. Như Từ và Bi dễ tập họp nhau, hoặc viết chữ phù trì là do người sau dối đổi. Hoặc giống hoặc thật, ngài Kinh Khê nói: “Giống là hiền, thật là Thánh. Pháp môn bỉ ngạn, Ba-la-mật,
Hán dịch là Đáo bỉ ngạn. Hai luân, tức là phước và tuệ. Nghiêm tề… cũng như đẳng lữ. Đẳng là bằng, ngang nhau, cùng loại. Hán Thư nói: Đều đồng là rợ của bệ hạ. Kỹ nữ, nữ nhạc gọi là kỹ. Duyệt lự tức tâm lo lắng. Nói tư sinh. Như thế căn cứ giáo Biệt Viên… ngài Kinh Khê nói: Chỉ cần trước ước với hai giáo trước, rồi dần dần giải thích hết, kế ước hai giáo sau. Song hai giáo trước chỉ đoạn nội giới. Nếu dựa vào Biệt giáo mà trừ bỏ kiến tư nội giới ngoại giới, thì đều có trước sau, có thể dễ lệ nhau. Đăng địa đồng thể, lý không phải trước sau. Đối với Biệt giáo tuy lại nhập địa nhưng vẫn phân kiến tu trước sau khác nhau. Viên giáo một mực, trước sau không hai. Thế thì không thể phân kiến tu khác nhau đủ ước nội giới ở vị kiến tận, gọi là kiến tịnh và độ nghi tịnh. Nếu ước tư tận thì gọi là phân biệt tịnh và hạnh tịnh. Niết-bàn chỉ cho Phật quả rốt ráo, nếu ở chân vị thì lập ra bảy tịnh, không phân mà phân coi là bảy tịnh. Chuẩn vị bốn y mà nêu có thể thấy. Bồ-tát ở nhân…, vì trong bảy tịnh có đạo vô học, không phải là quả rốt ráo. Tức là Bồ-tát tu nhân vô học, cũng được gọi là Niết-bàn. Lại tu tám giải thoát trừ cấu, tức là đoạn. Riêng chương thông với vô tri và tu chín thứ đại thiền. Cũng có thể nói rằng ở trong các thiền đều trừ vô tri. Hoa man, tiếng Phạm nói đủ là Tô-ma, Hán dịch là Hoa. Tiếng Phạm nói Ma-la, Hán dịch là Man (tóc). Ở Tây Vức thợ kết tóc thường dùng hoa Tô-ma-na kết hoa thành xâu dài lớn. Bất luận nam nữ quý tiện đều dùng tràng hoa này để trang nghiêm. Hoặc treo trên đầu, trên thân để làm đẹp. Tư tức, tức là dứt sinh, tránh các loài sâu độc. Thì rơi vào Nhị địa, tức là đất Nhị thừa. Ngoại quốc dùng âm nhạc… Triệu sư nói: Ở ngoại quốc các vua chúa khi nằm ngủ muốn thức dậy thì tấu đờn sáo để đánh thức. Cam lộ, Sinh Công nói: Thức ăn của trời là vị cam lồ. Ngài La-thập nói: Các trời lấy cây thuốc nổi tiếng ở biển, dùng núi báu mài thành cam lồ, ăn vào thì thành tiên. Bạch Hổ Thông nói là rượu trời. Quán lý sám hối, là bậc Đẳng giác ở nhất phẩm cũng phải sám hối. Làm vô tác thiện, là dựa vào nghĩa Tiểu thừa như đã thường nói. Nay giữ giới trung đạo không làm hai biên gọi là làm vô tác. Kết công đức tự hành đầy đủ, tràng phan đẹp kiến tạo đạo tràng. Ngài La-thập nói: Ở ngoại quốc hễ phá địch được thắng thì dựng thắng phan đạo tràng. Hàng phục ma cũng biểu hiện tướng thắng ấy. Nói đại dụng nhập giả, thành phi đạo trước và chủng đều là hóa tha, có phân khoa. Và tùy giải thích, nhập giả cúng dường chư Phật. Nhập giả tịnh Phật quốc độ. nhập giả thành tựu chúng sinh:
1. Nhập giả để giác ngộ chúng sinh.
2. Nói dạy chúng sinh thế pháp. Kinh nói: Đều ở trong xuất gia đến tà kiến là chín mươi sáu thứ đều là ngoại đạo xuất gia. Tùy chỗ xuất 170 gia muốn cởi bỏ hoặc, không đồng với sự thấy của họ.
3. Nhập giả cứu tai nạn chúng sinh. Kinh nói hoặc làm nhật nguyệt thiên. Ngài La-thập nói: Ở kiếp sơ chưa có mặt trăng mặt trời, nên làm mặt trăng mặt trời để chiếu sáng. Làm các đại địa thủy phong, là ở sơ kiếp đất chưa có, dùng thần lực khiến sáu phương gió thổi, nước kết lại thành đất. Hoặc thấy người ra biển khơi thuyền sắp đắm bèn hóa làm đất khiến được an ổn. Cho đến chỗ nước lửa gió tùy chỗ cầu đều ứng hiện đủ, hoặc biến hóa ra hoặc lấy thân làm thức ăn và cây thuốc, đều như thế. Kiếp trung có đao binh… ngài La-thập nói: Khi đời kiếp tận thì đao binh khởi lên, tuổi thọ con người còn mười tuổi, thì Bà-tu-mật từ cung trời Đao-lợi hạ sinh xuống vương cung làm Thái tử. Ông dạy dỗ mọi người bảo rằng: Tổ phụ ta thọ mạng rất dài, do vì giận dữ không có từ tâm nên khiến thọ mạng ngắn như thế này. Thế nên các ngươi cần tu từ tâm. Mọi người tuân lệnh, tâm ác giảm dần. Sau sinh con cái có tuổi thọ đến hai mươi. Như thế chuyển đổi dần đến khi ngài Di-lặc ra đời, thì thọ mạng lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Nhập giả cứu khổ địa ngục, súc sinh. Nhập giả đồng sự lợi vật. Kinh nói: Khiến tâm ma bấn loạn. Muốn nói hành thiền lại nhận năm dục. Muốn nói nhận năm dục lại hiện hành thiền, khó lường việc biến hóa, do đó mà bấn loạn. Làm chủ một ấp, Tả truyện nói: phàm ấp có tông miếu của tiên quân thì gọi là kinh đô, nếu không có thì gọi là ấp. Để phù hộ, Thi tiêm nói hỗ là phước. Nhĩ Nhã nói hỗ là dày. Khiến trụ giới nhẫn từ. Ngài Lathập nói: Đời không có Thánh hiền thì chúng sinh thấp kém không vào được thâm pháp, nên dạy họ giới nhẫn. Kết khen tự tha. Kinh nói đạo vô lượng, vì ứng địch đều là đạo của Phật. Chê phá Nhị thừa, “trải bất tiếu”, Quảng Nhã nói tiếu giống như loại. Lễ ký nói: Con bất tiếu là nói con không giống cha tức thuộc loại ác.
———————————
PHẨM BẤT NHỊ MÔN
Hai phẩm Bất Nhị và Hương Tích nói trung đạo song lưu, có hai:
PHẨM BẤT NHỊ PHÁP MÔN, có hai: a, nêu chương. b, tùy giải thích, giải thích ý có phẩm. Chánh giải thích phẩm, rộng lập tứ cú rộng giải thích ước câu chánh chọn, nêu bày. Chánh giải thích:
Lý thiên viên môn, ngài Kinh Khê nói: Dùng câu thứ ba mà chọn Nhị thừa. Ý này chính là ý Phương đẳng. Cũng có thể nói Nhị thừa Thông giáo nghĩa đồng tam tạng. Địa tiền của Biệt giáo gọi là thiên môn. Nếu Sơ địa gọi là nhập Viên lý. Nhưng trước khác sau không đồng Viên giáo. Hoặc nói rằng giáo đạo địa tiền không phải nhập viên. Từ chứng mà nói mới gọi là viên lý.
Lý Biệt Viên môn: Một câu là người nhận tiếp, một câu là người hiểu viên mà làm tiệm. Sơ địa tức là sơ trụ, vì đối nhau mà thành câu. Đã tu hạnh tiệm nên nhận tên địa.
Lý viên dung giáo. Lý bốn giáo tức ly, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ tư là phân biệt bốn câu thứ ba trước. Trước tuy là lý giáo đối nhau làm môn, nhưng chưa biết đó là giáo lý của giáo nào. Cần phân biệt tức ly năng sở. Biệt Viên lại đối tạng mà chọn hiển lý giáo trước.
Đại tiểu nói và im lặng, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ năm tức là đối bốn tứ cú kia mà phân biệt. Trước đều từ pháp tuy đối lý mà biện. Chưa luận nhập là im lặng và không im lặng. Nay lại từ hạnh lập môn này lại phân biệt bốn thứ trước.
Giáo hạnh xa gần, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ sáu, người nhân người quả xưa nay đối nhau hiển bày Viên giáo trước cũng lại phải ước ba giáo trước mà phân biệt.
Giáo môn đắc thất, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ bảy là căn cứ đắc thất mà luận. Đắc thất là do hạnh, hiển bày trước đều đắc, nay lại mang thêm thất.
Xuất nhập phàm Thánh. Câu đầu là ba thừa, câu hai là năm đạo, câu ba chỉ có biệt, câu bốn chỉ có viên. Ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ tám, là căn cứ một đời thuyết giáo để luận các tướng xưa nay đối nhau, xuất nhập được không. Nói xưa nay trong bảy tứ cú trước để luận đắc thất. Cũng là thiên viên đối nhau để luận. Chỉ có bốn môn thứ tư là viên là đắc.
Đại quán tiểu quả. Ngài Kinh Khê nói: Câu chín là ước đại quán tiểu quả đối nhau mà luận. Câu đầu là tiểu quả, ba câu sau là đại quán.
Cũng gọi là đại nhân. Đây như Pháp Hoa đối nhau mà luận diệu.
Quán môn suy nghĩa thiên viên. Ba quán, vì lìa đoạn thường nên gọi là trung đạo. Cho nên câu bốn tức người tu bất định chỉ quán. Ngài Kinh Khê nói: Tứ cú thứ mười là thuần ước quán môn, tuy lại nhiều môn mà ý ở tại quán. Cho nên khiến phải nói quán môn sau chót.
“Thế thì…” là kết bày giải thích thành, kết bày. Đây căn cứ tình ngộ, vì tùy cơ tình nên môn hay nhập không đồng, mà lý được nhập là một. Đây ở lý mà giải thích. Lý được nhập chỉ là một im lặng, song luận về hay nhập đều khác. Cho nên ngài Tịnh Danh im lặng, các Thánh đều nói bèn cùng biểu hiện bên trong.
Bất nhị, ngài Kinh Khê nói: Như hướng về mười môn mà chọn nhập và không nhập. Nhập là thiên viên, viên là không hai, thiên thì có hai. Không hai mới là chỗ nhập môn của nay. Hai thì không nhất định, hoặc tà hoặc chánh, hoặc tiểu hoặc đại, chỉ sự chỉ lý. Nhưng chỉ riêng một nghĩa hoặc còn hoặc mất, như đều chọn lựa sau. Phải biết là chọn nhập và chẳng nhập hai thứ. Nếu được nhập thì không hướng về các thất.
“Nếu ở…” là giải thích thành, căn cứ ngộ lý tịch chiếu mà giải thích, chánh giải thích, giải thích nhập và không nhập hai thứ. Chiếu mà song tịch, rất tịch mà song chiếu, là căn cứ ba đế cùng dung nhau, bèn tịch chiếu tương tức. Vì tương tức nên xuất nhập đều ngộ. Giải thích pháp môn. Pháp nhị và bất nhị, nhị tức hai biên, bất nhị tức trung. Cho nên biết chỗ chiếu chỉ là pháp bổn cụ nhất tâm tam thiên ba đế mà thôi. Môn, lại là đẳng. Lại là sở chiếu gọi là môn. Lý thông tất cả gọi là môn. Thế thì …” là kết bày. Ngài Kinh Khê nói: Thế thì một pháp đẳng. Bất nhị và môn chỉ là một pháp. Nhưng pháp là từ chỗ mà lập, còn môn là di dụng sinh. Lập tên tuy khác như thể của pháp Không khác. Nên nói bất nhị. Căn cứ các môn này có hai và không hai.
“Lại hai…” là căn cứ mê ngộ đối nhau mà giải thích, chọn mê bày hai. “nay nói…” là ước ngộ mà giải thích không hai, căn cứ pháp chánh bày. Không nương vào hai đến bỏ hai biên cũng chẳng đến bất nhị, không đắm trước trung đạo. “Cũng chẳng…” là chữ ly phải viết là y, vì lầm, “đều xả…” là giải thích hai câu trên. Và không hai biên, ngài Kinh Khê nói: Bỏ đắm trước trung đạo. Tức trên nói cũng không nương không hai của sinh tử Niết-bàn. Lý trung đạo này gọi là môn. Hiển giáo tức lý được nhập. Nói nhập bất nhị pháp môn, nhập tức năng quán, ba quán bất nhị pháp môn tức là sở quán. Ngoài tâm ba đế không có cảnh, nên gọi là bất nhị. Có thể làm phép tắc thì gọi là pháp, thông suốt thì gọi là môn. Dùng đây mà tóm kết bao quát các thứ khác. “Pháp Hoa…” là dẫn chứng chọn người, dẫn kinh chứng môn. Ngài Kinh Khê bảo: Pháp Hoa nói môn trí tuệ ấy… lý tức là môn. Vì trí trong môn này xứng lý nên hỏi. Mượn khai văn để hiển bày vấn nạn, cũng nghĩa là cảnh trí tương xứng.
“Không phải chỉ…” là chọn người năng nhập, chọn bỏ thiên hiển viên. “Chỉ trừ …” là thừa mấy chữ. “Lại viên …” là chọn bỏ phàm hiển Thánh. Ý chung có thể như thế. Nếu luận ý chung thì chỉ tương tợ gọi là nhập. Quán hành, danh tự cũng gọi là nhập. Như người biết nhà ấy…, ngài Kinh Khê nói: Đây là ước trụ tiền biết viên là dụ hiển bày trụ. Phần chân gọi là nhập. Như khai thị ngộ nhập… tên chứng nhập này là do ở phần chân. Nghĩa biệt nếu thế, há chỉ tên nhập từ biệt. Cả ba thứ khai, thị, ngộ cũng không chung cho phàm phu.
Hỏi: Sư nay dùng khai… bốn thứ để đối bốn mươi vị thì nhập phải ở mười Địa. Trong đây vì sao lại nói trong sơ trụ mà luận?
Đáp: Pháp Hoa sớ giải thích khai thị ngộ nhập gồm có bốn nghĩa:
a, là ước bốn vị, hai là ước bốn trí. Đó là đạo tuệ đạo chủng tuệ Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí. Hai thứ này đều căn cứ dọc đối bốn mươi vị.
Căn cứ bốn môn, thì không môn tức khai, hữu môn tức thị, hai cũng môn tức ngộ, song phi môn tức nhập.
Căn cứ quán tâm, tâm tánh ba đế là bất khả tư nghì. Quán này nói Tịnh Danh khai, tuy bất khả tư nghì mà hay phân biệt ba đế không lạm nên gọi là thị. Ba và một tương tức nên gọi là ngộ, không phải ba mà chiếu ba nên gọi là nhập. Hai thứ này đều ước ngang mà luận vị, vị đều đủ bốn. Nếu ước ngang, là thật trụ tiền của thông. Nhưng văn kinh đã nói bốn hoa biểu thị chính là ở Thánh vị. Cho nên nay lấy ngang trải dọc sơ trụ đủ bốn. Phẩm này…” là theo phẩm trước mà hiển ý, thành phẩm Bồ-tát trước được nhập vào môn này. Vị Vô sinh nhẫn, là nhân chê trách mà đổi quán, nên nhập vào vô sinh. Cũng không thông trung mà trụ, là cũng chẳng trụ trước vào trung đạo hay thông. Thành phẩm Thăm Bệnh trước. Ngài Kinh Khê nói: Tiến luận, tức là luận về quả dụng, nên nói tiến luận. Thành hai phẩm Quán Chúng Sinh và Phật đạo ở trước. Loại như trời đất đến chẳng sinh. Kinh Dịch nói trời đất giao nhau mà vạn vật thông. Nêu tên nghĩa cùng thông, có hai: a, nói tên môn thông cả xuất nhập, nêu lập. “ Thông giáo …” là giải thích, “Lại nữa…” là hiển nghĩa pháp thông cả xuất nhập, nêu lập. Bất nhị là pháp. Phẩm của kinh chỉ nói nhập bất nhị. Nay dùng nghĩa thông cũng phải nói là nhập nhị. Trong đây lại phải nêu rằng không phải chỉ nhị gọi là xuất, bất nhị cũng gọi là xuất, vì văn lược bỏ mà thôi. Vì pháp môn vô lượng nghĩa nó đều thông.
