DU GIÀ SƯ ĐỊA LUẬN

SỐ 1579

QUYỂN 13

Tác giả: Bồ tát Di Lặc giảng thuật, Bồ tát Vô Trước ghi.
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Địa 6 : ĐỊA TAM MA HÝ ĐA 3

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô các ông nên ưa thích chốn vắng lặng, siêng năng tu tập hạnh quán”. Nội tâm an trụ nơi chánh Xa-ma-tha: Nghĩa là có thể xa lìa tâm tham vướng nơi ngọa cụ. Hoặc ở chốn vắng lặng, hoặc ngồi bên gốc cây, buộc niệm vào hiện tiền, cho đến nói rộng, gọi là ưa thích chốn vắng lặng. Nên biết câu này là hiển bày về thân xa lìa. Nếu có thể ở trong chín thứ trụ tâm, như vậy gọi là nội tâm an trụ nơi chánh Xa-ma-tha. Nên biết câu này là hiển bày về tâm xa lìa. Nếu ưa thích ở nơi vắng lặng, nên có thể dẫn phát nội tâm an trụ nơi chánh Xa-ma-tha. Nếu nội tâm an trụ nơi chánh Xa-ma-tha, nên có thể dẫn phát Tỳ-bát-xá-na. Nếu ở nơi Tỳ-bát-xá-na khéo tu tập rồi, tức có thể dẫn phát, ở trong các pháp biết rõ như thật”.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô các ông, đối với Tam-mađịa phải siêng năng tu tập vô lượng, luôn thuận theo, trụ nơi chánh niệm. Tức là, trước nêu tổng quát: Đối với Tam-ma-địa siêng năng tu tập rồi, sau đó dùng ba sự để hiển bày riêng về tướng tu tập.

Vô lượng: Nghĩa là bốn vô lượng.

Luôn thuận theo: Là thường có chỗ tạo tác, và đều thuận theo chỗ tạo tác nên gọi là luôn thuận theo. An trụ nơi chánh niệm: Là hiển bày về bốn niệm trụ, an trụ nơi tâm ấy.

Vì sao nêu ba thứ tướng tu tập đó? Nghĩa là dựa vào hai thứ viên mãn:

– Một là viên mãn thế gian.

– Hai là viên mãn xuất thế gian.

Do tu vô lượng nên có thể dẫn phát việc viên mãn thế gian. Do tu chánh niệm nên có thể dẫn phát viên mãn xuất thế gian. Luôn thuận theo tu tập, nên đối với hai thứ ấy mau được thông đạt, do nhân duyên này nên ở trong hai thứ viên mãn ấy để nêu bày. Vì vậy chỉ nói ba loại tướng tu tập.

Lại nữa, vô lượng là hiển bày nẻo tu tập Xa-ma-tha. Trụ nơi chánh niệm là hiển bày của tu tập Tỳ-bát-xá-na. Luôn thuận theo là hiển bày về hai nẻo tu tập ấy mau chóng chứng đạo.

Lại nữa, vô lượng là làm rõ hành hướng tới phước đức. Trụ nơi chánh niệm là làm rõ hành hướng đến Niết bàn. Luôn thuận theo là làm rõ hành hướng tới hai thứ kia mau chóng viên mãn. Trước, đối với Xama-tha khéo tu tập rồi, sau mới được cùng hiện hành với Tỳ-bát-xá-na, tu hai thứ Tam-ma-địa ấy nên nhận biết rõ như thật về cảnh giới của đối tượng nhận thức.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói: “Người tu tĩnh lự, hoặc có đẳng trì thiện xảo, chẳng phải là đẳng chí thiện xảo, nói rộng như nơi kinh”. Tụng Ôn-Đà-Nam nêu: Thế nào là đẳng trì thiện xảo? Nghĩa là đối với ba Tam-ma-địa không v.v… đạt được thiện xảo.

Thế nào gọi là không phải đẳng chí thiện xảo? Đó là đối với các đẳng chí thắng xứ, biến xứ, diệt tận không đạt được thiện xảo.

Thế nào là đẳng chí thiện xảo, không phải đẳng trì thiện xảo? Nghĩa là đối với mười thứ đẳng chí biến xứ và đẳng chí vô tưởng, hoặc nhập hoặc xuất đều đạt được thiện xảo, không phải là đối với ba thứ Tam-ma-địa.

Thế nào là cùng đạt được thiện xảo? Tức là đối với cả hai loại đó cùng đạt thiện xảo?

Thế nào là cùng không đạt được thiện xảo? Tức là đối với cả hai loại đó đều cùng không đạt thiện xảo.

Như vậy, trong chỗ nói về đẳng trì đẳng chí ở trước, theo nẻo ứng hợp, nên khéo kiến lập.

Lại, nói đẳng trì thiện xảo, không phải đẳng chí thiện xảo: Nghĩa là, đối với danh cú văn thân của đẳng trì khéo nhận biết chỗ sai biệt, không phải đối với các hành tướng trạng thái sai biệt để có thể nhập đẳng chí.

Thế nào là đẳng chí thiện xảo, không phải là đẳng trì thiện xảo? Nghĩa là như có một hành giả khéo nhận biết về các hành tướng, trạng thái để có thể nhập theo một đẳng chí. Cũng có thể hiện nhập, nhưng không khéo nhận biết tướng sai biệt nơi danh cú văn thân của Tam-ma- địa ấy. Cũng không thể nhận biết ta đã được nhập đẳng trì sai biệt như vậy như vậy.

Có các Bồ tát, tuy có thể nhập được hoặc trăm hoặc ngàn các Tam-ma-địa, nhưng không nhận biết rõ về danh cú văn thân của Tamma-địa ấy. Cũng không thể nhận biết ta đã được nhập các đẳng trì sai biệt như vậy như vậy, cho đến chưa từng ở chỗ của chư Phật được nghe, và đối với điều ấy đạt được cứu cánh bậc nhất. Ngay nơi chỗ của các Bồ tát, cũng chưa được nghe rõ, hoặc tự chứng đắc cứu cánh bậc nhất.

Thế nào là trụ? Tức là khéo giữ lấy các hành tướng, trạng thái để có thể nhập Tam-ma-địa. Do khéo giữ lấy chúng, nên tùy chỗ mong muốn có thể trụ nơi định, đối với Tam-ma-địa không còn thối thất. Như vậy, hoặc trụ nơi định hoặc không thối thất, cả hai cùng gọi là trụ.

Thế nào là xuất? Nghĩa là như có một hành giả, đối với các hành tướng, trạng thái để có thể nhập định, không tư duy nữa, ở nơi địa chẳng phải định phân biệt địa định thuộc về thể tướng không đồng với pháp cùng loại, tác ý tư duy, xuất nơi Tam-ma-địa, hoặc theo chỗ tạo nhân, hoặc định rõ chỗ tạo nhân, hoặc hẹn chỗ tạo nhân mà xuất định.

– Theo chỗ tạo nhân: Là tu trị các chỗ tạo nghiệp của y, bát v.v…

– Định rõ chỗ tạo nhân: Là ăn uống tiện lợi, phụng hành những chỗ tạo nghiệp của các bậc sư trưởng v.v…

– Hẹn chỗ tạo nhân: Nghĩa là như có một hành giả trước lập sự hẹn ước, hoặc chấp thuận là kẻ khác sẽ có chỗ tạo tác, hoặc lại vì muốn chuyển nhập định khác. Do nhân duyên ấy nên xuất Tam-ma-địa.

Những gì là hành? Nghĩa là như nơi đối tượng duyên tạo vô số hành mà nhập định. Tức là các hành: thô, tịch tĩnh, bệnh, ung nhọt, mũi tên, vô thường v.v… Hoặc là các hành hiện có ở trong các Tam-ma-địa ấy.

Những gì là trạng thái? Tức là vào lúc sắp nhập các định, liền có tướng trạng của định ấy dấy khởi trước. Do tướng trạng đó nên hành giả tự biết rõ ta ở nơi định có tướng như vậy như vậy không lâu nữa sẽ nhập. Hoặc lại chánh nhập, vị sư giáo thọ kia do trạng thái ấy cũng nhận biết rõ hành giả chẳng bao lâu nữa sẽ nhập nơi định, với tướng như vậy như vậy.

Những gì là tướng? Tức là hai thứ tướng:

  1. Tướng của đối tượng duyên.
  2. Tướng của nhân duyên.

– Tướng của đối tượng duyên: Là phân biệt về thể, do duyên nơi ấy nên có thể nhập các định.

