DU GIÀ SƯ ĐỊA LUẬN LƯỢC TOẢN
Soạn giả: Sa-môn Khuy Cơ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

(Bản luận 6, 7, 8)

BẢN LUẬN 6

Trong phần Địa, đoạn thứ tư, Tác ý bất như lý có mười sáu Dị luận, văn phân làm ba phần:

  1. Hỏi.
  2. Đáp.
  3. Từ câu “như vậy mười sáu Dị luận do hai loại môn…” trở xuống, kết thành chỗ phá ở trước.

Trong phần đáp có hai phần:

  1. Trình bày Tiểu thừa và ngoại đạo gượng thắng thượng thủ mười sáu Dị luận.
  2. Thứ tự phá riêng.

Trong nhân có quả, văn phân làm bốn đoạn:

  1. Tổng nêu.
  2. Trình bày Khởi.
  3. Trình bày Chấp.
  4. Từ câu “nên thẩm vấn…” trở xuống là rộng phá.

“Vũ chúng ngoại đạo” là đại đệ tử của Số luận sư, chủ của mười tám Bộ. Sinh ra khi mưa cho nên gọi là Vũ, đồ đảng của Vũ gọi là chúng. Vũ cho rằng các pháp sơ lược làm ba Đế, trung bình làm bốn Đế, rộng thì làm hai mươi lăm Đế. Trừ Thần ngã đế ra, hai mươi ba Đế khoảng giữa gọi là quả, Tự tánh gọi là nhân, quả trụ trong nhân, vẫn không có Thể riêng, như vàng làm trâm xuyến. Nhân quả khác nhau, lại càng không có Thể riêng, gọi là nhân có quả, như Duy Thức sớ và Kim Thất Thập luận nói.

Trình bày chấp có hai phần:

  1. Tổng.
  2. Biệt.

Trong Biệt lý, phân làm ba phần:

  1. Trình bày nguyên nhân chấp.
  2. Từ câu “Tác ý và Tư của nó…” trở xuống là trình bày chấp.
  3. Từ câu “như vậy do thi thiết…” trở xuống, kết thành tánh quả Thường trong nhân.

Trong chấp nguyên nhân, làm tánh Tầm tư, là tánh nhiều tư lự; làm tánh Quán sát, là tánh nhiều là suy tìm; thể trước là Tư, thể sau là Tuệ.

“Trụ Tầm tư địa và trụ Tự biện địa”, Địa là Sở y, nương vào Tầm tứ bên trong mà khởi ngôn thuyết biện luận bên ngoài, vì tại giai vị Dị sinh, tại giai vị Tư độ, cho nên khởi chấp như vậy. Bốn loại trên do pháp, hai loại sau do Vị, vì đủ các pháp đó ở tại Vị đó.

Trình bày chấp có hai phần:

1. Trình bày bốn đạo lý.

2. Từ câu “nếu không như thế thì…” trở xuống, mở ngược bốn vấn nạn thành bốn lý trước:

1- Lý cộng thành của thế tục, là nếu từ tánh kia hoặc tánh này được sinh, là từ hạt thóc kia mà cây lúa này được sinh, thế giới cùng chung biết hạt thóc là nhân của cây lúa, không phải do đậu mè… làm nhân.

2- Chỉ đối với nhân này mà mong cầu lý, là nếu mong cầu quả, thì chỉ nắm lấy nhân này, không phải nhân nào khác, là quả lúa của thế gian chỉ lấy nhân thóc, vì mong cầu cây lúa sinh, là gieo giống thóc, không phải đậu mè… nào khác.

3- Tìm tòi các Phi lý khác, là nếu ngay nơi thóc kia mà gia công tìm tòi các sự mong cầu, thì không ngoài sự nào khác, nghĩa là ngay nơi thóc kia, dùng sức cày cấy, để mong cầu cây lúa đơm bông kết quả, không phải đối với đậu mè… nào khác.

4- Lý quả từ nhân kia sinh, lại nếu quả kia ngay từ nhân kia sinh, không từ nhân khác sinh, lúa kia kết quả thì từ thóc kia sinh, không từ đậu mè sinh, cho nên biết trong nhân thóc, trước đã có quả lúa.

Trên đã trình bày bốn lý, dưới đây mở ngược lại bốn vấn nạn, đối với bốn lý trên mỗi mỗi đều phối hợp riêng.

– Vấn nạn thứ nhất: Nếu không từ thóc kia mà cây lúa này được sinh, như thế thì đáng lẽ trong thế tục cùng lập chung tất cả là tất cả nhân, vì quả không nhất định, cho nên nhân quả sinh chung, thì cũng đáng lẽ đậu mè… là nhân của thóc…?

– Vấn nạn thứ hai: Nếu mong cầu quả lúa, thì không những chỉ mong cầu lấy thóc làm nhân, nếu như thế mà mong cầu một quả lúa, thì đáng lẽ phải lấy tất cả đậu mè… làm nhân?

– Vấn nạn thứ ba: Nếu không đối với thóc dùng sức cày cấy, vì mong cầu quả lúa, như thế là mong cầu quả lúa, thì đáng lẽ phải gia công tìm cầu trong tất cả đậu mè…?

– Vấn nạn thứ tư: Nếu lúa kia kết quả không chỉ từ thóc sinh, như thế đáng lẽ từ trong tất cả đậu mè… là chỗ sinh của tất cả lúa đậu mè khác?

Trong tổng kết thành, chữ “Như vậy” là đạo lý của đoạn văn trước, vì thi thiết để kết thúc nhân thứ nhất ở trước. Chỗ thi thiết của thế tục thì thóc là nhân của lúa. Từ câu “Như vậy…” trở xuống, ba chữ “cho nên” riêng phối hợp với ba lý sau, tùy theo nghĩa cần phải biết.

– Trong Biệt phá phân làm ba phần:

  1. Trình bày chung.
  2. Vấn nạn riêng.
  3. Kết thành.

– Trong phần vấn nạn riêng phân làm hai phần:

1. Riêng mở bốn đạo lý.

2. Hiển năm tướng để biểu thị chánh tông.

3. “Đạo lý không khác”, tướng là Thể, nhân quả không khác, đáng lẽ không có hai thứ quyết định sai biệt, phải lập lượng rằng: “Quả thể của ông, đáng lẽ không phải quyết định, vì quả tướng tức là nhân tướng, cũng như nhân tướng”. Nhân tướng cũng như thế, vì người kia chấp một tướng của Thể có khác nhau. Luận có Tông và Nhân cho nên ở đây thêm Dụ. Từ câu “Nếu có Dị tướng…” trở xuống, là thi thiết để ngăn chặn. Từ câu “Nếu tướng chưa sinh thì quả trong nhân cũng chưa sinh, mà nói có là không đúng lý” trở xuống, là quả trong nhân, Thể cũng chưa sinh thì tại sao nói có! Lập lượng rằng: “Quả ở trong nhân của ông không nên nói có, vì chưa sinh tướng, cũng như sừng thỏ…”. Từ câu “Nếu tướng đã sinh tức là thể của quả đã sinh, thì lại từ nhân nào mà sinh? Không đúng lý, là Lượng rằng: “Trong nhân đã có quả sinh trước, thì pháp đáng lẽ lại không từ nhân nào mà sinh, vì Thể đã sinh rồi, như đã sinh quả”. Hoặc nói sinh, nghĩa là có Thể, chính là tông này.

4. Trong hiển thị Chánh tông, từ câu “Lại nữa, pháp có tướng trong pháp có tướng pháp…” trở xuống, có tướng tức là có Thể tướng, có thể nương vào quả pháp. Trong “pháp có tướng tức là có Thể tướng”, là nhân pháp Sở y.

5. “Tức là do Tự tướng khả đắc cũng như tự thể nhân, không do so

sánh đo lường”, là như tự tướng của nhân có thể sinh công năng có thể chứng đắc quả, không phải có quả thể, tự thể của nhân này hiện là chỗ có thể thấy, không do so sánh đo lường.

6. “Do tự tác nghiệp khả đắc”, là như hiểu rõ Sắc nghiệp để hiển Nhãn thức…

7. “Do nhân đồi khác cho nên quả thành cũng đổi khác…”, nhân gần đã đổi khác thì quả cũng đổi theo. Duyên cũng như vậy, như hạt thóc và cây lúa không phải không biến nhân mà chỉ riêng biến quả. Tại sao Tự tánh của ông không biến? Vì các Đế khác biến thành. Lượng rằng: “Tự tánh của ông đáng lẽ cũng đổi khác, vì quả đổi khác, như thóc mè… Bốn nhân tổng kết ở trên, văn dễ hiểu.

Trong “từ Duyên hiển rõ luận”, văn cũng có bốn phần, tức là Kim Thất Thập luận của Số luận sư, hai mươi ba Đế trụ trong nhân, từ nhiều duyên khác hiển hiện, biến thành các Đế khác, dụng dứt trở về gốc, vì tất cả thế gian vốn không có sinh diệt, từ duyên mà hiển, như thường phân biệt.

Trong đây có chỗ nói, trước Vũ chúng ngoại đạo có kế chấp pháp từ Duyên sinh, cho nên trước vấn nạn rằng: “Quả trước là có, lại từ duyên sinh, là không đúng chánh lý”. Hiện tại từ Duyên hiển cho nên Vũ chúng khác nhau, nghĩa này không đúng. Luận ghi: “Ngay trong nhân có quả, là kế chấp”. Cho nên không phải các Vũ chúng sư. Nhân Minh cũng ghi: “Như đệ tử Phật, đối với Số luận sư, lập ra âm thanh diệt hoại, là Năng biệt không thành”. “Nếu Số luận sư kế chấp có sinh”, vì sinh thì phải diệt, làm sao nói Năng biệt không thành? Cho nên biết trước sau đồng là kế chấp của một sư. Trước nói “sinh”, biểu thị nghĩa là Hữu, hoặc đặt ra để ngăn ngừa.

“Luận về tướng âm thanh”, tức là từ thanh mà hiển Sư, không phải Thanh sinh kế chấp, Thể của thanh là Hữu, từ duyên mà hiển nó.

“Quả trong Lý, trước hết là có lại từ nhân sinh…”, là lập câu vấn nạn thứ nhất. “Tất cả không phải hiển”, là kế chấp quả pháp kia xưa nay Thể là có, lại từ nhân sinh, là không đúng đạo lý và thành quả pháp chỉ từ nhân mà hiển. “Các kế chấp Sinh”, là không có chấp quả pháp trụ trong nhân, luận kia thuận theo quả của tự tông trước là có, lại trình bày kế chấp của người khác là từ nhân mà sinh. “Nhưng không phải không dụng công để làm thành quả…”, là thế tục lập hiển đạo lý, cho rằng mong cầu quả pháp của thế tục, không phải không dụng công đối với nhân. “Nếu không vì hiển quả thì duyên gì mới tạo ra công dụng, cho nên khởi công dụng để làm thành quả”, lẽ nào không chỉ vì hiển rõ quả hay sao! Đã là quả không sinh, cho nên biết từ đâu mà hiển!

– Trong Phá, phân làm ba đoạn:

  1. Phá chấp của Số luận.
  2. Mở chánh nghĩa.
  3. Nêu phá Thanh luận.

Trong đoạn thứ nhất phá chấp phân làm hai phần là vấn nạn riêng và kết thành. Trong vấn nạn riêng phân làm ba phần là có chướng và không có chướng, hữu tánh và quả tánh, khác và không khác.

“Có chướng và không có chướng”, nghĩa là khi quả không hiển thì là có chướng, vì Thể sinh cho nên bị chướng, nhưng quả không hiển thì làm không chướng Thể? Nhưng vì chướng Thể kia cho nên quả không hiển. Vấn nạn không có chướng Thể, Lượng rằng: “Không có Thể thì đáng lẽ không bị chướng, vì không có Thể, như con của gái đá; hoặc quả pháp của ông đáng lẽ gần sắp hiển, vì không có chướng duyên, cũng như nhân pháp của ông”. “Nếu có chướng duyên thuộc nhân của quả, tại sao không chướng cũng đồng là có”? Là quả Thể có Hữu chướng, khéo chướng Thể của nhân, không phải không có chướng, thì đáng lẽ chướng cũng đều là có. Lượng rằng: “Nhân hữu thể chướng của ông, đáng lẽ cũng phải chướng kế chấp Thể là Hữu, như chỗ chướng quả, nếu như nước làm quả thì bóng tối có thể chướng nó, bồn chậu là nhân của nước, bóng tối cũng có thể chướng, nước và chậu đều có bóng tối che chướng không khác nhau. Nhân quả chẳng phải không có, thì chướng đáng lẽ là đồng, che lấp nghĩa của Tỷ lượng cứ theo đây có thể biết. Nếu bổ cứu cho rằng “chướng duyên cũng có thể chướng nhân”, thì cũng phải hiển nhân, nhưng tại sao chỉ nói từ nhân hiển quả? Lượng rằng: “Nhân trong tông của ông đáng lẽ phải từ duyên hiển, vì chướng Sở chướng, cũng như quả pháp; hoặc quả pháp của ông không từ duyên hiển, vì thừa nhận có chướng, cũng như nhân pháp”.

“Có tánh là chướng duyên”, có tánh là có Thể tánh. Quả tánh là Sở hữu của nhân, ngay nơi Thể gọi là nghĩa, gọi là quả tánh. Trong đây hỏi rằng: Hữu thể làm chướng duyên hay là quả nghĩa làm chướng duyên? Nếu Hữu thể là chướng duyên thì thể tánh thường có, đó là tánh vĩnh viễn không được hiển, vì hiển mà như chưa hiển, vì thường có Thể. Nhân cũng thường có, tại sao không bị chướng, mà chỉ riêng quả mới có thể bị chướng? Lượng rằng: “Quả trong tông của ông đáng lẽ vĩnh viễn không hiển, vì thường có tánh, cũng như chưa hiển. Thể trong tông và Nhân của ông cũng đáng lẽ bị chướng, vì Thể thường có, cũng như đối với quả”.

“Nếu nói quả tánh là chướng duyên” nghĩa là như mầm. Một pháp cũng là nhân cũng là quả, mong Chủng tử là quả, mong nhánh thân cây là nhân, mong nhánh thân cây không chướng, mong nhân có thể chướng, nghĩa của chướng nhiếp hiển và không hiển, cho nên thành một pháp vừa hiển vừa không hiển. Phải lập lượng rằng: “Quả thể trong Tông của ông, từ trước đến nay là hiển”, cho nên đặt thành vấn nạn này. Hoặc tự tánh Thể của ông cũng đáng lẽ là quả, vì hiển nhân của nó, như nhân của quả sau, cũng như người kia chấp mầm là nhân thì phải hiển, cho nên thành vấn nạn này. Hoặc đáng lẽ quả tánh không phải chướng, vì Thể tức là nhân, như nhân, nhân cũng đáng lẽ là chướng, vì tức là quả thể, như quả. Cho nên nói một pháp cũng là nhân cũng là quả.

Khác và không khác: “Pháp này cùng với hiển làm khác và không khác”, là pháp này tức là quả, vì từ trước đến nay đã có. Hiển là hiển rõ, vì gặp duyên thì hiển. Nếu là không khác thì pháp đáng lẽ thường hiển, vì xưa nay quả pháp trước đã thường có, trước hiển mà nay cũng hiển, là không đúng đạo lý. Lượng rằng: “Quả pháp trong tông của ông, từ trước đến nay đáng lẽ là hiển, vì tức là pháp này, cũng như pháp này. Quả pháp trong tông của ông, đáng lẽ bây giờ mới có, vì tức là hiển, thì như bây giờ mới hiển. Tỷ lượng của pháp này thì ngược lại đây có thể biết.

“Nếu nói Khác thì quả kia hiển là không có nhân hay sao”, đây là hỏi khi quả hiển thì có nhân hay không có nhân. Không có nhân, Lượng rằng: “Quả pháp từ trước đến nay đáng lẽ là hiển, vì hiển không có nhân, như sau khi hiển; hoặc hiện tại đáng lẽ không hiển, vì hiển không có nhân, như khi chưa hiển”.

“Nếu có Hiển nhân, thì quả tánh có thể hiển Phi nhân tánh”, là một Chủng tử có nhân, thì quả tánh có thể hiển, không thể hiển nhân tánh là không đúng đạo lý. Lượng rằng: “Nhân của ông đáng lẽ hiển, vì hiển có nhân, cũng như quả pháp; hoặc quả đáng lẽ không hiển, vì hiển có nhân, cũng như đối với nhân”. Hoặc luận kia bổ cứu rằng: “Quả pháp chưa hiển, thì hiển nhân cần phải hiển, nhân pháp không ẩn thì cần gì nhân hiển! Hữu thể là đồng, thì hiển nhân xứng với hữu, có hiển và không có hiển, thì lý trái nhau”. Lượng rằng: “Nhân hiển của hữu thể, cũng đáng lẽ hiển nhân, vì nhân hiển có, cũng như hiển quả”.

Tổng kết đoạn văn kia, nói: “Tánh nếu là chết thì không thể hiển rõ”, là trong pháp có tướng, nếu không có tánh kia thì không thể hiển rõ, như sữa trong sừng, váng sữa trong nước; nếu có tánh kia mới có thể hiển rõ, như lạc trong sữa, như kim loại trong khoáng, không ngại có tánh và không có tánh, chỉ ngăn quả trụ nhân.

– Hiển thị chánh nghĩa có sáu phần:

1. Xứ xa khó lấy.

2. Bốn chướng khó lấy. Quyển thứ 3 trước ghi: “Che lấp, ẩn mất, đoạt mất ánh sáng, huyễn hoặc”.

3. Vi tế khó lấy, như Cực vi.

4. Tâm loạn khó lấy, như cảnh của thần thông.

5. Căn hoại khó lấy, như già, mê muội, bệnh…

6. Vô trí khó lấy, như không có Chân trí, Tha tâm trí… không phải trong nhân kia trước có quả tánh mà không thể lấy, vì sáu thứ không nhiếp.

Kế chấp của phần luận về Thanh, hoặc nội hoặc ngoại, hoặc toàn phần hoặc một phần, đều như bài Sớ thứ nhất của Duy Thức nói. Từ trên đến đây hai kế chấp đều là chỗ tóm nhiếp của Tăng ích tà kiến.

– Trong phần luận về ba đời, văn cũng có bốn đoạn:

  1. Trình bày tông.
  2. Trình bày vấn nạn.
  3. Trình bày chấp.
  4. Phá.

– Trong trình bày chấp có hai phần:

  1. Trình bày ngoại đạo.
  2. Trình bày Tiểu thừa.

Lượng của tông ngoại đạo nói: “Quá khứ và vị lai là thật có, vì chỗ nhiếp của đời, cũng như hiện tại. Nhất thiết hữu trong giáo pháp nội đạo tức là mười hai Xứ”, ý của tông kia nói, Thật tướng của mười hai Xứ này là có, Ý duyên mười hai pháp Xứ của ba đời cho nên quá khứ và vị lai là có. Rộng như Câu-xá quyển 20 và quyển 2, giải thích nghĩa của kinh này.

Trong lý, “Nếu là Tự tướng của pháp an trụ pháp chân thật này là có”, là tổng kết các pháp an trụ Tự tướng, pháp thật có này không an trụ Tự tướng, pháp này trở thành không, như lông rùa, vì đời quá khứ và đời vị lai trụ Tự tướng, pháp Thể thành có thì không đồng với lông rùa. “Nếu vị lai không có”, thì đáng lẽ chưa thọ Tự thể, đáng lẽ không phải tức là vị lai. Lượng rằng: “Vị lai của Đại thừa đáng lẽ không phải vị lai, vì chưa thọ tướng tự thể, như lông rùa”. “Nếu quá khứ không có”, thì đáng lẽ mất tướng tự thể của quá khứ, đáng lẽ không gọi là quá khứ. Lượng rằng: “Quá khứ của Đại thừa đáng lẽ không gọi là quá khứ, vì mất tướng Tự thể, như lông rùa”. Nếu như vậy thì Tự tướng các pháp trong ba đời không thành, vì Tự tướng không thành cho nên cũng không phải chân thật. Lượng rằng: “Hiện tại Tự tướng của Đại thừa không thành, hoặc cũng không phải chân thật vì chỗ nhiếp của đời, cũng như quá khứ và vị lai. Hiện tại đã không như vậy, thì quá khứ và vị lai tại sao nhiếp đời? Hoặc là Tự tướng của Hữu vi thật ra không thành, vì không có ba đời, như sừng thỏ… – Phá tông có năm đoạn:

  1. Mở ra ba vấn nạn.
  2. Người ngoài hỏi vặn.
  3. Trình bày thêm Phá.
  4. Giải thích kinh kia.
  5. Nói ba đời mỗi mỗi đều là mười hai tướng, để hiển chỗ sai của luận kia.

– Trong phần thứ nhất có hai đoạn:

  1. Mở ba vấn nạn.
  2. Tự tướng như vậy, cho nên tổng kết văn trước.

Ba vấn nạn là:

  1. Vấn nạn Tự tướng một và khác.
  2. Vấn nạn Cộng tướng của Thường…
  3. Vấn nạn bảy nghĩa của vị lai.

Hoặc nói tướng là một, lập tướng ba đời là không xứng đạo lý. Tướng là Thể. Lượng rằng: “Thế đáng lẽ không có ba, vì tức là một Thể, cũng như một Thể. Hoặc Đời đáng lẽ không có ba tướng, vì là một, cũng như hiện tại”. Đây là thiết lập để ngăn, không phải nghĩa của tông này.

Hoặc tướng khác thì tánh tướng thật có là không xứng đạo lý. Ý này nói: “Tướng ba đời, tướng là khác vì lìa hiện tại. Ngoại là tánh tướng thật có của quá khứ và vị lai, vì khác với hiện tại, cũng như sừng thỏ”. Chân như của Đại thừa không phải quyết định khác với hiện tại, không có lỗi Bất định. Hoặc nhân nói: “Hiện tại là chỗ không nhiếp của Vô vi”, Tông và Dụ đồng như trước.