“Như pháp …” là giải thích, chánh giải thích, gồm dẫn trong nhà trưởng giả mà hiển nhị gọi là nhập. Tạo lập phòng nhà tức hữu dư Niết-bàn trong cõi nước hữu dư. Lập nhà từ bi nương tánh nhà trống. Vàng bạc dụ cho ba mươi bảy đạo phẩm Đại thừa. Kho lẫm là định môn tức một trăm lẻ tám Tam-muội. Kho là tuệ môn tức mười tám không. Không hai mà hai gọi là xuất, phải nói là nhập, nay nói xuất là lầm. Tức nêu rằng hai cũng gọi là nhập là đó. Song tục bất tư nghì này nhìn sang chân bất tư nghì kia, tuy gọi là xuất. Nếu nhìn nội giới tư nghì thì chân tục đều gọi là nhập cả. Vì nhập vào trong nhà vậy. “Tự ư …” là chánh bày ý này. “ Như xá …” là dẫn gia bị Tiểu thừa để hiển bất nhị gọi là xuất. Chuẩn văn này thì biết hợp trước nêu rằng không phải chỉ nhị gọi là xuất, mà bất nhị cũng gọi là xuất. Vì đối nhau dễ bày tỏ nên lược bỏ trước. Đây cũng từ nhị mà nhập vào bất nhị. Vì chỗ chứng của Tiểu thừa là tục ngoại giới nên gọi là nhị. Để gia bị nên nói không cùng chung Bát-nhã, tức chân ngoại giới nên gọi là bất nhị. Nhưng chỉ biết trở đi trên tạm ban gia bị để nhập. Đã đều không mong lấy nên đây lại cướp đi, nên nói không phải là chân ngộ nhập. Nếu biết rõ dưới đã gia bị mà không phải là chân ngộ nhập, do đó mà ra chứng tiểu quả nên nói lại xuất thảo am. Thảo am là chân nội giới gọi là bất nhị. Đã ra trụ tiểu quả, há không phải bất nhị lại gọi là xuất ư? Lúc đó …” là kết bày. Nhưng đây hai phen nói nghĩa xuất nhập đã thông. Nếu muốn dễ hiểu phải nói dùng hai đế nội giới nhìn sang hai đế ngoại giới, đều cần phải phá nội nhập ngoại. Cho nên khiến tục đế ngoại giới cũng được tên nhập, tức nhị cũng gọi là nhập. Đây tức ý của phen đầu. Nếu từ gia bị ra chứng tiểu quả tức từ quả ngoại tục ra chân nội giới, tức bất nhị cũng gọi là xuất.
“Nay nói…” là chọn hiển bày, tức từ tục ngoại giới mà nhập chân ngoại giới nên nói nhập bất nhị. Phải biết hai đế nội giới đã thuộc tục ngoại giới vậy.
Vào văn, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải, ngài Tịnh Danh hỏi nguyên do hỏi. Từ đầu hội đến nay chỉ có hai người đối đáp nhau, các người khác đều im lặng. Nay muốn đều hiển các công đức, nên hỏi để khiến đều nói. các Bồ-tát đều nói, huyền nói nghĩa chỉ:
Biểu thị Viên vị, nêu ba nghĩa: 1) nương Đại kinh. 2) nương Nhân vương. 3) nương Đại phẩm.
Giải thích, có ba: a, biểu thị vị khai trước hợp sau. Tức Đại kinh nói thuốc bất tử của trời Tam thập tam, các quan văn võ cùng uống, tức là cam lồ bất tử. Vì Niết-bàn như cam lồ khiến sinh tử dứt hẳn, là thuốc chân bất tử. Biểu thị vị hợp trước khai sau. Mười bốn cõi cũng gọi là mười bốn nhẫn, tức khai năm nhẫn thành mười bốn nhẫn.
- Phục nhẫn có ba phẩm, tức ba mươi tâm.
- Tín nhẫn.
- Thuận nhẫn.
- Vô sinh nhẫn, mỗi thứ đều có ba phẩm đối địch chín Địa.
- Tịch diệt nhẫn có hai phẩm: Hạ phẩm đối với Địa thứ mười, thượng phẩm đối với Diệu giác. Vì nó hợp với Đẳng giác ở mười Địa.
Biểu thị trước sau đều khai. Đại phẩm dùng bốn mươi hai chữ biểu thị cho viên vị. Trước là A, sau là Trà A nói là không. Tức sơ trụ vô minh phá trước không sinh. Trà, nói đủ là Ba-trà, Hán dịch là hết, ngoài chữ Trà không có chữ nào nữa. Tức diệu giác rốt ráo. Trung luận có tám bất, Tiêm sư nói đó là bất sinh, bất diệt, bất đoạn, bất thường, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ. Nên nói là tám. Nếu không đến bốn mươi hai địa, tức tiểu Bát-nhã nói: Tất cả Hiền Thánh đều dùng pháp vô vi mà có sai khác. Nếu phân biệt đến đều đủ các chữ. Tức kinh Lăng-già nói một Địa mà đầy đủ tất cả Địa.
“Phải biết…” là kết ba nghĩa, chỉ có nghĩa đầu cùng Bồ-tát nay vị số tương đương. Đã khai hợp gồm thâu nhau cho nên đồng hai thứ sau. Cho nên nói tức biểu thị ba nghĩa này. Căn cứ tự hành. Năm trăm thân nhân như trước đã nói. Nay lấy tiểu mà làm chuẩn cho đại, nên dẫn ra. Căn cứ hóa tha, ngã, vô ngã đến như thế, lấy tám đảo làm chuẩn vào sinh diệt mà nói. Sinh là bốn vinh, diệt là bốn khô. Cho nên căn cứ bốn Biệt Viên, có chánh giải thích. Tiêm sư nói: Ngài Văn-thù không nói năng. Nói và không nói như kinh nói rằng: Như ý ta thì đối tất cả pháp Không dùng lời lẽ nói năng gọi là nhập bất nhị. Liệu giản, hai giáo cách biệt nhau. Ngài Kinh Khê nói: Nếu làm ba môn… đây là duyên với văn trước đối các ngài Văn-thù và Tịnh Danh, phán quyết ba mươi hai người lệ ở cảnh riêng. Nay lại hỏi đáp hiển bày Biệt Viên. Không thể chuyên phán quyết lấy làm Biệt giáo. Nếu đối một môn mà nhiếp bốn mươi hai, các môn cũng thế. Bốn môn gồm thâu. “ Pháp tự …” là tùy văn giải nghĩa riêng, nói ba mươi mốt Bồ-tát đều nói ba mươi mốt. Pháp tự tại chánh giải thích, giải thích tên. Ngài Kinh Khê nói: Thì quyền thật đến vô phược. Như trong phẩm Thăm Bệnh tuệ cùng phương tiện đối luận về phược và giải. Nay nói tự tại tức có hai dụng. Tuệ tức thật tuệ, nên nói hai tuệ. Quyền tuệ thì tự tại, thật tuệ thì không phược. “ Sinh diệt …” là giải thích môn. Đều là tùy tình… chưa nhập sơ trụ kiến lý, trụ tiền, tương tợ… các giải thoát đều là tùy tình. Chọn quyết, ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ đối pháp tự tại mà văn đã rộng phân biệt là đứng đầu các Bồ-tát nên phải thế. …” là đại chỉ cần chuẩn theo đây. Cho nên các văn giải thích dưới cùng tóm lược. Văn có ba: a, chọn chẳng phải ngoại chấp. b, chọn chẳng phải tam tạng. c, chọn chẳng phải Thông giáo. Mỗi thứ đều có hỏi đáp đều như văn. “ Nay …” là kết bày. Phần trung đã thoát, là phần kiến trung đạo vậy.
Đức Thủ, có hai: a, giải thích tên. b, “ngã …” là giải thích môn, chánh giải thích. Hoặc tùy tánh dục… tức tự hành vậy. Hoặc vì phó cơ tức là hóa tha vậy. 2. Nếu hai …” là chọn chẳng phải chưa không ở sở, tức lấy Niết-bàn làm ngã sở. Bất Thuấn, có hai: Giải thích tên. Đảnh sinh trên Đao-lợi, duyên như phẩm Thánh Hạnh của Niết-bàn. b, giải thích môn. Không chịu có năm thứ, như phẩm Hành Tướng của Đại phẩm nói: Khi Bồ-tát hành Bát-nhã, hành cũng không thọ, không hành cũng không thọ, cũng hành cũng không hành cũng không thọ, chẳng phải hành chẳng phải không hành cũng không thọ, chẳng thọ cũng chẳng thọ. Năm thứ này tức không thọ hai biên.
Đức Đảnh, có hai: a, giải thích tên: Đảnh thiền như trước đã ghi. b, giải thích môn.
Thiện Tú, có hai: giải thích tên. Đó là hai mươi tám sao, là giác, cang… năm sao, thì Sử ký nói là thủy, hỏa, kim, mộc, thổ. Năm sao này làm phò tá cho trời, là kinh vĩ của trời lúc hiện lúc ẩn. Cho đến năm ấm, tóm tắt các ấm giữa nên nói cho đến. Quảng sớ nói cho đến năm ấm, thì hiểu rõ năm ấm tức năm Niết-bàn gọi là Thiện tú “sao lành). Đây là ước chỗ phối hợp. Nhật tinh tú Tam-muội, tức trung trí như mặt trời, không trí như năm sao, giả trí như hai mươi tám sao vừa kể. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Là động niệm… vì động niệm do đó cảnh động. Nay chỉ chung lấy tâm bất động mà đối với cảnh động. Cho nên cảnh trí của ba giáo gọi là hai, chỉ có cảnh trí của viên mới gọi là bất nhị, gọi là không động niệm.
Thiện Nhãn, có hai: a, giải thích tên, ngài Kinh Khê nói: Thiện nhãn tức tuệ nhãn, tức là từng phần được tuệ nhãn như Thế Tôn. b, giải thích môn, có hai: a, nêu các giải thích khác. Ngài Kinh Khê nói: Ba giải thích của Đại thừa, một giải thích của Tiểu thừa đều không phân biệt, cạn sâu một tướng. Văn có hai: a, Nhân sư. b, Tỳ-đàm. Hoặc chẳng phải tâm pháp, tức là sắc. Hoặc Đại hoặc Tiểu, là sinh trụ dị diệt mỗi mỗi đều có Đại tiểu, nghĩa là Tiểu sinh sinh Đại sinh… như trước đã ghi. Tám tướng đều ước một pháp… nghĩa là đại tiểu bốn tướng thành tám tướng. Nên gọi là hai tướng, chẳng đồng nói hai, nên tám cũng gọi là hai. Nếu không được một pháp này, nếu tâm pháp đã không thì tám tướng sao còn, sắc pháp cũng thế. Nay đều không dùng, ngài Kinh Khê nói: Lại nếu đối đãi mà nói một không thì không dùng. “ Nay lấy …” là giải thích nay, y Đại luận, tướng và pháp…, tướng tức là tám tướng, pháp là bổn pháp. Ngài Kinh Khê nói: Nay lấy thích luận… không phải khác tức là một, không phải một tức là không. Lại không phải một và không này mới gọi là bất nhị. Kế, cũng như …” là trước đem một để phá số, kế một tướng, không tướng …” là cùng phá một và không, mới gọi là bất nhị. Căn cứ vào A-hàm, ngài Kinh Khê nói: Lại có ba pháp khai tâm làm bốn, lời văn hơi tóm gọn. Nói rộng thì lại có ba pháp sắc và tâm số. Lại có bốn pháp khai tâm làm ba. Vương, số, đồng thời và sắc là bốn. Lại có năm pháp khai tâm là bốn. Đối sắc là năm. Nhưng đây chỉ là Tiểu thừa A-hàm khai hợp sắc tâm để giải thích một và nhiều. Chỉ tạm nhờ hiển tướng mà không phải dùng hẳn. “Nếu chẳng …” là chánh nói quán tướng. Căn cứ ba thoát.
Diệu Tý, gồm giải thích tên, hoặc dùng sự diệu nên được tên là cánh tay đẹp mầu. Ngài La-thập nói: Vì quả báo bố thí nên tay hay sinh ra vô lượng báu vật năm giòng sông, nên gọi là tay mầu. Hoặc quyền thật…” là ước chỗ biểu thị. Ngài Kinh Khê nói: Bất tư nghì thật cùng quyền lý đồng. b, giải thích môn. Tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn, ngài Kinh Khê nói: Đây là Bồ-tát hai giáo đối Nhị thừa hai giáo. Tự thiện và vị tha tức Thanh văn là tự thiện, Bồ-tát là vị tha.
– Phất-sa, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Trước nêu giải thích xưa. “Dẫu thử …” là chê xưa. “Nay lấy…” là chánh giải thích.
Sư Tử, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Trước căn cứ ở thế gian hai tên, kế luận dị đồng. “Nếu lấy …” là chê xưa. Nay lấy …” là chánh giải thích. Ma-ha Na-già, Hán dịch là Đại long, tức gọi Phật là rồng lớn trong loài người.
Ý Sư Tử, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn.
Tịnh Giải. Hữu vi…, ngài Kinh Khê nói: Trước phân danh và thể. Ý nói văn trước đã nêu tên lậu và vô lậu xong rồi. Nay lại lập tên hữu vi và vô vi. Vì khác môn, nên lại lấy hữu vi đối ba vô vi. Như được vô lậu cũng là hữu vi, Tiêm sư nói, ở phẩm Hương Tích sau, sớ nói: Lại từ Tu-đà-hoàn đến La-hán, các trí tuệ có được gọi là hữu vi, còn đoạn có được gọi là vô vi. Vô vi tức là hữu dư Niết-bàn, nay có thể y theo đó. Số duyên và phi số duyên, tức bản dịch mới gọi là trạch diệt và phi trạch diệt. Câu-xá tụng nói: Trung không này vô ngại. Trạch diệt gọi ly hệ. Rốt ráo ngại đời sau. Riêng được phi trạch diệt. Giải thích rằng: Không vô ngại tức là hư không lấy vô ngại làm tánh. Phi nghĩa là chỗ thấy không một hiển bày sắc và các lổ trống…, trạch diệt lìa trói buộc, là tùy các trói buộc đều khác. Tùy trói buộc ba cõi mà các kiến phẩm đều gọi là hệ (trói buộc). Các trói buộc không đồng nên gọi là tùy sự. Lìa một hệ “trói buộc) nên được một trạch diệt, sức trạch khiến diệt nên gọi là trạch diệt. Nghĩa là đoạn trí suy lường khiến diệt, nên gọi trạch diệt. Ngại ở đời sau. Đây là phi trạch hai loại không đồng nghĩa là căn trần thiếu duyên và ngôi vị chứng được các hoặc vô tri không tiếp tục khởi gọi là ngại đương sinh. Như khi duyên một sắc thì ở sắc khác và bốn trần khác được phi trạch diệt. Vì sắc chánh duyên làm trở ngại bốn trần kia, sắc… phải không sinh, cho nên một là Niết-bàn. Tiêm sư nói là trạch diệt vô vi vậy. Hai thứ phi Niết-bàn là hư không và phi trạch diệt. Nay sắp lìa tất cả số… ngài Kinh Khê nói: Vì trong hữu vi thì số đối ba, còn trong vô vi thì số duyên với diệt, nên gọi là hai. Nếu không có số ấy và số diệt thì bất nhị.