– Tướng của nhân duyên: Là tư lương của định, do nhân duyên này, nên có thể nhập các định. Nghĩa là tùy thuận chỗ dạy khuyên trao truyền về định, tích tập tư lương nơi đối tượng hành của các định, tu tập cùng hiện hành với tâm mong muốn chán lìa hữu ở nơi loạn, chẳng loạn đều xét kỹ, nhận biết rõ, và không bị kẻ khác bức não, hoặc do người tạo tác, hoặc do hàng phi nhân gây tạo, hoặc do âm thanh gây tạo, hoặc do công dụng gây tạo.

Thế nào là điều hòa thiện? Nghĩa là, nếu Tam-ma-địa còn là chỗ chấp của hữu hành, như nước bị giữ lại. Hoặc là chỗ nắm bắt của pháp tánh, không tĩnh không diệu, không phải là đạo an ổn, cũng không phải là chứng đắc tâm tánh một cõi, Tam-ma-địa ấy gọi là không điều hòa thiện, không tùy chỗ ưa thích an ổn mà trụ. Cùng trái với trường hợp này gọi là điều hòa thiện.

Thế nào còn là chỗ nắm giữ của hành hữu? Tức do thệ nguyện cùng hiện hành với tư duy, nên điều phục ngoại duyên, giữ tâm nơi định. Lại, chính là do công dụng ở nơi tác ý mới có thể vận hành, không khiến nội tâm lưu tán nơi bên ngoài, nên nói như nước bị giữ lại.

Thế nào là chỗ nắm bắt của pháp tánh? Nghĩa là quán địa dưới là pháp tánh thô, quán địa trên là pháp tánh tĩnh, tịch tĩnh vi diệu, đắc đạo an ổn. Lại có thể chứng đắc tâm tánh một nẻo, như trong Tam-ma-địa năm Thánh trí đã giải thích tóm lược.

Thế nào là đối tượng hành? Tức là cảnh giới nơi đối tượng hành của Tam-ma-địa. Do định đạt được, nếu vượt quá chỗ ấy trở lên thì không thể nhận biết. Như Tĩnh lự thứ nhất không thể quán thấy Tĩnh lự thứ hai. Như dung lượng của căn, dung lượng của sổ thủ thú cũng không thể nhận biết.

Thế nào là dẫn phát? Tức có thể gồm thâu tóm lược nghĩa văn cú rộng khắp, cùng có thể thành tựu các công đức thù thắng.

Thế nào là cùng yêu thích? Nghĩa là có hổ thẹn, kính tin, chánh tư duy, chánh niệm, chánh tri, giữ căn, giữ giới và không hối, lạc là sau cùng. Do tùy thuận nơi lạc nên tâm liền được định. Trái với đây, gọi là không cùng yêu thích.

Thế nào là cùng yêu thích cũng không cùng yêu thích? Nghĩa là như có một hành giả, đối với các thứ hổ thẹn v.v… chỉ thành tựu một phần nhỏ, phần ít không thành tựu, tức có đủ hổ thẹn nhưng không ái kính, cho đến nói rộng.

Thế nào là tăng thêm? Tức là chỗ định đạt được, lại chuyển biến tăng trưởng.

Thế nào là giảm bớt? Tức là chỗ định đạt được trở lại thối chuyển.

Thế nào là phương tiện? Là hướng đến hai nẻo chỉ, quán kia.

Lại, chỉ, cử xả, nên biết như trước trong phần tướng của chỉ, đã phân biệt đầy đủ.

Lại nữa, như phân biệt về tĩnh lự, kinh nói: Có người tu tĩnh lự, tức ở chỗ hưng phấn v.v… gọi đó là suy, cho đến nói rộng.

Ở đây có bốn chuyển, nên biết về hai thời điên đảo. Tức đối với Tam-ma-địa, hoặc lúc thối đọa, hoặc lúc thắng tiến. Hướng tới thối thất cùng thối thất, đều gọi là suy. Hướng đến nẻo thắng tiến, cùng với thẳng tiến, đều gọi là hưng.

Thế nào gọi là nên biết nơi Tam-ma-địa, lúc thắng tiến là điên đảo? Hành giả cho là ta nay thối thất ly sanh hỷ lạc, ta nay thối thất Tam ma địa thù thắng? Tức người tu tập tĩnh lự, siêng năng hành trì, tâm hướng đến tịch tĩnh theo hành xả, nên từ Tĩnh lự thứ nhất nhập phần gần của Tĩnh lự thứ hai, nhưng sự việc này không khéo biết rõ, nơi bậc Tĩnh lự thứ nhất trong quả vị ấy, hỷ lạc đã vượt qua, còn trong bậc Tĩnh lự thứ hai, hỷ lạc vốn có vẫn chưa thể chứng đắc, liền khởi suy nghĩ: Hiện đang thối thất ly sanh hỷ lạc, bèn trở lại theo sự thối thất ấy thâu giữ lấy tâm. Nên biết người tu tĩnh lự như thế là tâm điên đảo.

Thế nào là nên biết nơi Tam-ma-địa, lúc thối chuyển, là điên đảo? Nghĩa là như có một hành giả chứng đắc Tĩnh lự thứ nhất, cho là Niết bàn, nên tích tập tư lương. Vị ấy, đối với Niết bàn, chỗ tu tập về tư lương đã được viên mãn. Do nhân duyên này, hoặc do công dụng, hoặc lại tự nhiên khởi tưởng như vậy, tác ý hiện tiền. Vì tác ý tưởng như thế, nên ở trong các sắc, cho đến trong thức đều nhận biết rõ chúng như bệnh cho đến vô ngã. Do tác ý tưởng như vậy, từ nhân không gián đoạn ấy, chỗ sanh hỷ lạc nơi định thế gian không hiện tiền nữa, liền suy nghĩ: Ta nay thối thất chỗ sanh lợi ích và chỗ nương dựa của định, bèn trở lại theo sự thối thất đó thâu giữ nơi tâm. Nên biết người tu tĩnh lự như vậy, đối với sự thối thất Tam-ma-địa, là điên đảo.

Thế nào là nên biết, đối với sự thối thất Tam-ma-địa không điên đảo? Nghĩa là như có một hành giả chứng đắc Tĩnh lự thứ nhất, liền sanh biết đủ, không cầu tiến lên quả vị trên, chỉ khởi ái vị. Vì khởi như thế nên dục cùng hiện hành với tác ý tưởng, bèn thành thối thất nơi định gần Dục giới. Vị ấy đối với sự suy này có thể biết rõ là suy. Do nhân duyên này nên biết là không điên đảo.

Lại, do phần định của Tĩnh lự đạt được tự đề cao mình, chê kẻ khác, cho là ta đạt được định của tĩnh lự này, chẳng phải là kẻ khác đạt được. Vì dấy khởi như thế, nên dục cùng hiện hành với tác ý tưởng, mọi thứ ngăn che trói buộc hiện có càng thêm tăng, dày, bèn từ định thối chuyển, vị ấy ở nơi suy này có thể biết rõ là suy.

Lại, do đem các định của tĩnh lự đạt được, hiển bày nơi kẻ khác, cho là các bậc quốc vương cùng vương thần v.v… nên cúng dường mình. Từ định khởi rồi, tìm xét sự việc ấy, do dục cùng hiện hành với tác ý tưởng như thế, nên mọi thứ ngăn che trói buộc hiện có càng thêm tăng, dày, phần còn lại như trước đã nói.

Nên biết người tu tĩnh lự như vậy, đối với sự thối thất Tam ma địa là không điên đảo. Nên biết về tướng của lần không điên đảo thứ hai là ngược lại với lần không điên đảo thứ nhất. Nên biết về tướng của hai lần không điên đảo ấy cũng ở nơi hai thời gian. Do dựa vào xứ điên đảo không điên đảo như vậy mà an lập bốn chuyển.

Lại nữa, như trong kinh phân biệt bốn định kiểm hành, do bốn thứ tướng nên xem xét về hành nơi tất cả Tam-ma-địa. Tức xem đẳng trì này là thuận phần thối chuyển, cho đến đấy là thuận phần quyết trạch.

Thế nào là xem xét về hành? Tức xem đấy là phần kém, đây là phần hơn, đây là phần thù thắng, đấy là phần tối thắng, như thứ lớp của chúng. Đây lại là thế nào? Nghĩa là người tu tập định, từ tĩnh lự thứ 1, trở lại thối xuất rồi, đối với các tĩnh lự không vui thích nhập nữa, cũng không tư duy về hành, trạng, tướng, nhưng dục cùng hiện hành với tác ý các tưởng thì luôn hiện tiền, như đã nói ở trước. Từ nơi định kia khởi rồi, theo niệm ái vị, nên lúc này người tu tĩnh lự phải tự xem xét về hành: Tam-ma-địa của mình nay thành thối thất, thua kém.

