DU GIÀ SƯ ĐỊA LUẬN LƯỢC TOẢN
Soạn giả: Sa-môn Khuy Cơ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

(Bản Luận 11, 12)

BẢN LUẬN 11

A. Giải thích ý nghĩa:

Trong mười bảy Địa, chín Địa trước thuyết minh cảnh ba Thừa, phân ra làm bốn phần:

1. Hai Địa đầu là Thể của Cảnh, vì tất cả đều lấy Thức làm tánh.

2. Ba Địa kế đó là Tướng của Cảnh, thô tế khác nhau.

3. Hai Địa kế đó là Dụng của Cảnh, vì Định và Tán hai thời khởi tác dụng.

4. Hai Địa sau cùng là Vị của Cảnh, vì Hữu tâm và Vô tâm hai vị riêng khác. Do Thể nương vào tướng mà có tác dụng của nó, vì địa vị thứ tự khác nhau mà lập Cảnh của chín Địa.

Thể của Cảnh có hai Địa, là Địa dễ biết và Địa khó biết lấy làm trước sau.

Tướng của Cảnh có ba Địa, là thô phẩm và tế phẩm lấy làm trước sau.

Dụng của Cảnh có hai Địa, là thắng phẩm và liệt phẩm lấy làm trước sau.

Vị của Cảnh có hai Địa, là hiển thời và ẩn thời. Đây là hai Địa sau cùng thuyết minh Dụng của Cảnh, tức là lấy thắng liệt mà làm trước sau. Đó là ý nghĩa của các Địa này.

B. Giải thích tên gọi:

Tiếng Phạm là Tam-ma-tư-đa, Hán dịch là Đẳng dẫn, Cựu dịch Tam-ma-đề là nhầm lẫn. Địa này có bảy tên:

1. Tam-ma-tư-đa, giải thích các câu luận giải, là Thắng định địa, là Bình đẳng năng dẫn lìa Hôn trầm, Trạo cử v.v… hoặc Dẫn bình đẳng, hoặc là do Bình đẳng dẫn phát, gọi là Đẳng dẫn địa. Quyển hạ này ghi: “Không phải đối với Tâm nhất cảnh tánh của cõi Dục, do chỗ dẫn của định Đẳng vô hối hoan hỷ an lạc này”, tức là lấy ba nghĩa để giải thích Đẳng dẫn là Đẳng năng dẫn, Dẫn bình đẳng và Phương tiện sở dẫn phát bình đẳng, cho nên Năng dẫn Sở dẫn đều bình đẳng. Tam-ma dịch là Đẳng, Tư-đa dịch là Dẫn.

2. Tam-ma-địa, Hán dịch là Đẳng trì. Tam-ma là Đẳng, Địa là Trì. Cựu dịch Tam-muội là nhầm lẫn.

3. Tam-ma-bát-để, Hán dịch là Đẳng chí. Tam-ma là Đẳng, Bátđể là Chí. Cựu dịch Tam-ma-bạt-đề là nhầm lẫn.

4. Đà-diễn-na, Hán dịch là Tĩnh lự. Cựu dịch nghĩa là Thiền cũng không chuẩn.

5. Chất-đa-ế-ca-a-yết-la-đa, Hán dịch là Tâm nhất cảnh tánh. Chất-đa là Tâm, Ế-ca là Nhất, A-yết-la là Cảnh, Đa là Tánh. Cựu dịch Nhất tâm là nhầm.

6. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ.

7. Hiện pháp lạc trụ.

Trong quyển 3 giải thích nghĩa của Đẳng trì, Tâm nhất cảnh tánh, Xa-ma-tha và Hiện pháp lạc trụ, trong các tên này, Đẳng dẫn Địa của nó có ba giải thích: Như thật nghĩa, thông với Hữu tâm và Vô tâm, chỉ có tất cả công đức tại Định vị. Ba nghĩa Đẳng dẫn, lý của nó thông nhau, tất cả Tán vị đều không phải trong Địa này. Danh mục của Tamma-địa là một Đẳng trì Tâm sở trong Biệt cảnh, thông nhiếp tất cả. Tâm nhất cảnh tánh trong Hữu tâm vị, thông với Định vị và Tán vị, như bốn câu phân biệt trước giải thích luận, nhưng các kinh luận, chỉ nói ngay chỗ thù thắng là Không, Vô nguyện v.v… gọi là Tam-ma-địa. Tam-mabát-để, là tên chung của tất cả Hữu tâm và Vô tâm, là chỗ có Định thể trong các Định vị, trong các kinh luận chỉ nói ngay chỗ thù thắng là năm Hiện kiến v.v… tương ưng các Định, gọi là Đẳng chí. Tĩnh lự thông với Hữu tâm và Vô tâm, Hữu lậu và Vô lậu, Nhiễm và Bất nhiễm, nương vào bốn Địa của cõi Sắc, không phải các Địa xứ khác, nhưng các kinh luận ngay chỗ thù thắng phần nhiều nói là Sắc địa có tâm công đức thanh tịnh, gọi là Tĩnh lự. Tâm nhất cảnh tánh, Thể tức là Đẳng trì, thông với nhiễm và tịnh, lấy Tâm nhất cảnh tánh để giải thích Đẳng trì, cho nên Xa-ma-tha chỉ có Hữu tâm vị, không phải Vô tâm, chỉ có Tịnh vị không phải Bất tịnh, chỉ có Định vị không phải Tán tâm. Hiện pháp lạc trụ, chỉ có bốn Tĩnh lự căn bản không phải Cận phần, tâm tịnh Vô lậu không phải Tán tâm và cõi Vô sắc, do Đẳng dẫn này thông nhiếp công đức Định vị của tất cả Hữu tâm và Vô tâm. Vì tổng thông rộng cho nên riêng lập tên Địa.

C. Nêu thể tánh:

Có ba sư giải thích, so sánh bốn câu đều rộng như Địa kia. Trong Địa này, trước hết kết những chỗ nói trước để phát sinh đầu mối của luận, sau y theo đó mà hỏi đáp. Trong đáp có ba đoạn: một là Tụng, hai là Giải thích, ba là Giải thích rộng nghĩa chúng tạp tối hậu, tức là nhập vào Tông yếu thứ năm của các kinh.

Trong Tông yếu đó, giải thích chỗ liệt bày dưới đây các kinh pháp tướng của tám giải thoát v.v…. Nghĩa chúng tạp của nó cũng giải thích nhiều nghĩa Tán tạp, vì đồng thời giải thích kinh, cho nên thành một môn. Trong An lập đẳng môn, chỉ giải thích Tĩnh lự, không giải thích Đẳng trì, Đẳng chí, dưới đây trong Tông yếu mới giải thích nó. Trong phần giải thích rộng có bốn đoạn: một là Tổng nêu, hai là An lập, ba là Tác ý và Sở duyên, bốn là Giải thích kinh.

Đoạn ba và bốn hợp chung thuyết minh cho nên làm thành bốn đoạn, trong tổng nêu có hai đoạn là nêu bốn môn và tùy giải thích riêng.

Tên gọi khác của bốn Tĩnh lự, quyển sao thứ trong phần trước đã giải thích, Phế lập và Tăng giảm như quyển 3 nói. Trong Đẳng trì có mười một môn, không giải thích môn thứ mười một, vì dễ hiểu. Lại nữa, Thanh văn địa mới giải thích bốn Tu định:

  1. Vì được Hiện pháp lạc trụ.
  2. Vì được Trí kiến.
  3. Vì được Tuệ phân biệt.
  4. Vì được Lậu tận.

– Năm Thánh trí:

  1. Tự thể trí.
  2. Bổ-đặc-già-la trí.
  3. Thanh tịnh trí.
  4. Quả trí.
  5. Nhập xuất định tướng trí.

Năm chi Thánh, là Hiện pháp lạc trụ làm bốn chi, nương vào quán sát kỹ duyên khởi pháp và vì đoạn trừ kết phược làm chi thứ năm. “Hữu nhân, Hữu cụ, Thánh chánh”, là năm thứ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, gọi là Hữu nhân; ba thứ Chánh kiến, Chánh tinh tấn và Chánh niệm gọi là Hữu cụ; bảy chi này cùng với Thánh chánh Tam-ma-địa làm nhân. Trong Đẳng chí có sáu môn, là tám Thắng xứ, mười Thiên xứ, Nhân, Giải, Giải thoát, đã giải thích sơ lược xong, không giải thích lại.

Trong Quyết Trạch v.v… giải thích bốn Vô sắc, vì không khác với giải thoát cho nên cũng không giải thích.

– Trong An lập môn thứ nhất, lấy năm môn phân riêng:

  1. An lập Đẳng dẫn địa.
  2. An lập Ly sinh hỷ lạc v.v…
  3. An lập Cái chướng.
  4. An lập Chi phần.
  5. An lập Biệt danh.

Trong An lập Địa, “do chỗ dẫn của Định đẳng vô hối hoan hỷ an lạc này”, là do tâm trì giới thì liền không có hối, vì không có hối cho nên hoan hỷ, vì hoan hỷ cho nên an lạc, vì an lạc cho nên chứng đắc Định, do đó Đẳng dẫn này không phải đối với cõi Dục, cũng không phải cõi Dục, đối với pháp hoàn toàn không có chánh quán sát kỹ.

– Trong An lập thứ hai có ba đoạn:

1. Dẫn kinh để nêu.

2. Tùy giải thích riêng.

3. Từ câu “Thế Tôn đối với phương tiện Vô lậu” trở xuống, giải thích Tam-ma-địa, cùng với vấn nạn trước và sau giải thoát. Dẫn Hỷ của Dục v.v… hiển thị chỗ lìa, chỗ chứng Chuyển y vô vi gọi là lìa.

Lại nữa, đối với người tu tập viên mãn năm pháp, hiển thị pháp Sở sinh do Chuyển y. Hoan hỷ đều lấy Hỷ thọ làm tánh, chỗ dẫn của Vô hối chính là vui thích thâm sâu. Lập hai sai biệt, An lạc đồng thời với Lạc thọ làm tánh, lìa chỗ dẫn điều hoà thông suốt của các thô trọng, chỗ dẫn hai thứ Lạc quả của điều hoà thông suốt. Lập hai sai biệt, tức là quyển trước ghi: “Ly sinh hỷ lạc”. Nhưng hai Thọ này đều vui thích, đều do Ý sinh, gọi chung là Hỷ, cho nên luận này chỉ nói Ly sinh hỷ. Nếu không như thế thì các văn liền thành trái nhau. Trong chỗ dẫn của Dục, không nói Xả, là chỗ dẫn xả của Dục mà không phải ưa thích, chán ghét Dục mà không phải chỗ đoạn. Bất thiện dẫn xả Bất thiện tánh, chính là chỗ đoạn, cho nên nói là bất đồng. “Hoan, là từ bản lai thanh tịnh, hành giả quán chỗ tu Tịnh hạnh v.v… của Tư lương địa”, trong đây có ý nói, Gia hạnh đạo vị mới tu Đẳng dẫn, do đó trụ Tư lương mới tu tịnh hạnh, trì giới thanh tịnh sinh Vô hối, hoặc khi tu Định thì các phương tiện xa trước, phải trước hết giới tịnh, gọi là Tư lương Địa, không cần nhập Vị mới tu Đẳng dẫn.

Trong giải thích vấn nạn trước và sau, có kinh nói không đồng:

  1. Trước nói Tam-ma-địa, sau nói giải thoát.
  2. Trước nói giải thoát, sau nói Tam-ma-địa.
  3. Nói cả hai đồng thời.

Từ trên đến đây, chỗ dẫn lìa năm ác pháp, trước nói giải thoát tu tập năm pháp, sau nói Tam-ma-địa. Kinh thứ hai trái với luận này, cho nên bây giờ giải thích. Trong luận này, Căn bản định gọi là Tam-mađịa, Đoạn phiền não và Phục phiền não gọi là Giải thoát, do trong Vô lậu phần nhiều nương vào Căn bản địa mà đoạn các phiền não. Trước nói Tam-ma-địa, sau nói giải thoát, là không phải không nương vào Cận phần để trước đoạn phiền não sau đó chứng đắc Căn bản địa. Trong Hữu lậu, phần nhiều nương vào Cận phần, lấy sáu Tác ý trước hết hàng phục phiền não, lấy quả của Gia hạnh cứu cánh tác ý thứ bảy mà nhập Căn bản địa, cũng có Tác ý thứ tám tại Cận phần địa làm giải thoát đạo, sau đó mới chứng đắc Căn bản. Trong luận này nói, do chứng quả Gia hạnh cứu cánh tác ý nên phiền não đã đoạn rồi, mới chứng đắc Căn bản Tamma-địa. Nếu không như thế thì liền trái với các thuyết của Đối Pháp luận. Tác ý thứ bảy tại Căn bản địa, trong câu “đồng thời”, Tác ý và Định đều là Vô lậu giải thoát, đều là đoạn Phiền não chủng, là Gia hạnh cứu cánh tác ý tại Vị chí định, chỗ dẫn quả tác ý nhập Căn bản định là ở trong Tam-ma-địa. Định này đồng thời là giải thoát đạo, vì chứng Vô vi giải thoát. Nói “Tam-ma-địa cùng với Vô vi đồng thời, là không phải Định của Gia hạnh cứu cánh tác ý đồng thời, gọi là Tam-ma-địa và các Vô gián đạo khác trong Tam-ma-địa”, đây là nói Tiền phương tiện tại Vị chí địa, nương vào Căn bản địa mà khởi Vô lậu Vô gián đạo, chỗ dẫn giải thoát đạo của hai Địa này đồng thời trong Tam-ma-địa, Hoặc năng đoạn này gọi là Câu giải thoát. Không phải “hai Hữu lậu Tác ý trước có thể chế phục Hoặc”, tức là nói các Vô gián đạo khác, Đạo này không đồng thời với chỗ dẫn giải thoát đạo của Tam-ma-địa, cũng không nhập Căn bản địa. “Vô lậu Hữu lậu đều gọi là Phương tiện”, chưa đắc quả mãn Vô học thì gọi là Phương tiện, vì nói đoạn Hoặc làm giải thoát, cho nên nói Sơ ly sinh hỷ, còn lại Định sinh hỷ v.v… có thể biết được rồi. Hoặc câu “đồng thời” này tức là Vô gián đạo của Vị chí địa, gọi là Tam-ma-địa, vì Địa này có thể giải thoát chướng, cho nên gọi là giải thoát, cũng với Thể của Tam-ma-địa và giải thoát ở trước không đồng, lấy làm câu “đồng thời”, vì chỗ mong khác nhau.

Trong An lập Cái chướng thứ ba, có hai thuyết minh:

  1. Thuyết minh Cái tướng.
  2. Thuyết minh Cái thực.

Cái tướng có hai đoạn: một là Nêu bày, hai là Giải thích riêng.

Trong Hôn trầm và Thuỳ miên cái:

  1. Giải thích riêng tướng.
  2. Hợp chung lập làm lý do của Cái. Không giữ căn môn v.v… như Thanh văn địa nói; tâm rất sơ suất, như Duy Thức nói.

– Trong Phân giải và hợp chung lập Cái:

1. Có hai chữ “lại nữa” để giải thích.

2. Kết thành nghĩa thuận nhau mà sinh. Trong Trạo cử và Ác tác cái:

3. Giải thích riêng hai tướng.

4. Phân giải và hợp chung lý do lập Cái. Trong Lý do có hai “lại nữa”: a. Phân tách xứ sở của Câu duyên, Thân thuộc v.v… đồng nhau, hợp chung lập một Cái. b. Phân giải Hành tướng tương tợ mà hợp chung lập Cái.

Trong phần riêng giải thích tướng Ác tác ở trước có ba thời:

1. Thời gian tại tục, hoặc nghĩ rằng ta vốn có chút ít duyên gì với xuất gia.

2. Thời gian mới xuất gia, hoặc là người nhân đó truy nhớ khi xưa chỗ đã từng trải qua.

3. Thời gian sau xuất gia, tướng của hiểu và hành tương tợ, văn cũng có ba đoạn.

Đối với Sự nên làm cho đến không nên làm và làm ngược lại. Giải thích hai thời đầu, là hối nên làm, không nên làm, khỏi phải làm và làm ngược lại, đều thông với thời gian tại tục và thời gian mới xuất gia, cho nên kế đó là trừ chỗ sinh Ác tác của sự truy nhớ hối hận ăn năn trước kia và sinh Ác tác sai biệt. Thứ hai giải thích chỗ khởi Ác tác trước khi xuất gia và sau khi xuất gia.

“Trừ chỗ sinh Ác tác v.v… của sự truy nhớ hối hận ăn năn trước kia”, là trừ chỗ khởi Ác tác trong thời gian tại tục. “Triền phược của Ác tác này cũng chưa xả được”, là chỗ khởi Ác tác trong thời gian mới xuất gia cũng chưa có thể xả. Sau đó “lại sinh ưu sầu luyến tiếc”, là chỗ khởi nhớ lại các sự trước kia đã từng vui đùa, đây cũng là xuất gia, lấy một loại Ác tác sai biệt sau. Trên đến đây có hai loại nhiếp Ác tác trong ba thời trước:

1. Tại tục Ác tác, là xứ của nó có thể khởi, cùng với cảnh giới của Trạo cử có thể đồng.

2. Xuất gia mới khởi Ác tác, thì hành tướng không nên khởi, cho nên gọi là Phi xứ ác tác.

Do đó luận quyển 3 tổng kết ghi: “Kế đó chỗ sinh Phi xứ ác tác trước và chỗ khởi Ác tác sau khi xuất gia, tuy cùng với xứ sở của Trạo cử không đồng, nhưng tướng thì tương tợ, không phải chỉ có đồng cảnh, Ác tác ưu luyến cùng với Trạo cử hợp chung mà lập Cái, không phải Thể của Trạo cử không có khắp trong các tâm nhiễm, nhưng hành tướng tăng trưởng thì Thời này không phải có. Nói Xứ không đồng, cho nên cùng lý không trái với Duy Thức.

Trong phần Nghi, “đối với Sư”, là đối với hai ngôi báu Phật và Tăng. “Đối với pháp”, là đối với Lý. “Đối với học”, là Hạnh. “Đối với hối”, là Giáo. “Đối với chứng”, là Quả. Tức là bốn pháp bảo Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Do đối với Tam bảo ôm lòng nghi hoặc, không thể dũng mãnh tiến nhập phương tiện Đạo đế, và chánh đoạn tịch tĩnh Diệt đế. Hoặc Phương tiện là Gia hạnh đạo, Chánh đoạn là Đạo đế, Tịch tĩnh là Diệt đế. Dưới đây thuyết minh Thực và Phi thực. Thực, nghĩa là nuôi lớn, sinh thêm duyên của Cái. Phi thực, là pháp đoạn diệt Cái. “Nếu người có thể đối với Phi thực này mà xa lìa tâm nhiễm v.v…”, đây là chỉ nêu ra nguyên nhân của tướng Tịnh diệu. Chín sự phiền não, như trong quyển 8 nói. “Pháp Quang minh, là như có một pháp tùy chỗ Thọ, chỗ Tư, chỗ Xúc của nó”, là Văn tư tu tuệ, như thứ tự phối hợp với nó mà quán sát các pháp, thông với ba tuệ trên. Lại nữa, “chứng Quán sát có thể trị Hôn trầm, Thuỳ miên, Hắc ám”, Chứng là tu pháp tuệ, là Xúc gặp trong Định gọi là Chứng, do pháp Quang minh, các tuệ Văn tư tu trừ Si và Nghi. Tại Tu vị có thể trừ Thuỳ miên, vì có thể hiển rõ các pháp tánh, gọi là pháp Quang minh lấy làm Phi thực. Tiếu (cười), là tùy chỉ có một. “Hoặc theo khai mở mà luận, hoặc theo hợp chung luận”, là hiển thị nói năng gọi là Khai luận, ẩn mật phỏng theo thí dụ mà nói năng, hợp lại khiến cho hiểu gọi là Hợp luận. Há miệng mà cười, khiến cho lộ răng, gọi là hiện xỉ, trong cổ họng phát ra tiếng gọi là Ách ách (tiếng cười).

Chín loại Trụ tâm, như quyển 30, Thanh văn địa, Đối Pháp luận quyển 10 giải thích “hữu duyên duyên khởi”, hữu duyên là Quả pháp, duyên khởi là Nhân pháp.

Trong An lập chi phần thứ tư, có ba đoạn:

  1. Nương vào Địa lập số.
  2. Thuyết minh phế và lập.
  3. Hỏi và phân rõ.

– Hợp chung lấy bảy môn phân riêng:

A. Giải thích tên gọi:

Chi là chi phần, như Giác đạo chi. Tát-bà-đa nói: “Định là Tĩnh lự, cũng là Tĩnh lự chi, ngoài ra là Tĩnh lự chi không phải Tĩnh lự”. Như thật nghĩa, là như bốn chi quân, vì mỗi mỗi đều đối trị. Xả niệm tri có ba thứ, nương vào Định vị đồng có thể trừ chướng, gọi là Nội đẳng tịnh, vì tịnh các chướng. Các tên gọi còn lại có thể hiểu.

B. Nêu thể:

Số tuy có mười tám, nhưng Thể chỉ có bảy loại: 1. Tầm. 2. Tứ. 3. Thọ. 4. Định. 5. Xả. . Niệm. 6. Tuệ. Định và Lạc của loại thứ nhất tức là Lạc thọ, không phải Khinh an; Biến hành có một là Thọ; Biệt cảnh có ba là Niệm, Định và Tue; Thiện có một là Xả; Bất định có hai là Tầm và Tứ. Do Nội đẳng tịnh, quyển 3 nói tức là Xả niệm chánh tri, cho nên số của nó chỉ có bảy số, càng không có thêm bớt. Chủng loại của ba Địa khác nhau, chỉ có tịnh Vô lậu đủ chi phần này, không phải Định nhiễm ô. Trong Định nhiễm ô, Câu-xá quyển 28 ghi: “Định nhiễm thứ nhất, không có Hỷ lạc, vì không phải lìa phiền não mà được sinh. Định nhiễm thứ hai, không có Nội đẳng tịnh, Định nhiễm kia làm chỗ nhiễu loạn của phiền não. Định nhiễm thứ ba, không có Chánh niệm tue, vì Định nhiễm đó làm chỗ mê loạn của nhiễm Lạc. Trong Định nhiễm thứ tư, không có Xả niệm tịnh, vì Định nhiễm đó làm chỗ nhiễm ô của phiền não”. Hiện tại luận này cũng có thể như vậy, có Tứ y địa, Vị chí định và hai Tĩnh lự đầu của nó đều trừ Lạc của nó, các Tĩnh lự khác đều có đầy đủ. Hoặc chỉ nương vào Căn bản, vì Định tue bình đẳng. Đối Pháp luận ghi: “Trong các loài Vô sắc không lập chi phần, vì tánh Xa-ma-tha một vị, cho nên năm Đoạn chướng khác nhau, ba Tĩnh lự đầu mỗi mỗi có năm Đoạn, Trừ có hai. Chỗ Trừ của bốn Tĩnh lự mỗi mỗi đều có bốn Trừ; sáu, năm, bốn chi phần là nguyên nhân tăng giảm. Trong Tĩnh lự thứ nhất không có Niệm tri xả, trong Tĩnh lự thứ hai gọi là Nội đẳng tịnh, Tĩnh lự thứ tư nêu tên Thanh tịnh, đều như quyển 3 giải thích. “Tĩnh lự thứ tư không lập Chánh tri”, là chỗ che khuất của Bất khổ lạc, tánh của minh ám và lợi độn trái nhau.

Hỏi: Định và Hỷ hai Tĩnh lự động phát khởi Hoặc có thể chướng gọi là Nội tịnh, bốn Định và Xả thọ chậm lụt, đã chướng Chánh tri, thì cũng Bất tịnh đúng không?