Na-la-diên, có hai: a, giải thích tên: Na-la-diên, Niết-bàn sớ dịch là kim cang. b, giải thích môn. Không ra không đến, tức không ra khỏi sinh tử thì không đến được Niết-bàn, vì đều không. Ngài Kinh Khê nói: Chánh đáng ý thông. Nay cần ở viên.
– Thiện Ý.
Hiện Kiến. Ngài Kinh Khê nói: Trong văn hiện kiến không giải thích tên. Đã thấy trung đạo nên gọi hiện kiến. Si là vô minh cho đến lão tử, trong đây chỉ đủ mười hai duyên. Đây dùng ý kinh thành quán nay. Nay quán bất tận là không, là không trung đạo từ phi tận. Giải thích sau nêu trung không gọi là bất tận. Tận và bất tận này tức phi tận và phi bất tận.
Phổ Thủ, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Vì nói nên đối với ngã không… và dẫn nhập ngã tự tại. Tên đều ở trung đạo pháp tánh. Cho nên cần dẫn để phòng bị cái lỗi tên đồng nghĩa đồng. Cho nên tên đồng nghĩa khác mà giải thích.
Điện Thiên, có hai: a, giải thích tên. b. Giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: minh và vô minh là hai thứ. Đây là nội giới không tức vô minh, cho nên cùng minh ngoại giới là hai. Vô minh tức minh …” là chánh giải thích tướng của nó. Tức là vô minh tương tức. Vô minh tức minh. Thể của vô minh còn tự không hai, huống là đối với minh. Nên nói Phật tánh tức là minh. Minh có ba thứ, phiếm nêu ra mà thôi.
Hỷ Kiến, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Trước bài xích thứ lớp vụng về, “nay tức …” là chánh giải thích. Như huyễn có tức không. Tất cả pháp thú không và chẳng Không là chân không.
Minh Tướng, ngài Kinh Khê nói: Bốn thứ không chủng… cũng lập trước. Kế bốn chủng cho đến bất nhị mà chánh giải thích. Nói nội ngoại đều không tức là thể Không, tức là trung đạo không vậy. Đầy đủ như đã giải thích trước.
– Diệu Ý.
Vô Tận Ý. Nay nói bố thí… là thấu rõ hai thứ Tạng, Thông, thành bất nhị nay. Lục độ chung riêng. Lục độ là riêng, hồi hướng là chung, vì sáu đều hồi hướng.
Thâm Tuệ, ngài Kinh Khê nói: Tên thâm tuệ trong văn không giải thích. Tuệ thấy đến đáy nên gọi là thâm. Đáy tức thật tướng.
Tịch Căn, có hai: a, giải thích tên. Ba căn vô lậu, như trước đã ghi. Ngài Kinh Khê nói: Đây là ba căn vô lậu của Đại thừa, từ tịch diệt thật tướng mà sinh. Căn được thanh tịnh, là phần chân thanh tịnh. b, giải thích môn, có hai: a’, rộng giải thích nghĩa Tam bảo, có hai: a”, nói hai tướng. Trong văn trước hỏi nêu Tam bảo, là ba mà không phải hai. Đã nói…” là nêu hai ý đáp mà giải thích: Căn cứ khác nên gọi hai. Thế thì bốn pháp cho đến vô lượng, đối lý nhất như đều được tên hai, há chỉ ba pháp. Lại giải …” là kế thâu gọn Tam bảo để làm nhân pháp, cho nên biết Tam bảo chỉ là hai. Nói Phật cùng chúng sinh đều là người, chữ sinh dưới chữ chúng phần nhiều do người sau dối thêm vào. Chúng tức là tăng vậy. Vì Tăng-già, Hán dịch là Chúng. Cho nên Phật tăng hai bảo đều là người. Phật là người quả, tăng là người nhân. Cho nên nói…” là dẫn Đại luận chứng Phật gọi là người. Vì người cùng chúng sinh đều là giả danh. Người không hiểu điều này nên dưới chữ chúng liền thêm chữ sinh. “Nay quán…” là nêu bất nhị, có hai: a, chánh căn cứ Tam bảo nêu bất nhị. “ Vì sao…”, lại trải ba thân mà nêu bất nhị, có hai: a, căn cứ ở thân nói rộng, có hai: a, bắt đầu nói chung. b, người…” là ước thân riêng nói, có hai: a, thân đối địch. b, ba thân đều nói, có ba: a’, pháp thân Tam bảo là thầy Phật pháp. Chữ pháp là lầm. Phải nói thầy của chư Phật. Đây tức Đại kinh nói: Thầy của chư Phật tức là pháp. Vì pháp thường nên chư Phật cũng thường. Chư Phật tức báo trí. pháp thân này chính là pháp, Phật há được lại là thầy pháp Phật ư? Pháp có thể làm khuôn phép, vì báo trí làm quy tắc pháp tánh mà thành. Tức 10 là vì pháp thường nên chư Phật cũng thường. Pháp có nghĩa là quy tắc “khuôn phép). Cảnh trí tương xứng. Ngài Kinh Khê nói: Không xứng thì không hòa hợp. Đã ước cảnh trí để nói Tam bảo mà nói là cảnh. Phật pháp cơ trí xứng nhau. Cảnh cũng xứng trí, nên gọi là tương xứng. Báo Phật Tam bảo. Ngài Kinh Khê nói: Cùng lý tương ưng, trí ứng với lý như trước. Dựa vào lý tức là lý ứng ở trí. Ứng thân Tam bảo. “Tuy lại…” là kết bày bất nhị. Song ba thân này mỗi thứ đều nói Tam bảo. Phàm có hai khác. Như hai thân pháp báo chỉ là cảnh trí chiếu nhau, phát… cùng thành ba nghĩa. pháp thân lấy trí được phát làm Phật, báo thân lấy cảnh được chiếu làm pháp. pháp thân lấy cảnh đồng với trí làm tăng. Báo thân lấy trí đồng với cảnh làm tăng. Chỉ vì do báo và pháp ngầm tương ưng phù trợ nhau. Được trông vào nhau đều làm Tam bảo. Chỉ ứng thân Tam bảo một mực ở ứng mà nói, xét kỹ văn trước nghĩa có thể thấy. Phàm mười hai bảo vì nguồn gốc là ba nên đều lưu xuất thành chín, nguồn gốc và số thì có mười hai. Chưa từng có khác, vì ba thân một thể, người pháp Không hai. Nhập vào một thật tướng, ba và chín tuy khác, nhưng một tâm không khác. “Tam bảo …” là tóm lược y theo tất cả pháp. Ngài Kinh Khê nói: Các pháp cũng thế. Các pháp đều là một thể thật tướng Tam bảo.
Tâm Vô Ngại, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Trước chê tiểu quả. Diệt tức Niết-bàn diệt. Chỗ nhân quả diệt hết tức là lý tịch diệt của Niết-bàn. “Nay quán …” là chánh giải thích. Nói Niết-bàn tức là sắc. Không tức là sắc. Không này cũng là không trung đạo. Trong trung đạo đầy đủ tất cả sắc không.
Thượng Thiện, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn, có hai:
a’, chánh giải thích hiện văn. Văn này cũng có hai nghĩa: a, vì khác nên gọi là hai. Giải thích trước, tức giải thích trong tịch căn. “Lại thân …” là nghĩa kế, tóm thâu ba thành hai. Chỉ là sắc tâm, sắc tâm là hai. Ngài Kinh Khê nói: Tiểu thừa nhập không cũng còn thấy có hai. Ở trong thật tướng thấy tất cả pháp Không thể được một pháp, há lại phân sắc tâm, nên nói là không hai (bất nhị). Từ trên đến dưới đối trên kết thành. Thiện căn tức người thứ sáu. Bốn thứ không chủng tức là nói tướng thuyết môn thứ mười tám. Nay lấy thượng thiện đối hai người trên, cùng thành ba thoát đều từ một ngộ.
Phước Điền. Ngài Kinh Khê nói: Kinh động, là giải thích có tấn thoái. Trước lấy bốn thiền đều gọi không động. Kế thiền thứ bốn đến bốn không bèn gọi không động. Đây chỉ là giải thích của người khác. Nay nói như trên nói vô động chỉ thuôc ở phước, đều là hữu lậu, cho nên thuộc động. Đối lý vô lậu mới gọi không động.
Hoa Nghiêm, ngài Kinh Khê nói: Từ ngã khởi hai thứ, là ý nói phá ngã kiến đối vô ngã nên nói là khởi hai. Chưa thông suốt tánh ngã nên khởi hai thứ.
Đức Tạng, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Như ngài Thân Tử, là văn đầu ở phẩm Bất Tư Nghì. Nên kinh nói: Phàm người cầu pháp Không thấy khổ, cầu không đoạn tập, cầu không tạo tác, cầu tu đạo tận chứng. Cho đến thế là hý luận, không phải cầu pháp.
Nguyệt Thượng, có hai: a, giải thích tên: Trăng tròn sáng…, tức Hoa Nghiêm nói: Ví như mặt trăng tròn sáng khắp hiện trên các mặt nước, hình ảnh tuy vô lượng nhưng trăng chưa hề có hai. b, giải thích môn. Hiển hối cũng là sáng tối. Kinh nói: Như nhập định diệt thọ tướng, lấy tiểu định để dụ sáng vậy. Vì trí chiếu diệt mất nên vô minh. Kiết hoặc đã hết nên không tối.
Bảo Thủ Ấn, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn.
Châu Đảnh Vương. Ngài Kinh Khê nói: Tên Châu đảnh vương trong văn không có giải thích, ví như viên minh châu trên đảnh của luân vương, là châu ở trên đảnh, nên nói là châu đảnh.
Lạc Thật, có hai: a, chánh giải thích lạc thật, b, giải thích môn, giải thích thật không thật. Giải thích nhục tuệ nhãn, chánh giải thích, gồm nêu văn dẫn kinh. “ Nhị thừa …” là y kinh bày nghĩa. “ Chỉ đại…” là kết bày. Ngài Kinh Khê nói: Nếu ước Biệt giáo để nói thì chánh quán trung đạo là tuệ nhãn, ở trong mười trụ mà quán xa hơn chỗ mong cầu. Từ Thập hạnh …” là từ không xuất giả, nên nói là chiếu hai đế, nên từ giả mà gọi là pháp nhãn. Ba đế đồng quán tức nhập Sơ địa. “ Trong ấy …” là giải thích-các Bồ-tát, có hai: a, chánh bày hai giải thích nghi. b, Văn-thù Bồ-tát nói, có hai: a, phân khoa. “nhất chư …” là tùy giải thích. Các Bồ-tát hỏi, Văn-thù nói, lược giải thích. Cho nên nói khởi tưởng liền si… là văn Ban-chu nói. “ nếu làm …” là rộng giải thích, căn cứ môn nêu nghĩa, có hai: a’, căn cứ năm môn chánh giải thích, có hai: a”, chánh giải thích, Bồ-tát …” là giải thích, căn cứ trước làm bốn môn, chánh nêu. “các Bồ-tát …” là kết lợi ích. Nhưng bốn môn này chỉ là ba đế, không môn là chân đế, hữu môn là tục đế, hai thứ cũng song phi tức là trung đạo giá chiếu. căn cứ ba đế tương tức, cho nên bốn môn cùng dung nhau. Ba đế bốn môn một tâm bổn cụ. Đã biết tương tức nên đều nói nào có ngại gì. Đều thấu suốt tâm nguyên, đều xưng bất nhị. Chuyên dùng ý này mà bao quát tất cả, mới biết đại chỉ của kinh này là bất nhị. Tùy bốn Tất-đàn mà hợp cơ. Đã tự hành thì nhân đây mà khai ngộ. Do đó lại nói pháp mình để chỉ bày người khác. “Ư kỳ …” là hiển bày, nay là thời thứ năm. Môn thứ năm này há lìa bốn môn trước, bốn thứ bất khả thuyết nên gọi là thứ năm. Lại nếu ước quán để nói, thì ba đế đều chiếu thành bốn môn trước. Ba đế đều mất mà thành môn thứ năm này. Mất và chiếu một thể, rộng như thế mà không nương nhờ. Tịnh Danh ngậm miệng há lìa đây ư? Tổn và không tổn có thể được ý. “Cho nên đây…” là kết. Liệu giản, hỏi và đáp, Nói năm môn đều là giáo. Căn cứ bốn Tất-đàn kết thành, có hai: a’ dựa theo ba trước một sau mà giải thích. Chú rằng, là bốn Tất-đàn này đều ước lý mà nói, tùy cơ mà tạm khác, nhất định không sâu cạn. “ Cũng vì …” là ước trước sau đều bốn mà giải thích. Đã là cùng thành nên trước sau đều bốn, không nói có nói bốn lợi ích nào khác. Quan trọng là ở chỗ quy về, nó đồng quy ở đạo. Dẫn hai luận mà chứng thành: a, chứng thành bốn môn, dẫn luận. “nếu thật …” là giải thích nghĩa, có hai: a, giải thích nghĩa môn. b, như thế …” là nêu đắc thất. Vì tà kiến bị lửa đốt. Phàm lửa không chấp thì công năng giúp thân ấm, chín thức ăn. Nếu có chấp thì có họa đốt thịt phỏng tay. Hợp dụ pháp khác biết. “Nếu nhân …” là kết bày môn thứ năm, Trước sinh sau hai thứ. “Đây không …” là so với trên bày ý. Ngài Kinh Khê nói: Cũng là biệt muốn đến Viên giáo. Trên đã phán quyết các Bồ-tát thuộc Biệt giáo rồi, cho nên không thể nói thuộc Viên giáo mà giải thích. Đây cũng là hoàn toàn tùy văn mà phán quyết thôi. Nếu ba mươi hai người từ ý xa mà nói. Chỗ nhập cũng là bất khả thuyết. Người được ý viên, từ trước cũng đã phán quyết ba mươi hai người mỗi mỗi thông nhau, tức thành nghĩa viên. Cho nên nay trong đây được giải thích như thế. Môn bất khả thuyết cũng như thế. Biệt Viên bốn môn mỗi thứ đều có môn thứ năm bất khả thuyết, cho nên bất khả thuyết. Môn ấy cũng thông. Khắp nhiếp tất cả mới thuộc viên môn. “Vô ngôn…” là riêng bày vô ngôn, có hai: a, chung bày sáu thứ, có hai: a, căn cứ nội ngoại nói chung, có năm:
Trường Trảo, tức là Ma-ha Câu-hy-la, Hán dịch là Đại Tất, là cậu của ngài Xá-lợi-phất, từ xưa nay luận thắng chị mình. Nhưng khi chị có thai Xá-lợi-phất thì luận không thắng nữa. Nên biết là mang thai người trí, luận giùm còn thế, huống là khi xuất thai. Ông cậu bỏ nhà đến ở Nam Thiên Trúc đọc mười tám kinh, thề đọc mãi không nghỉ, không rảnh để cắt móng tay. Người lúc đó gọi là Phạm chí Trường trảo (móng tay dài). Ông trở về nhà hỏi cháu đang ở đâu. Người nói làm đệ tử Phật. Ông nổi kiêu mạn lớn nói cháu ta tám tuổi tiếng tăm chấn động cả năm cõi Thiên Trúc. Ông Sa-môn kia có đạo thuật gì dụ dỗ con chị ta. Bèn đi thẳng đến chỗ Phật, suy nghĩ rất lâu mà chẳng được một pháp nào nhập tâm, liền hỏi Phật rằng: Tất cả pháp Không thọ, thọ thì có nghĩa an. Đây nói tất cả pháp ta đều có thể phá khiến không an, nên nói tất cả pháp Không thọ. Khí độc tức trong tâm ba cõi mà vọng chấp. Phải nói là đều ba cõi. Trong văn viết chữ đọc là lầm. “Tâm Phật…” là hiển bày Phật phá. Tâm Phật không có ba cõi, hiển bày tâm Phật từ bi mà phá tà chấp kia. “Nhữ chi…” là chánh nêu Phật phá. Trước nêu chấp của ông ta rồi hỏi lại mà phán định. Ông không thọ, là nêu chấp của ông ta. Ông thấy là thọ chăng, là hỏi lại. Nghĩa là ông khởi cái thấy không thọ. Trong tâm ông là an khi thọ cái thấy này hay chẳng an mà thọ cái thấy này. “Nếu thấy…” là nêu ý vấn nạn của Phật để song phá chấp của ông ấy. Trước phá thọ, kế phá không thọ. Ý đầu, nếu cái thấy này của ông an thọ ở tâm, sao được tất cả là không thọ. Vì tâm thấy của ông cũng ở trong tất cả pháp. Kế phá chẳng thọ, phải nói là nếu thấy chẳng thọ. Nay nói không thấy là nói ngược. Ông thấy nếu cũng không thọ, sao được thấy người khác có thọ, liền muốn phá cái mình chấp mà đem phá người khác. Nghiệm thì biết tâm ông có thọ. Ông thọ ở thọ là tâm ông, lại thọ cái thấy chẳng thọ, cái thấy này tức là thọ. Nên nói ông thọ ở thọ. Thọ tức là khổ đế. Thọ có ba thọ. Khen mừng tức lạc thọ, chê giận tức khổ thọ, không khen không chê mà khởi si tức xả thọ. Lạc thọ có hoại khổ, khổ thọ có khổ khổ, xả thọ có hành khổ. Nếu nói thọ tức khổ đế. Lưu chuyển sinh tử, là do tập cảm khổ thọ mà sinh năm đạo, nên nói thọ đủ các thọ. “Vì sao…” là Phật kết trách. “ Cho nên biết…” là chọn không phải. Độc tử. Tam tạng. Thông giáo. Biệt Viên. Căn cứ chánh giáo mà điểm bày. “Nay đây…” là riêng hiển nghĩa nay, dựa vào văn bày nghĩa, Biệt Viên đối luận. Đây vì các Thánh đều nhập thì thành nghĩa biệt. Cho nên khiến Văn-thù tức cũng thành biệt. Nếu dựa vào mỗi mỗi thông nhau liền thành nghĩa Viên. Nay tức cũng Viên. Một mực tạm phân Viên trước biệt. Hai lượt nói nghĩa trước sau gồm thông. Tuy nói biệt mà giải thích nhưng lấy viên làm chính. “ Thủ văn …” là dẫn văn hiển thị bao gồm, dẫn văn lập chung. Ngài Văn-thù đã nói tất cả pháp bất khả thuyết…, cho nên biết tất cả bao gồm bốn giáo và pháp của ngoại đạo đều bất khả thuyết. Nếu thế sao bảo rằng ngài Văn-thù nói Viên không hai ư? Chính do bao gồm phàm tiểu mới hiển bày viên môn, tức là một tâm bổn cụ, mười giới sáu phàm bốn Thánh. Phàm đối ngoại đạo, Thánh gồm bốn giáo, chín giới tức Phật, bao gồm tức không trung, cho nên đủ bất khả thuyết. Ý chỉ viên dung ở đây mà hiện rõ. “ Niết-bàn …” là dẫn kinh giải thích thành, có hai: a, dẫn Niết-bàn chánh 1 nói. Nay lấy sinh sinh cú thuộc phàm phu, tức là thâu Trường Trảo và Độc Tử. Sinh bất sinh tức thâu Tạng, Thông. Khi thế đế chết, tức kiến tư đã phá. Bất sinh sinh tức thập hạnh Biệt giáo cũng gồm thông tám Địa. Khi mới xuất thai. Đây vì trần sa hoặc bị phá mà đạo chủng trí sinh, nên gọi xuất thai. “Cho nên biết …” là kết bày. Thế gian tức tà ngoại, xuất thế tức bốn giáo, trăm giới một tâm chỗ nào lại chẳng nhiếp. Dẫn Pháp Hoa giúp hiển bày, chánh căn cứ Viên mà giải thích. Các pháp khác tức ba giáo trước và tà ngoại… quyền này tức thật, danh thể trong quyền đều là Phật pháp. Cho nên khiến người bảy phương tiện không thể suy lường, ngôn từ đều vắng lặng. Mười giới quyền thật đều tịch diệt. “ Giản …” là giản lược hai giáo như trên. “ lại nữa …” là kết trước khởi sau. Duy-ma im lặng, có ba:
- Văn-thù hỏi.