“Là tướng Thường và tướng Vô thường”, vì ba đời cùng có cho nên gọi là Cộng tướng. “Nếu là tướng Thường”, là giả thuyết trình bày để chất vấn, không phải chính là Tông kia. Lượng rằng: “Năm uẩn trong tông của ông đáng lẽ không rơi trong ba đời, vì thừa nhận tướng Thường, như Vô vi”. Hoặc tướng Vô thường trong ba đời hằng có, cũng không xứng lý. Lượng rằng: “Năm uẩn trong tông của ông không thường hằng thật có đối với ba đời, vì tướng Vô thường, như sừng thỏ”. “Nếu nói Biểu thuyên vô thường không phải ngăn Thuyên”, Lượng rằng: Các pháp của năm Uẩn không phải ba đời hằng hữu, vì chỗ nhiếp của đời, cũng như bảy huyễn sư.

– Trong vấn nạn nghĩa:

  1. Trình bày bảy vấn nạn.
  2. Đoạn văn phá riêng.

– Hợp lại có bốn phần. Tát-bà-đa Câu-xá tụng thứ 20 ghi:

 

Trong đây có bốn thứ,
Loại tướng vị đãi dị,
Vị thứ ba tác dụng,
Lập đời rất là thiện.

Pháp Cú ghi:
 
Thế do loại bất đồng,
Khi pháp hành trong đời,
Loại biệt không phải Thể,
Như vàng làm đồ vật,
Hình khác mà loại đồng,
Như sữa thành tô lạc,
Vị mất sắc thì còn.

Pháp từ vị lai lưu chuyển đến đời hiện tại, hiện tại nhập quá khứ, chỉ xả được loại, không xả được Thể.

Diệu Âm nói: “Thế do tướng bất đồng, khi pháp hành nơi thế gian, là chính quá khứ cùng với quá khứ hợp nhau, nhưng không gọi là lìa tướng hiện tại và vị lai. Chính vị lai cùng với vị lai hợp nhau, nhưng không gọi là lìa tướng quá khứ và hiện tại. Chính hiện tại cùng với hiện tại hợp nhau, nhưng không gọi là lìa tướng quá khứ, như nhiễm một vợ cả, thì đối với các vợ lẽ khác không gọi là lìa nhiễm”.

Thế Hữu nói:

Thế do vị bất đồng,
Khi pháp hành nơi thế,
Thể đồng, vị thì khác,
Như dời một thẻ tre,
Đặt một gọi là một,
Đặt trăm gọi là trăm,
Đặt ngàn gọi là ngàn.

Giác Thiên nói về Thế:

Do chờ nhau bất đồng,
Khi pháp hành nơi thế,
Trước sau cùng chờ nhau,
Đặt tên thì có khác,
Cũng như một người nữ,
Gọi mẹ, gọi con gái.

Thế Thân nói: “Trong bốn thuyết này, thuyết thứ nhất là chấp, đồng với Số luận ngoại đạo. Thuyết thứ hai là chấp tướng, vì lìa đều có ba tướng, như khi nhiễm thê (vợ), là hiện có tham khởi, ngoài ra chỉ thành tựu, đâu có nghĩa gì là đồng! Thuyết thứ tư chấp là một, đời đáng lẽ có ba đời, như sát-na trước sau của quá khứ, đời đáng lẽ gọi là quá khứ, vị lai và hiện tại. Vị lai cũng như thế, vì đồng chờ nhau. Do đây, thuyết thứ ba rất khéo nói, y theo tác dụng của pháp lúc chưa có, đang có và đã có khác nhau”.

“Hiện tại bảy nghĩa này, từ trình bày nghĩa thứ nhất đến đây”, là vấn nạn nghĩa loại và dị của Pháp Cú; vấn nạn thứ tư là có nghiệp, để phá nghĩa vị khác với tác dụng của sư Thế Hữu; vấn nạn thứ sáu là Dị tướng, để phá nghĩa Tương đãi (chờ nhau) của các sư Giác Thiên; vấn nạn thứ bảy là có hiện tại phần, để phá nghĩa Tương dị (khác nhau) của sư Diệu Âm, còn lại ba vấn nạn thứ hai, ba và năm là đặt ra để ngăn ngừa, không phải là gốc kế chấp của các Bộ. Phá bốn sư này như Câuxá nói. Quyết Trạch phần quyển 1 trình bày thành sáu kế chấp. Nội dung giống nhau.

“Chưa đến hiện tại”, là pháp thể không dời chuyển. “Hướng đến hiện tại đối với sinh này”, là vị lai chết mất thì hiện tại mới sinh. “Làm duyên sinh hiện tại”, là pháp trụ ở vị lai làm nhân duyên sinh pháp riêng của hiện tại. “Hiện tại có nghiệp”, nghĩa là vị lai không có dụng mà do hiện tại sinh dụng. “Tướng hiện tại đã viên mãn”, là tướng gốc chưa tròn, đến hiện tại mới viên mãn. “Hiện tại Dị tướng”, là bản thể tuy đồng, nhưng tương đãi và tương biệt. “Có hiện tại phần”, là pháp vị lai có vị lai phần và hiện tại quá khứ phần, có nghĩa là thuyết minh hiện tại cũng có hiện tại phần và vị lai quá khứ phần. Quá khứ cũng như vậy, luận này chỉ nêu ra phần của hai đời, các loại còn lại có thể biết. Quyển 1 có sáu nghĩa, nhưng không có nghĩa thứ sáu này, nghĩa thứ sáu của quyển 1 kia tức là nghĩa thứ bảy của luận này. Hoặc giải thích rằng: “Nghĩa thứ sáu và thứ bảy hợp lại làm nghĩa thứ sáu của luận kia. “Hiện tại Dị tướng”, tức là hiện tại kia, có hiện tại phần và vị lai phần. Luận này thì tách rời, luận kia thì hợp chung, cũng không trái nhau. Nếu tạo giải thích này, thì không có nghĩa tương đãi của sư Giác Thiên, cho nên phải biết chỗ nói trước là hay khéo.

Biệt phá phân làm hai phần:

  1. Năm đoạn phá.
  2. Ví dụ đến quá khứ.

Sau đây ba vấn nạn hợp lại làm ví dụ phá nghiệp dụng. Vấn nạn thứ nhất có ba đoạn:

  1. Có phương sở.
  2. Cùng với hiện tại không khác.
  3. Đáng lẽ là Thường.

Vấn nạn thứ nhất, Lượng rằng: “Vị lai đáng lẽ có phương sở, vì có đi đến, cũng như hiện tại. Lại nữa, vị lai đáng lẽ cùng với hiện tại không khác, vì có đi đến, vì có phương sở, cũng như hiện tại. Lại nữa, pháp thể của vị lai đáng lẽ là Thường, vì xưa nay có, như hư không”. Quyển 1 ghi: “Các pháp của vị lai, không có đi đến hiện tại, không có phương xứ, cũng như thiện Vô vi.

Vấn nạn thứ hai có hai đoạn:

1. Vị lai không sinh ở hiện tại, hiện tại thì trước không mà nay sinh. Lượng rằng: “Pháp của vị lai, Thế đáng lẽ không phải Hữu vi, vì vốn không sinh, như hư không. Cũng không phải thật có, không phải là Vô vi, vì vốn không sinh, giống như sừng thỏ.

2. Vị lai chưa sinh mà nói chết mất. Lượng rằng: “Các pháp của vị lai đáng lẽ không có chết mất, vì vốn chưa sinh, như hư không”. Lại nữa, pháp vị lai đáng lẽ có sinh, vì thừa nhận có chết, cũng như hiện tại.

Vấn nạn thứ ba có hai đoạn:

1. Phá đáng lẽ là Thường. Lượng rằng: “Những pháp trụ ở vị lai làm duyên, đáng lẽ là thường trụ, vì không có biến đổi giống như Vô vi.

2. Đáng lẽ trước không có mà nay sinh, không phải pháp vị lai sinh, đây là trái với tông. Vấn nạn kia rằng: Pháp vị lai lưu nhập hiện tại, hiện tại pháp này là duyên sinh của vị lai, vị lai thì trước kia không có, bây giờ mới sinh, không phải pháp của vị lai sinh, lẽ nào không trái với tông?

Vấn nạn thứ tư: Phá nghiệp dụng có ba đoạn:

1. Trước không có nghiệp dụng, nay có nghiệp dụng. Vấn nạn rằng: Tức là trước có Thể, nay mới có Dụng, là có cùng lỗi thứ hai trong phần duyên sinh của đoạn trước. Nghiệp hiện tại sinh, vì không phải từ vị lai sinh. Dụng không lìa Thể, đáng lẽ không phải mới có. Thể không lìa Dụng, đáng lẽ không phải thành từ xưa, lập Lượng đồng như trước.

2. Dị tướng của nghiệp dụng và pháp tướng. Vấn nạn rằng: Tướng của nghiệp dụng này, cùng với pháp vốn có của nó, cả hai đều là có Thể, nghiệp vị lai thì không có, cho nên không xứng lý. Lượng rằng: “nghiệp vị lai đáng lẽ có, vì thừa nhận tất cả đều có, như Thể. Thể của vị lai đáng lẽ không có, vì thừa nhận tất cả đều có, như nghiệp dụng. Hoặc lấy Dị tướng làm nhân, Thể và nghiệp dụng sai biệt lẫn nhau”.

Tông và Dụ đồng như trước.

3. Nghiệp và pháp vốn có không có Dị tướng. Vấn nạn rằng: nghiệp dụng là pháp, pháp Thể sẵn có, trước không có nghiệp dụng mà nay mới có”, là không xứng với chánh lý. Lượng rằng: “nghiệp đáng lẽ vốn sẵn có, vì tức là Thể, như Thể. Thể đáng lẽ vốn đã không có, vì tức là nghiệp, như nghiệp. Tông đó kế chấp nghiệp và Thể không khác nhau. Bây giờ vấn nạn Dị mới là thiết lập ngăn trách. Quyển 1 ghi: “Phật nói các hành phi thường và phi hằng. Nghiệp của ông thì vô thường, hành đáng lẽ là thường, là trái với lời Phật dạy”.

Trong ba ví dụ Phá còn lại, “lại có lỗi Tự tánh tạp loạn”, nghĩa là hiển Thức thứ bảy có lỗi hiện tại phần tạp loạn. Vị lai đã có phần của hiện tại đáng lẽ tức là hiện tại, vì có hiện tại phần, cũng như hiện tại. vấn nạn hiện tại cũng vậy, cho nên thành tạp loạn, tướng đó viên mãn, đáng lẽ lập Lượng rằng: “Tướng của vị lai đáng lẽ là mãn, vì có dư một phần tướng, như hiện tại. Hoặc tướng của hiện tại đáng lẽ không viên mãn, vì có dư một phần tướng, cũng như vị lai. Lập lượng vấn nạn Dị tướng cũng đồng như vậy.

Trong phần kết thứ hai ở trước, có chín chữ “cho nên”. “Tự tướng”, là tổng kết Tự tướng một và khác của ba đời ở trước. “Cộng tướng”, là tổng kết Thường và Vô thường của ba đời ở trước, vì ba đời cùng có. Còn lại bảy nghĩa tức là bảy nghĩa trước. Vấn nạn ba đời và hỏi vặn lại.

“Đã ghi nhận như vậy rồi”, là ghi nhận riêng phân biệt giải thích nghĩa sâu kín. “Nếu nói tất cả có là mười hai Xứ”, câu nói này có ý hiển mười hai Xứ thông với ba đời. Cảnh pháp sở duyên của Ý thức đều là ba đời, nếu quá khứ hoặc vị lai không có thì liền trái với giáo này.

Trong ba lớp trình bày Phá, duyên của tông kia không có gì mà không sinh tâm, khi duyên sừng thỏ, thì đã từng phân biệt thấy con thỏ đó, đã từng phân biệt thấy cái sừng đó, hợp chung lại một chỗ, không phải duyên hiện tại không có. Từ câu “Nếu như thế thì lời Phật dạy trái nhau, nói không có vì biết nó không có. “Nếu không như thế thì chỉ nên nói có biết đối với có” trở xuống, là vấn nạn. “Duyên vô tâm”, là thiết lập để ngăn kế chấp.

Thứ tư giải thích chỗ dẫn kinh của luận kia, có ba phần:

  1. Giải thích mười hai Xứ.
  2. Giải thích nghiệp quá khứ.
  3. Giải thích có Sắc của ba đời.

“Đối với Vô pháp thì mật ý nói tướng có và tướng không”, là muốn nói pháp không thì có thể giữ tướng không, bởi có pháp giữ tướng không này mà trở thành mật ý nói đó là Hữu, nói đó là pháp, không phải hiển Vô pháp như là có Hữu thể. “Trong pháp có cũng mật ý là Hữu”, là có mà không phải thật có, mượn nói là Hữu trì, cho nên gọi là mật ý.

“Do nhân duyên này mà hành kia đổi khác một cách thù thắng, tương tục chuyển gọi là tập khí”, tức là hành đổi khác thù thắng của tập khí này, tương tục, gián đoạn, ẩn hiển, tế thô, duyên, bất duyên, ngại và bất ngại đều có sai biệt.

Thứ năm là ba giải thích, là mười hai Tướng, vì trong vị lai có thể sinh pháp tướng, nghĩa là không chứng chứng đắc pháp Phi trạch diệt thì không thể sinh pháp Tướng, chứng đắc Phi trạch diệt pháp thì sinh pháp nên có thể cầu, không sinh pháp thì không nên cầu tướng.

– Thứ phá Ngã có năm đoạn:

  1. Trình bày tông.
  2. Hỏi ý.
  3. Trình bày chấp.
  4. Trình bày phá.
  5. Hiển chánh nghĩa.

“Có Ngã, Tát-đỏa…”, câu này chỉ có sáu nghĩa, trong quyển 83 có tám nghĩa, Bát-nhã có bốn nghĩa, đều như Xu Yếu nói.

– Trong trình bày chấp có hai phần:

  1. Tổng nêu hai nhân.
  2. Hiển riêng hai nhân.

Nhân theo Tu mà không Tư, cũng biết có Giác; Tác ý tư lương cũng biết có Ngã, cho nên gọi là hai nhân.

Trong trình bày Phá có hai phần, phần thứ nhất mở riêng mười vấn nạn, phần thứ hai là tổng kết, sau đây là mười vấn nạn:

1. Bất Giác là vấn nạn trước, vấn nạn “tuỳ ý trước tiên biết có Ngã”.

2. Từ câu “sở tác của thế gian cho Giác làm nhân…” trở xuống, Tư giác đặt làm vấn nạn, là vấn nạn từ câu “Tác ý Tư lương trước cũng biết có Ngã” trở xuống, hợp chung làm câu vấn nạn thứ hai.

3. Từ câu “vì đối với Uẩn mà thi thiết có Ngã…” trở xuống, là đối với Uẩn mà thiết lập vấn nạn.

4. Từ câu “chỗ kế chấp hành vi của Ngã tức là các tướng của người thấy…” trở xuống, là đối với người thấy mà lập vấn nạn.

5. Từ câu “vì cùng với nhiễm và tịnh tương ưng…” trở xuống, là kiến lập vấn nạn Nhiễm và Tịnh.

6. Từ câu “vì cùng với tướng lưu chuyển tương ưng…” trở xuống, là vấn nạn sinh tử và Niết-bàn.

7. Từ câu “vì do chỗ sinh của cảnh giới hoặc Khổ hoặc Lạc…” trở xuống, là vấn nạn kẻ làm, người nhận và người giải thoát.

8. Từ câu “lại nữa, ông nay nên nói ý muốn của tự mình là chỉ đối với Ngã mà nói hay là đối với Tác giả…” trở xuống, là vấn nạn thi thiết hữu tác.

9. Từ câu “lại nữa, ông nên nói ý muốn của mình chỉ đối với Ngã kiến lập đối với Ngã…” trở xuống, là thiết lập vấn nạn ngôn thuyết.

10. Từ câu “Kiến kế chấp Ngã làm thiện và bất thiện…” trở xuống, là thiết lập vấn nạn chúng kiến.

Trong phần tổng kết sau đây có mười chữ “cho nên”, phải phối hợp với văn này. Vấn nạn thứ nhất có bốn chữ “cho nên”. Chữ “lại nữa” phân làm bốn đoạn.

Vấn nạn thứ nhất: “Vì đối với việc được thấy mà khởi Tát-đoả giác”, là gốc kế chấp của sư này lìa Uẩn mà có Ngã, kế chấp Sắc sở kiến làm Ngã, là điên đảo giác, ngăn trách ngay kế chấp Uẩn, đây là lỗi trái với giáo. Không khác với Tỷ lượng, hoặc ngay kế chấp Uẩn, sư nói: “Chấp có Ngã kiến thì trầm luân sinh tử, nói không có Ngã kiến thì có thể chứng đắc Niết-bàn, cho nên đối với Sắc, thì đây là có Ngã”, gọi là điên đảo. “Nếu Dị uẩn kia kế chấp có Ngã”, thì Ngã có hình lượng là không đúng đạo lý. Hình lượng kia lìa Uẩn Ngã, hoặc như thân lượng, hoặc như hạt cải, cho nên có hình lượng, đây là vấn nạn Ngã có Sắc không thành. “Có hơn và kém”, là thọ dụng tưởng dụng của Sát-đế-lợi, hoặc hạnh dụng của ngu và trí, hoặc thức dụng của những người khéo nhiếp thu cảnh giới, cho nên lìa ngoài Uẩn thì không riêng có các khả năng này. Tổng lập Lượng rằng: “Ngã lìa Uẩn, đáng lẽ không có hình lượng, vì lẫn nhau thừa nhận lìa Uẩn, như sừng thỏ”.

Vấn nạn thứ hai: “Vì chỉ do pháp tự thể này khởi các Giác…”, là ý hỏi rằng: “Đối với tự thể của cảnh sở giác mà khởi Ngã giác hay là đối với các chỗ khác”? “Nếu đối với pháp sở giác mà tự thể khởi Ngã giác”, có ý hỏi “tại sao ông nói tức là Uẩn kế chấp Ngã gọi là điên đảo”? Vì đối với sắc sở kiến, có hình lượng… mà khởi Ngã giác. Sắc tức là Ngã, cho nên không phải lìa Sắc mà riêng có Ngã, vì chấp Sắc làm Ngã cho nên không phải điên đảo. Lượng rằng: “Ông chấp sắc ngã và tâm đáng lẽ không phải điên đảo, vì thừa nhận thuận với Sở duyên, như Tha tâm trí”. “Nếu do các thể khác khởi các Giác này…”, là cũng do tâm… khởi Hình lượng ngã giác, tức là đối với tất cả pháp cảnh giới mà khởi Hình lượng giác, không phải chỉ có duyên Sắc, cũng đáng lẽ duyên Sắc mà được Giác hơn kém của Ngã, không phải chỉ có duyên Thọ mà khởi Giác kia, thì cảnh và tâm hai thứ liền thành tạp loạn. Cảnh của một Sắc cũng là Giác nhân của Thọ, Tưởng, Hành. Lượng rằng: “Các Sắc trong tông của ông đáng lẽ là Thọ, vì khởi Giác hơn kém, như Thọ”. Ngoài tất cả lượng đều cứ theo đây nên biết.

Vấn nạn thứ ba: “Nếu không duyên khởi tức là không bác bỏ Hiện lượng”, là Hiện lượng hiện thấy cây trụi ở xa mà cho là người, đó là đối với vô tình mà khởi Hữu tình giác, không khởi thì gọi là Phi hiện lượng, trong đó cũng có chỗ trái với thế gian, lược bỏ cho nên không nói. Ý này vấn nạn rằng: Ông kế chấp duyên Sắc thì được khởi Giác của Thọ, đều là giác chân thật, không phải giác điên đảo, cho nên đối với cây trụi ở xa chấp làm người cũng đáng lẽ không phải điên đảo. Đây đã là điên đảo mà ngược lại làm thành đối với Vô ngã. Vọng khởi Tát-đoả Giác, kế chấp Hữu đối với Phi tình, vì khởi Tát-đoả Giác.

Vấn nạn thứ tư: “Nếu lấy nghĩa Hiện lượng chỉ có nghĩa Sắc uẩn… là nghĩa Hiện lượng, thì Ngã không phải nghĩa Hiện lượng là không đúng lý”, vì Nghĩa tức là Cảnh. Tông kia kế chấp Ngã không phải Cảnh hiện lượng, nay nói Hiện cảnh là lập ra để ngăn phá. Chỉ có năm Uẩn là Hiện lượng nghĩa, kia đây cộng thành, Ngã không phải nghĩa là Hiện. Tông của ông tự thuật, nay nói Hiện cảnh mới là trái với tông. “Giác này nếu lấy Cảnh tỷ lượng”, là Giác của Ngã này, nếu khởi trên trẻ con, thì Giác kia chưa có thể tư duy, không thể suy tỷ độ lượng, không nên xem thường Ngã giác được sinh. Lượng rằng: “Ngã giác của trẻ con đáng lẽ không được sinh, vì không có tư duy độ lượng, như con của gái đá”. Tổng lập Lượng rằng: “Ngã của ông đều không phải cảnh của Hiện lượng và Tỷ lượng, vì không có cùng Dụ, như sừng thỏ”.

Từ trên đến đây, bốn đoạn văn Bất giác đặt vấn nạn trước đã xong, từ đây trở xuống, Tư giác thứ hai.

Đặt vấn nạn thứ nhất, có năm chữ “lại nữa”, tức là có năm đoạn. Số luận chấp Ngã thể chỉ có Thọ; Thắng luận chấp Ngã thông với Tác thọ. Dưới đây là phá tác dụng, tùy nghĩa nên hiểu.