Đáp: Hai Định do Hỷ sinh phiền não, khiến cho chướng chung ba thứ gọi là Nội tịnh, bốn Định và Xả thọ, chỉ chướng Tue, không chướng Xả niệm, gọi là thanh tịnh. Hành tướng của Xả chậm lụt, chướng tue minh lợi, cho nên Định thứ tư không lập Chánh tri, không phải do khởi Hoặc chướng ngại Xả và Niệm, cho nên nói cả hai thanh tịnh.

Trong bảy Phế lập, quyển 3, Đối Pháp và kinh Thập Địa đều có ba Tầm tứ:

  1. Làm Đối trị hỷ lạc.
  2. Làm lợi ích Định.
  3. Làm Sở y.

Trong luận này nói bốn Tầm tứ làm Sở duyên của Thủ, là quán tùy theo Cảnh thích ứng để có thể đối trừ, Định làm Sở y, Hỷ thì lãnh thọ Sở đắc, Lạc thì trừ thô trọng. Tâm thọ thích khoái gọi là Hỷ, vui sướng bản thân gọi là Lạc, thô trọng tại thân, cho nên Lạc sinh thì thô trọng diệt, gọi là Trừ, không phải trừ Hoặc của cõi dưới. Trừ Hoặc của cõi dưới, chỉ có Tầm tứ, tức là hiển các kinh luận gọi là Lợi ích. Chi có hai nghĩa:

  1. Lãnh thọ Cảnh sở đắc.
  2. Trừ Chướng thô trọng.

Định thứ ba và Định thứ tư lấy Sở đắc của lãnh thọ, tức là trừ thô trọng càng không có riêng Thể, vì có đủ hai Năng cho nên các căn thích khoái xả thô trọng. Ân là Ân đức, tức là các chi này, đối với người tu Định đều có ân. Trong quyển 3 có nhiều câu “lại nữa”.

Trong giải thích tên gọi khác của An lập, có năm tên gọi:

  1. Tăng thượng tâm.
  2. Hiện pháp lạc trụ.
  3. Bỉ phần Niết-bàn (Niết-bàn của phần kia).
  4. Sai biệt Niết-bàn.
  5. Nêu các Thọ sự.

Văn phân làm bốn đoạn, đoạn thứ ba và thứ tư hợp chung lại phân biệt. Tăng thượng tâm, Thể của Định gọi là tâm, vì có thể nhiếp tâm; hoặc Sở y gọi là tâm, Định có thể nhiếp tâm. Sự Tăng thượng của tâm gọi là Tăng thượng tâm.

Trong Hiện pháp lạc trụ có ba giải thích:

  1. Giải thích Lạc.
  2. Giải thích Hiện pháp.
  3. Giải thích Vô sắc, không gọi là nguyên nhân.

Lãnh thọ hỷ lạc, là Hỷ lạc thọ. An lạc, là Khinh an. Xả lạc, là xả Thọ lạc. Thuận theo vui sướng thân tâm đều gọi là Lạc. Thân tâm Lạc, là chỗ vui thích khoái lạc. Lạc trụ, quyển 3 ghi: “Trói buộc tâm bên trong vì không chuyển lưu tán loạn”. Trụ có thể dẫn Lạc gọi là Tận lạc trụ, do đây mà Bồ-tát địa nói: “Hữu lậu Lạc, là sở trói buộc của ba cõi. Vô lậu Lạc, là thuộc về không trói buộc”. Luận này y theo thân tâm đều có bốn Lạc là Hỷ lạc, An lạc, Xả lạc và Thân tâm lạc. Bốn Tĩnh lự được gọi là Lạc trụ. Cõi Dục không có hai Lạc sau, cõi Vô sắc không có hai Lạc trước, cho nên tuy Lạc hiện tiền, nhưng không gọi là Lạc trụ. Lại nữa, Hỷ lạc là lạc của Sơ và Nhị thiền, An lạc là Đệ tam thiền, Xả lạc là lạc của Đệ tứ thiền, thân tâm lạc là lựa riêng với Phi lạc trụ của cõi Vô sắc. “Bí-sô ở A-luyện-nhã liền sinh lời chê rằng: Ta nay hỏi ông, tịch tĩnh giải thoát siêu Sắc và Vô sắc mà không thể nhớ v.v…” câu này có ý nói Vô sắc định gọi là Siêu sắc, Vô lậu định gọi là Siêu vô sắc, hai Định này gọi là Hiện pháp lạc trụ tịch tĩnh giải thoát, cho nên luận này nói Định vô sắc giới không phải Lạc trụ. Bốn Tĩnh lự của cõi Sắc gọi là Tịch tĩnh giải thoát, là Hiện pháp lạc trụ, vì Hiện hành phiền não đã đoạn một phần, Chủng tử thì chưa đoạn, sau đó sinh trở lại, vì không phải Quyết định, gọi là Bỉ phần Niết-bàn. Nói Vô lậu Tĩnh lự và Vị định, từ hai Định này cũng gọi là Bỉ phần Niết-bàn, cũng là Hữu vi, không phải Vô vi cứu cánh Niết-bàn, gọi là Sai biệt Niết-bàn, cũng là một phần đoạn. Tịnh định và một phần Vô lậu, chiết phục phiền não, gọi là Bỉ phần Niết-bàn. Đoạn Hoặc vô lậu không phải Vô vi cho nên gọi là Phi quyết định, là Bỉ phần Niết-bàn. Lại nữa, tánh Phi đoạn chứng Phi trạch diệt, có thể chứng Tĩnh lự cũng gọi là Bỉ phần Niết-bàn. Chân Niết-bàn thì gọi là Thử phần Niết-bàn. Giả Niết-bàn thì gọi là Bỉ phần. Bỉ phần có nghĩa là chủng loại tương tợ, Bỉ là giả chủng loại mà Chân là tương tợ, gọi là Bỉ phần Niết-bàn, cũng là Sai biệt của Niếtbàn, nên gọi là Sai biệt Niết-bàn.

Trong phần giải thích nêu Thọ sự thứ năm, có bốn đoạn, trước hết nêu bốn đoạn:

  1. Dẫn kinh chứng thành.
  2. Cùng với năm Thuận xuất ly giới triển chuyển tương nhiếp.
  3. Nhân theo giải thích kinh Lục Xuất Ly Giới.
  4. Giải thích lìa các tội lỗi gọi là Xuất ly y.

Trong đoạn thứ nhất “dẫn kinh chứng thành” có ba phần gồm: Nêu bốn Xuất ly, giải thích kinh Xuất Ly, hỏi đáp phân rõ.

Xuất ly có ba nghĩa là Bất hành, diệt thô trọng và lìa nhiễm: 1. Định lìa ưu, có ba nghĩa này. 2. Định lìa khổ, chỉ có nghĩa diệt thô trọng, vì nhiễm thứ nhất đã xả, nhiễm sau còn hiện hành. Ba lìa sau, có đủ nghĩa diệt thô trọng và nghĩa lìa nhiễm, không có Tương ly xả, phải đến giai vị Vô học, các vị khác thì gọi là phần ly, không được gọi là Ly.

– Trong giải thích kinh Xuất Ly có hai đoạn:

  1. Giải thích kinh Ly Ưu.
  2. Ví dụ Ly trong các kinh khác.

Như vậy đối với các chỗ tùy khác phải nên biết văn đó, đoạn văn thứ nhất có bốn đoạn. Thế nào là Tri tự? Tự là căn do, có thể phát Căn là Căn cảnh. Vô tri Chủng tử là vì người vô tri phần nhiều khởi ưu phiền, cho nên luận này gọi là Tự, nếu không phải nhiễm ưu thì cũng nói là do Si khởi. Lại nữa, Chủng tử phiền não đều có thể khởi ưu, vô tri làm gốc, nhưng nói Chủng tử kia do tánh của ưu căn bất thiện này, do Si mà bị tổn, lìa Dục thì liền xả, ngoài ra cũng tùy Vô (không có), vì vô tri diệt. Nếu có Phân biệt mà không phải Câu sinh, thì Ly dục cũng xả, vì ưu căn của Câu sinh làm bạn loại để xả.

– Trong vấn đáp có ba đoạn:

  1. Tướng của các căn.
  2. Thuyết minh Khổ căn.
  3. Giải thích Vô tướng.

Khổ căn trong Sơ tĩnh lự thô trọng cũng chưa đoạn, là do các ưu căn, vô tri v.v… dẫn khởi, khi Khổ căn kia lìa nhiễm thì tất cả đều không hiện hành, thô trọng cũng xả. Nếu đối với pháp Vô thượng hâm mộ hoặc sầu lo, thì cũng là Vô tri dẫn khởi, cho nên lìa Dục thì xả. Vì các Khổ căn không do Si dẫn khởi, vì lìa Dục cũng còn hiện hành. Thô trọng kia không có tánh kham nhậm thì hai Định mới diệt.

Hỏi: Khổ căn lìa Dục khởi thô trọng, Nhị thiền diệt Hỷ lạc lìa Xả địa dưới, thì thô trọng của Địa trên trừ chăng?

Đáp: Sở y của Khổ căn và Tầm tứ đều có trong Sơ định. Nhị thiền diệt thì Hỷ lạc Sở y không có dẫn riêng. Khi lìa nhiễm thì thô trọng mất, nếu Sơ tĩnh lự đã đoạn Khổ căn, thì đó là hành giả đã nhập Sơ tĩnh lự và Tĩnh lự thứ hai, lúc đó Sở tác của Thọ trụ sai biệt đáng lẽ không có v.v… Câu này có ý nói, Sơ định diệt Ưu, Nhị định diệt Khổ, do đây tuy có Hiện pháp lạc trụ mà thành sai biệt, nếu trong Sơ định đã diệt Khổ, thì Nhị định không có riêng Hiện pháp lạc trụ, đáng lẽ không có sai biệt. Kinh nói Tĩnh lự ra khỏi Thọ sai biệt trụ trở thành Sai biệt. Lại nữa, vì đây là đoạn Thọ có sai biệt. Tầm tứ của Sơ định không phải Tĩnh lự, vì thô trọng chưa đoạn diệt. Tịch tĩnh trong Nhị định, thì thô trọng mới đoạn diệt. Nếu trong Sơ định, Khổ căn đã đoạn, đây là riêng biệt đáng lẽ không có. Lại nữa, Vô tướng là chỗ nhập của Không định của người Vô học, gọi là Vô tướng tâm định, Hữu lậu xả Chủng tử, làm Phiền não phược, mượn gọi là Tùy miên, gọi là thô trọng, nhập trong Định này thì thô trọng đó bị đoạn. Hiện hành Vô lậu xả, mượn gọi là Hiện triền, trong Định cũng còn khởi, không phải các Thọ kia bị Phiền não nhiễm ô mà được có Tùy miên, ngay Tùy miên này gọi là thô trọng, không phải Vô lậu Thọ mà không có Chủng tử. Hỷ căn, Lạc căn và Xả căn này, nhưng nói nương các Địa trên, vì Địa tăng lên mà không phải pháp 22 nào khác.

“Cùng với năm Thuận xuất ly giới triển chuyển tương nhiếp”, văn có ba đoạn:

  1. Giải thích chữ Xuất ly.
  2. Giải thích vấn nạn.
  3. Giải thích kinh.

Do Dục khuể hại xuất ly, tức là nói cho đến Lạc căn xuất ly. Dục khuể hại có ba thứ, Tầm là chỗ xuất ly Bất tịnh từ bi, do ba Quán này tùy chỗ thích ứng của nó mà thông với bốn Định hữu, cho nên lìa bốn Thọ tức là ba Xuất ly. “Do Sắc xuất ly, tức là nói Xả căn xuất ly Tĩnh lự thứ tư”, đây là chứng đắc Không xứ định lìa Dục của cõi Sắc, tức là Xả căn xuất ly của Định thứ tư. “Do Tát-ca-da diệt”, tức là Vô tướng tâm định, lìa nhiễm của ba cõi, cuối cùng khi dứt hết thì gọi là Xả căn xuất ly của cõi Vô sắc. Từ đây về sau hai thứ hợp chung gọi là Xuất ly xả căn. “Nói Thuận xuất ly có những nghĩa gì”, trong đây có ý nói, Quán xuất ly của phàm phu hữu học, không phải lìa xuất ly, hiện tại ở đây nói năm Quán là người vô học, đã có thể xuất ly thì gọi là Thuận xuất ly, vì quả thuận với nhân xuất ly mà quán, không nói phàm phu hữu học. “Do khởi thử quán xuất ly đối với bỉ, là đã xuất ly dục của ba cõi, chứng đắc Vô tướng tâm định, làm cho Tát-ca-da diệt”, là nói cõi này. “Các xuất ly kia tuy lại đồng thời”, là ngay khi trừ Hại. “Phỏng theo đối trị có sai biệt”, là y theo tướng biệt hành và tiền phương tiện vị. “Trên đây chỉ có một loại đối trị”, là Định thứ tư xả, lìa sắc trừ nhiễm, chỉ quán đối với Không, một loại đối trị, cõi Vô sắc xả đối với thân tứ uẩn, riêng tu Không quán một loại đối trị, không đồng với ba Quán trước, Gia hạnh riêng tu hành tướng có khác nhau, tuy đồng thời đoạn nhưng riêng kiến lập ba loại đối trị, hai loại sau thì không như vậy, cho nên không có sai biệt. “Thế nào là mãnh lợi kiến v.v…”, trong giải thích kinh có hai mươi tám câu câu, mười ba câu đầu là Ly dục phương tiện đạo, các câu sau thì cùng với luận này trái nhau. Mười lăm câu sau chính là Ly dục đạo, kinh này có ý hiển thị do Gia hạnh trước ly dục đạo mà nhiễm ái của thân A-la-hán không hiện hành, các Hoặc không khởi, như hoa sen đỏ, nước không dính, cho nên khởi năm quán gọi là Thuận xuất ly.

Trong mười ba câu đầu, tám câu trước là không dính mắc Dục quán, năm câu sau là chán Dục quán, là do quán sát tác ý, đó là câu chung. Hai Tác ý dưới đây là câu riêng, vì muốn thẩm sát kỹ phiền não đoạn và chưa đoạn, lại càng khởi Tác ý để quán sát Sinh kia tùy thuận với tướng tịnh. Trong bảy Tác ý đó, tướng của quán sát Tác ý, ở sau đối trị tác ý quán sát, gọi là đối với Thắng sự tác ý; niệm niệm quán sát tiến tu đối trị, gọi là Tác ý công dụng nhanh mạnh, do đó luận này nói Tiền phương tiện đạo lìa nhiễm của ba cõi. Nói quán sát Tác ý, là Gia hạnh đạo của Gia hạnh cứu cánh tác ý. Do đây không nói Liễu tướng tác ý v.v… vì lìa Dục của cõi Dục. Lại nữa, Gia hạnh đạo của ba cõi là quán sát tác ý, nghĩa thì căn cứ theo riêng lìa Dục của ba cõi, vì có ba Vô gián đạo. Quán sát tác ý là lìa nhiễm của cõi Vô sắc, vì có Gia hạnh đạo trước. Luận này nói La-hán rốt ráo lìa Dục, vì khởi năm thứ Quán. Căn cứ theo văn từ đây về sau trong Chánh đoạn đạo, giải thích chính tâm đó là Thiện thệ, là khi tùy trụ Gia hạnh cứu cánh tác ý, đang đoạn các Hoặc, đang đắc Cứu cánh tâm diệu trụ đạo, tên đó là Thiện thệ. “Thế nào là Thiện tu? Là khéo tu tập các Tác ý khác, cho nên phải biết đây là nói những bậc Đoạn vị và Đoạn phương tiện đạo vị”, là khéo tu tập Gia hạnh cứu cánh tác ý vô gián đạo đoạn vị này và khéo tu Đoạn phương tiện đạo vị của Quán sát tác ý trước. Giải là lìa hiện hành, Thoát là lìa tướng trói buộc. Ly hệ là lìa Tùy miên, là ba thứ sai biệt. Có ba Đoạn này cho nên thô trọng tùy diệt theo. “Từ chỗ sinh các Lậu của các Dục duyên trừ dục tham”, trong Phương tiện trước đã chán khắp, là nguyên nhân để trừ nó. “Tổn hại và thiếu thốn”, sinh nẻo ác gọi là Tổn, thiếu thiện quả gọi là Quỹ. “Đối với giải thoát kia, siêu xuất ly hệ như thứ tự trước”, giải thoát Triền gọi là Siêu, giải thoát Sở duyên gọi là Xuất, giải thoát Tùy miên gọi là Ly hệ. “Là nương vào sẽ chứng đắc và chánh đắc Tùy niệm các Dục cảnh v.v…”, tức là vị lai, hiện tại và quá khứ, như các thứ tự cảnh giới Dục của nó.

– Giải thích văn của kinh Lục Xuất Ly Giới, có bốn đoạn:

  1. Dẫn chứng kinh giải thích.
  2. Thuyết minh riêng trừ Hành tướng.
  3. Giải thích vấn nạn.
  4. Giải thích năm Giới và sáu Giới sai biệt.

“Do đó Từ… đối với Khuể hại v.v… không phải chánh đối trị”, đây là hiển thị mới tu hành còn khởi Ngã mạn, nghi hoặc chưa trừ, vì khiến cho chiết phục, xả các tà chấp, cho nên kiến lập Giới này.

Trong riêng trừ Hành tướng có hai đoạn:

  1. Phỏng theo ba loại mà riêng trừ.
  2. Phỏng theo sáu hạnh mà riêng trừ.

“Quán sát rốt ráo chánh đạo lý cho nên kiến lập Hành thứ sáu”, chỉ có chỗ chấp Ngã không của Đế thật nhân quả, gọi là Chánh đạo lý, vì quán sát Chánh đạo lý này mà Mạn nghi liền diệt. 1. Khuể; 2. Hại; 3. Tật; 4. Si tham khuể.

Bồ-tát địa ghi: “Như kế đó là từ bi hỷ xả, bốn loại Đối trị”. Luận này nói Hỷ trừ Lạc, tức là Tật; Xả trừ Tham khuể. “Không nói Si”, vì cảnh Ái tắng không phải bình đẳng, đều ở trong đó mà khởi xả Hành.

Trong “chỉ nói trừ hai loại”, Cảnh thuận xả lược bỏ không nói, thật ra cũng trừ Si. “Nếu lìa Ngã mạn đối với tự giải thoát”, không chấp Ngã mạn, lìa mạn chấp mà chuyển, gọi là giải thoát; trong chỗ chứng Đế bảo v.v… thì liền không có nghi hoặc.

Giải thích nạn hại, nói “các Xuất ly định này có thể xuất ly tất cả Khuể v.v…”, là có vấn nạn rằng, tu Từ v.v… sáu môn, thì chỗ trừ quyết định lìa Khuể v.v… sáu loại, những gì trước đã nói do đó Từ v.v… đối với Khuể hại v.v… không phải chánh đoạn trừ”, luận này giải thích rằng, các xuất ly này, đến tu tập mãn vị, thì quyết định có thể xuất ly tất cả Khuể v.v… khi làm Phương tiện trước là tu bất thiện, cho nên tội lỗi của Khuể v.v… dung chứa có thể hiện hành. Do đây mà trước nói không phải chánh đối trừ. “Bốn loại trong phần thứ nhất là chỗ nhiếp của Thiên trụ v.v…”, là hai thứ Từ Bi nương chung với Thiền tu, gọi là Thiên trụ, nương riêng với Vô lượng tu, gọi là Phạm trụ.

– Trong giải thích lìa các tội lỗi gọi là Xuất ly y, có ba đoạn:

  1. Nêu Xuất ly y có bốn loại.
  2. Tùy riêng giải thích lý do của Hành tướng.
  3. Tổng kết được mất của bốn Chủng, bốn Thời.

– Đoạn văn thứ hai có hai phần:

  1. Nhân theo bốn người mà có kiến lập riêng bốn loại.
  2. Rộng giải thích Hành tướng.

“Nhân theo Siểm trá đó mà nói pháp là Y, không phải Sổ thủ thú v.v…”, là người có Siểm trá thì cho rằng sư là thù thắng, thấy tướng uy nghi mà liền y theo để học. Ở đây là khiến cho nương vào pháp, không nương theo người. Phải cùng với luận kia phân biệt quyết trạch tự mình mới chứng biết, không phải gần với người mà liền chứng biết. “Tức là trong đây lại có sai biệt”, là giải thích lại chữ Tứ y ở trước. Phật thuận theo thế tục có hai loại ngôn từ là nhân và pháp. Đây là khiến cho y theo pháp không y theo nhân, không thể nghe Phật tùy theo lời nói của người, đó cũng là Y nhân, Phật thuận theo ngôn từ của thế tục là không phải y theo chấp. Từ câu “pháp cũng có hai thứ” trở xuống, giải thích Y thứ hai. Do thuận theo thế gian mà thuyết văn tự để hiển rõ nghĩa lý, không phải chỉ nghe theo văn tự của thế gian mà liền thành rốt ráo, cho nên khiến cho y theo nghĩa. “Kinh của Phật thuyết, hoặc có liễu nghĩa v.v…”, đây là giải thích Y thứ ba, tuy khiến cho y theo nghĩa, nhưng không nên tùy theo Kiến thủ của mình làm thù thắng, mà y theo kinh liễu nghĩa. Liễu nghĩa có bốn thứ, như trong Biệt chương giải thích. “Thế Tôn hoặc có khi tuyên thuyết y theo Thú v.v…”, đây là giải thích Y thứ tư. Trời người nhân theo nói Thức, Niết-bàn nhân theo nói Trí, trong kinh liễu nghĩa vì người mới tu mà nói Thức, vì người tu lâu mà nói Trí. Có người nghe mới tu liền chấp làm cùng cực, hiện tại thì ngăn trách người này cho nên nói Y trí, vì nắm lấy cứu cánh.

Trong phần Kết thứ ba, “sơ lược y theo bốn Thời mất và không mất”, là khi đắc pháp thì y theo pháp Trí mà sinh, không y theo nơi người, khi nhậm trì nghĩa, thì có thể là Văn trì, không phải văn nghĩa trì Đà-la-ni. Khi quán sát nghĩa thì nương vào liễu nghĩa, không phải bất liễu nghĩa, vì nghi trí sinh; khi pháp tùy pháp hạnh, thì pháp là Diệt đế, Tùy pháp là Đạo đế; khi tu Xuất ly đạo, thì y theo Trí không y Thức. Bốn Y trên đây, từ Hạnh đầu đến Hạnh cuối, từ thô tu tập đến tế tu tập, rốt ráo thành tựu tròn đầy, thứ tự như vậy.

“Lại nữa, đã nói An lập thì phải biết đối với An lập này v.v…”, là bài tụng năm môn trước nói: “Tổng nêu cùng với tướng An lập Tác ý sai biệt, nhiếp tông yếu tối hậu của các kinh nhiều tạp nghĩa, đã giải thích Tổng nêu và An lập. Đoạn thứ ba sau đây hợp chung giải thích hai môn Tác ý và Tướng. Trong đây, Sở duyên tức là Tướng, văn phân làm ba đoạn:

  1. Nêu duyên khởi.
  2. Giải thích riêng.
  3. Phân tích chung.

– Trong giải thích riêng, có hai giải thích: a. Giải thích Tác ý. b. Giải thích Sở duyên.

– Trong giải thích Tác ý có ba phần:

  1. Nêu riêng bảy Tác ý và bốn mươi tên Tác ý.
  2. Giải thích riêng hành tướng của bốn mươi Tác ý.
  3. Lấy bảy Tác ý cùng với bốn mươi Tác ý nhiếp nhau.

Tướng của bảy Tác ý như quyển 33 sau, có ba chữ “lại nữa” giải thích tướng của nó, cùng với bốn Đối trị nhiếp nhau, Đối Pháp quyển 9 cũng vậy. Quyển 28 và 29 nói, bảy Tác ý cùng với bốn Tác ý có ba loại Du-già nhiếp nhau, đều rộng như quyển đó, sợ văn nhiều không nói ra đây.