- Tịnh Danh im lặng.
- Văn-thù khen.
Cuối cùng những người nghe phẩm được lợi ích.
————————————–
PHẨM HƯƠNG TÍCH
GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC:
– Chánh giải thích đề. Nay nương chánh báo hơn người, là nay y chánh báo để đặt tên phẩm. Nêu chánh báo để gồm y quả. Phật vượt hơn tất cả nên gọi hơn người. Nói ý có phẩm này. Giải văn, có hai: a, phân khoa. b, “Thứ hai …” là tùy giải thích, Thân Tử nghĩ đến ăn, có hai: a, chánh giải thích nghĩ đến ăn. Chư Phật… bất xan. Vì Phật nội chứng trung đạo nên không thiên trung để biểu thị vậy. Trong Tỳ-la Tam-muội kinh, Bình Sa vương hỏi Phật: vì sao Phật ăn giữa ngày. Phật đáp sáng sớm chư thiên ăn, giữa ngày ba đời chư Phật ăn, quá ngọ súc sinh ăn, chiều tối quỷ thần ăn. Phật dạy đoạn đứt nhân của sáu thú, nên khiến đồng chư Phật ba đời mà ăn. Ngầm bày chê trách. Đây Đại sĩ chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Chê. Kinh nói: Tám giải thoát… Sinh công (đạo sinh) nói: Tám giải thoát lấy bất tịnh quán đứng đầu, mà ăn là vật bất tịnh. Đã giữ thể tám giải thoát, đâu lại có tình muốn ăn. Tiếp cho ăn. Sai hóa nhân xin cơm, có hai: a, phân khoa. b, “nay nói …” là tùy giải thích, nhập Tam-muội, hiện ra nước để xin cơm, lấy hương nói lý, hiểu rõ hương là do tâm tạo. Tức hương là tâm, hương đủ ba ngàn, tức không, giả, trung, cho nên nói thuyên lý, cũng có hóa độ nhất thừa. Đại luận quyển ba mươi tám nói: Có quốc độ Phật nói pháp cho nhất thừa, lấy thuần Bồ-tát làm tăng. Có cõi Phật do Thanh văn và Bồ-tát cùng làm tăng. Như cõi nước Phật A-di-đà, tăng Bồ-tát nhiều, tăng Thanh văn ít, ba mươi chúng đều thấy. Sai xin cơm, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, năm đoạn như văn. Cũng có người được diệu nghĩa, diệu lý phải hiển thì đại dụng liền bày. Đến cõi ấy thăm hỏi, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích. Các đoạn đều như văn. Được cơm mà trở về, có hai: a, phân khoa. b, “tâm thành …” là tùy giải thích, đều như văn. Mời các đại đệ tử cùng ăn, có hai: a, phân khoa. b tùy giải thích, đều như văn. Kinh nói: Hạn ý, là bỏ sự tìm lý gọi là hạn ý. Không có lòng bi tự độ cũng là hạn ý. Kinh nói kinh bất khả tận. Vì tâm vô tận nên cơm cũng vô tận. Tâm tánh rốt hiển nên có đại dụng này. Hạt cải chứa núi Tu-di là loại này. Kinh nói cũng là cớ bất tứ. Phương ngôn có nói tích tứ tận, mà chữ thông cả ba thể đều dạy cả. Kinh viết chữ tứ không cần đổi liền. . Hai cõi Phật hành hóa, ngầm nói nghĩa chỉ, nêu chung lý do. “Nhưng cơ …” là riêng nói khởi giáo, nói hai độ khởi giáo, nói riêng đối hai độ. “nay chỉ …”, là khởi giáo cùng thông nhau, có ba: Kế riêng lược chê. Chưa hẳn hoàn toàn như thế. Chưa hẳn uế độ nhất định dùng âm thinh, tịnh độ nhất định dùng hương vị. “ Vì sao …” là dẫn giải thích thông nhau, nói thinh giáo thông tịnh độ. “ Nếu thế …” là nói hương vị thông cả uế độ, chánh nói thông uế độ. b, “Ví như …” là dẫn ví dụ chung giải thích thành. “Nay chánh …” là kết bày ý riêng mà phán quyết tịnh uế. Đã hiện cõi nứớc là tịnh, lại lấy hương vị làm giáo để phán quyết hai cõi khác nhau. Căn cứ thân cơm giải thích nghi. Liệu giản chánh phụ, có hai: a, nói cõi ấy hương chánh vị phụ. b, “nay ta…” là giáo hóa ở phương này hai trần đều đến, nói nguyên do đều đến. Chánh trợ hai môn. Hương là chánh, vị là trợ. Dẫn ví dụ giải thích nghĩa, dụ thuốc. Có chung riêng, chung tức ăn uống, riêng tức vị đại hoàng. Chuẩn theo luật gồm có bốn thuốc. Cho nên luật sao nói giữ gìn mạng sống không gì hơn thuốc. Tên thuốc mới thông. Cần phân làm bốn: Nói thời dược “thuốc ăn đúng thời) là từ sáng đến trưa, Thánh giáo cho ăn, thuận chánh pháp Không sinh tội lụy. Nói phi thời được “thuốc ăn phi thời) là uống các thứ nước. Vì bệnh mà lập việc ăn phi thời có hạn định thì không phạm. Thất nhật dược, là ước pháp năng tựu, dùng hết mức này thì tùy hạn từng ngày mà trị liệu lợi nhiều. Tận hình dược là sức đã suy yếu lắm, nên cho uống lâu dài mới lành bệnh. Hình có ba thứ:
- Tận dược hình.
- Tận bệnh hình.
- Tận báo hình.
Nay nói thông dược (thuốc chung) tức ba thứ trước. Biệt dược (thuốc riêng) tức là tận hình. Ngoài đến trong phát, tức lửa, nước sôi, dao, gậy, gọi là bệnh bên ngoài đến, còn bốn đại tăng động gọi là bệnh trong phát. Càng thêm vị khác… luật Tứ Phần nói: Tất cả các chất mặn đắng cay ngọt không phải là thức ăn nên gọi là thể tận hình dược. Luật Thiện Kiến nói: Tất cả cỏ cây và củ rễ cành lá không chánh thức làm thức ăn thì là tận hình phục, tức nay nói là vị đại hoàng, bả đậu…. “Nay chánh…” là hợp dụ, chánh hợp dụ trước, dùng dụ chung là chánh, dụ riêng là phụ. Nếu lợi trở đi, lại thí dụ mà giải thích, có hai: a, chánh thí dụ. b, đồng là…” là kết bày. “Cõi này…” là nói ở cõi này thanh sắc chánh phụ. “Trong đây…” là tùy văn chánh giải thích, có hai: a, nêu bày. b, chánh giải thích, đây hỏi kia đáp, đây Tịnh Danh hỏi. kia Bồ-tát đáp. Tức Đại thừa Mộc-xoa, nhất cử nhất động đều tức tâm tánh. Kinh Pháp Cổ nói: Tâm vô tận, nên giới cũng vô tận. Kia hỏi đây đáp, có hai: a, phân khoa. b, “nay nói…” là tùy giải thích, hỏi. b, đáp, có hai: mở năm thừa giáo hóa chúng sinh cang cường, đáp chung. đáp riêng, huyền nêu Bồ-tát chỉ là người ở trong đó. Nghĩa là nêu người ở sau trời người và trước Thanh văn, Duyên giác. Ứng cúng, là kiến tu vô học. Phật tử, là bốn quả và Bích-chi-phật. “Căn cứ nhân …” là chánh giải thích năm thừa, nhân thừa. Ý làm một là uống rượu. Vì nhân say mà động tâm phạm tội nặng ba cõi, nên ý khẩu không khai đến làm ba, vì ý và khẩu tế mà hợp với thân nghiệp thô nên khai. 2. Thiên thừa. Ba nghiệp khai tường tận thành pháp thập thiện, giữ gìn vi tế nên cảm được thiên báo. Đây gọi là nhân chung. Lại thêm các hạnh khác và thiền định để làm nhân riêng, nên có các quả báo trời không đồng. Như kinh Chánh Pháp niệm nói: Là sát sinh là báo sát sinh, tức kinh Hoa Nghiêm nói: Tội sát sinh thường khiến chúng sinh đọa ba ác đạo. Sau sinh làm người bị hai quả báo: Một là thân nhiều bệnh, hai là chết yểu. Còn chín nhân quả kia đều như kinh Hoa Nghiêm nói: lời nói vô nghĩa là lời trau chuốt đẹp đẽ, dầu vui lòng người nhưng là lời vô nghĩa. Bồ-tát thừa. Thanh văn và Bích chi Phật hai thừa, căn cứ ba học chánh giải thích, giới học. Kinh nói đáng làm hay không đáng làm. Sớ giải đã nói rõ. Nay lại giải thích phụ thêm. Đáng làm tức là tác trì giới, nếu ngăn lại thì phạm. Không đáng làm, là chỉ trì, nếu làm thì phạm Ba-dật-đề, ngài Nam Sơn nói: Nghĩa trái nói là đọa. Thập Tụng nói: Đọa địa ngục thiêu nấu che chướng. Bảy tụ:
- Ba-la-di.
- Tăng-tàn.
- Thâu-lan-giá.
- Ba-dật-đề.
- Đề-xá-ni.
- Đột-kiết-la.
- Ác thuyết.
– Ba thứ Yết-ma sám là:
- Tâm niệm pháp.
- Đối thú pháp.
- Chúng tăng pháp.
Tâm niệm là phát tâm niệm cảnh. Miệng tự bày tỏ chẳng phải bảo là không nói mà luận việc trước. Đối thú, là mỗi người cùng đối mặt nhau mà noi theo pháp. Chúng pháp, bốn người trở lên là tác pháp Yết-ma. Ba thứ này chỉ lược nói. Nếu nói tường tận hơn thì có tám thứ. Tâm niệm có ba:
– Chỉ tâm niệm, chỉ được tự nói. Có người cũng thành số đông mà nêu ba thứ sám hối. Nhẹ như Kiết-la thì khi nói giới ở trước tòa mà phát lồ và sáu niệm Di-đà.
– Đối thú tâm niệm, vốn là pháp đối thú. Do giới không có người, Phật mở phép tâm niệm, lại dẫn bảy thứ. Trong Tứ Phần có an cư. Thập tụng có nói tịnh thọ dược thọ nhất nhật. Ngũ Phần có thọ trì ba y và xả ba y, Thiện Kiến nói thọ trì bát.
– Chúng pháp tâm niệm, vốn là tăng cho, cũng giới không người nên khai phép tâm niệm. Tứ Phần nói giới tự tứ. Ngoại bộ cho phép tăng được thí y của người chết.
Đối thú pháp có hai: một là chỉ đối thú, vì là pháp riêng không có khai tăng, dùng giới tuy thành chúng cũng được tự thành. Dựa chung vào các bộ có hai mươi chín phép thọ xả ba y bát, ni-sư-đàn và một trăm lẻ một cung thân cụ “vật nuôi thân), xả và thỉnh xả giới, thọ pháp y chỉ, y bát, thuốc, nói tịnh giới, nhận thuốc, thọ thất nhật, an cư, dữ dục, sám tội Ba-dật-đề, sám tội nhẹ Thâu-lan, sám tội Đề-xá-ni, sám tội nặng Kiết-la. Phát lồ các trọng tội với người khác và tự phát lồ. Trong sáu tụ Tăng-tàn, bạch xin bỏ hành pháp, tự hành hành pháp, tự tăng tàn… các hành pháp. Bạch xin vào xóm, ni bạch vào chùa tăng, ni thỉnh giáo thọ, làm pháp Dư thực, lại lược luận như thế. Chúng pháp đối thú giống như chúng pháp tâm niệm ở trước. Chúng pháp có ba:
1. Đơn bạch, là những việc nhỏ hoặc thường làm, hoặc luật nghiêm khắc: Nói bảo chư Tăng khiến thành Pháp sự.
