DU GIÀ SƯ ĐỊA LUẬN LƯỢC TOẢN
Soạn giả: Sa-môn Khuy Cơ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 4

(Bản Luận 9, 10)

BẢN LUẬN 9

Trong chín môn của nghiệp, “nghiệp môn thứ năm không nói quả Sĩ dụng”, là lìa ba quả thì không có riêng tăng thêm tướng, cùng với trong quả Dị thục chỉ nói đối với Na-lạc-ca thọ quả Dị thục, Đối Pháp luận quyển và kinh Nhân Quả ghi: “Đối với Bàng sinh, Ngạ quỷ và Na-lạc-ca thọ Dị thục”, là kinh luận kia căn cứ theo chỗ thọ nghiệp sát Dị thục của ba phẩm hạ trung thượng, luận này chỉ căn cứ theo thượng phẩm, chỉ nói Địa ngục. Lại nữa, luận này thì nêu ra một phẩm, luận kia thì nói đủ, cũng không tương ưng.

Trong quả Đẳng lưu, từ “thọ lượng ngắn ngủi” trở xuống có mười câu, mười đường ác nghiệp như thứ tự phối hợp theo. Quả tương tợ đối với nhân gọi là quả Đẳng lưu. Thọ lượng ngắn ngủi, thật ra là quả Tăng thượng, giả gọi là Đẳng lưu và Tà kiến Đẳng lưu. “Si tăng ích”, Đối Pháp luận ghi: “Các Tà kiến là Si tăng thượng”. Thành nghiệp đạo chỉ có Tăng thượng.

Hỏi: Nếu như thế thì tại sao nghiệp đạo gọi là Tà kiến, chứng đắc quả thì gọi là Si tăng thượng ?

Đáp: Si tăng thượng bắt đầu Tà kiến, Tà kiến chắc là Si tăng thượng, Tà kiến chắc chắn là có Si, có Si thì chưa hẳn có Tà kiến, nghiệp đạo khởi thì Năng y nói là Tà mà không nói là Si, chứng đắc quả thì nói Sở y là Si, không nói đối với Tà kiến, cả hai môn đều lược nói khiến cho biết nghiệp đạo chỉ là Tà kiến, vì Si thông với độn hạnh, không xứng trong quả Tăng thượng của nghiệp đạo, đây là nương vào một vật để phân rõ mười quả, Đối Pháp luận thì nương vào nhiều Sự để phân rõ mười quả, cho nên cả hai đều bất đồng, nghĩa mỗi mỗi đều khác. Luận này có mười câu, cũng nương vào nghiệp đạo theo thứ tự mà phối hợp riêng.

“Bất tiện nghi”, là không thuận với nhân tâm.

Trong tám Dục giải phân làm bốn loại:

  1. Đối với duyên Thân tài.
  2. Đối với duyên Bi điền.
  3. Đối với duyên Kính điền.
  4. Đối với duyên Ân điền.

Trong năm nghiệp Vô gián, quyển 0 ghi: “Một thuộc Hư cuống ngữ, là phá Tăng, bốn thuộc thân nghiệp, trong đó có ba nghiệp thuộc Sát sinh, và một thuộc Sát sinh Gia hạnh, là làm thân Phật ra máu, tùy chỗ thích ứng thì lấy thân nghiệp và ngữ nghiệp làm Tự tánh”.

1. Phá Tăng, tức là lấy chỗ phá thân của Tăng, Bất hoà hợp trong Bất tương ưng làm Tánh. Vô phú Vô ký nương vào Dị thục Thức, vì đối với pháp luân… không hoà hợp. “Thể năng phá”, là Hư cuống ngữ, từ quả đặt tên gọi là Phá tăng.

2. Tỳ-kheo, là không phải trong thế tục.

3. Kiến hạnh, là Phi ái hạnh.

4. Tịnh hạnh, là Phi phạm giới, lời nói không uy kính.

5. Phá Dị xứ, là không phải trước Phật, vì chư Như Lai khó coi nhẹ và bức bách.

6. Phá ngu phu, vì không phải bậc Thánh.

7. Khi nhẫn chịu Thánh đạo của sư khác, cho rằng năm pháp là Đạo, tám Chánh là Phi đạo.

8. Chắc hẳn không trải qua nghiệp đời trước mà phá pháp luân Tăng, có thể chướng Thánh đạo luân, vì phá sự hoà hợp của Tăng.

9. Phá pháp luân, chỉ có châu này có Phật; phá Yết-ma, thông với ba châu, vì có giáo pháp.

10. Phá pháp luân, ít nhất là chín người, Sở phá phân hai Bộ, Năng phá làm một Bộ. Phá Yết-ma ít nhất là tám người, vì phân hai Đế, cho nên nhiều cũng không ngăn ngại.

10. Có sáu vị:

  1. Mới thành đạo.
  2. Sắp nhập Niết-bàn.
  3. Thấy lỗi của giới khi chưa khởi.
  4. Khi chưa lập một đôi Chỉ quán thứ nhất.
  5. Sau khi Phật diệt độ.
  6. Khi chưa kiết giới.

Trong sáu vị này không có phá pháp luân, trừ các vị này ra, những thời khác mới có thể phá Tăng. Bài tụng của Câu-xá luận ghi:

Tất cả bốn vị trước,
Phật diệt và chưa kiết,
Trong sáu vị như vậy,
Không phá pháp luân Tăng.

Đây là Hóa độ có sự này, Báo độ hoặc có Phật Di-đà, Điều Đạt gọi là Tịch, hoặc báo Phật không có hóa A-di-đà, có sư Tát-bà-đa, cho Phật có túc nghiệp oán đối cho nên nói có, Đại thừa chỉ có thị hiện. Trong ngũ nghịch, hại cha, hại mẹ, hại ân điền, còn lại ba thứ đều là hoại phước điền, do đây mà thành tội nghịch, vì thông với ba Thừa. Ngũ nghịch mà trong kinh Tát-giá-ni-kiền-tử nói không đồng với luận này, chỉ có Đại thừa mới có đối với căn cơ riêng biệt, cũng không trái nhau. Trong ngũ nghịch này, phá Tăng là rất nặng, vì hoại công đức Pháp thân, chướng đạo giải thoát của trời, người. Nhập Thánh, chứng đắc quả, lìa nhiễm, dứt lậu đều sẽ bị ngăn cản, cho đến không chuyển Đại thiên pháp luân, thân tâm của trời, người, rồng… bị loạn, quyết định chiêu cảm tất cả tội lớn Vô gián; kế đó là làm thân Phật ra máu; kế đó là sát hại A-la-hán; kế đó là mẹ; kế đó là cha, những tội nghịch sau nhe dần, các nghĩa môn khác đều như Câu-xá luận quyển 18 nói.

“Nghiệp Vô gián đồng phận”, là tội đồng loại trong nghiệp Vô gián, là làm ô uế A-la-hán Ni và mẹ, đó là loại hại mẹ. Đánh thân sau cùng của Bồ-tát là loại giết cha. Hoặc đối với miếu thờ chư Thiên… mà hành sát hại, hoặc đối với giao phó việc nặng bị tổn hại, hoặc đối với sự gánh vác khốn khổ, hoặc đã bố thí Vô uý rồi mà trở lại hại bức não, đó là loại sát hại A-la-hán. Cướp đoạt Tăng môn, đó là loại phá Tăng. Phá hoại linh miếu… đó là loại làm thân Phật ra máu. Hoặc tổng loại nhiếp, không cần phối hợp riêng. Câu-xá luận cùng với luận này không đồng. Câu-xá ghi: “Nhiễm mẹ Ni Vô học, giết Bồ-tát Trụ định, và bậc Thánh hữu học, đoạt duyên hoà hợp Tăng, phá hoại Tốt-đổ-ba, là đồng loại Vô gián”. Từ tu tướng diệu nghiệp gọi là Trụ định Bồ-tát, Bồ-tát kia có thể bị sát hại, luận này không có sự đó, vì thân tối hậu của Bồ-tát quyết định không bị người sát hại, cho nên luận này nói là đánh. Sát hại Thánh hữu học tuy là Nghịch lưu, kể không hết, nhưng trong đây loại giết A-la-hán, thuộc nghĩa thứ hai trong ba nghĩa nhiếp, vì thuộc về loại Kỳ cựu.

“Tăng môn” là nhân theo các chỗ hữu sự của Tăng, như biết vật của người khác và Tăng vật, tự lấy về làm của mình.

“Linh miếu” là điện, đền. “Tốt-đổ-ba”, Hán dịch là Cao hiển, Phù-đo… mỗi mỗi nêu ra một tên, đều là Phật sự. Đối Pháp luận ghi:

“Năm nghiệp Vô gián… là Thuận sinh thọ nghiệp”. Hỏi: Tại sao trong đây gọi là quả Hiện pháp?

Đáp: Vì trong đây căn cứ theo hành tội nghịch, hiện bị sát hại… cho nên gọi là thọ Hiện pháp. Tội nghịch kia y theo thứ tự mà sinh đoạ Vô gián… gọi là thọ Thuận sinh, cũng không trái nhau.

Hỏi: Thuận hiện thọ nghiệp không chiêu cảm Tổng quả, lẽ nào năm nghiệp Vô gián lại thọ Biệt quả hay sao ?

Đáp: Do nghiệp gia hạnh mà thọ Biệt quả hiện tại, do nghiệp Căn bản mà thọ Tổng quả tương lai, không phải do một nghiệp hiện tại rồi sau đó cùng thọ. Từ quả thứ nhất mà đặt tên gọi là Thọ hiện pháp, thì Ngũ Vô gián không chiêu cảm Tổng quả, tức là do nghĩa này. Đối Pháp luận ghi: “Người tạo nhiều nghiệp Vô gián, thì chỗ chiêu cảm dụng cụ hành khổ có nhiều bén nhọn, nhanh chóng thọ nhiều khổ”. Ha Oán Tâm kinh ghi: “Do nghiệp Vô gián trong Na-lạc-ca, niệm niệm sinh tử thọ đại khổ Dị thục”. Các kinh Bát-nhã, Pháp Hoa… cũng ghi: “Do hủy báng kinh, từ một Địa ngục sinh một Địa ngục, từ quả thứ nhất đặt tên, đều là Thọ thuận sinh”. Luận này cũng vậy.

Hỏi: Sát hại Độc giác, tại sao không phải là tội Nghịch ?

Đáp: Vì ít cho nên không nói, tức là thuộc loại A-la-hán.

“Người do cúng dường, Từ định… mà chứng đắc Hiện quả”, là nương vào Sơ xuất vị (địa vị mới ra khỏi) Các vị như Sơ xuất từ định, Vô tránh, Diệt định, Dự lưu A-la-hán quả cũng vậy, không phải sau khi đã ra khỏi lâu. Không nói Độc giác, vì ít cho nên lược bỏ, thật ra cũng chứng đắc quả Nhất lai và quả Bất hoàn, không phải mới chứng đắc Thánh cho nên không nói.

Hỏi: Tại sao chỉ nói Từ định, mà không nói Bi định, Hỷ định, Xả định… ?

Đáp: Vì Hỷ và Xả thì yếu kém, Bi thì thông với tán loạn, đối với Thế gian lạc và Xuất thế gian lạc, thì Từ… là thù thắng. Vô tránh… cũng vậy, bên trong chứng Chân vô tránh, bên ngoài chắc chắn dứt các phiền não, Thắng nguyện trí… cho nên ngoài Từ định ra, không nói các Định khác.

“Đối với nơi chỗ của Tăng hữu học và Vô học”, Đối Pháp luận ghi: “Phật làm Thượng thủ tăng, là tất cả Tăng đối trước Phật, hoặc đệ tử Phàm tăng, Thánh tăng, Học tăng, Vô học tăng mà gọi Phật là Thượng thủ tăng, cho nên trong luận này nói Tăng, không phải người nào khác.

“Đối với nơi chỗ của Học tăng và Vô học tăng”, Đối Pháp luận ghi: “Phật làm Thượng thủ tăng, là các chỗ có Tăng đối trước Phật, hoặc đệ tử Phàm tăng, Thánh tăng, Học tăng, Vô học tăng mà gọi là Phật là Thượng thủ tăng, cho nên trong luận này nói Tăng, không phải người nào khác.

Trong “cùng với quả Tăng thượng… của người khác, là cũng do thọ Hiện pháp quả nghiệp”, là không chỉ do nghiệp của người khác, mà cũng do Hiện nghiệp của tự mình, là nói trụ xứ của Phật khiến cho sinh an lạc, chúng sinh thấy Phật phát tâm cúng dường làm nghiệp, Phật khiến cho không Khổ mà được trụ an lạc, vì là lực ở đời, nhiếp các chúng sinh khác đều được an lạc. Luân vương khuyến hóa hành mười Thiện nghiệp, chúng sinh tùy theo hành mà đắc an lạc cũng vậy. Bồ-tát Từ Định vận tâm ban cho ưa thích cúng dường được an cũng lại như vậy, do nghiệp của người khác tăng thượng, mà Hiện nghiệp của tự mình thành thục liền chứng đắc Hiện quả.

“nghiệp chư Thiên”, tức là phần nhiều người đời cho rằng thiện ác do Thiên, vì ban đầu là do chư Thiên khởi bi, sau đó khởi từ tâm mà ban cho an lạc, cho nên chỉ nói Từ định.

“môn tổn ích có tám thứ”, bảy môn đầu tức là thân có ba, ngữ có bốn, như thứ tự mà phối hợp. “môn thứ tám là hợp chung là ba nghiệp đạo của Ý.

“Trợ bạn”, là bạn bè thân cận.

Nghiệp thứ sáu, Tăng thượng có hai loại: 1. Lợi tướng. 2. Cần tướng.

– Thứ ba trong Tự tánh:

  1. Ngữ có bốn giảo lượng.
  2. Thân có ba nghiệp đạo.
  3. Ý có ba nghiệp đạo, từ nhẹ đến nặng.

Tổng là xem xét ba nghiệp, biệt là suy lường mười nghiệp, trong nghiệp đạo thì trước là Sắc sau là Tâm, trong Sắc thì trước là nặng sau là nhẹ, các Sắc nghiệp đạo đều trước nặng sau nhẹ. Trong Ý nghiệp đạo, trước nhẹ sau nặng, tạo tác các pháp không đồng, cũng không có lỗi. Nhưng ba Phạt nghiệp thì Ý nghiệp là rất nặng.

Trong Thiên kiến thứ năm , thì Tà kiến là nặng, năm Vô gián thì phá Tăng là nặng, vì chỗ mong khác nhau. Luận này thuyết minh nghiệp không mong Vô gián, cho nên Ngữ nghiệp là nhẹ, lý cũng không có lỗi.

Trong nghiệp Điên đảo thứ bảy, “sát sinh tội tương tợ đồng phận”, là Gia hạnh đạo nghiệp tợ Căn bản. Điều này có hai ví dụ:

  1. Sát hữu tình.
  2. Sát Phi tình.

“Đều là đối với Phi tình mà khởi làm khởi tưởng, cho nên không có tội Căn bản chấp thọ điên đảo, chỉ nói cho đến Ỷ ngữ, không nói ba nghiệp đạo của Ý”, là Thân và Ngữ có bảy chi thông với giới tánh, vì chung Sở tri, Sắc thì dễ chấp. Trên thuyết minh không có tội, cũng không có thí cho, thọ trai, tu phước trở xuống, vì không có phước điền, khởi Tà kiến, cho nên lấy làm chấp này.

– Trong nghiệp Sai biệt thứ tám có hai thứ:

  1. Nêu ra tên nghiệp của bốn vị trước.
  2. tùy chỗ nêu mà giải thích.

– Nêu vị có bốn thứ:

  1. Có năm loại làm hai môn.
  2. Có mười loại làm ba môn.
  3. Có một loại làm bốn môn.
  4. Có một loại làm năm môn.

“Tác nghiệp”, nghĩa là Thân nghiệp và Ngữ nghiệp do Tư hoặc Tư dĩ khởi. “Không tác nghiệp”, là cho đến Thân nghiệp, Ngữ nghiệp thẩm sát quyết định hai Tư gọi là Ý nghiệp, động phát khởi Thắng tư gọi là chỗ đã khởi Thân nghiệp Ngữ nghiệp của Tư. Hoặc động phát Thắng tư gọi là Tư nghiệp, chỗ khởi Thân nghiệp Ngữ nghiệp của Tư này, gọi là Tư dĩ khởi Thân Ngữ nghiệp. Giải thích này đồng với Đối Pháp luận. Luận kia ghi: “Tư nghiệp, là phước, Phi phước và Bất động nghiệp. Tư dĩ nghiệp là Thân, Ngữ và Ý nghiệp”. Tác nghiệp này thông với nghiệp đạo Gia hạnh, Căn bản, Biểu nghiệp và Vô biểu nghiệp chưa diệt chưa xả gọi là Tác nghiệp, tức là Chủng tử của hai nghiệp. Gia hạnh, Căn bản, Biểu, Vô biểu nghiệp chưa diệt chưa xả gọi là Bất tác nghiệp, vì không thành tựu, không có tác dụng thù thắng. Luận này có đủ các Pháp sư giải thích. Sư Cảnh nói: “Chỗ tùy ý sinh, không phải thuộc nghiệp đạo. Các nghiệp thiện nghiệp ác và Vô ký, gọi là Bất tác nghiệp. Nếu nghiệp đạo Căn bản Gia hạnh là chỗ sinh các nghiệp thiện nghiệp ác, thì gọi là Tác nghiệp”. Luận này giải thích: “Gia hạnh Căn bản và các Biểu nghiệp, gọi là Tác nghiệp, vì có khởi tạo tác, các Vô biểu nghiệp gọi là Bất tác nghiệp, vì không có dấy khởi tạo tác”. Luận này thông với Biểu nghiệp và Vô biểu nghiệp của ba Thừa cho nên không nói Ý nghiệp.

Trong nghiệp Tăng trưởng và Bất tăng trưởng, “tám Tự tánh Vô ký nghiệp”, là thiện và bất thiện, thuộc Phi nghiệp đạo. Tánh của Trung phẩm và Hạ phẩm không phải tánh Vô ký trong ba tánh. Tự thể bất tăng gọi là Vô ký, hoặc là nghiệp Vô ký trong ba tánh.

“Nghiệp sở tổn của chín Hối”, quyển 89 ghi: “Đối với nghiệp tạo tác không tăng trưởng, nếu không có Hối thì không có tu đối trị có thể phải thọ quả, gọi là nghiệp Tăng trưởng, nếu hối hận ăn năn thì gọi là không Tăng trưởng. Hoặc nghiệp Tăng trưởng trước kia do hối hận ăn năn, nếu như khi chưa sinh oán thì gọi là không Tăng trưởng, không hối hận ăn năn thì gọi là nghiệp Tăng trưởng”. Quyển 40 ghi: “Y theo người chưa giải thoát mà kiến lập Định thọ nghiệp, cho nên người giải thoát là khởi Đạo, Phục và Đoạn”. Đối Pháp luận ghi: “Có năm thứ do đó mà Tư tạo nghiệp:

  1. Chỗ dạy bảo của người khác.
  2. Chỗ khuyến thỉnh của người.
  3. Không có Sở liễu tri.
  4. Căn bản chấp trước, là ba độc che tâm, mạnh nhanh chấp trước, là chỗ khởi các nghiệp.
  5. Điên đảo phân biệt, là chỗ hành ác nghiệp không có tội thù thắng.

Trong năm thứ này, Căn bản chấp trước và Điên đảo phân biệt, hoặc Tác hoặc Tăng trưởng, không phải không thọ Dị thục, vì nghiệp nặng, còn lại ba nghiệp kia tuy tạo tác mà không tăng trưởng thì không phải thọ Dị thục, vì nghiệp nhẹ”. Luận đó giải thích: “Tác, là khởi tạo các nghiệp khiến cho nó hiện hành. Tăng trưởng, là khiến cho Tập khí tăng thêm”. Luận đó nói Cố tư nghiệp (nghiệp tư duy cũ) chỉ có năm loại, trong luận này nói chung Cố tư và Bất tư, cho nên luận này có mười loại. Loại thứ hai trong luận này tức là thứ ba của luận kia, loại thứ bảy của luận này tức là thứ hai của luận kia, cũng không trái nhau. Hai loại sau của luận kia thuộc nghiệp Tăng trưởng, cho nên không thuộc mười loại.

“Tư nghiệp cũ”, là Tư đã xưa cũ rồi. “Hoặc Tác nghiệp, hoặc Tăng trưởng…”, trong đây tạo tác xưa cũ hoặc Tăng trưởng gọi là Tư nghiệp xưa không phải tạo tác xưa cũ. Hoặc Tăng trưởng thì gọi là Tư nghiệp không xưa cũ. Đối Pháp luận thuyết minh Tư nghiệp và Tư dĩ nghiệp, loại Tư nghiệp là phước, Phi phước và Bất động nghiệp; loại Tư dĩ nghiệp là thân ngữ ý nghiệp, đồng với luận này. Lại nữa, luận kia nói Tư nghiệp có năm loại, như thứ tự nói ở trước, cùng với luận này trái nhau, vì thông với Tăng trưởng và Bất tăng trưởng cho nên luận này dựa vào Tư mạnh thù thắng sẽ quyết định chiêu cảm Dị thục, cho nên gọi là Tư nghiệp. Luận kia dựa vào chỉ là Sở tác của Tư xưa cũ, không phải là nghiệp tùy ý, thông với quả đang chứng đắc và quả không đang đắc, đều gọi là Tư nghiệp xưa cũ, vì chỗ mong cầu khác nhau, cũng không trái nhau.

“Thuận định thọ nghiệp và Bất định thọ nghiệp”, tức là Tư nghiệp xưa cũ ở trước, sẽ quyết định chiêu cảm Dị thục. Tư nghiệp không xưa cũ ở trước, sẽ không quyết định chiêu cảm Dị thục. Đối Pháp luận ghi: “Quyết định thọ nghiệp”, là quyết định có ba loại:

1. Tác nghiệp định, do sức túc nghiệp chiêu cảm thân quyết định, trong đời này thì phải tạo nghiệp này, thời hạn quyết định không xa lắm, thần lực của Phật cũng không thể ngăn được.

2. Thọ Dị thục định, tức là Thọ thuận định của luận này, nghiệp quả quyết định sẽ thọ, vì ngay lúc đó chưa định.

3. Phần vị định, là Thuận hiện thọ, Sinh thọ, Hậu thọ và Phần vị định nghiệp.

Trong đây muốn nói, nếu nghiệp đạo nhiếp nghiệp thì gọi là Thuận định thọ, sau Gia hạnh mà khởi, thông với Định và Bất định, nếu chưa Hối chưa giải thoát thì gọi là Định nghiệp, đã Hối đã giải thoát thì gọi là Bất định nghiệp.