– Bốn mươi Tác ý phân làm mười hai loại:

  1. Giáo và Nghĩa.
  2. Bốn Niệm trụ.
  3. Giả và Thật.
  4. Phàm Thánh ba loại.
  5. Đoạn sơ trung hậu ba loại.
  6. Quán và Chỉ hai loại.
  7. Hữu và Không hai loại.
  8. Tu chứng Lìa nhiễm sáu loại.
  9. Bốn Đạo.
  10. Bốn Vị tu.
  11. Bốn loại Tue và Định, lìa chướng mà chứng đắc tự tại.
  12. Bốn loại nhân quả của ba Thừa.

Tất cả Tác ý, bốn loại đầu làm một nhân chung, tám loại sau chỉ có tại Hữu học và Vô học, làm một nhân riêng. Thể của Tác ý này tức là Biến hành tâm sở, khi tu Định tue thì dụng của Tác ý tăng thêm. Đối Pháp luận ghi: “Tác ý tăng trưởng lợi ích, là khéo thuận với Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na”. Nhưng hiện tại trong luận này, khi tu Định thì Tác ý rất thù thắng. Đối Pháp luận cũng ghi: “Tác ý, là đối với một Cảnh trì Tâm khiến cho trụ”. Đối với Đẳng dẫn địa, thuyết minh bốn mươi Tác ý, tuy Tác ý này thông với Định và Tán, nhưng phần nhiều y theo Định vị kia mà tu. “Duyên pháp, là Văn tue; duyên nghĩa, là Tư tu”, là mỗi mỗi đều nương vào nhiều duyên, không phải Cảnh chỉ có như vậy, Văn ít duyên nghĩa, thì Tu cũng duyên theo giáo. “Thắng giải tác ý”, Đối Pháp luận quyển 11 nói, là Tác ý của thế gian. “Chân thật tác ý”, Đối Pháp luận nói là Tác ý xuất thế gian và từ đây về sau chỗ chứng đắc Tác ý tức là Bản trí và Hậu trí”. Trong đây nói “lấy Tự tướng và Cộng tướng để tư duy các pháp”, tức là Hậu đắc trí; “Duyên lý Chân như”, tức là Căn bản trí. Biến tri tác ý, là viễn Gia hạnh đạo; Chánh đoạn tác ý, là cận Gia hạnh đạo và Vô gián đạo đã đoạn Tác ý, là hai đạo còn lại, Hữu phân biệt đạo và Vô phân biệt đạo. Ảnh tượng tác ý, là Cảnh của thể phân biệt, tức là Tâm và Tâm sở của ba cõi, vì phân biệt gọi là pháp nhiếp ba cõi. Trong năm pháp, thì Tướng gọi là Phân biệt của Phân biệt. Hai Tác ý này thì Cảnh và Thể là một, Quán và Chỉ riêng biệt cho nên phân làm hai loại. Đối Pháp quyển 11 ghi: “Có Sở duyên của Ảnh tượng phân biệt, là Cảnh sở duyên Thắng giải tác ý của Định, Tue. Không có Sở duyên của phân biệt Ảnh tượng, là Cảnh sở duyên Chân thật tác ý của Định, Tue”. Luận đó nương vào Chỉ quán của Hữu lậu tác ý, gọi là Hữu phân biệt ảnh tượng, vì thể là hư vọng phân biệt, không có Chỉ quán thì gọi là Vô phân biệt ảnh tượng, vì thể không phải hư vọng. Trong đây y theo Cảnh sở duyên gọi là thể phân biệt. Năng duyên Chỉ quán phân thành hai loại, cho nên không trái với biên tế của sự. “Sở tác thành biện”, trong Đối Pháp luận và quyển 2 dưới đây trái nhau, sau sẽ giải thích Sở duyên tác ý của sự biên tế. “Sở duyên tác ý của Sở tác thành biện”, luận này có hai giải thích, một là giải thích đồng Đối Pháp. Đồng Đối Pháp thứ nhất là Tận sở hữu tánh và Như sở hữu tánh, Tận sở hữu tánh là các pháp thể sự của Uẩn Giới Xứ, vì chỉ có như vậy. Như sở hữu tánh, là mười sáu hạnh Chân như của bốn Thánh đế, tất cả Hành vô thường, tất cả Hành là khổ, tất cả pháp Vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh, Không, Vô nguyện, Vô tướng, các Hành này chỉ có Đế lý, hoặc lấy Đế môn, hoặc lấy Hạnh môn, hoặc lấy các pháp Ôn-đà-nam môn, hoặc lấy giải thoát môn, đối với Uẩn Giới Xứ trước mà lấy nghĩa sai biệt để biết rõ đạo lý, gọi là Như sở hữu tánh. Thể của Sở tác thành tựu tức là Chuyển y, tức là hiển thể thứ nhất, Tận sở hữu tánh chỉ có Hậu đắc trí, thông với Bản hậu trí. Sở tác thành tựu, tức là hai loại Chuyển y của Bồ-đề và Niết-bàn. Trong đây Sở duyên của sự biên tế là thân thọ tâm pháp, tức là Tận sở hữu và Như sở hữu. Sở tác thành biện tức là hai Chuyển y, nói “Ta tư duy như vậy như vậy”, là Hậu đắc trí duyên pháp tự tánh. Hoặc “Ta tư duy như vậy như vậy”, là Hậu đắc trí duyên pháp sai biệt. “Phải có như vậy như vậy”, là Căn bản chứng tự tánh. “Phải phân rõ như vậy như vậy”, là Vô phân biệt trí chứng sai biệt, tuy Chân như tánh không phải pháp sai biệt, do Gia hạnh làm hai hạnh riêng, chánh trí tùy theo ấn chứng nó, cũng nói là hai. Hoặc “Ta tư duy như vậy như vậy”, là nhân của Bản trí. “Phải có như vậy như vậy”, là quả của Hậu đắc trí. “Phải phân rõ như vậy như vậy”, là quả của Bản trí. Trên đây là tổng hiển Chuyển y của Bồ-đề, Sở duyên thanh tịnh là Chuyển y của Niết-bàn. Giải thích này tuy thuận với Đối Pháp luận, nhưng không thuận với luận dưới đây cùng với bảy thứ tương nhiếp. Quyển 2 giải thích: “Luận này cùng với chỗ mong của Đối Pháp luận không đồng”. Sự biên tế, là duyên hiện tại thân thọ tâm pháp sự biên tế. Sở tác thành biện, là Sở tác hiện tại phải phân rõ sự lý. Sự lý này có ba loại:

1. “Ta tư duy như vậy như vậy”, là Sở duyên của tán tâm; hoặc “ta tư duy như vậy như vậy”, là Sở duyên định tâm, vì tán tâm tư duy, cho nên rốt ráo phải có như vậy như vậy; quyết đoán quả thành tựu này, vì khởi định tâm tư duy, cho nên rốt ráo phải phân rõ quyết đoán quả thành tựu.

2. “Tư duy như vậy như vậy”, là Tướng duyên bản chất, do tư duy này mà phải có như vậy như vậy quyết đoán quả thành tựu này; “Ta tư duy như vậy như vậy”, là Tướng duyên Ảnh tượng, do tư duy này cho nên phải phân rõ như vậy như vậy quyết đoán quả thành tựu.

3. “Ta tư duy như vậy như vậy”, là duyên pháp tự tánh, do tư duy này, cho nên phải có như vậy như vậy quyết đoán quả thành tựu này; hoặc “Ta tư duy như vậy như vậy”, là duyên pháp sai biệt nghĩa, do tư duy này, cho nên phải phân rõ như vậy như vậy quyết đoán quả thành tựu.

Trên đây tổng nêu Hữu vi thành biện, tuy trái với Đối Pháp luận, nhưng cùng với quyển sau nhiếp nhau, văn thuận nhau. “Và duyên sở duyên tác ý của thanh tịnh”, câu này có hai giải thích:

a) Duyên Chân như tác ý.

b) Duyên Vô lậu tác ý này, vì lấy làm Sở duyên, cho nên nói rằng duyên sở duyên tác ý của thanh tịnh.

Thắng giải tư trạch tác ý, là tối sơ tư duy chọn lựa các pháp, đây là Tư tue. “Xa-ma-tha mới làm thượng thủ”, là nương vào Thắng giải tư trạch của Đẳng dẫn vị. “Tịch tĩnh tác ý, là tối sơ an tâm bên trong”, đây là Đẳng trì an tâm của Tư tue vị. “Tỳ-bát-xá-na mới là thượng thủ”, là chỗ tu Đẳng dẫn của Tu tue vị. “Do Thắng giải tư trạch tác ý cho nên tịnh tu trí kiến”, là Tue phương tiện, vì tue thành mãn. “Do Tịch tĩnh tác ý mà sinh trưởng khinh an”, là định làm phương tiện, vì định thành mãn. “Do Nhất phần và Cụ phần tu tác ý cho nên trong các sự trói buộc mà tâm được giải thoát, do Vô gián ân cần tôn trọng tác ý mà trong các kết tâm được giải thoát”, là năm Cái và chín Kết, thật ra thông với Chủng tử hiện tại, tướng hiện hành tăng trưởng. Luận này nói thiên về Cái, vì Chủng tử khó đoạn, tướng của nó chìm sâu và vi tế, luận này nói thiên về Kết, cho nên nói riêng đoạn. Đối trị tác ý nhiếp Vô gián giải thoát đạo, thuận với thanh tịnh và quán sát, hai Thắng tấn đạo gần biên tế, hoặc Thanh tịnh trí không phải bốn đạo nhiếp. Sáu Tùy niệm, là niệm Phật, pháp v.v… như kinh Bồ-Tát Địa nói. Tự nhiên vận chuyển tác ý, là trong bốn thời:

1. Thời đắc tác ý, trong tương nhiếp dưới đây, là đắc thời đắc Tác ý thứ sáu và thứ bảy, lìa phẩm nhiễm thứ chín, Vô gián giải thoát đạo.

2. Thời đang nhập và đã nhập Căn bản định, đây là hai thời trước là Kiến đạo và Tiền phương tiện.

3. Thời tu hiện quán, là do Tiền phương tiện, được nhập Kiến đạo và Tu đạo. Người tu đối với thời thứ tư của hiện quán, là A-la-hán vị, đang đắc là Vô gián đạo, đã chứng đắc là giải thoát đạo.

Thứ ba, bảy Tác ý và bốn mươi Tác ý nhiếp nhau, trong đó hợp chung lấy năm môn phân riêng.

4. Trước hết là phân rõ tướng của bảy Tác ý. Liễu tướng tác ý, có thể hiểu rõ tướng thô của Địa cõi dưới và tướng tĩnh của Địa cõi trên. Tác ý thứ nhất này, Văn và Tư cũng còn tạp, từ đây về sau chỉ thuần tu tướng, niệm niệm tư duy tướng thô và tướng tĩnh này, gọi là Thắng giải ý, vì do huân tập Ý này, đầu tiên là Đoạn đạo sinh khởi, Đoạn đạo kia đồng thời với Tác ý, gọi là Viễn ly tác ý, cho nên các thượng phẩm Phiền não và thô trọng Phiền não đều đã đoạn. Lại nữa, công đức của huân lạc cõi trên đoạn, Kiến cõi trên đoạn, đã tiếp xúc phần ít xa lìa Hỷ lạc, để trừ Hôn trầm và Thuỳ miên. Lại luôn luôn tu tập Tĩnh diệu tác ý, vì ưa thích tâm đó, gọi là Nhạo tác ý, hành giả như vậy là chỗ trì giúp phương tiện thiện phẩm, khiến cho các phẩm trong cõi Dục trói buộc, chỗ nhiếp phiền não triền cấu không hiện hành trở lại. Do đây vì muốn thẩm sát phiền não đoạn và chưa đoạn, lại khởi ý quán sát, ý kia tùy thuận với tướng tĩnh, gọi là Quán sát tác ý, như vậy hành giả luôn luôn quán sát, tiến tu đối trị, vì khiến cho tất cả phiền não của cõi Dục tạm thời được lìa trói buộc. Đối trị đạo này tương ưng với Tác ý, đó là tối hậu Gia hạnh của Sơ tĩnh lự, gọi là Gia hạnh cứu cánh tác ý. Do đây hạ phẩm phiền não của cõi Dục, tất cả đều không hiện hành, từ Vô gián này mà chứng đắc tối sơ Tĩnh lự căn bản. Tối sơ tĩnh lự đồng hành với Tác ý, gọi là Gia hạnh cứu cánh quả tác ý. Trong đây đoạn thượng phẩm Hoặc đạo, khởi đầu có khó khăn.

5. Tác ý làm Gia hạnh. Đoạn các hạ phẩm sau, các Địa đầy đủ cũng khó, vì không phải mới tu:

6. Tác ý làm Gia hạnh, phẩm trước Vô gián, có thể có nghĩa phẩm sau là Gia hạnh. Ba phẩm trong Đoạn, không nói Gia hạnh, phẩm sau Vô gián, có thể có nghĩa phẩm trước là giải thoát đạo. Không nói đoạn sáu phẩm trước, cũng có giải thoát đạo, đoạn ba phẩm sau, vì Địa đầy đủ thì nhập Căn bản. Nói Tác ý thứ bảy làm giải thoát đạo, rộng nói như trong Đối Pháp quyển 9. Dưới đây quyển 33 ghi: “Bảy Tác ý này là một loại của Liễu tướng, thông với Văn tue và Tu tuệ, còn lại sáu

Tác ý thì chỉ có Tu tue, vì Liễu tướng tác ý nhiếp Duyên pháp tác ý, vì Duyên pháp tác ý là Văn tue”. Lại nữa, quyển 33 ghi: “Vì đều là Địa của cõi trên, cho nên không thông với Tư tue”, có nghĩa chỉ là Tu tue. Nhưng ban đầu cũng làm Văn tư xen tạp, mà Thể không phải Văn tư. Quyển 33 ghi: “Vì Định của Sơ tĩnh lự, có bảy loại Tác ý, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ định, phải biết mỗi mỗi đều có bảy loại Tác ý, vì trong cõi Vô sắc không có Văn tue, cũng không phải chưa chứng đắc Căn bản địa, ban đầu liền khởi Văn tue.

5. Lậu và Vô lậu phân biệt. Quyển 80 ghi: “Đều thông với Hữu lậu và Vô lậu”.

6. Hữu học v.v… có ba Phân biệt. Thứ nhất và thứ bảy thông ba loại, năm thứ còn lại chỉ thông hai loại đầu, có nói trong phần tương nhiếp ở sau.

7. Bốn Đạo phân biệt. Hai Tác ý đầu và Tác ý thứ năm thông với Gia hạnh thắng tấn đạo. Viễn ly tác ý chỉ có Vô gián đạo. Nhiếp lạc tác ý thông với bốn Đạo. Gia hạnh cứu cánh tác ý thông với Vô gián thắng tấn đạo. Tác ý thứ bảy thì chỉ có giải thoát đạo. Đây là y theo Nhị thừa tu tập bốn Đạo. Tất cả Gia hạnh Vô gián v.v… của các phẩm sau, đều là Thắng tấn đạo của các phẩm trước. Bồ-tát thì không như vậy, từ sát-na dung chứa đủ bốn đạo, nghĩa căn cứ theo đó mà biết. Luận này y theo Liễu tướng thắng giải của các Địa, cho nên thông với Thắng tấn đạo mà dẫn sinh Vô gián. Quán sát tác ý cũng thông với Gia hạnh, Vô gián của phẩm sau là Thắng tấn của phẩm trước. Nói Tác ý thứ sáu cũng thông với Thắng tấn đạo, nương chung chín Địa mà phân rõ thật nghĩa của bảy Tác ý là như vậy. Quyển 2 ghi: “Liễu tướng thắng giải thuộc về Gia hạnh đạo, Viễn ly tác ý và Gia hạnh cứu cánh tác ý thuộc về Vô gián đạo, Nhiếp lạc tác ý thuộc về bốn Đạo, Quán sát tác ý thuộc về Thắng tấn đạo”, đây là y theo mới lìa nhiễm cõi Dục mà riêng lìa nhiễm của cõi trên. Gia hạnh đạo là nói y theo Dung dự thắng tấn, không nói Vô gián của phẩm sau là Thắng tấn đạo của phẩm trước, cho nên Gia hạnh cứu cánh Tác ý chỉ có Vô gián. Quán sát tác ý, là nương vào đoạn trung phẩm mà tấn Tu đạo. Nói chỉ có Thắng tấn đạo, không nói về sau làm Gia hạnh đạo, cũng không trái nhau. Tác ý thứ bảy làm giải thoát đạo, căn cứ theo nghĩa đó mà biết, cho nên luận không nói.

8. Tiếp theo là tương nhiếp của ba sư Du-già gồm có: mới tập Nghiệp; đã tập Hành và vượt qua Tác ý.

Mới tập nghiệp có hai loại:

a) Người mới tập nghiệp đối với Tác ý, là an trụ một duyên, siêng tu Tác ý, cho đến chưa đắc, chỗ tu Tác ý chưa có thể xúc chứng Tâm nhất cảnh tánh.

b) Người mới tập nghiệp làm tịnh phiền não, là đã chứng đắc chỗ tu Tác ý, đối với các phiền não, muốn tịnh tâm đó mà chánh siêng tu tập Liễu tướng tác ý.

“Người đã tập hành Du-già Sư”, là năm Tác ý đã khéo tu tập. Du-già Sư vượt qua Tác ý , là trụ Tác ý thứ bảy vượt qua chỗ tu Trụ, tu quả của Gia hạnh phương tiện, cho nên chỉ có ba loại Du-già Sư này. Quyển 28 cũng ghi: “Thuận giải thoát phần gọi là mới tập Nghiệp, Thuận quyết trạch phần gọi là đã tập Hành, sau Đế hiện quán gọi là vượt qua Tác ý, tức là hiển Liễu tướng tại giải thoát. Kế đó là năm Tác ý tại Thuận quyết trạch phần, Tác ý thứ bảy tại sau Đế hiện quán”. Nếu nói như vậy, là lấy Hữu học v.v… ba loại trong bốn mươi Tác ý văn nhiếp nhau, nhưng trái với bảy loại Tác ý đều thông với Hữu học. Tác ý thứ nhất và thứ bảy thông với Vô học, do đây cho nên biết ba loại Du-già Sư, riêng y theo Vị mà phối hợp, cùng với nghĩa sai biệt của bảy Tác ý nhiếp nhau, hai môn tự riêng biệt, không thể lấy ba loại Du-già Sư cùng với bảy Tác ý nhiếp nhau, liền hiển bảy Tác ý có ba Vị cũng không đúng, không thể đối với điều này mà sinh phân biệt lung tung. Nhưng ba loại Du-già Sư, trong quyển 28 tổng phối hợp với bảy Tác ý, không y theo ba Vị mà phối hợp với bảy Tác ý, như tại Phi học và Phi vô học có đủ bảy Tác ý, tại Hữu học vị và Tư lương đạo có đủ tu bảy Tác ý, trước hết nương vào Thế gian đạo, nhanh chóng lìa nhiễm cho nên cũng có Tư lương đạo, không tu bảy Tác ý, không tu Định, trong Gia hạnh đạo mới đủ bảy Tác ý, tiến đến lìa chín phẩm nhiễm của cõi Dục, sau khi đắc Hiện quán cũng khởi bảy Tác ý, tiến đến lìa nhiễm của các Địa trên.

Đã phân tích bảy Tác ý, sẽ phân rõ bốn mươi Tác ý nhiếp nhau. “Liễu tướng nhiếp Duyên pháp và Duyên nghĩa”, câu này có hai giải thích:

1. Liễu tướng thông với Văn tư tu, cho nên có hai loại:

a) Liễu tướng chỉ có Tue, đây là nói mới khởi tu, cũng duyên đối với pháp, cho nên nói nhiếp hai loại.

b) Trước nói Duyên pháp, chỉ là Văn tue, ở đây thì nói chung với Tu tue, trước là hẹp, sau là rộng, không trái nhau.

2. “Liễu tướng tác ý, Thắng giải tác ý và Cứu cánh quả tác ý, ba loại này nhiếp chung với Thắng giải chân thật tác ý”, là Liễu tướng thông với mới tu và tất cả sơ học của Vô học, phần nhiều chỉ có Thắng giải. Tu của Vô học v.v… phần nhiều là Chân thật, Thắng giải đã làm cận Gia hạnh đạo, lý thì thông với Giả và Thật.

Cứu cánh quả tác ý trong Căn bản địa, tất cả Thời, Vị, Giả, Thật đều là lý chung. “Quán sát tác ý chỉ nhiếp Thắng giải”, là trong đó ba phẩm Thắng tấn đạo, trước hết là mượn để giải thích Tu, không nói thông với Thật, vì Gia hạnh lý sau đó cũng thông với Chân. “Còn lại ba Tác ý chỉ nhiếp Chân thật”, vì Vô gián đạo phần nhiều là quán Chân. “Đây là ngay các môn trước, các môn khác thì phải biết là tùy ứng”, nghĩa là đem các môn trước ra nói tướng của bảy Tác ý cùng với hai Tác ý nhiếp nhau, ngay các biệt nghĩa khác, thì Liễu tướng phần nhiều chỉ có Thắng giải, vì mới khởi tu; Cứu cánh quả chỉ có Chân thật, vì giải thoát đạo; Quán sát tác ý, thông với Thắng giải chân thật, có thể làm Thắng tấn gia hạnh đạo. Còn lại bốn Tác ý nói như trước, cho nên ngay các môn khác phải biết tùy ứng, không nói bảy Tác ý đều cùng với trước khác nhau. “Hai loại Tác ý cũng nhiếp Vô học tác ý”, đây là y theo đắc quả đã luôn luôn sinh chán lìa, cho nên có Liễu tướng, y theo đoạn Phiền não đạo, nói trong năm Tác ý, Vô học đã không có, cho nên không nói có. “Quán sát nhiếp Biến trí”, là Quán sát cũng thông với Gia hạnh. “Quán sát tác ý tuy nhiếp Hữu phân biệt”, là trong Thắng tấn đạo, phần nhiều khởi Tue, do đây cho nên nói thiên về nó, không phải không có hai Phân biệt, Sở tác thành biện và Sở duyên tác ý. “Nếu đem môn thứ nhất nhiếp tất cả”, đây là y theo môn thứ nhất tư duy như vậy như vậy, cho đến phải phân rõ như vậy như vậy, y theo tu quả Hữu vi, vì Sở thành biện thông với bảy chỗ nhiếp. “Ngay tại môn thứ hai chỉ có Gia hạnh cứu cánh quả nhiếp”, là duyên thứ hai trước là chỗ duyên Tác ý thanh tịnh chỉ tại Phật quả Vô vi mà chuyển, vì y theo Cứu cánh biện. “Thắng giải tư trạch tác ý ban đầu là chỗ không nhiếp”, đây là đầu tiên tư duy chọn lựa các pháp, vì chỉ có tán tâm, tán tâm này chỉ có Tư tue, cho nên không phải bảy chỗ không nhiếp. “Nếu Tịch tĩnh tối sơ cho đến hiện đang biết cũng vậy”, Tịch tĩnh tối sơ là Tư tue vị đẳng trì an tâm, đồng với tối sơ Thắng giải tư trạch. “Bảy chỗ không nhiếp là sáu Tác ý trước nhiếp chung Nhất phần tu và Cụ phần tu v.v…”, là có Tue giải thoát, tu Định không phải Tue. Dị sinh đắc Căn bản định, chưa hẳn Tu tue. “Cứu cánh quả tác ý, căn cứ theo thù thắng mà nói, thì nhiếp Cụ phần tu, vì Câu giải thoát của nó là tu cụ phần. “Tuỳ thuận tác ý là chỗ nhiếp của hai môn đầu tiên v.v…”, là Tùy thuận tác ý, chán chỗ duyên bị hoại, hai môn đầu nhiếp, là Đối trị tác ý làm Vô gián đạo, nhiếp Viễn ly gia hạnh cứu cánh và nhiếp một phần Lạc, vì Nhiếp lạc tác ý thông với bốn Đạo. “Thuận thanh tịnh tác ý chỉ nhiếp một phần Lạc”, là Thắng tấn đạo. Quán sát tác ý tuy cũng nhiếp Thắng tấn đạo, đã hợp chung với Thắng tấn đạo đó, tướng dễ hiểu cho nên không nói. “Đây là đem Đoạn đối trị ra nói, hoặc đem chỗ tùy ứng khác nên biết”, điều này có hai giải thích:

1. Chỉ giải thích Thuận quán sát đoạn, là chưa đoạn Tác ý, chỉ có nguyên nhân của Quán sát tác ý, y theo trung phẩm Đoạn đối trị thắng tấn mà nói. Hoặc ngay những chỗ khác, Gia hạnh của Hậu vô gián đạo cũng là ba nhiếp Liễu tướng, Thắng giải và Nhiếp lạc. Nếu đem Đoạn đối trị của phân cõi dưới mà nói, thì cũng là chỗ nhiếp của Gia hạnh cứu cánh quả tác ý, cho nên nói là tùy ứng.