Vấn nạn thứ hai: “Nếu Vô thường thì Thể của nhân Sở tác này là biến dị chấp có Ngã…”, Sở tác có nghĩa là sinh; Thể của nhân Sở tác là Biến dị. Pháp của Vô thường, Ngã là Tác giả, vẫn nói Hữu thường nhưng mà có Sở tác, không xứng đạo lý. Hiển Dương luận ghi: “chấp Ngã có Sở tác, không xứng đạo lý, không nói Hữu thường”. Hiện tại chỉ nói chấp Ngã là Hữu. Hữu thông với hai nghĩa:

  1. Hữu thường.
  2. Hữu sở tác.

Thường thì Lượng rằng: “Ngã đáng lẽ không phải thường có, vì có Sở tác, như đất thô. Nếu là Thường, thì Ngã đáng lẽ không có Sở tác, vì là Thường, như hư không”. Thường là chánh vấn nạn, Vô thường là thiết lập ngăn phá.

Vấn nạn thứ ba: “Ngã có động tác…”, là của Số luận và Thắng luận. Ngã không có động tác, vì khắp hư không, ra khỏi mọi sự trói buộc. chấp Ngã có động tác, vì không khắp hư không. Nghĩa của Tác tuy đồng, nhưng nghĩa của Động thì khác. “Ngã có động tác là có Sở tác…”, là Thường tác, không phải tạo tác lại, vì Ngã thường có. Hằng động thường tác không phải hiện nay mới tạo tác, không phải tạo tác lại. Lượng rằng: “Ngã động của ông chưa tạo tác thì nên trước hết tạo tác, vì hằng động tác, như Sở tác hiện tại. Ngã không có động tác thì đáng lẽ không có Sở tác, vì không có động tác, như hư không”.

Vấn nạn thứ tư: Hoặc có Nhân tác mà nói Ngã tác, thì liền trái với tự tông. Hoặc không có Nhân tác thì Ngã đáng lẽ là Hằng tác, vì Ngã luôn hằng hữu, khỏi phải chờ nhân. Lượng rằng: “Ngoài tất cả sự khác, khi chưa tạo tác sự này, cũng hằng nên tạo tác, vì chấp Ngã hằng hữu không chờ nhân, như khi hiện tại tạo tác”.

– Trong “Uẩn giả thiết vấn nạn”, phân làm hai đoạn:

  1. Trình bày bốn kế chấp.
  2. Trình bày riêng quở trách.

Bốn kế chấp: Thứ nhất là kế chấp Uẩn, ba kế chấp sau là Dị uẩn. Trong ba Dị uẩn: Ngã thứ nhất, Dị uẩn trụ trong Uẩn; Ngã thứ hai, Dị uẩn trụ ngoài Uẩn, Ngã vẫn thuộc Uẩn, đây là Ngã của Sắc cho đến Ngã của Thức; Ngã thứ ba, trụ ngoài Uẩn nhưng không thuộc Uẩn.

Phá kế chấp thứ hai: Vấn nạn trong Thường, có bốn Phá. Phá thứ ba: “Nếu là pháp không sinh khởi và Phi pháp, thì đáng lẽ các Uẩn thân rốt ráo không khởi”, nếu Ngã là pháp chẳng tạo và Phi pháp, thì Uẩn đáng lẽ không có, vì không có nhân. Lượng rằng: “Đáng lẽ Uẩn sau rốt ráo không sinh, vì chấp Ngã không khởi pháp và Phi pháp, cũng như sừng thỏ”. Lại nữa, đáng lẽ không do công dụng Ngã thường giải thoát, vì là pháp không sinh khởi và Phi pháp. Lượng rằng: “Ngã của ông tại sinh tử không do công dụng thì đáng lẽ thành giải thoát, vì không tạo pháp và Phi pháp, như Niết-bàn vị”. Lại nói Ngã khi chứng đắc Niếtbàn, vì lìa nhiều trói buộc gọi là giải thoát, trong sinh tử liền có trói buộc. “Lại nữa, Ngã này sau khi diệt hoại, đối với các chỗ khác không tạo tác mà bị lỗi lớn…”, là Ngã vô thường diệt, nghiệp cũng tùy theo không có, các quả sau sinh Vô Nhân mà có, đó là không tạo tác mà bị lỗi. Hiện tại Phật pháp của tôi từng sát-na diệt, tùy trong Bản thức mà sát-na trước diệt, sát-na sau sinh, quả do Nhân mà khởi, Ngã của ông không có huân tập, khi Ngã diệt thì nghiệp mất, quả sau không có Nhân cho nên thành lỗi lớn. Lượng rằng: “Ngã của ông đã diệt, sau đó có quả đáng lẽ không sinh, vì không có Nhân, như sừng thỏ”.

Phá kế chấp thứ ba, “nếu ngoài Uẩn, thì kế chấp Ngã của các chỗ khác và chỗ của ông đáng lẽ là Vô vi”, vấn nạn này giống như lỗi chợt giúp nhau thành tựu, vì người kia cho là Thường, hiện tại luận này không có lỗi. Quyển ghi: “Không có Biến dị, thì đó là tướng Thường của nó, Ngã đã không có Biến dị, thì tương lai và hiện tại có hai nhân duyên, đều không xứng lý”. Nếu tương lai không có Biến dị, thì không có sinh già bệnh chết tổn hại…, làm trời người… lưu chuyển trong năm đường; nếu hiện tại Thế không có Biến dị, thì trong các cảnh giới Ái và Phi ái, đáng lẽ không có chỗ Biến dị của Khổ, Lạc, Ái, Khuể, Si, cho đến không đáng do những thứ này mà tu hành pháp và Phi pháp. Ngã đã có hiện tại và tương lai Biến dị, thì tức là Vô thường, Thể tức là Uẩn, cho nên thật Uẩn có thì không có tướng này, vì tướng này không có thì đáng lẽ là Vô vi; nếu là Vô vi thì không có tướng Biến dị này. Lượng rằng: “Ngã thọ uẩn của ông đáng lẽ không có các tướng Biến dị này, vì thừa nhận Vô vi, cũng như hư không”. Đây là nói “đáng lẽ là Vô vi”, là để hiển Ngã đáng lẽ không có nghĩa của tướng Biến dị. Hoặc trong đây có ý vấn nạn thành hư không: “Ngã của ông đáng lẽ là hư không Vô vi, vì thừa nhận Dị uẩn, như Hư không Vô vi, Chân như của nó, không phải quyết định là Dị uẩn”, không có lỗi Bất định.

Phá kế chấp thứ tư: “đáng lẽ không có nhiễm ô”, quyển ghi: “Nếu không có Uẩn thì liền không có Sắc cùng với Thân tương ưng, cho đến cũng không phải thọ dụng, cảnh giới, phân biệt ý tương ưng, đã không có năm thứ này thì không do công dụng mà Ngã đáng lẽ được giải thoát, vì không có nhiễm ô”. Lại nữa, Ngã và thân không nên tương thuộc lẫn nhau. Lượng rằng: “Ngã đáng lẽ không có nhiễm ô thì mặc tình tùy ý giải thoát. Lại nữa, đáng lẽ không nói Ngã có Sắc… vì kế chấp Dị uẩn, không phải Uẩn, như hư không”. Người kia kế chấp thật Ngã tuy không thuộc Uẩn, nhưng vẫn nói Ngã có Sắc… cho nên thành lập vấn nạn này, nếu không như thế thì lại có lỗi giúp nhau mà thành. “Không nên tương thuộc”, là nghĩa Ngã có Sắc… không phải nghĩa nhiếp thuộc.

– Vấn nạn thứ tư trong lập Hữu có hai đoạn:

  1. Nêu hai trình bày.
  2. Tùy trình bày giải thích riêng.

– Trong phần đầu lại có hai đoạn:

  1. Nêu hai môn.
  2. Tùy giải thích riêng.

Đây là trong vấn nạn Tư giác có Ngã, đã thật biết có Ngã.

– Trong giải thích môn thứ hai, lại phân làm hai đoạn:

  1. Nêu hai môn.
  2. Tùy giải thích riêng.

– Hai môn:

  1. Nghiệp sở thành.
  2. Tư cụ bị Ngã chấp.

– Trong nghiệp có năm phần:

1. Vấn nạn như Chủng tử, vì cận Sở tác cho nên đáng lẽ Vô thường.

2. Vấn nạn như thợ gốm, vì khác Thể mà thành cho nên đáng lẽ Phi thường.

3. Vấn nạn như thần thông, vì có tự tại, đáng lẽ không có sinh khởi Địa ngục, tham, sân.

4. Vấn nạn như Địa, vì Vô tác và Sở y hiển rõ nghiệp.

5. Vấn nạn như hư không, vì Sắc không có giả lập, không có nghiệp dụng.

“Nếu là tư cụ bị Ngã sở chấp, hoặc nói như lưỡi liềm…”, câu này có ý nói, lưỡi liềm không phải chỉ có thể cắt đứt các vật khác, ngoài liềm ra cũng còn có dao cũng có thể cắt đứt như lưỡi liềm. Lìa ngoài Kiến ra, trên các vật khác riêng có Năng kiến, dụng của Năng kiến, nhất định không nắm bắt được, cho nên lìa ngoài Kiến ra không có riêng Ngã mà chấp Kiến. Lại nữa, giải thích không phải chỉ lưỡi liềm có thể cắt đứt vật, lại có các vật khác có thể đoạn đứt vật, lìa nghiệp Biệt kiến ngoài Kiến ra cho nên không có Ngã. Giải thích này có hơi xa, Dụ không tương tợ, cho nên khó thấy tư cụ của Ngã sở chấp.

“Như lửa của thế gian tuy có thể thiêu đốt, nhưng cũng được làm Năng thiêu”, nghĩa là người làm Năng thiêu, lửa làm Sở thiêu, Thể của Năng thiêu, lửa lìa người, vì tự có thể thiêu cháy vật. Sự thấy vật của Kiến… lìa Năng kiến của tự nó, thì đâu cần nhờ đến Ngã? Hai lối so sánh này cứ theo đó mà tư duy thì có thể hiểu.

Từ trên đến đây hợp chung vấn nạn ngay các tướng bị người thấy triển chuyển tương sinh. Từ đây xuống mới là vấn nạn tướng lìa Kiến. Trong vấn nạn thứ sáu sinh tử và Niết-bàn, “Tướng lưu chuyển này trong các Hành có thể đắc, như đối với thân, ngà, sông, đèn, xe…”, câu này có ý nói, như sự lưu chuyển trong hành vi của thân có thể đắc, pháp bên ngoài thân như ngà, sông, đèn, xe… tuy không có Ngã nhưng cũng được lưu chuyển, cho nên thân lưu chuyển thì đâu cần gì có Ngã. Lượng rằng: “Nội thân lưu chuyển quyết định không có Ngã, như răng, sông, đèn, xe…”.

Trong vấn nạn bảy Tác thọ giải thoát, “nếu là Ngã thì Ngã đáng lẽ Vô thường”, các Thọ giả, Tác giả kia không phải là các Hành, tức là Ngã, thì Ngã đáng lẽ Vô thường, vì có Tác dụng, như tay chân. Hoặc không có Biến dị thì không phải Thọ giả, vì không có Biến dị, như hư không.

– Trong vấn nạn mười Thi thiết của Chúng kiến có ba đoạn:

  1. Vấn nạn thiện và bất thiện của Ngã kiến.
  2. Vấn nạn thiện và bất thiện của Vô ngã kiến.
  3. Vấn nạn Ngã và Ngã kiến cho là Ngã tà.

– Ngã kiến có hai thứ:

  1. chấp Ngã kiến, kia nói là Điên đảo.
  2. Duyên Ngã tuệ, kia nói là Phi đảo.

Hiện tại hỏi cả hai rằng, thứ nhất vấn nạn thiện hay là hỏi duyên Ngã tuệ? Lượng rằng: “Tuệ của Duyên ngã cũng đáng lẽ là điên đảo, vì duyên Ngã tuệ, như chấp Ngã kiến”. Hoặc vấn nạn chấp Ngã kiến. “Nếu là thiện”, như văn có thể biết. “Nếu là bất thiện, thì không nên nói chánh và Phi điên đảo”, Kiến đã bất thiện thì đáng lẽ không phải thuận Cảnh. Thế nào gọi là chánh? Ngã có xứng tâm duyên khởi Ngã giác, Ngã của Sở chấp nói là Phi điên đảo. Duy Thức trình bày điều đó rằng: “Nếu như thế thì tại sao chấp Hữu ngã, là chỗ tin chí giáo, đều là hủy báng Ngã kiến, khen ngợi Vô ngã…” cho đến rộng nói. Cho nên hiện tại hỏi Kiến của Vô ngã kia, “nếu nói là thiện”, ngoại đạo cũng khen Vô ngã kiến, “nếu nói bất thiện mà Nhất thiết trí”, đây là từ các sư kia gọi là Nhất thiết trí, tán thán Vô ngã kiến tốc chứng Niết-bàn, hiện tại nói bất thiện là không đúng đạo lý. “Nếu nói Phật là Nhất thiết trí”, là tán thán Vô ngã kiến mà người khác không tin.

Trong “Thường luận thứ năm”, văn cũng có năm đoạn, Ngã và thế gian đều là Thường trụ…”, thế gian có hai thứ:

  1. Năm Uẩn thế gian.
  2. Quốc độ thế gian.

Số luận sư cho rằng cả hai đều là Thường trụ, hoặc tùy chỗ thích ứng. Kế chấp của các sư khác, Ngã là Tự ngã; thế gian là Tha ngã. Dưới đây, pháp của các Thường luận đều dựa vào kế chấp này. Tác giả có hai thứ:

  1. Tự tác, là Túc tác nhân.
  2. Tha tác, là Không tác, Thời tác, Phương tác, Ngã tác và Bản tế tác.

Đây không phải là hai Tác giả tác, gọi là Phi tác giả tác. Cũng không phải Tự tại thiên và Phạm vương, Sở biến hóa của bậc Biến Hóa gọi là Hóa của bậc Phi hoa. Đây là y theo quyển 8 giải thích. Do Tánh thường cho nên không thể tổn hại, như núi đất tích tụ mà trụ.

“Y-sư-ca”, Ấn Độ có hai giải thích:

1. Gần thành Vương xá, có hòn núi cao lớn, cứng chắc thường trụ, Ngã cũng như thế.

2. Hoặc lại có loài cỏ, gọi là Y-sư-ca, thể tánh cứng chắc, cho nên thí dụ cho Ngã.

Trong sáu mươi hai Kiến, có bốn mươi Kiến là Thường kiến, là bốn Nhất thiết thường, bốn Nhất phần thường, tám Hữu tưởng, tám Vô tưởng, mười sáu Phi tưởng Phi phi tưởng, đều được kể là Thể tánh Cực vi Thường trụ. Thắng luận và Thuận Thế đều có kế chấp này. Trình bày chấp có hai đoạn: 1. Trình bày Sở nhân của bốn mươi Thường kiến. 2. Trình bày nguyên nhân Cực vi Chấp thường. Sáu mươi hai Kiến như quyển này, quyển 8, 8 phần sau, Hiển Dương luận quyển 9, 10, Đối Pháp luận quyển 1, Duy Thức quyển và Biệt chương giải thích. Kinh Phạm Võng, kinh Lục Thập Nhị Kiến và Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm là nghĩa của Chánh lượng bộ. Phẩm Phạm Động trong kinh Trường A-hàm, là nghĩa của Đại chúng bộ. Đại Tỳ-bà-sa quyển 199, 200, là nghĩa của Nhất thiết hữu bộ, không phải là chỗ tông của luận này. Kinh Đại Phẩm quyển 1, Đại Trí Độ luận, nói Thân kiến và Biên kiến cho là Căn bản, năm Uẩn mỗi mỗi đều có bốn Ngã sở Kiến, ba đời mỗi mỗi đều thành hai mươi câu, gồm chung lại có sáu mươi hai Kiến. Tùy cơ mà nói riêng, ở đây không nói rõ, sợ dài dòng nên không thuật.

“Y theo Tĩnh lự ba bậc hạ trung thượng”, đây luận về bốn Nhất thiết thường. Quyển 8 ghi: “Nói rằng trong kế chấp Tam Thường luận của tiền tế, do thanh tịnh sai biệt của thượng trung hạ, mỗi mỗi đều Túc trụ tùy niệm Câu hành”. Có ý hiển:

1. Y theo Định hạ phẩm mà khởi Túc trụ niệm, biết quá khứ hai mươi Thành kiếp.

2. Y theo Định trung phẩm nhớ bốn mươi Thành kiếp.

3. Y theo Định thượng phẩm nhớ tám mươi Thành kiếp, đều biết là Thường. Do chấp thế gian Không kiếp là ẩn, Hữu kiếp là hiển, không phải diệt hoại.

4. Y theo Thiên nhãn mà thấy đời hiện tại, không biết sinh diệt, hoặc thấy các Thức, đây diệt kia sinh không đoạn dứt. Thấy thô không phải tế mà chấp làm Thường. Thiên nhãn thì làm trước hết, mới thấy sinh tử hiện tại, là Tiền tế của vị lai. Trong đây ba chỗ y trước đều là nhớ quá khứ. Một chỗ y sau là trước hiện tại và vị lai, hợp lại gọi là Tiền tế. Trong các Kiến này, quá khứ gọi là Tiền tế, vị lai gọi là Hậu tế, hiện tại thì thông cả hai, vì mong chờ sai biệt.

“Hoặc thấy Phạm vương tùy ý thành lập”, là một phần Thường kiến. Phạm vương lập lời rằng: “Ngã (ta) là Thường, tử (con) là Vô thường”. Có người thờ phụng Phạm vương, tùy theo ý của Phạm vương mà lập đây là Vô thường, kia là Thường. Đó là một phần Thường kiến thứ nhất.

“Hoặc thấy bốn đại chủng biến dị”, là nghe Phạm vương lập đại chủng là Thường, tâm Vô thường, hoặc tâm Thường, đại chủng Vô thường, cùng với Nhẫn kia có thể gọi là một phần Thường kiến thứ hai. Một phần Thường kiến thứ ba là vui quên chết ở cõi trời sinh lại cõi này. Một phần Thường kiến thứ tư, là ý giận chết ở cõi trời sinh đến cõi này, chứng đắc Túc trụ thông, cả hai đều nhớ câu nói “ở cõi trời kia không có hai sự này”, cho nên là Thường trụ, ta có đến đây cho nên là Vô thường, gọi đó là một phần Thường kiến thứ ba và thứ tư. Trong đây nói nương vào Định mà chứng đắc Túc trụ niệm, vì nhớ pháp của cõi Sắc thù thắng mà kế chấp gọi là Kiến. Lược nói hai Kiến đầu, không nói hai Kiến sau.

Trong Kiến hậu tế, “đối với Tưởng và Thọ, tuy thấy sai biệt…”, là tuy thấy hai Thể của Thọ và Tưởng, nhưng Ngã sở sai biệt, thì không thấy Tự tướng sai biệt của hai Thể này, mà chấp làm Ngã sở. Ngã có Tưởng… ba mươi hai Kiến. “Nếu thấy chấp Ngã sở của tự tướng, hoặc không thấy tự tướng”, Hiển Dương luận quyển 9 ghi: “Không thấy tự tướng sai biệt của Ngã, là không thấy Ngã, đều không có tự tánh”. Chấp Tưởng và Thọ là Ngã có, thì Tưởng liền phát khởi ba mươi hai Kiến.

Ngã và các Thường kiến của thế gian sinh ra tám Hữu tưởng kiến và tám Vô tưởng kiến. “Trong Câu phi”, Hữu sắc… có bốn thứ, Hữu biên… có bốn thứ, Tiểu tưởng… có bốn thứ, hợp chung gọi là Tưởng. Hữu lạc… có bốn thứ hợp chung gọi là Thọ, phần sau sẽ hiểu.

Hữu tưởng, là trừ Vô tưởng thiên và Phi tưởng Phi phi tưởng thiên ra, còn lại tất cả Địa. Vô tưởng, là Vô tưởng thiên. Câu phi, là Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

“Kế chấp Hữu vi do Hữu quả trước tập khởi và ly tán mà thành Hữu quả trước hoại diệt”, là người kia kế chấp thật có thể tánh, Không kiếp làm đầu tiên, đến khi Thành kiếp thì Hữu quả tập khởi, cho nên ly tán và Thường cực vi tập hợp thành thô. Đến khi Hoại kiếp, thì thô tụ tập nhiều sắc ly tán làm đầu, có bốn Đại hoại diệt, trở lại chỉ có Cực vi. Khi trụ tại Không kiếp, thì Không kiếp kia do Túc trụ tùy niệm, thấy cuối cùng Hoại kiếp thì thô sắc thành vi trần tan ra, bắt đầu làm Thành kiếp thì vi trần tan ra trở thành Tụ sắc; hoặc thấy các Cực vi Huýnh sắc của Không kiếp mà chấp làm Thường. Đây là Thắng luận sư chấp tế là Thường, thô là Vô thường.

– Phá chấp có hai phần:

  1. Phá.
  2. Tổng kết.

Trong Phá, thì trước hết phá ba mươi hai Kiến, sau đó phá Cực vi. Trong phần đầu lại có bốn phần. Trong Phá thứ hai, “nếu lấy Ngã là ức niệm quá khứ có các Danh như vậy, các loại hữu tình như vậy…”, là hữu tình chứng đắc Túc trụ tùy niệm, nhớ lại “Ta xưa kia tên họ như vậy, tên họ đã không phải Thể của ta, vậy tại sao nói niệm nắm lấy Ngã mà sinh?”

Vấn nạn thứ ba: “Duyên kia hiện tiền khi ba hoà hợp Sắc, Cảnh, Nhãn thức khởi”, trong đây có ý hỏi rằng: khi Nhãn thức hiện đang duyên Sắc, thì Trụ từ trước đến nay đã từng khởi các Nhĩ thức… thì pháp là diệt hay là chuyển? Nếu nói chuyển, thì đối với trăm ngàn Cảnh và Thức đã từng khởi, chỉ do một cảnh giới Sắc trong hiện tại này nương vào tất cả Thời mà lập, các Thức kia cùng khởi thì liền trái chánh lý!