“Nghiệp Dị thục và nghiệp Vị thục”, là quá khứ và hiện tại đang sinh quả nghiệp, gọi là nghiệp Dị thục; vị lai và hiện tại đang sinh quả nghiệp gọi là nghiệp Vị thục. Trên nói về năm loại có hai môn đã xong.

Trong nghiệp của ba tánh, nghiệp Hữu phú vô ký cũng gọi là Vô ký nghiệp, vì không phải ba thiện căn và bất thiện căn làm nhân duyên.

“Nghiệp do luật nghi nhiếp”, là Biệt giải thoát luật nghi. Đối Pháp luận nói, tức là chỗ thọ luật nghi của bảy chúng, năm chúng xuất gia, Cận sự và Cận trụ. “Do xuất gia”, là thọ mạng hết mà xa lìa ác hạnh và dục hạnh. “Do cận sự”, là thọ mạng hết mà lìa ác hạnh, không lìa dục hạn. “Do cận trụ” là không thể hết thọ mạng mà lìa ác hạnh dục hạnh, cho nên Biệt giải thoát kiến lập ba loại.

“Nghiệp sở nhiếp của Tĩnh lự, Đẳng chí, Quả, Đoạn, Luật nghi” nghĩa là, Tĩnh lự là bốn Tĩnh lự của cõi Sắc. Đẳng chí, là bốn cõi Vô sắc. Quả là nương vào chỗ tu sinh công đức của Tĩnh lự Vô sắc. Đoạn là Tĩnh lự Vô sắc tương ưng với Tư hiện tại, đề phòng xa các Đoạn giới của phạm, phi phạm giới trong cõi Dục. Quả tức là Đoạn giới, là Đoạn của quả. Thể tức là Định sinh luật nghi, ba Thừa thì thông với thân ngữ, Đại thừa gồm luôn ý nghiệp. Có thuyết giải thích Đoạn tức là tánh giới Vô vi, Quả là Định sinh luật nghi. Luận này giải thích nghiệp, đã nói là Quả đoạn, không nói là Đoạn quả, thì Đoạn không phải Vô vi, như trước đã nói nghiệp hoặc quả cùng với Đoạn, cả hai đồng thời với giới thể. Cho nên nắm lấy song song, chỉ có Sơ vị chí có Đoạn đối trị, trong các Địa trên thành những phần đoạn xa, đây là dựa vào nghĩa Hữu lậu định sinh giới. Quyết Trạch phần nói cõi Sắc có, đây là thông với Vô sắc cũng có. Đối Pháp thì chỉ dựa vào cõi Sắc mà kiến lập. Luận kia phải tự hiểu rằng do cõi Vô sắc không có thô sắc cho nên không kiến lập.

“Nghiệp do Vô lậu luật nghi nhiếp”, là bậc Kiến đế, tánh viễn ly do sức Vô lậu chứng đắc, tức là Đạo cộng giới, như trong phần Biểu và Vô biểu nói rộng.

Trong Bất luật nghi, “gièm pha châm chích”, là chỉ có hạnh sàm nịnh, châm chích người khác, để cầu nuôi mạng, là loại bất lương, là bọn doạ nạt. “Đoán ngục”, là ở Tây vức lập riêng hạng người Đoán ngục, để cầu tài nuôi mạng. Luận này có mười hai loại, Đối Pháp luận có mười bốn loại, ba loại luận này không có là:

  1. Săn nai.
  2. Bắt cá.
  3. Giết trâu.

Luận này không có một loại Đoán ngục. Trong kinh Niết-bàn nói có mười sáu loại. Trâu, dê, heo, gà, vì lợi mà nuôi cho mập rồi bán, vì lợi cho nên mua, mua rồi giết mổ, tức là tám thứ:

  1. Bắt cá.
  2. Bắt chim.
  3. Thợ săn.
  4. Trộm cướp.
  5. Làm đầu đảng.
  6. Lưỡng thiệt.
  7. Lính ngục.
  8. Chú thuật bắt rồng.

Lại là tám thứ cho nên không có đoán ngục và bắt voi. Trong Tạp Tâm nói có mười hai thứ:

  1. Mổ dê.
  2. Nuôi heo.
  3. Nuôi gà.
  4. Bắt cá.
  5. Bắt chim.
  6. Thợ săn.
  7. Làm giặc.
  8. Làm đầu đảng.
  9. Giữ ngục.
  10. Chú thuật bắt rồng.
  11. Rình bẫy.
  12. Giết chó.

Các văn không đồng, chỉ nói rộng ý nghiệp tổn hại, vì tự nuôi mạng mà làm nghiệp này, đều là Bất luật nghi. Lược nêu đầu mối như thế, không phải chỉ có như vậy. Nếu không như thế thì chuyên giết ngựa, lừa… lẽ nào không phải Bất luật nghi kia. Kể đủ, kể nhiều hay ít, do nhân duyên bỏ bớt, cũng như Biệt chương nói.

Trong Xứ, nghiệp có Biểu và Vô biểu, Phật thành và không thành, đều như Biệt chương nói.

“Tự tánh của thí ” là chỗ khởi của Tư, có thể xả vật bố thí. “Thân nghiệp và ngữ nghiệp”, Đối Pháp luận và Duy Thức đều lấy ba nghiệp, cùng với Tư và Vô tham làm tánh. Luận này thì lấy Vô tham làm nhân duyên, vì Tư thì nói trong môn Đẳng Khởi, cho nên trong tự tánh lấy thân nghiệp và ngữ nghiệp. Căn cứ theo Biểu Ngoại Chương và Tam Thừa Thông luận, cho nên chỉ có thân ngữ nghiệp mà không nói ý nghiệp.

Trong “tự tánh của giới” , lấy ba nghiệp làm tánh, cho nên nói thân ngữ nghiệp… Như Duy Thức ghi: “Thọ Bồ-tát giới cho nên thông với ba nghiệp”.

“Y xứ thông với Tình và Phi tình”, là Tánh giới và Giá giới, tùy chỗ thích ứng của nó, nương thông cả hai.

“Tự tánh của tu tánh là Tam-ma-địa”, nghĩa là bốn Vô lượng tâm của nó, Thể của Từ không có sân, Thể của Bi không có hại, Thể của Hỷ không có tật đố, Xả tức là ba thiện căn, khéo xả niệm. Hiện tại là từ Sở y cho nên lấy Định làm Thể, như Vô Cấu sớ quyển 2 giải thích.

“Y xứ”, tức là ba cõi mà hữu tình sở duyên, tổng phân làm ba loại:

  1. Không có Khổ, không có Lạc, mà ban cho Lạc gọi là Từ.
  2. Có Khổ mà cứu tế gọi là Bi.
  3. Có Lạc mà trợ Hỷ, gọi là Hỷ.

Đối với loại thứ nhất khởi lìa Si tưởng, đối với thứ hai khởi lìa Sân tưởng, đối với loại thứ ba khởi lìa Tham tưởng, bình đẳng khiến cho lìa á gọi là Xả. Đây là nêu ra Cảnh… của Từ để lấy ba cảnh còn lại, mỗi Cảnh này có ba thứ, như các văn khác nói.

“Phước nghiệp thì chiêu cảm Dị thục cói thiện…”, nghĩa là phước nghiệp đối với trời người thọ cùng Dị thục. “Và Thuận ngũ thú thọ” là Tứ thú thọ riêng Dị thục, riêng trong Địa ngục thọ Đẳng lưu quả tương tợ quả báo riêng, nhưng gọi chung là “thuận ngũ” thì có nghĩa không đúng. Thành Duy Thức ghi: “Chỗ khác nói ở đó có Đẳng lưu Lạc”, phải biết là luận kia nương vào lý tùy chuyển mà nói, cho nên trong Đại thừa thì ở đó không có thiện quả. Do thiện quả mà thọ Khổ nhẹ, gọi là chứng đắc quả, lại không có quả báo riêng, không đồng với Địa ngục và bốn Trần của Tiểu thừa thừa nhận là thiện nghiệp chiêu cảm. Lại giải thích, luận này theo số mà nói chung thì có năm, nói riêng thì chỉ có bốn thú. Lại giải thích lìa Phi thiên là một, hợp lại thành sáu nẻo, cho nên nói thiện nghiệp thuận với năm nẻo thì có, Địa ngục thì thật sự là không có.

Trong đoạn “thuận bất khổ bất lạc thọ nghiệp”, nghiệp của Biệt báo chỉ có Tĩnh lự thứ tư trở lên, ở đây có hai nghĩa:

1. Từ ba Định trở xuống có Biệt báo thọ quả. Luận này và Đối Pháp luận không nói có nghiệp. Căn cứ theo đa phần thiện nghiệp chiêu cảm Lạc thọ quả, thiểu phần thiện nghiệp thì chiêu cảm Xả thọ quả, cho nên lược bỏ không luận. Nếu không như thế thì tại sao thiện nghiệp của Địa cõi dưới không chứng đắc quả kia?

2. Tam định trở xuống không có riêng Thiện xả nghiệp. Xả quả Tĩnh lự trong Thức thứ sáu, vì nghiệp của các Địa cõi dưới thô, thiện chỉ chiêu cảm Lạc, cho nên không có Xả quả.

Hỏi: Thiện nghiệp của các Địa cõi dưới thô, không chiêu cảm Xả quả, thì nghiệp các Địa cõi dưới của Xả quả thứ tám chiêu cảm hay không?

Đáp: Vì tổng và biệt khác nhau cho nên không nên làm thí dụ.

Trong “Thuận hiện pháp thọ nghiệp”, luận này và Đối Pháp luận đều nói có ba thứ, từ nghiệp thứ nhất đặt tên, Hiện nghiệp chỉ có Biệt báo, các nghiệp khác đều thông với tổng và biệt. Đoạn trước đã nói có hai nghiệp là Định và Bất định, quyển 0 nói có bốn nghiệp:

  1. Dị thục định.
  2. Thời phân định.
  3. Nhị câu định.
  4. Nhị câu bất định.

– Hiển Dương luận quyển 19 ghi: có năm nghiệp:

  1. Hiện pháp thọ quyết định.
  2. Sinh thọ quyết định.
  3. Hậu thọ quyết định.
  4. Thọ báo quyết định.
  5. Tác nghiệp quyết định.

Không dựa vào Thời, mà chỉ luận về Báo, cho nên chỉ có hai nghiệp là Hữu định và Bất định. Nếu luận về Thời và Báo hợp chung lại nói, thì nghiệp chỉ có ba thứ, không ngoài các nghiệp này. Thời và Báo tương đối hợp lìa cho nên có bốn thứ, không nói Biệt thời, vì nói Tổng thời. Chỉ nương vào Thời, Quả và Tác nghiệp định nói có năm thứ, vì trừ Bất định ra, văn tuy có khác nhau, nhưng nghĩa lý thì không trái nhau, vì chỗ mong cầu sai biệt.

“Học nghiệp hoặc là Dị sinh…”, là các Dị sinh phát tâm Tam thừa giải thoát phần thiện về sau đều gọi là Học. Học nghiệp thông với Hữu lậu và Vô lậu. Vô học cũng vậy. “Phi học, Phi bất học”, là tất cả các nghiệp của các Dị sinh vị trước khi chưa phát tâm. Trong quyển chỉ ghi: “Chỉ có bậc Thánh lấy làm Hữu học, vì đã chứng Thắng đắc. Đây là căn cứ theo Sở y hợp chung lại mà luận. “Học”, là Sinh đắc thiện… cũng gọi là Học, nếu không như thế thì không phải, vì không thuận với luận kia.

Trong “Nghiệp của Kiến sở đoạn” chỉ nói bất thiện nghiệp nẻo ác là Kiến sở đoạn, đây là căn cứ theo Dẫn nghiệp, nếu gồm Mãn nghiệp thì thông với năm nẻo, cho nên luận nói “vân vân”. Quyển 3 ghi: “Đến hạnh nẻo ác, chỉ có Phân biệt khởi thì Phiền não mới có thể khởi”. “Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp trong ba nẻo ác”, là Phân biệt khởi cho nên luận này nói thiên về nó.

Trong Phi nhân, chiêu cảm ác nghiệp riêng, không phải Kiến đạo đoạn, cũng không phải Câu sinh không chiêu cảm nẻo ác. Vô tưởng định… tuy cũng là Kiến đoạn, nhưng không phải lìa Phược đoạn, cho nên trong luận này không nói, hoặc Đẳng cso nghĩa là gồm chung, như Duy Thức luận sớ quyển 8, Đối Pháp luận quyển … giải thích. Trên thuyết minh mười loại ba môn của nghiệp đã xong.

Trong bốn nghiệp Hắc hắc, thì Phi phước nghiệp gọi là Hắc hắc, là tổng nghiệp của ba đường ác và Biệt ác nghiệp; Bất động nghiệp của nó gọi là Bạch bạch, là Tổng biệt thiện nghiệp của cõi Sắc và cõi Vô sắc; các phước nghiệp của nó gọi là Hắc bạch. Hắc bạch nghiệp, là Tổng nghiệp của trời người cõi Dục, và Biệt thiện nghiệp của Thuận ngũ thú. Thiện bị bất thiện oán ghét, cho nên gọi là Hắc bạch hắc bạch nghiệp, vì chưa đoạn Hắc nghiệp, do phước nghiệp của nó được tên này.

Nếu Hắc nghiệp đã đoạn rồi, thì đó là chủng loại đầu tiên, cũng gọi là Hắc bạch hắc bạch nghiệp. Ba loại của những nghiệp này, Đối Pháp luận ghi: “Hoặc nhân, hoặc quả, đều được tên này”.

Nhân của Hắc hắc vì là nhiễm ô, cho nên quả không thể ưa thích. Nhân Bạch bạch vì không nhiễm ô, cho nên quả có thể ưa thích. Nhân của Hắc bạch hắc bạch là tạp thiện của ác, chỗ tạp quả của quả ác, phước nghiệp quả của cõi Dục quyết định làm Phi phước tạp, cho nên gọi là Hắc bạch hắc bạch, vì tự có Phi phước quả cho nên không làm Phước tạp, cho nên không gọi là Bạch hắc bạch hắc nghiệp. Đối Pháp luận quyển 8 và quyển nói Hắc hắc nghiệp đồng với luận này.

“Bạch bạch nghiệp của các luận kia”, là thiện nghiệp của ba cõi; Hắc bạch hắc bạch nghiệp là tạp nghiệp của ba cõi, không phải một sátna nghiệp mà thông thiện ác, nhưng dựa vào Ý lạc và do phương tiện, hợp chung nói một nghiệp gọi là Tạp nghiệp, là có nghiệp Ý lạc mà gọi là Hắc, vì có phương tiện mà gọi là Bạch, tức là uốn nắn giả dối các tâm tướng mà tu các thiện. Hoặc có nghiệp Ý lạc gọi là Bạch, phương tiện gọi là Hắc, tức là giáo huấn đệ tử phát khởi ác thân ngữ. Hắc bạch nghiệp này thông với thiện tánh và ác tánh. Luận này dựa vào ba thứ phước nghiệp, phi phước nghiệp và Bất động nghiệp để thuyết minh các nghiệp Hắc hắc… Các luận kia thì dựa vào thiện ác thuần và tạp để thuyết minh các nghiệp Hắc hắc, cho nên không trái nhau. Lại nữa, quyển và Đối Pháp dựa vào Chân thật lý môn, trong luận này thì căn cứ theo Tùy chuyển lý môn. Câu-xá quyển 1 ghi: “Thiện của cõi Sắc và cõi Dục có thể trừ tận ác kia, Vô lậu nên biết như thứ tự gọi là Hắc bạch câu phi”. Nếu nói luận này tùy thuận với tông kia, thì Bạch bạch nghiệp của nó đáng lẽ chỉ có thiện của cõi Sắc, nhưng lý đã không như thế, cho nên cũng như trước đã nói.

“Phi hắc, Phi bạch, Vô dị thục nghiệp khéo đoạn tận các nghiệp”, vì không nhiễm ô cho nên gọi là Phi hắc; vì không phải thiện Hữu lậu cho nên gọi là Phi bạch; vì không chiêu cảm quả Vô phú Vô ký cho nên gọi là Vô dị thục nghiệp; vì có thể đoạn trừ ba nghiệp trước cho nên gọi là khéo đoạn tận các nghiệp. Đối Pháp thì gọi là “Phi hắc bạch Vô Dị thục nghiệp khéo đoạn tận các nghiệp. Luận đó nói “Phi hắc”, là vì lìa phiền não; “Bạch”, là xưa nay thanh tịnh. Để lựa riêng với Bạch thiện nghiệp Hữu lậu trái với sinh tử, cho nên gọi là Vô dị thục, không phải cho tất cả Vô lậu đều là nghiệp này, nói có thể dứt hết các nghiệp, là lấy Đoạn đối trị của ba nghiệp trước, trong Câu-xá luận nói về Thể này rằng:

Tứ pháp Nhẫn Ly dục,
Tám pháp Vô gián câu,
Mười hai Vô lậu Tư,
Chỉ tận thuần Hắc nghiệp.
Lìa Dục, bốn Tĩnh lự,
Vô gián tư thứ chín
Một dứt Hắc tạp thuần,
Bốn khiến tận thuần Bạch.

Nếu y theo Du-già thì phải nói:

Thứ tự cõi Dục mười,
Trước chín thuần Hắc bạch,
Sau một thuần Hắc nghiệp,
Trên tám thuần Bạch đoạn.
Chỉ lìa Dục cõi Dục,
Nương Sơ vượt Đệ tam,
Một tận thuần Hắc tạp,
Lìa một trên đều đoạn.
Từ Sơ vượt Đệ tứ,
Tổng nói có mười ác,
Trước chín chỉ đoạn Hắc,
Thứ mười ba đều đoạn.
Bồ-tát thấy có Tư,
Ba Kim Cương đều trừ,
Là nói vô gián đạo,
Du-già hay đoạn nghiệp,
Nếu Gia hạnh Phục Diệt,
Đều trừ thêm Kiến đạo.

Nếu y theo văn của quyển này, thì trong Kiến đạo của Nhị thừa, một Vô gián đạo và tám Vô gián tư dần dần lìa Dục ở trước, chỉ dứt tận Hắc hắc nghiệp; Vô gián đạo thứ chín song song diệt tận thuần hắc và tạp nghiệp. Lìa bốn Tĩnh lự và bốn Vô sắc, Vô gián đạo thứ chín chỉ diệt tận Bạch bạch nghiệp, đây là nương vào người dần dần chứng đắc quả mà nói.

Nếu nương vào Sơ vị chí định và Sơ định, siêu nhập Kiến đạo mà chứng đắc Quả thứ ba thì một Vô gián đạo lìa thuần hắc và tạp, nếu trước đã lìa các Địa nhiễm cõi trên, nương vào bốn Tĩnh lự mà chứng đắc Quả thứ ba thì một Vô gián tư lìa thuần hắc và tạp, tùy chỗ thích ứng của nó mà gồm chung Bạch bạch nghiệp. Nếu từ Sơ quả mà lấy quả thứ tư thì tám Vô gián tư ở trước chỉ lìa Hắc hắc nghiệp, Vô gián tư thứ chín đều lìa ba nghiệp. Nếu một Vô gián tư trong Kiến đạo của các Bồ-tát chỉ lìa Tư hắc nghiệp, thì một Vô gián tư của Kim cương dụ định song đoạn ba nghiệp, tất cả ác nghiệp đạo sinh thì liền đoạn, vì tất cả thiện nghiệp lìa duyên trói buộc, cho nên chủ yếu lìa nhiễm của Tự địa, khi tận thì tận, cho nên Vô gián tư thứ chín mới nói hết Bạch nghiệp. Từ trên đến đây, chỗ nói đoạn Chủng tử Tư nghiệp hữu lậu, nếu chế phục Hiện hành thì chỉ trừ Kiến đạo, không có Vô lậu gia hạnh, chỗ Tu đạo khác đều là thêm Gia hạnh đạo có thể chế phục Hiện hành. Trong đây chỉ nói các Vô lậu nghiệp, vì là đoạn Đối trị của ba nghiệp trước. Giải thoát đạo của Nhị thừa tùy cũng có Đoạn, và Sở tri chướng của Thập địa Bồ-tát, các chỗ đoạn của Đối trị đều là phi nghiệp, đó là lý do không nói, cho nên Đối Pháp luận ghi: “Không phải nghiệp Hắc bạch…”, là các Vô lậu nghiệp trong Gia hạnh và Vô gián đạo, là Đoạn đối trị của các nghiệp kia, luận kia nương vào thù thắng mà kiến lập, không lấy các Thắng tấn đạo khác, đều là nương vào Hạnh riêng, cũng không phải hoàn toàn chế phục các nghiệp phẩm, đó là lý do không nói. Từ trên đến đây, bốn nghiệp tùy chỗ thích ứng của nó, nhiễm tịnh tuy khác, nhưng đều lấy Tư làm Thể. Nếu y theo Đối Pháp luận thì phải nói bài tụng rằng:

Thứ đệ Dục mười Tư,
Chín đoạn thuần hắc tạp,
Một ba sau đều lìa,
Trên tám chỉ tự tận.
Nếu siêu chứng thứ ba,
Chỉ một ba đều đoạn,
Từ Sơ lấy Vô học,
Tám trước Bồ-tát kiến.
Chỉ tận thuần hắc tạp,
Kim Cương đều đoạn ba,
Là nói Vô gián đạo,
Đối trị năng đoạn nghiệp.
Nếu Gia hạnh phục diệt,
Trừ Kiến ra, đều có,
Chỉ Gia hạnh vô gián,
Chế phục hết Năng đoạn.
Thắng tấn giải thoát trước,
Không thắng dụng nên trừ,
Là nói lìa Phược đoạn,
Không phải nghĩa Bất sinh.

Nếu y theo Đối Pháp luận nói, thì ba nghiệp trước Nhị thừa lần lượt chứng đắc quả, một Vô gián tư của Kiến đạo, và tám Vô gián tư dần dần lìa Dục trước lìa thuần hắc tạp, vì tạp thông với hai tánh. Vô gián tư thứ chín lìa thuần hắc và tạp, tất cả đều là Bạch bạch nghiệp, lìa Bốn Tĩnh lự của Sắc và Vô sắc. Vô gián tư thứ chín chỉ lìa Bạch bạch nghiệp, đây là y theo dần dần chứng đắc quả mà nói. Nếu y theo bốn Tĩnh lự siêu nhập Kiến đạo chứng đắc quả thứ ba, thì một Vô gián tư cũng lìa ba thứ, nếu từ Sơ quả siêu lấy quả thứ tư thì tám Vô gián tư trước, đều là Kiến đạo của Bồ-tát, chỉ lìa thuần hắc và tạp nghiệp. Vô gián tư thứ chín đều là Bồ-tát Kim cương dụ định, ba nghiệp đều lìa, đây là nói đoạn Chủng tử. Nếu chế phục Hiện hành, thì chỉ trừ Kiến đạo, còn lại tất cả Vị đều là thêm Gia hạnh đạo, các nghĩa khác đều đồng như trước. Nếu nói các Đoạn lìa Phược… thì nghĩa cũng không nhất định, phải như lý mà suy nghĩ.