2. Nói chung bốn Tác ý trước, từ trước đến nay chỗ nhiếp đem nghĩa Đối trị tăng thượng riêng ba phẩm Đoạn mà nói, y theo các nghĩa đầy đủ khác thì nói là Tùy thuận tác ý. Hai Tác ý đầu cùng với Nhiếp lạc, Quán sát và Nhiếp quán sát cũng thông với Hậu gia hạnh, Thuận thanh tịnh cũng là chỗ nhiếp của Quán sát, thuận theo Quán sát đoạn và Tác ý chưa đoạn, cũng nhiếp chung Lạc gia hạnh cứu cánh quả, nghĩa Nhiếp nói như trước, cho nên nói là tùy ứng.

“Lực lệ tác ý đều không nhiếp”, là Tán tư tue. “Hữu gián, Hữu công dụng vận chuyển tác ý cho đến chỗ nhiếp của Nhiếp lạc tác ý”, Hữu gián tác ý, trong quyển 28 nói là chỗ nhiếp của Liễu tướng, vì Văn và Tư gián đoạn; Hữu công dụng tác ý, trong quyển 28 nói năm chỗ nhiếp kế đó, vì đều là khởi công dụng. Trong đây lấy Nhiếp lạc tác ý thông với Thắng tấn đạo, cho nên lược bỏ không nói, vì Quán sát và Thắng tấn đồng nhau. Gia hạnh cứu cánh tác ý có thể đắc tự nhiên vận chuyển, gọi là Tự nhiên vận chuyển, không phải ngay lúc đó có thể tự nhiên vận chuyển, quyển 28 nói chỉ có Gia hạnh quả gọi là Vô công dụng vận chuyển. Trong quyển 28 nói Hữu công dụng gọi là Vô gián, vì tương đối với Hữu gián trước. Tự nhiên chuyển gọi là Vô công dụng, vì tương đối với thế lực trước là Hữu công dụng. “Tư trạch tác ý do Liễu tướng nhiếp”, là y theo Tu môn thứ nhất, phần nhiều khởi Tue. “Không phải chỗ khác không nhiếp, bên trong nhiếp Tác ý là chỗ nhiếp của Thắng giải”, là y theo môn Vô gián nội duyên mới tạo ra. “Không phải chỗ khác không nhiếp Thanh tịnh tác ý và Quán sát tác ý”, là quán sát phiền não đoạn và chưa đoạn, vì thuận với Tịnh chướng, không phải Quán sát và Thanh tịnh kia nhiếp, vì không phải chánh Vô gián đạo. “Quảng đại tác ý đều là chỗ không nhiếp”, là Vô trụ Niết-bàn do Bi và Trí kiến lập, vì rộng thực hành hai lợi, không phải bảy Tác ý nhiếp, bảy Tác ý chỉ có tự lợi không phải rộng thực hành.

“Biến hành Tác ý thứ nhất do Cứu cánh lạc nhiếp”, trong Biến hành ở trước có hai loại:

1. Phật Thế Tôn nhiếp.

2. Nhất thiết nhiếp, là hàng Bồ-tát nhiếp, vì tất cả Nhị thừa tu có tự lợi.

“Liễu tướng tác ý là chỗ kiến lập Tác ý của tha lợi nhiếp, cho đến Định làm duyên của nó”, một là Liễu tướng thông với Văn và Tu, chỗ kiến lập của tha lợi nhiếp. Hai là chỉ có Tu tue làm tánh, nhưng cũng là duyên giáo bên ngoài mà sinh, cho nên là chỗ kiến lập của tha lợi nhiếp.

Trong phần thứ hai thuyết minh riêng Sở duyên sai biệt có hai phần:

1. Vì Duyên tức là tướng.

2. Riêng thuyết minh tướng, vì Sở duyên này là Cảnh của các Tác ý, cho nên tức là tướng, đồng thời Cảnh của Định.

Trong riêng thuyết minh tướng, thứ nhất là nói về bốn tướng, thứ hai là nói về ba mươi hai tướng. Tướng sở duyên là phân biệt thể và tướng của Sở tri sự, Phân biệt thể là Tâm năng duyên, Tâm sở. Phân biệt tướng là Sở duyên tướng phần, Định tâm lấy Kiến phần và Tướng phần này làm Sở duyên. Tướng của Nhân duyên là Tư lương của Định, là nhân của Vô hối hoan hỷ an lạc. Không giữ căn môn v.v… bốn thứ, như trước đã nói, bốn thứ là: Không nắm giữ căn môn; Ăn không biết lượng; Đầu hôm cuối hôm, không thường tỉnh ngộ siêng năng tu quán hạnh; Trụ tại Bất chánh tri. Đến Thanh văn địa ở sau sẽ rộng nói.

Loạn tướng của Hôn trầm và Trạo cử, cũng như tên của nó, tức là sự dính mắc tướng của Trầm trạo kia, Thể là Vô minh làm tánh, hoặc là Ái tánh, hoặc là tất cả Phiền não tánh của Kiến và Nghi.

Trong ba mươi hai tướng có hai đoạn:

1. Riêng thuyết minh ba mươi hai tướng.

2. Cùng với tướng tương tức.

“Thế nào là tướng Sở y?” Là Phân biệt thể tướng, là Kiến phần và Tướng phần như thứ tự mà phối hợp. “Thế nào là Khởi tướng?” Tướng này có hai loại:

1. Tất cả tâm khởi tướng, tức là kế trước nói Tác ý là một tướng, vì tất cả tâm sinh đều do Tác ý.

2. Tâm thứ tám khởi tướng, là Tâm trong mười hai chi, duyên nơi Hành, cũng duyên Danh sắc mà sinh.

“Thế nào là tướng của Tự tướng? Là tự tướng của tự loại”, là năm Uẩn, vì loại mỗi mỗi đều riêng khác. Tự tướng, là mỗi mỗi Uẩn, Tự tướng của Nhãn v.v… riêng khác. “Trong đây người đã xuất ly đối với Đoạn, không tu phương tiện, quán Hữu tham v.v…”, là những người xuất gia, gọi là người đã xuất ly. Xuất ly này có hai loại:

1. Loại người không tu Niết-bàn phương tiện, quán Hữu tham Vô tham, Hữu sân Vô sân, Hữu si Vô si.

2. Loại tu Niết-bàn phương tiện, là quán tâm hẹp, tâm rộng, tâm thấp hèn, tâm đề cao, cho đến tâm khéo giải thoát, tâm không khéo giải thoát, là tướng không nhiễm ô, ba cặp đối quán ở trước không phải thuận xuất thế, bảy cặp sau thì thuận với xuất thế, hoặc thuận với Định gọi là tu phương tiện, không thuận với Định thì gọi là không tu phương tiện, vì không phải xuất thế.

“Lại nữa, giải thích không tu phương tiện”, là người Vô học đã đắc xuất ly, thì càng không tu phương tiện lại nữa, chỉ quán Hữu tham v.v… ba cặp đối tâm. “Hoặc tu phương tiện”, là người Hữu học, quán Sơ suất, Thấp hèn v.v… bảy cặp đối tâm, vì thuận với xuất ly của Vô học.

“Thế nào là tướng của Quang minh? Là như có một loại đối trị trừ diệt ám tối. “Pháp Quang minh”, là trong Cái và Thực ở trước, có nói ba thứ Quang minh, Quang minh này là hai loại đầu. “Trụ quán đối với Toạ (ngồi) v.v…”, vị lai gọi là Toạ, hiện tại gọi là Trụ. Vì từ vị lai Toạ khởi lập Trụ, tức là hiện tại này cũng gọi là Toạ, quá khứ gọi là Ngoạ, vì Toạ rồi mới Ngoạ, nhưng quá khứ thì diệt mất cho nên lập tên là Ngoạ.

“Thế nào là tướng của nhập định? Là do nhân duyên v.v…”, trong bốn tướng ở trước, trừ tướng nên viễn ly ra. Loại này có ba tướng, vì thuận nhập định. “Thế nào là tướng xuất định”? Là chỗ không nhiếp tướng Bất định địa của Phân biệt Thể. Tuy Thể của định tâm và tán tâm thông với Thể phân biệt, nhưng Thể của tán tâm này là chỗ không nhiếp của Định. Tướng của Bất định địa, gọi là tướng xuất định, hoặc Thể của Phân biệt là chỗ không nhiếp của Vô lậu Định. Tướng Bất định địa gọi là tướng xuất định, thế nào là tướng Dẫn phát? Là có thể dẫn phát tóm lược nghĩa thông của các văn nghĩa quảng bác, đây là Thánh tự tại thông, lấy trí ngôn ngữ tự tại nhiếp các văn nghĩa quảng bác để nhập một chữ, lấy một chữ này nhiếp vô lượng nghĩa của văn cú. Thông này y theo Định mà dẫn phát, gọi là tướng Dẫn phát, cho đến dẫn phát tất cả công đức.

BẢN LUẬN 12

Trong giải thích Sở duyên của Tác ý, từ đây xuống biện chung thứ ba, văn có bảy đoạn:

  1. Nguyên nhân của tu Tác ý.
  2. Bốn Duyên nhập Đẳng chí.
  3. Bốn căn Vô ký.
  4. Sai biệt của Vị tịnh định.
  5. Bốn phần Định dị.
  6. Thứ lớp siêu việt nhập xuất.
  7. Huân tu sai biệt.

Lại nữa, ngay khi tu tập Tác ý này, chán hoại Sở duyên là Gia hạnh đạo, xả các Phiền não là Vô gián đạo, giữ gìn sự đoạn diệt là giải thoát đạo, khiến cho Phiền não nối nhau xa lìa là Thắng tấn đạo.

Trong bốn Nhân duyên nhập Đẳng chí, văn phân làm ba đoạn: 1. Nêu. 2. Giải thích. 3. Kết thành.

Ái (ưa thích) các Tĩnh lự cõi trên, là người bốn căn Vô ký được Định khởi, bốn loại căn này không phải một người có thể khởi đủ bốn căn, Ái tức là Tham tâm sở, Kiến tức là Kiến thủ, Mạn tức là Ngã mạn, Nghi tức là Si nghi. Trong đây trước hết do Văn mà khởi, đó là chưa chứng đắc Định mà khởi bốn căn, không phải chỉ là tánh Vô ký, vì cõi Dục thông với bất thiện, hoặc đã đắc Định rồi sau đó mới khởi bốn loại, đó mới là Vô ký.

“Kiến trong Tĩnh lự của cõi trên, như vậy đã nhập rồi mới có thể tự nhớ nhiều kiếp của quá khứ mà sinh các Kiến đó v.v…”, là do đắc Định rồi, khởi toàn phần bốn loại Thường kiến, tổng duyên thế gian không phải chỉ phỏng theo Định, cho nên không phải Kiến là chỗ của Tĩnh lự cõi trên. Chấp Kiến này không buông xả gọi là Kiến thủ, nhưng trong văn này chỉ nói có thể được tịnh, không nói Thể thù thắng, vì chân thật thì khó hiểu, thù thắng thì dễ hiểu. Định v.v… là Thường kiến, vì Uẩn làm Sở y, cũng là Cảnh của Kiến thủ. Trong đây Ái duyên các Địa cõi trên, chỉ có Thức là giải thích đầy đủ, khi chưa đắc Định thì Ngã mạn duyên Địa này mà sinh, đồng Địa mà chấp, vì tổng duyên năm Uẩn mới có thể được. Mạn sau khi đắc Định, duyên các Địa kia mà khởi, vì cũng đồng Địa, vì không duyên riêng với Ngã mạn, duyên các Địa khác mà sinh, tổng duyên cũng có thể như vậy. Như Duy Thức ghi: “Chính là nghi một pháp”. Quán sát thế văn đó thì chỉ có người tu xuất thế mới khởi, vì duyên nghi của Thánh đế. Căn cứ theo thù thắng mà nói, thì lý thông với các Hữu khác, vì đối với các Thắng định khác cũng khởi nghi. Tánh khi chưa đắc Định thì thông với bất thiện, nếu đã đắc Định rồi, gọi là căn Vô ký, vì đó là Định phiền não làm Căn bản, khởi sinh phiền não Ái vị định có hai nghĩa:

1. Thông với Vị chí hữu, căn cứ theo Liễu tướng của cõi trên, đã thông với Văn tue, thì tán tâm của Vị chí địa đâu có hại gì nhiễm tâm Vị chí địa. Nếu đắc Căn bản định thì đắc Tự tại rồi mới khởi hiện tiền.

2. Vị chí địa không có nhiễm, là Liễu tướng cũng thông với Văn tue, như Duy Thức sớ giải thích: “Sở ái vị của nó phải nói là đã ra khỏi, Năng ái vị của nó phải nói là đang nhập vào”, Sở ái vị định là Tịnh định, đã nhập vào quá khứ, xuất nơi hiện tại. Năng ái vị của nó làm nhiễm ô tâm Định, vì tại nơi hiện tại. “Phải nói đang nhập”, đây là chỉ có Ái tâm sở nắm lấy sâu Sở duyên. “Thuận Thoái phần định”, là có độn căn. “Thuận trụ phần định”, là có trung căn. “Hoặc tánh lợi căn v.v…”, trong đây chỉ y theo bốn hạng người mà thành bốn loại căn, cho nên luận này nói căn, không phải y theo một người mà thành bốn loại.

Dưới đây quyển 13 nói bốn Liễm hạnh. Kinh nói y theo một người thứ tự tu, đạo lý cũng có thượng căn mà tu Thoái hạ căn, cũng có hạ căn mà tu Bất Thoái thượng căn, chính là Thoái phần định, là Thoái lui Trụ phần định của nó mà tướng tâm nhiễm có nhập xuất, đã không phải Thắng tấn, cũng không phải Thoái lui xuống Thuận thắng phần định. Định phỏng theo người khác thì tu Định là lợi căn, không cùng với nhiễm tâm mà có xuất nhập. Quyển cũng nói Thuận quyết trạch phần định có thể sinh Vô lậu, không phải Thắng phần định. Quyển 13 nói, trong kinh Tứ Liễm Hạnh, thuận thắng phần định là không phải Thoái không phải trụ, chỉ là Thắng tấn, không phải tiến đến Quyết trạch, cho nên Quyết trạch tức là phần, gọi là Quyết trạch phần. Phần có nghĩa là chi, có nghĩa là loại.

– Bốn loại Định này:

1. Biện về hành tướng, nghĩa cũng như văn.

2. Biện về tánh, chỉ có Hữu lậu thiện.

3. Y theo Địa, thông với cõi Sắc và cõi Vô sắc, vì Hữu đảnh cũng có thể sinh tâm Vô lậu, nhưng lấy nghĩa làm chuẩn thì không phải bảy cận phần nói trên, có phần thứ tư, vì không thấy tướng tâm Vô lậu nhập xuất, mới khởi thì không phải như vậy, sau khi khởi thì có thể được, cho nên đều có bốn phần, không có văn ngăn trách.

4. Phần thứ nhất có thể sinh hai phần, là Tự phần và Trụ phần. Trụ phần sinh ba, trừ phần thứ tư ra. Phần thứ ba cũng sinh ba, trừ Thoái 28 phần. Phần thứ tư sinh một, đó là Tự loại.

Nêu Loại và Dị, Thuận phần và Thoái phần thuận với phiền não, Trụ phần thì thuận với Địa của tự nó, Thuận thắng phần thì thuận với Địa cõi trên, Thuận quyết trạch phần thì thuận với Vô lậu.

Nương theo khởi, cõi dưới khởi bốn phần, hai cõi trên chỉ có ba phần, không có bắt đầu, vì là Bất Thoái.

Trong Vô gián, Nhập đẳng chí, Lậu, Vô lậu, thuần và tạp ba thứ và bốn loại.

Ba thứ là:

  1. Thuần Hữu lậu.
  2. Thuần Vô lậu.
  3. Hữu lậu vô lậu tạp.

– Bốn loại là:

  1. Thuận nhập.
  2. Nghịch nhập.
  3. Thuận nghịch nhập.
  4. Nghịch thuận nhập.

Trong Nhập đẳng chí này chỉ có hai loại đầu.

Trong Siêu việt nhập đẳng chí, Hữu lậu vô lậu thuần và tạp có ba loại Siêu, mỗi loại cũng đều có bốn thứ, trong đây phân rõ chỉ có hai loại đầu, lời văn thông nhau, như vậy hợp chung có hai mươi bốn câu, trên đã phân rõ Loại và Biệt. Người nào có thể Siêu? Chữ Siêu này, chỉ có Vô học, không phải Hữu học, chỉ có lợi căn, không phải độn căn. “Y theo cõi”, thì chỉ có cõi Dục, không phải hai cõi trên, nếu khởi Tâm của cõi Sắc mà xuất Định, thì có thể có Văn tue, Dị thục sinh tâm và Thông quả tâm. Hiện tại lấy Tâm của Phi tưởng địa mà xuất, thì xuất định tại tâm nào? Phi tưởng địa kia không có Văn tue, Uy nghi, Công xảo và Thông quả tâm, không phải khác Địa mà khởi Sinh đắc thiện tâm và Dị thục sinh tâm. Nghiệp quả không phải khác Địa mà khởi Sinh đắc thiện tâm và Dị thục sinh tâm. Nghiệp quả, là không khác Địa mà khởi, căn cứ theo Diệt tận định mà xuất, duyên ba loại Cảnh, tiếp xúc với ba loại Xúc, thừa nhận duyên nội ngoại Uẩn hữu vi mà sinh, đâu có hại các Địa của cõi Dục khởi Dị thục sinh tâm của Hữu đảnh địa. Phi nghiệp quả, nhưng tướng của nó khó biết, do đó phải nói là từ Hữu lậu và Vô lậu mà xuất, tại Dị loại thì gọi là Xuất tâm, không phải chủ yếu là Tán vị. Nếu như thế Hữu lậu vô lậu gián đoạn mà nhập các Đẳng chí, thì thế nào là Trụ dị loại? Hiện tại nói Trụ dị, là Hành tướng riêng Loại, gọi đó là Xuất, hoặc được khởi vô ký Tâm, chưa trái lý, vì rất xa. “Không có khả năng siêu vượt Đẳng chí thứ ba, chỉ trừ chư Như Lai v.v…”, đây là căn cứ theo những người cực tự tại, siêu vượt tất cả Địa mà nói. Hoặc bảy Địa về trước và Ba-la-mật-đa Thanh văn cũng có thể siêu hai Địa cho đến bảy Địa. Đại Mục-kiền-liên nhập Vô sở hữu xứ định, nghe tiếng voi, liền từ đó mà xuất Định, vượt qua chỗ khởi của nhiều Địa, trong quyển 3 có thuyết minh đầy đủ việc này. Lại nữa, nương vào Tự tại mà vượt qua tất cả Địa, là chư Phật và Bất Thoái Bồ-tát, ngoài ra những người khác thì không thể vượt qua nhiều Địa. Nếu tùy ý khởi, không phải những hạng siêu thiền mà tất cả đều được, cũng như chuyển sinh trong chín Địa và Đại Mục-kiền-liên, cho nên ở đây không nói, vì ở đây chỉ thuyết minh về sự siêu vượt.

– Trong Huân tu, văn cũng có hai nghĩa:

  1. Thuyết minh Tạp tu.
  2. Thuyết minh Tu sinh sai biệt.

Văn thuyết minh Tạp tu có hai đoạn là Nêu và Giải thích.

– Huân có năm loại:

1. Thuần Hữu lậu định huân tu, là sinh bốn Tĩnh lự của cõi dưới, trừ năm Tịnh cư ra, như dưới đây nói Nhuyễn tu, Trung tu và Thượng tu, thọ quả của ba Địa.

2. Thuần Vô lậu định huân tu, là Biến dịch sinh tử từ Địa thứ tám trở lên, vì Hữu lậu định đã hết.

3. Hữu lậu vô lậu tạp tu, tức là chỗ nói ở đây, là đối với Đẳng chí đắc Tự tại và thọ quả Tự tại của Đẳng chí, xen tạp tu tập mà sinh ra năm Tịnh cư v.v…

4. Hữu lậu định tán tạp huân tu, là A-la-hán xả phước mạng hạnh, nuôi dưỡng quả phước mạng.

5. Vô lậu định tán tạp huân tu, là Nhị thừa và Bồ-tát Biến dịch sinh tử bảy Địa trở về trước.

Trong Tạp tu thứ ba, Hữu lậu làm Nhị biên, một sát-na của Vô lậu, trong đó làm Tu thành mãn, như nghiệp của năm Tịnh cư, Dị sinh thân tạo Chủng tử trong thân, tùy ý chỉ có thể chiêu cảm các Thiên xứ cõi dưới, do khởi mong cầu mà huân tu thành mãn, lực của Vô lậu định nuôi dưỡng Chủng tử của nghiệp trước kia, khiến cho thế lực thù thắng, vì sinh năm Tịnh cư, không phải Hữu lậu mà là Trung phẩm, vì lực của nó yếu, tức là cùng với Tiểu thừa có chút ít bất đồng. Lại nữa, niệm Hữu lậu ban đầu là Gia hạnh đạo, phục trừ Định chướng, niệm kế đó là Vô lậu làm Vô gián đạo, ngay khi trừ Định chướng, một niệm sau cùng là Hữu lậu làm giải thoát đạo, cho nên huân tu đầy đủ. Nếu lấy Hữu lậu làm Trung phẩm, Vô lậu làm Nhuyễn và Thượng phẩm, thì lẽ nào lại lấy Vô lậu làm Gia hạnh và Hữu lậu làm Vô gián đạo hay sao? Giải thoát đạo cuối cùng có thể làm trợ giúp, cho nên chỗ trợ giúp thuận nhau. “Hoặc ngay tại Thời, Xứ và Sự có thể nhập các Định”, chỗ nương trụ của thân gọi là Xứ khởi Định, sáng tối, thời tiết… gọi là Thời. Tùy duyên theo Cảnh nào gọi là Sự? Nếu có Thủ khác, Thủ đó là Thủ chi, có Tàn nghiệp nhuận sinh, Thủ sinh, thì liền sinh Tịnh cư. Quả Đẳng chí có hai loại:

  1. Đắc công đức quả.
  2. Sinh Tịnh cư quả.

– Trong Tu sinh sai biệt, có bốn loại:

  1. Sinh nhân.
  2. Nhiễm Thoái thiện tấn.
  3. Tu nhân xứ.
  4. Biện về sai biệt.

“Đã sinh bốn loại sai biệt kia rồi, nếu khởi Ái vị thì liền bị lui mất”, không phải Định trong các Địa trên có thể bị lui mất, mà do nhiều Ái vị làm tổn giảm thọ mạng, cho nên nói là “liền bị lui mất”, đây là Thoái sinh.

Trong rộng phân biệt năm môn của Địa này, từ đây trở lên là ba đoạn, giải thích bốn môn đã xong. Đoạn thứ tư sau đây giải thích nghĩa Tông yếu tối hậu chúng tạp của các kinh, văn phân làm hai đoạn:

1. Giải thích Tông yếu, tức là giải thích chỗ nói Tưởng ở trước, nêu ra bốn môn: Tĩnh lự, Giải thoát, Đẳng trì và Đẳng chí, trong bốn môn này chỉ giải thích ba môn sau, vì môn Tĩnh lự đã giải thích rồi.