Phá thứ tư nói: “Ngã của chỗ bị chấp, do Sở tác của Tưởng và Sở tác của Thọ…”, trong đây có ý muốn hiển hai pháp Tưởng và Thọ đều làm Ngã sở, do hai thứ này kích tác đối với Ngã, có khi Ngã chỉ có một nhóm Tưởng, cho nên hai thứ Tưởng và Thọ gọi là Năng tác, Ngã làm Sở tác, như tài vật thế gian kích động hữu tình, hữu tình có khi duyên ít tài vật mà sinh tham sân si… Tưởng và Thọ kích tác đối với Ngã cũng như vậy, 138 không phải Ngã không bị Tưởng và Thọ kích tác trước mới có nghĩa.

“Nếu nói không có”, là đã có một Tưởng rồi. “Các thứ Tưởng sau…”, từ đây trở xuống hợp chung vấn nạn Tưởng và Thọ kích tác Ngã không có nghĩa Biến dị. Lấy mười sáu Kiến của Hữu tưởng đặt làm vấn nạn, mười hai Kiến tưởng làm bốn Kiến. Thọ làm một Tưởng, như quyển 8 ghi: “Chủng chủng Tưởng tại Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, là các Tưởng nhỏ hẹp tại các Địa dưới, tức là Chủng chủng tưởng; Vô lượng Tưởng tức là một Tưởng”. Vô sở hữu xứ cũng là một Tưởng, chư không phải vô Tưởng, vì lược bớt cho nên không nói.

Lại chấp ít Sắc làm Ngã, Tưởng làm Ngã sở, Tưởng cùng với các Tưởng sau hợp chung làm Thiểu tưởng, Địa hẹp thì Tưởng nhỏ ít, gọi là Chủng chủng Tưởng; Vô lượng Tưởng tức là một Tưởng; Vô sở hữu xứ cũng là một Tưởng, vì lược bớt cho nên không nói.

Lại nữa, chấp ít Sắc làm Ngã, Tưởng làm Ngã sở, Tưởng cùng với các Tưởng sau hợp chung làm Thiểu tưởng, là chỗ Du-già nói “Tại Chủng chủng tưởng địa”. Chấp vô lượng Sắc làm Ngã, Tưởng làm Ngã sở, gọi là Vô lượng Tưởng, là Du-già nói “tại nơi một Tưởng”. Nhưng quyển 8 ghi: “Như thứ tự đó thì hai Tưởng trước có hai Tưởng sau, nhưng nghịch thứ tự không phải thuận thứ tự, nên suy tìm nghĩa lý”. Đây là vấn nạn Sở tác của Tưởng trước không có Biến dị, Ngã thuần có Lạc… Quyển 8 ghi: “Có Lạc thì trong ba Tĩnh lự dưới; có Khổ thì tại Nại-lạc-ca; có Khổ có Lạc thì tại Quỷ, Bàng sinh, Nhân, chư thiên cõi Dục; Không khổ không lạc thì tại Đệ tứ tĩnh lự trở lên các Địa”. Đây là vấn nạn Sở tác của Thọ trước không có biến dị, cũng là tám câu trong phần luận về Tưởng.

“Lại nữa, nếu chấp mạng tức là thân” trở xuống, là nương theo vấn nạn Tưởng và Tác, liền thuyết minh Ngã, Hữu sắc… trong Hữu tưởng luận, sau khi chết thì có Tưởng…, còn tám câu khác nữa, lấy chỗ trình bày chấp ở trước, vì đối với Tưởng và Thọ đều khởi chấp. Mạng là Ngã. Chấp Ngã có Sắc, sau khi chết sinh vào Hữu tưởng địa; chấp Ngã không phải Sắc, sau khi chết sinh vào Hữu tưởng địa; hoặc chấp Ngã đều là Sắc, Phi sắc, không hai, không thiếu. Do đó là chấp Ngã cũng Sắc cũng Phi sắc, sau khi chết sinh vào Hữu tưởng địa. Để làm chuẩn cho câu thứ ba này, nói câu thứ tư là Ngã phi sắc Phi phi sắc, sau khi chết sinh vào Hữu tưởng địa. Lại nữa, hoặc thấy chút ít Sắc, chút ít Phi sắc, đó là chấp Ngã có biên giới, chấp Sắc và Phi sắc cả hai đều là Ngã, vì chỉ thấy chút ít, cho nên gọi là Hữu biên kiến, hai thứ Vô lượng kia liền khởi chấp Ngã là Vô biên kiến thứ hai. Ngã sắc thì ít nhỏ, Ngã phi sắc thì vô lượng, hoặc thấy ngược lại Ngã sắc thì vô lượng, Ngã phi sắc thì vô lượng, liền chấp Ngã thứ ba cũng Hữu biên cũng Vô biên. Nên biết câu thứ tư thì ngược lại điều này, văn khác mà nghĩa đồng, lại càng không có lý riêng. Hoặc ngược lại câu thứ ba riêng có tự thể, là chứng đắc Ngã Niết-bàn giải thoát, xa lìa hai thứ gọi là không phải Hữu biên và không phải Vô biên, sau khi chết thì bốn thứ này trước hết đều sinh Hữu tưởng địa, cho nên mười sáu bài luận hợp chung vấn nạn nghĩa Ngã thể Sở tác không biến dị của Tưởng và Thọ. Nếu không có biến dị thì tại sao có biến dị bất đồng? Chỉ vấn nạn hai chỗ biến dị Tưởng và Thọ, Vô tưởng đều không phải cho nên lược bớt không nói.

Câu thứ hai và câu thứ tư sau, cùng với câu thứ tám của Vô tưởng và câu thứ tám của Câu phi, có hai đoạn: Đoạn thứ nhất, chỗ chấp Ngã thì đồng, chỉ là sau khi chết, như chỗ nói trước, Sinh địa có khác, nhưng không khác nhiều lắm cho nên lược bỏ không nói. Đoạn thứ hai, trong phá Cực vi có năm thứ: 1. Nếu đã quán sát trái nghịch các Lượng, thì Hiện lượng và Tỷ lượng là chỗ không thể được, cho nên cũng như sừng thỏ, quyết định không phải thật có. Tông kia tuy chấp chỗ chứng đắc của Hiện lượng, nhưng tông này thì nói không phải huýnh sắc của Không kiếp, chỉ có A-noa (cực vi) trở lên thô sắc, thì Hiện lượng có thể đắc, vì không phải Cực vi. Tiểu thừa tuy nói hai Hiện lượng của Luân vương và Thiên nhãn, nhưng không phải tôi thừa nhận, vì hư cấu mà thành.

Vấn nạn thứ hai nói: “Chuyển lại yếu kém mà nói là Thường thì không đúng lý”. Lượng rằng: “Cực vi chuyển nhỏ, đáng lẽ không phải là Thường, vì tổn giảm suy yếu, như sắc A-noa họ chấp sắc thô tổn giảm vô thường”. Nếu do dị tướng thì đó là Cực vi vượt qua tướng của đất nước, tức là vật thô đáng lẽ phải là Cực vi của đất nước, nhưng mà không phải thừa nhận là dị tướng. Lượng rằng: “Cực vi đáng lẽ không phải tướng đất nước… vì thừa nhận tướng khác với Cực vi. Đất nước… như Tâm, Tâm sở, lại cũng không thể sinh quả của đất, nước… vì không phải chủng loại như Tâm, Tâm sở. Lại nữa, Cực vi kia lìa ngoài Địa, Thủy… thì càng không có tướng nào khác có thể quyết định được không phải là đất, nước… vì không phải các loại đó, như hư không… Hai vấn nạn trong đây đều là tông này, trong vấn nạn thứ ba nếu không khác tướng, là vì cùng với nhân kia không có sai biệt cho nên đáng lẽ phải là Thường. Người kia chấp rằng: “Chỗ sinh thô sắc không vượt qua Nhân lượng”. Vấn nạn hai tướng nhân quả đã không có sai biệt thì nhân đáng lẽ cũng phải là quả, vì không có khác tướng, như quả; quả cũng phải là nhân, vì không khác tướng, như nhân, cho nên không có quyết định.

Nếu từ ly tán thì đáng lẽ tất cả thời tất cả quả đều sinh, lúc Thành kiếp, nếu Tụ sắc từ ly tán riêng khác Cực vi mà sinh, tức là chỗ có Cực vi lúc Không kiếp đều có thể sinh quả, vì nhân hằng Hữu. Như khi Kiếp thành, không phải chỉ khi thành là nhân có quả, cho nên thành nhân quả bốn nghĩa quyết định. Lại nữa, tánh của Sắc thô tụ là Vô thường, có thể sinh, Thể của Tán cực vi là Thường trụ, Thường trụ của thô và tế cả hai trái nghịch nhau mà sinh, đáng lẽ tất cả thời, nhân trái nhau mà sinh tất cả quả, cho nên nói là phải không có nhân quả quyết định. Kế chấp pháp Dị loại được tương sinh cho nên từ đây trở lên là thiết lập để ngăn, từ đây trở xuống là phá kế chấp này. Nếu nói không vượt quá hình chất lượng kia, thì hai lượng lớn nhỏ của nhân quả đã đồng, thì làm sao có tên Cực vi gọi là phần Chất, có phần của hình thô? Thành Duy Thức cho rằng: “Chỗ sinh quả của Sắc không vượt qua Nhân lượng, đáng lẽ giống như Cực vi mà không gọi là thô sắc”. Lập Lượng cũng như luận kia, Hiển Dương luận quyển 1 ghi: “Nếu không vượt qua, thì thô chất chướng ngại vật đáng lẽ như Cực vi thì không thể nắm lấy, không thấy chất ngại, là vật không minh tịnh đồng tại một nơi cho nên không đúng đạo lý”. Luận kia nói, Lượng và Đức hợp chung cho nên không phải thô mà tợ thô, cho nên đều như luận kia phá. Nếu nói vượt quá, thì các Thể của các Cực vi không có phần tế, cho nên không thể phân tích nắm lấy sinh. Vật thô cũng đáng lẽ là Thường, vì Cực vi không thể phân tích, Hữu thể đã xứng với Thường, vật thô tuy vượt hơn Thể vốn có, thì cũng đáng lẽ là Thường. Hiển Dương luận quyển 1 ghi: “Nếu vượt quá lượng kia, thì chỗ quá lượng đó vật thô chất ngại không phải Cực vi làm thành, đáng lẽ là Thường trụ”. Ý này vấn nạn rằng: “Cực vi không có tế phần, không thể phân tích xứng với Thường, chỗ sinh vật thô quá lượng, thì các tế phần khác không thể phân tích, cũng đáng lẽ là Thường”. Lại còn vấn nạn thứ nhất và thứ hai là hợp chung chỗ sinh thô gọi là Cực vi, không phải vấn nạn các Hữu phần khác. Nếu chuyển cho rằng chỗ quá lượng một phần Cực vi của các tế phần khác, vốn không có hiện tại khởi, tức là chỗ chấp Cực vi làm Thường của ông là không đúng đạo lý, vì thừa nhận mới sinh. Hiển Dương ghi: “Nếu ông cho có các Cực vi khác sinh, thì Cực vi đó đáng lẽ không phải Thường trụ, hoặc vật thô là Tánh của Tế cực vi mà được mới sinh. Vốn không có hiện tại khởi thì đáng lẽ tất cả Thể của Cực vi đều không phải Thường. Đây là vấn nạn lại nghĩa không quá lượng ở trước. Nghĩa quá lượng là chuyển chấp, không quá lượng là tông này. Từ trên đến đây hợp lại là đoạn Phá thứ ba, có chuyển ngăn trách, tìm văn có thể hiểu.

– Vấn nạn thứ tư, Hiển Dương luận có ba vấn nạn:

  1. Như Chủng tử phân rõ Thể sinh, đáng lẽ là Vô thường.
  2. Nếu như sữa tức là Thể sinh Cực vi, đáng lẽ là Biến dị.
  3. Nếu như thợ gốm, khác Thể sinh Cực vi, mệt nhọc ngay với tư lự này.

– Thành Duy Thức có hai vấn nạn:

  1. Vấn nạn Cực vi.
  2. Vấn nạn thô sắc.

– Cực vi có ba vấn nạn:

  1. Thật.
  2. Thường.
  3. Có thể sinh thô sắc.

– Có thể sinh thô sắc có hai vấn nạn:

  1. Không vượt quá lượng của nhân.
  2. Thật có.

Đều rộng nói như trong các luận đó.

Vấn nạn thứ năm, người nào lại đối với công năng đó trong lúc nhàn rỗi, người nào đối với Cực vi kia, công lực của hữu tình trong lúc nhàn rỗi không khiến cho sinh? So sánh thì có thể biết, nếu nói không nhờ hữu tình thì tức là vô dụng, ngoài vật mà sinh. Dụng là nguyên do, là chỗ ứng dụng. Đối với hữu tình không có dụng, là không do hữu tình mà ngoài vật sinh ra là không đúng lý. Lượng rằng: “Ngoại vật của các ông đáng lẽ không được sinh, vì không do hữu tình, cho nên tổn đối với Hữu nhân và Vô nhân, như lông rùa”.

Trong phần tổng kết thứ hai, có tám chữ “cho nên”, ba chữ đầu là kết phá bốn mươi Thường kiến, năm chữ sau kết phá Cực vi là Thường. Đoạn văn đầu có bốn chữ, không kết với chữ thứ nhất, vì làm ví dụ để phá dễ dàng, còn lại ba chữ lần lượt mỗi mỗi phối hợp với một chữ “lại nữa”. Kết Cực vi sau cùng, năm chữ “lại nữa” cũng vậy. “Bởi vì Cộng tướng” là kết nghĩa Thường ở trước, vì Thường và Vô thường là Cộng tướng. “Bởi vì tự tướng” là tổng kết tướng dị và bất dị. Tự thể Cực vi, tướng và quả, Dị và Bất dị, cho nên gọi là Tự tướng.

Trong phần “mở chánh nghĩa thứ năm”, tất cả thời, là đối với Thời của ba đời. Tất cả Chủng tử, là trong tất cả Hữu vi chủng loại sai biệt. “Tự nhiên” là bản tánh. “Do tha” là vì người khác. “Vật hoại không sinh” là không có khởi tạo tác. Trong năm thứ này không có biến, không có động, mới gọi là Thường. Chỗ kế chấp ở trước của người kia đã trái với năm thứ này, biết rõ Vô thường, không nên vọng chấp.

BẢN LUẬN 7

Trong “Túc tác nhân”, văn có năm đoạn, rộng nói như trong kinh, là như nói: “Phàm tất cả Sĩ phu Bổ-đặc-già-la của các thế gian, chỗ thọ đều do Túc Tác làm nhân, do siêng năng và tinh tấn mà tiêu trừ nghiệp cũ, hiện tại nghiệp mới do không bị hại của Tác nhân, như vậy về sau không bị Hữu lậu trở lại, do Vô lậu cho nên nghiệp hết, do nghiệp hết cho nên Khổ tận, do Khổ tận cho nên được chứng Khổ biên. Những câu này đều là văn gốc trong kinh Phật. Đoạn văn trình bày tông kia, hiện tại trong luận này hợp chung làm tám câu, nhưng tản mác các đoạn văn giải thích, phải tìm văn này để biết ý luận. Hiện tại nghiệp mới do chỗ hại của Bất tác nhân, là Khổ hạnh của ác nghiệp đời trước, liền trừ ác nghiệp mới hiện tại, do không tạo tác, cái hại đó không khởi, hai nghiệp đã tận thì về sau không có Hữu lậu, vì thuần là thiện cho nên nói về sau Vô lậu. Do nghiệp tận cho nên Khổ tận, là chỗ làm của Tác nhân đời trước và phương tiện của Hiện pháp. Chỗ chiêu cảm khổ não, là khổ não hiện tại đều do Tác nhân đời trước, hiện tại làm ác không chiêu cảm khổ hiện đời, là do sức phương tiện làm ác hiện tại mà nghiệp liền thành thục, cho nên luận nói đến Hiện pháp phương tiện không phải là ác hiện tại riêng chiêu cảm khổ hiện tại. Vô tàm ngoại đạo, tức là Nikiền-đà-phất-đát-la. Thành Duy Thức ghi: “Vô tàm ngoại đạo là Ly hệ tử, loã thể khổ hạnh, lìa các trói buộc, ngoại hình đã như vậy, thì bên trong cũng vậy. Nếu dùng Túc tác làm nhân, thì chỗ nói đầu tiên của ông là do siêng năng tinh tấn mà trừ nghiệp cũ. Chữ “đẳng” trong đây có ý nói tất cả ác nhân đều là Túc tác”. Tại sao nói hiện tại nghiệp mới do chỗ hại… của Bất tác nhân? Vì nghiệp mới cũng làm ác không phải là Túc tác. Lượng rằng: “Hiện tại ác nhân đối với thân này có thể chiêu khổ, vì ác nhân nhiếp, như ác nhân đời trước”. Hoặc lại có chỗ sinh… của Khổ tạp nhân, là nhờ thiện nghiệp trước kia mà được hầu cận quân vương, tà sự làm nhân thì chiêu khổ ngược lại, quả của hai nghiệp đã chín cho nên gọi là Tạp nhân, không phải hai nghiệp cùng chiêu một quả; hoặc là nghiệp cũ phải chiêu khổ não, vì tà niệm hầu cận quân vương, nghiệp cũ liền thành thục, gọi là Tạp nghiệp. Như phụng sự đối với vua như vậy, do các nghiệp ngôn thuyết, thương mại… nếu trước kia tạo thiện nghiệp thì phải được giàu có tài sản, nói dối mà được châu báu, hai nghiệp đồng thời thành thục, gọi đó là Tạp nhân. Như vậy do trước kia đạt được tài sản thiện nghiệp, thì hôm nay lẻ ra thành thục giả hiện làm nông nghiệp, hoặc giả làm cướp trộm, hoặc giả làm đồ tể mà liền được giàu vui cũng gọi là Tạp nghiệp. Có người tuy có nghiệp thương mại… cho đến đồ tể, mà không được giàu có, là vì trước kia không tạo được quả phước thiện, như chỗ tạo các nghiệp mới, dẫn vào Hữu nghiệp khác, tức là thuận theo hiện tại mà thọ nghiệp. Nuôi dưỡng cha mẹ… cho đến công xảo nghiệp mà hiện tại đạt được châu báu đều toàn là nghiệp hiện tại.

Trong “Tự tại đẳng tác”, văn có bốn đoạn, trình bày Sĩ phu trong tông, tức là Bổ-đặc-già-la trượng phu, tức là Thần ngã, vì có thể tạo tác. Tự tại đẳng, Tự tại tức là Đại tự tại thiên… là chỗ nói trong Tụng của Duy Thức: “Thời, Phương, Bản tế, hư không, Ngã… của Đại phạm”. Công năng không có Thể tánh, là vấn nạn lý của công năng kia không thành thục, gọi là không có Thể tánh. Hiển Dương luận quyển 1 lại có Chuyển kế, văn dài nên không thuật ra. Nếu hữu dụng thì dụng đó không tự tại, nhưng đối với thế gian thì có tự tại. Dụng là tự tại, là chỗ tác dụng cần thiết. Lại như trời người có Diệu dục, có thể nói là hữu dụng, đối với ba đường ác… các dụng cụ vô dụng, những thứ này hiện tiền. Như thế nào là tự tại? Vì đối với Địa ngục… không cần tự tại hiện tiền. Nếu vô dụng, thì đối với Tự tại thiên đều không có chỗ cần thiết, sinh thế gian thì đó là Tự tại, nhưng có lỗi si cuồng, ngu xuẩn, cho nên không phải đạo lý. Nếu người chỉ dùng Đại tự tại làm nhân, thì Đại tự tại thiên đã có từ vô thỉ, tuy ra khỏi Sở sinh nhưng pháp cũng không phải mới thành, không phải Tự tại thiên có thể sinh các pháp, như hai sừng của con trâu đồng thời sinh ra, một quả một nhân thì liền trái chánh lý, cho nên Hiển Dương quyển 1 ghi: “Như Thể của Tự tại xưa nay thường có, thế gian cũng vậy, không nên sinh trở lại vì đồng thời có cho nên vô dụng mới sinh”. Nếu nói cũng lấy các Thiên khác làm nhân, thì nhân này bất khả đắc, Hiện lượng và Tỷ lượng cùng với nhân này không có, như sừng thỏ, cho nên không có riêng. Có khi khởi thiện hoặc bất thiện, có khi có Lạc dục, hoặc có khi không có Lạc dục, cho nên không phải Tự tại. “Giả sử có nhân” trong Hiển Dương luận quyển 1 ghi: “Nếu cũng nói ít chờ các nhân khác, là chỗ chờ nhân này, nếu không có nhân thì tất cả thế gian cũng phải như vậy, nếu có nhân khác thì thế gian cũng vậy, từ nhân khác mà sinh, đâu cần tự tại”. Luận đó lại có trình bày, sợ dài dòng cho nên không nói.

Trong “Hại làm chánh pháp”, văn có năm đoạn, đoạn thứ năm là mở Chánh nghĩa, còn lại bốn đoạn cũng như trước.