Lại nữa, người tu định, từ nơi Tĩnh lự thứ nhất thối chuyển, xuất rồi được nghe chỉ dạy pháp thuận theo định ấy. Tức là các hành, tướng, trạng thái của Tĩnh lự thứ nhất, nên ân cần chu đáo khéo giữ lấy tướng, khiến cho chỗ định đạt được trụ vững không quên. Như vậy, theo niệm thuận nơi pháp của định, thành thuận phần trụ nên bấy giờ, phải tự xem xét về hành: Tam-ma-địa của ta đã thành phần thắng, Tam-mađịa của ta đã được an trụ, chẳng phải là thối, chẳng phải là tiến, chẳng phải là hướng tới chỗ quyết trạch.

Lại nữa, người tu tĩnh lự, từ nơi Tĩnh lự thứ nhất trở lại thối xuất rồi, được nghe pháp dạy trao về sự tùy thuận nơi Tĩnh lự thứ hai. Đã được nghe rồi thì đạo Tĩnh lự thứ hai cùng hiện hành với tác ý các tưởng, thường xuyên hiện tiền, nên lúc này phải tự xem xét về hành: Tam-ma-địa của ta đã thành thù thắng, không thối không trụ, chỉ là thắng tiến, không phải là hướng tới quyết định.

Lại nữa, người tu định, từ nơi Tĩnh lự thứ nhất trở lại thối xuất rồi, nghe giáo pháp tương ưng với tướng của Khổ đế v.v… Đã được nghe xong Khổ đế v.v… cùng hiện hành với tác ý các tưởng thuận phần quyết trạch, luôn luôn hiện tiền, nên bấy giờ phải tự xem xét về hành: Tamma-địa của ta đã thành tối thắng, không thối không trụ, cũng không thắng tiến, nhưng hướng tới quyết trạch.

Lại nữa, như kinh nói: Có nhãn (mắt) có sắc, cho đến có ý có pháp, nhưng các Bí-sô đối với những pháp này, hoặc thật hoặc có, đều không lãnh nhận, hãy còn không thọ nhận tưởng, huống chi là vô tưởng. Đây lại là thế nào?

Nghĩa là các Bí-sô, ở nơi Tĩnh lự thứ nhất, an trụ đầy đủ. Do nhân duyên ấy nên chán bỏ nhãn sắc cho đến ý pháp. Vì chán hoại nên uy lực bị đoạt mất, bèn ở trong nhãn không có tưởng về nhãn – nhưng có tưởng kia, cho đến đối với pháp không có tưởng về pháp – nhưng có tưởng kia. Thế nào là có tưởng? Nghĩa là ở nơi nhãn v.v… tác ý tư duy là khổ là tập, hoặc là bệnh v.v… Vị ấy đối với các pháp không thọ nhận tự tướng, như vậy cho đến Vô sở hữu xứ. Ở đây chính là nói về tác ý vô lậu.

Thế nào gọi là không thọ nhận vô tưởng? Là không tư duy về tất cả tướng, ở trong diệt tận tư duy về tịch tĩnh. Trong ấy ý nói lìa tưởng về các tướng gọi là vô tưởng.

Lại nói an trụ nơi định diệt tận: Là tất cả tưởng đều không sanh khởi.

Lại nữa, như trong kinh nói bốn thứ hướng tới đạo. Thế nào là an tọa trong các pháp, tư duy lựa chọn? Nghĩa là có Bí-sô, trước đã chứng đắc Tĩnh lự thứ nhất v.v… nhưng chưa kiến đế. Do nghe Chánh pháp cùng hiểu biết rộng, nên có thể an tọa, dựa nơi Tam-ma-địa đối với các đế như Khổ v.v… phát khởi hiện quán. Như thế là hành giả dựa vào tâm tăng thượng, tu tuệ tăng thượng.

Lại có Bí-sô, nhận biết đúng như thật về khổ, cho đến nhận biết về đạo, nhưng chưa chứng đắc Tĩnh lự thứ nhất v.v… Vị ấy liền an tọa, tư duy về các pháp. Như vậy là hành giả dựa nơi tuệ tăng thượng để tu tâm tăng thượng.

Hành giả thứ ba gọi là cùng chứng đắc, Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xána cùng vận hành đan xen.

Hành giả thứ tư, trước đã chứng đắc Tĩnh lự thứ nhất v.v… nhưng chưa nghe Chánh pháp, chưa quen việc học rộng. Về sau, theo bậc Đại sư, hoặc ở chỗ các bậc tôn trưởng khác, nghe pháp kiến đế, hoặc lại được nghe pháp đoạn trừ kiết sử, do đấy được nhập hiện quán chân đế, hoặc lại chứng đắc quả A-la-hán. Vị ấy đã chứng đắc chỗ dẫn phát xuất ly, nên vô cùng hoan hỷ. Do có thể chế ngự các tâm trạo cử, nên lại an tọa. An tọa như thế rồi, tâm trụ nơi đẳng chí của Tĩnh lự, đầu tiên là hướng tới đạo, dẫn phát kiến đạo. Lần thứ hai, thứ ba là dẫn phát tu đạo. Lần hướng tới đạo thứ bốn là cùng dẫn phát cả hai.

Lại nữa, như trong kinh nói: Có bốn tịnh thắng, để cầu đạt thanh tịnh thì đấy là tối thắng, nên gọi là tịnh thắng.

Thế nào là tịnh? Thế nào là thắng? Nghĩa là chỗ dẫn phát, chỗ chứng chỗ đắc về Giới v.v… hoặc viên mãn hoặc thâu nhận, đó gọi là tịnh. Phát khởi siêng năng tinh tấn chưa viên mãn khiến viên mãn, đó gọi là thắng.

Thế nào là Giới thâu nhận, viên mãn? Nghĩa là như có một hành giả tuy trụ nơi Giới đầy đủ, cũng có thể giữ gìn luật nghi biệt giải thoát, nhưng ở trong phép tắc và chỗ hành trì chưa có thẻ đầy đủ, chưa đối với tội nhỏ thấy sợ hãi sâu xa, nên vị ấy ở nơi Giới chưa gọi là viên mãn. Nếu đối với tất cả thảy đều đầy đủ mới gọi là viên mãn. Như thế gọi là Giới viên mãn.

Hoặc nơi thời gian dài thường xuyên tu tập, nên nơi căn môn, khéo giữ gìn mà trụ, cho đến nói rộng, tức ở nơi Giới thâu tóm thành tự tánh của tự thể an trụ. Như vậy gọi là Giới thâu nhận.

Thế nào là Tam-ma-địa viên mãn? Tức nếu đã đạt được quả Gia hạnh cứu cánh hoặc Tĩnh lự thứ tư mới gọi là viên mãn. Dưới quả vị này đều chưa viên mãn.

Thế nào là Tam-ma-địa thâu nhận? Nghĩa là hành giả đã chứng đắc Tam-ma-địa, về sau đạt thanh tịnh. Lại, Tam-ma-địa không là chỗ nắm giữ của hữu hành, cho đến nói rộng.

Thế nào là chánh kiến viên mãn? Tức là nghe âm thanh của người khác, cùng tác ý như lý, nên chánh kiến được sanh. Do chánh kiến này, tuy có thể biết khổ, cho đến biết đạo, nhưng nếu chưa đúng như thật, cũng chưa được gọi là chánh kiến viên mãn. Nếu có thể đối với các đế, nhận biết rõ như thật, bấy giờ mới gọi là chánh kiến viên mãn.

Thế nào là chánh kiến thâu nhận? Nghĩa là nơi thời gian sau, các lậu đã hoàn toàn dứt hết, cho đến nói rộng.

Thế nào là giải thoát viên mãn? Nghĩa là nếu do trí kiến hữu học giải thoát các thứ tham v.v… thì chưa gọi là viên mãn. Nếu do trí kiến vô học đạt được giải thoát mới gọi là viên mãn.

Thế nào là giải thoát thâu nhận? Tức là, hoặc hành hoặc trụ thường không thối thất nơi hiện pháp lạc trụ. Như vậy gọi là giải thoát thâu nhận.

Lại nữa, như kinh nói: Bí-sô tâm hành thanh tịnh, nơi mọi thời gian nên chánh tác ý tư duy về năm tướng, cho đến nói rộng. Theo phương tiện siêng tu tâm tăng thượng mới được gọi là tâm hành thanh tịnh. Các thứ tầm tư xấu ác bất thiện như dục v.v… cùng các tầm tư hiện có như thân thuộc v.v… đối với hành này đều có thể gây chướng ngại. Lược có ba loại Bổ-đặc-già-là do ba bậc tầm tư thượng trung hạ, nên hành giả có sai biệt.

Thứ nhất, do chánh tư duy về các tướng khác nên khiến cho tầm tư kia không còn hiện hành. Thứ hai, do thấy các lỗi lầm sâu nặng của tầm tư, hoặc lại không nhớ nghĩ, không tư duy, nên khiến cho tầm tư kia không còn hiện hành.