2. Quyển thứ 13 mới giải thích nghĩa của Tạp.

Tuy hai đoạn này đều là giải thích kinh, nhưng Tạp nghĩa của các Môn mỗi mỗi đều có riêng biệt, phân thành hai loại, trong loại thứ nhất phân hai phần:

  1. Nêu, sau sẽ nói.
  2. Tùy giải thích riêng.

Trong phần giải thích riêng này lại có ba đoạn: a. Giải thích Giải thoát. b. Giải thích Đẳng trì, là ba loại Tam-ma-địa trở lên. c. Giải thích Đẳng chí, là Ngũ hiện kiến và Tam-ma-bát-để trở xuống.

Môn thứ nhất có bốn loại:

  1. Giải thích Giải thoát.
  2. Giải thích Thắng xứ.
  3. Giải thích Biến xứ.
  4. Tổng liệu giản.

Tuy Thắng xứ và Biến xứ căn cứ theo chỗ nêu trước mà nói, nhưng tại Đẳng chí môn, thì ở đây y theo thứ lớp Tu sinh. Kế đó là thuyết minh giải thoát, trước vì tùy theo Tạp khởi của pháp khác mà dẫn sinh, hoặc vì tùy theo Thắng nghĩa, lìa giải thoát nhập Đẳng chí môn, giải thoát là công dụng rất thù thắng để trừ Chướng, cho nên riêng một môn nêu nó ra, đây là vì mới Tu thứ tự thì phải như vậy, cho nên luôn tiện thuyết minh về nó, không trái nhau. Tám giải thoát lấy mười môn phân riêng, trong văn có ba đoạn: Một là nêu tên gọi; hai là giải thích tổng tên gọi; ba là phân tích Hành tướng.

1. Nêu tên gọi, có tám tên gọi:

  1. Hữu sắc quán các sắc giải thoát.
  2. Nội Vô sắc tưởng quán ngoại các sắc giải thoát.
  3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
  4. Không Vô biên xứ giải thoát.
  5. Thức Vô biên xứ giải thoát.
  6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
  7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát.
  8. Diệt tận giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.

Theo Câu-xá quyển 29 ghi: Môn thứ nhất gọi là “Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát”, vì Tưởng quán tăng thêm, cho nên lập tên Tưởng quán, bên trong chưa phục trừ; Sắc tưởng của người nhìn thấy gọi là Nội hữu sắc; chỉ có Quán ngoại cảnh, gọi là Quán ngoại sắc”. Đại thừa thì không phải như vậy, chưa lìa Dục dục của cõi Sắc, hoặc tuy đã lìa Sắc tưởng của người nhìn thấy, nhưng an lập hiện tiền thì gọi là Hữu sắc, thông quán bên trong bên ngoài thì gọi là Quán các sắc. “Nội Vô sắc tưởng quán ngoại các sắc”, đó là của Tiểu thừa kia nói, vì bên trong đã phục trừ Sắc tưởng, gọi là Nội vô sắc tưởng, chỉ có quán ngoại cảnh thì gọi là Quán ngoại sắc. Hiện tại luận này nói, đã nương vào Vô sắc định lìa Nhiễm của cõi Sắc, gọi là Nội vô sắc tưởng, tức là các Sắc này vì đã ra khỏi Nhiễm cho nên gọi đó là Ngoại, quán Ngoại này làm Cảnh gọi là Quán ngoại sắc. Hai chữ Quán ở trên, là Biến hóa tự tại, ý hiểu tư duy trong các Sắc, hiển thị các Tưởng kia. Giải thoát, là có thể giải thoát chướng biến hoá. Đối Pháp luận ghi: “Nội là nội thân, đã nương vào Vô sắc định phục trừ Sắc tưởng của người nhìn thấy, gọi là Nội vô sắc”, cùng với luận này bất đồng. “Tịnh giải thoát tác chứng cụ túc trụ”, Tịnh là trong Tĩnh lự thứ tư lìa tám thứ Chướng, Xả niệm viên mãn thanh bạch gọi là Tịnh, Quán này quán chung các cảnh Tịnh và Bất tịnh. Hiển Dương luận ghi: “Tịnh, là ý giải tư duy thuần nhất”. Tịnh diệu sắc, là theo tùy chuyển Lý môn, hoặc y theo Quán kia tương đối tương nhập, sau đó thành Nhất vị tịnh sắc mà luận. Đối Pháp luận ghi: “Đối với Nội tịnh sắc và Nội bất tịnh sắc, mà triển chuyển chờ nhau”. Giải thoát, là có thể giải thoát Tịnh và Bất tịnh biến hóa sinh khởi Phiền não chướng, đây là công dụng Gia hạnh của Thời biến hoá, gọi là Phiền não chướng ngại tâm. Hai giải thoát trước là tùy theo Chướng của một Sự biến hoá, chỗ giải thoát này là chỗ có trong Tịnh và Bất tịnh, công dụng Gia hạnh của Biến hóa rất tự tại chướng ngại. Thân, là Ý thân. Tác chứng, là do Trí đoạn mà đắc Tác chứng. Các Căn đắc cảnh, chỉ có Thân căn là gần gũi nhất, cho nên hợp chung Thân cùng với Chứng mà đặt tên. Hai giải thoát trước, Ý hiểu tư duy cũng còn cách xa, cùng với Quán của nó đặt tên. Giải thoát thứ ba này trừ Chướng là tối thắng, gọi là Thân tác chứng, cho nên Đối Pháp ghi: “Tám thứ này gọi là Thánh trụ, vì là chỗ trụ của bậc Thánh, nhưng bậc Thánh phần nhiều là trụ thứ ba và thứ tám, vì hai giải thoát này là tối thắng. Trong hai cõi, mỗi mỗi cõi đều ở tại Biên tế, trong kinh Thế Tôn nói: “Thân tác chứng, đối với Sắc và Vô sắc chướng đoạn không sót, chứng đắc Chuyển y thì thù thắng hơn sáu giải thoát còn lại”. Cụ túc trụ, là Tĩnh lự thứ tư Căn bản viên mãn. Giải thoát thứ tám cũng vậy, là Hữu đảnh viên mãn. Các tên còn lại có thể hiểu.

2. Trong giải thích Tổng danh, chỉ giải thích các tên chung. Bảy giải thoát trước là đối với người đã giải thoát và sinh thù thắng. Bảy chỗ Quán pháp, là phải lìa Phiền não chướng nhiễm của Địa kia mới có tu hành, gọi là đã giải thoát. Hiện tại Quán các Cảnh đó để trừ Định chướng, khởi công đức của thần thông mà sinh Thắng giải, cho nên gọi là giải thoát. Giải thoát thứ tám đã vứt bỏ Tưởng và Thọ, là Viễn vô gián đạo ở trước, tuy diệt Tưởng thọ chướng, mà bây giờ mới được gọi là giải thoát. Khi đang khởi giải thoát, thì chỉ tạm thời vứt bỏ Tưởng và Thọ mà đặt tên giải thoát, Phi thời mới giải thoát Định chướng, vì trước đã lìa rồi.

3. Trong phần thứ ba biện về tướng, chỉ phân tích bảy giải thoát, đến Đẳng chí môn sau đó mới giải thích giải thoát thứ tám, là những người sinh cõi Dục. Giải thích nghĩa Hữu sắc, đây là nói người mới tu chưa lìa Sắc nhiễm, nếu người đã lìa thì Sắc tưởng an lập hiện tiền, gọi là Hữu sắc. “Người đó trong chỗ giải thoát như vậy, mà sinh giải thoát”, đây là giải thích nghĩa giải thoát, Sắc sở quán đó, trong chỗ giải thoát Dục của cõi Dục đã được giải thoát. “Ngay tại các Sắc của cõi Dục vì có Quang minh tưởng tác ý tư duy…”, đây là thuyết minh nghĩa của Quán, không đồng với Tiểu thừa khởi quán Bất tịnh tưởng.

Hiện tại luận này nói quán Quang minh tưởng có hai nhân duyên gọi là Hữu sắc: một là vì sinh cõi Dục đắc định cõi Sắc, hai là vì đối với Quang minh mà sinh khởi Thắng giải.

“Các Sắc của cõi Dục đối với chỗ có ít Sắc của các Thắng xứ…”, đây là đáp Sắc sở quán tức là Cảnh thắng xứ, vì bắt đầu Thắng giải tưởng mà khởi quán. “Hoặc ưa hoặc chán…”, đây là đáp về Hành tướng, ba giải thoát ở trước dẫn phát thần thông của bậc Thánh trong các Thắng xứ và Biến xứ, bốn giải thoát sau tùy thích ứng mà có thể dẫn phát công đức vô tránh. Nói “Sinh cõi Dục đã lìa duyên của cõi Sắc”, đây là giải thích nghĩa Nội vô sắc tưởng, trước y theo Không xứ định, đã lìa cõi Sắc nhiễm. Hiển Dương luận ghi: “Nội Vô sắc tưởng, là nương vào Vô sắc định, vì ý hiểu tư duy. “Định vô sắc giới không hiện tiền”, đây là giải thích nghĩa quán các Sắc bên ngoài, vì Vô sắc không thể quán Hữu sắc, nương vào Định cõi Sắc mà hiện quán các Sắc bên ngoài, cho nên Vô sắc định không hiện tiền. Trên đã nói người chưa đắc Định vô sắc giới, chưa lìa Dục của cõi Sắc; quán các Sắc bên ngoài, gọi là Sơ giải thoát, đã đắc Định vô sắc giới rồi, lìa Dục của cõi Sắc, quán các Sắc bên ngoài, gọi là giải thoát thứ hai, đây là nương vào nghiệp ban đầu mà nói. “Do Câu giải thoát”, là do Định đắc Sơ giải thoát. Nếu trước không nhập Định vô sắc giới, là chưa phục trừ Sắc tưởng của người nhìn thấy, mà khởi Quang minh tưởng để quán các Sắc, đó là Sơ giải thoát. Nếu trước nhập Vô sắc định, đã phục trừ Sắc tưởng của người nhìn thấy, không tư duy Quang minh tưởng, chỉ quán ưa chán… Sắc trong ngoài, đó là giải thoát thứ hai, cho nên trong đây nói cũng không tư duy Minh tưởng của chỗ Tưởng kia, vì Quán dần dần được thành. “Chỉ đối với Sắc không sinh Thắng giải, là do Câu giải thoát này”, vì cũng thành Sơ giải thoát, cho nên Đối Pháp luận giải thích Sơ giải thoát rằng: “Bên trong chưa phục trừ Sắc tưởng của người nhìn thấy, tức là người mới Tập nghiệp, là chỗ khởi giải thoát của Câu giải thoát. Trong nội thân đó, tuy đã lìa Dục, an lập Sắc tưởng mà hiện tiền quán đối với ngoại Sắc”. Luận đó giải thích giải thoát thứ hai rằng: “Là bên trong đã phục trừ Sắc tưởng của người nhìn thấy, đó là Sơ nghiệp, hoặc hiện an lập không có Sắc tưởng của người nhìn thấy, đó là Mãn nghiệp”. Câu giải thoát… là nghĩa của chỗ khởi giải thoát, căn cứ theo chỗ nói trên, cũng không cần tư duy. “Minh tưởng của Tưởng kia chỉ đối với ngoại Sắc mà khởi Thắng giải”, đây là giải thích nghĩa của Quán. Nếu đối với Sắc đó đã được lìa Dục mà nói, thì Sắc đó làm Ngoại, tức là Quán này đã lìa nhiễm Sắc, vì ra khỏi Nhiễm thì gọi đó là Ngoại; quán tất cả các Sắc này làm Cảnh, gọi là Quán ngoại Sắc, không những quán ngoại Trần gọi là Quán ngoại Sắc. Nếu căn cứ theo Đối pháp thì Nội thân gọi là Nội, Ngoại trần gọi là Ngoại, quán Trần làm Cảnh gọi là Quán ngoại sắc. Luận đó nói trong ngoài chợt đồng với Tông của Tiểu thừa, nương vào Định vô sắc giới, lìa nội Sắc nhiễm… thì cùng với luận của Tiểu thừa đó khác nhau. Hai giải thoát trên, y theo Câu-xá ghi: “Hai Tĩnh lự đầu có thể phục trừ cõi Dục, vì trong Sơ tĩnh lự là hiển Sắc tham”, Quán bất tịnh kia có thể nói như vậy. Để khiến cho đầu tiên khởi Minh tưởng, Hiển Dương luận quyển 20 ghi: “Hai Tĩnh lự này trừ Biến hóa chướng, để đối với Biến hóa mà chứng đắc tự tại, tu hai giải thoát, vì Biến hóa đã thông với bốn Tĩnh lự mà có”. Hai giải thoát đầu thông với bốn Tĩnh lự, đồng như Thành Thật luận, nhưng vẫn ở tại Căn bản, không phải các Cận phần Địa, kia là hớn hở tiến tu, đều không có quả chung, đây là do dự tu có chung quả. “Trong Tịnh giải thoát đã đắc Xả niệm viên mãn thanh bạch”, đây là giải thích nghĩa của Tịnh. Trong một sát-na lìa qua gọi là Tịnh, tương tục lìa thì gọi là Bạch, lấy đây làm chỗ y để tu tập Thánh hạnh viên mãn, gọi là bậc Tịnh giải thoát.

Sau đây lấy ba nghĩa giải thích tên Tịnh này:

1. Tịnh giải thoát này chỉ có Định thứ tư, vì trong đây nói đắc Xả niệm tịnh, lại cũng vượt qua các Khổ lạc, loạn động, tĩnh, khéo mài giũa trong sáng, các Địa khác thì không phải như vậy, cho nên chỉ có Căn bản thứ tư, không phải là Cận phần, đây cũng là nội Vô sắc mà quán ngoại Sắc, vì trước đã nói cho nên ở đây lược bỏ.

2. Bốn Vô sắc giải thoát kế đó, đều đã lìa Dục của tự Địa, nương vào Căn bản địa mà trùng quán tự Cảnh, tư duy Thắng giải khiến cho các Chướng càng xa, dẫn sinh Thắng đức, lập tên là giải thoát.

3. Nhưng văn của luận này, nói hai thứ Không giải thoát và Thức giải thoát lìa Dục của Tự địa, hai giải thoát sau thì không nói lìa Dục của Tự địa, trong Vô học Thân thì có nói sơ lược. Căn cứ theo trước thì đáng lẽ nói lìa Tự dục, nếu y theo Hữu học… thì không cần lìa Nhiễm, cho nên ở đây không nói. Lại nữa, Không xứ và Thức xứ, nói Tự địa của Tư duy, là vì hai Xứ đó xứng với tên Tự địa. Vô sở hữu xứ, vì Thức không có, lấy làm tên của Tự địa, cho nên đối với Thức xứ, Tư duy là Thắng giải. Hữu đảnh giải thoát cũng vậy, dưới đó ba Địa, gọi là Tưởng sinh xứ, khắp trong Xứ này, Tư duy là Thắng giải, chỉ tại Căn bản, không phải Cận phần địa. Trên đã y theo ba môn Phân biệt của luận này.

Nêu Thể tánh:

Quyển 3 ghi: “Trong năm pháp, Chánh trí của thế gian và xuất thế gian làm Tự tánh. Hữu lậu, là Chánh trí của thế gian trong Phân biệt nhiếp. Vô lậu, tức là Vô Phân biệt Trí và Hậu đắc trí nhiếp, chỉ có Tue làm Tánh, duyên Sắc Phi sắc và Chân như cảnh, lìa các Định chướng, dẫn sinh Thắng đức”. Không phải ngoài Vô lậu này thì có pháp nào khác có thể được, nếu tương ưng với Thể, bảy giải thoát đầu là bốn Uẩn tánh, quyến thuộc là năm Uẩn tánh. Giải thoát thứ tám, hai mươi hai pháp, Diệt tận định, lấy Chủng tử của Tâm chán làm Tự thể.

Cảnh sở duyên :

Hai giải thoát đầu nói lấy chỗ tướng Hiển sắc và tướng Chân như làm Cảnh sở duyên. Giải thoát thứ ba thì lấy tướng Nhiếp thọ và tướng Chân như làm Cảnh sở duyên. Tướng nhiếp thọ là đối với Nội tịnh sắc và Nội bất tịnh sắc triển chuyển tương đãi, triển chuyển tương nhập, triển chuyển Nhất vị, như Đối pháp nói. Bốn giải thoát kế đó, mỗi mỗi lấy Tự tướng và Chân như làm Cảnh, ba giải thoát đầu lấy Sắc và Vô sắc làm Cảnh, bốn giải thoát kế đó chỉ có Vô sắc làm Cảnh, để đoạn hai chướng này cho nên khởi quán hạnh, giải thoát thứ tám không có Sở duyên.

Nghĩa Phàm thánh đắc Phân biệt:

Có nghĩa là bảy giải thoát đầu thông với Phàm đắc và Thánh đắc; giải thoát thứ tám thì chỉ có Thánh đắc, vì Vô lậu. Quyển 3 ghi: “Bậc Thánh dị sinh thì đồng đắc ba giải thoát đầu, nhưng có sai biệt, nội đạo và ngoại đạo đều đắc chung thông suốt, vì trừ Biến hóa chướng thì đắc Tự tại”. Nhưng Du-già quyển 1 ghi: “Ba giải thoát đầu, đối với tất cả Sắc mà đắc Tự tại, liền có thể dẫn phát thần thông của bậc Thánh, không cùng với tất cả Dị sinh có chung”, luận đó tự nói Sở tác của Bất hoàn A-la-hán, không nói Dị sinh không khởi ba giải thoát đầu. Kế đó bốn giải thoát, Đối pháp luận ghi: “Chỗ đắc của đệ tử bậc Thánh có thể thuận với Vô lậu, là Thanh tịnh tánh, mới gọi là giải thoát, vì giải thoát Ái vị”. Ngoại đạo dựa vào Vô sắc, phần nhiều sinh Ái vị, chấp làm Niết-bàn, cho nên do biến hiển này mà không lựa riêng với ba giải thoát trước, chỉ có Thánh đệ tử mới chứng đắc, cho nên thông với ngoại đạo. Có nghĩa là chỉ có ba giải thoát trước thông với nội đạo và ngoại đạo, phàm Thánh đều chứng đắc, nhưng luận chỉ nói Dị sinh đắc, năm giải thoát sau chỉ có Thánh đắc, luận nói chỉ có đệ tử của Thánh, không 2 nói Dị sinh.

Lìa chướng sai biệt:

Hiển Dương quyển 20 ghi: “Đối trừ sáu Chướng”:

1. Biến hóa Chướng, chỗ trừ của hai giải thoát đầu là Năng biến và Năng hoá, do quán Quang minh thù diệu vô ngại và ít nhiều gì cũng có đắc Tự tại.

2. Tối cực hiện pháp lạc trụ Chướng, là chỗ trừ giải thoát thứ ba, Đối Pháp luận ghi: “Có thể đoạn Tịnh sắc và Bất tịnh sắc Biến hóa chướng”, trong đây Phiền não sinh khởi chướng, chướng này tức là đối với công dụng Gia hạnh của Tịnh sắc biến hoá, cùng với Bất tịnh sắc biến hóa trái nhau, Thể là Tánh của Vô ký thô nhám, gọi là Phiền não.

3. Vãng hoàn Chướng, là chỗ trừ của giải thoát thứ tư, do các Sắc trống rỗng, vì không có chướng ngại, làm phương tiện đã nhập Địa của bốn Định Căn bản cõi Sắc, qua lại tự tại.

4. Dẫn Vô tránh đẳng thắng công đức chướng, do chỗ trừ của Thức mà Thể của các công đức kia tức là Thức, đây là phương tiện đã khởi Tĩnh lự thứ tư, phát các công đức.

5. Các lậu và Hữu chướng. Lậu là Phiền não. Hữu là Hữu đảnh. Đây tức là hai pháp Hoặc và Khổ của cõi Vô sắc, do chỗ trừ của giải thoát thứ sáu và thứ bảy, giải thoát thứ sáu chính là Năng trừ, giải thoát thứ bảy là khi trừ xong rồi khiến cho xa.

. Tịch tĩnh tối cực trụ chướng, là chỗ trừ của giải thoát thứ tám, vì trụ Diệt định Tịch tĩnh cực thù thắng. Quyển 1 ghi: “Năm giải thoát sau chỉ nói có thể dẫn Tưởng thọ diệt đẳng chí”, là y theo Thành mãn vị cũng không trái nhau.

Y thân khởi:

Năm giải thoát sau, là Thân khởi của ba cõi, vì thừa nhận cõi Vô sắc khởi Diệt định, ba giải thoát đầu, có nghĩa chỉ có Dục khởi, do Giáo và Lực. Du-già quyển 12 ghi: “Do hai nhân duyên gọi là Hữu sắc, là sinh cõi Dục, có nghĩa không đúng, vì thông với hai cõi mà khởi, mới tu giải thoát là Biến xứ làm quả, thì phải ở tại cõi Dục, như đạo lý trước, sau khi thành mãn thì Biến xứ làm nhân, đâu có hại gì cõi Sắc mà cũng được khởi sau đó, lẽ nào sinh Sắc quả không được gọi là Hữu sắc, mà không tu thông hay sao”!

Nhị đắc:

Trong thân của Phật và thân Lân giác, vì cả tám giải thoát đều lìa Dục đắc. Trong các thân khác thì đều là Gia hạnh đắc, phải lìa các Địa nhiễm kia, sau đó mới Tu đắc.

Hữu, Vô lậu:

Tại thân Phật thì đều là Vô lậu, trong các thân khác thì giải thoát thứ tám chỉ có Vô lậu, còn lại bảy giải thoát thì thông với Hữu lậu và Vô lậu. Thông là hai trí của thế gian và xuất thế gian làm Thể, sau đây quyển 1 sẽ phân tích rộng thêm.

– Tám Thắng xứ, lược lấy năm môn Phân biệt:

1. Nêu tên:

1. Sắc tưởng bên trong quán ngoại sắc ít, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc kém, hoặc hơn, đối với các Sắc kia có Thắng tri và Thắng kiến, đắc Như thật tướng.

2. Hữu sắc tưởng bên trong quán ngoại Sắc nhiều.

3. Vô sắc tưởng bên trong quán ngoại Sắc ít.

4. Vô sắc tưởng bên trong quán ngoại Sắc nhiều.

Ba loại sau hoặc tốt xấu… mà nói, đều như chỗ nói ban đầu. Bốn Thắng xứ sau đều là Vô sắc tưởng bên trong, nhưng quán các Sắc xanh vàng đỏ trắng bên ngoài, bốn loại khác nhau.

2. Nêu thể:

Đối Pháp luận, Hiển Dương đều nói như vầy: Hai Thắng xứ đầu: 1. Chỗ xuất của giải thoát. 2. Hai Thắng xứ, là chỗ xuất của giải thoát thứ hai. Bốn Thắng xứ sau là chỗ xuất giải thoát thứ ba. Trong Tịnh giải thoát, hai tưởng đầu tiên là Tịnh và Bất tịnh, triển chuyển tương đãi, triển chuyển tương nhập, triển chuyển như vậy, tổng tất cả Sắc hợp chung làm một vị Thanh tịnh tưởng giải gọi là triển chuyển Nhất vị, cho nên bốn Thắng xứ sau là chỗ xuất của giải thoát thứ ba, do đó tám Thể này tức là ba giải thoát trước.

3. Giải thích tên riêng:

Hữu sắc tưởng bên trong, Vô sắc tưởng bên trong… như trong Giải thoát nói. Trong giải thoát trước, Hữu sắc không nói Sắc bên trong, bây giờ thì nói bên trong là trước đã thiết lập, tuy đối với trong thân của người thấy Sắc tưởng an lập hiện tiền, người chưa lìa Sắc nhiễm, vì tất cả Sắc nhiễm đều chưa đoạn, cho nên chỉ nói Hữu sắc mà không nói bên trong, tức là lấy tất cả Sắc này mà làm cảnh giới, khởi Quang minh tưởng, vì chưa ra khỏi Sắc nhiễm. Gọi là quán các Sắc, hoặc thông quán Sắc bên trong bên ngoài thì không thể gọi là quán Nội ngoại sắc. Hiện tại Thắng xứ này chỉ quán Phi căn sắc, không quán căn Sắc, vì Hữu căn sắc bên trong gọi là nội Hữu sắc, cùng với trước khác nhau. Còn lại ít và nhiều… như văn giải thích.