Năng tự, là người hay sát sinh cúng tế; chỗ hại, là chỗ dùng để tế tự; chỗ hại sinh mạng, là các Trợ bạn, những người trợ cúng tế. Nếu là pháp Tự thể, là lìa sát sinh kia thì không thể chiêu cảm được quả Sở ái của tự mình. Chú thuật sát sinh, nếu là chánh pháp thì phải lìa sát sinh, chú thuật này phải riêng nó có thể chiêu cảm quả Khả ái. Tự nó đã có thể chiêu cảm, thì đâu cần mượn sát sinh? Nếu lìa sát sinh là tự nó không thể chiêu cảm, thì làm sao chuyển sát sinh phi pháp kia để thành chánh pháp, tương lai cảm được sinh quả Khả ái. Nếu có thể dứt, là không có Xứ, không có Thời, không có một người nào… Nếu chú thuật sát sinh có thể dứt tham sân… là không thấy tất cả Xứ của mười phương, cũng không thấy tất cả Thời của ba đời. Có một người nọ dứt tham sân… thì lý và lượng đã không thấy, tại sao nói người đó có thể dứt trừ? Nội chú của Phật pháp, theo lý có thể dứt độc tham sân si. Nếu người hành khắp thì tự chỗ thân ái không dùng cúng tế trước, Chú này nếu giết khắp tất cả chỗ sinh. Hành pháp làm chánh pháp, là chỗ thân ái của ông, chỗ nào không trước hết sát sinh để cúng tế chư Thiên! Nếu không khắp, thì Chú có thể bất định vì trái với Tỷ lượng, hoặc có bất biến. Nếu chuyển nhân đối với quả không có công năng, là do Chú hành sát sinh, thì chỉ chiêu cảm nhân tội của chỗ sát sinh… không chiêu cảm quả tội. Lại nữa, Tỷ lượng chuyển và không chuyển trái nhau, nếu cũng chuyển quả thì đáng lẽ cũng như chuyển biến, do hành Chú sát sinh, trong tương lai có thể biến ác sắc của dê… khiến cho thành Diệu sắc, thì cũng đáng lẽ hiện tại do lực của Chú Thuật không giết hại mạng dê, tức là khiến cho chuyển đắc thân khả ái của chư Thiên, đâu cần mượn nhờ giết hại nó, sau đó khiến cho xả thân dê rồi mới lấy được thân chư Thiên? Điều này so sánh có thể biết.

Trong phần tổng kết có năm chữ “cố”: Nhân cố, là kết sự cố của pháp và phi pháp trước với nhân quả sau. Thí dụ cố, là kết thí dụ sự cố hàng phục Độc chú. Bất quyết định cố, là kết sự cố Biến và Bất biến. Hai chữ “cố” còn lại có thể hiểu. Hoặc tự chỗ không Dục của nghiệp, là tự không Dục lạc, chỉ vì người khác mà làm, gọi là phi pháp, Bồ-tát nếu xả bỏ thê tử, trước hiểu rõ sau mới chuyển xả thì không được bất thiện. Vua xả bỏ chú thuật, vì làm mà không thật, làm tổn người khác là Bất thiện. Nếu tự tánh của thân ngữ nghiệp Vô ký, thì Bất thiện tư duy phát sinh gọi là phi pháp; hoặc nói bàn nghiệp của tất cả tự tánh Vô ký không thuận đạo lý, gọi là phi pháp. Đoạn luận về Biên, Vô biên, văn cũng có bốn đoạn, đều dựa vào Tĩnh lự túc trụ thông, sau đó mới khởi Biên, Vô biên kiến này. Nếu dựa vào Biên tế đoạn mà mong cầu Biên tế thời gian của thế giới, thì đây là quán Hoại kiếp khi gián đoạn, không thấy Thành kiếp sau đó, thì liền khởi Biên tưởng, không phải Ngã sinh sau, cho nên không phải Biên kiến. Nếu khi thấy Thành kiếp mà không thấy Hoại kiếp thì khởi Vô biên tưởng. Nếu dựa vào mười phương chu biến mà rộng cầu thời gian, thì đối với các chỗ trên dưới mà thấy Cực biên tế, khởi cũng là Hữu biên tưởng, bên cạnh vận thần thông đến một hai ngàn cõi, không quá ba ngàn cõi nghĩa là đến vô biên khởi cũng không có biên tưởng, bởi thần cảnh trí thông của dị sinh không vượt quá ba ngàn cõi. Nay nói vô biên là chỉ vọng đến một, hai ngàn cõi, không vượt quá ba ngàn, cũng không được Biên tế. Quyển 8 nói cùng với đây không đồng, quyển đó ghi: “Nếu có khi ức niệm phần vị của Thành kiếp thì lúc đó liền sinh ba thứ vọng tưởng: Hoặc một mực nhớ nghĩ Biên tế trên dưới, trụ trong Hữu biên tưởng; hoặc một mực nhớ nghĩ bên cạnh Vô biên tế, trụ ở Vô biên tưởng; hoặc trên dưới bên cạnh cả hai đều song song khởi niệm cũng là Hữu biên tưởng cũng là Vô biên tưởng; hoặc có khi ức niệm phần vị của Hoại kiếp, mà khởi Phi hữu biên tưởng và Phi vô biên tưởng, vì các Khí thế gian là vô sở đắc, mỗi mỗi đều khởi lên một chấp, cũng không có trái nhau, đều là Biên và Vô biên này nhiếp.

Trong Phá, không phải thế gian trụ niệm biên của thế gian không đúng lý, là từ trước đã hoại, không có thế gian, liền nói là Biên, thì ngoại đạo của ông không trụ thế gian, vì không biết hiện tại có thế gian, vì trụ thế gian, trụ niệm thế gian cho nên không đúng đạo lý.

– Trong “không chết mà trị loạn” có ba đoạn:

  1. Trình bày chấp.
  2. Chỉ điểm kinh.
  3. Tổng kết lỗi.

– Trong trình bày chấp có ba đoạn:

  1. Nêu.
  2. Giải thích nghĩa không chết mà trị loạn.
  3. Trình bày bốn kế chấp.

Quyển 8 ghi: “Có hai Tịnh thiên: một là Bất thiện thanh tịnh, chỉ được Tịnh định; hai là Thiện thanh tịnh, là chứng đắc Thánh tịnh định.

Vô loạn cũng có hai thứ:

  1. Vô tướng vô phân biệt, tức là Thiện thanh tịnh thiên.
  2. Hữu tướng hữu phân biệt, tức là Bất thiện thanh tịnh thiên.

Thiện thanh tịnh thiên trong bất tử của tự nó, không có loạn mà chuyển, cho nên nói là Bất tử vô loạn. Thức đạt sự nghĩa không xứng với bất tử, vì cũng thật là Bất tử. Bất thiện tịnh thiên có nương vào Bất tử vô loạn ở trước, bị chất vấn liền nương vào sự khác, mà tránh chữ Kiểu loạn (trị loạn), tự mình cũng xưng là bất tử, vì Thiên không có loạn. Hiện tại trước chữ Kiểu thêm chữ bất tức là Bất tử bất kiểu loạn, bây giờ lại lược nói, chỉ gọi là Bất tử kiểu loạn, đều rộng như chữ Bất tử bất kiểu loạn kia, không phải chỉ tự xưng “chỗ phụng thờ chư Thiên của ta gọi là Bất tử”. Thuận thiên đáp vấn của Thiên gọi là câu đáp Vô loạn. Trong Phật pháp “thấy Thánh đế”, là Bất tử bất kiểu loạn môn, cho nên cũng gọi là Bất tử bất kiểu loạn. “Tăng thượng sinh đạo”, là Thắng nhân của trời người quyết định là Thắng đạo; Thắng nhân của Niết-bàn, thì bốn Đế là Cảnh của Thắng nhân này, nếu có ai nương vào đây mà hỏi, thì liền tự xưng rằng: “Bất tử loạn là chỗ phụng thờ Bất tử tịnh thiên của ta, ban lệnh cho ta, nếu có người đến hỏi thì không nên chánh đáp, nếu đáp thì lỗi sinh, chỉ nên tùy theo câu hỏi mà sinh ra câu đáp khác”.

– Trong trình bày kế chấp có hai đoạn:

  1. Lược nêu.
  2. Giải thích lại.

Y theo kinh A-hàm thì bốn câu hỏi đáp đều khác, ở đây thì đều đồng, nhưng Tình thì có khác:

  1. Chưa khai ngộ thì không thể chánh đáp.
  2. Cao mạn đối với sở chứng, là cho rằng Thắng đạo cho nên khinh miệt người khác mà không đáp.
  3. Tuy ít hiểu do chưa quyết định biết.
  4. Tánh chậm lụt yếu kém mà không thể chánh đáp.

Lại nữa, “kinh sợ vọng ngữ” trở xuống, giải thích lại câu hỏi trước, cùng với quyển 8 đồng. “Kinh sợ vọng ngữ”, là tự mình chưa khai ngộ, mà đáp cho người khác xứng chỗ hiểu của mình, cho nên thành vọng ngữ, nếu không xứng chỗ hiểu thì người khác biết ta là không hiểu biết.

Thứ hai, “đối với chỗ chứng của tự mình chưa chứng đắc mà không kinh sợ..”, là người đó khởi tư duy như vầy: “Ta đối với chỗ chứng chưa chứng đắc mà không kinh sợ, nếu người khác chất vấn, hoặc nói có, hoặc ghi chép sai khác, thì liền thành vọng ngữ. Nếu cho là thật có, hoặc thừa nhận không phải có, thì liền thành Tà kiến, không phải Tịnh thiên của ta, tất cả sự ẩn mật đều không thể ghi chép riêng, cho nên không thể phân minh mà nói có chỗ chứng”.

“Thứ ba, tuy ngộ mà chưa quyết định, sợ Tà kiến vọng ngữ, căn cứ theo đây mà biết. Ba loại trên đây là mượn Sự để giải thích Kiểu loạn”.

Thứ tư, là không biết thuận theo câu nói mà đáp nghịch lại câu hỏi, như hỏi rằng: “ông muốn gì?”, nếu thuận theo câu nói Kiểu loạn, thì câu đáp này đều là Tán vị, không phải nương vào Định tâm.

Phần tổng kết thì lấy Siểm khúc, (lời nói quanh co) thì thuận với Thiên kia, siểm nịnh tùy nhau mà đáp.

Trong “Vô nhân kiến”, văn cũng phân làm bốn đoạn, Kiến này thì có hai thứ:

  1. Nương Tĩnh lự.
  2. Nương Tầm tứ.

“Nương Tĩnh lự”, một là từ Vô tưởng thiên chết rồi sinh lại cõi này, chứng đắc Túc trụ thông, chỉ nhớ lại sự xuất tâm đó, không nhớ lại địa vị trước, vì không biết Vô tưởng thiên kia, liền chấp là không có nhân. “Nương Tầm tứ”, nghĩa là trong văn đã tự nói. “Hoặc nhớ nghĩ tự ngã, chấp Ngã trước kia không có, sau đó bất chợt mà sinh. Không đúng lý nghĩa là họ chấp Ngã là Thường, cho rằng không do nhân mà khởi, là trái với Thế pháp, vì tánh không có nhân của Thế pháp là chẳng phải Thường.

Trong phần “đoạn Kiến”, văn cũng có bốn đoạn, tức là luận về bảy Đoạn diệt: “Ngã có thô sắc, là thân Sở tạo của bốn Đại…”, đây là Đoạn sau khi chết thứ nhất, sáu Đoạn còn lại như trong văn. “Nếu Ngã sau khi chết rồi thì có thân trở lại, đáng lẽ không tạo nghiệp mà chứng đắc quả”, đó là chấp khi thân hiện tại khi chết rồi thì nghiệp tùy theo thân mà diệt, sau đó nếu có thân thì đáng lẽ là Bất tác nhân mà được quả khởi, nếu quả khởi, thì liền có Bất tác mà bị mất quả. “Nếu Thể tánh của Ngã tất cả vĩnh viễn không có, thì đáng lẽ không có người thọ nghiệp quả”, là không thể nói rằng vị lai không có, vì hiện tại cũng không có, nhưng hiện tại đã có, do đó không thể Ngã tất cả đều vĩnh viễn không có, cho nên Thể tánh của Ngã hiện tại vẫn đang có; trong đời vị lai tất cả vĩnh viễn không có, thì đáng lẽ không có thọ nghiệp Dị thục, do đó thành Đoạn diệt. “Nếu nói Uẩn đoạn diệt”, là người kia thừa nhận Uẩn vô thường, đã thừa nhận Vô thường thì hiểu rõ không phải Đoạn diệt. Lượng rằng: “Chưa chứng đắc A-la-hán thì các Uẩn sau khi chết đều không đoạn diệt, vì thừa nhận Vô thường, như địa vị của đời trước. “Nếu nói Ngã đoạn, thì chỗ nói trước hết của ông là thô sắc bốn Đại”, đã là Ngã đoạn thì trước hết nói thân thô sắc bốn Đại tạo, có bệnh ung thư… sau khi chết thì đoạn diệt, mà trở thành trái nhau, vì chỗ nói Sắc… các Uẩn không phải Ngã. Thân tứ đại… tức là Uẩn, bốn xứ Vô sắc riêng cho là Niết-bàn thì cõi Sắc càng đồng tổng hợp làm một, trời người cõi Dục riêng mở làm hai, cho nên thành bảy Đoạn diệt. Hai Vô nhân kiến và bảy Đoạn này càng phải có nhiều thô loại mà luận, chỉ phân hai, bảy, không phải đối với các luận khác. Vô đoạn, Vô nhân, bảy Đoạn trong đây và bốn mươi Thường đều là Biên kiến.

– Trong phần luận về Không kiến, văn phân làm sáu đoạn:

  1. Nêu ngoại đạo Chấp.
  2. Vi.
  3. Trình bày.
  4. Chất vấn nội đạo chấp.
  5. Trình bày chấp.
  6. Phá.

– Trong “Nêu ngoại đạo chấp” thứ nhất có sáu đoạn:

  1. Không có bố thí và ái dưỡng mà cúng tế.
  2. Không có diệu hạnh, ác hạnh và quả Dị thục.
  3. Không có thế gian này, không có thế gian kia.
  4. Không có mẹ, không có cha.
  5. Không có hữu tình hóa sinh.
  6. Không có chân A-la-hán của thế gian.

“Bố thí, ái dưỡng và cúng tế”, như thứ tự ba loại phước điền sai biệt là Bi điền, Ân điền và Kính điền, hoặc loại thứ nhất là thực hành tuệ rộng khắp, loại thứ hai là hiện tiền Kính ân điền, loại thứ ba là không hiện tiền Kính ân điền sai biệt. Nếu có nhân của nó thì có thể có quả của nó, nhân đã không có thì quả cũng quyết định không có. “Chúng sinh lìa Dục sinh các Địa dưới”, là nếu đã lìa Dục thì khỏi phải sinh xuống, nhưng hiện tại đã sinh xuống Địa dưới thì biết rõ không từ đời kia sinh lại đời này.

Trong “không có hữu tình Hóa sinh”, hoặc sinh Vô tưởng, hoặc sinh Vô sắc…, đây là thiểu phần Tà kiến, không thấy tương lai, ba chỗ sinh này bày bác Hóa sinh không có, nhưng không bài bác tất cả, vì thấy Địa cõi dưới. Nếu như không thấy có thế gian, cũng không có thiểu phần nào mà không bác tất cả. Quan sát ý văn này, là một thời kỳ Vô tâm của Vô tưởng thắng sinh, thì thô tâm kia không thấy, liền cho là không có. Tám quyển sau nói Trung hữu làm hữu tình Hóa sinh, Định tâm và Tán tâm quan sát nó có khác nhau, Định tâm này quán thì không bác Trung hữu, Tán tâm kia quán thì bác Trung hữu. Quyển 8 ghi: “Không có ba thứ Thí, Giới, Nhẫn thì gọi là phỉ báng nhân, không có diệu ác hạnh thì gọi là phỉ báng nhân; không có hai thứ nghiệp quả và Dị thục quả thì gọi là phỉ báng quả; không cha không mẹ, không có hữu tình Hóa sinh, không có chân A-la-hán thì gọi là hoại sự thật”. Quyển ghi: “Không có Thí… cho đến không có ác hạnh thì gọi là phỉ báng nhân, không có nghiệp quả Dị thục của diệu hạnh ác hạnh thì gọi là phỉ báng quả, không có thế gian này cho đến không có hữu tình Hóa sinh thì gọi là phỉ báng Tác dụng, không có chân A-la-hán thì gọi là phỉ báng sự thật”. Trong các quyển đó đều tự giải thích nguyên nhân, cùng với Đối Pháp luận quyển 1 gọi là phỉ báng nhân thì đồng. Trong luận này thì không câu thúc nhân quả, chỉ riêng phân tán trình bày, cùng với các luận kia không trái nhau, nhưng hai luận kia thì trái nhau, như Đối Pháp giải thích.

Trong phần thứ tư “chất vấn nội đạo chấp”, không có Thể tánh của tất cả các pháp, là Tà kiến của ngoại đạo ở trước là chỗ không có của cái không riêng biệt, hiện tại Không kiến của nội đạo là tổng bác tất cả, cho nên bây giờ là tổng chất vấn.

Trong “trình bày chấp” thứ năm có hai phần:

1. Nắm lấy pháp tương tợ sâu xa lìa ngôn thuyết, tức là mật thuyết Không giáo của Bát-nhã… vì không thể giải thích, mà đem ra để hiển rõ, bác tất cả đều là Không.

2. Dựa vào pháp tướng mà không như lý tư duy, vì không thẩm sát tư duy, cho nên liền bác bỏ các pháp.

Trong “Phá” có hai đoạn là biệt phá và tổng kết. Trong Biệt phá có hai thứ:

  1. Bốn lớp phá Không kiến của ngoại đạo.
  2. Phá Không kiến của nội đạo.

“Bốn lớp phá Không kiến của ngoại đạo”, là trước đã nêu ngoại đạo chấp có sáu thứ, ba chấp đầu hợp chung làm một môn để phá, ba chấp sau mỗi mỗi phân riêng từng một môn để phá. “Nếu đồng thời có thì chỗ nói trước của ông không có bố thí, không có bình đẳng”, là các sư kia vốn kế chấp, không bác bỏ hoàn toàn là không có, vì nhân đó cùng với quả nương vào Tĩnh lự, thấy thế gian hành bố thí mà sinh vào nhà bần tiện, cho rằng bố thí không có khả năng, liền thiểu phần hủy báng, cho nên hiện tại chất vấn người kia sinh hai nghiệp sau là Câu (đồng thời) hay Bất câu. “Nếu ngoại đạo kia hoàn toàn bác không có tất cả”, thì vấn nạn này không thành. “Lìa tưởng dục”, là lìa các Dục của Hữu tưởng, tức là Vô tưởng thiên, còn lại hai cõi thì lần lượt lìa Dục của cõi Sắc và nhập Niết-bàn. Sư kia kế chấp có lìa Dục của cõi Dục, không thừa nhận đã có lìa Dục của các Địa trên; từ Tam định trở xuống, các sư kia nói chẳng phải không có, chỉ riêng bác các chỗ không có khác, thì 10 liền trái nghịch với Tỷ lượng.

“Vì có tánh A-la-hán mà đối với tánh đó khởi Tăng thượng mạn”, ý này hỏi rằng: “Vì thế gian có chân A-la-hán, mà khởi Tăng thượng mạn, tự cho mình là A-la-hán”. Có tánh này hay là không có? Nếu có, thì không có chân A-la-hán, không thành A-la-hán; nếu không có chân A-la-hán, là khởi điên đảo chấp, tự cho mình là A-la-hán, xứng đáng là A-la-hán! Bất đảo đã không phải là người điên đảo, thì xứng đáng là Chân.

Trong “phá nội Không kiến”, đáng lẽ không có chỗ chấp điên đảo, chỗ nhiễm Y tha, và chỗ Tịnh viên thành. Lại nữa, trong điên đảo loạn tâm, thì Nhiễm là ba thứ tạp nhiễm, Tịnh là hai thứ tịnh. “Đã ở trong Thắng nghĩa thì đều không có điều này”, là không có sinh tử, cũng không có Niết-bàn, mừng cái gì, chán cái gì, chứng đắc cái gì, xả cái gì, như Duy Thức… và luận này trình bày, đều như lý mà hiểu.

Trong phần tổng kết có năm chữ “cho nên”, bốn chữ trước là kết phá ngoại đạo, một chữ sau là kết phá nội đạo.

Trong “vọng chấp tối thắng”, văn cũng có bốn đoạn. “Bà-la-môn là người Bạch tịnh chủng”, là không phải Bạch sắc. “Có thể chứng đắc thanh tịnh”, là tu hành khiết giới có thể được Tịnh. “Sinh từ miệng bụng của Phạm vương”, là vâng theo giáo mà sinh, vì gần gũi chỗ sinh; Sátđế-lợi được sinh ra từ đầu gối của Phạm vương; Phệ-xá… là sinh từ bàn chân. “Vì thấy chân Bà-la-môn tánh của thế gian đầy đủ giới luật”, thấy nội đạo xuất gia chân tịnh tu hành, nêu ra luật, trì giữ giới, tịnh tu Phạm hạnh, các Luật sư… là chân Bà-la-môn. Phệ-xá kia tham danh lợi và phương tiện cung kính mà khởi kế chấp như vậy.

Trong Biệt phá có mười, vì căn cứ theo trong kết sau có mười đoạn.

1. Sản sinh đồng, đâu phải chỉ riêng Bà-la-môn kia là thù thắng!

2. Tác nghiệp đồng với tất cả chỗ còn lại. Nếu chỉ riêng Bà-lamôn kia thù thắng thì rất trái với chánh lý.

3. Trong Thọ sinh, “nếu ba Xứ hiện tiền là bỉ hay là thử…”, là trong quyển 1 trước ghi: “Một là Câu khởi ái nhiễm, hai là điều hoà thích hợp thời, ba là Trung hữu hiện tiền. Hiện tại là bỉ là thử, tức là cha mẹ trước đồng thời có Nhiễm tâm. “Do bỉ”, tức là mẹ điều hoà thích hợp đúng thời. “Do thử”, tức là Kiện-đạt-phược đang hiện tiền. Các Bàla-môn và các luận khác đều đồng điểm này, lẽ nào Bà-la-môn lại thù thắng hơn chỗ khác nữa!

4. “Nếu Công xảo nghiệp xứ, hoặc Tác nghiệp xứ, hoặc thiện hoặc bất thiện”, là khởi Sinh nghiệp của thế gian, hoặc thiện bất thiện tất cả đều đồng, lẽ nào thù thắng hơn loại khác.

5. Tăng thượng, “hoặc vua, hoặc tôi, hoặc cơ biến, hoặc thành công tăng tiến mãn túc”, là hoặc làm vua, hoặc làm tôi, hoặc cơ biện phân rõ thành công nhanh chóng, hoặc đạo vị tăng tiến, vì cùng với các loại khác đều đồng.