Thế nào là không nhớ nghĩ, không tư duy? Là do tâm khéo an trụ bên trong v.v… Bổ-đặc-già-la thứ ba: chẳng phải như loại thứ nhất, tức có thể khiến cho mọi tầm tư kia đều không hiện hành, mà chính là phải tạo phương tiện khiến hành của tầm tư dần dần mỏng, dứt. Thô đã diệt rồi, sẽ dần điều phục. Nếu vẫn chưa thể đối với nẻo hành của tầm tư, đối tượng duyên của tầm tư sanh khởi chán sợ sâu xa, thì nên dùng tâm cùng hiện hành với tầm tư kia, điều luyện, chế ngự. Ba loại Bổ-đặc-giàla như vậy được chia làm năm thứ.

Lại nữa, trong kinh Đãng Trần, Đức Thế Tôn nói: Nên như pháp nung luyện thành vàng ròng để nung luyện tâm, cho đến nói rộng. Những nghĩa như vậy thế nào là nên nhận biết? Tức nung luyện thành vàng ròng lược có ba thứ:

  1. Nung luyện trừ cáu bẩn.
  2. Nung luyện thâu nhận.
  3. Nung luyện điều hợp…

Như trong tánh của vàng thành ra vàng ròng hiện có, trong phần vị chủng tánh, tâm hành thanh tịnh nên biết cũng như vậy, nghĩa là có thể thực hiện chứng đắc Niết bàn.

Hỏi: Từ quả vị nào được gọi là tâm hành thanh tịnh?

– Đáp: Từ quả vị đạt được tịnh tín, cầu xuất gia. Ở nơi bậc tại gia và xuất gia ấy, có ba thứ cấu uế thô, vừa, tế.

Về hàng tại gia, do hai thứ làm chướng ngại, khiến không xuất gia: Một là nghiệp bất thiện. Nghĩa là thường vui thích ở yên nơi thân ngữ hành ác. Hai là tà kiến, ác kiến: Tức là bài bác cho không có A-lahán chân thực ở thế gian, chánh hạnh chánh chí. Tà kiến ác kiến ấy có thể làm chướng ngại đối với bậc đã đạt tịnh tín nêu trước. Các tầm tư như dục v.v… gây chướng ngại cho hàng xuất gia, khiến họ không thể sanh tâm hỷ lạc. Các tầm tư như thân thuộc v.v… gây chướng ngại cho hỷ lạc, khiến hành giả không thể luôn tu pháp thiện. Do đoạn trừ tầm tư ấy nên thường xuyên tu pháp thiện, mau đạt được tâm thuần tịnh viên mãn, có tầm có tứ, như cát vàng lọc sạch, đó gọi là tâm nung luyện trừ cáu bẩn, cũng như vàng đã lọc sạch nhưng chưa nấu chảy. Nếu hành giả lại có thể dứt bỏ tầm tư, cho đến an trụ đầy đủ nơi Tĩnh lự thứ tư, đó gọi là tâm nung luyện thâu nhận, do có thể thâu nhận Tam-ma-địa không tầm không tứ, cũng như vàng đãi sạch rồi được nấu chảy. Nếu Tam-ma-địa không là chỗ nắm giữ của hữu hành, cho đến nói rộng, đó gọi là tâm nung luyện điều hợp. Ở nơi pháp thần thông, theo chỗ mong muốn, có thể chuyển biến, như vàng đãi sạch đã được tinh luyện rồi, lại sửa trị những chỗ còn xấu như tỳ vết, kẽ nứt v.v…

Lại nữa, như kinh nói: Nên ở nơi ba tướng, tác ý tư duy, cho đến nói rộng. Nên trong mọi thời gian tác ý tư duy về tướng sai biệt của Xama-tha, chẳng nên hoàn toàn chỉ nhằm đối trị hôn trầm, trạo cử. Hoặc ở nơi việc ngăn dứt trạo cử chưa tu tập thường xuyên, chỉ tu một hướng là tướng hôn trầm, trạo cử. Nên biết, người tu như thế là trụ nơi quả vị của đạo phương tiện. Nếu trong mọi thời gian tư duy về tướng xả, như thế là ở nơi quả vị của đạo thành mãn. Cũng do đối với các pháp ấy chỉ tu một hướng nên ở trong pháp Duyên khởi và Thánh đế không xét chọn, tâm không chánh định, không dứt hết các lậu. Đối với các đế nếu chưa hiện quán thì không thể hiện quán, hoặc đã hiện quán thì không thể diệt sạch các lậu. Hai loại đầu, là đạo có thế thành tựu đầy đủ Tam-ma-địa. Một loại thứ ba, là đạo dựa nơi Tam-ma-địa diệt hết các lậu. Đó gọi là lược hiển bày về nghĩa chính yếu ở đây, tức nơi mọi thời gian tác ý tư duy hiện bày khắp tất cả.

Lại nữa, có bốn pháp chính thâu giữ Thánh giáo. Những gì là bốn? Đó là:

  1. Xa lìa.
  2. Tu tập.
  3. Tu quả.
  4. Ở trong Thánh giáo không có tranh chấp, chống trái.

Xa lìa: Là ở nơi chốn núi rừng, bên gốc cây, nơi tĩnh thất, chốn vắng lặng.

– Tu tập: Là trụ nơi các chốn ấy, siêng năng tu tập hai pháp là Xama-tha và Tỳ-bát-xá-na.

– Thế nào là đã tu tập Xa ma tha, dựa nơi Tỳ-bát-xá-na mà được giải thoát? Nghĩa là, như có một hành giả trước đã đạt được Tĩnh lự thứ nhất cho đến Tĩnh lự thứ tư. Vị ấy tức dựa nơi Tam-ma-địa này, nhận biết như thật về Khổ, cho đến nhận biết về Đạo. Vị ấy tức dựa nơi Tỳ bát xá na này, đối với các phiền não do kiến đạo đoạn, tâm được giải thoát.

Thế nào là đã tu tập Tỳ-bát-xá-na này, dựa nơi Xa-ma-tha, tâm được giải thoát? Nghĩa là như có một hành giả, nhận biết như thật về Khổ, cho đến nhận biết về Đạo, vị ấy dựa nơi tuệ tăng thượng như vậy, phát sanh tĩnh lự, tức do Xa ma tha như vậy, nên đối với các phiền não do tu đạo đoạn trừ, tâm được giải thoát. Tu tập Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xána như thế rồi, ở trong pháp giới đạt được giải thoát. Các hành đoạn của kiến đạo đoạn trừ gọi là cảnh giới đoạn. Những hành đoạn của tu đạo đoạn trừ gọi là lìa cảnh giới dục. Hết thảy mọi thứ chấp trước đều vĩnh viễn diệt, nên gọi là cảnh giới diệt đó gọi là tu quả.

Ở trong Thánh giáo không có tranh chấp, chống trái: Đó là bậc Đại sư cùng các vị đệ tử, hoặc nghĩa, hoặc câu, hoặc văn, nơi nghĩa của văn cú đều bình đẳng thâu nhận, thấm nhuần, luôn hỗ tương tùy thuận. Không phải như dị đạo nêu bày kiến giải đủ loại chẳng phải một, sai biệt chẳng đồng. Câu thứ nhất: Đó là câu trước. Nếu đem câu này hỏi nơi lần thứ nhất, tức dùng câu này hỏi lần thứ hai. Giả như lần thứ nhất, dựa nơi uẩn để hỏi, lại nơi lần thứ hai dựa vào pháp khác để hỏi, nên không được gọi là cùng với câu thứ nhất bình đẳng thâu nhận thấm nhuần, hỗ tương tùy thuận.

Phần 1: BẢN ĐỊA

Địa 7: ĐỊA PHI TAM MA HÍ ĐA

Đã nói về địa Tam ma hí đa. Thế nào là địa Phi Tam-ma-hí-đa? Nên biết, tướng của địa này lược có 12 thứ. Hoặc có tự tánh bất định, nên gọi là địa Phi định, đó là năm thức thân. Hoặc thiếu phần khinh an, nên gọi là địa phi định, đó là các tâm tâm pháp hệ thuộc nơi Dục giới. Tâm, tâm pháp ấy, tuy cũng lại có tâm tánh một cảnh, nhưng không có khinh an cùng thấm nhuần chuyển biến, nên không gọi là định. Hoặc do không có phát khởi hướng đến, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là người thọ nhận dục, ở trong các dục sanh nhiễm chấp sâu dày mà luôn thọ dụng. hoặc có tán loạn cùng cực, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là người mới tu định, đối với năm dục thượng diệu, tâm theo đấy lưu tán. Hoặc có sự tích tụ quá yếu kém nên gọi là địa phi định. Tức là người đầu tiên tu định, nơi nội tâm yếu kém, bị hôn trầm, thùy miên vây phủ.