Trong năm nghiệp, có hai chữ “lại nữa”, hợp chung có ba nghĩa giải thích:

1. Thiện nghiệp và bất thiện nghiệp của ngoại đạo gọi là quanh co, vì chướng đạo ngay thẳng của Phật pháp.

2. Ngay tại quanh co này gọi là uế, vì làm ô uế chánh pháp, ô uế thân tâm; ngay tại quanh co và uế này gọi là trược, vì hoen ố các pháp, dơ bẩn thân tâm, đều thông với tất cả nghiệp thiện và bất thiện, cho nên luận này ghi: “Ngay nơi nghiệp quanh co, cũng gọi là uế nghiệp, ngay nghiệp quanh co uế cũng gọi là trược nghiệp,

Nghiệp quanh co thì nói như trên. Uế nghiệp là Dị sinh của các pháp bên trong. Trong Phật giáo, Vô minh, Tham, Sân, Mạn, Thân kiến, Biên kiến, hợp chung gọi là người Điên đảo kiến; Kiến thủ, Giới thủ gọi là người trụ Tự kiến thủ; Tà kiến gọi là người tà quyết định; Nghi gọi là người do dự giác, tùy chỗ thích ứng của nó, hoặc là làm tương ưng, hoặc làm nhân gần, hoặc làm nhân xa; chỗ khởi hai nghiệp thiện bất thiện gọi là uế nghiệp, vì làm ô uế chánh pháp, dơ uế sâu xa, tức là Dị sinh bên trong, đối với tà môn và chánh môn đều không quyết định. “Lấy Nghi làm đầu gọi là do dự giác”, là chỗ nghiệp thiện bất thiện gọi là Trược nghiệp, vì nhân theo chỗ khởi cực dơ uế của Nghi, tàn ác nghiệp. Trong uế ở trước, Nghi nương theo tà định mà khởi, trong uế này thì Nghi nương theo Bất định mà khởi cho nên thành sai biệt, không phải là khiến cho chướng Phật pháp thì chánh đạo cũng được nhập, cho nên không nói Dị sinh bên trong cũng có nghiệp quanh co.

3. Ba nghiệp này đều từ ngoại đạo dấy khởi, tà giải hạnh phát sinh gọi là quanh co, ngay nghiệp quanh co này chướng công đức Hữu vi mà khởi gọi là uế, chướng chứng công đức Vô vi gọi là trược, đều thông với ba nghiệp thiện bất thiện.

Đối Pháp quyển 8 có hai chữ “lại nữa” để giải thích ba nghiệp trước.

“Lại nữa” thứ nhất: Ba nghiệp chướng nhập đạo gọi là quanh co; có thể ô uế tương tục phát sinh chướng nghiệp gọi là uế; nếu y theo điên đảo kiến của ngoại đạo mà sinh thì gọi là trược. Chỉ có trược nghiệp này xứng với ngoại đạo mà khởi, không nói chỗ khởi của hai nghiệp trước là người nào, cho nên biết lý thông với chỗ khởi của nội đạo và ngoại đạo. Đã không riêng nói tánh, thì biết rõ là thông với thiện ac. Nhưng đồng với “lại nữa” này là không có lỗi. Luận kia lại giải thích rằng: “Biên kiến, Tà kiến, Tát-ca-da kiến, như thứ tự của nó, chỗ phát các nghiệp gọi là quanh co uế trược”. Căn cứ theo luận này thì cũng chỉ có chỗ khởi của ngoại đạo, như vậy ba nghiệp tùy theo phiền não kia mà riêng nói nội đạo và ngoại đạo dấy khởi, không phải mỗi mỗi đều là Thể của Định, nghĩa tuy có khác nhau nhưng không trái nhau, không đồng với nghiệp quanh co uế trược của Tiểu thừa. Y theo Siểm, Sân, Tham sinh khởi trong nghĩa này, tóm lược làm ba loại. Chỗ khởi ba nghiệp của ngoại đạo gọi là quanh co. Dị sinh của các pháp bên trong lại có ba: một là Tà định khởi uế nghiệp, hai là Bất định khởi trược nghiệp, ba là Chánh định khởi tịnh nghiệp.

Tất cả Hữu lậu vô lậu Thắng nghiệp của bậc Thánh, gọi là Mâuni nghiệp. “Mâu-ni”, nghĩa là Tịch mặc, luận này gọi là Tịch tĩnh, vì chứng lý tịch tĩnh. Nếu y theo Văn tuệ trong Địa của cõi dưới, thì tất cả thân ngữ nghiệp và tâm trong thân của tất cả bậc Thánh làm Thể của ba Tịnh nghiệp. Tâm là ý nghiệp, không đồng với luận này. Luận kia ghi: “Thân của bậc Thánh là Mâu-ni nghiệp, chỉ lấy Vô lậu, Hữu lậu nghiệp gọi là ba Tịnh nghiệp”, không đối với Dị sinh để phân rõ sự sai biệt. Hiện tại luận này đối với nội đạo và ngoại đạo của phàm Thánh, thì Thanh tịnh nghiệp chỉ tại Dị sinh, tất cả ba nghiệp trong thân của bậc Thánh đều gọi là Mâu-ni nghiệp, quán tương đối khác nhau cho nên cũng không trái nhau. Câu-xá luận ghi: “Thân ngữ nghiệp của Vô học tức là ý, ba Mâu-ni, ba Thanh Tịnh phải biết tức là ba Diệu hạnh.

Trong “tội lỗi của nghiệp thứ chín”, sinh hiện pháp tội là như người có thể tự làm hại, là khởi sát Gia hạnh, sát nghiệp chưa thành, hiện bị người khác hại, thì tương lai chưa bị thọ, vì chưa thành nghiệp nặng. Lại nữa, như tại Dị sinh, trước hết hành sát… nhưng hiện bị người khác hại, sau đó được nhập vào bậc Thánh thì không thọ tội về sau, hoặc chuyển quả sau đối với thân hiện thọ thì sau đó lại càng không thọ, như Ương-quật-ma-la… cũng gọi là hiện pháp tội, chỉ đồng như trước, có thể tự làm hại, cho nên nói “cũng như”.

Trong “thọ Ưu khổ do thân tâm sinh”, sáu thứ tội lỗi là sáu loại tội trước trong bảy tội lỗi của nghiệp. Đã không thể thành thì không tích chưa ưu khổ, Không gia tăng phương tiện, vì không thành sự. Không thể phân rõ, là không có gì mà không xứng tâm.

“Lại nữa, có mười thứ tội lỗi”, là phạm mười giới của Sa-di, chỗ sinh ưu khổ của giới, là từ chỗ mới bắt đầu phạm, cho nên chỉ nói mười giới, vì không được thọ đầy đủ.

“Có bốn loại bất thiện nghiệp đạo”, tức là bốn chi giới trước trong năm Cận sự giới, là Tánh giới của thân có ba giới, ngữ có một nghiệp đạo. Uống rượu là Giá giới, cho nên luận này nói riêng.

“Xiển-địa-ca” là tên của Cận sự, chữ này không có chỗ dịch, cho nên giữ nguyên âm tiếng Phạm.

Trong “Sinh tạp nhiễm thứ ba” có hai loại: 1. Nêu bốn loại. 2. Tùy giải thích riêng.

“Cõi Dục có ba mươi sáu Xứ”, là Bát hàn, Bát nhiệt… như quyển trước.

Luận nói mười tám Xứ của cõi Sắc cũng vậy, quyển 8 ghi: “Sinh, là cõi Dục có ba mươi sáu Xứ, cõi Sắc có mười tám Xứ và cõi Vô sắc có bốn Xứ”.

“Hắc thắng sinh”, chủng tánh nghiệp ác cho nên gọi là Hắc, có uy thế mạnh cho nên gọi là Thắng, hoặc cùng cực trong Hắc, cho nên gọi là Hắc thắng. “Chiên-trà-la” là giết con. “Bốc-yết-bà”, cũng gọi là Bổ-yết-bà là người dọn phẩn uế. “Hoặc các nhà trưởng giả và các nhà đại phú quí”, là những người không phải chủng tộc Sát-đế-lợi, người có các kỹ năng thù thắng, nếu đôn hậu chất trực đáng kính trọng, thì gọi là nhà Trưởng giả. “Phi hắc phi bạch thắng sinh” là Phệ-xá… Trong “Sinh bất định” có năm thứ:

  1. Tự tha lẫn nhau bất định
  2. Khổ lạc bất định
  3. Xứ xứ bất định
  4. Tha thân bất định
  5. Dụ thành bất định

Lại nữa, nói: “Ta xem đại địa, không có một chỗ nhỏ nào là khả đắc…”, ý này nói, “Trong đại địa không có một xứ sở nhỏ nào, nhưng mà các ông từ vô thỉ đến nay, trong đại địa, mỗi mỗi xứ sở chưa từng thọ vô lượng sinh tử”, ý muốn nói từ vô thỉ đến nay trong đại địa đều thọ nhận nghĩa vô lượng sinh tử, thế văn đọc dài thì nghĩa đạo cũng xa.

Lại nữa, nói: “Ta xem thế gian hữu tình không dễ chứng đắc, đêm dài lưu chuyển, không làm cha mẹ của các ông…”, không dễ nghĩa là khó, là khó có thể được các hữu tình. “Không làm cha mẹ của các ông”, có nghĩa là tất cả đều đã từng làm cha mẹ, trước nói làm cha mẹ, có nghĩa hỗ tương nhau làm, nghĩa này thì đều là làm cha mẹ, cho nên hai nghĩa khác nhau.

“Quỹ phạm sư”, là A-giá-lợi-da. “Thân giáo sư”, là Ổ-bà-đà-da, tức là Hoà thượng A-xà-lê. “Quảng bác hiếp sơn”, xưa gọi là Tỳ-phú-la sơn, hình trạng của nó giống như cạnh sườn của Phi thiên.

Trong “Sinh lưu chuyển thứ tư” có bốn loại:

  1. Hỏi
  2. Lược đáp
  3. Trình bày lại
  4. Giải thích rộng

– Bài tụng thứ nhất nêu mười môn, sau đó tùy giải thích:

  1. Thể
  2. Môn
  3. Nghĩa
  4. Sai biệt
  5. Thứ lớp
  6. Vấn nạn
  7. Giải thích từ ngữ
  8. Duyên tánh
  9. Phân biệt duyên
  10. Nhiếp các kinh

Thể là tổng thuyết minh Thể của Duyên khởi, Phần vị, Sinh dẫn, Nhân quả, Lưu chuyển, Hoàn diệt trong ba đời, không phải hiển riêng mười hai Duyên sinh mỗi mỗi có riêng Thể. Sau mỗi mỗi riêng Thể, đến Sai biệt môn sẽ rộng giải thích, trong văn đó hiển đầy đủ Biệt thể.

Văn phân làm ba đoạn: một là nêu ba tướng, hai là tùy giải thích riêng, ba là tổng kết.

– Ba tướng:

  1. Từ tiền tế và trung tế mà sinh.
  2. Từ trung tế và hậu tế mà sinh.
  3. Từ trung tế hoặc tiến đến lưu chuyển, hoặc tiến đến Thanh tịnh cứu cánh.

Hai loại trước gọi là Lưu chuyển, một loại sau là Hoàn diệt. “Lưu chuyển”, là thuận với sinh; “Hoàn diệt”, là thuận với diệt. Quá khứ gọi là Tiền tế, hiện tại gọi là Trung tế, vị lai gọi là Hậu tế. Trong hiện tại, nếu không có chán nghịch thì liền tiến đến Lưu chuyển, nếu chán nghịch thì liền tiến vào Thanh tịnh. Thành Duy Thức luận ghi: “Mười nhân hai quả quyết định đồng đời”. Hiện tại luận này nương vào đây mà đối với hai đời mà phân rõ Duyên sinh, tức là luận kia cũng nói bảy loại trước trong Nhân, cùng với Ái, Thủ, Hữu, hoặc khác hoặc đồng. Hoặc hai đời, ba đời, bảy nghiệp, mỗi mỗi đều quyết định là đồng đời, như vậy tức là hiển Duyên sinh của Tam tế, hiện tại luận này chỉ ngăn Duyên khởi định của Tiểu thừa mà lập ba đời, nương vào hai đời mà hiển Phi định chỉ có như thế, quá khứ có bảy, hiện tại có ba, vị lai có hai, làm nghiệp Hậu báo chiêu cảm Dị thục.

– Trong giải thích riêng phân làm hai đoạn:

  1. Thuyết minh tướng thứ nhất.
  2. Thuyết minh hai tướng sau.

Trong đoạn thứ nhất có ba phần:

  1. Thuyết minh Thai sinh.
  2. Thuyết minh ba Sinh còn lại.
  3. Giải thích sinh xứ của ba nghiệp.

Trong phần một lại có ba đoạn: một là hỏi, hai là đáp, ba là tổng kết. Không hiểu rõ Tiền tế vô minh, là không hiểu rõ Tiền tế thắng nghĩa nên sinh hai thứ Khổ của thế tục, khởi hai thứ ngu. Khổ thế tục là chỉ cho ba đường ác bởi tất cả thế tục đều biết là khổ. Thắng nghĩa khổ, là các hàng trời người. Bậc thù thắng trí thì biết là khổ. Đối Pháp luận quyển ghi: “Mê Thế tục khổ gọi là Dị thục ngu, khởi Phi phước hạnh; mê Thắng nghĩa khổ gọi là Chân thật nghĩa ngu, không phải Bất động hạnh, phần nhiều mê Tiền tế hai Dị thục hiện tại, cho nên nói ngu này không hiểu rõ Tiền tế, đúng lý ra thì ngu này cũng mê Hậu tế, phần nhiều mê nhân hiện tiền cho nên lược bỏ không nói. “Do tùy nghiệp thức này cho đến mạng chung lưu chuyển không dứt”, là năm loại như Thức… làm Tối thắng, Thức làm Báo chủ đều không lìa Thức, tổng gọi tên là Thức, hoặc nêu ra Thức mới sinh cho nên chỉ nói là Thức. Các chủng loại Danh ngôn và Tập khí của các loại Thức này, trước tuy đã huân tập nhưng chưa biết chỗ sinh, do nghiệp chiêu cảm tập hợp, phải đối với quả thiện ac của hai nẻo mà sinh. Thức tùy theo nhân mà chuyển gọi là Tùy nghiệp thức, đã bị huân tập, cho đến thân mạng trước kia khi chết mà không dứt tuyệt, có thể làm nhân tương tục hiện tại của Thức, khi đời hiện tại sắp sinh quả thì không thể tự khởi ác, mà nhờ vào nội ngoại tham ái của quá khứ hiện tiền thấm nhuần làm Trợ bạn mới sinh trong Tiền thân.

“Thọ chi” có hai đoạn:

  1. Thọ dị thục thọ, duyên nội thân mà sinh.
  2. Thọ cảnh giới thọ, là duyên cảnh giới bên ngoài mà khởi.

Nhân theo hai Thọ này mà sinh Nội ái và Ngoại ái, lấy làm thấm nhuần tùy nghiệp thức nói trên. Nhiếp thức… năm loại, luận này nêu ra Nội ngoại ái cũng nhiếp luôn Thủ chi, hoặc Nội ái gọi là Ái, Ngoại ái gọi là Thủ, có nghĩa là hiển chỗ thấm nhuần Hành… sáu chi. Chuyển biến gọi là Tiền tế hữu, đối với quả hiện thế mà Thức tùy chuyển theo, ngoài ra các Danh sắc… thứ tự được sinh quả tương tục. “Thức cùng với Danh sắc đồng thời, cho đến suy lão…”, là nếu y theo phần vị, thì trước bảy ngày đầu gọi là Thức, trước bốn mươi chín ngày thì gọi là Danh sắc. Luận này nói gốc ngọn các vị rộng hẹp, vì nói tướng y theo nhiếp sáu Xứ, chỉ nói hai vị này cho đến suy lão, không phải không có vị khác.

Lại nữa, trong Sinh chi và Lão chi hiện tại, nhân theo Thức gọi là Thức sắc, sinh và quả hiển lẫn nhau cho nên nói danh của nó, không phải các chi sắc… ở tại đời hiện tại. Trong quyển 93, Thức làm Sở y, là nói Thức, nghiệp cùng với quả Dị thục. Luận này nói Năng y, là nói Danh sắc, nghiệp cùng với quả Dị thục, là Tổng dị thục và Biệt dị thục, vì Năng y và Sở y khác nhau. “Vì phải nương vào lục y mà chuyển”, tức là chỗ nhiếp sáu căn trong Danh sắc. “Do đó kinh nói Danh sắc duyên Thức”, đây là nương vào Bồ-tát nghịch quán Khổ và Tập, đến Thức và Danh sắc thì liền hỗ tương nhau làm duyên, quán Đế đã chu toàn, thì Kiến làm duyên lẫn nhau đã xong, cho nên quán Khổ và Tập cho đến Thức mới thôi, như quyển 93 rộng giải thích. “Tuỳ chỗ thích ứng của nó mà làm Sở y của sáu Thức”, đây không phải chỉ nói chỗ sinh Hiện thức của Thức chủng trong năm chủng. Luận kia chỉ có Thức thứ tám, cho nên quyển 93 và cuối luận này sẽ nói. Tổng nương vào tất cả tương tục làm Danh, là nói thân của sáu Thức, vì có nghĩa hiển tổng quát nói Thân thức trong một thời kỳ, là Danh sắc duyên Thức, do Thức chấp trì, Thức làm Sở y, Thức duyên Danh sắc, dựa vào Danh sắc kia làm chỗ y, hoặc Quán làm Cảnh.

“Hoặc trong Hữu sắc hữu tình tụ là cõi Dục và cõi Sắc lãnh thọ Hóa sinh, thì các căn quyết định viên mãn mà sinh”, Thành Duy Thức luận ghi: “Hữu sắc hóa sinh khi mới thọ sinh vị, tuy đủ năm căn nhưng chưa có tác dụng, lúc đó chưa gọi là sáu Xứ chi. “Sơ sinh vô sắc”, là tuy có Ý căn, nhưng chưa hiển rõ, chưa gọi là Ý xứ. Trong đây có ý muốn hiển các Hóa sinh kia:

1. Mới sinh sát-na gọi là Thức chi, sau đây tùy chỗ thích ứng mà nói, Ý xứ của năm căn chưa được rõ ràng để gọi là Danh sắc.

2. Sáu căn được rõ ràng cho nên gọi là sáu Xứ.

3. Xúc chi và Thọ chi dần dần sinh trưởng, tuy các căn quyết định viên mãn nhưng sai biệt với các căn trước. Năm chi như Thức… cũng có trước và sau.

Hỏi: Cõi dưới có Hiện sắc, có thể làm Sở y của Thức, không có Sắc thì không có Hiện sắc, thì Thức nương vào Chủng tử Phi sắc phải không?

Đáp: Thức của cõi dưới nương vào Hiện sắc, gọi là Thức duyên sắc mà nương, Thức cõi trên duyên sắc chủng, gọi là Thức nương sắc chủng.

“Lại nữa, do phước nghiệp sinh trời người cõi Dục…”, ba thứ này đều căn cứ theo Dẫn nghiệp mà chứng đắc quả, tức là Thuận sinh thọ nghiệp, chỉ chiêu cảm Dẫn nghiệp thông với Dẫn mãn nghiệp mới gọi là Hành chi. Phát khởi Vô minh này gọi là Vô minh chi. Thấm nhuần Ái thủ này gọi là Ái thủ chi. Chỗ huân tập của nghiệp này gọi là Thức… năm loại, sáu chỗ chuyển này mới gọi là Hữu chi. Hữu này sinh chiêu cảm gọi là sinh Lão chi, tức là hiển tất cả thọ nghiệp thiện tại, riêng trợ cho nghiệp vị lai đều không phải Hành chi, nếu không như thế thì phước nghiệp đáng lẽ sinh năm nẻo, quyển này trước đã có nói. “Phước nghiệp”, là chiêu cảm Dị thục của nẻo thiện trong cõi Dục, và Dị thục thuận năm nẻo, nghĩa này rộng như Thành Duy Thức nói. Do nghiệp này nghiệp kia, Năng phát và Sở phát, Năng tập Sở tập, Năng nhuận và Sở nhuận, Năng sinh và Sở sinh, đều không phải mười hai Duyên khởi chi nhiếp.

– Giải thích hai môn sau lại phân làm hai đoạn:

  1. Đặt hai câu hỏi.
  2. Tùy theo giải thích.