6. Hoặc làm Vua thì lãnh trông coi tất cả.

7. Hoặc đã tu Phạm trụ rồi. Phạm trụ là bốn Vô lượng.

8. Hoặc tu Bồ-đề phần.

9. Hoặc ngộ Bồ-đề của Thanh văn.

10. “Lại nữa, điều ông muốn là gì?” trở xuống, là giới và văn thù thắng. “Nếu người nào từ chủng loại thù thắng mà sinh, thì trong luận của ông nói hoặc giới, hoặc văn… thù thắng trong sự cúng tế, lấy đó làm Lượng…” là trong luận đó ghi: “Khi cúng tế, đọc tế văn, hoặc trì giới, hoặc đa văn, lấy đó làm Lượng, khiến cho sự đọc tế văn không nắm giữ quy tắc, nếu lấy chủng loại thù thắng thì liền trái với lời nói này, không giả mượn có giới mà đọc tế văn.

Trong “vọng chấp thanh tịnh”, văn cũng có bốn đoạn. Trong đoạn trình bày thứ nhất có ba phần:

  1. Năm Hiện pháp Niết-bàn.
  2. Riêng trình bày Thủy… thanh tịnh.
  3. Trì các giới khác… thanh tịnh.

Trong năm Hiện pháp, thứ nhất là Thọ thiên dục trần, bốn pháp sau là Hiện pháp lạc trụ, gọi là năm Niết-bàn, dẫn Định tại thân, lìa Dục ác pháp, chứng đắc Định hỷ lạc cho nên gọi là Hiện pháp Niếtbàn. Dục của người… yếu kém cho nên không kiến lập. Từ trên đến đây, chỗ nói bốn Hữu biên, bốn Bất tử kiểu loạn, hai Vô nhân và năm Hiện pháp Niết-bàn này, như vậy mười lăm luận này đều thuộc về Tà kiến, trước nói Biên kiến, gồm chung bốn mươi bảy loại, cộng chung thành sáu mươi hai Kiến, thuộc Tà kiến và Biên kiến, Ngã kiến làm gốc, Kiến thủ và Giới cấm thủ làm Trợ bạn phát sinh, cho nên Đối Pháp luận ghi: “Sáu mươi hai Kiến trong năm Kiến, hoặc hai hoặc tất cả trì. Giới “dầu mực” nghĩa là dầu hoà với mực của nó thoa lên thân làm giới. Giới “giữ tro” là lấy tro thoa lên thân, người kia cho rằng sẽ chứng đắc các tự tại tùy ý. Đây là tổng kết. Những gì là tự tại? Một là Dục tự tại, tức là tâm trước tự tại, là diệu dục của chư Thiên, cảnh tùy ý sử dụng. Quán hạnh tự tại, tức là Quán tự tại, là bốn Tĩnh lự tự tại. Hợp chung gọi là năm Hiện pháp Niết-bàn. “Lại nữa, ví như có một người tự làm khổ thân cho nên tự làm ác để giải thoát”, tức là trong quyển 2 ở trước nói, vào trong các sông, tắm gội cho thanh tịnh. “Hoặc tạo tội lỗi ác, làm ác để giải thoát”, tức là trong quyển 3 trước nói trì Cẩu giới, ăn phẩn, uống nước tiểu, hành các ác sự, tội ác tiêu diệt, tùy theo chỗ làm các sự của loài chó trâu… mà đều học theo, gọi là trì các giới kia.

Trong Phá có bốn chữ “lại nữa”, phân làm ba đoạn:

  1. Đoạn thứ nhất là một chữ “lại nữa”, phá năm Niết-bàn.
  2. Đoạn thứ hai là một chữ “lại nữa”, phá kế chấp Thủy tịnh.
  3. Đoạn thứ ba là hai chữ “lại nữa”, phá Cẩu giới…

Đoạn văn thứ nhất có hai phần, là thọ Diệu cảnh của chư Thiên và bốn Định hiện tiền, phân làm hai phần. Chấp thọ, là thân tâm chấp thọ nhưng mà tu hành theo nghĩa.

Trong phần luận về kiết tường cũng có bốn đoạn. Khi nhật thực, nguyệt thực, như vậy sự không kiết tường, làm việc không thành, nếu tùy thuận theo đó mà tinh khiết ân cần cúng dường thì nhiều sự đều thành. Hướng-khư, là “vỏ trái bầu” đã nói trong đoạn trước. “Chỉ thấy mặt trời, mặt trăng cho đến chúng sinh quả báo Tịnh nghiệp và Bất tịnh nghiệp thành thục”, là khi gặp nhật thực nguyệt thực, thì nghiệp thiện nghiệp ác của chúng sinh thành thục, tùy chỗ thích đáng mà được quả. “Thấy ác quả”, là do không tùy thuận mặt trời mặt trăng mà chiêu cảm bất kiết tường. “Thấy thiện quả”, là do tùy thuận mặt trời mặt trăng mà đạt được Thiện quả này, tự mình đã tin rồi, thì cũng vì người khác mà nói. “Nếu mặt trời mặt trăng… chỗ người tạo tác hiện thấy hết tuổi thọ mà tạo tác phước nghiệp, phi phước nghiệp…”, là hiện thấy thế gian có tạo thiện nghiệp, thì hiện đạt được thiện quả, có tạo ác nghiệp, thì hiện đạt được ác quả. Nếu do mặt trời mặt trăng… tạo tác thì sự này không thành, vì trái với sự hiện tại. Từ trên đến đây phá kế chấp, đều có Tỷ lượng, sợ văn dài nên không thuật, các bậc Hữu học, mỗi mỗi nên tự xét.

BẢN LUẬN 8

Môn thứ năm trong “tạp nhiễm đẳng khởi” phân làm hai phần:

  1. Thuyết minh ba thứ tạp nhiễm.
  2. Thuyết minh đoạn ba thứ tạp nhiễm, tu sáu Hiện quán.

– Trong thuyết minh ba thứ tạp nhiễm lại có hai phần:

  1. Hỏi đáp sơ lược.
  2. Hỏi đáp lại.

– Trong đáp lại có hai phần:

  1. Trình bày ba thứ tạp nhiễm.
  2. Tùy giải thích riêng.

– Phiền não tạp nhiễm có ba thứ:

  1. Hỏi.
  2. Đáp sơ lược chín môn.
  3. Giải thích riêng.

“Tạp nhiễm”, là cùng với Nhiễm xen tạp nhau, Nhiễm là phiền não, hoặc tương ưng, hoặc Duyên trói buộc, hoặc đồng thời khởi, hoặc gián đoạn sinh, hoặc cùng khởi, đều gọi là Tạp nhiễm. Phiền não thì có đủ năm loại; thiện nghiệp thì có đủ bốn loại, trừ Tương ưng; Sinh thì có đủ ba loại sau. tùy chỗ thích đáng mà có, cho nên gọi là Tạp nhiễm.

“Tự tánh”, là Thể của phiền não, Đối Pháp luận quyển ghi: “Thuyết không thanh tịnh là Cộng tướng của phiền não. Hiện tại nói Tự tánh, là chỉ khắp phiền não cho nên gọi là Cộng tướng. Thể của mỗi mỗi pháp thì gọi là Tự tánh, hoặc đối với Phi phiền não thì gọi là Tự tướng, mỗi mỗi Phiền não tự mong nhau thì gọi là Cộng tướng, nghĩa của chỗ mong nhau riêng biệt cũng không trái nhau. “Hành tướng không tịch tĩnh tương tục chuyển”, là đời trước Hiện hành thì đời này là Chủng tử, luận kia giải thích rằng: “Do đời này thân tâm tương tục không tịch tĩnh mà chuyển, đó là tướng phiền não. Tướng này lại có sáu thứ đó là tán loạn, điên đảo, trạo cử, hôn trầm, phóng dật, vô sỉ bất tịch tĩnh tánh.

Trong bảy Tùy miên, Dục ái tùy miên là thô trọng của tham dục. Sân khuể là thô trọng của sân. Hữu ái là thô trọng của tham thục Sắc và Vô sắc. Những thứ còn lại đều như tên gọi của nó, mỗi thứ đều có thô trọng của tự nó. Tham khai mở hai môn, ngoài ra mỗi mỗi đều có một loại, hợp thành bảy loại, Đối Pháp luận ghi: “Người chưa lìa Dục cầu… là do Dục ái sân khuể. Sở tùy tăng trưởng là do nương hai thứ tăng trưởng Dục cầu. Người chưa lìa Hữu cầu, thì có ái tùy theo tăng trưởng. Người chưa lìa Tà phạm hạnh cầu, là do Mạn, Vô minh, Kiến, Nghi, tùy theo tăng trưởng, người đó được diệt trừ chút ít thì liền sinh Kiêu mạn, ngu si đối với Thánh đế, chấp Tà giải thoát, phương tiện giải thoát trong Phật pháp thì do dự nghi ngờ, tùy theo thứ tự của nó mà bốn chỗ tùy tăng trưởng, mà kế chấp Kiến thủ của Tà Giải thoát”. Giải thoát Phương Tiện trong Phật pháp là do dự nghi ngờ, tùy thứ tự của nó mà có bốn chỗ tùy theo tăng trưởng mà kế chấp Tà giải thoát và Kiến thủ; Giải thoát phương tiện là bốn Kiến còn lại, các tự môn khác cũng đều do nghĩa này. Bảy loại Tùy miên này chỉ có ba loại Cầu đó, dựa vào mỗi mỗi tăng trưởng mà nói riêng từng loại, cho nên cùng với các kinh luận đều không trái nhau. Trong phần Sai biệt sau sẽ dẫn quyển 89 để giải thích.

Trong tám loại Tùy miên, “ngoài Kiến lìa Nhị thủ”, vì Thủ và Kiến riêng khác. “Lìa Nhị thủ”, là Kiến và Giới riêng biệt.

“Chín Kết”, quyển 89 ghi: “Nương vào chín Sự mà sinh”, rộng nói như trong luận đó, ba thứ Khuể Tật Xan, chỉ có cõi Dục trói buộc, thông với Kiến đoạn và Tu đoạn, còn lại sáu Kết thì thông với ba cõi, cho nên Đối Pháp luận ghi: “Ái kết, là Tham… của ba cõi, hai môn Thủ và Kiến coi trọng riêng biệt, vì chỗ chấp riêng biệt cho nên nói riêng biệt. Ganh tị với vinh quang của người khác mà không trọng chánh pháp, bỏn xẻn với tài sản không tuân lời lìa xa, do chín thứ này mà rộng hành bất thiện, không hành các thiện, là ác ngày càng nhiều, có thể hoà chung với khổ, khó có thể tháo mở, cho nên đặt tên là Kết.

Trong mười hai Đế, “Khổ và Tập, Diệt và Đạo, từng loại mà nói”, là có Vô lậu, Hữu lậu, quả, nhân riêng biệt. Cõi Dục tăng thượng là chỗ hiển của Biến trí và quả Biến trí. “Diệt đế Đạo đế”, Biến trí là Đạo đế, quả là quả của Diệt đế và Đạo đế, chỗ hiển của Biến trí tức là Thể của Đạo đế, vì do tự Biến trí hiển thị Đạo đó. “Cõi Dục tăng thượng”, đã có nghĩa của nhân thì gọi là Tăng thượng, tức là do khởi chỗ chứng đắc của tu nhân, cho nên gọi là Tăng thượng, Thể tức là Diệt đế; hoặc đã có nghĩa của quả gọi là Tăng thượng, là ngay trong Đạo đế có Diệt quả. Một chữ Tăng thượng này thông suốt với quả kia và chỗ hiển của quả kia. Biến trí tức là quả kia, hoặc quả kia tức là Tăng thượng, gọi quả kia là Biến trí, ngoài ra cứ theo đây mà có thể hiểu. Lại nữa, có người giải thích rằng: “Biến trí tức là quả Đạo đế, là chỗ hiển Diệt đế của Biến trí”, nghĩa này không đúng, vì không phải thứ tự. “Bốn Đế của cõi Dục mỗi loại có mười Phiền não”, Đối Pháp luận, Duy Thức luận tất cả đều đồng, trong quyển 8, Khổ đế có đủ mười phiền não, ba Đế còn lại thì mỗi loại chỉ có tám Phiền não. Thành Duy Thức luận ghi: “Khổ đế là Y xứ của nhân kia, Diệt và Đạo thì nương vào Bố uý xứ kia, cho nên bốn Đế mỗi loại đều có mười hành tướng; Biệt không và Phi ngã thuộc Khổ đế, ba Đế còn lại mỗi loại có tám hành tướng, Khổ đế thì đủ mười hành tướng”. Hoặc có giải thích khác: “Bốn Đế mỗi loại có mười Phiền não, không phải mỗi một hành tướng đều có mê riêng chướng Đế, nhưng khi Phiền não sinh, thì có lý Năng mê đế và Năng chướng đế, cho nên phỏng theo tổng hạnh nói mỗi loại đều mê bốn Đế, không phải Thân kiến, Biên kiến riêng mê ba Đế còn lại, vì Hạnh khó biết; hoặc Thân kiến Biên kiến nghe nói Diệt, Đạo mà sinh bố uý, vì sợ Ngã bị đoạn, gọi là mê Diệt và Đạo”. Thật ra chỉ duyên Khổ đế và Tập đế mà khởi, chữ “tổng” là kể ra bốn Đế, thật ra không phải ba Đế mỗi loại đều có đủ mười hành tướng, như Duy Thức sớ nói.

Tát-ca-da kiến, theo giải thích của Thuyết nhất thiết hữu Bộ, kinh Bộ và Đại thừa, cả ba giải thích đều khác nhau, như Duy Thức sớ. Đẳng tùy quán chấp là thuyết minh hành tướng của Kiến, trong năm Uẩn, hoặc Tự tướng hoặc Cộng tướng, bình đẳng quán sát, tùy theo chỗ quán kia liền chấp làm Ngã.

Trong Biên kiến, “hoặc Phân biệt hoặc Bất phân biệt”, Duy Thức quyển có hai thuyết, một là chỉ có Đoạn kiến, thông với hai môn này; một là cũng Thường kiến, dẫn Giáo và Lý rộng như luận đó nói.

Trong Kiến thủ, “vì Tát-ca-da kiến, Biên chấp kiến, Tà kiến…”, đây là thuyết minh Cảnh của Kiến thủ. Sở y là Căn, Sở duyên là Cảnh, Sở nhân là Chủng tử, tổng chấp làm Thù thắng và Năng tịnh, hai nghĩa đầy đủ mới gọi là hành tướng của Kiến thủ. Giới thủ cũng vậy, vì chỗ chấp Kiến và Giới có sai biệt cho nên phân thành hai Thủ. Kiến thủ trong đây chỉ nói là Thù thắng, không nói là Năng tịnh; Giới thủ thì chỉ nói là Năng tịnh giải thoát, không nói là Thù thắng. Duy Thức hội ghi: Vì Ảnh tượng cho nên nói sơ lược. “Hoặc Tùy chuyển môn, nếu không như thế thì tại sao không phải Diệt mà chấp Diệt, không phải Đạo mà chấp Đạo, gọi đó là Tà kiến, không phải hai Thủ nhiếp. “Là Tối, là Thượng thắng diệu đệ nhất”, là chấp pháp của ba cõi, vì như thứ tự sai biệt. “Tức là đối với Kiến kia, Kiến kia tùy hành tướng”, là do các Giới thủ nương vào Kiến thủ ở trước mà vọng chấp Giới cấm làm Năng tịnh thù thắng. Nói rằng đối với Kiến kia, đối với Ngôn đó mà nương vào nghĩa, không phải chấp Kiến kia làm Giới thủ, chấp tùy thuận chỗ thọ Giới cấm của Kiến kia tương ưng với Uẩn… làm Năng tịnh thù thắng, cho nên nói Kiến kia tùy hạnh, hoặc đối với Kiến kia tức là Thể của Kiến trước, Kiến kia tùy hạnh tức là Kiến tương ưng, y theo nghĩa, y theo Kiến và tùy thực hành chỗ thọ Giới cấm, chấp đó làm Năng tịnh thù thắng, gọi là Giới cấm thủ. “Là giải thoát hay là xuất ly”, là chấp pháp của ba cõi như thứ tự mà làm Giới thủ, như thứ tự mà làm nhân xuất ly ba cõi.

Trong Mạn, “đối với ngoại đạo và nội đạo cao mạn không hơn kém”, là đối với ngoại đạo thì cao thấp, đối với nội đạo thì hơn kém. “Đối với ngoại đạo thấp hơn”, là Ty mạn. “Đối với ngoại đạo cao hơn”, là ba Mạn còn lại, Tăng thượng mạn, Tà mạn và Ngã mạn. “Vì không duyên ngoại đạo, đối với nội thù thắng”, đó là sáu Mạn, chấp Ngã đề cao, không có đức, là có chút ít đức mà cho là nhiều, đều là Nội thắng, Ty mạn là Nội liệt, vì không bằng người ta.

Trong Nghi, “chỉ dùng lấy phân biệt khác với Giác làm Thể”, Duy Thức có hai thuyết:

1. Thể của Nghi tức là tuệ. Tỳ-trợ-mạt-để là nghĩa của Nghi. Mạtđể-bát-nha nghĩa vốn không khác. Do dự lựa chọn là nghĩa của Nghi, đây gọi là phân biệt. Lấy Giác khác làm thể cho nên Nghi tức là tuệ, là văn làm chứng của Duy Thức kia.

2. Không phải như vậy riêng có Tự tánh, vì thế tục không nói năm Kiến là Nghi, Tỳ-trợ-nhã-nam là trí xứng với Thức. Do tuệ không quyết định gọi là phân biệt, lấy Giác khác làm Thể, tánh không phải tức là tuệ.

“Một là do Chủng tử đeo theo, hai là do Tăng thượng sự kia”, đoạn này giải thích nghĩa của Tùy miên, do Tùy miên kia hiện hành trong thế sự, khiến cho pháp Hữu lậu đều có thô trọng, không có tánh đảm đương, chướng người tu hành và pháp của các bậc Thánh, cho nên nói do Tăng thượng sự kia, hoặc do Hoặc chủng phát nghiệp nhuận sinh, chiêu cảm quả của nhiều đời, cho nên nói là do Chủng tử tăng thượng sự kia.

“Do nhiếp thọ Hiện pháp thấp hèn”, là do phiền não cho nên nhiếp thọ pháp của các sắc thấp hèn hiện tại mà trở thành pháp xấu ác hạ tiện.

“Lại nữa, do bảy môn mà tất cả phiền não đối với Kiến đạo và Tu đạo có thể làm chướng ngại”, là sáu Kiến đạo chướng trước và một Tu đạo chướng sau. Quyển 9 ghi: “Tát-ca-da kiến, Biên kiến, Tà kiến, gọi là Tà giải liễu, vì mê bốn Đế. Vô minh gọi là Bất giải liễu; Nghi là Giải liễu và Bất giải liễu. Kiến thủ, Giới thủ, Tham, Sân và Mạn, duyên Kiến làm Cảnh. “Chỗ đoạn của Kiến”, tất cả đều là Tà giải liễu và mê chấp. Từ trên đến đây có bốn môn, tổng nhiếp hết tất cả Kiến đoạn hoặc. “Những người mê Khổ đế và Tập đế này”, là mê Y xứ hành của nhân kia. “Mê Diệt và Đạo”, là mê bố uý kia mà sinh Hành. Nếu tu đoạn phiền não thì gọi là tùy ý hiện hành.

Trong Phiền não thượng phẩm, “là tướng mạnh nhanh và tướng càng nặng”, tức Cựu dịch là vì lợi ích mà siêng cần. Chấp chặt không xả gọi là càng nặng, chỉ riêng mạnh nhanh hoặc riêng càng nặng, hoặc đồng thời, đều là thượng phẩm, hoặc những thứ này chỉ có Thủ đồng thời. “Không phải riêng khởi do tương tục, là Tham hạnh… các Căn thành thục, thiếu niên cường tráng không có pháp Niết-bàn”, là Tham hạnh, Sân hạnh, Si hạnh… phân ra hiện hành, những thứ này các Căn thành thục, gọi là Phiền não tương tục. Thân nào khởi? Là thiếu niên cường tráng. Người không có pháp Niết-bàn, là sở khởi của thân. Do sự nghĩa là nương chỗ khởi Phiền não trong ba Sự gọi là tướng thượng phẩm. “Cứu cánh”, là chỗ hại Cứu cánh của tối sơ Thánh đạo.

Trong bảy Điên đảo, Tưởng đảo là đối với chỗ khởi vọng tưởng của bốn Cảnh, tưởng số làm Thể. Quyển 3 ghi: “Các ngu phu không có chỗ hiểu biết, tùy theo Vô minh mà khởi Tác ý phi lý, đối với Cảnh sở duyên Vô thường… khởi chấp là Thường… nắm lấy tướng mà chuyển, gọi đó là Tưởng điên đảo, cho nên lấy Tưởng làm Thể.

Kiến đảo, là lấy vọng tưởng trong Cảnh, nhẫn những thứ có thể dục lạc, kiến lập chấp trước, một phần ít của ba Kiến làm Tánh, là Thân kiến, Thường kiến, Kiến giới thủ, như văn tự nói.