2. Bạch nhị. Do việc làm cần tham khảo ý nhiều người để được thông hòa: Một là nêu việc bảo cho biết; một, làm phép Yết-ma lượng và chỗ có nên chăng, hai là luận trước sự việc mà thông bạch và làm phép Yết-ma, nên gọi là bạch nhị.
3. Bạch tứ, như thọ giới, sám hối trọng tội, trị cử, chê trách can ngăn, việc chung lớn nhỏ, xử phân việc sai trái, không phải thuộc loại nhất bạch bảo cho biết. 3. Pháp lượng có thể làm thì luận bàn. Được dùng ba phép Yết-ma để thông qua cùng đơn bạch trước nên gọi là bạch tứ. Lại tác pháp… như ở chương Ưu-ba-ly.
Định học. Tuệ học, có hai: a, giải thích hữu lậu, vô lậu, “từ đây…” là căn cứ ba thừa giải thích riêng, “Đây …” là giải thích, Bồ-tát như trong giới Bồ-tát nói tức Bồ-tát trong Thiện Giới kinh đã nói về hạnh lục độ của Bồ-tát, phá sáu tế, đối với mỗi mỗi độ đều đủ bốn sự:
- Tu đạo.
- Trang nghiêm Bồ-đề.
- Lợi ích tự tha.
- Được thiện quả lớn ở đời sau.
Nhân luận về phá tế bèn chỉ văn ấy. Như Phạm Võng giới chính là Bồ-tát của Biệt Viên, không phải là Tạng, Thông. Phải biết Tạng, Thông chỉ học về thiện trụ. Nên Đại luận nói: Trong pháp của Thích-ca không có tăng Bồ-tát. Văn-thù, Di-lặc đều là trong chúng Thanh văn theo thứ lớp mà ngồi, bởi vậy nên nói thế. Văn nay đối trong Nhị thừa, giới định đều nói chung, tuệ học phân ba, chính là ý này. Cho nên biết không phải chỉ giới chỉ đồng chỗ tu, mà thiền định cũng đồng Nhị thừa. Nhưng chỉ có tuệ hơn, nên gọi Đại thừa. Người mê muội bèn chỉ Phạm Võng cho là giới pháp của Bồ-tát bốn giáo. Pháp Hoa huyền nghĩa là đầu các diệu hạnh, điểm bày rất rõ. Tiếp, Thanh văn. Bích chi-phật. Tuy căn cứ trở đi là kết. “Là chánh…” là giải Thích-các câu sau. “Hỏi…” là chọn giới tuệ để thông hạn cục. Ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát ở tục không thuộc tăng số, như Tạng, Thông ba thừa Không riêng lập giới, đầy đủ như trong Pháp Hoa huyền nghĩa đã chọn lọc phân biệt. Ngài Kinh Khê đã nói ba thừa Tạng, Thông không riêng lập giới, cho nên biết sớ văn vừa thông. Nói chung thì gồm cả Bồ-tát Biệt Viên. Vì Tịnh Danh đáp Bồ-tát ấy mà nói Thích-ca mở năm thừa, tức gồm cả một đời. Thế thì Nhị thừa thông cả hai, Bồ-tát gồm ba. Sớ văn theo tỉnh lược lại theo tam tạng. Ý đáp trong đây lại gồm cả Biệt Viên. Thế nên ngài Kinh Khê lại chỉ tướng liệu giản của Pháp Hoa huyền văn. Nên văn ấy nói: Họ nói Phạm Võng là giới Bồ-tát. Nay hỏi những gì là Bồ-tát thì họ đáp hoặc là giới Bồ-tát của Tạng, Thông. Phải có riêng chúng Bồ-tát. Chúng đã không riêng thì giới làm sao lại khác. Lại nếu riêng nói giới Bồ-tát, thì những giới riêng nào là giới của Duyên giác. Nay nói tam tạng tam thừa Không có chúng riêng thì không được có riêng giới của Bồ-tát, Duyên giác. Nếu theo Bồ-tát Biệt Viên mà giải thì có thể là thế. Vì sao, vì ngoài chúng chung ba thừa còn có Bồ-tát nên có giới riêng hỏi: Ngoài chúng ba thừa riêng có giới Bồ-tát, vì Duyên giác giới nói: Sao đáp ngoài chúng ba thừa Không có riêng Duyên giác. Phần kết đáp. Trong hai thí dụ kinh nói lung lệ là loại cang cường, hung dữ.
Ngài Tịnh Danh kể thành, phân khoa huyền bày. Lao Khiêm, Kinh Dịch nói: Lao Khiêm quân tử vạn dân phục dã. Vương Bậc nói: Nối trên vỗ yên dưới cực nhọc không khuây. “Nói đây…” là tùy văn giải nghĩa, khen chung, có hai: a, lược giải thích. b, “như …” là rộng giải thích, tịnh uế đối luận, dẫn luận bày nghĩa. “Cõi này…” là bày nghĩa. “Căn cứ…” là dựa theo dụ hiển bày hơn, lập dụ chánh nói, dụ lui địch trị bệnh, có hai: a, dụ. b, hợp. b, dụ tiếp người hèn cứu nghèo thiếu, có hai: a, dụ, quyên thí không bao nhiêu. Quyên góp còn bỏ, biết bao nhiêu là nhiều. Vị làm phương bá. Vua ra lệnh rằng: Trăm dặm trở vào cùng làm quan với Thiên tử, ngàn dặm trở vào hãy xem là ngự “nghĩa là thuế ruộng đất này phải cung cấp cho vua. Quan nghĩa là văn thơ là của dùng ngự nghĩa là cơm áo). Ngoài ngàn dặm thì tự đặt làm phương bá. Năm nước coi là một thuộc, thuộc có trưởng. Mười nước coi là một liên, liên có sư. Ba mươi nước coi là một tốt, tốt có chánh. Hai trăm mười nước coi là một châu, châu có bá “thuộc liên tốt châu cũng như tụ, bá, sự, chánh cũng là trưởng. Phàm trưởng đều là chư hầu hiền, nhà Ân gọi châu trưởng là bá. Đời Ngu Hạ và Chu đều gọi là mục). Tám châu tám trăm năm mươi sáu chánh, mười tám sư, ba trăm ba mươi sáu trưởng, tám bá đều là thuôc. Thuộc đối với Thiên tử là bậc Lão thượng, nên hai người chia hai thiên hạ là tả hữu, gọi là hai bá (lão nghĩa là bậc trên. Chu lễ nói cửu trùng sai làm bá. Xuân Thu truyện nói: Từ đất Thiểm sang Đông thì Chu Công làm chủ, từ đất Thiểm sang Tây thì Triệu công làm chủ).
Hợp dụ, bèn được phát chân đoạn kết. Đây là nhập Thánh vị như làm phương bá. Nếu ở hiền vị thì như dời lên cao. “ Dụng …” là kết bày ý kinh. “ Nếu làm …” là bốn cõi truyền nhìn, truyền bày khinh trọng. “ Nay lấy …” là kết bày ý kinh. Trải riêng mười việc. Lại hỏi hạnh Bồtát cõi này, nêu văn kinh giải chung. Vưu là cái bướu thịt. Căn cứ thừa giới phán quyết giải thích, có hai: a, nêu bày. b, “Đại thừa …” là chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Chỉ có giới gấp mà không có thừa, là nói không có Đại thừa. Tịnh Danh đáp: Kinh tâm bình đẳng chúng sinh, tâm bình đẳng tôn quý ấy không phân ra thân và oán.
———————————-
PHẨM BỒ TÁT
Trước lại phân đại khoa, có hai. “Hai thứ này…” là nói chung về ý có phẩm này. “Bồ-tát…” là riêng giải thích hai phẩm, ngài Tịnh Danh tay nâng đại chúng đồng vào Am viên về chỗ Phật, có hai: a) giải thích đề. b) “tựu thử…” là giải thích, hai ý phân kinh. Bởi Đại sư đã phân văn khác lúc, nên ngài Chương An phải sao lục đủ. “ Xưa là…” là tùy văn giải nghĩa. Tiếp theo thì kinh khoa đã ở văn sớ không cần chép kỹ. Dùng thất nhật trước làm phương tiện, tức là bảy phương tiện của Tiểu thừa. Ngũ đình họp một, chung riêng niệm làm hai, cùng bốn thiện căn nữa thành bảy. Bốn xứ luận nêu là Thánh ba phàm một vậy. Cho nên nói thất nhật là nêu. Ngài Kinh Khê nói: Dùng sự trước mà giải văn thất nhật, đó là phương tiện trước trong lý giải. Nếu nhập phát tâm, chính là chỉ Phương đẳng khởi mộ đại tâm, làm phương tiện đến Pháp Hoa thì nhập vị. Trở về tông nói nhân quả Phật quốc, có hai: a, huyền đàm nghĩa chỉ, có hai: a, chung nêu hai chương đối trên năm ý. Hai ý trong năm lớp, đối trước giải thích đề trong năm ý, đây là hai ý một và hai: ý một nói Đại sĩ giúp Phật mở mang việc hóa độ đã xong, cần phải trở về chỗ Phật, ý hai nói Phật khi xưa nói nhân quả Phật quốc. Đại sĩ giúp tuyên dương nghĩa này, thì cần phải trở về chỗ Phật để phục tông mà nói nghĩa. “Thượng khai…” là khoa đối Phật quốc để hiển bày phục tông. Trên khai tông tức là phẩm Phật Quốc. Thuyết văn nói: Khai là mở lớn. Quảng Nhã nói: Tông là gốc. Phẩm đầu mở tông gốc Phật quốc, nói nghĩa chỉ tịnh độ, nên nói là khai tông. Phục tông ở đây là trong các phẩm luận riêng các pháp khác để hiển bày Phật quốc coi là đã xong liền trở về chỗ Phật. Phục là trở về gốc đã nói nghĩa Phật quốc. Cho nên khiến văn khúc chiết phù hợp với trên. “ Thượng quả …” là tùy văn giải nghĩa, nói cõi Phật không đồng khởi căn mỗi thứ đều khác, có hai: a, phối trên nói chung, có hai: a’, nêu trước nói đồng, nói bốn nghĩa phù hợp đồng. “lương do…” là nêu ý không thứ lớp. Trong văn trước nêu ý kế so sánh loại mà hiển bày. Tên khác nghĩa đồng là ba đời Chu có tên khác. Khai quyền nghĩa đồng giống như bốn đoạn nay tên khác mà cùng nghĩa Phật quốc. Ba mươi sáu câu hỏi, tức trong phẩm Trường Thọ xưa ngài Ca-diếp và đồng tử hỏi nhau. Xưa nay phân hỏi khai hợp không đồng, hoặc ba mươi, ba mươi hai, ba mươi bốn, ba mươi sáu… không đồng. Tức hỏi rằng: Làm sao được trường thọ… nghĩa cần ở chỗ đối ứng, danh tự không đồng. Phật dùng mười hai phẩm để đáp ba mươi sáu câu hỏi, có danh nghĩa chủ đối nhau, thì dùng phẩm Trường Thọ mà đáp lời hỏi làm sao được trường thọ. Phẩm Kim Cang Thân mà đáp lời hỏi về thân kim cang bất hoại… lại có một phẩm mà đáp nhiều câu hỏi đó là do danh tự không đồng. Ý nghĩa nếu đúng… chỉ lấy cho ý hỏi mà hợp, không trách tên khác. Trong đây…” là kết nêu lệ lấy bốn đoạn nay đối khai tông trên, tuy không thứ lớp mà đồng hiển nghĩa Phật quốc. “Kim đệ…” là ước nay chánh đối. “Thử trung…” là tùy văn giải thích riêng, có bốn: a, giải thích phần thứ bốn thân pháp nào khởi căn, chánh giải thích, có ba: a”, nêu ý giải thích chung, nói đủ pháp sáu trần đều có thể khởi căn, chung nêu căn trần. “Nếu tỳ…” là đối tiểu hiển đại, Tiểu thừa nói nhãn sắc dụng kém. b, Đại thừa nói nhãn sắc gồm chung. Ngài Kinh Khê nói: Há có thể đem Tỳ-đàm này để vấn nạn Pháp Hoa. Tin biết chỉ là giáo bất liễu nhất định không thể nương. Lại sư Tỳ-đàm nay nếu nghe lời nói này há không vỗ tay ư? “Cố đại …” là dẫn chứng kết thành, dẫn chứng sáu căn. Phải biết…” là kết thành cụ pháp. “ Nay sắp…” là các quốc độ từ hơn đều dùng một trần, có hai: a) chánh nói từ hơn. b) “Như đây…” là nêu lệ khác. “Quang minh…” là nêu văn giải thích riêng. Sao chỉ cõi nước khác… ngài Kinh Khê nói: Cõi này còn có ánh sáng là sự, huống là các cõi khác chánh dùng ánh sáng. Như kinh Tư Ích. Kinh ấy nói: Lại Như Lai phóng ánh sáng tên năng xả. Phật dùng ánh sáng này hay phá tâm xan tham của chúng sinh, hay khiến họ bố thí. Lại ánh sáng tên vô nhiệt hay gia bị tâm phá giới, khiến họ trì giữ cấm giới. Lại ánh sáng tên an hòa phá tâm giận dữ, khiến họ tu nhẫn nhục. Lại ánh sáng tên cần tu, hay phá tâm lười biếng khiến họ tinh tấn. Lại ánh sáng tên nhất tâm, hay phá tâm vọng niệm, khiến tu thiền định. Lại ánh sáng tên năng giải, hay phá tâm ngu si, khiến hành trí tuệ rộng lớn. Như câu đầu. Lại phóng bốn oai nghi, tất cả pháp quang cũng như thế. Trong Tiểu thừa hoặc nói ánh sáng đến chạm vào. Ngài Kinh Khê nói: phóng đến rồi mới chạm. Không đến chạm, nghĩa là không đến không chạm. Dẫu có đến “mà không chạm” cũng không có lợi gì. Như Phật Tu-phiến-đa… Đại luận nói: Đức Phật này sáng thành đạo chiều nhập diệt, nên phải để lại hóa Phật để độ chúng sinh. Bốn đại Bồ-tát đến công đức, là Bồtát Pháp Tuệ ở trời Đao-lợi nói thập trụ, Bồ-tát Công Đức Lâm ở cung trời Dạ-ma nói thập hạnh, ngài Kim Cang Tràng ở trời Đâu-suất nói thập hướng, ngài Kim Cang Tạng ở trời Tha-hóa nói Thập địa. Không thể phán quyết nhất định sao ở hóa nhân? Nghĩa là nói Bồ-tát làm Phật sự không thể nhất định làm hóa Bồ-tát nêu giải thích. Vì bốn vị Bồ-tát trong Hoa Nghiêm là thật, không phải hóa, cũng là dùng Bồ-tát để làm Phật sự. Cho nên thuộc trở đi, tuy hóa thật không đồng nhưng đều thuộc khởi căn. Ở cõi này cũng ngồi cội Bồ-đề mà đắc đạo. Đây vốn là dưới cội cây Ni-câu-luật-đà mà được Bồ-đề, nên nhân lấy đó làm tên. Trí luận nói dưới cội cây suy nghĩ như Phật sinh dưới cây vô ưu, thành đạo dưới cội cây Bồ-đề, chuyển pháp luân ở cây kiết tường, nhập diệt dưới cây ta-la. Hành giả tùy pháp chư Phật thường ở dưới cội cây. Hoặc hiện thân thường, tức là thân trượng sáu, là thân thường hiện. Cho nên Đại luận quyển bốn mươi bốn có nói: Đức Thích-ca Văn Phật thường có ánh sáng dài một trượng… mộng huyễn mười dụ…, kinh văn chỉ có bảy mà không có ba thứ thành, hóa, không. Ngài Kinh Khê nói: Huống lại mười dụ, vốn dụ về không. Đây cũng không là Phật sự mà thôi. Bồ-tát được hữu, là đối không thì thấy chẳng Không. Lấy mười dụ làm tướng lừa dối. Tiêm sư nói quang thống lấy bốn tông mà phán giáo:
- Nhân duyên tông chỉ sáu nhân bốn duyên của Tỳ-đàm.