– Trong giải thích “từ trung tế và hậu tế sinh”, phân làm hai đoạn:

  1. Giải thích.
  2. Kết.

“Thọ hai thứ nghiệp quả trước”, là Dị thục quả bên trong và Tăng thượng quả bên ngoài. “Hoặc nghe Phi chánh pháp”, là đời hiện tại. “Hoặc trước kia lo luyện tập”, là đời quá khứ. Hai đời này đều là phân biệt khởi ngu, do mê Nội tự thể hiện tại và Hậu hữu ngu cho nên phát nghiệp; do mê ngoại ngu mà thấm nhuận sinh, đã mê Nội quả hiện tại, cho nên đối với chỗ nghe nói khổ không hiểu biết như thật, vì đây là chỗ tác nghiệp mới. “Nói Thức này tên là Tùy nghiệp thức”, là Chủng tử của Thức đuổi theo nghiệp, là do Hành mà Thức sinh, chiêu cảm huân tập mà sinh, không phải phân rõ thể sinh, vì Tăng thượng duyên. Nếu ban đầu Thức chi chỉ có Thức thứ tám, thì tất cả Thức nương chung một thời kỳ gọi là thông với thân của sáu Thức, liền tụ hội tiền tế Danh sắc, có thể làm Sở y của sáu Thức cũng lại như vậy. Bản thức là dẫn quả, Chủng tử của Danh sắc thì tùy theo, Danh sắc là tổng, Chủng tử của sáu Xứ tùy theo, sáu Xứ làm y, Chủng tử của Xúc tùy theo, Xúc làm Năng sinh, Chủng tử của Thọ tùy theo. Duy Thức và Đối Pháp ghi: “Thức… năm loại này gọi là Sở dẫn, Vô minh và Hành là Năng dẫn. Ngay Năng dẫn và Sở dẫn này đều làm Dẫn nhân, mà dẫn Sinh lão tử, vì thế lực xa thưa, cho nên tuy đều gọi là Dẫn nhân, nhưng Thức… năm loại, cùng với Sinh và Lão tử làm nhân duyên mà sinh. Quyển 93 và trong luận này nói chỉ gọi là Dẫn nhân. Luận nói, do Thức năng dẫn này, cho đến thọ thân một thời kỳ, không phải Vô minh và Hành thì không phải Dẫn nhân nhiếp. Năng dẫn và Sở dẫn, các giáo không đồng nhau. Thành Duy Thức luận ghi: “Du-già nói Thức chỉ là Năng dẫn, nghiệp chủng trong Thức gọi là Thức chi. Tập luận ghi: “Thức chỉ là Năng dẫn, nghiệp chủng trong Thức gọi là Thức chi, Chủng tử của Dị thục thức thuộc Danh sắc”. Kinh Duyên Khởi ghi: “Thức chi thông với Năng dẫn Sở dẫn, Chủng tử của nghiệp chủng thức đều gọi là Thức. Thức là Sở y của Danh sắc, không phải thuộc Danh sắc”, nghĩa là muốn nói Ái, Thủ, Hữu gọi là Năng sinh, Sinh chi và Lão tử chi gọi là Sở sinh. Thành Duy Thức luận ghi: “Thức… năm loại, do nghiệp huân tập và phát khởi, tuy là đồng thời mà nương vào Nhân quả, Chủ bạn, Tổng biệt, Thắng liệt khác nhau. Các Thánh giáo giả mượn mà nói trước hay sau, hoặc nương vào tương lai mà hiện khởi phần vị, vì có thứ tự cho nên nói có trước sau”. Nhân theo đây cũng có trước và sau, các văn nói: “Do Thức này cũng gọi là Hiện hành, khi làm nhân thì quyết định không có nghĩa Hiện hành”. “Do Ái này mà hoặc là phát Dục cầu”, là cầu sinh cõi Dục. “Hoặc phát Hữu cầu”, là cầu sinh cõi Sắc và cõi Vô sắc. Hai thứ mong cầu này là tổng thể, tức là Ái và bốn Thủ làm sau, vì trước hết là phát khởi hai thứ cầu, sau đó là riêng sinh hai Thủ, tức là sau đó mới có.

“Chỗ nhiếp của Sinh nhân”, tức là quả Dị thục sau, đều là phân rõ Thể, Nhân duyên, Nghiệp và Tăng thượng duyên. Hữu chi được riêng gọi là Sinh, không phải Ái chi, Thủ chi, không phải Sinh nhân nhiếp. Đối Pháp và Duy Thức ghi: “Ái, Thủ và Hữu là Cận sinh quả, hợp chung lại gọi là Năng sinh”, cũng không trái nhau. Nhưng Đối Pháp ghi: “Khi làm nhân thì có Năng dẫn Sở dẫn, khi làm quả thì có Năng sinh Sở sinh”, là khi chưa thành thục thì gọi là nhân, không phải không có quả của nhân, đã thành thục thì gọi là quả, không phải không có nhân của quả. Căn cứ theo nghĩa mỗi mỗi đều khác, nhưng cũng không trái nhau.

Hỏi: Năng dẫn và Sở dẫn, cả hai đều là Dẫn nhân, thì Năng sinh Sở sinh đều là Sinh nhân nhiếp phải không?

Đáp: Dẫn mà đồng Thế thì đều là Dẫn nhân, Sinh mà cùng đời khác đời thì là quả không phải nhân.

Hỏi: Sinh khác đời thì quả chẳng phải nhân, khác đời sinh thì nhân không phải quả, có đúng không?

Đáp: Đã thành thục thì gọi là quả, nhân cũng là quả, không chiêu cảm quả thì quả không phải nhân. Trong nghĩa này phải tư duy thêm.

“Các Hành này sinh, hoặc dần dần hoặc nhanh”, là ba chi Tớnninh, Noãn sinh và Thấp sinh đều dần dần sinh, Hóa sinh thì nhanh chóng khởi, đã nói như trước.

“Hoặc đối với Sinh xứ thì thứ tự hiện tiền, hoặc Chủng tử sau tùy theo đuổi”, là cõi Hữu sắc sinh lần lượt hiện tiền, cõi Vô sắc sinh thì Sắc chủng tùy theo đuổi.

“Trong Hoàn diệt, đối với các Hành của hai quả”, là hai quả Khổ đế của Lão và Tử. “Nhân kia”, là Tập đế. “Diệt kia”, là Diệt đế. Thú hướng diệt Hành kia là Đạo đế. Quyển 93 ghi: “Thế Tôn xưa kia khi làm Bồ-tát, bi mẫn hữu tình, quán nhiều duyên khởi, trải qua quán Đế, trước quán hiện tại, Lão tử làm đầu, lấy ba chủng tướng như lý quán sát:

  1. Quán tế nhân.
  2. Quán thô nhân.
  3. Quán phi bất định.

Chiêu cảm sinh nhân duyên cũng gọi là Sinh, nói Ái, Thủ, Hữu tức là quán nhân duyên tế. Thể Sinh nhân của nó cũng gọi là Sinh, nói Sinh chi tức là quán nhân duyên thô. Do có tế sinh mà có Lão tử, cũng quán do thô sinh mà được có Lão tử, Lão tử tương lai do tế sinh làm nhân, vì chưa khởi quả. Hiện pháp Lão tử do thô sinh làm nhân, vì hiện khởi quả, gọi đó là quán sát hai nhân duyên ban đầu”.

Phi bất định, nghĩa là trừ hai thứ Sinh thể là chỗ nhiếp của Sinh xứ kia, ngoài ra đều quyết định không có khả năng cùng với quả Lão tử. Quán sát Tập của Khổ đế như vậy chưa cho làm mừng đủ, mà còn quán sát nhân duyên của Tập sau. Hiện tại Khổ đế, là biến nghịch quán Thọ, Xúc, Lục xứ, Danh sắc và Thức, đã biết Khổ hiện tại do Tập hiện tại làm nhân, Tập hiện tại cũng do chỗ khởi Thức của Tập trước làm biên tế mà có pháp Khổ hiện tại. Như vậy tổng quán Khổ do Tập phát khởi, Tập do Khổ sinh, không quán trở lại Khổ hiện tại do pháp gì khởi, vì không khác với trước cho nên Bồ-tát đồng Thức mà đi ngược lại, lại thuận quán sát cho đến Lão tử. Khổ Tập đế đó quán sát chu toàn rồi, vì quán Diệt đế bắt đầu từ Lão tử, nghịch thứ tự mà nhập cho đến Vô minh. Quán khổ hiện tại tại sao tất cả đều phải diệt tận, là không tạo tác, Vô minh làm duyên mà nghiệp mới hiện hành. Như vậy trải qua quán ba Thánh đế rồi, tiếp theo là tìm cầu diệt Thánh đế này, đạo nào hạnh nào mới có thể chứng đắc? Khởi Túc trụ niệm, nhớ lại khi xưa chỗ tu chánh kiến của thế gian khiến cho hiện tiền, trải qua quán các Đế, mà lấy chánh kiến trong chánh đạo được nhập hiện quán, dần dần chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, tức là quán hạnh bốn Đế trong đây. Quán lý duyên khởi được tri kiến thanh tịnh của Học và Vô học, quyển 10 sau đây cũng có hỏi đáp này, giải thích quán Hắc bạch phẩm nguyên nhân dài ngắn bất đồng. Lại có giải thích rằng: “Đối với các Hành của hai quả, là hai chi Sinh và Lão tử”. Nhân quả thô của các Hành, cả hai hợp chung lại nói. Tổng quán hiện tại tất cả Khổ đế, tuy có giải thích này, nhưng đoạn Hành thì khó hiểu, nên trước có nói là “thiện”.

“Đối với Sở duyên kia, không như thật biết chỗ sinh thọ của Vô minh và Xúc cũng sau đó vĩnh viễn đoạn”, là chỗ sinh các Thọ của Hữu lậu xúc. Khi thọ hai quả thì đối với Cảnh sở duyên không biết như thật, do đây làm duyên phát khởi phiền não, phát nghiệp nhuận sinh. Do đoạn Thọ này, vì không có Sở y cho nên Vô minh cũng diệt, Sở duyên không tăng, chứng Vô lậu tuệ, gọi là Tuệ giải thoát. Do Thọ đoạn cho nên không sinh Tham ái, tướng này ứng hợp với tâm, lìa tương ưng phược mà chứng tâm giải thoát.

“Dần dần cho đến Dị thục sinh thì Xúc diệt, cho nên Dị thục sinh thì Thọ diệt”, văn từ đây trở lên, thuyết minh do Vô minh diệt cho nên quả tương lai diệt. “Trong hiện pháp, Vô minh diệt cho nên Vô minh và Xúc diệt”, sau đây là thuyết minh do Vô minh diệt cho nên hiện tại thuận Vô minh, Xúc, Thọ… diệt. Sáu Xứ… đã có, không phải do Vô minh hiện tại mà có, không nói Vô minh diệt thì hiện sáu Xứ… diệt; Xúc, Thọ… của nó tùy Vô minh mà sinh, chỉ nói tùy Vô minh kia mà diệt, do Sở y này diệt, cho nên Thọ năng y… cũng đều diệt theo. “Thọ hàng hữu, Thọ lìa trói buộc, Thọ không phải có trói buộc”, là các Thọ hữu lậu, lìa phiền não tăng trói buộc và Thọ vô lậu gọi là Thọ lìa trói buộc. “Không phải tất cả đều là vô lậu thọ, Phạm hạnh đã lập”, là Diệt đế trí và Đạo đế viên mãn cứu cánh Niết-bàn. “Đối với Diệt đế mãn mà hiển người cầu Niết-bàn”, là đối với chỗ chứng đắc Diệt đế mãn túc của Phật.

– Trong môn thứ hai có tám loại. Đối Pháp luận ghi:

1. Thức sinh, thì Nhãn sắc làm duyên mà Nhãn thức được sinh.

2. Lúa mạ bên ngoài thành thục, là hạt giống duyên mầm, mầm duyên thân cây.

3. Hữu tình thế gian tử sinh, là Vô minh làm duyên có thể sinh hành…

4. Khí thế gian thành hoại, là sức tăng thượng Cộng nghiệp của tất cả hữu tình làm duyên mà đại địa sinh khởi.

5. Thực (ăn) nhậm trì, là bốn cách ăn làm duyên mà hữu tình ba cõi trụ tương tục.

6. Sức tăng thượng của nghiệp sở tạo chính mình, tùy chỗ chứng đắc quả Ái, Phi ái của nghiệp, là diệu hạnh và ác hạnh làm duyên, vì tiến đến nẻo thiện và nẻo ác.

7. Uy thế, là nội chứng làm duyên, vì công đức tối thắng của thần thông.

8. Thanh tịnh, là thiện của Thuận giải thoát phần làm duyên, lần lượt cho đến chứng đắc quả A-la-hán.

Kinh Duyên Khởi quyển hạ cũng giải thích tám môn này, nhưng luận này thứ tự không đồng với Đối Pháp , cho nên quyển 10 sau thuyết minh mười hai chi này có bao nhiêu môn nhiếp. Hiện tại nhân theo duyên khởi mà giải thích khắp các duyên, cho nên hiện tại trình bày hiển thị, đến quyển Trung sau sẽ nói rộng.

Trong nghĩa của Duyên khởi thứ ba có hai đoạn:

  1. Có tám nghĩa giải thích Duyên khởi.
  2. Hỏi đáp phân rõ.

Đối Pháp luận và kinh Duyên Khởi mỗi mỗi đều có mười một nghĩa giải thích. Đối Pháp luận ghi:

1. Nghĩa lìa hữu tình, vì không có ngã tự nhiên, đây là phá Thắng luận của Độc Tử bộ… Ngã làm tác giả, vì lìa hữu tình kia.

2. Nghĩa Vô thường, vì không phải thường hằng, đây là phá tự tánh thường trụ làm gốc của vạn vật, làm duyên thành vật của Số luận, cho nên hiển Vô thường, cũng phá mười hai Duyên sinh là pháp Vô vi… của Đại Chúng bộ, Hóa Tha bộ…

3. Nghĩa tạm trụ, là khi đã có thì sinh qua rồi, không có tạm trụ, Đối Pháp luận cũng làm nghĩa sát-na, đây là phá Sắc, mạng căn… các pháp duyên sinh một thời kỳ có bốn tướng của Chánh Lượng bộ, vì không phải sát-na.

4. Nghĩa Y tha khởi, là vì dựa vào nhiều duyên mà sinh, đây là phá pháp tự nhiên mà có của Tự nhiên ngoại đạo, vì không phải mượn nhân mà sinh cho nên là Y tha khởi.

5. Lìa tác dụng, là vì nhiều duyên tác dụng trống rỗng, đây là phá có thật tác dụng làm duyên sinh Thể của Tát-bà-đa, là hiển công năng không có tác dụng.

6. Nghĩa Nhân quả tương tục không gián đoạn, là nhân sát-na diệt, quả sát-na sinh, vì có thời gian phương phân… cho nên nhân quả nối nhau, đây là phá nhân quả không tương tục của Đoạn kiến nghiệp đạo, cũng ngăn các sư Kinh bộ, không có đời quá khứ và vị lai, nhân quả Dị thục vẫn không đồng thời, vì nhân của quả bị đoạn dứt.

7. Nghĩa Nhân quả tương tợ chuyển, là không theo tất cả, vì tất cả sinh cho nên nhân quả tương tợ, đây là ngăn hại làm chánh pháp, chấp giết hại trâu dê… làm nhân rồi sau đó sinh Thiên, tức là các thiện quả lấy bất thiện làm nhân, vì nhân quả không tương tợ, đây là nêu bày thiện nhân đắc thiện Dị thục. Ác nhân cũng vậy, vì nhân quả tương tợ.

8. Nghĩa Tự nghiệp sở tác, là đối với các tương tục khác không thọ quả, vì tự nghiệp tự thọ, đây là phá các Không kiến luận của vô nhân quả không phải nghiệp khởi, cũng phá nghĩa Tha tác ngã thọ quả, là kế chấp nhân không bình đẳng của các luận”.

Đối Pháp luận và kinh Duyên Khởi đều tự giải thích rộng, sợ dài dòng nên không nói hết ra đây.

“Để hiển nghĩa chỗ nhiếp nhiễm ô và thanh tịnh của nhân duyên”, cuối quyển 10 ghi: “Trong mười hai chi, có bốn chi chỉ có tạp nhiễm, ngoài ra đều thông với thanh tịnh, bốn chi tạp nhiễm đó phát nhuận quyến thuộc của thiện nghiệp thanh tịnh, cho nên cũng gọi là Thanh tịnh. Có ý muốn hiển Ái đạo duyên sinh phẩm gọi là Thanh tịnh, không phải Ái đạo duyên sinh phẩm gọi là Nhiễm ô. Hiển Nhiễm tịnh duyên sinh của nhân duyên này, cho nên lập Duyên khởi, đây là phân rõ ý của thuyết Duyên khởi, cho nên nhân theo giải thích nghĩa mà phá tông khác để hiển ý lý của tự mình.

Trong Sai biệt thứ tư, mười hai chi sai biệt làm mười hai nhân để giải thích các pháp kia. Giải thích rộng khắp tất cả pháp kia một thời kỳ trong thân, không phải chỗ phân rõ tất cả thể tánh trong pháp này đều là Duyên khởi chi.

– Trong giải thích Vô minh có bốn loại:

  1. Mười chín loại.
  2. Bảy loại.
  3. Năm loại.
  4. Sáu loại.

– Trong mười chín loại có ba đoạn:

  1. Chỉ kinh.
  2. Biệt hiển.
  3. Kết số.

– Biệt thích bảy loại:

  1. Đời.
  2. Sự.
  3. Nghiệp báo.
  4. Tam bảo.
  5. Bốn Đế.
  6. Nhân quả.
  7. Sở chứng.

Trong nhân, “hoặc kế chấp tự tại thế tánh sĩ phu trung gian…”, là Tự tại thiên, Minh tánh, Sĩ phu, Thần ngã, Phạm vương, vì ở vào trung gian Thiền cho nên gọi là Trung gian, như thứ tự mà phối hợp giải thích.

“Vô tội, Hữu tội, Ưng tu, Bất ưng tu”, là giải thích tản mác đối với Thể của nhân thiện ác. “Hắc bạch tạp”, là giải thích Thể của quả, vì quả có hai phần Hắc bạch cho nên gọi là Hữu phần. Trong mười chín loại này, có thông với Câu sinh, hoặc Phân biệt khởi. Thế sự nghiệp quả… thông với hai môn.

Trong bảy Vô tri nhiếp mười chín loại, “nghiệp Dị thục vô tri nhiếp Di chuyển”, là nghiệp có thể chiêu cảm quả, do mê mà không biết, chấp nhân không bình đẳng, cho nên gọi là Di chuyển, hoặc tánh của nhân quả thiện ác bất định, đối với tánh này mà sinh ngu cho nên gọi là Di chuyển. “Nhiễm tịnh ngu”, là chỗ nhân quả của ngu thông với thiện và ác.

Trong năm loại nhiếp mười chín loại, Kiến ngu nhiếp tám loại, là thế sự mỗi mỗi có ba loại, phân rõ nhân quả suy cầu gọi là Kiến. Thể không phải Vô minh, Nghi và Tuệ đồng thời cho nên gọi là Kiến ngu.

Phóng dật ngu nhiếp ba loại, vì không biết nghiệp quả cho nên sinh phóng dật. Chân thật nghĩa ngu nhiếp bảy loại, Tăng thượng mạn nhiếp một loại, Nghĩa ngu nhiếp mười chín loại. Mê nghĩa lý và cảnh đều gọi là nghĩa Ngu.

Trong sáu Vô tri có hai loại:

  1. Hiển sáu Vô tri và bảy Vô tri nhiếp nhau.
  2. Nương vào Năng trị và Tự tánh, phân rõ sáu sai biệt.

“Y theo sở trị sai biệt của Văn tư Tu mà nói ba loại trước”, là do Văn mà biết pháp, Sở trị của nó gọi là Vô tri; do Tu cho nên suy tìm, Sở trị của nó gọi là Vô kiến; nương vào Tu cho nên chứng rõ, Sở trị của nó gọi là Vô hiện quán, do đó nói Sở trị sai biệt mà thuyết ba loại này.

Trong phần Nhuyễn, ba tự tánh trên sai biệt cho nên nói hắc ám, ngu si, vô minh. Hắc ám trong đây là nói chung tất cả Vô tri. Làm Thể của chi nghĩa là Thành Duy Thức luận ghi: “Chỉ lấy năng phát”. Ngay khi chiêu cảm nghiệp thiện ác của đời sau, kinh Thắng Man ghi: “Có năm Trụ địa là Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa, và Vô minh trụ địa”. Bốn Trụ địa trước là Phiền não chướng, một Trụ địa sau là Sở tri chướng. Sau đó kinh tự thuyết về Vô minh trụ địa, là chỗ không thể đoạn của Thanh văn và Bích-chi-phật, vì chỉ có trí Bồ-đề của Như Lai Phật mới có thể đoạn, do đó quyết định biết là Sở tri chướng. Duy Thức quyển 9 nói không đồng với kinh này.

Trong Phiền não chướng có bốn loại, loại thứ nhất là Kiến đạo đoạn, ba loại sau Tu đạo đoạn. Đối Pháp luận ghi: “Phát nghiệp vô minh có hai loại:

  1. Chân thật nghĩa ngu, phát phước hạnh và bất động hạnh.
  2. Dị thục ngu, phát phi phước hạnh”.

Hai loại này đều chỉ là chỗ đoạn của Kiến đạo. Kinh Duyên Khởi ghi: “Các bậc Thánh hữu học đã đoạn vĩnh viễn Bất cộng vô minh, không tạo nghiệp mới”. Duy Thức cũng ghi: “Chánh phát nghiệp, chỉ có Kiến sở đoạn. Trợ, là bất định cho nên chỉ lấy tất cả vô minh trong một Trụ địa của Kiến kia”. Nhưng điều này lại có ba loại:

  1. Chỉ phát tổng nghiệp.
  2. Chỉ phát biệt nghiệp.
  3. Phát chung hai nghiệp.

Luận này lấy Vô minh nghiệp thứ nhất và thứ ba, cho nên nói: “Chỉ lấy chánh phát nghiệp để chiêu cảm nghiệp thiện ác của đời sau”, nhưng phát nghiệp này lại có bốn loại là Tương ưng, Bất cộng, Triền và Tùy miên, đều có thể phát nghiệp. Nội đạo, Nghiệp đạo, Dị sinh, Phóng dật, Bất phóng dật, tùy chỗ thích ứng của nó dùng bốn Vô minh để phát nghiệp đều khác nhau, như kinh Duyên Khởi tự nói rộng.

Trong đó nói Hành thông với thân ngữ ý, chỉ có Chủng tử hiện hành của thiện bất thiện là giả sắc, và Tư lấy làm tự tánh. Điều này cũng có ba loại:

1. Hoặc thông với quả cho nên làm Hành chi, cũng chỉ chiêu cảm tổng nghiệp và câu nghiệp. Thành Duy Thức luận ghi: “Ngay chỗ phát kia mà gọi là Hành, do đây mà tất cả thuận hiện thọ nghiệp, trợ riêng cho nghiệp tương lai đều không phải Hành chi”.

2. Là Hành do vô minh trước phát mới trở thành Hành, sắc của thân ngữ nghiệp gọi là Giả sắc, nương vào Chủng tử Hiện hành của Tư mà lập.

3. Ý nghiệp chỉ có Tư, thành Thể của Hành chi. Căn cứ theo tất cả thiện ác của năm Thức này, đã không phải Hành chi, thì biết rõ không thể chiêu cảm đối với Tổng báo.

Trong Thức chi, thuyết minh sáu Thức, luận trước tự hiểu, nương chung sáu Thức thân trong một thời kỳ để nói, không phải chánh là Thức chi. Thành Duy Thức luận ghi: “Trong đây Thức chủng là nhân của Bản thức, cho nên chỉ lấy chỗ huân tập Chủng tử thức thứ tám tương lai của Hành gọi là Thức chi”, vì mới kết sinh tổng Dị thục, không nói thức khác làm thể của Thức chi, Thức này chỉ có Chủng tử, không lấy Hiện hành. Trong đây nói chỗ sinh quả Thức của Chủng tử làm Thể của Thức chi. Kinh Thập Địa ghi: “Nếu như Vô minh có khi làm Chủng tử, có khi làm quả, thì Thức… cũng đều như vậy”. Duy Thức hội ghi: “Hoặc theo tương lai mà nói thì có Hiện hành, khi làm nhân thì quyết định không có nghĩa Hiện hành, là Thức và Danh sắc ban đầu nhập thai mẹ lẫn nhau làm duyên, nhưng theo khi đang khởi thì không phải là Chánh Chủng tử.