Tâm đảo, tức là để trừ các Kiến trước, Phiền não tham… chỗ khác làm Tánh, có thể nhiễm não tâm cho nên gọi là Tâm đảo. Tâm điên đảo này tức là những phiền não như Tham… trong sở chấp trước kia. Có thuyết cho rằng Thể của Tâm đảo chỉ là Tham, bởi vì Tâm nhiễm thù thắng. Nói “Tham v.v…”, nghĩa là đồng lấy tất cả Tham, không phải lìa ngoài Tham và Sân… khác. Quyển 3 ghi: “Tưởng này điên đảo, các hàng tại gia có thể phát một phần Tâm đảo, các hàng xuất gia có thể phát Kiến đảo”. Thể của Tưởng không phải Đảo, do vọng chấp Tướng lấy làm tổng môn, tại gia và xuất gia nương vào đó mới khởi Tâm đảo và Kiến đảo, cho nên cùng với tên Đảo mà luận giải Căn bản, Tự thể và Đẳng lưu hợp chung để giải thích Thể của Kiến đảo và Tâm đảo. Thể của Tưởng không phải Đảo cho nên không giải thích lại. Câu-xá luận ghi: “Tự thể của bốn Điên đảo là từ nơi ba Kiến, vì chỉ có Đảo tăng thêm, Tưởng và Tâm tùy theo lực của Kiến”. Luận kia nói Thường kiến làm Thường đảo, chấp tịnh chấp lạc, đều là Kiến thủ. Có Thân kiến làm Ngã đảo, phải đủ ba nhân thù thắng mới thành:

1. Thuần là Đảo, lựa riêng với Giới cấm thủ, duyên với chút ít tịnh.

2. Tánh suy lường, lựa riêng với Phi kiến giới.

3. Vọng tăng ích, lựa riêng với Đoạn kiến.

Tà kiến không phải Vọng tăng ích, vì Vô môn chuyển. Các Thọ… còn lại, không phải là Cực thành của thế gian, thế gian chỉ nói Tưởng đảo, Tâm đảo và Kiến đảo, không nói Tham… cho nên những thứ còn lại không phải Đảo. Hiện tại luận này không phải như vậy, một là Đảo y, hai là Đảo thể. Tưởng của Sở y thù thắng, Thọ… không phải Đảo, vì hiển Kiến tăng ích của hàng xuất gia gọi là Đảo, đoạn tà không phải Đảo. Các hàng tại gia phiền não loạn tâm, hoặc phần nhiều do Tham, khó có thể giải thoát. Nói tất cả Hoặc bởi vì Tham là Đảo. Trong Thể của Đảo chỉ chia ra Tâm và Kiến. Hiển Dương luận ghi: “Do bốn nhân duyên khởi đối với bốn Điên đảo, cho nên các Phi đảo khác trong đây Tâm đảo duyên chung với bốn Tham. “Văn sau chỉ nói Tham thông với hai thứ, không nói Thường ngã cũng khởi Tham”, là từ thù thắng mà nói, Ngã đồng thời với Thường kiến cũng có Tham, các văn đều nói đối với bốn cảnh Tham gọi là Tâm đảo, thế gian phần nhiều khởi thiên lệch đối với lạc tịnh, không phải thật chỉ có hai thứ, nếu không như thế thì tại sao nói ngay nơi bốn Đảo trước? “Trong chỗ chấp của Kiến thì Tham… làm tánh. Kiến thủ là đối với Bất tịnh và Tịnh mà Đảo, Giới thủ thì đối với Khổ lạc mà Đảo”, tùy chỗ thích đáng của nó mà duyên Kiến duyên Giới và pháp tương ưng làm Thù thắng và Năng tịnh, cho nên đó là hai Thủ. Nếu không như thế thì liền thành chỗ nhiếp của Tà kiến. Ba thứ Tưởng, Tâm, Kiến đều thông với bốn thứ, bốn thứ không có Thể riêng. Vả lại trong bốn Kiến đảo, Thường ngã thông với Kiến đạo và Tu đạo, giữa hai thứ Kiến và Tu chỉ có Kiến đoạn. Hai thứ Tưởng đảo và Tâm đảo, tùy chỗ thích ứng mà thông cả hai, như chỗ thích ứng của nó mà quán tự tướng dẫn thành gốc Đẳng lưu. Rộng như Đối Pháp luận quyển 2 và quyển 10 sớ thích.

– Phiền não sai biệt có hai phần:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Nêu Thể.

– Trong phần thứ nhất có ba phần:

  1. Nêu.
  2. Giải thích riêng hai mươi sáu môn.
  3. Tổng kết.

“Chỗ tùy đeo đuổi của Tăng thượng Chủng tử gọi là Tùy miên”, chẳng những vốn sẵn có, hoặc vi tế tùy theo tăng trưởng, cũng là chỗ tùy đeo đuổi của Chủng tử thù thắng, cũng tức là bảy loại Tùy miên cùng với các Chủng tử khác làm nhân, cho nên gọi là Chủng tử. “Thường đuổi theo hành giả có bảy Chủng tử, gọi là Tùy miên; Tà hạnh phương tiện gọi là Ách”, như cái ách trên chiếc xe của thế gian, làm phương tiện của xe để kéo xe đi. Tà hạnh phương tiện này cũng vậy, ba nghiệp Tà hạnh như Thể của chiếc xe, lấy bốn Ách có thể kéo xe làm phương tiện, ách xe tạo ác thì không vượt qua đường tà, có thể dẫn cho ác sinh, cho nên gọi là Tà hạnh phương tiện. “Che lấp nghĩa chân thật gọi là Cái”, nếu y theo trật tự giải thích của Đối Pháp luận quyển 2 là che lấp tâm, thì đây là nói do năm Cái này mà không chứng thật nghĩa, cũng không có trái nghịch. “Vì tướng không định tĩnh cho nên xa chỗ tùy thuận, do đó gọi là Tiễn (mũi tên)”, hằng dao động không yên gọi là tướng không định tĩnh; tùy ở nơi xa mà làm hành giả tổn thương, gọi là Viễn sở tuỳ, mượn thí dụ gọi là Tiễn. “Vì có thể nhiếp y theo sự cho nên gọi là Sở hữu”, như Đối Pháp luận ghi: “Do tích tập nhiều chỗ có tài sản vật dụng, hằng cùng chung tương ưng với kinh sợ và oán ghét”. Luận đó nói có ngoại sự, luận này thì nói nương vào Sự năng nhiếp, có thân Sở y bên trong và ngoại sự tài sản vật dụng, nghĩa rộng sai biệt cũng không trái nhau. Những điều này là giải thích tên, như Đối Pháp luận quyển và quyển 98, hoặc có chỗ bất đồng, sợ văn dài cho nên không nói, người đọc phải biết.

“Chỉ có bảy loại gọi là Tùy miên”, Căn bản nói có bảy loại, tùy theo tăng trưởng mà nghĩa thù thắng, quyển 89 nói Chủng tử của Phiền não đều gọi là Tùy miên, do ba phẩm khác nhau, cho nên chỉ lập có bảy thứ, do chưa lìa Dục mà lập Dục tham, do đồng phẩm mà lập năm phẩm khác, lấy đây tổng nhiếp tất cả phiền não. “Chỉ có ba loại”, là căn cứ theo thuyết thù thắng, Đối Pháp luận ghi: “Tất cả phiền não đều gọi là Tùy phiền não, có Tùy phiền não mà không phải Phiền não, vì Tùy phiền não sinh thì nghĩa đó thông”.

“Triền có tám loại”, quyển 89 ghi: “Tất cả phiền não do Hiện hành, đều gọi là Triền, chỉ có tám loại, trong bốn thời niệm niệm hiện hành, cho nên kiến lập riêng”. Đối Pháp luận ghi: “Chướng của Hôn trầm và Thuỳ miên dừng vì dẫn đến sự lắng chìm. Chướng của Trạo cử và Hối nổi lên vì bên ngoài dẫn sinh tán loạn; chướng của Tật và Xan xả, vì tự lợi và tha lợi trong Xan đố môn, niệm niệm động tâm. Vô tàm và Vô quý chướng tịnh Thi-la, vì phạm các Học xứ không sinh hổ thẹn”, lại càng không lập các pháp Phẫn, Phú… khác. Quyển 89 ghi: “Chướng giới định tuệ mà sinh Xan tham và Tật đố”.

– Trong Bộc lưu có bốn thứ:

1. Dục bộc lưu, là lấy cõi Dục trừ chỗ khởi Kiến và Câu vô minh của ngoại đạo, tất cả phiền não khác làm tánh.

2. Hữu bộc lưu, là lấy cõi Sắc và cõi Vô sắc trừ chỗ khởi Kiến và Câu vô minh của ngoại đạo, chỗ tất cả phiền não khác làm Tánh.

3. Kiến Bộc lưu, là lấy ba cõi chỗ khởi Kiến của ngoại đạo làm tánh.

4. Vô minh bộc lưu, là lấy vô minh tương ưng trong kiến sở khởi của ngoại đạo thuộc ba cõi làm tánh.

Đối Pháp luận ghi: “Một là Tập dục cầu, hai là Tập hữu cầu, hai loại sau là Tà phạm hạnh cầu”, vì Năng y và Sở y tương ưng với đạo lý. Quyển 89 ghi: “Đồng với bốn Ách cũng vậy, thể tánh không khác”. Cũng quyển 89 ghi: “Thượng phẩm phiền não gọi là Bộc lưu… Phân hành phiền não gọi là Ách, đó là hai sai biệt.

“Bốn Thủ”, cuối quyển 10, lấy Tham Năng thủ của bốn Thủ mà làm tự tánh. Đối Pháp luận ghi: “Thủ thứ nhất tức là Tham, ba Thủ sau cũng như tên của nó”, là lấy hai Thủ và Ngã kiến mà làm tự tánh, hoặc Thể của bốn Thủ kia cũng chỉ có Tham. Đối Pháp kia ghi: “Do Tham trước Kiến, trói buộc đam nhiễm làm nhân”. “Các hàng xuất gia”, đây là điều tranh cãi nhau, quyển 89 ghi: “Y theo hai phẩm mà lập hai Thủ: 1. Tại gia lập Dục thủ. 2. Xuất gia ngoại đạo… lập ba Thủ khác, hoặc Sở thủ, hoặc Năng thủ, hoặc Sở làm Thủ, như vậy tất cả tổng nói là Thủ”. Bốn Thủ làm Sở thủ, Thủ lấy bốn Tham này gọi là Năng thủ, để chứng đắc các Dục và thọ dụng mà khởi Thủ thứ nhất; vì tham lợi dưỡng cung kính để chất vấn người khác, khỏi bị người khác vấn nạn cho nên khởi Thủ thứ hai; thủ lấy các thiền định làm chỗ y chỉ mà khởi Thủ thứ ba; vì muốn phân biệt người tạo quả, thọ quả và để tùy nói tướng sĩ phu hoàn diệt lưu chuyển, cho nên khởi Ngã ngữ thủ. Như vậy hợp chung gọi là Sở làm Thủ; Thân phòng hộ, Ngữ phòng hộ gọi là Giới; hình mạo, ẩm thực, uy nghi, hành tướng, gọi là Cấm đế cho nên Trụ, do đó luận nói có Ngã gọi là Ngã ngữ, rộng như luận kia giải thích. Thủ thứ nhất chỉ trói buộc trong cõi Dục, ba Thủ sau thì thông với hai cõi còn lại.

“Bốn Hệ”, quyển 89 ghi: “Chỉ dựa vào sai biệt của ngoại đạo mà kiến lập”. Đối Pháp luận ghi: “Có thể làm bốn thứ nhân của tâm loạn, có thể chướng định thân cho nên không lập các Thủ khác, do Tham cho nên Ái tài làm nhân; do Sân cho nên đối với sự đấu tranh không chánh hạnh làm nhân; do Giới cấm thủ cho nên đối với giới cấm khổ não khó hành làm nhân; do Kiến thủ cho nên không như chánh lý suy lường cảnh giới làm nhân. Đây là do Kiến thủ, nương vào mỗi biệt Kiến đối với Cảnh sở tri mà khởi tà cấu tư duy, vọng sinh chấp trước, cho rằng chỉ có đây là thật, ngoài ra đều là hư vọng, cho nên gọi thật này là trói buộc thân”. Do bốn nhân này khiến cho tâm tán loạn, có thể chướng bản thân của định tâm tự tánh, cho nên gọi là Thân hệ, không phải chướng sắc thân, hai loại đầu chỉ có cõi Dục, hai loại sau thì thông hoặc đồng thời với cõi Dục, vì bất thiện tăng trưởng.

“Năm Cái”, quyển 89 ghi: “Trái nghịch với năm Xứ mà lập năm Cái này:

1. Cương vị tại gia, Dục cảnh phiêu trầm trái với Thánh giáo, cho nên lập Tham dục cái.

2. Vì không kham nghe pháp dạy răn, cho nên trái nghịch với Thắng pháp, cho nên lập Sân khuể cái.

3. Trái với Xa-ma-tha, cho nên lập Hôn miên cái.

4. Trái với Tỳ-bát-xá-na, cho nên lập Trạo hối cái.

5. Trái nghịch với Tuệ thắng giải thánh giáo luận nghị quyết trạch, cho nên lập Nghi cái.

Đối Pháp luận cũng ghi: “Chướng có năm vị, là Nhạo xuất gia vị, Giác tà hạnh vị, Chỉ cử xả vị… rộng như luận đó nói.

Ba Bất thiện căn, Duy Thức ghi: “Đủ hai nghĩa: một là tánh Căn bản phiền não, hai là có khắp trong sáu thức”. Các pháp còn lại không phải bất thiện căn, vì sinh ác là thù thắng, cho nên chỉ ở tại ba bất thiện căn này.

Ba Lậu, Đối Pháp luận ghi: “Nương vào ngoại môn mà rỉ chảy, cho nên lập Dục lậu; nương vào nội môn mà rỉ chảy, cho nên lập Hữu lậu; nương vào hai Sở y môn mà rỉ chảy, cho nên lập Vô minh lậu”. Ý của luận đó là hiển tất cả Phiền não của cõi Dục, trừ Vô minh gọi là Dục lậu, tất cả phiền não của cõi Sắc và cõi Vô sắc, trừ Vô minh gọi là Hữu lậu; Vô minh của ba cõi gọi là Vô minh lậu. Nhưng bốn Đế của cõi Dục mỗi mỗi đều có mười phiền não, Tu đoạn có sáu phiền não; năm môn của cõi Sắc và cõi Vô sắc đều trừ Sân, tùy chỗ thích ứng của nó, gồm các Tùy hoặc làm Thể của Lậu kia. Số chủng loại của năm môn không đồng với Tiểu thừa. Quyển ghi: “Tất cả phiền não của cõi Dục, trừ vọng kiến của các ngoại đạo để nương chỗ sinh Vô minh, còn lại gọi là Dục lậu; tất cả phiền não của cõi Sắc và cõi Vô sắc, trừ vọng kiến của các ngoại đạo để nương chỗ sinh Vô minh, còn lại gọi là Hữu lậu; vọng kiến của ngoại đạo trong ba cõi để nương chỗ sinh Vô minh, gọi là Tà giải thoát dục Vô minh lậu”. Quyển 89 nói, văn tuy khác chút ít, nhưng cùng với Đối Pháp thì đồng, ý của Đối Pháp luận nói, tất cả Vô minh gọi là Vô minh lậu, vì chỉ riêng một mình nó khởi tương ưng thù thắng nhiều hơn, ngoài ra có thể nương vào Hoặc mà lập hai Lậu khác, vì trên dưới khác nhau. Quyển ghi: “Phân biệt chỗ khởi Vọng kiến để nương chỗ sinh Vô minh, gọi là Tà giải thoát dục Vô minh lậu, còn lại thì lập hai Lậu khác, không nói tất cả Si làm Vô minh lậu, căn cứ theo nghĩa mỗi mỗi riêng khác, nhưng cũng không trái nhau.

“Câu ngại” cũng có ba, là tham sân si. Do ba thứ này mà khởi lên năm Câu ngại, cùng với Đối Pháp đồng, nương vào năm Cảnh này mà sinh ba thứ tham sân si, câu ngại nơi tâm, cho nên Đối Pháp luận gọi là Tâm câu ngại. Chỗ nói phiền não môn từ trên đến đây, Đối Pháp, Hiển Dương và văn sau của Du-già đều có giải thích rộng đầy đủ, sợ dài dòng nên nêu sơ lược, y theo chỗ dẫn ở trước nên xét tìm.

Trong nghiệp tạp nhiễm, trước hết là hỏi, kế đó là đáp. Trong đáp có hai phần:

  1. Trình bày chín môn.
  2. Tùy giải thích riêng.

Trong Tự tánh, “nếu khi pháp sinh thì tướng tạo tác khởi…”, điều này có ba giải thích:

1. Tướng tạo tác, là chỉ cho nghiệp Gia hạnh. “Thân hạnh và Ngữ hạnh đối với nghiệp kia sau khi tạo tác mới chuyển”, tức là nghiệp đạo Căn bản. Nghiệp thứ nhất thông với ba nghiệp, hoặc chỉ có Ý nghiệp, nghiệp thứ hai lại căn cứ theo nghiệp thô trọng, cho nên chỉ có thân và ngữ.

2. Tướng tạo tác là Biểu nghiệp. Do Biểu nghiệp kia sinh, cho đến tạo tác mà chuyển, là Vô biểu nghiệp. Nghiệp thứ nhất thông với ba nghiệp, quyển 3 ghi: “Ba nghiệp thân ngữ ý, đều có Biểu”. Nghiệp thứ hai là Vô biểu nghiệp, trong đây có nói: “Chỉ có thân nghiệp và ngữ nghiệp có Vô biểu nghiệp”, cho nên luận này ghi: “Chỉ do Biểu nghiệp kia sinh”. Thân hạnh và Ngữ hạnh đối với Biểu nghiệp kia sau khi tạo tác mà chuyển, thì Ý nghiệp nhỏ nhẹ, cũng không phải Sắc pháp, không phát Vô biểu nghiệp. Có người nói ba nghiệp đều có Vô biểu nghiệp. Quyển 3 ghi: “Mười thiện nghiệp đạo là chỗ nhiếp của trăm hạnh, đều gọi là luật nghi, cho nên trong ba Phạt nghiệp thì Ý Phạt là nặng. Ý có ba nghiệp đạo, nặng hơn bảy nghiệp trước, cũng có Vô biểu, đối với lý nào có trái nghịch gì! Ý nghiệp không có biểu lộ, vì tùy theo nghiệp đạo cho nên chỉ có ba chi, đây là dựa vào ba nghiệp thông với Hữu biểu và Vô biểu, mà chỉ nói thân và ngữ, không phải ngăn trách Ý vô biểu.

3. Tướng tạo tác khởi, là phát thân, ngữ và tư. “Do Biểu nghiệp sinh cho nên bình đẳng”, tức là thân nghiệp và ngữ nghiệp, phát khởi chỗ sinh của thân ngữ tư, thẩm sát quyết định Tư và Ý tương ưng, tác động Ý, cho nên gọi là Ý nghiệp; phát động Tư thù thắng, phát thân ngữ, cho nên gọi là thân nghiệp và ngữ nghiệp. Hoặc chỉ riêng hiện hành Tư, cũng gọi là Ý nghiệp, hợp chung mười thứ gọi là nghiệp đạo. Trong năm Cảnh, “Sắc và Thanh xứng với nghiệp, cả ba là Phi nghiệp”, là vì không có biểu thị. “Năm căn như Nhãn… không lập làm nghiệp”. Thành Nghiệp luận ghi: “Vì có tác dụng nghiệp, không có Gia hạnh nghiệp”. Thành Duy Thức và Thành Nghiệp luận đều ghi: “Có ba thứ Tư, mười thứ nghiệp đạo, đều lấy Tư làm tánh”. Giải thích Thân nghiệp, Ngữ nghiệp, Ý nghiệp, Biểu và Vô biểu, gọi là Tư nghiệp. Tư đã là nghiệp, thì nghiệp định và tán không có biểu lộ đại chủng tạo tác… khi đến thời tiết phát nghiệp thì lớn nhỏ không đồng, đều như Sớ kia và Biệt chương giải thích, cuối quyển 9 và quyển 0, sẽ rộng phân biệt. Biểu nghiệp của Thân và Ngữ lấy tướng biểu lộ để thấy. Biểu nghiệp của Ý, là Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần của Kiến, mỗi mỗi lẫn nhau tự biểu hiện. Như lý nên tư duy.

Trong nghiệp Phân biệt có ba đoạn:

  1. Nêu hai Nhị chủng.
  2. Hiển riêng sai biệt của hai Nhị chủng.
  3. Kết thành ba nghiệp.

Trong đoạn thứ nhất và đoạn thứ hai, Bổ-đặc-già-la tức là Cụ nghiệp. Lại nữa, pháp Sai Biệt tức là nghiệp tướng kia rộng giải thích trong đoạn thứ hai: 1. Bổ-đặc-già-la. 2. Pháp. Trong phần thứ nhất lại có hai thứ: a. Bất thiện nghiệp đạo có mười Bổ-đặc-già-la. b. Thiện nghiệp đạo.

Sát sinh có ba đoạn:

  1. Tổng chỉ các kinh.
  2. Phân riêng đoạn văn giải thích.
  3. Kết lược nghĩa.

Giải thích riêng đoạn văn kinh có chín câu, trừ câu tổng ra:

1. Sát sinh thành nghiệp đạo cứu cánh, chỗ sát là mạng đoạn rồi mới thành sát.

2. Không phải ngay lúc chết có đồng thời chết, chết trước và tự sát, vì không phải nghiệp đạo. Nếu không như thế thì đáng lẽ đều thành nghiệp đạo.

3. Hại, Cực hại và Chấp, tiếp theo có ba câu riêng giải thích ba câu này. Vì đoạn mạng kia cho nên gọi là Hại.

4. Cắt đứt tay chân cho nên gọi là Cực hại.

5. Mưu kế nuôi mạng cho nên gọi là Chấp.

6. Mưu chấp sát sinh mà nuôi mạng cho nên có xuất gia ngoại đạo, gọi là người không hổ thẹn, tức là Ni-kiền-tử kế chấp, tùy chỗ trụ xứ chỗ có chúng sinh nội trong một trăm do-tuần, đối với chúng sinh kia tạo tác bất sát thì thành luật nghi, tạo tác sát thì thành bất luật nghi, ngoài một trăm do-tuần thì các luật nghi kia không thành. Trong kinh để đối trị thuyết này mà nói như vầy: “Tất cả chỗ của hữu tình không phải chỉ có một trăm do-tuần, mà ngoại đạo kia lại nói như vậy”. Ngoại đạo kia cho rằng cỏ cây đều có mạng, nếu sát thì thành nghiệp đạo, Phật vì đối trị thuyết này, cho nên nói như vầy: “Chỗ chân thật của chúng sinh, sát cây cối không phải nghiệp đạo”. Đây là hiển thị chân thật phước đức xa lìa đối trị đạo, câu này có ý hiển thị do sát hữu tình là tánh tội, cũng lấy tánh giới chân thật phước đức để xa lìa đối trị, cho nên Đối Pháp luận ghi: “Sự sát sinh, là niệm của hữu tình”, đây là câu nói trước “Chỗ của tất cả hữu tình, sát cây cỏ…”, là giá tội, cũng để giá giới, phước đức không thật, vì xa lìa đối trị, đây là câu nói sau “chỗ chân thật của chúng sinh”.