- Giả danh tông nói ba giả của Thành luận.
- Cuống tướng tông nói ba luận Đại phẩm.
4. Thường tông nói về thường trụ Phật tánh, vốn là rỗng sáng của Niết-bàn Hoa Nghiêm… nếu Phật không thị hiện đến năng tri, là văn của Đại luận. Côn trùng, Lễ ký nói côn trùng chưa thành sâu không dùng ruộng lửa. Trịnh Huyền nói: Côn là sáng. Trùng sáng được khí dương thì sinh, được khí âm thì ẩn nấp, nên nói côn trùng. “ Nói rộng …” là chỉ rộng mà kết tóm. Ngang đây là kết chung. Giải thích thứ ba trên nói nhập Phật tuệ, có hai: a, phân khoa nêu chung. b, “chỉ các …” là tùy văn chánh giải thích, thiện môn. Và ác môn. Nữ nhân hiện bày tham dục, cựu kinh quyển bốn mươi hai có nói: Ngài Thiện Tài Đồng tử đến nước Hiểm nạn, tại thành Đại trang nghiêm, nơi ở của Bà-tu-mật có nhiều người nữ, bạch rằng: Tôi đã phát tâm Bồ-đề chưa biết như thế nào để học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát? Đáp rằng: Ta đã hoàn thành được pháp môn ly tham dục thật tế. Cho nên trời thấy ta là Thiên nữ, người thấy ta là người nữ, cho đến phi nhân thấy ta là phi nhân nữ. Nếu bị tham dục trói buộc mà đến tận chỗ ta, thì ta vì họ mà nói pháp, khiến họ đều lìa dục mà được vô trước cảnh giới Tam-muội. Ai nhìn thấy ta thì được hoan hỷ Tam-muội, ai cùng nói chuyện với ta thì được vô ngại diệu âm Tam-muội, ai nắm tay ta thì được Nghệ nhất thiết Phật sát Tam-muội…. Phàm phu bị đây mà đọa lạc, ngài Kinh Khê nói: Nói chung phần nhiều là tướng người đời, há cùng với Tu-mật mà khiến người phải đọa ư? Rất hiếm được lợi ích này. Vua Mãn Túc, kinh mới gọi là vua Vô Yểm Túc. Cựu kinh quyển bốn mươi mốt nói: Ngài Thiện Tài đến thành Mãn tràng, chỗ vua Mãn Túc, thấy có vô lượng chúng sinh phạm luật vua, bị trói chặt năm phần thân thể, hoặc bị chặt tay chân, thẻo tai mũi cho đến dùng lửa đốt. Ngài Thiện Tài hoài nghi. Trên hư không có tiếng chư Thiên bảo chớ nghi. Ngài liền đến chỗ vua bạch rằng: Tôi đã phát tâm Bồ-đề chưa biết làm sao để học hạnh Bồ-tát tu đạo Bồ-tát? Vua đáp: Ta đã thành tựu được Bồ-tát huyễn hóa Tam-muội pháp môn. Chúng sinh mười ác rất khó giáo hóa, nên ta điều phục, khiến họ giải thoát. Cho nên hóa làm nhiều người và các thứ khổ trị, khiến họ bỏ mười ác mà phát tâm Bồ-đề. Nên biết thân, khẩu, ý của ta, cho đến loại kiến con mà còn chẳng có tâm hại huống là loài người? Thấy Bà-la-môn, cựu kinh quyển bốn mươi nói: Ngài thiện tài đến nước Tiên cầu, chỗ của Phương Tiện Mạng Bà-la-môn. Lúc đó Bà-la-môn tu các khổ hạnh để cầu Nhất thiết trí. Bốn mặt có đống lửa to cao như núi lớn, trong có núi cao dao nhọn khôn cùng. Bà-la-môn đứng trên núi ấy tự gieo mình vào lửa. Thiện tài đến bạch rằng: Tôi đã phát tâm Bồ-đề, chưa biết làm sao để tu hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát? Bà-la-môn đáp: Nếu ông có thể lên núi dao này mà gieo mình vào đống lửa, thì các hạnh Bồ-tát đều thanh tịnh. Ngài Thiện Tài nghi ngờ, thì mười vạn Pháp vương ở trên không trung bảo chớ nghi! Lúc đó Thiện Tài liền lên núi dao tự gieo mình vào đống lửa. Chưa đến nửa chừng, liền được Bồ-tát an trụ Tam-muội. Khi đến ngọn lửa lại được Bồ-tát Tịch tịnh an lạc chiếu minh Tam-muội. Tức kinh mới quyển sáu mươi bốn nói là Bà-la-môn Thắng Nhiệt ở xóm Y-sa-na vậy. “ Đã thiện…” là kết bày hiển ý. “Giải thích thành…” là kết hiển ý kinh. Kết tóm tắt trước sau. Phẩm đầu mới nói tịnh quốc. Giải thích ý ấy, nêu ý phân khoa. Phương tiện đến chi độ, là phương tiện khúc xảo. Khúc xảo tùy duyên thị hiện ba cõi. Tùy duyên bất biến đồng một tịch quang, gương ảnh đồ đựng và cơm, ý dụ khá biết. Nay ở…” là tùy văn giải nghĩa, có bốn: ở hư không kết giải thích, ước Phật quốc. Văn dụ cùng đây đối giải thích, có hai: a, nêu dụ. b, đây nói…” là hợp pháp. “ Nay đây…” là ước Phật quốc. Văn pháp cùng đây đối giải thích, nêu bốn phen trên. “tuy…” là ước độ chánh giải thích, ước sự lý nêu kinh. Nay bốn…” là nói tịch quang thể khắp. “ Thị cố …” là kết thành ý nay. Lược nói thân trí. Vạn diên lượng, diên là do diên, cũng là do-tuần. Nói rộng thân trí, đối trước luận bày, căn cứ rộng hẹp đối nhau. b, căn cứ tư nghì và bất tư nghì đối nhau, nói hai đế đều khác. b, “hà dĩ…” là dẫn giải thích tướng trạng: giải thích tướng hai đế của tam tạng. “cực trí…” là giải thích tướng hai đế của Viên giáo. “Nay mười…” là chánh giải thích văn kinh, căn cứ bất tư nghì mà nói đều đẳng. Trong văn nêu kinh nói giải thích tiểu không có thứ lớp. Đối kinh có thể thấy.
Nên dùng hai chữ đồng đẳng nghịch thông các câu. Trong văn đều dựa hai thân mà giải thích đẳng, vì chư Phật đều có hai thân. Do đó các câu đồng tánh đẳng, tức giải thích chữ “chủng tánh” của văn kinh. Sát-lợi, Bà-la-môn, là chư Phật hiện ra đời không ngoài hai tánh (dòng, giai cấp). Vì đời chuộng quyền thế nên phải sinh vào giòng Sát-đế-lợi. Như quả Đức Thích-ca. Nếu đời chuộng đức hạnh thì sinh vào dòng Bà-lamôn, như ngài Di-lặc…. Tánh pháp thân… Vì tánh thích có nghĩa chủng tánh, cũng là lấy sự biểu thị cho lý. Tập chủng đến diệu giác là quả do nhân quyết định, cho nên khắp nêu các tánh thắng ứng thân hiện đến các chúng sinh. Thắng ứng thân này tức báo tha thọ dụng vậy. “ thử chi…” là ước giải thích hỗ tương để kết nghĩa dụng. Ngài Kinh Khê nói: Thân trí này… có thể dùng độ để giải thích thân, có thể dùng thân để giải thích độ. Ước ba hiệu, phân khoa. b, tùy giải thích, có hai: a, chánh giải thích ba hiệu, Tam-miệu Tam-phật-đà, có hai: a”, căn cứ tư nghì, kế là bất tư nghì. Giải thích Đa-đà A-già-độ, cũng trước là tư nghì sau là bất tư nghì, đối lý chân như tức là thiên chân của tam tạng. Giải thích Phật-đà dựa vào hai giải thích trước. Sớ văn từ tóm lược, ở trong bất tư nghì của khoa trước mà nói thôi. Giải thích trong việc xin pháp thì tùy việc tịnh loạn. Tịnh thì dùng văn như cõi nước ấy. Loạn thì dùng võ như cõi nước này. Quyền đạo có oai nghi, Đại luận quyển bốn mươi ba nói:
Bồ-tát có hai thứ:
- Bồ-tát có Từ bi thích nhiều vì chúng sinh.
- Bồ-tát thích nhiều tập họp các công đức.
Người thích nhiều tập họp công đức thì đến nhất thừa thanh tịnh ở quốc độ của Vô Lượng Thọ. Người thích nhiều vì chúng sinh thì đến chỗ không có Phật pháp tăng. Tiếng tán thán Tam bảo khiến thành Bồtát ở cõi nước ấy tức là loại người thứ hai. Cho nên ở quyền đạo có nghi vậy.
Hỏi: Há có người không Từ bi mà gọi là Bồ-tát ư?
Đáp: Từ bi không khác đều là hóa độ chúng sinh, tâm mong cầu sớm tối có khác mà thôi. Cho nên Đại luận quyển bốn mươi lăm lại nói: Có người trước thành tựu công đức rồi sau mới hóa độ chúng sinh, có người trước thành tựu chúng sinh rồi sau mới tự thành công đức. Nay Bồ-tát ấy tức là người trước tự thành rồi sau mới độ sinh. Chỉ riêng đối cõi này thì Bồ-tát phải là người trước thành tựu chúng sinh vậy. Riêng ở cõi này có đủ hai hạng người, tức ba căn xuất giả là đó. Nay Bồ-tát ở cõi nước ấy thì phải là người chân xuất giả. Phật vì nói, có hai: a, đối trên phân khoa, có hai: a, đối Phật quốc trên. b, “Nay …” là chánh phân văn nay. “trung…” là tùy giải thích, có ba: a, nêu chung khuyến học. b, giải thích, có hai: a, lược giải thích. b, rộng giải thích, có ba: a, nói không hết hữu vi, có hai: a, nêu, có hai. b, giải thích, có ba: a’, Dựa theo câu nêu chung. “Nay nói…” là nêu trước bày nghĩa, có hai: a, Đại sư chánh giải thích, có hai: a, chánh nói hai nghĩa, có hai: a) ước trung đạo bày nghĩa. b) tục đế…” là ước hai đế giải thích tên hai. “Cho nên…” là đối trên giải thích thành, có hai: a, đối Phật quốc giải thích thành. b, “riêng hỏi…” là ngài Chương An giải thích riêng. Ý hỏi: Có chín trăm vạn Bồ-tát đã đến cõi này dùng hương để lợi vật, thì đã hay song lưu, vì sao mới hỏi. Ý đáp: Trong số các Bồ-tát đến cõi này có quyền có thật. Cho nên dùng quyền dẫn thật. Vì dẫn lợi tâm thật hạnh nên bày ra nghi ích vật. Cho nên khiến bậc Đại sĩ vô sinh quyền lập ra câu hỏi này. Vì thật tùy quyền, nên bậc sơ tâm thật hạnh kia chưa có dụng song lưu, mà do quyền thần thông nhiếp thuộc, nên vẫn hay tùy đến. “ Trong văn…” là tùy vấn nạn mà lược giải thích. Con đang mắc nạn là dụ cho chúng sinh đang ở trong sinh tử. Cha mẹ ở nhà như Bồ-tát ở trong thiền định, từ bi nghĩ nhớ chúng sinh, không lấy tịch tịnh làm vui, nên nói như trong địa ngục… là các điều khác có thể thấy. Kinh nói không khinh kẻ chưa học. Kính người học như Phật. Là chưa học thì sẽ học, do đó không khinh, kẻ đã học thì sẽ thành nên kính như Phật. Kinh nói: Thấy người đến tìm cầu thì nghĩ mình là thầy tốt. Vốn “không” có ý bố thí, nhân họ đến cầu xin, mới phát tâm bố thí, nên đối với mình là thầy, nên có ý nghĩa là thầy. Không trụ trong vô vi, kinh nói: Tu học không khởi, chẳng dùng không khởi mà làm chứng. Các pháp duyên nhau mà có, duyên tan thì không, thì có pháp nào sinh ra đợi duyên mà khởi đâu. Đây là biệt môn để quán không quán.
Giải thích lại, có hai: a, lìa văn tự mà thông tông, có hai: a, đối Phật quốc mà hiển phục tông, có hai: a, đối trên giải thích thành, có hai: a) kể Phật quốc trước. b) nay…” là giải thích thành, có hai: a’, nói ba đoạn do nhau, lấy trước chưa hết hữu vi mà thành Phật quốc ngang, không trụ vô vi mà thành Phật quốc dọc. Lại hai đoạn nay mỗi thứ đều gồm ngang dọc, cho nên sớ không đối. Nay lại giải thích thành Phật quốc, kết giải thích ngang dọc. Nêu trước sau cùng luận. Đây nêu đoạn nay cùng hai khoa hồi hỗ. “Nay nói…” là dẫn văn giải thích tóm lược, có hai: a) căn cứ song chiếu chánh giải thích. b) “nếu ba…” là căn cứ thân trí giải thích thành. “Căn cứ đây…” là ước quyền thật chỉ bày mà giải thích lại, có ba: a, ước bốn song mà chia văn. Biết bệnh hiểu bệnh. Biết chung gọi là biết “tri), luận tường tận gọi là hiểu (thức). “Theo đây …” là ước quyền thật mà rộng giải thích, có hai: a, chánh luận ba thứ quyền thật. Hoặc nói quyền là thật, ngài Kinh Khê nói: Tức là ba thứ chân của Tạng, Thông. Hoặc nói thật là quyền, tức gồm trung nhập chân vậy. Các thứ này đối viên đều gọi là hóa tha. Cho nên văn sau nói: Theo đây mà phán quyết tư nghì và bất tư nghì. Đây là Thông giáo và chân tục trong hai mươi tám. Hoặc ở trong quyền mà luận quyền thật. Vì nói quyền là thật, nên trong quyền có thật. Hoặc ở trong thật…, vì nói thật là quyền, nên trong thật có quyền. Hợp cơ cạn sâu, là hai giáo thì cạn, gồm trung thì sâu. “Căn cứ đây…” là rộng trải các đế giáo giải thích nghĩa, có hai: a, trải hai đế, có ba: a, nêu. b, “nếu là…” là giải thích, có ba: a, tự hành quyền thật. b, tự hành hóa tha, có ba: a’, cùng nêu. b’, hà cố trở đi cùng giải thích, có hai: a, pháp cho nên nói ba người…, là văn của Đại phẩm. Vì trong ba thừa thì kẻ lợi căn thấy trung đạo, cho nên biết gồm trung ở chân. Nghĩa là nói chân đế, Di-lặc đã dùng kiến trung làm chân, thế thì luận thiên không chính là tục đế tức lập lại tục trong huyễn có mà tức không. Cho nên khiến năm trăm vị nghe tục gọi là chân. Tuy không bày đến nghĩa ấy, nghĩa là Đại phẩm chỉ nói ba người đồng đoạn. Đại kinh chỉ nói gọi tục là chân mà rõ ràng có nghĩa trung đạo, đã như vừa giải thích. Nếu thông Biệt giáo, Viên giáo… ngài Kinh Khê nói: Biệt giáo có lúc thuộc hóa tha, có lúc cũng được xem là tự hành, có lúc cũng được gọi là tự tha. “ Thấy không …” là dụ. “Nhật nguyệt …” là hợp dụ. “ Nếu Bồ-tát…” là song kết.