Hoặc chưa chứng đắc, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là kẻ mới tu định tuy không tán loạn và không do tích tụ yếu kém làm nhiễu loạn nơi tâm, nhưng vẫn chưa đạt được các tác ý nơi các tâm tâm pháp nên không gọi là định. Hoặc có trường hợp chưa viên mãn nên gọi là địa phi định. Nghĩa là, tuy đạt được tác ý, nhưng chưa chứng đắc gia hạnh cứu cánh và quả của gia hạnh ấy, nên không gọi là định. Hoặc do có nhiễm ô xen tạp nên gọi là địa phi định. Tức tuy chứng đắc quả của gia hạnh cứu cánh và tác ý, nhưng vì có nhiều thứ hoặc như ái vị v.v… làm nhiễm ô nơi tâm. Hoặc có trường hợp không tự tại, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là, tuy đã đạt được quả của gia hạnh cứu cánh và tác ý, nơi tâm cũng không có phiền não làm nhiễm ô, nhưng ở trong tướng nhập trụ xuất các định chưa được tự tại, chưa được theo chỗ mong muốn, còn vướng ngại khó khăn. Hoặc có trường hợp không thanh tịnh, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là tuy đã được tự tại, theo chỗ mong muốn, không còn vướng mắc khó khăn, nhưng chỉ tu đạt định thế gian, chưa có thể trừ bỏ những phiền não, tùy miên nơi các tâm, tâm pháp, nên chưa gọi là định. Hoặc có sự dấy khởi, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là định đã chứng đắc tuy không thối thất, nhưng vì xuất định nên không gọi là định. Hoặc có thối chuyển, nên gọi là địa phi định. Nghĩa là thối thất Tam-ma-địa đã chứng đắc, nên không gọi là định.

Phần 1: BẢN ĐỊA

Địa 8, 9: ĐỊA CÓ TÂM KHÔNG TÂM

Đã nói về địa Phi Tam-ma-hí-đa.

Thế nào là địa có tâm? Thế nào là địa vô tâm? Nghĩa là hai địa này, nên biết về tướng, đều do năm môn:

  1. Môn kiến lập nêu bày về địa.
  2. Môn kiến lập tâm loạn chẳng loạn.
  3. Môn kiến lập sanh chẳng sanh.
  4. Môn kiến lập phần vị.
  5. Môn kiến lập đệ nhất nghĩa.

1. Kiến lập nêu bày về địa: bốn địa: Địa năm thức thân tương ưng, địa ý, địa có tầm có tứ, địa không tầm chỉ có tứ, hoàn toàn là địa có tâm. Nơi địa không tầm không tứ, trừ định vô tưởng, sanh vô tưởng và định diệt tận, chỗ còn lại toàn bộ là định có tâm. Như vậy, định vô tưởng, sanh vô tưởng và định diệt tận là địa không tâm.

2. Kiến lập tâm loạn chẳng loạn: Tức bốn thứ điên đảo làm điên đảo nơi tâm, gọi là tâm loạn. Nếu bốn thứ ấy không gây điên đảo nơi tâm, gọi là tâm không loạn. Ở đây, tâm loạn cũng gọi là không tâm, vì tánh hoại mất. Như nơi thế gian thấy kẻ tâm cuồng loạn, liền nói kẻ này là người không tâm. do tâm cuồng loạn làm mất bản tánh. Ở trong môn này, các tâm đảo, loạn, gọi là địa không tâm. Nếu tâm không loạn, gọi là địa có tâm.

3. Kiến lập sanh không sanh: Do tám nhân duyên nên tâm ấy hoặc sanh hoặc lại chẳng sanh. Nghĩa là:

  1. Căn bị hủy hoại.
  2. Cảnh không hiện tiền.
  3. Thiếu tác ý.
  4. Chưa đạt được.
  5. Trái nhau.
  6. Đã đoạn.
  7. Đã diệt.
  8. Đã sanh.

…nên tâm không được sanh. Do các nhân duyên trái với trên đây thì tâm mới được sanh. Ở đây, nếu đủ nhân duyên sanh, tâm liền được sanh, gọi là định có tâm. Nếu gặp nhân duyên chẳng sanh tâm,thì tâm tức không sanh, gọi là định không tâm.

4. Kiến lập phần vị: Nghĩa là trừ sáu vị, nên biết chỗ còn lại gọi là địa có tâm. Những gì là sáu vị? Đó là:

  1. Vị thùy miên không tâm.
  2. Vị sầu muộn không tâm.
  3. Vị định vô tưởng.
  4. Vị sanh vô tưởng.
  5. Vị định diệt tận.
  6. Vị cảnh giới Niết bàn Vô dư y.

Như vậy, sáu vị này gọi là địa không tâm.

5. Kiến lập đệ nhất nghĩa: Tức chỉ trong cảnh giới Niết bàn Vô dư y là địa không tâm. vì sao? Vì ở trong cảnh giới ấy, thức A-lại-da cũng vĩnh viễn dứt bặt. Các vị còn lại, theo chuyển thức diệt, nên gọi là địa không tâm. Nếu thức A-lại-da chưa hoàn toàn diệt tận, thì nơi đệ nhất nghĩa không phải là định không tâm.

 

Phần 1: BẢN ĐỊA

Địa 10: ĐỊA DO VĂN TẠO THÀNH 1

Đã thuyết minh về địa có tâm không tâm.

Thế nào là địa do Văn (kiến văn) tạo thành? Nghĩa là như lược nêu, đối với năm minh xứ với danh cú văn thân có vô lượng sai biệt, trước tiên là tuệ giác, rồi lắng nghe, lãnh nhận, đọc tụng, nhớ nghĩ. Lại, ở trong chỗ dựa là nghĩa của danh thân, cú thân, văn thân, hiểu rõ không điên đảo. Như thế gọi là địa do Văn tạo thành.

Những gì gọi là năm minh xứ? Đó là:

  1. Nội minh xứ.
  2. Y phương minh xứ.
  3. Nội minh xứ.
  4. Thanh minh xứ.
  5. Công nghiệp minh xứ.

Thế nào là nội minh xứ? Nên biết lược nêu do 4 thứ tướng:

Thứ 1: Tướng kiến lập nêu bày do sự.

Thứ 2: Tướng kiến lập nêu bày do tưởng sai biệt.

Thứ 3: Tướng do thâu tóm nghĩa của Thánh giáo.

Thứ 4: Tướng do nơi chốn nên nhận biết của Phật giáo.

Thứ 1: Thế nào là tướng kiến lập nêu bày do sự? Nghĩa là ba thứ sự thâu gồm chung mọi ngôn giáo của hết thảy chư Phật:

– Sự Tố-đát-lãm (Kinh).

– Sự Tỳ-nại-da (Luật).

– Sự Ma-đát-lý-ca (Luận).

Ba sự như vậy, trong phần “Nhiếp sự” sẽ phân biệt rộng.

Thứ 2: Thế nào là tưởng kiến lập nêu bày do tưởng sai biệt? Tụng nêu:

Câu mê hoặc hý luận
Trụ chân thật tịnh diệu
Đạo lý tánh tịch tĩnh
Giả nêu bày hiện quán.

Thế nào là câu? Tức là sáu xứ nội với vô lượng cảnh giới, vô lượng phương sở, vô lượng thời phần.

Lại có ba Giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới.

Lại có ba Giới: Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới, Tam thiên đại thiên thế giới.

Lại có bốn chúng: Tức chúng tại gia, chúng xuất gia, chúng Ô-ba sách-ca, chúng phi nhân.

Lại có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ.

Lại có ba đời: Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai.

Lại có ba báu: Phật báu, Pháp báu, Tăng báu.

Lại có ba pháp: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký.

Lại có ba tạp nhiễm: Tạp nhiễm của phiền não, tạp nhiễm của nghiệp và tạp nhiễm của sanh.

Lại có bốn Thánh đế: Khổ Thánh đế, Tập Thánh đế, Diệt Thánh đế và Đạo Thánh đế.

Lại có chín đẳng chí thứ lớp: Tức đẳng chí của Tĩnh lự thứ nhất cho đến đẳng chí diệt tưởng thọ.

Lại có 37 pháp phần Bồ đề: bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám đạo chi.

Lại có bốn quả Sa-môn: Quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán tối thắng.

Lại có nhiều thứ công đức thắng diệu: Nghĩa là vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ, nguyện trí, vô tránh, vô ngại giải, sáu thần thông.

Lại có năm sự Phương quảng Đại thừa: Là tướng, danh, phân biệt, chân như, chánh trí.