Trong Danh sắc, một giải thích tên của bốn Uẩn, hai giải thích Sắc của Sắc uẩn.

“Cõi Dục có đủ mười giới và Giả sắc mà pháp xứ nhiếp”, nghĩa là Thật sắc của pháp xứ, là thắng định quả, cõi Dục không có Định cho nên nói là không có, phần nhiều có Giả sắc cho nên để lựa riêng với các cõi trên. Giả và Thật thông với có, nhưng không phải tất cả, vì không có Bất luật nghi và Biệt giải thoát; gương và hình, nước và trăng cũng không có.

Trong Giả của cõi dưới, tuy không có Sắc của Định cộng giới và Đạo cộng giới, luật nghi bất luật nghi và các Dị loại đều có, cho nên không lựa riêng; cõi trên chỉ có luật nghi, vì hiển không có Bất luật nghi, cho nên nói “Không phải tất cả”. Trong đây nói chung Chủng tử Hiện hành, bốn chi Danh sắc… trong tương lai và hiện tại không phải Thể của Thật chi. Thành Duy Thức luận ghi: “Trừ ra ba nhân sau, còn lại các nhân khác đều là Chủng tử của Danh sắc nhiếp. Ba nhân sau, như thứ tự của tên ngay ba loại sau, đây là nói năm chi không phải Tạp thể tánh, sáu căn chủng của Dị thục gọi là sáu Xứ. Chủng tử Xúc Thọ của Dị thục, gọi là Xúc chi và Thọ chi. Trừ Chủng tử của Bản thức và ba loại sau, các Uẩn và Dị thục chủng khác đều là Danh sắc chi. Kinh ghi: “Danh là bốn Uẩn phi sắc, Sắc là Yết-la-lam”. Đây là nương vào Tạp thể, không phải nói Biệt thể, nếu không như thế thì làm sao được thành năm Uẩn! Hoặc cùng nương năm Uẩn danh sắc của Phi dị thục mà nói thức mới sinh lại hỗ tương làm duyên, vì tên của Thức thứ bảy… gọi là ở trong Thức. Nếu Tạp thể như Duy Thức luận ghi: “Hoặc Danh sắc chủng tổng nhiếp năm nhân, trong đó tùy thù thắng mà lập bốn loại khác. Sáu Xứ cùng với Thức, tổng và biệt cũng vậy”. Đầy đủ như trong Duy Thức sớ kia giải thích. Thức này chỉ có Chủng tử. Nói Hiện hành, là căn cứ theo Thức chi. Đối Pháp luận quyển 1 ghi: “Nhãn xứ, là nhãn đã từng hiện thấy Sắc”, không nói đang thấy, hiện tại luận này căn cứ theo Thật. Xứ thông ba đời, Đối Pháp luận thì nương vào nghĩa tăng trưởng của Xứ mà chỉ nói đời quá khứ và hiện tại, vì sáu hạnh của vị lai thù thắng, cũng không trái nhau.

“Thọ chỉ có Xả thọ, kiêm gồm Khổ lạc”, vì một nghiệp thông với chiêu cảm chung với quả tổng và biệt, cũng nương vào chỗ có Thọ của một thời kỳ mà nói, nếu không như thế thì chỉ nên nói Xả thọ chi, là vì tổng báo làm chủ.

 

BẢN LUẬN 10

Trong Sai biệt thứ tư, trên đã giải thích bảy chi Dẫn nhân, dưới đây giải thích năm chi Năng sinh và Sở sinh. Thể của Ái chi chỉ có Tham trong phiền não, Tham này tùy duyên chung hai quả bên trong bên ngoài, nhưng các luận phần nhiều đều lấy Ái duyên ngoại cảnh, do mê ngoại cảnh nên quả Tăng thượng ngu, vì duyên cảnh giới nên Thọ phát sinh.

Thủ chi, lấy chung tất cả phiền não làm tự thể. Thể của bốn Thủ như trước đã nói, chi này chỉ lấy toàn phần Năng thủ Sở thủ. Chỗ làm trong Thủ, là Thủ tùy thuận phiền não, không thủ lấy các pháp khác. Quyển 9 ghi: “Phải nói toàn cõi tất cả phiền não đều có thể kết sinh, Ái đã chỉ có Tham cho nên Thủ nhiếp chung hết với các phiền não, nhưng trong đây nói “duyên Tham của bốn Thủ làm Thủ chi”, đồng với kinh Thập Địa. Kinh Thập Địa ghi: “Ái tăng thượng gọi là Thủ”. Thành Duy Thức ghi: “Đối với nhuận nghiệp vị, sức Ái lực tăng trưởng thiên lệch”. Nói Ái như nước có thể tưới nhuần, phải luôn luôn tưới nước mới sinh mầm. Vả lại nương vào phần thứ nhất và thứ hai của hai chi Ái thủ, tuy trong Thủ chi nhiếp các phiền não, nhưng Ái nhuận là thù thắn. Nói là Ái tăng trưởng, cho nên văn của kinh kia và luận này không trái nhau. Hai chi Ái thủ, thông với Hiện hành và Chủng tử, vì đều có thể thấm nhuần, Ái mong ở Thủ mà thành nhân duyên.

Trong Hữu chi, một là giải thích ba Hữu, hai là thuyết minh bảy Hữu. Cõi Dục có mười Hữu:

1. Tiền thời hữu, là sinh ở sát-na sau, chết ở sát-na trước, khoảng giữa của hai sát-na này gọi là Tiền thời hữu.

2. Nghiệp hữu, là Hành chi, vì Ái thủ thấm nhuần cho nên có thể có quả tương lai, gọi là Nghiệp hữu.

3. Tử hữu, là lúc một sát-na sau cùng khi chết.

4. Trung hữu, là sát-na sau khi chết sinh sát-na, khoảng giữa hai nẻo trước gọi là Trung hữu.

5. Sinh hữu, là khi thú hướng sinh sơ vị một sát-na, năm thú hướng còn lại đều có.

Còn lại năm Hữu là Thú hữu, năm Hữu này là tổng, năm Hữu trước là biệt, năm Hữu trước thông rộng, năm hữu sau Thể hẹp. Hữu trong Nghiệp hữu, không phải năm Hữu sau. “Hữu”, là Sở hữu, Thể tức là Dị thục, là một thứ Năng hữu của nghiệp gọi là Hữu. Ngoài ra đều là Sở hữu. Thành Duy Thức ghi: “Bắt đầu từ Trung hữu đến Bản hữu, cho đến lúc chưa suy biến, đều là Sinh chi nhiếp”, cho nên Trung hữu này, trong Sở hữu nhiếp lấy. Cõi Sắc có sáu Hữu, trừ ra bốn thú hướng, cho nên Vô sắc hữu có năm Hữu. Lại nữa, trừ Trung hữu ra thì hiện tại Hữu chi này chỉ là Nghiệp chi, nói là trước hết khởi hành các phiền não nhiếp thọ. Thành Duy Thức ghi: “Ái thủ hợp chung thấm nhuần, Năng dẫn nghiệp chủng và Sở dẫn nhân chuyển gọi là Hữu, vì đều có thể gần với quả Hữu hậu hữu”. Luận đó có ý nói, Hành và Thức… năm chi, là Ái thủ nhuận chuyển gọi là Hữu chi, Thể chỉ có Chủng tử, vì là sở nhuận, vì có thể sinh quả. Hiện tại luận tổng nói mười Hữu gọi là Hữu, Năng hữu Sở hữu hợp chung gọi là Hữu. Giải thích khắp các nghĩa của Hữu, không phải chỉ có giải thích nghĩa của Hữu chi. Hữu này chỉ có Nghiệp hữu đó là Hữu chi. Duy Thức hội ghi: “Có kinh luận chỉ nói Nghiệp chủng gọi là Hữu, Nghiệp chủng này có thể chánh chiêu cảm quả Dị thục”. Duy Thức hội kia lại ghi: “Lại có kinh luận chỉ nói năm chủng gọi là Hữu, là chủng thân cận sẽ sinh Thức của tương lai. Bảy Hữu của nó là Thể của năm thú hướng vì có thọ dụng quả. Hữu trong thú phương tiện, là trung gian giữa hai thú, sáu thứ này là Sở hữu, nghiệp làm Năng hữu, vì có thể dẫn các Hữu cho nên hợp chung thành bảy Hữu. Tiền thời hữu, Tử hữu, Sinh hữu, tức là Ngũ thú hữu, nhưng thi thiết riêng biệt cho nên không có kiến lập.

Trong Sinh chi, một là giải thích riêng mười câu, hai là kết lược nghĩa. Bốn câu đầu nói Thai sinh và Noãn sinh; một câu kế nói Thấp sinh và Hóa sinh. “Thân phần đốn khởi”, là các chi phần sinh nhanh chóng, chính loài Hóa sinh, các căn sinh nhanh chóng, là các chi phần tay chân.. cũng vậy. Thấp sinh thì không như thế, là căn dần dần sinh. Chi phần khởi nhanh cùng với quyển trước nói Thai sinh, Noãn sinh và Thấp sinh, các căn dần dần khởi, cũng không trái nhau. Năm câu sau thông với bốn Sinh hữu. Uẩn đắc, là Thể của Uẩn khởi giới đắc, là Chủng tử của Uẩn. Tánh nhân duyên của Uẩn, Uẩn đắc hiện hành thành tựu Giới đắc, Chủng tử thành tựu Xứ đắc, thông với hiện chủng, còn lại là ba duyên thành tựu.

Trong Lược nghĩa có sáu câu. Tự tánh nhiếp hai câu Sinh và Xuất hiện. Sinh xứ vị nhiếp ba câu Đẳng sinh, Thú và Khởi. Sở sinh nhiếp một câu Uẩn đắc. Chỗ nhiếp của nhân duyên là nhiếp hai câu Giới đắc và Xứ đắc. Nhậm trì, Sở dẫn nhiếp một câu các Uẩn sinh khởi. Câu sinh y trì thì nhiếp mạng căn. Một câu Xuất hiện, ý nghĩa có thể hiểu.

Lão Tử chi có hai đoạn, một là giải thích Lão, hai là giải thích Tử.

Lão chi có hai phần:

  1. Giải thích riêng mười bảy câu.
  2. Kết lược nghĩa.

Kết có mười câu, sáu câu đầu mỗi mỗi đều nhiếp một câu; câu thứ bảy Uy nghi biến hoại nhiếp năm câu, là câu thứ bảy đến câu thứ mười một; câu thứ tám “Vô sắc các căn biến hoại” nhiếp hai câu thứ mười hai và mười ba; câu thứ chín “Hữu sắc các căn biến hoại” nhiếp hai câu thứ mười bốn và mười lăm; câu thứ mười “thời phân đã qua, thọ lượng sắp hết” nhiếp hai câu thứ mười sáu và mười bảy.

Trong Tử chi có hai đoạn, một là giải thích riêng mười một câu, hai là kết lược nghĩa có bốn câu. “Nếu chết”, nhiếp hai câu đầu, là Thể đang khi chết. “Như phương pháp chết”, nhiếp câu thứ ba và thứ tư. Giải chi và Bất giải chi, là cách thức khi chết của năm nẻo. “Nếu chết khác nhau” nhiếp câu thứ năm và câu thứ sáu. “Giai vị sau khi chết”, nhiếp câu thứ mười một. “Tử ma nghiệp”, là Thể đang lúc chết, tác dụng của tử ma. Tử ma nghiệp này cũng là Tử sai biệt nhiếp. Hai chi Sinh tử này tùy chỗ thích ứng của nó mà năm Uẩn làm tánh, vì hiện hành khổ, chỉ có Thủ hiện hành cùng với Hữu hợp chung lại nói, hoặc thông với Chủng tử. Thành Duy Thức luận ghi: “Từ Trung hữu đến Bản hữu, khi chưa suy biến đến nay, đều là Sinh chi nhiếp”. Trung hữu mạt vị, nếu khởi ái tâm, thì duyên quả tương lai mà khởi, vẫn là Sinh chi, do trước khi sắp chết, Ái và Thủ thấm nhuần Hữu, vì có thể có Trung hữu và sẽ sinh cho nên các giai vị suy biến gọi chung là Lão, khi thân hoại mạng chung mới gọi là Tử.

Trên giải thích môn Sai biệt thứ tư đã xong, sau đây giải thích môn Duyên khởi thứ đệ thứ năm. Luận có ba giải thích:

1. Trong chữ “lại nữa” thứ nhất, do tà hạnh khiến cho điên đảo…, có nghĩa là Thức, Danh sắc… năm chi đều y theo Hậu tế ngay năm cương vị hiện khởi của Sinh, Lão tử mà nói do năm chi, không phải nương vào năm chi tại Nhân vị mà nói, cho nên Thành Duy Thức ghi: “Tướng sai biệt của Nhân vị khó biết, nương vào quả vị tương lai mà lập riêng năm chi”. “Nếu y theo nghĩa này thì tâm điên đảo”, là tùy theo Nghiệp thức và Hiện tư gọi là Hành, chủng nghiệp gọi là Thức, vì nói Danh sắc chi kết sinh tương tục. Đối Pháp luận cũng ghi: “Do Danh sắc đã sinh rồi, được dự vào hữu tình chúng đồng phận số”. Luận kia nói vì Danh Sắc mới thọ sinh. Duy Thức hội ghi: “Nghiệp chủng trong Thức gọi là Thức chi. Các căn viên mãn, là sáu Xứ chi. Hai cảnh thọ dụng, là Xúc chi và Thọ chi, Xúc dẫn Thọ sinh đều cảnh thọ dụng, nên

Câu-xá ghi: “Danh tùy theo Xúc và Thọ”. Đam mê chấp trước, nghĩa là duyên Ái hiện tại; mong cầu là duyên Ái vị lai, hợp chung gọi là Ái chi. Phiền não nuôi lớn, là Thủ chi. Trong đây chỉ nói nghiệp làm Hữu chi, như trước đã nói, các chi còn lại có thể hiểu. Nghĩa của Hữu, hợp chung nương vào ba Tế để phân rõ thứ tự. Vô minh, Hành và Thức, thì ở thời quá khứ. “Tâm điên đảo”, là Thức… năm loại, đều gọi là tâm, vì không lìa Thức, vì Thức làm chủ, do tà hạnh huân và phát, vì sẽ có thú sinh, cho nên tâm gọi là Điên đảo. Lược bỏ không nói chánh hạnh huân phát, căn cứ theo Ái thủ sau thấm nhuần Hữu nghiệp sau, thì biết đối với tiền tế cũng thấm nhuần hành tâm, cho nên lược bỏ không luận tiền tế. Ái, Thủ và Hữu chính là Danh sắc của nó kết sinh, bốn chi sau là Sinh lão tử của đời quá khứ làm thành. Duy Thức ghi: “Nhưng quả Sở sinh nếu tại vị lai vì sinh chán cho nên nói sinh Lão tử. Nếu trong hiện tại, vì khiến cho biết rõ phần vị tương sinh mà nói Thức… năm loại”. Luận kia nói Thức chi mới nhập thai mẹ, thì luận này nói là Danh sắc, cho nên chỉ có bốn chi. Do hiện tại thọ phát sinh tham ái, phiền não nuôi lớn, sau đó có nghiệp, cho đến tương lai có Sinh lão tử. “Chỉ nói nhuận nghiệp mà không nói phát nghiệp”, vì căn cứ theo tiền tế mà biết phát nghiệp, điều này rất rõ ràng. Quá khứ thì nói là phát mà không nói nhuận nghiệp, hiện tại thì nói nhuận mà không nói phát, vị lai nói Sinh lão tử mà không nói Danh sắc, hiện tại thì nói Danh sắc mà không nói Sinh lão tử, hai cái đèn, hai cây đuốc, ảnh hiển liền biết. Muốn hiển nhân quả Tam tế không đoạn, khéo thuận Tiểu thừa, cho nên khởi nói như vậy.

2. Chữ “Lại nữa” thứ hai, chỉ y theo hai Tế mà kiến lập. “Nội thân duyên”, là Phát nghiệp dẫn sinh môn. “Cảnh giới duyên”, là Nhuận sinh quả khởi môn. “Khởi ngu ngã chấp”, là tương ưng với Si. “Hoặc nhân theo thử mà khởi bỉ”, là Bất cộng si. “Tức là tùy theo nghiệp kia mà phần nhiều khởi Tầm tư”, đây là Thức hiện hành. “Do nghiệp và Thức làm Trợ bạn”, là chủng thức, vì chỗ huân của nghiệp làm Trợ bạn. Chủng tử của Danh sắc… những thứ này đều gọi là Thức, cho nên có thể chiêu cảm ba Khổ trong tương lai:

a) Khổ do căn mới khởi, là hai căn thân và ý của Danh sắc mới khởi.

b) Khổ do căn viên mãn, là sáu Xứ.

c) Khổ do thọ dụng cảnh giới, là Xúc, tức là hợp chung lấy hai thứ Năng sinh Danh ngôn và Hữu phần.

Đúng lý ra phải có Thức Thọ hai quả, Thức gọi là chủng, cho nên trong quả không có, Thọ là ngoại thọ cho nên trong nội quả không có. Ái thì nhân theo Thọ mới được khởi, Thọ tiền tế thì nói không có, Thọ hậu tế thì nói có, Xúc của tiền tế sau nói sẽ Tho, mỗi mỗi đều mong Hữu riêng biệt. “Nương Xúc duyên Thọ phát khởi Ái”, là Ái chi, rộng khởi truy cầu các cõi dưới là Thủ chi.

“Do sự nghiệp môn”, môn là nguyên nhân, là các nghiệp như Tịnh hạnh, phụng sự vua. “Lợi dưỡng môn”, là ngồi, nằm, cày, cấy… Hai môn này là Dục cảnh bên ngoài khởi, gọi là Dục cầu. “Hoặc do giới cấm môn”, là chỗ giới cấm của tà nguyện. “Hoặc do giải thoát môn”, là Kiến thủ. Do hai môn đầu phát khởi Dục cầu bên ngoài. Do giới cấm môn phát khởi nội thân cầu bên trong, vì cầu thân được lạc quả trong tương lai. Do giải thoát môn khởi tà giải thoát cầu hữu nghĩa. sự nghiệp môn, là dục thủ. Lợi dưỡng môn, là Kiến thủ, vì lợi dưỡng, kiến chấp thù thắng. “Giới cấm môn”, là giới cấm thủ. “Giải thoát môn”, là ngã ngữ thủ, chấp đế, chấp trụ, chấp ngã tự tánh làm giải thoát. Nhân theo bốn Thủ này mà phát khởi ba cầu:

a) Dục cầu, phần nhiều là cầu Ngũ dục.

b) Nội thân cầu, tức là Hữu cầu, vì cầu tự thể.

c) Tà giải thoát cầu, tức là Tà phạm hạnh cầu, vì cầu giải thoát. “Khi khởi các thứ cầu này, thì khiến cho chỗ khởi trước hết là bốn Thủ, Phiền não và Nghiệp”, Nghiệp là Hữu chi, Vô minh làm duyên phát nghiệp, khiến cho quả tương lai sinh, Vô minh không phải là Hữu chi.

3. Trong chữ “lại nữa” thứ ba có ba đoạn: “Hữu tình Tụ”, là hai chữ “lại nữa” ở trước, duyên khởi và nhiễm tịnh. Hiện tại luận này chỉ y theo người cầu tịnh mà nói. “Ưa thích thế gian thanh tịnh”, là không ưa thích xuất thế gian, ưa thích trời người cho nên gọi là thanh tịnh, nhưng ngu si cho nên cũng tạo Phi phước. “Hoặc khởi chỗ dẫn truy hối ăn năn”, là ưa thích thanh tịnh mà hối hận ăn năn Phi phước nghiệp, hoặc ngu si không hiểu nguyên nhân hối hận. “Ba nghiệp này là chỗ dẫn tâm tương tục trụ của Quán hỷ”, là chỗ huân thành chủng tương tục mà trụ của Quán hỷ tâm, tức là Thức chi, lấy Thức này làm nhân. Do Phi phước là nghiệp hạ; do Phước là nghiệp trung; do Bất động là nghiệp thượng. Đối với chỗ sắp sinh, cũng đều có thể chiêu cảm quả chủng của ba Khổ, gọi là Thức chi; Hiện hành gọi là Danh sắc, không nói Thọ, nghĩa căn cứ theo trước mà giải thích. “Ưa đắm cảnh giới”, là Thọ, Ái và Thủ, chính là ba nhân của Hữu, Sinh và Lão tử, dính mắc vào cảnh Hữu cũng được tên đó. Trong kinh Duyên Khởi giải thích đầy đủ thứ tự, sợ dài dòng không nêu.

Trong giải thích vấn nạn thứ sáu, có hai vấn đáp, ban đầu là trong hỏi nghịch thứ tự. Như Thế Tôn nói: “Danh sắc mới đã diệt cùng với pháp thượng thủ”, đây là dẫn kinh làm chứng, trước hết quán Duyên khởi Sinh lão tử của hậu tế, là quả Danh sắc… của tiền tế. Từ trên đến đây tổng nói Danh sắc kết sinh, Thể của Danh sắc rộng, tổng nhiếp các chi khác, chỉ nói Danh sắc là đã nói các pháp khác xong.

Nói “danh sắc mới”, là chỗ tập hợp Chủng tử Danh sắc của tiền tế sau khi hiện hành, gọi đó là mới, nếu đã sinh khởi thì không gọi là mới. Nói “quán pháp”, là trước quả sau nhân, cho nên nói Sinh lão tử làm đầu, Danh sắc mới diệt làm thượng thủ. Kinh Duyên Khởi ghi: “Như bệnh, nhân của bệnh, bệnh diệt, lương dược”, cho nên nói là nghịch thứ tự. Sinh và Lão tử làm đầu.

Hỏi: Tại sao không nói Vô minh diệt làm thượng thủ? Đây là hỏi chỗ dẫn kinh kế trên nói Danh sắc làm thượng thủ diệt, tại sao kinh kia không nói Vô minh làm đầu tiên để diệt?