4. Y cảnh Phân biệt:

Hai giải thoát sau chỉ duyên Hiển sắc của Sắc xứ, hình sắc của nó thì không có Thể, vì Hiển sắc nhiếp. Giả hiển thì không có Thể, vì chỉ có bốn Thật, cho nên quán chỉ có bốn loại, bốn Sở duyên trước là Sở y Tụ sắc của Thanh hương vị xúc, vì hai giải thoát đầu duyên tướng Quang minh và tướng hơn kém, tức là bốn Thắng xứ đầu quán Hiển giả sắc, thì Quang minh mới là Giả hiển sắc, do Thể trong sáng thuận với Biến hóa cho nên quán thiên về nó. Giải thoát thứ hai, vì duyên tất cả Sắc xứ. Thắng xứ thứ ba và thứ tư cũng quán đối với tất cả cả Sắc xứ kia. Hoặc ít nhiều v.v… nhưng lấy hình lượng lớn nhỏ trong ngoài riêng biệt của hữu tình và Phi tình, phân thành ít nhiều, cho nên y theo Hữu sắc và Vô sắc, mỗi mỗi đều duyên hai Cảnh, phân thành bốn loại, cho nên các Thắng xứ không giảm không tăng. Đối Pháp luận ghi: “Sắc ít là Sắc của các hữu tình, vì lượng của nó nhỏ. Sắc nhiều là Sắc của Phi tình, vì lượng của nó to”. Hiển Dương luận chỉ y theo Tư cụ và Phi tư cụ (vật dụng nuôi sống) mà phân thành ít nhiều. Hiện tại trong luận này thì lấy hữu tình và Tư cụ nó hợp chung gọi là ít, cung điện… gọi là nhiều vì hình lượng riêng khác, mỗi mỗi căn cứ theo một nghĩa cũng không trái nhau. Tốt, xấu, hơn, kém… thì y theo sai biệt của Sắc ít nhiều, cho nên không lập riêng. Nhưng trong cõi Dục, bốn Thắng xứ đầu, quán đủ bốn Trần đồng tụ Sắc xứ; trong cõi Sắc, chỉ quán Thanh và Xúc đồng tụ Sắc xứ. Căn cứ theo hai giải thoát đầu, chỉ quán Sắc trần, cho nên trong bốn Thắng xứ đầu chỉ quán Sắc cảnh. Luận nói Sắc kém, là Thanh hương vị xúc. Bất khả ý sắc, đây là nói cõi Dục có Sở y của Thanh hương… đồng tụ Sắc xứ, gọi là Sắc kém… bốn chỗ quán đầu không phải bốn thứ Thanh hương vị xúc, vì là Cảnh của Thắng xứ. Luận này ghi: “Bốn Hiển sắc này là Tư cụ, cung điện… của hữu tình nhiếp”, là bốn thứ tốt, xấu, kém, hơn gọi là Hiển sắc, tức là ít nhiều trước. Là Sắc của hữu tình cho nên không phải Thanh hương… vì đối với Sắc xứ chiết phục tự tại, đối với bốn Trần khác cũng có thể biến hoá, hoặc trong hai giải thoát đầu, giải thoát thứ nhất tuy chỉ có quán Sắc dẫn sinh bốn Thắng xứ đầu, Thắng xứ đã khởi rồi, lại quán bốn Trần, chiết phục Tự tại, dẫn sinh Giải thoát, sau đó đến thành Mãn vị, lại chỉ có quán các Cảnh của Sắc quang minh… có thể làm biến hoá, cho nên Hiển Dương ghi: “Do ba giải thoát cho nên đắc Thắng định tự tại, do đắc Định kia rồi mới nói Thắng sắc tự tại thành tựu”. Đây là lấy giải thoát làm nhân, Thắng xứ làm quả. Hiển Dương lại ghi: “Tám Thắng xứ này cùng với tu ba loại Duyên sắc giải thoát làm chỗ y chỉ”. Đây là lấy Thắng xứ làm nhân, giải thoát làm quả, ban đầu là tu, sau đó là thành mãn, vì có sai biệt. Luận tuy nói rằng bốn Hiển sắc này không phải Sắc xứ, vì Hiển sắc là các Sắc hơn kém của Thanh hương vị xúc, chỗ quán minh hiển gọi là Hiển sắc, không chỉ lấy Sắc mà cũng lấy Chân như làm Sở duyên. Quyển 2 ghi: “Tư duy Sắc Chân như tướng, đắc Thắng tri kiến, Dị sinh thì không phải như vậy”.

5. Hỏi đáp Phân biệt:

Đây là hỏi ba giải thoát trước, cùng với tám Thắng xứ có gì sai biệt, Câu-xá ghi: “Tu giải thoát trước chỉ có thể vứt bỏ, tu Thắng xứ sau thì có thể không bận bịu Sở duyên, tùy theo Sở lạc mà quán, hoặc cuối cùng không khởi”. Đây là giải thích mới tu ba Giải thoát trước, trừ hai loại Chướng, do đây có thể sinh Thắng trí và Thắng kiến, cho nên gọi là Thắng xứ. Tu thành mãn, là do tám Thắng xứ, Thắng phục Sở duyên, có thể khiến cho ba giải thoát đầu được Thanh tịnh, đó là Giải thoát và Thắng xứ sai biệt.

Hỏi: Tại sao giải thoát Biến xứ quán chung với Sắc và Phi sắc, mà trong tám Thắng xứ chỉ có quán các Sắc?

Đáp: Lìa chướng mà quán khắp Sắc và Phi sắc… khi thắng chiết phục Cảnh thì Sắc tướng khó thắng chiết phục, tốt xấu khó thắng phục, cho nên Sắc thắng phục đã ở trong cõi Vô sắc cũng được tự tại, cho nên lấy Nan thắng chỉ lập Sắc thắng xứ, các môn khác cũng như trước.

Trong ba môn giải thoát đầu, luận này có hai môn:

  1. Giải thích tên chung.
  2. Giải thích tướng riêng.

Còn lại Thắng kiến… các nghĩa sai biệt đều rộng như Đối Pháp luận quyển 13 và Hiển Dương quyển nói, văn phân hai đoạn:

1. Giải thích tên của Thắng xứ.

2. Giải thích riêng nghĩa của ít nhiều… Xứ là Sở duyên, Thắng là Năng duyên. Đoạn văn thứ nhất có ba phần: một là nêu; hai là trình bày; ba là nêu sai biệt.

– Biến xứ thứ ba lấy sáu môn phân riêng:

1. Giải thích tên chung: Đối với Thắng giải sự, là giải thích nghĩa của Xứ, tùy chỗ thích ngay các Cảnh của các giải thoát trước. Sinh biến thắng giải, là giải thích nghĩa của biến khắp, đây là mượn Thắng giải làm Biến tưởng.

2. Trình bày: Danh là địa, thuỷ, hoả, phong, thanh, hoàng, xích, bạch, Không xứ, Thức xứ, như trong kinh nói là Địa biến xứ, một có thể giải thích rõ trên, dưới, bên cạnh, Vô nhị và Vô lượng, như vậy cho đến Thức khắp trên, dưới, bên cạnh, Vô nhị và Vô lượng. Trong đây chỉ giải thích Vô nhị và Vô lượng, ngoài ra như Hiển Dương quyển nói.

3. Phế và Lập: Luận tự nói, Du-già cũng nói, nhưng do Sở y Chân như biến mãn, thì Năng y Sắc phi sắc cũng lại biến mãn, Sở y tạo sắc trong Năng y Sắc biến mãn, thì Năng y tạo sắc cũng biến mãn, chỉ nói Thật hiển Sắc biến mãn trong Năng y, không nói Giả hiển hình cũng biến mãn, chỉ nói Sở y Thật xúc biến mãn, không nói Năng y Giả xúc cũng biến mãn, đã nói Sắc cảnh sở quán không biến mãn, cũng nói Thức cảnh năng quán biến mãn, còn lại là không biến mãn cho nên không phải Biến xứ. Nhưng trong kinh Niết-bàn, quyển 31 ghi: “Trừ Hỏa lấy Vô sở hữu xứ sở” là ngoại đạo thờ Hỏa lấy Hỏa làm Thiên, nói Thể của Hỏa đầy khắp khiến cho tăng thêm chỗ chấp đó, cho nên đối với căn cơ đó, trừ Hỏa biến xứ, Vô sở hữu xứ, khi có quán sát, thì quán sát biến khắp, không có một chút cảnh nào là Sở hữu sở vô biến khắp, cũng gọi là Biến xứ. Trong các luận này, nương vào Cực tự tại, đã mới tu Biến xứ quán, không có chút ít Cảnh sở hữu nào thì không cần quán Thức sở vô khắp tất cả, không lập Biến xứ, Phật đối với Giả danh kia, đối với Thật danh này mà nói.

4. Cảnh sở duyên: quyển 2 ghi: “Lại nữa, mười Biến xứ do Lực sở duyên của Thắng xứ, mà tướng của nó sai biệt phải biết”. Đây là dùng đại chủng và tướng Chân như làm Sở duyên. Nếu không như thế thì Sở y không khắp, Năng y cũng đáng lẽ không thành biến mãn. Do cảnh Chân như cực biến mãn cho nên Năng y cũng được thành tên Biến mãn. Lại nữa, tướng của Không xứ, Thức xứ và Chân như làm Sở duyên, không những chỉ Hữu vi làm Cảnh mà hiện tại lấy Sắc xứ, Xúc xứ… bốn Uẩn và Chân như làm Sở duyên.

5. Xuất Thể tánh: Câu-xá luận ghi: “Tám Biến xứ đầu chỉ từ chỗ xuất của giải thoát thứ ba, hai Biến xứ sau tức là hai giải thoát kia”. Luận này tám Biến xứ đầu thì lấy Tue, hai Biến xứ sau thì lấy bốn Uẩn làm Tự tánh, tám Biến xứ đầu vì khéo Thanh tịnh, có thể dẫn Giải thoát thần thông và Chuyển biến thần thông của bậc Thánh, tuy nương vào bốn Địa mà có, nhưng không thể tùy ứng từ ba giải thoát đầu, Thắng xứ và Biến mãn chỉ có giải thoát thứ ba, cho nên luận này nói: “Hữu sắc như vậy, các Biến xứ định, Hậu biên của cõi Sắc đều từ chỗ xuất của giải thoát thứ ba”, lý đồng với Câu-xá, là trước chung đường.

6. Hỏi đáp Phân biệt. Hỏi: Thắng xứ dẫn sinh thì Biến xứ mới khởi, tại sao Thắng xứ không có hai Giải thoát sau và bốn Giải thoát đầu? Đáp: Thù thắng chế phục Sở duyên mới sinh Biến quả, vì quả pháp thù thắng, lại thêm sáu thứ nhân, Thắng xứ chỉ chế phục Cảnh thù thắng, không nói các chỗ khác. Dụng của Biến xứ dụng thù thắng, đây là đoạn văn dưới nói dẫn sinh thần thông. Thắng xứ kém là chỉ có Thắng phục Sở duyên không thể dẫn sinh công đức rộng, các nghĩa của môn khác, phải biết là như Giải thoát. Quyển 2 ghi: “Tu mười Biến xứ có thể làm năm Sự”, như luận đó rộng nói.

Trong Tổng liệu giản thứ tư có ba đoạn:

  1. Giải thích thứ lớp của giải thoát, Thắng xứ và Biến xứ.
  2. Giải thích tác dụng của Biến xứ, lấy thí dụ để hiển thứ lớp của ba pháp.

Các thứ lớp này lược có ba nghĩa:

Nghĩa thứ nhất có hai môn là: 1. Tùy Chuyển lý môn, chính là môn này. 2. Y Chân thật lý môn, quyển 3 ghi: “Thắng xứ và Biến xứ là Năng thanh tịnh đạo của chư giải thoát”. Hiển Dương quyển ghi: “Do các Thắng xứ mà Sở duyên thù thắng, do các Biến xứ mà Sở duyên biến mãn, phải biết có thể khiến cho giải thoát và thanh tịnh.

Nghĩa thứ hai là trong Chân thật lý môn: 1. Nhất thiết tu hành môn, chính là văn của luận này. 2. Thành mãn môn sau, chính là văn của các luận kia.

Nghĩa thứ ba là: 1. Y như Lượng trí tu môn, tức là văn của luận này. 2. Y như Lý trí tu môn, tức là văn của các luận khác. Trước hết y theo thế tục trí mà khởi Thắng tri kiến, rồi kế đó y theo Như lý trí, là nhập Biến xứ giải thoát.

Thắng xứ thần thông, là tùy chỗ ý giải đều có thể toại ý, Viễn giải là Cận, khoảng co duỗi cánh tay đến Sắc cứu cánh. Chuyển biến thần thông, là chuyển đổi hình cũ, mà làm hình tướng khác. Lại nữa, Thắng giải thông với Ý giải tư duy chuyển biến thần thông có thể thành sự thật.

Trong giải thích Tông yếu của kinh trước có ba đoạn, đến đoạn thứ hai sau giải thích Đẳng trì sẽ trình bày riêng, có mười một môn. Dưới đây giải thích mười môn, thiếu môn thứ 11, như trước đã giải thích.

Trong “ba loại Tam-ma-địa”, văn phân ba đoạn:

  1. Thuyết minh biệt tướng Hành cảnh của Tam-ma-địa.
  2. Thuyết minh đồng tướng Biệt cảnh của Tam-ma-địa.
  3. Giải thích thứ lớp vấn nạn trước sau.

Một môn thứ nhất là An lập Đế hạnh, môn thứ hai của nó là Phi an lập hạnh, là tướng hạnh riêng của môn thứ nhất, một môn kế đó thông với Tướng hạnh, đó là sai biệt.

Đoạn văn thứ nhất, từ câu “thứ nhất là nêu ra Hành tướng của không Tam-ma-địa, phải biết Không tánh lược có bốn loại” trở xuống, là tổng giải thích Không tánh sai biệt, Hiển Dương luận quyển 2 ghi: “Không, có hai giải thích là Sở tri và Trí sở tri”, là chúng sinh và pháp, trong tánh Biến kế sở chấp thì đây là Nhị vô tánh, và Vô ngã hữu tánh khác. Trong các pháp, chỗ chấp tánh vô, tức là Vô ngã hữu tánh; Vô ngã hữu tánh tức là chỗ chấp tánh vô, tức là lấy tánh vô nhị của Hữu và Phi hữu trong đây gọi là Sở tri không. Không trí, là duyên cảnh kia biết rõ như thật, luận đó có ý nói, chỗ Chấp pháp, Không tánh hữu tình và Không tánh Chân như đều gọi là Sở tri không. Khi quán các pháp kia không có, thì thấy các pháp này có, khi chứng các pháp này có, thì thấy các pháp kia Không, Hữu và Không không hai, đều gọi là Cảnh không, đây là nói Sở chứng sở không của Không hạnh, nếu người nào có thể quán tâm đó thì liền gọi là Không trí. Chỗ nói trong đây là đối với Viễn ly hữu tình mạng… tức là Không cảnh của Sở không trong Sở quán. Tâm trụ một duyên, tức là Không trí kia. Đây là y theo Tam thừa thông với Sở quán không, chỉ nói xa lìa hữu tình mạng… chỉ nói nhân Không mà không nói pháp, chỉ nói Sở không mà không nói Sở chứng không. Luận kia nói Vô nhị, là song song hiển rõ Hữu và Vô, đây là nói Sở vô, không phân tích Chân hữu, cho nên không trái nhau.

– Trong tổng giải thích Không sai biệt, có hai loại giải thích: a. Y theo bốn thứ Không tánh của Vô học. b. Trình bày bốn thứ Không sai biệt của Hữu học.

Nhưng trong bốn Không, một Không đầu là Sở quán sát không, chính là quán Cảnh, ba Không sau là Thành mãn vị, chỗ trừ của Nhân không giả gọi là Không, do quán sát Không, cho nên “Không” không có chỗ chấp, ba loại Không sau cũng vậy, cho nên giả gọi là Không. Quả kia Không, là Không mãn vị, vì do quán Không cho nên phiền não đều diệt. Nội không, là do quán Không cho nên Nội kế chấp diệt. Ngoại không, là do quán Không cho nên Không, không có Dục và Ái.

Trong Hữu học là bốn Không sai biệt, “lại nữa, người tu hành”, là chư Phàm thánh hữu học. “Do quả kia Không, hoặc có khi tác ý tư duy ngoại Không…”, đây là do mong quả kia không, cho nên tư duy hai cảnh trong ngoài làm Không. “Do lực mà tâm đều chứng hiểu”, là do lực mong cầu quả kia Không và do lực quán sát Không mà đối với trong ngoài Không đều có thể chứng hiểu, có thể chứng hiểu rồi, thì quả kia Không và quán sát Không cả hai đều viên mãn. Hiện tại luận này thì hiển Không vô ngã hạnh gọi là Không hạnh, vì Không không có hữu tình và pháp Ngã. Ngã tánh, Ngã dụng, Ngã thể, Ngã ái, cả hai đều Không, tùy chỗ thích ứng của nó gọi là Không vô ngã.

Trong Vô nguyện, “là đối với năm Thủ uẩn tư duy Vô thường, hoặc tư duy Khổ”, đây là nói năm Thủ uẩn pháp của ba cõi, gọi là Cảnh vô nguyện. Tâm trụ một duyên, gọi là Tam-ma-địa. Hiển Dương cũng ghi: “Vô nguyện có hai loại: một là Sở tri; hai là Trí”, chính là cùng với luận này đồng, tức là Vô thường và Khổ đều tập hợp tại bốn Hạnh, gọi là Vô nguyện hạnh. Đây là lấy Vô thường hạnh và Khổ quả hạnh nhiếp Nhân hạnh.

– Trong Vô tướng Tam-ma-địa:

  1. Giải thích Hành tướng.
  2. Giải thích kinh kia, tức là đối với các Thủ uẩn kia diệt, Tư duy tịch tĩnh, đó là Vô tướng cảnh.

Tâm trụ một duyên, đó là Vô tướng Tam-ma-địa. Hiển Dương luận ghi: “Vô tướng có hai loại là Sở tri và Trí”. Sở tri, tức là Sở tri Không cảnh, do cảnh tướng này mà tất cả các tướng không hiện hành. Trí thì nói như trước. Đây là nói trong Không cảnh ở trước, Không tướng của Chân như, các tướng không hiện hành gọi là Vô tướng cảnh, tức là các thủ Uẩn diệt trong luận này, không nói Sở chấp Không gọi là Vô tướng cảnh. Trước đã nói nhân theo chứng kia Không, mà Sở không và Sở chứng không cả hai đều gọi là Không. Luận này chỉ nói Sở chứng Không gọi là Vô tướng cảnh, cho nên cùng với ở trước khác nhau, tức là diệt bốn Hạnh gọi là Vô tướng hạnh.

Hỏi: Bốn Hạnh của Đạo đế không phải Tam đẳng trì, tại sao Vô nguyện Vô tướng nói là tâm Tam-ma-địa, còn Không thì không nói?

Đáp: Vì đây là quán Hữu, xứng làm tâm kia, vì tâm quán Không, tất cả đều khiển trừ, Không không nói là tâm, còn lại hai Hạnh thì nói là Hữu.

Trong “sau đây giải thích kinh kia”, văn phân ba đoạn:

1. Giải thích không thấp và không cao.

2. Giải thích Phương tiện và Phương tiện quả.

3. Giải thích hiểu rõ và Công đức hiểu rõ “Vì hai tướng nghịch thuận không tương ưng”, là duyên trái với cảnh thì tâm thấp, duyên thuận với cảnh thì tâm cao. Luận này không có hai tướng thì gọi là không thấp không cao.

Lại nữa, hoại Thế đế trái với Tục cảnh gọi là thấp, chấp tâm tồn tại mà lập thuận với Chân cảnh gọi là cao; Vô tướng hạnh lìa cả hai thứ gọi là không cao thấp, đây là chẳng hoại Thế đế, tức là không tư duy tướng Nhất thiết; không chán, không hoại… gọi là không thấp, đây là đối với Vô tướng giới, vì Chánh tư duy; không thuận với Kiên chấp gọi là không cao.

Trong Phương tiện và Phương tiện quả:

  1. Giải thích Phương tiện.
  2. Giải thích từ câu “họ lại niệm niệm tự sách tấn tự cố gắng” trở xuống, giải thích Phương tiện quả.

– Tướng là Cảnh tướng. Tướng này có hai loại:

  1. Hữu lậu gọi là Tướng, Vô lậu gọi là Vô tướng.
  2. Hữu vi gọi là Tướng, Vô vi gọi là Vô tướng.

Nếu y theo nghĩa thứ nhất thì các Hậu đắc trí lấy nghĩa sau hoặc nghĩa thứ nhất làm Bản chất. Hạnh gọi là Vô tướng, Hạnh tức là bốn Hạnh của Diệt, hoặc là bốn Hạnh của Đạo. Nếu y theo nghĩa thứ hai, thì Vô phân biệt gọi là Vô tướng hạnh, ngược lại hai hạnh này thì gọi là Hữu tướng hạnh. “Đây là trong Phương tiện, đối với các tướng kia chưa có thể giải thoát”, là tại Hữu lậu vị, chưa giải thoát Hữu lậu tướng, cho nên tùy Tướng thức trong tất cả thời nhiễu động tâm đó, Tâm sở tư trạch này mới có thể nắm lấy được Vô phân biệt trí quả, giải thoát tất cả Tùy tướng của Hữu lậu, gọi là Phương tiện quả, đối với giải thoát này, cũng khéo giải thoát mặc tình mà trụ, gọi là Cực giải thoát, tức là thông với hai vị Hiển liễu quả của Căn bản trí và Hậu đắc trí. Trong Công đức Hiểu liễu, Phiền não Đoạn và Diệt đế, gọi là Hiểu liễu quả. Hiện pháp lạc trụ và Đạo đế gọi là Hiểu liễu công đức, là Sở hiểu liễu của Vô tướng hạnh, tức là bốn Hạnh của Đạo đế cũng là Vô tướng hạnh. Văn trước sau rộng hẹp khác nhau.

Đoạn văn thứ hai, “nếu đối với xứ này không có vật kia…”, Tamma-địa hạnh, khác Cảnh nhưng đồng Tướng, vì y theo Nhất chân quán thì có đủ ba nghĩa. “Tại sao trong đây trước nói Không tánh…”, đây là đoạn thứ ba, giải thích ba chữ “thứ lớp”. Có ý muốn hỏi rằng: “Trong bốn Hạnh của Khổ, trước nói Vô thường và Khổ, sau nói Không và Vô ngã, hiện tại trong luận này, trước nói Không hạnh, sau nói Vô nguyện hạnh, lẽ nào không trái nhau”? Luận này có ý đáp rằng: “Trong mười sáu Hạnh, trước nói Vô thường, từ Kiến đạo về trước, trước hết quán Vô thường cho đến Vô ngã, nhập Chân kiến đạo, nương vào Tiền quán này, cho nên trước nói Vô thường sau nói Vô ngã. Sau khi nhập Kiến đạo, ban đầu chứng Vô ngã, sau đó đối với ba cõi mới không có nguyện cầu. Vô thường quán và Khổ quán mới được thanh tịnh”, cho nên Đẳng trì này trước hết nói đối với Không, kế đó thuyết minh Vô nguyện, cho nên hai nghĩa của thứ lớp này không đồng.

Lại hỏi: Tại sao trong luận này trước trình bày Vô nguyện, kế đó nói Vô tướng, như Hiển Dương luận quyển 2 ghi: “Tại sao trước nói Vô tướng, sau trình bày Vô nguyện?”