Lại có hai Tánh không: Là Tánh không của Bổ-đặc-già-la và Tánh không của Pháp.

Lại có hai Tánh vô ngã: Là Tánh vô ngã của Bổ-đặc-già-la và Tánh vô ngã của Pháp.

Lại có quán hành xa lìa hai xứ biên: Lìa biên tăng ích và lìa biên tổn giảm.

Lại có bốn thứ chân thật: Là chân thật do thế gian tạo thành. Chân thật do đạo lý tạo thành. Chân thật do chỗ hành của trí làm thanh tịnh phiền não chướng. Và chân thật do chỗ hành của trí làm thanh tịnh sở tri chướng.

Lại có 4 thứ tầm tư: Là tầm tư về danh. Tầm tư về sự. Tầm tư về giả lập tự tánh và tầm tư về giả lập sai biệt.

Lại có 4 biến trí như thật: Biến trí như thật do tầm tư về danh dẫn phát. Biến trí như thật do tầm tư về sự dẫn phát. Biến trí như thật do tầm tư về giả lập tự tánh dẫn phát. Biến trí như thật do tầm tư về giả lập sai biệt dẫn phát.

Lại có ba thứ tự tánh: Là tự tánh biến kế sở chấp. Tự tánh y tha khởi và tự tánh viên thành thật.

Lại có ba tánh vô tánh: Là tánh tướng vô tánh. Tánh sanh vô tánh. Tánh thắng nghĩa vô tánh.

Lại có năm tướng Đại Bồ đề: Là tự tánh, công năng, phương tiện, chuyển, hoàn.

Lại có năm thứ Đại thừa: Chủng tử. Hướng nhập. Thứ lớp. Chánh hành. Quả của chánh hành. Đầu tiên là phát tâm. Thương xót hữu tình. Hành các pháp Ba-la-mật-đa. Thâu tóm sự việc của chúng sanh. Tự tha nối tiếp thành thục.

Lại có năm tưởng vô lượng: Tưởng vô lượng về cảnh giới hữu tình. Tưởng vô lượng về thế giới. Tưởng vô lượng về pháp giới. Tưởng vô lượng về cảnh giới được điều phục. Tưởng vô lượng về cảnh giới của phương tiện được điều phục.

Lại có nghĩa chân thật thuận đến: Tức ở trong tất cả pháp vô lượng, tùy thuận hiện bày khắp đến chân như và trí của chân như ấy.

Lại có trí không chướng ngại của thắng giải, uy đức không thể nghĩ bàn 32 tướng đại sĩ phu. 80 thứ tướng tùy hình. bốn thứ hết thảy tướng thanh tịnh, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm trụ, ba bất hộ. Đại bi, pháp không quên mất, diệu trí dứt trừ mọi thứ tướng của tập khí.

Các câu như vậy, tóm lược chỉ là hai câu:

Câu được nêu bày trong thừa Thanh văn.

Câu được thuyết minh trong Đại thừa.

Thế nào là mê hoặc? Đó là bốn điên đảo.

  1. Ở nơi vô thường, điên đảo cho là thường.
  2. Ở nơi khổ, điên đảo cho là vui.
  3. Đối với bất tịnh, điên đảo cho là tịnh.
  4. Đối với vô ngã, điên đảo cho là ngã.

Thế nào là hý luận? Nghĩa là tất cả phiền não và tạp phiền não nơi các uẩn.

Thế nào là trụ? Là bốn thức trụ hoặc bảy thức trụ.

Thế nào là chân thật? Là chân như và bốn Thánh đế.

Thế nào là tịnh? Tức là tam tánh thanh tịnh: Tánh của tự thể thanh tịnh. Tánh của cảnh giới thanh tịnh. Tánh của phần vị thanh tịnh.

Thế nào là diệu? Tức là Tam bảo: Phật Pháp Tăng bảo gọi là vi diệu tối thượng, gắn liền trong sự nêu bày bậc nhất tột cùng.

Thế nào là tịch tĩnh? Tức là từ pháp thiện lục, cho đến tất cả pháp phần Bồ đề, cùng với quả đạt được, đều gọi là tịch tĩnh.

Thế nào là tánh? Là thể tướng của các pháp. Hoặc tự tướng, hoặc cộng tướng, hoặc tướng giả hợp, hoặc tướng nhân, hoặc tướng quả.

Thế nào là đạo lý? Là các duyên khởi cùng bốn đạo lý.

Thế nào là giả nêu bày? Là ở nơi chỉ có pháp giả lập Bổ-đặc-giàla (hữu tình). Và ở nơi chỉ có tướng, giả lập các pháp.

Thế nào là hiện quán? Nghĩa là sáu thứ hiện quán, như nơi địa có tầm có tứ đã nêu.

Lại nữa, kệ viết:

Phương sở vị phân biệt
Tạo nắm giữ tăng giảm
Minh ngôn sở giác thượng
Xa lìa chuyển giữ chứa.

Thế nào là phương sở? Là sắc uẩn.

Thế nào là vị? Là thọ uẩn.

Thế nào là phân biệt? Là tưởng uẩn.

Thế nào là tạo tác? Là hành uẩn.

Thế nào là nắm giữ? Tức là thức uẩn.

Thế nào là tăng thêm? Tức có hai thứ:

  1. Phiền não tăng.
  2. Nghiệp tăng.

Như tăng thêm có hai thứ, nên biết giảm bớt cũng vậy.

Thế nào là minh (tối tăm)? Là vô minh và nghi.

Thế nào là ngôn từ? Tức 12 phần giáo của chư Như Lai, gọi là ngôn từ.

Thế nào là sở giác? Là nghĩa của vô số ngôn âm được thuyết giảng.

Thế nào là thượng (trên)? Là bốn quả Sa-môn.

Thế nào là xa lìa? Tức là năm thứ xa lìa:

  1. Xa lìa hành ác.
  2. Xa lìa dục.
  3. Xa lìa các thứ vật dụng.
  4. Xa lìa mọi chốn ồn ào.
  5. Xa lìa phiền não.

Thế nào là chuyển? Là năm nẻo trong ba cõi.

Thế nào là giữ chứa? Là luyến tiếc về quá khứ, mong cầu nơi vị lai, tham đắm nơi hiện tại.

Lại nữa, kệ nêu:

Xét chọn cùng hiện hành
Thùy miên và tương thuộc
Các tướng thân tương ưng
Nêu nhận giữ thứ lớp.

Thế nào là xét chọn? Là một hành. Thuận câu trước. Thuận câu sau. Bốn câu. Câu vô sự.

Lại có pháp có sắc, pháp không sắc. Pháp có kiến, pháp không kiến. Pháp có đối, pháp không đói. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp hữu tránh, pháp vô tránh. Pháp có vị chấp trước, pháp không vị chấp trước. Pháp dựa vào tham đắm, pháp dựa vào xuất ly. Pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Pháp có hệ thuộc, pháp không hệ thuộc. Pháp nội, pháp ngoại. Pháp thô, pháp tế. Pháp kém, pháp hơn. Pháp xa pháp gần. Pháp có đối tượng duyên, pháp không đối tượng duyên. Pháp tương ưng, pháp không tương ưng. Pháp hữu hành, pháp vô hành. Pháp có dựa, pháp không dựa. Pháp nhân, pháp không phải nhân. Pháp quả, pháp không phải quả. Pháp dị thục, pháp không phải dị thục. Pháp có nhân, pháp không có nhân. Pháp có quả, pháp không có quả. Pháp có dị thục, pháp không có dị thục. Pháp có nhận giữ, pháp không nhận giữ. Pháp do đại chủng tạo, pháp không do đại chủng tạo. Pháp đồng phận, pháp bỉ đồng phận. Pháp hữu thượng, pháp vô thượng.

Lại có: Pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại. Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký. Pháp thuộc cõi Dục, pháp thuộc cõi Sắc, pháp thuộc cõi Vô sắc. Pháp học, pháp vô học, pháp phi học phi vô học. Pháp do kiến đạo đoạn, pháp do tu đạo đoạn, pháp không đoạn.

Lại có bốn duyên: Duyên nhân, duyên đẳng vô gián, duyên sở duyên, và duyên tăng thượng.

Lại có bốn nương dựa:

  1. Pháp là nương dựa, không phải là Bổ-đặc-già-la.
  2. Nghĩa là nương dựa, không phải là văn.
  3. Kinh liễu nghĩa là nương dựa, không phải là kinh không liễu nghĩa.
  4. Trí là nương dựa, không phải là thức.