Đáp: “Nương vào người có tâm giải thoát mà thi thiết…”, câu này có ý giải thích rằng, trước khi chưa nhập Thánh, mới ở Tư lương vị thứ nhất, thì trước hết thuận thứ lớp quán, trong Gia hạnh đạo nghịch quán thứ lớp, khởi bốn mươi bốn Trí, bảy mươi bảy Trí, nhập Kiến đạo thuận thứ lớp đoạn. Vô minh diệt tức là Hành diệt, y chỉ trong thân giải thoát của Vô học, thì Danh sắc hiện tại đặt ở trước, Thọ đặt ở sau Chủng tử của bốn chi, không thể làm nhân sinh các quả của Sinh lão tử trong đời vị lai. Đây là nói khổ nhân không thể sinh, sau đây là nêu bày do Thọ diệt thì Khổ vị lai không khởi, là người giải thoát khi hiện đang thọ cảnh, thì Ái và Tùy miên tức là Ái chi và Thủ chi, do Thánh đạo lực bạt trừ vĩnh viễn không khởi, gọi là Năng nhuận phiền não Tập đế vĩnh viễn diệt, vì nhân này đã vĩnh viễn diệt. Chủng tử Danh sắc… của Sở dẫn nhân trước sẽ không sinh quả, là các chi khác diệt. Câu nói này có ý nói tất cả Chủng tử của Danh sắc hiện tại không sinh quả tương lai, vì trước quán Khổ đế, cho nên lấy Danh sắc diệt làm thượng thủ. Diệt này do đâu? Do quán Khổ đế kia có thể thấm nhuần chỗ nhiếp Ái thủ… của Tập đế diệt, cho nên Chủng tử của Danh sắc… tương lai sẽ không sinh quả. Chủng tử của Danh sắc… là nhân duyên của Sinh và Lão tử trong đời vị lai, vì là Cận nhân duyên cho nên nói Danh sắc này diệt trước. Vô minh… thì xa, sau đó mới quán sát có thể thấm nhần nhân, cho nên không nói Vô minh làm thượng thủ diệt, vì chứng đắc Vô học rồi quán rằng: Do Thức không có cho nên Lão tử cũng không có. Ngoài ra thứ tự diệt khác, phải biết căn cứ theo đây.

Giải thích Từ thứ bảy, là trong giải thích nghĩa Duyên khởi, có năm loại:

1. Nương vào chữ giải thích danh, là do phiền não làm duyên trói buộc, các nẻo niệm niệm sinh khởi cho nên gọi là duyên khởi.

2. Nương vào chữ mà khởi chữ, là giải thích Duyên khởi chữ cho nên gọi là Nương vào chữ.

3. Nương nghĩa sát-na để giải thích, là lựa riêng Duyên khởi là Vô vi của Đại Chúng bộ, Hóa Địa bộ…, cũng phá nghĩa bốn tướng trong một thời kỳ nhiều duyên quá khứ mà không xả lìa của Chánh Lượng bộ.

4. Nương phần vị, là mười chi trước làm Duyên, hai chi sau làm

Khởi, các chi trước có đủ bốn thứ Nhân duyên, Tăng thượng duyên…

5. Tuy sát-na diệt lại nhập vào quá khứ, Chủng tử trong thân còn mà không xả lìa, cho nên y theo hậu quả sinh khởi của tự thân, hoặc mười hai chi, mỗi mỗi trước làm duyên, mỗi mỗi sau làm khởi.

“Cái này có cho nên cái kia có”, là hiển nghĩa Vô tác duyên sinh. “Cái này sinh cho nên cái kia sinh”, là hiển nghĩa Vô thường duyên sinh. “Không phải các pháp khác”, là chỉ do có duyên quả pháp mà có, không phải duyên có thật tác dụng có thể sinh quả pháp, cũng không phải Vô sinh pháp làm nhân. Pháp Sở sinh thiếu mà được thành lập hai thứ Vô tác và Vô thường làm duyên, không phải hai thứ tác dụng khác và Phi vô sinh làm nhân, cho nên nói không phải pháp khác. Đây là lựa riêng với Tự tại thiên… có thật tác dụng và kế chấp vô vi có thể làm duyên khởi để giải thích tên của nó.

Trong giải thích thứ tư, luôn luôn gặp duyên, luôn luôn duyên tương tục khởi, cho nên gọi là duyên khởi. “Đối với đời quá khứ, đã giác ngộ duyên tánh rồi thì bình đẳng tương tục khởi”, là khi mới chứng Bồ-đề, giác ngộ duyên đã ngộ, sau đó vì hữu tình mà bình đẳng phát khởi ngữ ngôn. Nguyên nhân phát khởi ngôn thuyết đó gọi là Duyên khởi, tự lợi gọi là Duyên, lợi tha gọi là Khởi, tức là nói nghĩa triển chuyển của pháp luân.

Trong nghĩa của bốn duyên thứ tám, có hai loại là bốn duyên và hai nhân. Thành Duy Thức luận ghi: “Các chi mong nhau, tang thượng quyết định là Hữu, còn lại ba duyên không nhất định Hữu vô”. Trong kinh Duyên Khởi, y theo quyết định Hữu chỉ nói có một duyên, là Tăng thượng duyên. Ái mong Thủ, Hữu mong Sinh, là có nghĩa nhân duyên. “Nếu nói Thức chi là nghiệp chủng”, thì Hành mong Thức cũng làm nhân duyên, các chi khác mong nhau không có nghĩa nhân duyên. Nhưng Tập luận ghi: “Vô minh mong Hành mà có nhân duyên”, là y theo nghiệp tập khí của Vô minh gọi là Vô minh câu, cho nên mượn nói là Vô minh, thật ra là Hành chủng.

Kết hợp các đoạn văn này nói: “Du-già luận nói các chi mong nhau không có nhân duyên”, là nương vào Ái thủ hiện tại thì chỉ nói có nghiệp hữu. Biệt Liệu giản ghi: “Vô minh mong Hành, Ái mong Thủ, Sinh mong Lão tử, có Đẳng vô gián duyên và Sở duyên duyên”, đây là lấy Vô sắc mong Vô sắc chi. Hữu mong Sinh, Thọ mong Ái, không có Đẳng vô gián duyên, có Sở duyên duyên, đây là lấy Hữu sắc chi mong Vô sắc chi, còn lại các chi khác mong nhau, cả hai đều là Phi hữu. Đoạn văn này là tổng thuyết, đoạn văn kia là biệt hiển, nên như giải thích của văn kia.

“Hữu sắc mong Hữu sắc”, là Sắc trong Danh sắc mong năm Xứ, Nghiệp hữu mong Sắc sinh, Sắc sinh mong Sắc lão tử.

“Vô sắc mong Hữu sắc”, là Vô minh mong Sắc hành, Danh mong năm Xứ, Vô sắc sinh mong Sắc lão tử. Trong đây không nói Phi nghiệp hữu, cho nên không nói tới nó. Trong đây lại nương vào lân cận thuận thứ tự, không xen tạp nhau, thật ra thuyết duyên khởi khác với sự mong nhau này mà làm duyên bất định, các bậc thông tuệ nên như lý mà suy nghĩ.

Hỏi: Tại sao nói y theo nhân quả thể tánh mà kiến lập Duyên khởi…? Trong đây có ý hỏi nhân thông với bốn duyên, tại sao không có Nhân duyên?

Trong đây có ý đáp: Trong mười nhân, thì Dẫn phát nhân, Khiên dẫn nhân, Sinh khởi nhân, Định dị nhân và Đồng sự nhân không trái nhau, tuy có nhân duyên nhưng Định dị nhân của nó có tánh khác sinh, đồng sự không trái nhau, thể thì thông xa, ở đây lược bỏ không luận. Dẫn phát nhân, Khiên dẫn nhân và Sinh khởi nhân của nó thì tìm tên mà giải thích nghĩa, phải có nhân duyên, chỉ nương vào sự hiện hành mong nhau gọi là Dẫn phát nhân; y theo nghiệp tập khí trong Hành và Hữu của Nhuận vị và Vị nhuận vị mà nói, đó là Tăng thượng không phải Nhân duyên, không ngăn Ái chủng mong Thọ; Sinh chủng mong Lão tử làm Dẫn phát nhân, vì có nghĩa nhân duyên, cũng không ngăn Thức, Danh sắc… năm loại. Trong Vị nhuận vị mong Sinh và Lão tử, làm Khiên dẫn nhân. Thức… năm loại trong Hữu đã nhuận mong Sinh lão tử làm Sinh khởi nhân, vì có nghĩa nhân duyên và chỗ mong riêng biệt, cũng không trái nhau.

“Trong hai nhân Sinh và Dẫn, là Thức, Danh sắc… cho đến chỗ nhiếp các chi của Sinh vị và Lão tử vị làm Sinh nhân Sinh quả và Dẫn nhân Dẫn quả”, đây là nói Thức chi kết sinh tương tục, Năng dẫn Sở dẫn đồng thời mà có quả quá khứ xa nhau, đều gọi là Dẫn nhân. Năng sinh cùng với quả hai đời riêng khác. Thân cận năng sinh chỉ gọi là Sinh nhân, Thành Duy Thức ghi: “Sinh gần chánh quả gọi là Sinh nhân, Dẫn xa tà quả gọi là Dẫn nhân”. Chỗ giải thích các môn đều như Duy Thức sớ kia nói. Ba tánh, mười nhân như Xu Yếu kia nói, luận này nói tạp nhiễm cho nên không trái với các luận khác.

Trong Phân biệt duyên thứ chín, lấy hai mươi bảy môn phân riêng:

1. Thứ nhất, mỗi mỗi chi nương vào hỏi mà phân biệt.

Vô minh có hai hỏi đáp: “Do có nghiệp tạp nhiễm và sức phiền não huân phát”, là sinh tạp nhiễm do nghiệp tạp nhiễm dấy khởi, nghiệp tạp nhiễm dấy khởi do phiền não tạp nhiễm, cho nên nói do nghiệp tạp nhiễm và sức phiền não huân phát. Thể của nhiệp là Hành, nhân thứ nhất tức là lấy Vô minh làm Thể, tuy các phiền não đều là nhân thứ nhất của nghiệp, nhưng Vô minh riêng có mười một sự thù thắng, cho nên nói thiên về nó. Nói Sở duyên… rộng như trong kinh nói. Câuxá ghi: “Vô minh không nói có nhân, Sinh chi phải có bắt đầu, Lão tử không nói có quả, sinh tử phải có kết thúc. Từ Hoặc sinh ra Hoặc nghiệp, từ Nghiệp sinh ra Sự, từ Sự sự hoặc sinh ra Hữu chi”. Lý chỉ có luận này, cho nên mười hai chi vô thỉ luân hồi.

Hành hữu có ba hỏi đáp.

Hỏi: “Do không thông đạt nhân khổ của thế tục làm duyên phát khởi Phi phước hạnh…”, nghĩa là khổ của ba đường ác tướng trạng dễ biết, gọi là Thế tục khổ. Khổ của trời người thì ẩn kín khó biết, là sở tri của Thánh trí, gọi là Thắng nghĩa khổ. Hoặc có người giải thích rằng: “Trong tám khổ, Đối Pháp luận nói bảy khổ đầu gọi là Thế tục khổ, khổ thứ tám gọi là Thắng nghĩa khổ”. Nếu theo luận này giải thích thì Hành khổ thứ tám đã thông với năm nẻo, đáng lẽ chỉ mê nẻo ác thì cũng khởi Phước nghiệp và Bất động nghiệp; bảy khổ trước đã thông với trời người, đáng lẽ chỉ mê nẻo thiện thì cũng tạo Phi phước nghiệp, vì Khổ khổ, Hành khổ và Hoại khổ, thông với năm nẻo. Do đây cho nên biết giải thích trước là hay khéo. Thắng nghĩa khổ của thế tục kia nương vào thô tế dễ biết khó biết riêng biệt mà nói. Thế tục thắng nghĩa khổ này thì nương vào cảnh phàm thánh tổng tướng mà nói, cũng không trái nhau. Cận nhân của Phước nghiệp và Bất động nghiệp khởi chỉ là Thiện tư, Viễn nhân khởi thì lấy vô minh mà phát, vì mê quả tương lai, cho nên nói si làm duyên, hoặc Cận nhân của Phước nghiệp cũng lấy vô minh làm duyên, vì mê tương lai quả.

Đáp: Trong đây nói chung duyên của Phước nghiệp, Phi phước nghiệp và Bất động nghiệp, là ba thứ Bất thiện căn chỉ sinh tại Phi phước nghiệp; Si bất thiện căn thì thông với Phước nghiệp và Bất động nghiệp. Cho nên Duy Thức ghi: “Dưới hữu, vô minh có thể phát khởi Hành trên, nếu không như thế thì ban đầu chế phục nhiễm của các Địa dưới, thì chỗ khởi định của cõi trên đáng lẽ không phải Hành chi, vì Vô minh của Địa kia cũng chưa khởi, cho nên Si bất thiện căn phát chung ba nghiệp.

Hỏi: Phát nghiệp có trợ và chánh, nếu nói chánh thì không có trợ pháp, nhuận sinh thì có chánh và trợ, nếu nói chánh thì không có trợ pháp”?

Đáp: “Một nhân không mượn nhiều, nói chánh thì không có trợ phát, dựa vào duyên thì phải mượn số, cho nên chánh và trợ đều bày ra”. “Nương vào phát tất cả hạnh duyên mà nói”, là không chỉ nói Thân hành Ngữ hành làm duyên, không nói Tư làm duyên, và nương vào Sinh thiện nhiễm ô tư làm duyên mà nói, cho nên nói Vô minh làm duyên, không nói Vô ký hành làm duyên, vì thân hành và ngữ hành chỉ có Vô ký, chỉ nói Vô minh phát các Hành, gần thì có thể phát ba hạnh thiện nhiễm của thân ngữ ý.

“Thức có thể làm Sinh nhân mới”, là do Thức nhập thai làm Sinh nhân mới. Tổng báo có thể làm duyên biệt báo, hoặc do Thức chủng làm thân cận nhân của Danh sắc, khiến cho mới sinh. Đây là nói nghĩa Danh sắc ban đầu kết sinh, căn cứ theo Thức cõi dưới nhập thai, trước đã nói là thiện. Lại nữa, nhân của ba cõi sinh thức thì phải khắp, cho nên luận này nói thiên về nó.

“Lại nữa, sáu Xứ thù thắng cho nên do sáu Xứ nhiếp hai loại”, là sáu Xứ nhiếp hai hoà hợp sáu Thức và sáu Căn, hoặc sáu Căn thì nhiếp Thức và pháp khác, cho nên trước nói là Cảnh, ở đây nói là Cảnh thông.

“Xúc là cận nhân của Cảnh kia”, Duy Thức ghi: “Chỗ thủ các tướng khả ý của Xúc rất gần nhau với chỗ thủ tướng nhiếp Thọ của Thọ, vì sự dẫn phát thù thắng”.

“Như lực của Thọ… cho nên đối với Cảnh tương tợ”, hoặc là cầu hoà hợp, hoặc là cầu biệt ly, là Thọ cảnh tương tợ với Ái cảnh, đối với cảnh Lạc thọ thì ưa cầu hoà hợp, đối với cảnh khổ thọ thì ưa cầu biệt ly, gọi là Tương tợ cảnh, cho nên nói Ái lấy Thọ chi làm Cảnh. Vô minh thì chỉ đối với tướng sinh diệt của hai Thọ trong ngoài, không biết như thật, không thể chế phục tâm mà khởi thì không rõ hành tướng, Ái thì không thân thuận, không nói là duyên. hoặc xa do mê mà khởi Ái, thì cũng có nghĩa duyên, không như sự thân cận của Thọ, cho nên luận nói là duyên.

“Do mong Sinh cho nên khi tìm cầu thì có thể phát Tùy miên”, là do Ái mong cầu thắng cảnh thì hoà hợp, ác cảnh thì biệt ly mà huân tập Chủng tử, phát thủ Tùy miên mà thuận với thủ và pháp, vì Ái và Thủ thù thắng cho nên nói Ái thủ làm duyên.

“Hỏi: Trước đã nói Vô minh làm duyên phát khởi nghiệp Hữu”, thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, đã nhuận và chưa nhuận, đều gọi là Hữu, vì có thể có quả. Hiện tại nương vào đã nhuận, có thể thân cận có quả mà riêng được tên là Hữu, khi chưa nhuận trở về trước, bắt đầu tạo tác chỉ có tăng thêm, gọi đó là Hành, nương vào nghĩa thù thắng hay dị mà mỗi mỗi đều có một tên. Hiện tại nương vào nghĩa chung cho nên nói Vô minh phát khởi nghiệp Hữu tức là Hành.

2. Thứ hai, trong phân biệt, “thứ ba là phiền não đạo”… Thành Duy Thức luận ghi: “Vô minh, Ái, Thủ, đó là chỗ nhiếp của Hoặc, tức là ba chi này. Hành có một phần, đó là chỗ nhiếp của nghiệp, tức là hai chi này. Duy Thức hội kia ghi: “Có chỗ nói toàn phần nghiệp nhiếp Hữu”. Phải biết luận đó nương vào nghiệp Hữu mà nói, cho nên Hội Đối Pháp ghi: “Có chỗ nói Thức là chỗ nhiếp của Nghiệp”. Luận đó nói nghiệp chủng làm Thức chi, cho nên các chi khác là Khổ.

Đạo, căn cứ theo đây tức là bảy chi còn lại, lấy hợp chung với Hữu nói là Nghiệp đạo. Thành Duy Thức luận ghi: “Trong bảy chi, Hữu một phần, là chỗ nhiếp của Khổ, vì Thức… năm loại chuyển gọi là Hữu”.

3. Thứ ba, trong phân biệt nhân quả có hai loại. “Thứ nhất nương vào mười hai chi thứ tự mong nhau làm nhân quả. Chỉ có ba chi làm nhân, là Vô minh, Ái, Thủ, là Căn bản phát nghiệp nhuận sinh. Chỉ có hai chi làm quả, là Sinh và Lão tử, là chỗ sinh quả của mười chi trước, đây là nương trùng lên nhân quả của ba thứ tạp nhiễm và Chủng tử hiện hành, vì là chỗ mong riêng. Tổng tóm lược duyên sinh làm nhân quả, sơ lược có năm lớp:

4. Đẳng khởi môn, là các chi trước làm nhân, các chi sau làm quả, ngay câu thứ nhất, lớp thứ nhất chỉ có nhân.

5. Bổn mạt nhân quả, lớp thứ hai này cũng vậy, vì phiền não làm Căn bản, chỉ có ba làm nhân. Dưới đây cũng nói sáu chi trước và Ái, Thủ, Hữu là nhân phần, hai chi sau làm quả phần, Thọ thì thông với hai thứ, cũng y theo gốc ngọn để phân rõ nhân quả.

6. Nhân quả của Dị thục và Phi dị thục, quyển ghi: “Lại nữa, chỗ nhiếp năm chi của quả hiện tại, và chỗ nhiếp hai chi của quả vị lai, gọi chung là chỗ nhiếp duyên khởi của quả, phải biết các chi khác là chỗ nhiếp duyên khởi của nhân”. Trung Biên luận quyển thượng cũng ghi: “Nhân tạp nhiễm, là phiền não nghiệp phần; quả tạp nhiễm, là các phần khác”.

7. Nhân đã thành thục và chưa thành thục, là khi làm nhân thì có Năng dẫn và Sở dẫn, tức là bảy chi trước. Khi làm quả thì có Năng sinh và Sở sinh, là năm chi sau, là do Vô minh thành thục Ái và Thủ cho nên nhân kia tăng trưởng. Hành… sáu chi thành thục gọi là Hữu, hai chi Sinh và Lão tử là Sở thành thục.

8. Phần vị nhân quả, tức là Sinh nhân và Dẫn nhân nói trên, là Năng dẫn và Năng sinh hợp chung có mười chi gọi là nhân, hai chi sau làm quả, Duy Thức ghi: “Mười nhân hai quả quyết định không cùng đời”. Tuy các môn nói năm nghĩa không đồng, chỗ mong có khác, nhưng lý không trái nhau.

9. Thứ tư, “có ba chi là Độc tướng hành… là tạp tướng”, Thành Duy Thức ghi: “Vô minh, Ái, Thủ gọi là Độc tướng, vì không giao tạp nhau với các chi khác”.

“Các chi khác là Tạp tướng”, là có thể dẫn quả Ái và Phi ái, tức là Hành chi.

“Trước vị chưa nhuận gọi là Dẫn nhân”, và thú hướng Năng sinh sai biệt, tức là Hữu chi, vì do Hành bị thấm nhuần cho nên chuyển gọi là Hữu, vì có thể sinh ra chi.

“Thức cùng với Danh sắc và một phần sáu Xứ có tạp tướng”, là hiển ba chi này có hai chủng xen tạp:

a)  Môn thứ nhất xen tạp là khi hiện tại làm quả, thì xen tạp với quả vị lai.

b) Môn thứ hai xen tạp là khi hai chi nhân mong nhau thì tự thể cũng xen tạp.

Hỏi chính là sự này, tức là một Thức đắc Danh sắc và sáu Xứ, ba tên khác nhau, Xúc và Thọ không phải Thức cho nên không hỏi sự xen tạp.

“Nương vào tạp nhiễm”, là Thức chi, văn trước đã nói, do tà hạnh cho nên khiến tâm điên đảo, Thức hiện tại điên đảo đã huân Chủng tử, tức là Danh sắc chi.

“Khi nương vào nhuận”, tức là Chủng tử của Thức làm nhuận của Ái và Thủ.

“Kết sinh vị ban đầu”, gọi là Danh sắc chi.

“Khi nương vào chuyển”, tức là khi sáu Căn của Danh sắc này khởi, gọi là sáu Xứ chi, không phải toàn lục xứ… chỉ là Thức, mà đều có Thức, cho nên trở thành tạp.

“Hiển riêng Khổ tướng”, là Thức… năm loại sinh Hiện hành vị, hiển ba khổ tướng gọi là Sinh và Lão tử. Nhân khổ tướng hiện tại cũng chưa có thể hiển được, gọi là Thức… năm loại cho đến Hiện hành vị. Hiển chỗ dẫn sinh quả của năm loại này trước sau khác nhau gọi là Sinh và Lão tử, cho nên nói “và hiển dẫn sinh sai biệt”.

Trong giải thích, “duyên khởi thì hoà hợp khởi duyên khởi và duyên sinh”, là các Hành sinh khởi pháp tánh, gọi đó là duyên khởi. Có thể khiến cho các Hành sinh khởi pháp tánh thì gọi là Duyên khởi, Sở sinh gọi là Năng sinh, cho nên Đối Pháp ghi: “Nhân gọi là duyên khởi, quả gọi là duyên sinh”.

10. Thứ năm, trong bốn Đế, đây là nói bảy chi đều là Khổ đế, đã nói còn lại năm chi, chỉ nói có Tập đế, vì muốn hiển thể của hai Đế sai biệt, không phải năm chi toàn là Tập đế. Thành Duy Thức ghi: “Đều là Khổ đế nhiếp, vì là thủ uẩn tánh, năm chi cũng là Tập đế nhiếp, vì là tánh của nghiệp phiền não. Bức bách nghĩa là khổ, tất cả đều là khổ, vì chiêu cảm Dị thục, là nghĩa của Tập, năm chi cũng là Tập đế.