Đáp: Đây là nói chủ yếu đối với ba cõi, trước hết không có nguyện cầu mới đối với Vô tướng chứng thanh tịnh viên mãn, cho nên trước nói Vô nguyện, sau nói Vô tướng, ban đầu chứng Nhị không vô, tức là đạt Vô ngã hữu, ở sau Không tức là nói Vô tướng, mới khiến cho Vô nguyện viên chứng thanh tịnh. Đây là y theo sau khi Vô tướng viên mãn, sau đó y theo lúc đầu Vô nguyện viên mãn, cho nên không trái nhau. “Ba loại Tam-ma-địa này là các môn phân biệt”, là có tám môn phân biệt:

6. Sai biệt: Quyển 3 và Hiển Dương quyển 2 ghi: “Nếu không có sai biệt, tổng nói là Không, Vô nguyện, Vô tướng, thông với chỗ thành của Văn tư tu làm tánh. Hữu lậu vô lậu hoặc Định hoặc Tán thì chỉ có

Thiện không phải pháp khác, Gia hạnh không phải Sinh đắc, hoặc nói “Không, Vô tướng, Vô nguyện, Tam-ma-địa”, là nói chỉ có chỗ thành của Tu, vì Hữu lậu vô lậu chỉ có Định không phải Tán. Nếu nói “Không, giải thoát môn…”, chỉ là Vô lậu chỗ thành Tue của Tu, vì không phải Tán văn và Tư.

7. Giải thích tên gọi: Không, là sinh pháp Vô ngã tánh không phải Hữu. Vô nguyện, là không có nguyện cầu. Vô tướng, trong Phật Địa luận quyển 1 ghi: “Lìa mười tướng Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Nam, Nữ, Sinh, Lão, Tử”. Kinh Niết-bàn quyển 13 nói có mười ba tướng, là đối với tướng trên thêm ba tướng nữa là Khổ, Lạc và Xả. Nghĩa của Tamma-địa thì nói như trước. Giải thoát, có nghĩa là lìa trói buộc, hoặc do duyên giải thoát này mà lìa các Đế phược, hoặc do khởi giải thoát này mà chứng Vô vi giải thoát. Y theo hai nghĩa này cho nên môn của giải thoát gọi là Giải thoát môn, hoặc Thể Vô lậu thì giải thoát tức là Môn.

8. Xuất Thể tánh: Là chỉ lấy Đẳng trì làm Tánh. Tuy Văn tư vị có Đẳng trì kia đồng thời, vì Đẳng trì thù thắng. Hoặc lấy Định Tue mà làm Tự tánh, vì trong giải thoát, Định và Tue thù thắng, tương ưng với bốn Uẩn, làm quyến thuộc với năm Uẩn.

9. Ba Trí tương nhiếp: Là đồng thời thông với ba Trí, vì thông với Thế trí và Xuất thế trí của Văn tư tu, sau Gia hạnh thì đắc Lý thông của hai Trí. Trong đoạn văn kế trước nói Cảnh đồng mà Hạnh khác, cho nên Căn bản trí cũng có đủ ba hạnh, nghĩa nói riêng ba hạnh, không phải ba hạnh khác thời mà khởi.

10. Mười sáu Hạnh tương nhiếp, lược có tám môn bất đồng:

1- Y Tiểu thừa luận, là Không nhiếp hai hạnh, Vô nguyện nhiếp mười hạnh, Vô tướng nhiếp bốn hạnh. Đây là nói không đối với Hữu vi mà nguyện cầu.

2- Y theo Du-già, trong đoạn văn Hiểu liễu quả kế trước, Không cũng giống như Tiểu thừa trên, Vô nguyện nhiếp sáu, Vô tướng nhiếp tám. Lại nữa, quyển trong giải thích ba tánh, do tánh Biến kế sở chấp mà lập Không giải thoát môn, do tánh Y tha khởi mà lập Vô nguyện giải thoát môn, do tánh Viên thành thật mà lập Vô tướng giải thoát môn. Duy Thức cũng nói, tùy theo tướng mà mỗi mỗi đều có một tướng, Không tướng và Vô nguyện tướng phải biết như kế đó. Lại cũng nói tâm Vô lậu… dung nhiếp hai tánh, vì nhiều duyên mà sinh; nhiếp thuộc Y tha, vì không có nguyện điên đảo, Viên thành thật nhiếp cho nên bốn Hạnh của Đạo cũng thông với Vô tướng.

3- Y theo đoạn văn đầu của luận này, bốn hạnh của Đạo không phải do ba môn nhiếp. Quyển 28 cũng ghi: “Sở tri có hai loại là Hữu và Phi hữu, y theo Phi hữu mà lập Không. Hữu có hai loại: một là Hữu vi; hai là Vô vi. Chỗ trói buộc của ba cõi gọi là Hữu vi, y theo đó lập Vô nguyện giải thoát môn, các Niết-bàn gọi là Vô vi, y theo đó mà lập Vô tướng giải thoát môn, cho nên biết bốn Hạnh của Đạo đế không phải chỗ nhiếp của ba môn. Quyển cũng ghi: “Không nhiếp hai hạnh, Vô nguyện nhiếp sáu hạnh, Vô tướng nhiếp bốn hạnh. Các hạnh của Đạo đế là nhân thanh tịnh, không phải ba môn nhiếp, vì không phải Hữu lậu cho nên không phải Vô nguyện.

4- Y theo Hiển Dương quyển nói, ba môn cũng như trước, quyển nói. Nhưng bốn hạnh của Đạo thông với ba hạnh, luận kia nói, duyên Trí không đạo, làm Đạo như hạnh và Xuất hạnh, đây cũng là Không hạnh; duyên trí Vô tướng đạo, làm Đạo như hạnh và Xuất hạnh, đây cũng là Vô tướng hạnh; duyên trí Vô nguyện đạo, làm Đạo như hạnh và Xuất hạnh, đây cũng gọi là Vô nguyện hạnh. Điều này có ý nói, duyên Không đạo mà làm Không hạnh… tức là Không hạnh, Vô tướng hạnh và Vô nguyện hạnh, cho nên Lý bốn hạnh của Đạo thông với ba môn.

5- Y theo quyển 2, Không nhiếp mười sáu hạnh, là Khổ Tập Diệt Đạo, mỗi mỗi đều có bốn hạnh, đều là Vô ngã. Luận đó nói, tướng trong năm pháp thông với ba loại, vì Chân như chánh trí cũng là Không cảnh. Vô nguyện nhiếp tám hạnh, Khổ và Tập mỗi mỗi nhiếp bốn hạnh, tướng thì thông với ba loại, tất cả Hữu lậu đều không có nguyện. Tên gọi và Phân biệt là Không cảnh và Vô nguyện cảnh. Vô tướng nhiếp bốn hạnh, tuy đối với tướng… cũng có Vô tướng hạnh, nhưng chỉ có quán Diệt đế, tức là quyển 9 nói, Không giải thoát môn nhiếp tám trí pháp loại, bốn Đế gồm hết Vô sinh, Vô nguyện nhiếp sáu trí pháp loại, Khổ và Tập bao gồm hết Vô sinh, Vô tướng nhiếp năm trí pháp loại, Diệt tận Vô sinh trí.

6- Y theo quyển 8 thì mười sáu hạnh đều là Không hạnh, hai hạnh của Khổ là Vô nguyện hạnh, là Vô thường và Khổ. Bốn hạnh của Diệt là Vô tướng hạnh, luận kia nói, do sức tăng thượng của ba giải thoát môn, kiến lập bốn loại pháp Ôn-đà-nam là y theo Vô nguyện; lập tất cả Hành vô thường, tất cả Hành khổ, là y theo Không; lập tất cả pháp Vô ngã, là y theo Vô tướng; lập Niết-bàn tịch tĩnh, là y theo Tứ lược tập, cho nên khởi nói như vậy, không trái với các môn khác.

7- Không, không phải mười sáu hạnh, vì duyên Nhị ngã vô, không phải duyên Đế. Vô nguyện nhiếp mười hai hạnh, Vô tướng nhiếp bốn hạnh, hoặc Vô nguyện nhiếp tám hạnh, Vô tướng cũng tám hạnh, vì Y tha và Viên thành là Thể của hai môn. Quyển ghi: “Ba giải thoát môn, như kế đó quán Biến kế sở chấp…”.

8- Mười sáu hạnh đều thông với ba hạnh: Trong Vô phân biệt trí, nghĩa nói mười sáu hạnh, nghĩa nói ba giải thoát môn, đều nhiếp nhau, tức là các nghĩa này trước đã nói hạnh khác mà cảnh đồng. Duy Thức cũng nói, cảnh giới sở hành của ba giải thoát môn, cùng với ba tánh nhiếp nhau, đúng lý ra thì đều thông, lược nói như vậy, tám đoạn văn không đồng, chỗ mong thì riêng khác, lý không trái nhau, các bậc hữu trí càng xem kỹ các dị văn, phải tùy nghĩa mà giải thích, khỏi nhọc chất vấn.

11. Y theo Địa phân biệt: Hữu lậu, thông với mười một Địa, là cõi Dục. Sơ cận phần và trung gian gồm tám Căn bản định cõi trên, bảy Cận phần thì không phải có quán này, vì hành giải hẹp. Vô lậu thông với mười Địa, trừ cõi Dục ra.

12. Y theo Thân phân biệt. Hữu lậu và Vô lậu có hai mươi sáu hạnh, thông với thân trong ba cõi, đều được khởi.

13. Trùng tam Đẳng trì: Tuy không có văn nói, lý cũng thông với Hữu, nhưng không phải chỉ có Vô học phi thời khởi giải thoát, vì Dị sinh hữu học cũng có thể khởi, không phải chỉ có Hữu lậu thông với Vô lậu, cho nên Hiển Dương quyển ghi: “Bốn hạnh của Đạo đế thông với giải thoát môn, tức là hạnh của Tam đẳng trì trùng duyên, vì là Vô lậu, như lý nên biết”. Hiện tại văn của luận này tự trình bày ba thứ Biệt tướng và giải thích nạn hại trước sau không đồng, gồm các môn trước hợp chung lấy mười môn phân riêng. Luận rằng, “chỉ trừ các Tam-ma-địa Vô lậu”, đây là nói do chiêu cảm mà sinh, Tam-ma-địa của các Địa cõi trên, Vô lậu cũng sinh cho nên trừ nó.

Đoạn văn thứ ba, giải thích Tam-ma-địa của Đại thừa và Tiểu thừa. Văn có ba đoạn, trong đoạn thứ ba giải thích Vô lượng, văn có bốn đoạn:

  1. Giải thích nghĩa của Vô lượng.
  2. Giải thích kinh Tu Vô Lượng Phương Tiện.
  3. Giải thích Hành tướng sai biệt của bốn Vô lượng.
  4. Giải thích kinh Vô Lượng Sai Biệt.

Đại tâm Tam-ma-địa trong đây, tức là đoạn thứ hai, giải thích kinh Tu Vô Lượng Phương Tiện, trong đó có bốn đoạn:

  1. Tổng trình bày kinh.
  2. Giải thích nghĩa Vô lượng Tam-ma-địa…
  3. Giải thích nghĩa Thắng liệt chỉ có hai…
  4. Giải thích Quang minh sai biệt của hai Định đầu.

Vô Lượng, tức là Đại tâm, Tiền phương tiện gọi là Đại tâm, sau khi thành mãn thì gọi là Vô lượng. “Tưởng quang minh của chư Thiên sinh thắng giải…”, đây là nói Bồ-tát v.v… trước đắc Sơ định, muốn khiến cho cực tịnh bốn Vô lượng Mãn mà càng tu nhân này. Từ câu “mới tu thì Quang minh sáng khắp được một tàng cây” trở xuống, gọi đó là Liệt, sau đó cho đến biên tế của Đại địa, Đại hải, thì gọi đó là Thắng.

Trong đoạn thứ ba giải thích nghĩa Thắng liệt chỉ có hai v.v… có bốn loại: Giải thích Tác ý được thành chỉ có hai, là tùy theo Thắng giải mà phân đồng thi thiết, thắng giải phân đồng như một tàng cây mà khởi ý thi thiết thì gọi là Liệt, cho đến biên tế của đại hải, khởi ý thi thiết thì gọi là Thắng, như vậy triển chuyển cho đến một châu thì gọi là Thắng, đều do Thắng giải thi thiết phân đồng hai phần, vì Tác ý (khởi ý) là hai phần cho nên Định thành chỉ có hai, vì Định thành chỉ có hai cho nên chỗ chiêu cảm quả pháp hạnh của đoạn thứ ba thành chỉ có hai, vì Hạnh thành chỉ có hai cho nên đoạn thứ tư đối với thi thiết hữu tình đang đắc quả, thắng liệt thành hai thứ.

Trong Vô lượng hành tướng sai biệt thứ ba, như trong kinh Bồ-tát Tạng quyển , kinh Niết-bàn quyển 1, kinh Thập Địa quyển , Dugià quyển 3, Hiển Dương quyển , Đối Pháp quyển 13, Phật Địa luận quyển v.v… giải thích, đến Bồ-tát địa thì thuyết minh rộng nghĩa của Môn.

Trong ba loại hữu tình, Biệt khởi làm hai loại đầu, Tổng duyên làm một loại sau. Đối với không Khổ không lạc, thì ban cho Lạc tác ý, là ba loại Từ bi và Hỷ, như thứ tự phối hợp. “Tổng đối với ba loại hữu tình này muốn ban cho Lạc để khởi Dục, khiến cho hữu tình kia không ưa thích tư duy ngưỡng mộ, không có Tác ý nhiễm ô …”, đây là giải thích hành tướng của Xả, tức là lấy ba hữu tình trước làm cảnh.

Hữu tình không Khổ không Lạc, vì Si tăng thượng, phần nhiều ưa thích tư duy ngưỡng mộ Khổ tập của sinh tử, mê đối với cảnh giới, vì trước đã ban cho Lạc rồi, cho nên bây giờ muốn khiến cho hữu tình kia không nên ưa thích tư duy ngưỡng mộ, mê say Khổ tập của sinh tử, vì xả Si của hữu tình đó.

Hữu tình có Khổ, phần nhiều sinh Sân khuể, trước bạt trừ Khổ rồi, bây giờ muốn khiến cho hữu tình kia không sinh Sân khuể.

Hữu tình có Lạc, phần nhiều sinh Tham dục, trước kia không sinh tật đố, vui thích sự không lìa đó, vì muốn khiến cho kia không khởi Tham dục, đối với ba loại hữu tình, khuyên xả bỏ ba loại mà khởi Tác ý không nhiễm ô này, quyển ghi: “Bồ-tát ngay tại ba loại hữu tình Vô khổ Vô lạc, Hữu khổ và Hữu lạc, tùy thứ tự của nó mà phát khởi xa lìa Hoặc tăng thượng Ý lạc của si sân tham, duyên rộng đến mười phương, gọi đó là Xả. Hiển Dương luận ghi: “Từ lấy Vô sân, Bi lấy Bất hại, Hỷ lấy Bất tật”. Kinh Niết-bàn cũng ghi: “Từ trừ Sân đoạt mạng, Bi trừ Sân đánh đập, Hỷ trừ Bất lạc”. Đại Trí Độ luận ghi: “Ba loại trước lấy Vô sân làm Thể”, cùng với luận này đồng, vì đều là Tánh vô sân. Kinh Niết-bàn cũng ghi: “Từ đoạn Tham dục; Xan, Lạc và không cho gọi là Tham dục, duyên với Lạc của tự mình mà sinh; đoạn mạng của chúng sinh gọi là Sân”. Luận này nói, không đoạn mạng gọi là Vô sân, Vô sân duyên với Lạc mà sinh, Vô sân duyên với hữu tình mà khởi, cho nên người tu Từ quyết định đoạn tham sân. Quyển 11 trước cùng với Hiển Dương luận và kinh Niết-bàn đều nói xả trừ Tham dục và Sân khuể, lấy Vô tham Vô sân làm tánh. Dưới đây quyển 1 nói xả trừ Tham dục, Đại Trí Độ luận nói tức là Vô tham, cho đến quyển 3 nói ba thiện căn làm tánh. Đại Trí Độ luận v.v… nói: “Y theo duyên xả Lạc của chính mình mà thí cho người khác, cho nên Thể là Vô tham”. Kinh Niết-bàn cũng ghi: “Tự xả Lạc của chính mình mà thí cho người khác, gọi đó là đại xả”. Hai pháp thuận nghịch sinh khởi, phần nhiều là khởi Tham và Khuể, cả hai bình đẳng khuyên trừ, tướng tăng trưởng thêm gọi là Xả. Knh Niết-bàn v.v… ghi: “Hai pháp làm tánh, pháp giới hữu tình tổng làm ba tụ, bình đẳng hành Xả, cho nên lấy ba thiện mà làm tự tánh, mỗi mỗi kinh luận đều căn cứ theo một nghĩa, lý không trái nhau.

Đoạn văn thứ tư, “kinh nói lấy Từ đồng thời với hành tâm…”, đây là giải thích sai biệt của bốn Vô lượng, văn kinh có ba đoạn:

  1. Giải thích thông với các kinh.
  2. Vấn đáp phân rõ, nhân đó riêng giải thích kinh.
  3. Kết thành Thánh hạnh.

Đoạn văn thứ nhất có mười câu Lợi ích và An lạc. “Tất cả vô lượng chỗ hiển thị”, là trong bốn Vô lượng đều có hai câu, quyển ghi: “Ba An lạc đầu và một Lợi ích sau”, là luận đó nói ba An lạc đầu và hiện tại lợi ích của thế gian đều gọi là An lạc, một câu Lợi ích sau cùng với lợi ích sau khi xuất thế đều gọi là Lợi ích, cho nên có hai sai biệt. Luận này thì y theo bốn loại đồng thời có thể bạt khổ ban cho Lạc, đều thông với có thể ban cho đại quả và tiểu quả của phước trí, đều gọi là lợi ích, không có kẻ oán đối địch và không có não hại, ý nghiệp, ngữ nghiệp và thân nghiệp, như thứ tự mà phối hợp. Trong vấn đáp nhân theo đó giải thích kinh, luận này nói bốn Vô lượng là ba Thừa và ngoại đạo tu chung, chỉ y theo bốn Tĩnh lự của cõi Sắc, vì hành tướng rộng hơn. Từ thì nhớ nghĩ Định thứ ba, Bi thì nhớ nghĩ Không xứ… mà tu tập, không phải nhập các Định của Không xứ… mà tu bốn Vô lượng. Hoặc các Bồ-tát và Thanh văn quảng tue, y theo chỗ thấy sắc và tâm mà hiểu rõ tất cả pháp, thì tu bốn Vô lượng lý tuy không ngăn che, nhưng chưa thấy thuyết đúng thật. “Tâm Vô lậu địa của Vô sở hữu xứ biên tế sau cùng”, đây là y theo minh lợi đoạn Hoặc vô lậu. “Không phải Du quán”, vì thông với Hữu đảnh. “Như vậy tất cả đều là Thánh hạnh…”, đây là y theo thù thắng hạnh, chỉ có Thánh mới có thể tu, nếu là người Vô lậu thì Giác phần đồng thời hiện hành, nếu là người Hữu lậu thì Nhị thừa đồng khởi. Giác phần trước và sau, có Dụng đồng thời hiện hành dẫn Giác phần và Giác phần dẫn, do đây cũng gọi là Thánh hạnh.

Trong Nhất phần tu và Cụ phần tu, văn có hai đoạn:

  1. Giải thích riêng hai tu.
  2. Giải thích Định và Nạn.

Nhất phần tu là tư duy tướng quang minh, như giải thoát thứ nhất tư duy sắc tướng, như giải thoát thứ hai thì tư duy đủ cả hai, như khi tịnh giải thoát chưa thành mãn. Văn giải thích Định và Nạn có hai đoạn:

  1. Nêu.
  2. Giải thích.

Văn giải thích có ba đoạn:

  1. Vấn đáp Nạn.
  2. Từ câu “trong đây tối sơ” trở xuống, giải thích mười một tướng Nạn.
  3. Từ câu “Như vậy các nạn” trở xuống, kết thành tướng Chướng.

Nhân duyên, là nhân sở y của Định, duyên sở y của Định, tức là tu Định phương tiện…

Mười một Nạn:

1. Nghi sinh điên đảo nạn. Đối với tướng quang minh không khéo hiểu biết, chính là Giác thì liền có Nghi, vì mới thấy quang minh mà không khéo hiểu biết, đây là quang gì, sinh ra từ đâu, cho nên nghi ngờ điên đảo.

2. Từ câu “phương tiện chậm cho nên có bất tác ý” trở xuống, là Bất dục tác ý nạn, vì Bất dục tác ý quán quang minh tướng của Định cảnh trước, cũng gọi là Vô niệm định tướng nạn.

3. Từ câu “do không khéo gìn giữ căn môn…” trở xuống, là thô trọng Thuỳ miên nạn, cũng gọi là Tham v.v… phiền não nạn. Vì không gìn giữ căn môn cho nên dong ruổi tán loạn, thân khởi thô trọng, phần nhiều huân tập Thuỳ miên, hoặc do không gìn giữ căn môn, mà sinh các Hoặc của Tham…

4. Từ câu “mê hoặc nhiều giác ngộ thì liền tăng thêm Thuỳ miên…” trở xuống, là Đa sinh tư giác nạn, cũng gọi là Bất định nạn. Do nhiều tư duy giác ngộ mà tăng thêm hiện hành Hôn trầm Thuỳ miên, vì không thấy nhiều sắc quang minh của Định cảnh, niệm Thuỳ miên tăng trưởng, vì thấy nhiều sắc.

5. Từ câu “làm cực tác công dụng của hai sự này…” trở xuống, là tăng giảm Bất đẳng nạn, vì Lực tinh tấn thái quá thì liền không thông đạt, Thoái chuyển sinh mệt nhọc, chỗ muốn không thành, cũng như người bắt chặt và buông lỏng chim anh vũ, như nắm bắt nước và loài chim bay, nếu bắt chặt thì chim ngạt thở, nếu buông lỏng thì chim bay đi, tánh bồng bột trì trệ đó rất mệt nhọc, riêng lấy nó để làm thí dụ.

6. Từ câu “do tướng quang minh của Tư tâm…” trở xuống, là Thô sinh hỷ dược nạn, là quang minh của Tư tâm càng thấy sắc, quang minh và sắc đồng thời đều thấy, mong một mà được hai, cho nên sinh Thô hỷ.

7. Từ câu “các phương rực rỡ đều thấy…” trở xuống, là Biến sinh bố uý nạn, chợt thấy gió lốc quanh thân khắp sinh hoảng hốt, khắp thấy các tướng bất tường mà sinh kinh sợ.

8. Từ câu “người kia khi tu hành hoặc khi trụ lại…” trở xuống, là Dị cảnh tướng sinh nạn.

9. Từ câu “hoặc lại nhân theo chỗ tu tập Định…” trở xuống, là Hữu mạn tưởng khởi nạn.

10. Từ câu “hoặc nhiều ngôn luận, hoặc Tầm Tư lâu” trở xuống, là Đa ngữ tầm tư nạn, vì lấy ngôn ngữ làm nhân, vì có nhiều Tầm Tư, cho nên thân mệt nhọc khởi, gọi là Đa ngôn nạn.

11. Từ câu “hoặc lấy Định mà sinh tướng của quang minh…” trở xuống, là Cánh tư dị cảnh nạn, cũng gọi là Bất thủ định tướng nạn.

Thành Thật luận quyển 22 trước, phẩm Định nạn cũng nói mười một nạn, danh tự, thứ tự, thể tánh và hành tướng cùng với luận này có chút ít khác nhau, phải biết nghĩa phối hợp.

Trong phần Kết, “tuỳ chỗ thích ứng của nó mà chướng và tướng Nhân duyên”, là chướng các cảnh của quang minh và sắc… gọi đó là chướng Sở duyên; chướng tu phương tiện, gọi đó là chướng nhân duyên, căn cứ theo Tư như trước.

Đoạn văn thứ năm, ba Thọ đồng thời với Định, tùy theo Địa kia tăng mà các Địa khác tự nó Phi hữu.