Hóa tha quyền thật, có hai: a, nêu. b, “hà dĩ…” là giải thích, có hai: a, dựa vào dụ đá không mà giải thích tướng. b, “chỉ đây …” là đối bất tư nghì mà luận khác. Do đó lại đối bất tư nghì mà luận tướng, vì hóa tha thuần dùng Tạng, Thông thì chỉ là tư nghì. Nguời lợi căn ở chân thông mà thấy lý trung, thì thành bất tư nghì. Nếu căn cứ lợi căn lại đồng tự hành, hóa tha quyền thật nghĩa đã cùng liên hệ nhau, nên cần luận tướng. Văn có hai: a, chánh nói tư nghì, có hai: a, lại nêu dụ trước, dần dần tiêu ma dụ cho tiệm, quặng hết vàng hiện dụ cho đốn. Tức là đoạn hết kiến tư thì nhận tiếp trung đạo, nên được tên đốn. “ Tư nghì …” là hợp dụ giải thích tướng. Trước chánh hợp dụ trước. Như tất cả …” là lại lấy dụ mà làm sáng tỏ. Đây lấy hành nhân thể vật cạn sâu để dụ thì chỉ là một tư nghì. Người lợi căn thì đốn thấy trung đạo. Trong văn nói: Nói sinh diệt vô sinh thì đều lấy lời giải thể vật để dụ ngộ lý cạn sâu mà thôi, không phải là ước pháp. Người hạ trí thấy sum la là bốn đại, nếu tạng giáo chỉ thấy vô thường. Người trung trí thấy sum la là sinh diệt, nếu Nhị thừa của Thông giáo và đốn Bồ-tát chỉ thấy tức không. Nếu sinh diệt đến chân đế. Đây là bậc thượng trí, thấy sum la là không, dụ cho người lợi căn, tức thấy trung đạo. Đã đối trung và hạ trí, tự động là thượng, nên không cần nói thượng. Đây há không phải là tiệm đốn, lấy dụ mà nói. Rõ ràng thấy trong tư nghì có nghĩa đốn. Đã có đốn thì cũng thuộc bất tư nghì. Nhưng chỉ ước Bồ-tát, đầu tiên hóa tha mà nói hai giáo, chỉ là do căn tư nghì mà đốn thấy. Cho nên khiến hai giáo chỉ là hóa tha quyền thật. “Mà giáo …” là đã có lý thọ tiếp không được chẳng luận nên đây phải nói.
Đối luận bất tư nghì, ước dụ chánh nói. Như châu như ý. Châu dụ cho nhất tâm hay mưa các báu. Dụ nhất tâm tùy duyên khắp tạo mười giới. Châu tuy không báu nhưng đầy đủ tánh báu để dụ cho tâm tánh bổn cụ tánh trăm giới ba ngàn y chánh gọi là lý tạo không giả tùy duyên, vì lý thường tạo. Nên biết tạo này tức là tên khác của cụ. Rốt ráo đều không chỗ có. Tuy không chỗ có, mà có tánh báu. Nếu không tánh khác phải mưa báu đâu cần Ma-ni. Bất tư nghì …” là hợp dụ. Mà hay chân tục đầy đủ, là không đáng hữu vô, hữu vô tự như thế. Vì sao, vì đều là thật tướng, pháp thật tướng nó như thế. Các pháp đầy đủ, pháp các pháp như thế. Tánh vốn vô sinh. Tất cả chân tục tức hai đế của ba giáo trước. Vì tất cả đều do mười giới gồm thâu. “ Nếu căn cứ …” là gửi nhờ “từ đây lạc mất mấy tờ, từ cuối phẩm Bồ-tát Hạnh đến giữa phẩm A-súc): Đáp chung, có hai: a, giải thích văn chung riêng, b, quán riêng. Tâm tánh mình đã là thật tướng. Thật tướng ắt là các pháp, các pháp tất mười như, mười như tất mười giới, mười giới tất là thân và độ. Thân phân giả thật nên có ba ngàn. Thế nên ba ngàn đồng ở tâm địa, cùng tâm địa của Phật ba ngàn không khác, bèn gọi là ba Không sai khác. Mới hiểu kinh nay quán thân thật tướng, cho nên nói tức là đó là đúng nghĩa vậy. Vả lại lý mê trung còn bằng diệu giác huống là lý ngô trung của Đẳng giác mà so với diệu giác Phật thì bằng Phật đạo. Nếu hiểu quán tâm hai thứ trước có thể được. Ví như người học bắn tên. Người mới học tức phải mong trúng đích. Từ thân sơ mới quán tâm tánh, tức cùng với Phật ngang nhau. Ngộ từ cạn sâu đây dùng Thủ-lăng Tammuội mà dụ. Quyển thượng kinh ấy Phật bảo ý dọc. Ví như người học bắn, trước bắn đích lớn, kế mới bắn đích nhỏ, sau học bắn đích mới học bắn đầu gậy, cho đến học bắn một sợi lông, bắn lông rồi mới học bắn một phần trăm sợi lông. Bắn được như thế rồi mới gọi là thiện xạ. Văn kinh nói đầy đủ về việc muốn học Thủ-lăng-nghiêm, trước phải học ham thích đồng một pháp. Phải thứ lớp như mới học bắn đích. Nay ước không thứ lớp, tức từ mới bắn đích mà có gần xa. Trước gần sau xa để dụ cho viên quán. “ Nếu chánh …” là kết bày quán pháp. “ Sở dĩ …” là đối câu hỏi mà hiển ý, nói nhân thân mà hiển bày độ. “ Tha …” là chỉ bày quốc độ chân thật mình ở, giải thích khác. Giải thích nay, nói pháp thân có độ. b, “cố kim …” là dẫn kinh chứng thành. Đáp riêng, có hai: a, giải thích quán ba đời, chánh giải thích văn kinh. Như thấy có pháp vị lai… lời nói nay đã qua đi, pháp vị lai chưa đến, còn hiện tại đang có. Cho nên nói pháp vị lai có thể được… là hữu biên hay vô biên. Nêu phàm phu vọng chấp có quá khứ, đây tức là ngoại đạo vọng chấp cho rằng: Quá khứ có hữu biên vô biên, hiện tại có thường và vô thường. Vị lai như đi và chẳng như đi. Cho đến mỗi thứ đều thêm hai cũng và song phi. Ước ba đời năm ấm chung tạo thành sáu mươi, không lìa đoạn thường tức là sáu mươi hai kiến. Đại luận, Đại kinh, sớ và phụ hành… các chỗ đều nói thế. Ý nay nói quá khứ thật có thì có thể đồng chấp với ngoại đạo. Nay đã vốn “không” thì chấp ấy sao phải. Dưới nói đời sau không đi, hiện tại không trụ, lệ thì có thể biết. “ Giải thích khác …” là đối xưa nêu nghĩa, có hai: a, căn cứ ở vị luận thường, có hai: a, kể xưa. b, nói nay. Nếu hiểu được ý nay thì mới thấu suốt ý chỉ hai chim cùng bay của Đại kinh. Văn có hai: a, nói kim cang trước tự hành nên thường. Kim là mới nay. Phàm phu đều thường huống gì phần Thánh. Kim cang sau căn cứ hóa tha nên vô thường, nhưng căn cứ tự hành cũng có vô thường, vì nguyên phẩm vô minh chưa đoạn hết. Nay lại ở hóa tha mà nói. Bậc Diệu giác cực quả còn bày việc tám mươi vô thường, huống phần thường mà không thị hiện ư? Bày ứng hóa khác nhau, có hai: a, xưa nói ứng hóa nghĩa đồng. b, nay nói ứng hóa khác thể. Giải thích chẳng quán sắc… như vừa chê trách Tu-bồ-đề. Phẩm Đệ Tử nói: Người thí cho ông không gọi là phước điền, người cúng dường cho ông phải đọa ba ác đạo. Như lời ủy dụ, tức kinh nói: Tu-bồ-đề lấy bát chớ sợ… trách thì cho rằng đại Thánh là tiểu, cho nên không phải phước điền. An ủi thì Thánh nhân Tiểu thừa là nội giới phước điền. Giải thích kệ ba đời rằng: Xưa không nay có, xưa có nay không. Ba đời có pháp Không có chỗ đó. Người xưa có nhiều giải thích, người nay chính nghĩa chỉ ước ba đế, tức chân mà tục là xưa không nay có. Tức tục mà chân là xưa có nay không. Tức biên mà trung là ba đời có pháp, không có chỗ đó. Lại tức một mà ba, tức ba mà một, ba một tức không phải ba một. Vì nêu bốn câu đại quan rõ ràng. Phật đối Đại kinh bốn lần tuyên nói. Cho nên khiến người xưa gọi bốn lần nói kệ. Nếu biết ba đế một tâm thì gom thành một kinh sao chỉ bốn lần nói mà xuyên suốt cả một đời, sao chỉ một kinh mà bao gồm cả mười phương, sao chỉ một đời giáo hóa mà gồm cả ba đời. Sao chỉ ở hiện tại nhiều quyển mà quy về một, chỉ nói tự tâm. Tự tâm vốn “không”, thì các nghĩa làm sao có. Không chẳng lìa có các thuyết rất rõ ràng. Cho nên biết bốn phen nói kệ cũng lại tùy cơ chứng nghĩa làm phương tiện mà thôi.
Ngài Thân Tử hỏi ứng thân, có hai: a, nêu ý phân khoa. b, “Phân ngôn …” là tùy văn giải nghĩa, như văn. Nói chỗ ở tại tịnh quốc, nêu ý phân khoa. Kinh A-ca-ni-tra hoặc nói Nị-tra, hoặc nói Ni-sa-tra, hoặc Ni-sư-tra đều là tiếng Phạm đọc nặng nhẹ mà thôi. Chính nói là A-cani-sắc-sai, dịch là chất ngại, là Sắc cứu cánh.
Ngài Thân Tử khen ngợi, có hai: a, chánh giải thích văn kinh. b, “nếu y …” là suy tìm nêu ý. Nếu dựa vào lời nói này, là sáu phen khen phước sâu sắc như phần lưu thông.
———————————-
PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG
Phần lưu thông, nêu chung phân chương, “căn cứ trước …” là y văn giải thích riêng, phẩm phân hai: phân khoa đoán bày, chung riêng phân khoa. “nay nói…” là đoán bày ý phẩm, chánh giải thích tên phẩm, chánh giải thích. b, “như…” là dẫn chứng mà luận. Quyển bốn nói: Phật ở nước Ma-già-đà, bên bờ sông Ni-liên, ở xóm Ưu-lâu-tần-loa mà được đạo Bồ-đề, thành tựu pháp thân. Cho nên phần nhiều đều ở tại Vương xá. Vì báo ân sinh địa nên phần nhiều thường ở tại nước Xá-vệ. “Trong hai nước…” là hiển bày pháp thân là hơn. Kinh này đã nói thật tướng, tức là các pháp thân của Phật. Nên các Đế Thích hộ trì. “ Hộ trì…” là kết lệ. “Lại nữa…” là nguyên do hộ trì, nói nay nói đáp thỉnh. “ Nhược tác…” là y giáo mà phán quyết người. Nếu dựa vào Hoa Nghiêm lấy Thập địa đối lục dục bốn thiền. Đế Thích là Bồ-tát nhị địa dẫn dạy đám người dưới trần. Nghi lễ nói dạy cho phép cung kính. Trịnh Huyền nói: Suất là dẫn dắt. “Tựu thán…” là tùy văn giải nghĩa. khen pháp, phân khoa hiển bày thật, không có pháp Không có gì để thành người. Do ngộ thật mà thành Thánh. Cho nên không có người thì không thể hiển bày pháp. Cho nên người có thần dụng thì mới hiển bày pháp ưu thắng. “Trăm ngàn…” là tùy văn chánh giải thích. Giác tâm hộ trì, tức là Phật hộ trì. Tám ma mười ma như trước đã ghi. Ta giúp ông, hãy mừng. Nhĩ là ông, là ngươi. Kể về người khen, phân khoa đoán bày, có hai: a, chung riêng phân khoa. b, “sở dĩ…” là đoán bày nghĩa chỉ, lập nghi dẫn ra. “chánh nói…” là y nghĩa đáp giải thích, nói phước tuệ hơn kém, lược bày hơn kém phước sinh thân không động không xuất. Đại luận quyển năm mươi tám nói y chỉ là thân mình, tiền của, người nhận là trong pháp chấp tướng tâm đắm trước, nên sinh kiêu mạn… các phiền não, là bất động bất xuất của thế gian. Hay động hay xuất. Luận nói: Động là nhu thuận nhẫn, xuất là Vô sinh nhẫn. Trong pháp Thanh văn thì động là người học, còn xuất là người Vô học. “ Cho nên nói…” là dẫn luận nói rành về phước chẳng thú… tức ngài Di-lặc trong Kim Cang Bát-nhã luận vậy. Phước chẳng đến Bồ-đề, là bố thí bảy báu phước như núi Tu-di. Phước thường đến Bồ-đề là thọ trì và đọc tụng. Hai thứ này đến Bồ-đề. Thế nên hai thứ này gọi là liễu nhân. Ở thật… là nói độc tụng Bát-nhã là giúp thật tướng. Thế nên trì tụng gọi là liễu nhân, nên nói là thật. Ngoài đây ra, gọi là sinh nhân. Sinh nhân là nhân hữu lậu. Cho nên nói ngoài ra. Ngài Kinh Khê nói: Ở thật…” là hai nhân sinh liễu, cùng so sánh mà phán quyết. Đây ước duyên không liễu, liễu không duyên, đáng phân mỗi thứ mà nói, há có người phát tâm Bồ-đề, chỉ có nhân duyên mà không có liễu ư? Chỉ có liễu mà không có duyên ư? Nếu chỉ có thì kia đây không thành. Đối duyên mà liễu, liễu rồi mới thành. Liễu duyên cũng như thế. “ Cúng dường…” là nêu nghĩa đáp hỏi, ngài Kinh Khê nói: Cúng dường sinh thân gọi là sinh nhân. Đây chỉ ước cúng Phật sắc thân mà không nghe pháp, hoặc thấy sinh thân chỉ nói tiểu pháp đều gọi là phước không đến Bồ-đề. “ Kim cang…” là dẫn hai kinh chứng thành. Ngài Kinh Khê nói: Lại nữa đạo phẩm đến chư Phật là oán, vì trong tiểu giáo không nói đến, cho nên không có duyên tội phước. “Đệ tử…” là tùy văn giải nghĩa. Tu hành phước nhiều là tùy tiện nêu văn mà thôi. Nên biết chỉ nói hai chữ tu hành là kể pháp hành. Kinh nói: Phước nhiều với người ấy là hiển bày chung về hàng tín pháp hơn việc xây tháp cúng dường ở trước mà thôi. Kinh nói Như Lai… mười hiệu, tất cả chư Phật đều có chung riêng hai hiệu. Di-đà, Thích-ca… là hiệu riêng, còn Như Lai… mười thứ là hiệu chung. Hóa tướng cần phân chia nên cần lập tên riêng. Thật đức đều đồng nên lập tên chung. Không hư vọng nên gọi là Như Lai. Thật là phước điền nên gọi Ứng Cúng. Biết pháp giới nên gọi Chánh Biến Tri. Đầy đủ ba minh nên gọi Minh Hạnh Túc. Không trở lại nên gọi Thiện Thệ. Biết cõi nước chúng sinh nên gọi Thế Gian Giải. Không ai sánh bằng nên gọi Vô Thượng Sĩ. Điều phục tâm người khác nên gọi Điều Ngự Trượng Phu. Làm mắt cho chúng sinh nên gọi Thiên Nhân Sư. Biết rõ ba nhóm nên gọi là Phật. Chư Thiên và người đời không hơn được nên gọi Thế Tôn. Như một vi trần… cựu Hoa Nghiêm quyển ba mươi sáu có dụ: Như có một quyển kinh thì cả đại thiên giới đều có tất cả, không gì là không ghi chép. Các quyển kinh khắp các đại thiên ấy ở trong một hạt vi trần. Lúc đó có một người xuất hiện ra đời, có đầy đủ Thiên nhãn thấy các kinh này ở trong hạt vi trần, bèn nghĩ rằng: vì sao kinh quyển ở trong hạt vi trần mà không lấy làm nhiêu ích chúng sinh. Bèn dùng phương tiện phá hạt vi trần để lấy kinh ra. Như Lai trí tuệ đầy đủ ở trong thân chúng sinh, nhưng vì chúng sinh nghĩ tưởng điên đảo bị che lấp nên không biết không thấy. Như Lai dùng Thiên nhãn nhìn thấy bèn nói: Lạ thay! Lạ thay! Vì sao trí Như Lai ở trong thân mà không thấy biết. Ta ở giáo đó mà giác ngộ Thánh đạo, khiến lìa điên đảo, thấy trí Như Lai ở trong thân cùng Phật không khác. Tức thời giáo ấy tu tám Thánh đạo thấy trí Như Lai. Tin nhận thật tướng…, tin nhận tức là danh tự, tu hành thông cả quán hành và tương tợ. Tức là đến tên khác, là ba giải thoát không dọc không ngang, nên gọi là vi diệu. Pháp ba giải thoát không phải sức phàm tiểu nghĩ bàn được, nên gọi là bất tư nghì. Nên nói là tên khác. Nghe trì hạnh trước, ngài Kinh Khê nói: Trụ tiền tu công đức quả địa, đầy đủ như chỉ quán đã ghi. Chú nói rằng: Đầy đủ như trong phần giải thích khen đức của sớ thứ nhất nói về lục độ. Ba thứ thọ, là tư hoặc của ba cõi. Nhập Niết-bàn Bát-nhã, ngài Kinh Khê nói: Niết-bàn là giải thoát vậy. Tức đối Bátnhã phân làm hai, mà lấy thật tướng trung đạo. Nay cho rằng viên quán thật tướng, tức trụ tiền tu hành nhập Niết-bàn Bát-nhã, là do tợ nhập chân, được đoạn quả Niết-bàn và trí quả Bát-nhã, tức là các pháp chẳng sinh, mà Bát-nhã sinh cũng là nhập lý Bát-nhã gọi là trụ vậy. Đó là viên, đốn, tiệm ba giáo. Ngài Kinh Khê nói: Viên đốn là viên, tiệm là ba giáo, nên nói tiệm ba giáo. Hai mươi bảy Thánh hiền, Trung A-hàm quyển ba mươi Phước Điền Kinh nói: Người học có mười tám, gọi là tín hành, pháp hành, tín giải, kiến đắc, thân chứng, gia gia, nhất chủng tử, hướng sơ quả, đắc sơ quả, nhị hướng, nhị quả, tam hướng, tam quả và năm na-hàm. Đó là trung, sinh, hạnh, bất hạnh, thượng lưu. Người Vô học thì có chín, đó là tư, tấn, thoái, bất thoái, bất động, trụ, hộ, tuệ, câu. Năm bố như trước đã ghi. Ba thứ sinh tử. Ngài Kinh Khê nói: Ở trong biến dịch có phân ra nhân duyên chỉ cho bách cú giải thoát đến cực quả mới đầy đủ bách cú. Nếu đầy đủ bách cú há chỉ là trăm ư? Nếu đầy đủ tất cả sao chỉ riêng có quả. Nếu nghe không nghe, thì nghe là nương nghe mà hiểu. Không nghe nghĩa là tự suy nghĩ mà hiểu. Nay dựa vào nội tu thì đồng gọi là pháp hành. Kinh nói được năm thần thông. Nếu căn cứ vào được nhẫn trước thì cũng là người vị tương tợ. Chưa được trung đạo vô lậu, nên chỉ có năm thông. Nếu đã nhập vào phần chân, thì nhường cực quả mà không có vô lậu. Kinh nói Ca-la Cưu-tôn-đà, cũng gọi là Câu-lưu-tôn, Hán dịch là Sở Ưng Đoạn tức là Phật thứ một ở hiền kiếp. Ở thời giảm thứ chín tuổi thọ của người còn sáu vạn tuổi thì ngài ra đời. Lâu-chí tức là Phật sau cùng, ở kiếp tăng thứ hai mươi thì ngài ra đời.