11. Thứ sáu, trong các chi mong nhau làm duyên có bốn đoạn: một là Thứ đệ làm duyên, hai là giải thích Hữu chi, ba là hỏi nghiệp nhiều hay ít, bốn là làm duyên rộng hay hẹp. Nói rằng do “vô tri trong tùy thuận các hành pháp”, thì Bất thiện ý hạnh gọi là Tùy thuận hạnh. Khi Vô minh đồng thời làm sát-na… khởi, cho nên gọi là đều có phú chướng. Do năm ác kiến buông lung, tình phóng dật, tương ưng với vô tri, đây là duyên Kiến mà khởi, không phải duyên gần với Hành, cho nên cùng với thân ác hạnh và ngữ ác hạnh làm Vô gián duyên. Hoặc do Thân kiến và Biên kiến… tương ưng Vô tri làm Vô gián duyên thân cận mà dẫn các Hành. Nếu các thiện hạnh do Vô minh dẫn làm Cửu viễn duyên, do mê quả đó mà khởi hai Tư trước tiên, sau đó mới khởi Hành, cho nên trở thành diệt duyên lâu xa mà kiến lập quả tương lai, đây là nói nghĩa hai Hành sai biệt mà phát khởi, cũng được làm Câu hữu duyên với thiện hạnh. Sát-na đồng khởi, không phải chánh phát nghiệp, cho nên ở đây không nói, những nghĩa như vậy căn cứ theo đó phải biết.

“Hành và Thức làm Câu hữu duyên”, là Dị tánh chiêu cảm tập, Hành của hiện hành mong thức chủng kế sau làm Vô gián duyên, không phải Chủng tử Hiện hành hằng đồng thời với Hữu. Thức mong Danh sắc… đều nương vào quả vị Hiện hành tương lai mà nói, nếu không như thế thì chỉ nên có Câu hữu duyên.

“Thọ mong Ái làm duyên diệt lâu xa”, là do sau khi thọ cảnh mà khởi Ái nhuận, quả tương lai sinh, cho nên gọi là kiến lập tương lai nan giải thoát… Ái mong thủ làm câu hữu duyên.

“Nói rằng do tham đồng thời với Hành, dục lạc kiến lập trong Tùy thuận thủ pháp”, là Ái và Năng thủ thật ra không đồng thời, là chỗ làm Thủ của Sở thủ, nhân duyên của Thủ và Ái đồng thời có, cho nên Ái mong Thủ trở thành Câu hữu duyên, Thủ mong Hữu làm thành ba duyên.

“Lại nữa, có thể dẫn phát công năng của quả kia làm Cửu viễn duyên”, đây là mong quả mới sinh, không phải quả tương tục sau đó, khi sắp chết thì Ngã ái mong các cõi mới khởi, có khoảng cách ngay khi chết một niệm, cho nên làm Cửu viễn duyên, Hữu mong Sinh làm thành ba duyên.

“Nói rằng huân và phát Chủng tử”, là do trước kia nghiệp huân Chủng tử của Thức… hiện tại gọi là hữu mà sinh ra hiện quả cho nên thành Câu hữu.

“Tuy diệt đã lâu mà quả chuyển”, là như Hữu mới nhuận mong quả mới sinh mà chuyển, thì thành Cửu viễn diệt duyên và dẫn phát duyên, là khoảng cách ngay lúc chết.

Trong Hữu chi có hai loại: một là chỉ có Nghiệp hữu, hai là sáu thứ làm Hữu. Do thủ thấm nhuần chuyển gọi là Hữu, xứng đáng làm nhiếp thọ.

“Ngay nghiệp dụng này và trong mỗi Sở hành cảnh riêng biệt, như chỗ thích ứng chỗ có nghiệp dụng…” Đối Pháp luận ghi: “là Vô minh chi có hai thứ nghiệp, một là khiến cho các hữu tình ngu si đối với Hữu, hai là cùng với Hành làm duyên cho đến Sinh”. Có hai loại nghiệp: một là khiến cho Danh sắc của các hữu tình đồng khởi, hai là cùng với Lão tử làm duyên. Như vậy các chi đều có hai nghiệp, chính nghiệp thứ hai kia tức là nghiệp dụng này.

Từ trên đến đây chính là chỗ nói ba thứ duyên, và nghiệp trong mỗi mỗi duyên đều riêng sinh cảnh”, tức là nghiệp thứ nhất. Luận kia nói Lão tử cũng có hai nghiệp: một là khiến cho thời phân biến dị của hữu tình hoại giảm ít. Hai là khiến cho thọ mạng biến dị của hữu tình hoại thọ mạng. Trong đây chỉ nói chi trước và chi sau làm duyên, không có Lão tử làm duyên, cũng không trái nhau.

12. Thứ bảy, giải thích kinh. Đây có cho nên kia có… bốn câu:

a) Hiển Vô tác duyên sinh, chỉ so hữu duyên mà quả pháp được có, không phải duyên thật có tác dụng có thể sinh quả pháp, cho nên nói nghĩa do chưa đoạn duyên mà các duyên khác được sinh.

b) Hiển Vô thường duyên sinh, không phải Vô sinh pháp làm nhân, ít phần sở sinh pháp mà được thành lập. Hai loại sau hiển nghĩa của Thế dụng duyên sinh.

c) Tuy các pháp trở lại không có tác dụng.

d) Tuy các pháp trở lại vô thường, nhưng không tùy theo một pháp nào để làm duyên. Tất cả quả sinh vì công năng sai biệt của các pháp cho nên nói như vậy. Hoặc câu thứ nhất là phá Tác dụng duyên sinh, câu thứ hai phá Thường trụ duyên sinh, câu thứ ba hiển Thế dụng duyên sinh, câu thứ tư phá Duyên sinh bất bình đẳng, người làm mà ta thọ quả.

13. Thứ tám, trong bốn câu phân biệt, không phải hẳn là chi, vì nói khắp các chi kia. “Vô minh là câu thứ nhất”, không nói biệt báo nghiệp quả Hữu phú vô ký, vì lược bỏ. “Câu thứ hai”, không nói Thức Hữu phú vô ký cũng vậy. “Hoặc hữu là Ái và Phi ái, không phải Thọ làm duyên, là mong cầu Thắng giải thoát và nương vào Thiện ái mà xả các Ái khác”, loại Thiện pháp dục gọi là cầu giải thoát ái. “Tất cả Thiện ái chán xả tham ái”, không phải thuận với Ái thọ làm duyên mà sinh, vì phi ái đồng thời và trước kia không có Thọ, vì không có thuận Ái và Thọ. Nói không phải làm duyên cũng không trái nhau. Đúng ra trong đây phải thuận với câu sau, những người có Ái đó, chắc chắn duyên Thọ mà sinh. Có Thọ làm duyên mà không phải là Thọ, là các chi sau.

14. Thứ chín, “Vô minh và chỗ khởi ý hạnh kia, hoặc một phần hữu…”, là mười hai chi của nó đều chướng Chánh kiến, Chánh tư duy… ở đây nói Thắng chướng, chỉ nói Vô minh và nhiễm ý hành, đều là ý hành có chướng Chánh kiến… thân hành, ngữ hành, và sắc có một phần chướng Chánh ngữ.

“Ngoài Chánh niệm Chánh định của nó ra, Hữu chi làm Thắng chướng”, là trừ toàn phần Vô minh, Hành và một phần Hữu, một phần ít chín chi còn lại, thì chướng Chánh niệm và Chánh định, hiện tại nói “còn lại” là toàn nói chín chi. Ở đây có hai giải thích:

15. Do ba chi trước mà nói Chánh tuệ thân và Giới thân, còn lại tướng của chín chi, từ tổng mà gọi là chướng Chánh định, đúng ra chỉ nên nói hai chi Ái và Thọ chướng Ly dục đạo, Chánh niệm và Chánh định.

16. Định thân là tâm học. Thức chi là Tâm. Danh sắc, sáu Xứ, Sinh, Lão tử, đều có tâm thể cho nên chướng Định thân, hai chi Xúc và Thọ là Tâm sở, Hữu là gồm Sắc trong Danh và năm xứ trước (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân) Từ Thức mà tổng nói chướng Chánh định thân, hai chi Ái và Thủ chướng Ly dục đạo, chánh chướng Định thân.

Luận này nói Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tinh tấn làm Tuệ học; Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng làm Giới học; Chánh niệm, Chánh định làm Định học. Thành Duy Thức ghi: “Trong sáu bala-mật nhiếp nhau với Tam học”, hoặc nói: “Tinh tấn có ba thứ nhiếp khắp ba thứ cần sách”. Hoặc y theo mới học mà làm luận, cho nên nói: “Tinh tấn chỉ có giới”, vì thủ hộ giới. Hiện tại y theo chỗ lâu thành, lấy tinh tấn trợ giúp thành Kiến thù thắng, chỉ có Tuệ thân, vì Chánh niệm thuận sinh Chánh định chi, cho nên thuộc Định học, vì do niệm nhớ rõ mà khiến tâm chuyên chú.

17. Thứ mười, “có bốn chi chỉ có Tạp nhiễm phẩm”, là Vô minh, Ái, Thủ và Thức, vì tâm điên đảo, tức là Chủng tử của Thức do nghiệp huân tập, hoặc chi thứ tư là Lão tử chi trong Lão tử vị, không thể tu học cho nên gọi là nhiễm. Thức… năm chi, căn cứ theo Sinh chi mà nói thì những chi này là sáu chi, thật ra không phải nhiễm hay tịnh, tùy theo tổng nghiệp quả hay biệt nghiệp quả mà được tên Nhân. Thành Duy Thức luận ghi: “có ba chi chỉ là Nhiễm, vì tánh của phiền não. Có bảy chi chỉ có Bất nhiễm, vì quả của Dị thục”. Hợp văn này nói: “Trong bảy phần vị, dung chứa khởi nhiễm ô, mượn nói đạo có hai thứ, còn lại thì thông với hai chủng, cho nên các chi này chỉ có nhiễm, nói là bốn chi, hoặc Thức hoặc Lão tử, giả được tên nhiễm”. Duy thức luận căn cứ theo thật thì cũng không trái.

18. Thứ mười một, trong “những gì là Vô minh không có? Có ba chủng là phát khởi, Triền và Tùy miên vô minh”. Phát khởi, là phát nghiệp Vô minh. Nghiệp này tương ưng thông với Bất cộng triền, là Nhuận sinh vô minh, phần nhiều chỉ có tương ưng. Hai thứ này đồng thời hiện hành, chỗ huân thành chủng gọi là Tùy miên vô minh. Từ Phát hành vô minh mà lấy tất cả Vô minh làm Căn bản, trong đây nói chung Nhuận sinh vô minh. Lại nữa, Hành tương đương với Hữu chi, Vô minh tương đương với Ái thủ, cho nên ở đây nói chung. Lại nữa, ba loại này phát khởi làm tổng, trong đây có hai loại là Triền và Tùy miên, vì tổng và biệt hợp chung lại luận, cho nên nói là ba chủng. Thể của phát khởi tương ưng với Bất cộng, tức là bốn chủng làm ba chủng, vì ba chủng này diệt chung, bốn chủng kia thì Phát hành diệt riêng Vô minh, Vô minh kia diệt thì Hành diệt. Giải thích này nói chung phát tất cả Vô minh của Hành, nếu không như thế thì Nhuận sinh vô minh chưa diệt, tại sao phát hành tức là diệt? Lại có ba chủng phát khởi Tùy miên Vô minh của Triền: một là có thể phát khởi Triền, hai là có thể phát khởi Tương ưng, ba là có thể phát khởi Bất cộng. Ba chủng này đều là Triền. Triền thứ nhất là tổng, hai Triền sau là biệt, cho nên phát khởi Tùy miên vô minh của Hiện hành này có ba thứ, do ba thứ này mà Tùy miên vô minh diệt, cho nên Vô minh hiện tại diệt, Hiện hành vô minh kia diệt, Hiện hành vô minh diệt cho nên Hành diệt. Lại nữa, có thứ, là ba cõi. Trong ba cõi, vì Tùy miên vô minh của Phát khởi triền hiện tại diệt cho nên Vô minh hiện tại diệt, Vô minh hiện tại diệt cho nên tất cả Hành diệt. Vô minh làm đầu, chỉ nói ba cõi.

Trong Hành, đã làm Hành chưa diệt trong tự tương tục, là ý hành. “Lại do ý hành mà khởi thân hành và ngữ hành”, hai hành thân ngữ, do ba Hành này cho nên có Thức.

“Hành kia duyên Thức cho nên Thức cũng không có…”, là Chủng tử thức lấy Hành làm duyên, vì Hành không có cho nên Chủng tử thức không có, Hành nếu toàn không thì Thức của nó cũng không, hoặc Chủng tử thức này toàn không thì thức hiện tiền cũng không.

“Những gì là Thọ không có cho nên Ái không có, cho đến đạo lý của Gia hạnh duyên Thức”, đây là hỏi rằng: Thọ là quả, Ái là phiền não, Hành là nghiệp, Thức là quả, hoàn toàn không tương tợ, tại sao đồng loại? Đáp: Hành cùng với Thức vì quả nghiệp khác nhau cho nên khác tánh mà mong nhau. Hiện tại thọ cùng với Ái quả tuy khác tánh riêng biệt nhưng cũng đồng cho nên nói không có riêng khác, như từ Nghiệp sinh Dị thục, Dị thục sinh Phiền não làm đồng loại, nghĩa không trái nhau.

19. Thứ mười hai, “trong tám môn Duyên khởi nhiếp nhau, có ba môn là Sở hiển kia”, là tổng.

“Trong ba môn này, có hai môn là một phần Sở hiển, là Nội thức sinh môn và Tự nghiệp sở tác môn”. Nội thức sinh môn, là Thức dựa vào căn mà khởi, là các Thức đó làm thể môn. Tự nghiệp sở tác môn, là nghiệp chiêu cảm Dị thục, chỉ có biệt báo cho nên chỉ nói một phần. Duyên sinh, có ba thứ: 1. Tự tánh duyên sinh, là Dị thục thức thứ tám, vì duyên sinh tự tánh. 2. Thọ dụng duyên sinh, là thân của sáu Thức, vì thọ dụng cảnh giới. 3. Ái phi ái đạo duyên sinh, là mười hai chi. Thức sinh môn của nó nương vào căn duyên cảnh, chợt tương tợ Thọ dụng duyên sinh; Tự nghiệp sở tác môn chợt tương tợ Tự tánh duyên sinh, có một môn toàn phần là Ái phi ái đạo. Ngoài ra lúa mạ thành thục, khí thế gian, các nhậm trì khác, ba thứ đều là khí vật bên ngoài, không phải là Thể của duyên sinh, uy thế của thanh tịnh trái nhau với duyên sinh, cho nên cũng không nhiếp. Tuy giải thoát phần thiện… gọi là Thanh tịnh môn, cùng Lưu chuyển làm nghịch hại duyên, cũng không phải thuận ích cho nên không nhiếp, vì nghịch lưu chuyển, như kinh duyên khởi nói.

a) . Thứ mười ba, có năm thứ tội lỗi: một là ngã kiến làm gốc. Do đây mà khởi tam tế Đoạn thường, cùng với Tà kiến làm ba thứ tội lỗi nữa. Trong sáu mươi hai Kiến, tùy chỗ thích ứng của nó duyên tam tế mà khởi Thường kiến, Đoạn kiến và Tà kiến, cho nên lỗi thứ năm tức là sáu mươi hai Kiến này, mạnh mẽ chấp chặt nó làm thù thắng. Sợ Niếtbàn hiện tại không chứng đắc, tức là Kiến thủ, hoặc là Tà kiến. Ngũ hiện Niết-bàn luận, năm lỗi này là khởi bốn Kiến, chỉ trừ giới thủ.

b). Thứ mười bốn, có chín thật ba giả, giả là ba chi sau. Thành Duy Thức ghi: “Sáu chi đã nhuận hợp chung làm Hữu, tức là Thức… năm chi, ba tướng vị riêng biệt, gọi là Sinh… Hạ phẩm gọi là Ái, thượng phẩm gọi là Thủ, cho nên đều là thật.

3) . Thứ mười lăm, có năm chi chỉ có một sự, các chi còn lại không phải một sự, luận kia nói năm chi là Vô minh, Thức, Xúc, Thọ và Ái.

20. Thứ mười sáu, “có một chi là nhân Sở tri chướng”, trước có nói hoặc nghiệp khổ nhiếp mười hai chi, phân rõ mười hai chi đều là Phiền não chướng đã nói xong. Phật Địa luận ghi: “Hoặc một trăm hai mươi tám phiền não… hoặc chỗ phát nghiệp, hoặc chỗ chứng đắc quả, đều là Phiền não chướng, cho nên không hỏi điều này, chỉ hỏi Sở tri chướng, tức là Vô minh. Vô minh làm nhân của pháp chấp Vô ký tuệ, gọi là nhân Sở tri chướng, đúng ra Sở tri chướng và Phiền não chướng do Vô minh làm nhân. Duy Thức ghi: “Các chướng kia thật ra lấy Vô minh này làm Sở y”. Hiện tại luận này nói là Phát nghiệp vô minh mê lý tăng thượng, vì các chướng kia là đồng thời có, là Trí nhân chướng cũng không trái nghịch. Lại nữa, do vô minh này phát nghiệp chiêu cảm sinh cho nên các Sở tri chướng sau triển chuyển sinh thêm, Vô minh là gốc, chỉ nói làm nhân.

21. Thứ mười bảy, có năm thứ hay sinh khổ, là Vô minh, Hành, Ái, Thủ và Hữu. Thai tạng khổ, là năm Chủng tử của Thức…

22. Thứ mười tám, “sáu chi trước cùng với Ái, Thủ, Hữu làm Nhân phần…”, là do Thọ làm quả, phát nhuận sinh hoặc, làm địa vị của nhân. Nói từ Xúc sinh, hai tế đã khác nhau cho nên chỉ gọi là Tạp, lại làm quả trong đương sinh, làm nhân tại Chủng tử, hai tế đã có khác, thì tha sinh hay sinh tha cũng khác. Các chi còn lại thì không như vậy, đều là thuần nhân quả, y theo gốc ngọn mà phân rõ nhân quả.

23. Thứ mười chín, “nói sáu chi trước có thể sinh các quả trước…”, là cảnh giới của Ái và Phi ái, duyên cảnh giới này mà thọ, gọi đó là quả. Do cảnh giới của Ái phi ái làm Sở duyên duyên mà sinh Năng duyên thọ, cho nên Thọ gọi là quả. Nói rằng sáu chi trước làm nhân có thể sinh Thọ quả này, vì Thọ cảnh kia mà khởi sáu chi trước. Nói rằng Hành và Thọ làm nhân, thì Vô minh có thể phát nhân, Thức, Danh sắc. Sáu Xứ và Thọ làm Sở y thì Xúc có thể sinh Thọ, tùy chỗ thích ứng của nó mà nói Năng sinh. Ba chi Ái, Thủ, Hữu của nó do Năng nhuận và Sở nhuận làm nhân, có thể sinh quả thể của năm nẻo, chỉ có một chi thọ có thể sinh hai quả, là Hiện thọ chủng đã bị thấm nhuần rồi, có thể sinh Hiện hành thọ, gọi là sinh tiền quả. Chỗ dẫn phát Chủng tử của Hành, sinh tự thể vị lai, gọi là sinh hậu quả, hoặc sát-na trước sau tự loại tương sinh, gọi là sinh sơ quả, tại Chủng tử chưa nhuần, làm dẫn nhân xa, sinh ra Sinh và Lão tử trong đời tương lai, gọi là sinh hậu quả.

24. Thứ hai mươi, “Lạc đồng thời với Hành trừ hai chỗ còn lại…”, Duy Thức ghi: “Mười Lạc và Xả đồng thời, Thọ không tương ưng với Thọ”. Trong Lão tử vị, phần nhiều không có Lạc và dung chứa Xả, cho nên mười một Khổ đồng thời, không phải Thọ đồng thời. Lão tử phần nhiều là Khổ cho nên nói mười một Khổ, thể Chủng tử của nó nương vào vị tương lai đồng thời, như Hữu chi… chủng cùng với chủng đồng thời, đều như lý mà suy nghĩ, đều là đồng thời có.

25. Thứ hai mươi mốt, “nói Lạc thọ đồng thời với Hành chi và Phi thọ đồng thời với một phần Hành chi là Hoại khổ nhiếp…”, là luận kia nói: “Mười một phần ít là chỗ nhiếp của Hoại khổ, trong Lão tử vị phần nhiều không có Lạc thọ, nương vào Lạc mà lập hoại cho nên không nói nó”. Đây là không phải Thọ chi đồng thời với một phần của Hành chi, là đồng thời với Lạc thọ, đây là nương vào Lạc mà lập Hoại, cho nên nói một phần. Mười hai phần ít là chỗ nhiếp của Khổ khổ, vì trong tất cả chi đều có Khổ thọ, nương vào Khổ thọ mà lập Khổ khổ, cho nên nói một phần. Mười hai toàn phần là chỗ Hành khổ nhiếp, vì các pháp Hữu lậu đều là Hành khổ. Nương vào Xả thọ mà nói mười một phần ít, trừ Lão tử chi ra thì Bất khổ bất lạc trước đồng thời với Hành chỉ có mười chi. Hiện tại thêm các chi không đồng thời với Thọ, cho nên nói mười một phần ít, như thật nghĩa nói trên. Như vậy trong nghĩa của chư Thánh tùy theo tướng kia tăng mà chỗ nói không nhất định, là hai văn của kinh Duyên Khởi và kinh Thập Địa có khác nhau, như Duy Thức sớ quyển 8 nói.

26. Thứ hai mươi hai, “Diệt tận định, Vô tưởng định và Hữu sắc chi của Vô tưởng thiên có thể đắc…”, đây là nương vào sáu Thức mà nói không có Phi sắc chi. Tùy chuyển Tát-bà-đa lý môn không phải thật lý, tông kia cũng nói Thuỳ miên không phải vô tâm. Cõi Vô sắc cũng vậy, nương vào chân thật nghĩa tại cõi Hữu sắc mà các chi đều là toàn phần. Trong cõi Vô sắc chỉ trừ hiện sắc, cho nên quyển trước nói, tại cõi Vô sắc, Thức nương vào sắc chủng.

27. Thứ hai mươi ba, nói “nương vào các chi của Địa trên mà lìa các chi của Địa dưới”, đây là các chi chỉ có một phần. Luận kia ghi: “Hành chi của Địa cõi trên có thể chế phục Địa cõi dưới”, tức là sáu thứ hành tướng của thô khổ… có tâm sinh lên cõi trên mà khởi thô khổ kia, chỉ có Địa cõi trên mới khởi, không có chi nào khác, cũng không phải Hành toàn phần, cho nên nói một phần.