Lại có pháp bốn vô lượng, pháp bốn niệm trụ, pháp bốn chánh đoạn, pháp bốn thần túc, pháp năm căn, pháp năm lực, pháp bảy giác chi, pháp tám chi Thánh đạo, pháp bốn hành tích, pháp bốn pháp tích, pháp Xa-ma-tha, pháp Tỳ-bát-xá-na, pháp Giới tăng thượng, pháp Tâm tăng thượng, pháp Tuệ tăng thượng, pháp Giải thoát, pháp Thắng xứ, pháp Biến xứ.

Các pháp như vậy là vô lượng vô biên, phải nên xét chọn.

Thế nào là hiện hành? Là các phiền não như triền.

Thế nào là thùy miên? Là các phiền não như tùy miên.

Thế nào là tương thuộc? Là sáu xứ nội, ở trong một thân nên biết lần lượt hỗ tương hệ thuộc.

Lại, các căn, cảnh, nên biết chủ thể giữ lấy, đối tượng được giữ lấy hỗ tương hệ thuộc.

Thế nào là gồm thâu? Là 16 thứ gồm thâu:

  1. Cảnh giới gồm thâu.
  2. Tướng gồm thâu.
  3. Chủng loại gồm thâu.
  4. Phần vị gồm thâu.
  5. Không cùng lìa gồm thâu.
  6. Thời gồm thâu.
  7. Phương gồm thâu.
  8. Một phần gồm thâu.
  9. Đủ phần gồm thâu.
  10. Thắng nghĩa gồm thâu.
  11. Uẩn gồm thâu.
  12. Giới gồm thâu.
  13. Xứ gồm thâu.
  14. Duyên khởi gồm thâu.
  15. Xứ phi xứ gồm thâu.
  16. Căn gồm thâu.

Thế nào là tương ưng? Nên biết tướng ấy lược có năm thứ:

  1. Cùng với tha tánh tương ưng, chẳng phải là tự tánh.
  2. Ở trong tha tánh, cùng với không trái nhau tương ưng, không phải là trái nhau.
  3. Ở trong chỗ không trái nhau, phẩm hạ trung thượng cùng với phẩm hạ trung thượng tự tương ưng, chẳng phải là phẩm khác.
  4. Ở trong phẩm hạ trung thượng, đồng thời tương ưng, chẳng phải là khác thời.
  5. Ở nơi đồng thời, đồng địa tương ưng, chẳng phải là khác địa.

Thế nào là nêu ra? Nghĩa là bốn thứ ngôn thuyết:

  1. Ngôn thuyết của kiếp.
  2. Ngôn thuyết của nghe.
  3. Ngôn thuyết của hiểu.
  4. Ngôn thuyết của biết.

Thế nào là nhận giữ? Tức là bốn thứ ăn (thực):

  1. Đoạn thực.
  2. Xúc thực.
  3. Ý tư thực.
  4. Thức thực.

Thế nào là thứ lớp? Là sáu thứ thứ lớp:

  1. Thứ lớp của lưu chuyển.
  2. Thứ lớp của chỗ tạo tác thành tựu.
  3. Thứ lớp của tuyên thuyết.
  4. Thứ lớp của sanh khởi.
  5. Thứ lớp của hiện quán.
  6. Thứ lớp của đẳng chí.

Lại nữa, kệ viết:

Sở tác và sở duyên
Cũng Du già chỉ quán
Tác ý cùng giáo thọ
Đức Bồ đề Thánh giáo.

Thế nào là sở tác (đối tượng tạo tác)? Tức tám thứ sở tác:

  1. Diệt nương dựa.
  2. Chuyển nương dựa.
  3. Biết khắp về đối tượng duyên.
  4. Hỷ lạc về đối tượng duyên.
  5. Đạt được quả.
  6. Lìa dục.
  7. Chuyển căn.
  8. Dẫn phát thần thông.

Thế nào là đối tượng duyên (sở duyên)? Là bốn loại đối tượng duyên:

  1. Đối tượng duyên hiện bày đủ khắp.
  2. Đối tượng duyên hành tịnh.
  3. Đối tượng duyên thiện xảo.
  4. Đối tượng duyên phiền não được tịnh.

Thế nào là Du già? Nghĩa là hoặc bốn thứ, hoặc chín thứ.

Bốn thứ Du già là: tín, dục, tinh tấn, phương tiện.

Chín thứ Du già là:

  1. Đạo thế gian.
  2. Đạo xuất thế gian.
  3. Đạo phương tiện.
  4. Đạo vô gián.
  5. Đạo giải thoát.
  6. Đạo thắng tiến.
  7. Đạo phẩm hạ.
  8. Đạo phẩm trung.
  9. Đạo phẩm thượng.

Thế nào là chỉ? Là chín thứ tâm trụ.

Thế nào là quán? Là hoặc quán ba sự, hoặc quán bốn hành, hoặc quán sáu sự sai biệt nơi đối tượng duyên.

Quán ba sự là:

  1. Quán hữu tướng.
  2. Quán tìm cầu.
  3. Quán dò xét.

Quán bốn hành là: Ở trong các pháp quán hành lựa chọn phân biệt, quán hành lựa chọn phân biệt cùng cực, quán hành tầm tư khắp, quán hành dò xét khắp.

Quán sáu sự sai biệt nơi đối tượng duyên:

  1. Quán nghĩa nơi đối tượng duyên.
  2. Quán sự nơi đối tượng duyên.
  3. Quán tướng nơi đối tượng duyên.
  4. Quán phẩm nơi đối tượng duyên.
  5. Quán thời nơi đối tượng duyên.
  6. Quán đạo lý nơi đối tượng duyên.

Thế nào là tác ý? Là bảy thứ tác ý, như tác ý biết rõ về tướng v.v… đã nói ở trước.

Thế nào là giáo thọ (chỉ dạy, trao truyền)? Là năm thứ giáo thọ:

  1. Giáo thọ về giáo pháp.
  2. Giáo thọ về chứng đắc.
  3. Giáo thọ về thứ lớp.
  4. Giáo thọ về thuận hợp.
  5. Giáo thọ về thần biến.

Thế nào là đức? Tức là vô lượng giải thoát, như nơi phần Câu đã nói.

Thế nào là Bồ đề? Là ba thứ Bồ đề:

  1. Bồ đề Thanh văn.
  2. Bồ đề Độc giác.
  3. Bồ đề Vô thượng.

Thế nào là Thánh giáo? Đó là:

-Trao truyền để quy y.

-Chế lập học xứ.

-Nêu bày về nói, nghe.

-Kiến lập thầy, trò.

-Luận vềThí.

-Luận về Giới.

-Luận về sanh thiên.

-Quở trách về lỗi lầm của dục.

-Chỉ rõ về lỗi lầm của dục.

-Hiển bày về pháp tạp nhiễm và pháp thanh tịnh.

-Chỉ dạy, dẫn dắt về nẻo xuất ly và xa lìa.

-Xưng tán công đức… cho đến nói rộng, có vô lượng vô biên pháp phẩm thanh tịnh.

Thế nào là gồm thâu tướng nghĩa của Thánh giáo? Ở đây:

Có pháp của chủ thể tu tập: Nghĩa là đối với các pháp thiện, chí chuyên tạo sự nối tiếp, tạo tác phương tiện siêng năng tu tập.

Có pháp của đối tượng tu tập: Đó là các pháp thiện hiện có.

Có pháp có lỗi lầm: Là pháp nên nhận biết khắp.

Có pháp có nhiễm ô: Là pháp không nên chấp trước. Là pháp nên điều phục đầu tiên. Là pháp nên đoạn trừ.

Có pháp chướng ngại: Là pháp trái nghịch với hiện quán cứu cánh.

Có pháp tùy thuận: Là pháp tùy thuận hiện quán cứu cánh.

Có pháp thuộc về chân như: Là pháp nên giác ngộ.

Có pháp thuộc về thắng đức: Là pháp nên dẫn phát.

Có pháp tùy thuận thế gian: Là pháp nên tập quen, nên đoạn, và đoạn các thứ đã hiện hành.

Có pháp đạt được cứu cánh: Là pháp tự nghĩa cứu cánh nên chứng đắc.

Thế nào là tướng xứ nên nhận biết nơi giáo pháp Phật? Nên biết ở đây, chỗ trụ của tất cả hữu tình có ba loại:

  1. Nhật biệt trụ.
  2. Tận thọ trụ.
  3. Pháp thiện khả ái sanh lần lượt trụ.

Loại thứ nhất do lực tăng thượng của ăn uống. Loại thứ hai do lực tăng thượng của mạng hành. Loại thứ ba do lực tăng thượng của việc ở nơi các pháp thiện không phóng dật.

Ở trong các pháp bất thiện, vô ký, cũng có pháp không phóng dật tương tợ. Như đối với sự việc sát sanh v.v… cùng trong oai nghi, công xảo v.v… nên phân xét kỹ để tạo tác. Nhưng đối với người không phóng dật của pháp thiện, cho đến có thể chứng đắc Bát Niết bàn ở trong hiện pháp, còn nơi hậu pháp thì sanh đến cõi thiện, nên có nhiều lối hành trì.