Đoạn văn thứ sáu, trong bốn tu Định, “ban đầu đắc Hiện pháp lạc trụ trong Phương tiện đạo”, bốn Căn bản tĩnh lự, gọi là Hiện pháp lạc trụ, vì đắc Trụ này cho nên tu Cận phần định. Lại nữa, Căn bản địa chưa viên mãn thanh bạch, cho nên tu các Căn bản định khiến cho được viên mãn, lấy chung thiện định của Hữu lậu và Vô lậu làm Thể.

“Vì hiển sự tu tập chưa từng đắc Định…”, đây là giải thích câu vấn nạn các bốn Cận phần định và Căn bản định đều là mới tu Định, tại sao trong kinh chỉ nói Tiền phương tiện đạo của Sơ tĩnh lự”. Hiện tại giải thích câu này, để hiển tu tập chưa nhập mà đã từng đắc Định, vì Hiện pháp lạc trụ ban đầu chưa từng đắc, hoặc tu ba Địa của cõi trên đã từng đắc chủng loại, cho nên lược bỏ không nói. Câu-xá quyển 20 ghi: “Nêu pháp trước để hiển pháp sau”, đúng lý ra là thông với các pháp khác. “Phải biết đây là tại chỗ có tu Định của Tiền phương tiện đạo có thể phát khởi Thiên nhãn”, đây là tu Định thứ hai, chỉ lấy bốn Căn bản địa tu Thiên nhãn thông, chỗ có tu Định của Gia hạnh đạo và Vô gián đạo trước, các Đạo này thông với Hữu lậu và Vô lậu phải biết. “Có thể danh tự của chư Thiên như vậy…”, y theo Thú thù thắng mà nói, thật ra là thấy chung các Thú, Hữu cho đến rộng nói. “Chỗ có tu Định trong Phương tiện đạo của Đế hiện quán Dự lưu quả hướng”, Dự lưu quả hướng là Chân kiến đạo và Tướng kiến đạo, mười lăm tâm trước đều gọi là Phân biệt tue, vì đắc Dự lưu quả hướng này. Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp, chỗ có tu Định trong Gia hạnh đạo là tu thể của Dự lưu hướng quả này, chỉ là Hữu lậu làm tánh. “Hoặc vì tu tập các Vô ngại giải”, chính Vô ngại giải đó gọi là Phân biệt tue, y theo bốn Tĩnh lự… mà tu Phương tiện định này, là thể của tu Định này. “Thông với Hữu lậu và Vô lậu, là chỗ tu Định trong Phương tiện đạo của quả A-la-hán”, là quả A-la-hán, các Lậu đã tận, Kim cương dụ định và Gia hạnh đạo, làm thể của tu Định này. Trong đây tu Định thứ ba cùng với Tiểu thừa khác nhau, Tiểu thừa kia nói tu các Gia hạnh thiện của ba cõi, đắc Phân biệt tue, thể của Phân biệt tue thông với Văn tư và Tu cho nên thành sai biệt. Hiện pháp lạc trụ của quả Sơ tu định, trong tám Định rất thù thắng, cho nên riêng nói đắc Định này mà lập Sơ tu định. Năm thần thông ở trước, Phàm thánh đều đắc, Thắng tri và Thắng kiến chỉ thuộc Thiên nhãn, vì dẫn sinh thù thắng, để đắc các pháp này mà riêng lập tu Định, mới nhập Thánh vị thì chỉ có Dự lưu hướng, quả đó viên mãn thì chỉ có A-la-hán, để đắc thắng quả hai thời trước sau mà riêng lập Tu định thứ ba và thứ tư. Quả A-la-hán tức là Lậu tận thông, tuy là Hướng của một quả Nhất lai và Bất hoàn, cũng có mới đắc gọi là Siêu quả, nhưng không phải quyết định, cho nên lược bỏ không nói.

Đoạn văn thứ bảy, trong Tam-ma-địa của năm Thánh trí có ba đoạn:

  1. Nêu dẫn kinh.
  2. Trình bày năm trí.
  3. Riêng giải thích kinh.

Tự thể trí, là thuyết minh tự thể của Vô lậu trí. Bổ-đặc-già-la, là chỗ đắc của Thánh nhân, không phải chỗ thành của Phàm phu, trí này phỏng theo nhân loại, gọi là Bổ-đặc-già-la trí. Thanh tịnh trí, là vì trừ phiền não cho nên lậu không thể làm lậu. Quả trí, là Hiện pháp đắc lạc trụ, vì tương lai sẽ đắc Niết-bàn. Nhập xuất định tướng trí, là khéo nhập Định và xuất Định, vì không có quên mất.

Trong riêng giải thích kinh, có mười bốn câu, ba câu Thánh, Vô nhiễm, Vô chấp, là Tự thể trí, không phải chỗ tiếp cận của Phàm phu, là chỗ khen ngợi của bậc thông duệ. “Các bậc thông duệ đó đồng Phạm hạnh”, đây là ba câu Thường, không quở trách và hủy báng, là Bổ-đặcgià-la trí. Tịch tĩnh, Vi diệu, Đắc an ẩn đạo và chứng Nhất tâm thú, bốn câu là Thanh tịnh trí. Hiện tại an lạc và Hậu lạc dị thục hai câu là Quả trí. Chánh niệm mà nhập và Chánh niệm mà xuất hai câu, là tướng trí của nhập định và xuất định. “Chứng tâm Nhất thú, là vì đã đắc Vô tầm địa và Vô từ địa”, căn cứ theo đắc Mãn trí vị, thì đây là Hậu lạc của Vô lậu định. Nói Dị thục, là gần thì trợ giúp đắc quả Dị thục, xa thì đắc

Niết-bàn, mượn tên Dị thục để gọi chung cho Dị thục trí, Thể là Nhất hạnh tướng phần có năm thứ, trước nói năm hạnh tướng trí, chỉ có Thiện vô lậu, gọi là năm Thánh trí, Thành Thật luận quyển 19 có thuyết minh rộng trí này, dẫn kinh có khác chút ít, nghĩa thì không trái nhau.

Đoạn văn thứ tám, năm chi Tam-ma-địa của Thánh, trong bốn Tĩnh lự, Định của chư Hiền thánh, mỗi một Định phân làm bốn, quán sát an lập đoạn trừ kết phược, tất cả Thánh định làm chi thứ năm. Trong Thành Thật luận, Tứ thiền hợp chung làm ba chi, Hỷ tướng của Sơ thiền và Nhị thiền đồng làm một chi, Đệ tam thiền lấy Ly hỷ lạc làm một chi, Đệ tứ thiền lấy Thanh tịnh tâm làm một chi, y theo ba chi này có thể sinh Minh tướng và Quán tướng. Minh tướng đó cùng với Quán tướng làm nhân, có thể phá hoại năm Ấm, quán năm Ấm không cho nên gọi là Quán tướng, đây là y theo bốn Định mà riêng khởi Nhân không quán và Pháp không quán phân làm hai chi. Năm Quán này có thể đến Niết-bàn gọi là Thánh, văn phân ba đoạn:

  1. Nêu năm chi tổng dẫn kinh.
  2. Trình bày riêng kinh giải thích năm chi.
  3. Vấn đáp về Định tướng của năm chi.

Trong trình bày riêng kinh giải thích năm chi, giải thích chi thứ nhất có mười sáu câu, sáu câu đầu thuyết về Pháp, mười câu kế đó thuyết về Dụ. Trong Pháp thuyết thứ nhất, Ly sinh hỷ lạc một câu, các Tĩnh lự bất đồng, ngoài ra có thể thông với Hữu. Định sinh hỷ lạc là đã lìa Hỷ lạc thanh tịnh tĩnh lự, vì đó là tánh sai biệt của bốn Tĩnh lự, như trước đã giải thích, vì năm câu còn lại có thể có chung. Từ đây về sau trong các chi lại không có pháp thuyết, chỉ giải thích Dụ thuyết có khác nhau. “Ví như tue sáng suốt có thể tắm gội con người, hoặc các đệ tử kia…”, là sự tắm gội của Ấn Độ, có tắm gội cho người, thầy và đệ tử, cho nên lấy làm thí dụ. “Khí vật bằng đồng, bằng sành, vỏ sò…”, là thí dụ vì lìa Dục mà sinh Hỷ lạc. “Giáo thọ và giáo giới”, là như khi tắm gội thì lấy vật dụng bằng đồng đựng nước tro, bột đậu, bột tắm gội, đây là lấy ngôn giáo cũng như các khí vật kia, Sở thuyên của giáo có thể thuận theo khí vật kia mà ra khỏi Tầm… Các Thiện tịnh hạnh như bột đậu, bột mộc dục kia, tức là Vô gián đạo; dùng nước tắm rửa tức là giải thoát đạo, là Tầm thanh tịnh. “Mộc dục bác”, là Ấn Độ khi tắm gội xong, dùng quả cam cắt nhỏ, phơi khô làm thành bột, lấy mè tươi và dầu thơm hoà nhau, khiến cho thành sáp trơn không cứng không mềm, mới lấy thoa lên thân, để lấy sự thơm khiết trơn láng của nó, cho nên Mộc dục bác tức là bột cam khô, đây là thí dụ hành giả chưa đắc Định trở về trước, đang khô khan và thô trọng. “Liên đới với nhựa trơn”, là thí dụ Hỷ; hoà hợp dầu thơm và mè, là sau khi Định, là Hỷ tươi nhuận thân như lấy dầu hoà vào.

Thí dụ thứ hai có sáu câu. Núi có nghĩa là cao, vì xuất Sơ thiền. Đỉnh nhọn là đến Nhất vị. Thắng giải, là núi cao đỉnh nhọn chỉ có một ngọn. Trong Định thứ hai chỉ có Nhất ý môn, lìa ngoài các cảnh tán loạn của Tầm tứ. Suối là thí dụ cho các tịnh trong ngoài… lưu xuất các nước Hỷ lạc, bên triền núi lưu xuất dòng nước to như trục xe, cho nên gọi là trục nước. Trên suối nước chảy vọt lan tràn sợi nước to như sợi dây kéo múc nước cho nên gọi là dây nước, Hỷ thấm nhuần như trục nước, Lạc thấm nhuần như dây nước, thấm nhuần tương ưng Ý như “lưu xuất bên triền núi”. Kế đó là năm căn, như trên nói chảy vọt lan tràn, cho nên lấy thí dụ “vọt” và thí dụ “tràn” nói trên.

Trong thí dụ thứ ba, từ câu “nước thí dụ lìa Hỷ không có Tầm tứ”, cho đến “thí dụ hoa thai tạng đặt trong nước”, câu này có ý hiển thị Định thứ hai như “nước”, nhân theo Hỷ dao động vọt lên như hoa sen vọt lên mặt nước, hoa thí dụ cho Hỷ. Định thứ ba này lìa Hỷ, không có Tầm tứ cũng như nước, Lạc của nó cũng như nụ hoa thai tạng chưa nở, còn trong nước thì gọi là hoa thai tạng, cùng với Định thuận nhau không dao động vọt lên, cũng như hoa trong nước.

Trong thí dụ thứ tư, có năm câu, “siêu vượt tai hoạ”, là tám thứ tai hoạ, là Tầm, Tứ, bốn Thọ và hai Tức (thở ra vào), trong hợp chung bốn câu, thứ tự phối hợp như trước. “Tám kinh, chín kinh lấy làm thí dụ”, là Ấn Độ dệt vải chồng nhiều lớp, dùng tám sợi tơ và chín sợi tơ làm một sợi dọc khi dệt chồng nhiều lớp, nhiều lớp đó khít chặt, như vậy mới làm thành tấm vải, bốn tấm năm tấm mới có thể khít chặt. “Vì trong sạch trắng tươi”, như chiếc áo dầy, có thể chịu đựng được nóng lạnh… các thứ khổ. “Vì sự khắp giáp của nó”, như nơi chỗ không có sương mù, tất cả chỗ tán động không thể xâm phạm.

Trong thí dụ thứ năm, từ câu “đối với Sở quán ân cần thành khẩn…giải thích như trước”, là quyển trước trong ba mươi hai tướng, quán sát tướng thứ hai mươi, câu “chư pháp thuyết”, là có Bí-sô ân cần thành khẩn, khéo lấy tướng đó mà quán sát; câu “Dụ thuyết”, là đứng thì quán đối với ngồi, ngồi thì quán đối với nằm, hoặc Hành sau quán sát Hành trước, cho nên thuyết này nói quán sát kỹ các Hành trong ba đời, đối với Năng quán sát cũng lại quán sát. Bốn Tĩnh lự trước, phân làm bốn chi, chi thứ năm này là đối với chi Năng quán ở trước lại càng quán sát kỹ, Sở quán sát này tức là Hành của ba đời, ngay tại tiền Hành mà quán tiền Hành, là quán lại ba vị, hoặc bốn chi trước tuy đã quán sát, nhưng chi này lại càng quán sát kỹ hơn cảnh của ba đời kia, đối với Sở quán sát của Tiền năng quán sát, lại còn quán sát sau nữa. Thuyết dưới đây nói y theo quán sát kỹ duyên khởi, vì duyên pháp trong ba đời. Lại nữa, vì đoạn trừ cõi Vô sắc và kết phược khác mà kiến lập thí dụ thứ năm.

Đoạn văn thứ chín, trong Hữu nhân, Hữu cụ, Thánh, Chánh tamma-địa, văn có ba đoạn:

  1. Hỏi.
  2. Phân rõ tướng.
  3. Từ câu “trong đây do tue làm dẫn đầu” trở xuống, giải thích nguyên do sinh khởi thứ tự trước sau.

– Phân rõ tướng có ba đoạn:

  1. Giải thích Thánh.
  2. Giải thích Hữu nhân Hữu cụ.
  3. Giải thích Tam-ma-địa. Từ câu “nếu trong lúc đó xả Tà kiến…” trở xuống, là đoạn thứ hai, có ba đoạn:
  4. Trình bày tên Nhân cụ.
  5. Giải thích nguyên nhân của Nhân cụ.
  6. Từ câu “Chánh kiến…” trở xuống, giải thích tướng của Nhân cụ.

Theo tám Đạo chi, sau Kiến đạo vị, hoặc trước Kiến đạo vị, tuy gọi là Chánh kiến… nhưng không phải là Đạo chi, tuy có Hành tướng kia, nhưng chưa được kiến lập, đến Tu đạo vị mới được tên Đạo chi. Hiện tại Sinh vị cũng gọi là Chánh kiến… các Kiến đạo vị… của nó tuy không lập Đạo chi, nhưng Thánh chánh Tam-ma-địa thì Đạo chi vị kia liền có, Chánh kiến… đối với Đạo chi kia cũng thành, nhưng do Chánh kiến dẫn Định trợ Định, hai vị Chánh kiến và Chánh định đều được tên chung là Nhân cụ, các chi còn lại thì không như vậy. “Niệm này tức là Tam-ma-địa phần…”, phần có nghĩa là nhân, là chỗ sinh nhân của Tam-ma-địa. Phần có nghĩa là loại, là phần loại tương tợ của Tam-mađịa. Niệm này đồng thời cũng có Chánh tam-ma-địa, nhưng chưa phải là Thánh chánh, sau khi có thể đoạn, có thể viên mãn thì mới gọi là Thánh chánh, vì Niệm đồng thời có Định cho nên nói kiêm luôn cũng là Kim cương dụ định. Nhị thừa y theo theo chín Địa, sáu Địa của cõi Sắc và ba Địa của cõi Vô sắc, Bồ-tát thì chỉ có Tĩnh lự thứ tư. Duy Thức có hai nghĩa:

1. Tĩnh lự này hiện tiền là đã đắc bốn trí, các Chủng tử của Hoặc thô trọng đã đồng thời xả.

2. Lúc này Dị thục thức đang ở tại Giải thoát đạo vị, bốn trí mới khởi, rộng như Duy Thức kia nói.

Trong giải thích riêng Tông yếu của các kinh, có ba đoạn. Trên giải thích Giải thoát, Đẳng trì đã xong, từ đây trở xuống giải thích Đẳng chí. Trên trình bày có sáu đoạn, văn sau đây phân làm bốn đoạn:

  1. Dẫn các kinh đã nêu.
  2. Giải thích nghĩa Hiện kiến và Đẳng chí.
  3. Nêu ra Thể tánh tổng và lược.
  4. Giải thích riêng Hành tướng.

“Chỗ đoạn phiền não, chế phục và đối trị của Tu đạo”, là Hiện kiến Đẳng chí ban đầu. “Đoạn diệt đối trị”, là Đẳng chí thứ ba. “Quán sát đoạn”, là ba Đẳng chí sau, cùng với tông của Tiểu thừa không đồng. Tông kia nói: “Một là quán ba mươi sáu vật của tự thân, các thứ đều là bất tịnh. Hai là trừ bỏ thịt da.. chỉ quán xương trắng. Hai quán trên đều thông với chỗ đắc của phàm và Thánh. Ba là quán bộ xương của thân, Thức hiện hành trong đó, cũng trụ đời hiện tại, cũng trụ đời vị lai, tức là hai quả đầu, vì chưa lìa Dục. Bốn là quán bộ xương của thân, Thức hiện hành trong đó, không trụ đời hiện tại, chỉ trụ đời vị lai, tức là quả Bất hoàn, vì đã lìa Dục. Năm là quán bộ xương của thân, Thức hiện hành trong đó, không trụ đời hiện tại, không trụ đời vị lai, tức là A-la-hán, vì Lậu đã tận”. Hai quán đầu gọi là Hiện kiến, ba quán sau là do chỗ khởi của Hiện kiến duyên nó, cho nên cũng gọi là Hiện kiến. Luận này thì không như vậy, cả năm quán đều là Thánh đắc, vì thân cận quán sát rõ ràng cho nên gọi là Hiện kiến.

Hai quán đầu, luận có hai loại giải thích:

1. Loại thứ nhất: Quán Bất tịnh thứ nhất, chính là Niệm trụ, lấy phương tiện niệm trụ mà làm y chỉ. Quán Bất tịnh thứ hai, tức là Hậu niệm trụ, lấy Niệm trụ thứ nhất làm y chỉ. Đây là phỏng theo Sở y, Gia hạnh căn bản duyên khởi sai biệt mà hiển hai quán Bất tịnh, ban đầu duyên Bất tịnh, sau đó quán xương người. Tối cực thông đạt, là xanh, sình… quán, đây là nói quán xương trắng, là nghĩa Tối cực thông đạt trong quán Bất tịnh, là xanh, sình… sau đó tuần tự đến cuối cùng, vượt qua quán nghĩa của Tham…

2. Loại thứ hai: Một là quán Bất tịnh quán sát nội thân. Hai là quán Bất tịnh thông đạt pháp tánh. Đây là y theo sự lý của cảnh giới Sở duyên cạn sâu mà duyên khởi khác nhau, hiển hai quán Bất tịnh. Trong Căn bản quán, Bất tịnh cảnh và tánh là hai loại riêng khác, do đó trước nói đoạn diệt đối trị. “Quán thức lưu chuyển”, là giải thích Quán sát đoạn ở trước, tức là ba quán sau, nói quán các Thức đoạn và chưa đoạn.

“Quán sát Thức này sinh diệt tương tục”, là câu tổng quát, hoặc quán sinh thân, hoặc quán sát-na, hai loại Thức chuyển.

Từ đây trở lên là tổng giải thích nghĩa Quán sát đoạn, từ câu “quán sát Hữu học chưa lìa Dục” trở xuống, là giải thích ba Đẳng chí. Đồng thời trụ hai đời, là Thức hiện tại và Thức vị lai, vì đồng thời có trói buộc. Chỉ trụ đời khác, vì chỉ có Thức đời vị lai có trói buộc. Đồng thời Vô sở trụ, là vì hai đời không có trói buộc.

Trong Vô tưởng đẳng chí, “nói trong Sinh này cũng nhập cũng khởi”, là nhập Vô tâm, khởi Hữu tâm, đây là nói đối với Định, dưới đây nói đối với quả. Nếu Sinh đối với Định kia chỉ có nhập mà không có khởi, là chỉ có Thức thứ bảy, lược có hai giải thích:

1. Khi mới sinh thì Vô tâm, vì Trung hữu chưa có tâm, cho nên nói chỉ có nhập.

2. Khi mới sinh Hữu tâm, sau đó trụ Vô tâm, cho nên gọi là nhập.

Nếu không như thế thì khi mới sinh chưa khởi tâm, tại sao gọi là nhập? Trước thì có, sau đó thì không có mới gọi là nhập. Tưởng của nó nếu sinh từ chỗ chìm mất, thì chỗ chìm mất kia có hai thuyết:

1. Mạt hậu vô tâm: Nếu từ chỗ đang chìm mất kia, thì cũng chưa có tâm, không khởi tâm nhuận sinh… cho nên Trung hữu của cõi dưới khi mới sinh gọi là Tưởng, nếu sinh thì liền từ chỗ đã chìm mất kia.

2. Mạt hậu hữu tâm: Nếu Tưởng của nó sinh, tâm nhuận sinh dấy khởi thì gọi là từ chỗ chìm mất kia. Các môn khác cũng như Duy Thức, quyển 3, Đối Pháp luận quyển 2, Hiển Dương luận quyển 1…

Trong giải thích Diệt định, “đã lìa Dục của Vô sở hữu”, là đoạn và chưa đoạn, vì cần phải chế phục xong nhiễm ô của cõi dưới. “Người y theo Diệt tận tưởng mà nhập Định, cũng lại như vậy”, là trước đã chán xả tâm, thì tâm liền tịch diệt. “Y theo người mới tu”, là chưa chứng đắc Tự tại. Luận này thì tùy ý tác khởi hành tướng của Phi tưởng xứ, các Hữu tưởng tâm tùy ý diệt tận, cùng với trước tương tợ. Trước nói cũng vậy, là người tu lâu thì mặc tình tùy ý mà thành, hoặc mới duyên hạnh Hữu vi, chán xả tưởng tâm, sau đó duyên hạnh Vô vi, chán xả tưởng tâm, nghĩa chán xả đồng nhau, cho nên nói “cũng vậy”. Luận này có hai loại, là khi hành và khi trụ phân đồng. Sơ định có bốn Thức thân, trên tâm duyên bên ngoài, như người ra ngoài, cho nên nói khi hành, lúc này ba hạnh cũng còn tồn tại. Hiện tại nói thứ tự hai Định trở lên, tâm không duyên bên ngoài, như ở trong nhà, gọi là khi tru. Diệt ba loại hạnh, thì hai Định diệt ngữ hạnh, bốn Định diệt thân hạnh, Diệt định diệt tâm hạnh, cho nên nói thứ tự diệt ba loại hạnh. Thứ tự khởi, là y theo người chưa Tự tại mà nói như vậy. Đắc tự tại vị, như văn trước đã nói, tùy ý có thể nhập vượt qua tất cả Địa. “Tuỳ ý có thể nhập…”, là tuy có kỳ hạn mong cầu, luận này nói không có kỳ hạn mong cầu. “Xuất định duyên ba loại cảnh, tiếp xúc ba loại Xúc”, là y theo chưa tự tại, nghĩa chủ yếu là thứ tự, lấy Định tâm xuất định, tiếp xúc với Bất động xúc là Không đẳng trì, tiếp xúc với Vô sở hữu xúc là Vô nguyện đẳng trì, tiếp xúc với Vô tướng xúc là Vô tướng đẳng trì. Y theo Tự tại, là siêu vượt tất cả Địa, tùy chỗ khởi Định của nó mà hoặc định hoặc tán, duyên sự duyên lý, duyên trong duyên ngoài, xúc với ba thứ Xúc. Thể của ba Hữu bên trong gọi là Hữu cảnh, sáu Trần bên ngoài gọi là Cảnh cảnh. Do nhập Định mà chiết phục tâm rồi, thì phiền não bất động, ba Căn không nhiễu loạn, không phải chỗ loạn của tướng, chỉ lấy thiện tâm mà xuất Định. Hiện tại xem xét ý văn, phần nhiều là y theo Định tâm mà xuất, vì xúc với ba loại Xúc.