28. Thứ hai mươi bốn, “có ba thứ nhiễm, còn lại hai chủng khác…”, luận kia ghi: “Vô minh, Ái, Thủ chỉ thông với Bất thiện Hữu phú vô ký”, tức là ba thứ nhiễm này. Môn thứ tư ở trước, nói bốn tạp nhiễm, ở đây nói có ba nhiễm, ở đây là thật, ở trước là giả, nghĩa khác nhau cho nên trong bất thiện của nó thông với Nhiễm và Vô phú vô ký. Luận kia ghi: “Hành chỉ có thiện và ác, Hữu thì thông với thiện, ác và Vô phú vô ký”. Trong bảy phần vị cũng khởi thiện nhiễm cho nên gọi là thông với hai thiện ác, đây là thật Vô ký nương vào đương sinh cho nên không có lỗi.

29. Thứ hai mươi lăm, “cõi Dục thì có tất cả, các cõi trên thì có một phần…”, luận kia ghi: “Tuy đều thông trong ba cõi, nhưng có ít phần và toàn phần. Cõi Dục có hai tánh; Vô minh, Hành, Ái, Thủ có ba tánh, một nghiệp bảy quả. Cõi trên chỉ có một tánh, Vô minh, Hành, Ái, Thủ, có hai tánh, một nghiệp bảy quả, cho nên nói một phần.

30. Thứ hai mươi sáu, “tất cả đều chỉ có Phi học Phi vô học…”, đây là lấy sau khi nhập Thánh mới thành học, các Dị sinh vị đều là Phi học. Trong quyển 9 trước, học nghiệp nghĩa là hoặc Dị sinh học, hoặc Phi dị sinh học trong tương tục. Tất cả thiện nghiệp, như Đối Pháp luận quyển ghi: “Người cầu giải thoát, có thiện pháp, đó là nghĩa Hữu học”. Trong đây nương vào Chứng thắng học, cũng không trái nhau. Duy Thức ghi: “Bậc Thánh, là chỗ khởi Hữu lậu thiện nghiệp, Vô minh làm duyên, trái với Hữu chi, không phải Hữu chi nhiếp”. Do đây nên biết bậc Thánh thì không tạo tác chiêu cảm nghiệp Hậu hữu, đối với quả khổ sau không mê cầu, tạp tu Tĩnh lự, nương nhờ nghiệp cũ cõi dưới mà sinh Tịnh cư. Đối với lý không trái nghịch, tức là muốn nói Dị sinh thuận Giải thoát phần, thuận Quyết trạch phần, có thể chiêu cảm Dẫn quả, đều thuộc về Hữu chi. Kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi: “Ngoại pháp dị sinh, có bốn thứ Vô minh làm duyên sinh Phước hạnh, Phi phước hạnh và Bất động hạnh. Nội pháp dị sinh, nếu người phóng dật thì người đó trừ đi một thứ Bất cộng vô minh, các Vô minh còn lại dẫn phát phóng dật làm duyên sinh Hành. Nội pháp dị sinh, nếu người phóng dật cần siêng tu học, và Thánh hữu học, thì ba thứ Vô minh dẫn phát vong niệm làm duyên Phi phước”. Nhưng Vô minh này không thể chiêu cảm ba nẻo ác, vì đây là Phi phước, tôi không thể nói là Vô minh duyên Hành, chỉ có ý muốn nói Dị sinh bất phóng dật và Phi phước của bậc Thánh chỉ chiêu cảm quả Dị thục riêng của trời người, không chiêu cảm quả Dị thục chung của nẻo ác. Đã không phải Hành chi cho nên không nói phi phước này lấy Vô minh chi làm duyên. Kinh kia lại ghi: “Bất cộng vô minh và Nội pháp dị sinh tuy không phóng dật, nhưng người tu học cũng chưa có thể đoạn, chư Thánh hữu học phải biết là đã vĩnh viễn đoạn. Lại nữa, bất phóng dật nội pháp dị sinh, nếu tạo Phước hạnh và Bất động hạnh, thì đó là chỗ dẫn phát chánh pháp như lý tác ý tương ưng thiện tâm, giải thoát làm chỗ y, hồi hướng giải thoát mà dẫn phát. Tuy đối với nẻo thiện chiêu cảm sinh thù thắng, nhưng không phải Vô minh khởi Tăng thượng duyên, mà làm cho Vô minh kia đoạn Tăng thượng duyên”. Đây là muốn nói Dị sinh kiến đạo trở về trước, tuy do ba thứ Vô minh và Bất cộng chủng phát Phước hạnh và Bất động hạnh chiêu cảm quả Dị thục chung của trời người, không cùng với Vô minh khởi Thắng duyên, vì rốt ráo diệt. Không phải do ba thứ Vô minh… thân cận với Sở dẫn phát, do Chủng tử của nó còn, hoặc vì xa Năng phát, cũng không ngăn Vô minh duyên Phước hạnh và Bất động hạnh, chỉ ngăn Phi phước hạnh kia. Vì lấy Vô minh làm duyên, cho nên kinh kia chỉ nói chư Thánh hữu học đã vĩnh viễn đoạn Bất cộng vô minh, không tạo tác nghiệp mới. Sau thiện pháp dục của nó là Dị sinh thân thiện Hữu lậu chi, vì đoạ vào lưu chuyển, đã không phải là học, cho nên có thể chiêu cảm Sinh, và Duyên khởi chi nhiếp.

31. Thứ hai mươi bảy, “quả Dự lưu đoạn một phần trong tất cả, không đoạn toàn phần…”, Thành Duy Thức ghi: “Có nghĩa là Vô minh chỉ có Kiến sở đoạn, phải mê Đế lý mới có thể phát Hành, vì bậc Thánh thì không tạo nghiệp Hậu hữu, hai chi Ái và Thủ chỉ có Tu sở đoạn, vì tham cầu đang có mà nhuận sinh. Tâm của chín loại mạng chung, câu sinh Ái đồng thời, còn lại chín loại đều thông với Kiến sở đoạn và Tu sở đoạn”. Đây là nói tất cả người đã đoạn Dự lưu, dựa vào phần nhiều mà nói, không phải Ái chi và Thủ chi cũng là Kiến sở đoạn. Sư này nói Thủ tức là Ái tăng thượng, vì chỉ có Tu đoạn. “Có nghĩa là tất cả đều thông với hai Đoạn”, là nói rộng.

“Ba chi Vô minh, Ái, Thủ, cũng thông với Sở đoạn của Kiến và Tu, nhưng Vô minh chi là chánh phát khởi Hành”, là chỉ có Kiến sở đoạn. Trợ là bất định. “Hai chi Ái Thủ chánh nhuận sinh”, là chỉ có Tu sở đoạn, Trợ là bất định. Lại nữa, pháp nhiễm ô thì tự tánh phải Đoạn. Pháp Phi nhiễm ô có hai nghĩa gọi là đoạn là lìa trói buộc và không sinh. Nói “mười chi thông với hai Đoạn”, phải biết đây là nói tất cả Đoạn thông với mười hai chi. Nói “một phần”, hoặc nương vào tự tánh đoạn, phiền não và nghiệp của ba nẻo ác; hoặc nương vào bất sinh, gồm các quả của ba nẻo ác kia, mà nói Dự lưu đoạn, gọi là “một phần”.

Hai mươi bảy môn nói trên, môn thứ chín đã phân biệt Duyên khởi, môn thứ mười nhiếp thuộc trong các kinh, có mười lăm môn:

1. Sáu loại ngôn thuyết, thứ tự thuận nghịch, là Hữu lậu và Vô lậu đều có thuận nghịch, một phần và đầy đủ phần, như kinh Niết-bàn, Hữu sinh Bà-la-môn nói mười một chi, trừ Sinh mà muốn chờ thời cơ. Tuy cũng là một phần, nhưng không phải chỗ nói này. Chỗ nói này, là quán Hắc phẩm, đồng với Thức lùi trở lại, chỉ quán mười chi; hoặc Danh sắc nhập thai, chỉ quán chín chi, gọi là một phần chi; quán Bạch phẩm, mười hai chi đều quán, diệt đủ mười hai chi, gồm Tu diệt và Đạo kia, gọi là đầy đủ phần chi. Ngay một phần này gọi là Hắc phẩm, vì quán Khổ và Tập. Ngay đầy đủ phần này gọi là Bạch phẩm, vì quán Diệt và Đạo. Tạp nhiễm và Thanh tịnh thì thuộc về Quán tâm, cho nên ở đây không nói.

2. Do mười thứ tương ưng biết duyên khởi sâu xa, là nghĩa Vô thường có sáu thứ, nghĩa Khổ là thứ bảy, nghĩa Không là thứ tám, nghĩa Vô ngã là thứ chín. Y theo Thắng nghĩa đế thì tự tánh của các pháp tuy bất khả thuyết, nhưng mà nói “tự tánh các pháp khả thuyết” là nghĩa thứ mười. Chín nghĩa trước y theo Thế tục đế mà an lập Sai biệt môn, một Thắng nghĩa đế sau là gượng thi thiết Ngôn thuyết môn. Thứ nhất tuy tự chủng lực thù thắng, nhưng cũng chờ tha duyên, vì không phải tự ngã tạo tác. Thứ hai tuy Tha duyên lực thù thắng, nhưng cũng chờ tự chủng của nhân, vì không phải Phạm vương… tạo tác.

3. Tuy Chủng tử và Duyên sinh, mà chủng và duyên đối với sự sinh này không có tác, không có dụng, cũng không có vận chuyển, không phải như Ngã năng tạo tác của Thắng luận, vì pháp và phi pháp trong câu “lấy đức”, gồm cả nghĩa của Câu nghiệp. Trợ có thật dụng khiến cho quả pháp vận chuyển, cũng không phải như Tát-bà-đa có thật dụng khiến cho quả pháp chuyển, hiện tại không có năng tác, cũng không có nghiệp dụng, quả tuy sinh sau, nhưng không thật có vận chuyển, cho nên cả hai đều sai.

4. Có công năng sinh, không phải là vô nhân.

5. Từng sát-na luôn luôn sinh khởi mới, không phải như chuyển biến có quả của Số luận.

6. Nhưng tợ đứng dừng mà tướng vận động hiển hiện, không phải như một thời kỳ sinh diệt của Chánh Lượng bộ… Y theo nghĩa Khổ, là các pháp Hữu lậu, tánh hằng hành khổ, một vị không có tướng khác. Khi tương tợ có Khổ có Lạc… thật ra không có Lạc đó. Không có Khổ gián đoạn… y theo nghĩa Không, là nhân tánh mà lìa đối với Ngã tác giả của Thắng luận, quả tánh lìa đối với Ngã thọ giả thọ các Khổ của Số luận, nhưng giống như không lìa. Nghĩa Vô ngã, là lìa thể tướng Không của Ngã, lìa dụng của Ngã, đó là hai thứ sai biệt. Kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi: “Đối với Khổ đế lìa thật Ngã, tánh gọi là Không”, là đối với Khổ đế không phải tướng tánh của Ngã gọi là Vô ngã. Đối Pháp luận quyển nói, cũng đồng với kinh, chỗ mong thì có sai biệt nhưng không trái nhau. Lại nữa, nghĩa Không này, lìa Ngã thể tạo tác và thọ dụng thì không có nghĩa là Ngã, pháp thể không phải Ngã tướng, cũng đồng với kinh kia. Đây là nói không có Ngã tướng, chữ “không có” là “không phải”. Y theo Thắng nghĩa đế, thì duyên khởi tự tánh không thể nói năng, hiện tại nói Duyên khởi mà trở thành môn thứ mười. Y theo Đối Pháp luận có năm thứ sâu xa, là nhân sâu xa… cũng với luận này không đồng. Kinh Duyên Khởi quyển hạ nói mười lăm thứ sâu xa, năm loại đầu cùng đồng với Đối Pháp, mười loại sau có khác chút ít, như kinh luận kia nói.

Có ba Pháp trụ trí là Văn tuệ, Chân thật trí là Tư và Tu. Dị sinh như học mà quán thâm nghĩa. Hoặc pháp trụ trí, Dị sinh Văn tuệ, Chân thật trí và Thánh trí, là tam tuệ, hoặc là pháp trụ trí dị tánh thân trí. Chân thật trí thánh, là thân trí, vì trụ pháp của giáo… như thật nghĩa mà biết đó là hai thứ sai biệt.

Bốn trụ, là lấy văn cú vô đảo mà nói pháp tánh này. Văn cú Năng thuyên gọi là pháp trụ, cho nên pháp trụ này lấy pháp tánh làm nhân, do đó pháp tánh này gọi là pháp giới. Giới nghĩa là nhân, hoặc văn của luận này và kinh Bát-nhã… nói Chân như kia gọi là pháp trụ. Sở thuyên từ giáo gọi là pháp trụ, vì pháp trụ thể. Phải có pháp tánh mới làm giáo y, lấy thể làm nhân, lấy nghĩa gọi là quả. “Ngũ sinh nếu không có”, là Chủng tử sinh Thức… năm chi. “Vô xứ, vô trụ, sinh có thể là có”,

là Hiện hành sinh. “Vì dụng trong hiện pháp của sáu Thức do Danh sắc làm duyên”, là Thức đối với sinh vị mượn Danh sắc mà khởi cho nên dụng làm duyên. “Vì dụng trong pháp sau thì Thức làm duyên”, là Danh sắc sắp sinh thì nương vào Thức mà khởi, đây là nói sắp sửa hiện thì lẫn nhau làm duyên, ảnh hiển hiện là do Danh sắc nương vào Thức, Thức tương lai sắp khởi thì cũng nương vào Danh sắc. Tại sao vậy? Sau sẽ tự trình bày giải thích lẫn nhau làm duyên.

7. “Quán Hắc phẩm chỉ có chí Thức chi…”, Khổ đế và Tập đế gọi là Hắc phẩm, Diệt đế và Đạo đế gọi là Bạch phẩm, là Hoàn diệt phẩm. Chuyển, nghĩa là lẫn nhau làm duyên mà khởi. Hoàn, là quán Tâm đến Thức, lùi về đến Lão tử, cho nên gọi là Chuyển hoàn, làm Diệt đạo quán cho nên nói là Hoàn diệt. Quán đó như quyển 93 và quyển trước giải thích. Thức sinh tử lưu chuyển làm duyên lẫn nhau với Danh sắc. Trong Hoàn diệt phẩm, Danh sắc không phải nhân Hoàn diệt của Thức, không do Danh sắc diệt Thức chi diệt theo, mà đều do Thức diệt thì Danh sắc mới diệt. Đến Thức không hoàn chuyển thì tiến lên quán Hành, cho đến Vô minh, Vô minh diệt cho nên Hành mới diệt theo, do đó bốn mươi bốn trí và bảy mươi bảy trí, quán của nó được thành lập. Vô minh về trước không có nhân của chi, cho nên cũng không nói bốn mươi tám trí.

8. “Sinh, là phi hữu”, là không phải tự tác và tha tác. Nếu có tự ngã tác thì Đại phạm… là tha tác, vì liền có sinh. “Vì duyên không có tác dụng”, là không phải đồng thời tạo tác. “Chỗ sinh của duyên lực”, là cũng không phải không có nhân để sinh, Đối Pháp luận ghi: “Các pháp không phải tự sinh, cũng không phải từ tha sinh, cũng không phải từ cộng sinh, cũng không phải không từ cả hai sinh ra. Tuy không có duyên tác dụng, nhưng có duyên công năng khả đắc. Phi tự sinh, là phá chấp ngã tác; phi tha sinh, là phá chấp nhân Bất bình đẳng sinh của Đại tự tại thiên… Phi cộng sinh, là phá nghĩa tác dụng của Tát-bà-đa; không phải vô nhân sinh, là phá Vô Nhân luận. Luận đó ghi: “Nếu lý của duyên khởi là không phải tự không phải tha”, khiển trừ hai câu cũng là rất sâu, huống chi mất luôn cả bốn câu, cho nên duyên khởi rất là sâu xa. Trung luận ghi: “Các pháp không có tự tánh, cũng không phải từ tha sinh, không phải cộng, không phải vô nhân”, luận đó giải thích rằng: “Vì tự tánh không cho nên không tự tại, vì duyên tánh không cho nên không phải tha sinh, vì tự tha không cho nên không cộng sinh. Nếu pháp có Thể thì có thể nói hữu nhân và vô nhân, pháp tánh đã không thì làm sao được nói có hữu nhân hay vô nhân? Ba câu trước phá có nhân duyên, câu thứ tư phá không nhân duyên. Hiện tại tông của luận này không phá nhân duyên do công năng mà sinh, chỉ phá tác dụng tự tha sinh bằng nhau và vô nhân sinh, không đồng với luận kia.

9. Hữu chi là nuôi dưỡng mầm khổ, vì nghiệp có năng dưỡng.

10. Hữu chi như chất keo dính, cũng nói nghiệp hữu.

11. Tất cả Khổ chi thuần Đại khổ tụ, là quả sau, là Sinh và Lão tử gọi là Đại khổ tụ.

12. Bảy môn trước gọi là có nhân pháp, các nhân khác lẫn nhau gọi là có nhân khổ, là Năng dẫn và Sở dẫn đều là Dẫn nhân, đương sinh lão tử gọi là Hữu nhân. Bảy chi là nhân pháp kia. Sinh lão tử gọi là Khổ của hữu nhân, vì có nhân đời trước. Ái Thủ Hữu ba chi, lân cận với hai chi Sinh Lão tử này, nương theo nhau gọi là Khổ, vì có pháp của Dẫn nhân trước. Đối Pháp luận ghi: “Là khi làm nhân thì có Năng dẫn và Sở dẫn, khi làm quả thì có Năng sinh và Sở sinh. Thục biến gọi là quả, cho nên Ái thủ hữu cũng lập tên quả, quả sắp thành thục biến chuyển thì Thục biến kia mới khởi”.

13. “Sở hiển của ba chi lậu tận”, là Vô minh, Ái, Thủ, vì là lậu pháp, đoạn dứt tận vị này gọi là Đoạn lậu sở hiển. Nếu khi ba chi này đoạn, thì các chi còn lại duyên với tận, không sinh trở lại nữa, gọi là Đoạn tận sở hiển, chỉ còn một chi Thọ, gọi là Thọ tận sở hiển.

14. Trong bảy mươi bảy trí, phần trả lời có ba đoạn: một là tổng đáp nguyên nhân lập trí, hai là hiển riêng nguyên nhân của các trí, ba là kết thành số để nêu bày. “Để hiển trí hữu nhân tạp nhiễm”, đây là tổng đáp, là quán các chi có nhân pháp của nó, là như Lão tử lấy Sinh làm nhân, cho đến Hành chi lấy Vô minh làm nhân, Vô minh thì lại không có nhân của nó, cho nên thành bảy mươi bảy. Duyên chỗ khởi trí của tạp nhiễm này gọi là trí tạp nhiễm, hoặc trí năng duyên tức là tạp nhiễm. “Lại nữa để hiển…”, có bốn chữ “lại nữa”:

Chữ “lại nữa” thứ nhất, hiển duyên hiện tại có hai trí, là duyên Sinh hiện tại mà có Lão tử, không phải không duyên Sinh hiện tại mà có Lão tử, hiện tại tự thân thì tự nó tạo tác.

Chữ “lại nữa” thứ hai, hiển duyên quá khứ Lão tử có hai trí, là duyên Sinh quá khứ mà có Lão tử, không phải không duyên Sinh quá khứ mà có Lão tử, quán đối với tiền tế từ vô thỉ đến nay, Lão tử đều lấy Sinh làm duyên.

Chữ “lại nữa” thứ ba, hiển duyên vị lai Lão tử có hai trí, là duyên Sinh vị lai mà có Lão tử, không phải không duyên Sinh vị lai mà có Lão tử. Vị lai tuy chưa khởi, nhưng đã mang nghĩa tạp nhiễm hoàn diệt. Hiện tại quán tạp nhiễm mà thành hai trí. Trong tam tế này, trí thứ nhất quán quả có nhân, hiển nguyên nhân của nó. Trí thứ hai này là quán quả có nhân không phải bất quyết định, phá vọng chấp bên ngoài, không phải Bất bình đẳng Vô nhân mà sinh.

Chữ “lại nữa” thứ tư, hiển quán chỗ không nhiếp pháp của chi, vì nghĩa biến tri của các Hữu lậu tuệ, tức là Pháp trụ trí, biết khắp duyên khởi giáo pháp trong ba đời, gọi là chỗ chi không nhiếp, lấy làm trí thứ bảy. Sáu chân thật trí trước, hợp với một pháp trụ và sáu chân thật cho nên thành bảy trí. Nếu y theo nghĩa này, thì trong thân của bậc Thánh cũng có Pháp trụ trí, trong thân của Dị sinh cũng có Chân thật trí, vì đều khởi bảy trí quán, còn lại mười chi trước cũng vậy, cho nên thành bảy mươi bảy trí.

15. Bốn mươi bốn trí, văn có hai đoạn: 1. Thuyết minh trí. 2. Nhân theo đó giải thích Thức duyên Cảnh. Hiển riêng Thức thứ sáu có thể làm trí quán, tùy ở cõi nào đều có thể quán sát, vì hành tướng thông, là Lão tử khổ, Lão tử tập, Lão tử diệt, Lão tử thú hướng diệt hạnh. Mười một chi sau đều quán như vậy, cho nên thành bốn mươi bốn trí, Dị sinh thì tại ngang Thức quán lùi lại về trước.

“Nếu sinh cõi Sắc và cõi Vô sắc, trừ các Địa cõi dưới của nó, tất cả hiện tiền như như tại cõi Dục”, đây là tùy thuận lý môn, ở tại hai cõi trên thì không khởi tất cả các Thức của Địa cõi dưới, như tại cõi Dục tương tợ khởi ý thức của cõi trên, tất cả không có ngăn ngại. Văn thế đọc dài thì nghĩa đạo cũng xa.

Chân thật lý môn, trong hai cõi trên, trừ Thức chỉ riêng có tại Địa cõi dưới ra, còn lại ý thức của ba cõi đều được hiện tiền, vì nhuận sinh mà khởi. Đã thừa nhận hai định trở lên khởi Sơ thiền, thì Thức thân cũng phải thừa nhận Bồ-tát trong cõi Sắc khởi Tỷ thức và Thiệt thức của cõi Dục.

Trong Tạp nhiễm, đoạn lớn thứ hai thuyết minh có thể đối trừ tu sáu hiện quán, như Quyết Trạch phần, Duy Thức quyển 9, Đối Pháp quyển 13, Hiển Dương quyển 1, Nhiếp luận và Duy Thức sớ, giải thích nghĩa của các môn thể tánh thêm bớt v.v…