Lại nữa, dựa vào thế gian của hữu tình và khí thế gian, có hai thứ pháp, có thể thâu tóm hết thảy các thứ hý luận. Đó là pháp của chủ thể giữ lấy và pháp của đối tượng được giữ lấy nơi chỗ nương dựa kia.

Lại, nơi các thế gian lược có hai thứ tạp nhiễm căn bản, có thể dẫn đến tạp nhiễm không nghĩa không lợi. Đó là, ở nơi chân thật không hành giải đúng đắn và kẻ ấy trước hết là mong cầu vô nghĩa.

Lại, ngoài Chánh pháp, hoặc các Sa-môn hoặc các Bà-la-môn, lược có hai thứ tạp nhiễm căn bản. Đó là sức tăng thượng của thân kiến và tìm cầu theo chấp thường, chấp đoạn về ngã.

Lại, chúng hữu tình, lược có hai thứ các khổ căn bản. Đó là nơi pháp hữu lậu, hỷ ái cùng hiện hành với nguyện mong hiện có.

Lại có hai thứ pháp dạy khuyên, trao truyền của thầy và đệ tử, trái ngược nhau. Đó là các đệ tử không thể thâu nhận những lời chỉ dạy của thầy, và thầy thì kiến giải điên đảo, quen hành theo tà hạnh. Trái ngược với trường hợp này, nên biết tức là có hai pháp phẩm bạch.

Lại có hai pháp, có thể tạo trái vượt với cảnh giới chánh hạnh của thế gian và xuất thế gian. Đó là: Đối với quả không đáng yêu thích được tạo ra do phi pháp tăng thượng của chính mình, không có lo nghĩ, hối tiếc. Đối với tội lỗi đã tạo, không có hổ thẹn. Nơi các sự suy thoái trong hiện pháp, như bị kẻ khác trói giết v.v… không có nghĩ lo, hối tiếc. Đối với tội lỗi đã tạo, không có hổ thẹn. Trái với trường hợp này, nên biết tức là hai pháp phẩm bạch.

Lại có hai thứ kiến lập không điên đảo, có thể khiến cho hành giả ít dùng công dức nhưng an trụ nơi phạm hạnh, trọn không uổng phí:

Một là chánh lập học xứ. Nếu có trái vượt tức mắc tội lớn. Nếu không trái vượt tức sanh phước lớn.

Hai là chánh lập xuất ly, khiến kẻ trái vượt mau xuất ly trở lại.

Lại có hai pháp, có thể khiến cho người tạo tác đạt được tự lợi, lợi tha. Đó là:

  1. Người ở nơi xa lìa, tâm thường an định, trụ nơi pháp lạc hiện tại.
  2. Kẻ ở nơi ồn náo, có người đến cầu pháp, lúc nào cũng vì họ mà nêu giảng, có thể khiến cho Chánh pháp nối tiếp trụ lâu.

Lại có hai pháp, có thể khiến cho hữu tình, bên trong tác ý đúng đắn, bên ngoài nghe nhận âm thanh của người khác. Do hai nhân duyên đó, nên ở trong hiện pháp, nhập hiện quán về đế, hoặc khiến nơi vị lai các căn thành thục:

  1. Nơi pháp do nhân sanh, thông đạt đúng đắn về nhân.
  2. Đối với các kinh tương ưng với không, thâm diệu, tương tợ thâm diệu hiện có do Đức Như Lai giảng nói, như tất cả duyên tánh và các duyên khởi, tác ý tùy thuận, luôn luôn tư duy.

Lại có hai pháp, có thể khiến cho các Bổ-đặc-già-la căn tánh thành thục mau chứng đắc thông tuệ:

  1. Đối với việc dạy khuyên, truyền trao, xa lìa mọi thứ dua nịnh, dối trá.
  2. Các hành nơi thân ngữ ý, trước hết là chán lìa, lìa mọi thứ vui đùa, cười cợt.

Lại có hai pháp, khiến người đồng phạm hạnh ở một chỗ lần lượt đều được trụ nơi an lạc:

  1. Có thể nhẫn chịu sự bức não của kẻ khác.
  2. Tự mình không bức não kẻ khác.

Lại có hai pháp, khiến người đồng phạm hạnh ở một nơi chưa sanh tranh chấp thì ngăn chặn khiến không sanh, nếu đã sanh rồi thì khiến mau dứt bỏ, không còn tranh chấp, kiện tụng:

  1. Lần lượt cùng khởi tâm từ.
  2. Thọ dụng bình đẳng về vật dụng và giáo pháp.

Lại có hai pháp, mau chóng khiến tâm trụ nơi phạm hạnh thanh tịnh, chứng đắc Tam-ma-địa:

  1. Do lực tăng thượng nên nhớ giữ các việc đã nói đã làm từ lâu xa. Nếu có chỗ sai phạm, như pháp sám hối dứt trừ, nếu không sai phạm liền sanh hoan hỷ, ngày đêm theo học không chút biếng trễ.
  2. Vì lực tăng thượng, nên có thể nhận biết rõ, đúng về tất cả hành nghiệp nơi thân ngữ ý, đối với các thứ lỗi lầm trọn không vi phạm. Do nhân duyên ấy, nên cũng không sầu lo, hối tiếc, theo đấy sanh hoan hỷ, nói rộng cho đến tri kiến giải thoát.

Lại có hai pháp, có thể vượt khỏi mọi thứ khổ. Nghĩa là có thể vượt khỏi khổ não nơi các cõi ác, cùng có thể vượt khỏi khổ lớn của sanh tử:

  1. Thấy rõ một cách sâu xa về các lỗi lầm nơi vị lai của hiện pháp, nên xa lìa hành ác.
  2. Tâm thường an định, siêng năng, tinh tấn tu tập phần pháp Bồ đề.

Lại có hai pháp, có thể khiến người ở chốn xa lìa, tu tập đoạn trừ, đạt được trụ an lạc:

  1. Nơi các cảnh giới không sanh tạp nhiễm, không có tầm tứ xấu ác nhiễu loạn nơi tâm.
  2. Phàm chỗ ăn uống chính là vì lợi ích, tiêu hóa thích hợp, có thể tùy thuận đoạn trừ khiến thân điều hòa, an ổn.

Lại có hai pháp, khiến các Bí-sô khi tu tập phẩm thiện không suy tính hư dối:

  1. Nơi các căn, cảnh, theo chánh phương tiện, siêng năng tìm hiểu về pháp tướng.
  2. Biết thời, biết lượng, giảm thiểu ngủ nghỉ.

Lại có hai pháp, có thể hủy hoại tuệ học, tâm học tăng thượng:

  1. Kiến lập tà học trái vượt với chánh học cùng mang tâm do dự.
  2. Quyết định tăng ích, tổn giảm về tà kiến. Trái ngược với trường hợp này, nên biết tức là hai pháp phẩm bạch.

Lại có hai pháp, có thể khiến cho Bổ-đặc-già-la đã tích tập tư lương Bồ đề nhưng chưa nhập hiện quán, mau chóng nhập nơi hiện quán:

  1. Tư duy về chỗ suy thịnh của mình, người nơi quá khứ và hiện tại.
  2. Tác ý không điên đảo, siêng năng tu tập các pháp thuộc về hành đế.

Lại có hai pháp, khiến người hành quán trụ nơi phạm hạnh lìa cấu hết mực rốt ráo, mau chóng được viên mãn:

  1. Tu hiện quán về đế.
  2. Sau khi lìa dục, theo phương tiện siêng tu, nơi các đẳng chí không có ái vị, lìa mọi chướng nạn.

Lại có hai pháp, khiến cho người hành quán, chóng có thể dẫn phát tất cả thắng đức thế gian và xuất thế gian:

  1. Tâm trụ chín tướng.
  2. Do 6 thứ sự, dùng tâm chánh định xét chọn các pháp, như nơi địa Thanh văn sẽ phân biệt rộng.

Lại, người hành quán có hai thứ tịnh: Đó là tác ý tịnh và chỗ nương dựa tịnh. Ở trong ba đời xa lìa ngu si, đạt trí thanh tịnh, nên gọi là tác ý tịnh. Xa lìa pháp thô trọng nơi các phẩm phiền não trong ba cõi, nên gọi là chỗ nương dựa tịnh.

Lại có hai pháp, khiến các A-la-hán tâm khéo giải thoát, bên trong tự chứng đắc:

  1. Ở trong hiện pháp, nhân khổ vĩnh viễn dứt sạch.
  2. Do đấy, nên khổ nơi đời vị lai hoàn toàn không sanh.