——————————
PHẨM CHÚC LỤY
1. Đối trước luận bày. 2. “Chúc …” là chánh giải thích văn kinh, giải thích đề. “căn cứ văn …” là giải thích văn. Ưu-ba-cúc-đa, Phó Pháp Tạng truyện và kinh A-dục vương đều nói: Ngài Cúc-đa thuyết pháp ở nước Ma-đột-la. Ma vương ở chỗ nói pháp đã mưa hoa chân châu, hoa anh lạc… và hóa làm bạch tượng, bảy báu trang nghiêm, hóa làm bảy người, cực kỳ đẹp đẽ. Lên hội quán sát không có người nghe pháp. Suốt trong ba ngày thuyết pháp Không có một người đắc đạo. Ma vương rất vui mừng. Ngài Cúc-đa liền nhập Tam-muội quán sát thì biết là ma làm. Ma lại dùng chuỗi anh lạc đeo trên đảnh của tôn giả. Ngài biết mà nghĩ rằng: Ma phá hoại chánh pháp, vì sao Như Lai chẳng điều phục. Liền quán tâm Phật thì biết Phật muốn mình điều phục. Ngài liền dùng ba thây chết của rắn, người và chó, biến thành chuỗi anh lạc. Chiêu cảm ma vương đến, ngài gọi bảo rằng: Ông cho tràng hoa, ta rất cảm kích sự bố thí trọng hậu của ông. Nay xin dùng vật này tặng lại. Ma rất vui mừng bèn đeo ngay vào cổ. Vừa đến cổ thì thấy là thây chết đầy dòi tửa hôi hám, muốn cởi bỏ ra. Ma rất ghê tởm bảo ngài Cúc-đa rằng: vì sao ông lấy thây chết mà đeo vào cổ ta. Ma dùng thần lực cởi bỏ đi mà không được. Liền kêu cứu với chư Thiên, cho đến Phạm vương xin cởi thây chết ra dùm. Phạm vương nói: Do sức Thập lực của đệ tử Phật hóa ra, tôi không thể lấy ra được. Nếu ông quy y ngài Cúc-đa may mà thoát được. Ma nghe lời Phạm vương, liền đến chỗ ngài Cúc-đa, năm thể sát đất xin mở ra ba thây chết. Tôn giả nói: Ông không phá hoại chánh pháp nữa, thì ta mới cởi thây chết ra cho ông. Ma xin tuân lời. Ngài liền cởi thây chết ra. Là Phật Vô Tướng, nghĩa là đức ngang bằng Phật chỉ không có tướng hảo mà thôi, đây là lời khen kính. “Nếu là …” là ước người mà giải thích, có hai: a, lược nêu. b, ngôn thâm…” là giải thích rộng, nêu giải thích hạnh xưa, dẫn kinh Vô Hạnh giải thích thêm, dẫn kinh ấy chánh nói, +, nêu hiểu kinh sâu, dẫn kinh nêu văn. Ngài Kinh Khê nói: Thâm kinh là kinh Vô Hạnh. Tham dục là đạo, giả là đó. Chúng sinh từ vô thỉ cùng ba thứ này đều siêng theo. Quán chúng sinh do đây mà ngộ, nên nói tức thị. Tất cả các kinh, đại chỉ đều thế. Chẳng đắc ý, là vì ba thứ đó. “Chỉ đây…” là y kinh nêu nghĩa. “Kinh ấy …” là lại dẫn khuyên răn, lại dẫn kinh, ngài Kinh Khê nói: e người hiểu lầm cho nên lại dẫn kinh ấy. Thấu suốt pháp này cũng chẳng phá giới…. “Hành nhân…” là nói khuyên răn. “Thật tướng…” là căn cứ nhân quả kết giải thích. “Nếu hay…” là đối văn nay kết bày. “Nếu ưa thích…” là truy giải thích tân học, chánh giải Thích-căn. Thêm nước vào sữa, Đại kinh phẩm Bồ-tát nói: Như cô gái chăn bò vì muốn bán sữa được nhiều tiền nên thêm vào hai phần nước, đem bán cho các cô gái chăn bò khác. Các cô gái này được sữa lại thêm hai phần nước, rồi đem bán cho cô gái ở gần thành. Cô này lại thêm hai phần nước bán cho cô gái trong thành. Cô gái này lại thêm hai phần nước rồi đem ra chợ bán. Thầy xưa giải thích hai cô gái chăn bò là dụ cho việc hoằng kinh. Tánh cô gái không ngay thẳng là dụ cho người hoằng pháp, không thể quên rằng vì pháp mà dối lừa để có nhiều lợi. Cho nên dùng cô gái chăn bò để dụ.
– Thêm hai phần:
- Sao lược kinh này.
- Phân làm nhiều phần.
– Thêm hai phần lần hai:
- Trừ bỏ lời thâm diệu.
- Đặt nói thế đế.
– Thêm hai phần lần ba:
- Đem trước để sau.
- Đem sau để trước.
– Thêm hai phần lần bốn:
- Trước sau đem để ở giữa.
- Giữa đem ra trước sau.
“Như tức…” là dẫn sự để chứng, có hai: a, dẫn sự hiện tại. b, “Trong đây…” là dẫn sự xưa, chánh dẫn duyên xưa, ngài Kinh Khê nói: Đây là lúc xưa còn làm Sa-di, Phật là Hòa thượng, A-nan là Xàlê. “Cho nên biết…” là kết cạn bày sâu. “Dựa theo đây…” là tổng kết. Ba giáo đi vòng xa gọi là sức từ “nói trau chuốt), còn viên đốn tột gọn là trực ngữ (nói thẳng). Như hỷ căn… như trước đã ghi. Tẩn pháp cũng thành. Cũng là vừa. Lại Đại luận quyển tám nói: Khổ hạnh đầu-đà, đầu giữa sau đêm tâm luôn siêng tịnh thiền quán khổ mà được giáo đạo Thanh văn. Quán các pháp thật tướng không phược, không thoát, không giải. Tâm được giáo thanh tịnh của Bồ-tát. Song đây vì đem tiểu sánh với đại nên nói thế. Đối với Bồ-tát viên thừa thì cũng chưa từng bỏ các việc thiền quán… kế văn phân làm hai: a, giải thích khinh mạn. b, lại …” là giải thích thủ tướng. Nói thủ tướng thành lỗi để giải thích văn kinh, có hai: a, căn cứ văn kinh hiển bày lỗi. b, như tam trở đi nêu nhân sư chỉ lỗi, nói thủ tướng của các sư, ba thời… xưa nay Nam Bắc thông dụng ba thứ để phán quyết giáo:
1. Đốn, tức là Hoa Nghiêm.
2. Tiệm, tức mười hai năm trước giáo có tướng là kinh A-hàm. Mười hai năm sau, giáo không tướng là từ Bát-nhã đến Niết-bàn.
3. Bất định giáo tức là kinh Thắng Man, Quang Minh… không phải đốn tiệm mà nói Phật tánh thường trụ, nên gọi là thiên phương bất định giáo. Cấp sư ở Hổ khâu lại ở tiệm giáo mà phân làm ba thời, nghĩa là có tướng, không tướng và thường trụ, tức chỉ Niết-bàn là thường trụ giáo. Bốn thời, là ở chùa Bạch Mã, sư Tông Ái phán quyết tiệm có bốn thời, ba thời không khác trước, còn ở trước thường trụ và sau vô tướng thì chỉ cho kinh Pháp Hoa gọi là đồng quy giáo. Năm thời là đạo tràng quán… tiệm lại có năm, bốn thời không khác trước. Còn ở sau vô tướng và trước đồng quy thì chỉ kinh Tịnh Danh này và kinh Tư Ích… là bao biếm ức dương giáo. Bán mãn, ngài Bồ-đề Lưu-chi lấy mười hai năm trước làm chữ bán, mười hai năm sau làm chữ mãn. Bốn tông là ngài Quang Thống phán quyết giáo có bốn:
- Nhân duyên tông, nói Tỳ-đàm sáu nhân bốn duyên.
- Giả danh tông, chỉ cho thành luận ba giả.
- Tướng tông, chỉ cho Đại phẩm ba luận.
- Thường trụ tông, chỉ cho Niết-bàn, Hoa Nghiêm.
Sáu tông, ngài Quang Thống lại chia bốn thành sáu, bốn như trước nói, lại chỉ Pháp Hoa là Chân tông, Đại Tập là Viên tông. Có chép đầy đủ trong Pháp Hoa huyền nghĩa quyển mười.
Nói Sư nay Vô Trước, chánh nói Vô Trước. Ba giáo, hai giáo, một giáo… ngài Kinh Khê nói: ba cũng chỉ là tiệm… ba giáo. Tức là đốn tiệm. Một, nghĩa là một âm. Vô giáo là vô ngôn thuyết “không nói năng). Cho đến tám giáo tùy nghi mà dùng một thứ, mà lấy các giáo gồm chung cho quán, lại ý chung dung nhau khiến không trệ ngại về phương tiện nhập đạo. Nếu không thế thì cùng ngoại đạo nào khác. Cho nên khiến đối giáo để khởi hạnh, hạnh giáo trông nhau lấy ngộ làm gốc giới nhĩ hữu trước. Chu Dịch nói ưu hối lập là còn nuối tiếc. Hàn Khang Bá chú rằng giới là nhỏ nhặt. “ Tự chấp …” là chê các sư, có hai: a, là Đại sư chê trách. b, ngài Nam Nhạc chê trách. Nói tịch chiếu nhập đạo để hiển bày ý kinh, nêu bày. Doanh đạo cũng nói là tu đạo. “Chỉ …” là chánh giải thích, nói im lặng và nói năng cùng giúp nhau thành lợi ích, chánh nói cùng giúp nhau, chỉ rõ nói và im lặng gồm thâu. b, “cần biết …” là nói cùng giúp nhau thành lợi, có ba: a’, pháp, có hai: a”, nói đối bệnh bày thuốc. “nói im …” là chỉ cái dụng trị đúng lúc. Dụ và Hợp dụ. “ Cho nên đại …” là nêu đắc hiển bày thất, nêu đắc giúp nhau. Ngũ cốc,
Trịnh Tư Nông nói: Đó là mè, lúa mùa, lúa tắc, lúa mạch (mì) và đậu. “
Nếu thiên …” là hiển bày lỗi của thủ tướng. Tuy cho rằng mang thai con tầm thường…, tuy tự cho là con thường trụ gá vào Thánh thai. Đã sinh chấp trước thiên lệch là bị đọa lâu trong sinh tử, chỗ có Phật tánh nhất định không hiển phát, nó cũng như gái đá không sinh sản. “ Nếu đối với …” là nói im lặng và nói năng đều có tín và pháp, nghe và suy nghĩ hồi chuyển mà giải thích, có hai: nói Thánh nói đầy đủ tín pháp. nói Thánh im lặng cũng đầy đủ tín pháp. Gia công luận đến mức…. Gia công không ngộ do đó tâm tự hận sinh ra. Lễ Ký nói: Người sinh Không hận dân. Trịnh Chú rằng: là dáng oán hận không vừa ý (bất mãn). Mạnh tử nói: Hạnh có lòng không oán hận, chú rằng: Khiểm là khoái vậy, nghĩa đó cũng thông. Lâu lâu, hoặc viết, đều là kính cẩn, tuy không phải biếng nhác khinh nhờn mà không được ngộ. Cho nên cần phải nghe pháp nhận hiểu. Căn cứ đây mà nói người tín pháp hồi chuyển, nói rộng tín pháp cùng giúp nhau hồi chuyển…, đầy đủ như trong an tâm của chỉ quán. “ Lại từ…” là trong ngoài giúp nhau mà giải thích. Như nghe mà làm là pháp giúp tín. Tuy chính từ ngoài nghe mà lại nhờ bên trong suy nghĩ giúp nhau được ngộ. Như làm mà nghe là tín giúp pháp. Tuy chính phải bên trong suy nghĩ mà tất nhờ bên ngoài nghe nói pháp giúp cho được ngộ. Phó chúc A-nan, nêu ý phân văn, nêu ý, tích. bổn. “Dựa vào đây…” là phân khoa. “Chủ yếu là…” là tùy văn giải nghĩa. Được yếu, tức là được các pháp. Vì thật tướng tức là các pháp, các pháp tức là thật tướng, cho nên được châu như ý thì có đầy đủ các báu.
—————————
Bộ sách này chỉ dùng chung với bộ sớ của ngài Kinh Khê mà thôi.
Bộ sớ này là lời giảng được ghi lại; việc phân chia quá chi li. Cứ mỗi điều lại có hai, ba phần. Nhưng phần hai ở rất xa, có khi không nói, hoặc lạc mất hoặc chính thức không có.
Tóm lại bộ sách này dùng một mình không tiện lợi.