7. Lại nữa, giải thích không cần nương vào tánh mà giải thích giá giới, đây là hiển thị chỗ nói trên “hai thứ đối trị của ngoại đạo không có trói buộc”.

8. Nếu không sát tất cả hữu tình, thì làm sao chỉ có nội trong một trăm do-tuần là chân thật đối trị!

9. Hoặc không sát cây cỏ, vì là Phi tình cho nên không chân thật đối trị. Hiển hai thứ để đối trị hai kế chấp của ngoại đạo, văn của hai câu này cùng với trước không đồng, là nguyên nhân hiển thị từng đoạn, chỗ nói các câu như vậy là để hiển thị Gia hạnh.

“Sát hại, là rất hung ác” trở xuống bảy câu, do khởi tâm hung ác mà tăng thêm sức khuyến khích dũng mãnh làm việc sát sinh, cho nên gọi như vậy là Gia hạnh sát hại, không phải là Gia hạnh nghiệp đạo. “Cho đến cực thấp lượm lặt nhiều con kiến”, câu này có hai nghĩa: một là trứng kiến, hai là bẻ gãy chân kiến, cho nên còn mang âm tiếng Phạm.

Trong giải thích riêng chín câu, bảy câu đầu gọi là Gia hạnh sát hại, vì cố sức sát hại. Một câu tiếp theo gọi là Vô trạch sát hại, vì phùng sinh tức là sát, không giải thích riêng. Một câu sau cùng gọi là Sát sinh thời, là từ khi mới đoạn mệnh, chưa gặp duyên lành để thọ trì giới… thường làm thành tội sát sinh nghiệp đạo.

Trong Kết lược nghĩa có ba loại, thứ nhất là nhiếp chín làm bốn, thứ hai là nhiếp làm ba, thứ ba là nhiếp làm một.

– Thứ nhất, trong nhiếp chín làm bốn là:

  1. Tướng mạo sát sinh, là câu thứ hai trước, máu nhuộm đầy tay.
  2. Tác dụng, tức là ba câu Hại, Cực hại, Chấp.
  3. Nhân duyên, tức là câu thứ nhất.
  4. Tâm cực bạo ác sát hại đang hiện tiền.

– Sự dụng sai biệt là sáu câu sau:

  1. Không hổ thẹn.
  2. Không thương xót.
  3. Chỗ của tất cả hữu tình.
  4. Chỗ của chân thật chúng sinh.
  5. Cho đến cực thấp lượm lặt nhiều kiến… chỗ của chư chúng sinh.
  6. Đối với chỗ sát sinh hoặc chưa xa lìa.

Lại nữa, tướng mạo trong nhiếp chín làm bốn tức là câu thứ nhất; tác dụng tức là câu thứ hai, thứ ba; nhân duyên tức là câu thứ tư, thứ năm; sự dụng sai biệt tức là bốn câu còn lại.

– Thứ hai, trong nhiếp chín làm ba là:

  1. Sát sinh như thật, tức là câu thứ nhất.
  2. Sát sinh sai biệt, tức là bảy câu kế tiếp.
  3. Sát chỗ sát sinh gọi là sát sinh, tức là câu thứ chín.

“Người chưa thọ giới… đã khởi thiện đến nay lại hành sát sinh, thường gọi là người sát sinh”, nghĩa là sau khi thọ giới thì không được tên sát sinh kia.

– Thứ ba, trong nhiếp chín làm một, là hợp chung lại gọi là sát sinh Bổ-đặc-già-la.

Trong “không cho mà lấy” cũng có ba đoạn:

  1. Nêu câu tổng.
  2. Giải thích riêng mười bốn câu.
  3. Lược nghĩa kết thành.

– Giải thích riêng mười bốn câu gồm:

  1. Hoặc tích tập hoặc di chuyển, là như lúa mè… các vật gọi là tích tập, hữu tình gọi là di chuyển.
  2. Hoặc không lìa xứ gọi là tích tập.
  3. Cử động lìa bản xứ gọi là di chuyển.
  4. Đối với xứ nhàn tĩnh nếu sinh, thì lúa mè… không lìa bản xứ, che đậy khiến cho sinh.
  5. Tập chuyển như trước.
  6. Nếu vật chủ kia không phải là chỗ ban cho trước như người trả nợ pháp.
  7. Như trả nợ pháp gọi là không cho.
  8. Không phải chỗ ban cho ở trước.
  9. Tương tợ như trả nợ gọi là không cho.
  10. Nếu tùy chỗ muốn thọ dụng của người trộm cắp mà vứt bỏ, gọi là vứt bỏ vật dụng thì có thể vô tội.
  11. Không tùy chỗ muốn thọ dụng của người trộm cắp mà vứt bỏ, gọi là không bỏ mà lấy.
  12. Văn thế đọc dài nghĩa đạo liền xa.
  13. Thao thiết, người tham tài là Thao, tham ăn là Thiết, là tuy hơn người khác nhưng hay gây tội lỗi.
  14. Cấu sở nhiễm, là tuy cạnh tranh mà được tài sản, tài sản đó đã không phải vật của mình, mà do giành lấy thì gọi là lấy một cách bất tịnh.

– Trong Lược nghĩa kết mười bốn câu có ba đoạn:

  1. Trộm cắp, đây là thành không cho mà lấy, tức là câu thứ nhất, đối với vật sở hữu của người khác.
  2. “Nếu tại xứ đó, như sự sai biệt đó mà như thật trộm cướp”, là mười một câu kế.
  3. “Do cướp trộm mà bị lỗi này”, tức là hai câu mười ba và mười bốn.

Lại nữa, giải thích làm năm kết:

  1. Trộm cắp, đây là kết câu thứ năm câu thứ sáu.
  2. Nếu tại xứ đó, là kết bốn câu đầu.
  3. Như sự sai biệt đó, là kết câu thứ tám trở xuống cho đến câu thứ mười ba.
  4. Như thật trộm cướp, là kết câu thứ bảy.
  5. Trộm cướp cho nên bị lỗi này, là kết câu thứ mười bốn. Tuy có giải thích chợt khó hiểu, nhưng nghiên cứu nghĩa, suy văn thì cũng có thể hiểu rõ.

“Thành nghiệp đạo cứu cánh không cho mà lấy”, là phải đối với bản xứ, hoặc sinh, hoặc tập, hoặc di chuyển, nếu không như thế thì liền thành không cho mà lấy Gia hạnh, cho nên Đối Pháp luận ghi: “Cứu cánh là lấy làm tự mình có”.

Trong Dục tà hạnh, văn cũng có ba đoạn:

  1. Nêu câu tổng.
  2. Giải thích riêng mười một câu.
  3. Lược kết.

– Mười một câu gồm:

  1. Chỗ thủ hộ đối với cha mẹ…
  2. Tự thủ hộ.
  3. Có trị phạt.
  4. Danh chướng ngại. Bốn loại này đều chưa thích hợp với người khác, luận tóm lược lại làm ba loại thủ hộ.
  5. Thê thiếp của người khác.
  6. Chỗ nhiếp của người khác.
  7. Hoặc do hung hăng dối trá.
  8. Hoặc do sức cưỡng ép.
  9. Hoặc do ẩn nấp.
  10. Hành Dục hạnh.
  11. Đối với sự này là Dục tâm phi lý mà hành Tà hạnh.

“Thành tà dục nghiệp đạo cứu cánh”, là thành sự giao hội. Đây là không phải thê thiếp của mình mà trở thành nghiệp đạo. “Phi đạo”, câu này có ba nghĩa:

1. Không phải đường để đi, là chi phần… không phải cửa sinh sản (sản môn)

2. Không phải đạo số, vượt quá năm Lượng.

3. Phi đạo lý, là thêm Thường pháp, tất cả người nam và bất nam, cho nên quyển 9 ghi: “Phi giao, Phi lượng, Phi lý, Nam và Bất nam không xứng lý”.

Phi xứ, là đặt xứ của Phật pháp Tăng, giường nằm của cha mẹ trải trên đất, chỗ không bằng phẳng, trong Tăng-già-lam. Phi thời nghĩa là có bệnh, mang thai, cho con bú. Ba sáng sáu tối, rộng như quyển 9 kia tự giải thích. Chỗ nói của những câu này, chỗ thê thiếp của tự mình cũng thành nghiệp đạo, là coi trọng về Ý lạc.

Trong lược nghĩa có ba đoạn:

1. Hoặc Sở hành của người kia, là nhiếp sáu câu trước, vì tuy chỗ làm cũng thành tội.

2. Hoặc Hành sai biệt, là nhiếp ba câu kế tiếp, vì phi lý mà hành.

3. Hoặc Dục tà hạnh, là nhiếp hai câu cuối, vì thành nghiệp đạo.

Hoặc trong câu riêng biệt hợp thành mười câu, bốn câu đầu hợp thành ba câu Thủ hộ, bảy câu sau thì như trước. Vọng ngữ cũng có ba đoạn, phải biết cũng như trước. Câu riêng biệt có mười câu. Hoặc Sứ kia, là người chạy việc, vì để vua sai khiến; hoặc là quan thuộc chấp hành trông coi lý pháp, hoặc biết bình quân nghị sự trái lý mà lập làm người giải quyết mọi việc, gọi là người chạy việc. “Nếu đã biết, là tùy theo ba câu trước, chỗ ngữ ngôn trải qua”, là tùy theo ba thứ Văn giác tri, chỗ ngữ ngôn trải qua mà hành vọng ngữ. Kiến trở xuống tự nói riêng, cho nên cả ba thứ (Văn giác tri) cũng vậy, hợp chung những thứ này gọi là Tri, không phải là Tri trong bốn thứ (Kiến văn giác tri), vì Tri kia thì bị câu thúc, Tri này thì rộng. Vọng ngữ nghiệp đạo cứu cánh, như Đối Pháp luận ghi: “Đại chúng thời đó và người đối nhau nói chuyện hiểu rõ”.

– Trong lược nghĩa có bốn đoạn:

  1. Y xứ, là kết năm câu đầu.
  2. Dị thuyết, là kết hai câu kế.
  3. Nhân duyên, là kết hai câu kế nữa, nhờ vào tự, nhờ vào tha.
  4. Hoại tưởng, là kết một câu cuối.

Trong Ly gián ngữ cũng có ba đoạn, câu riêng biệt có bảy câu, câu thứ ba là Hỷ biệt ly. Câu thứ tư là Vọng biệt ly, hai câu này tuy Hỷ sinh, chưa sinh phiền não. Câu thứ năm đối với câu thứ ba. Câu thứ sáu đối với câu thứ tư, hai câu này mới là phiền não sinh. Câu thứ bảy nói “Năng ly gián ngữ”, hoặc là không nghe; hoặc “Tha phương tiện”, là khi nói năng, người khác khiến cho không nghe; hoặc người khác tuy nghe, nhưng vì phương tiện mà không thọ lãnh lời nói ly gián đó. Đây là giải thích trong kinh nói Ly gián ngữ, không phải chánh giải thích nghiệp đạo. Đối Pháp luận ghi: “Cứu cánh này là chỗ phá sự lãnh hội”. Phương tiện trong đây là người khác lãnh hội, có thể là nghiệp đạo. “Người khác không nghe”, chỉ là nghiệp đạo Gia hạnh, đây là nhân theo giải thích chung với kinh cũng không có lỗi. “Hoặc tha phương tiện”, là khiến cho người khác nói Ly gián phương tiện ngữ, họ chưa hiểu rõ và họ không nghe. Hai câu này đều là nghiệp đạo Gia hạnh, nhân theo giải thích văn kinh, cũng không phải chánh giải thích nghiệp đạo, hoặc có nghĩa ngôn, chỉ nói Ly gián ngôn. Hoặc người không nghe và người đã nghe rồi mà phương tiện không lãnh thọ, đều là nghiệp đạo. Điều này trái với Quyết Trạch. Quyển 0 ghi: “Cứu cánh này là chỗ phá lãnh hội”, cho nên trước nói là “Thiện”.

– Trong phần kết có năm câu:

  1. Ly gián ý lạc kết câu thứ nhất.
  2. Phương tiện chưa hoại kết câu thứ hai.
  3. Phương tiện đã hoại kết câu thứ ba, thứ tư.
  4. Tâm ô nhiễm kết câu thứ năm, thứ sáu.
  5. Tha phương tiện kết câu thứ bảy.

Trong đây có nói “tâm chợt hiện”… là Tâm thứ nhất trong năm tâm, thì liền thành nghiệp đạo, vì người khác lãnh hội. Nếu y theo nghĩa này thì nghiệp đạo có chung tánh của Vô ký, nói sự chưa chu toàn thì người không lãnh hội, cho nên biết là tâm sau nhiễm ô.

Trong Thô ác ngữ, “đầu tiên”, là chỗ thuyết pháp, nói tiến đến Niết-bàn là thứ nhất, do lời nói này lấy làm trước tiên, sẽ tiến đến Niếtbàn, vì tương tục cho nên gọi là Vô tận, vì rộng lớn cho nên gọi là Vô biên, tức Niết-bàn này là sau cùng. “Lại nữa, có ba loại…”, là trong ba loại trước. Trong tối hậu thuyết pháp ngữ, trong mười hai câu trước, nhiếp đầu tiên, hay đẹp… tám câu, tức là trong các kinh, nói Phật thuyết pháp có tám Ngữ cụ. Do Trì giới ngữ, khiến cho người khác hoan hỷ có đủ tám Ngữ cụ. Trong tám Ngữ này lại phân ra làm ba, đây là các câu riêng hợp chung lại mười chín câu, mười hai câu đầu hợp thành ba loại, bốn câu kế đó nói Hữu vi hạnh ba đời, ba câu cuối nhiếp lại các Ngữ trước. Do phân rõ các câu đều có kết thiên một bên, cho nên không có lược nghĩa.

Trong Ỷ ngữ có mười hai câu, năm câu đầu gọi là Tà cử tội ngữ, tức là người cử tội trong luật, chỗ có đầy đủ năm Đức, sáu câu kế đó gọi là Tà thuyết pháp ngữ, một câu cuối cùng gọi là Phóng dật ngữ, cho nên lược kết nói là ba thời Ỷ ngữ. “Thô ác ngữ trước và Ỷ ngữ cứu cánh sau”, là phát các Ngữ kia.

Hoặc có vấn nạn rằng: “Vọng ngữ là dối láo với người khác, người khác hiểu thì thành nghiệp đạo; Ly gián ngữ là phá hoại người khác, người khác hoại thì liền thành nghiệp đạo”?

Đáp: Vọng ngữ vốn là dối láo với người khác, tin và không tin, hễ hiểu thì đều là nghiệp đạo. Ly gián ngữ vốn là ngăn cách người khác, hễ hiểu đều là nghiệp đạo.

Trong Tham dục, “ngay hai thứ này tổng gọi là Vật”, là tài vật và dụng cụ. “Cứu cánh (rốt ráo) này”, là vật sở hữu của người khác, tất cả vật sở hữu nhất định sẽ thuộc về ta, mà sinh tham ái nặng, không phải quyết định thuộc về tâm, nhẹ không phải là nghiệp đạo.

Trong phần lược nghĩa, tự tánh là câu đầu, sở duyên là câu thứ hai, hành tướng là câu cuối cùng.

Trong Sân khuể có năm câu, câu thứ nhất là Tự tánh sân, bốn câu còn lại là Sở duyên sân.

Lược Vô hành tướng, không khởi thì liền dứt, khởi thì nhiều liền thành nghiệp đạo, cho nên không nói. Phải đối với hữu tình mới thành nghiệp đạo, Phi tình thì nhẹ. “Cứu cánh”, là quyết định sẽ bị hại. Hiện tại lược nghĩa này, căn cứ theo Tham ở trước, Tham trần cứu cánh, trong đây không nói, căn cứ theo trước, phần nhiều thì đồng, dễ hiểu được, giải thích như trước.

Tà kiến có ba đoạn:

  1. Câu tổng nêu.
  2. Hiển mười bảy câu riêng.
  3. Lược kết.

“Là do ba loại Ý lạc, không phải bài bác bố thí”, Ý lạc thì không lấy tài mà hành thí, Ý lạc thì không có các phước điền thanh tịnh ái dưỡng cha mẹ…, Ý lạc thì không có tế Thiên cúng tế, lược nêu ra hai Thiên của loại Hỏa thiên, không có diệu hạnh. “Năng trị trong ác hạnh”, là phước nghiệp sự, là ba thứ Xan tham, Phạm giới và Tán loạn; gọi là Sở đối trừ, vì đã vượt qua các Phiền não riêng. “Tịch tĩnh gọi là Chánh chí”, là Niết-bàn. “Chánh hạnh”, là Đạo đế. Trong nhân Hữu học là chỉ thế gian này; đang khi Vô học quả là chỉ thế gian kia. Sở tác của sức sĩ phu nên gọi là Tự nhiên”, chỉ cho A-la-hán, do sức công đức của sĩ phu mà được quả Vô học quả này, cho nên gọi là Tự nhiên. “Thông tuệ”, là Lậu tận thông thứ sáu. Trên đây là chỗ bác không có pháp của chân A-la-hán, dưới đây là chỗ bác không có Vô học đạo của Kiến đạo và Tu đạo.

Lược nghĩa có hai đoạn, không kết hai câu đầu. “Thứ nhất phỉ báng nhân”, là không có bố thí… và không có diệu hạnh ác hạnh. Phỉ báng quả có thể biết. Trong phỉ báng công dụng có bốn đoạn:

  1. Nhiếp thực, là không có cha.
  2. Nhậm trì, là không có mẹ.
  3. Vãng lai, là không có đời này, đời khác.
  4. Cảm sinh nghiệp, là không có hữu tình hóa sinh, tức là thân Trung hữu.

Quyển thứ trước không có hữu tình hóa sinh, chỉ không thể thấy tướng sinh tử, hoặc sinh Vô sắc, hoặc nhập Niết-bàn, thì liền bác không có, gọi là không có Hóa sinh. Luận kia căn cứ theo Sinh hữu, luận này căn cứ theo thân Trung hữu, vì chỗ mong khác nhau cho nên cũng không trái nhau. Nghiệp là có Thức năng chuyển. Pháp trong công dụng, đang sinh Hữu cho nên gọi là Cảm sinh nghiệp, sau A-la-hán đều là thật sự.

Trong Lược nghĩa thứ hai, “lưu chuyển duyên”, là không có đời này đời kia, không có mẹ, không có cha. “Lưu chuyển sĩ phu”, là không có hữu tình Hóa sinh. Trung hữu sinh, là hợp chung gọi Sĩ phu. Không có A-la-hán… là gọi Đối trị hoàn diệt. Lại nữa, phỉ báng lưu chuyển nên biết, “phỉ báng nhân không báng tự tướng”, là giải thích chữ “lưu chuyển” trong phần kết thứ hai. Không phỉ báng Vô thế gian, cha mẹ, tự thể, chỉ phỉ báng không có nghĩa của Nhân từ đây đến kia. Cha mẹ… có thể nhậm trì nghĩa của Nhân. “Cứu cánh này”, là quyết định phỉ báng.

– Trong mười Thiện nghiệp đạo, Bạch phẩm có hai đoạn:

  1. Tổng nêu phần đang thuyết.
  2. Hiển riêng hai nghiệp đạo lìa tà dục, lìa vọng ngữ.

Vì đem hết mạng mà hành cho nên đã hành lâu xa Thanh văn giới và Bồ-tát giới. Phải biết lược nghĩa ngay trong đây, là trong ba thứ Thanh tịnh.

Trong vọng ngữ, “xứng đáng kiến lập là trong các sự tranh cãi trái nghịch kia, xứng đáng kiến lập làm chánh chứng”, là không có thiên lệch sâu xa đáng tin, xứng đáng kiến lập làm người chứng lý.

Trong ba Nhiếp thọ:

  1. Dục giải, tức là đáng tin, đáng uỷ thác ở trước, vì Ý lạc quyết định.
  2. Bảo nhậm, tức là xứng đáng kiến lập, đáng uỷ thác tin tưởng.
  3. Tác dụng, tức là không có hư dối, tức là tác dụng khởi thật ngữ.

Pháp tướng sai biệt, toàn văn lớn phân hai đoạn là nêu và giải thích. Trong giải thích lại phân hai phần là Bất thiện và Thiện. Quyển 9 ghi: “Mười ác nghiệp đạo có năm tướng sai biệt:

  1. Sự.
  2. Tưởng, Đối Pháp thì gọi là Gia hạnh.
  3. Dục lạc.
  4. Phiền não.
  5. Cứu cánh.

Như vậy trong sát sinh, đối với chúng sinh thì gọi là Sự, vì tự sát và Phi tình không phải nghiệp đạo. Khởi ham muốn sát hại gọi là Tưởng, vì khởi tưởng hại chúng sinh, có thể sinh Dục lạc, Tưởng từ tên của quả, khởi tâm nhiễm ô gọi là Dục lạc, nương vào tưởng này mà khởi tâm như vầy: “Ta sẽ hại để sinh khởi Dục lạc”. Khởi phương tiện sát, gọi là Phiền não, tướng phương tiện của tham sân si.

Trong Sát cứu cánh, chỗ có thân nghiệp gọi là Cứu cánh, hoặc Vô gián, hoặc sau khi chết, hoặc là bốn thứ này:

  1. Sự.
  2. Dục lạc.
  3. Phiền não.

. Phương tiện, tức là Tưởng, Đối Pháp luận gọi là Gia hạnh.

“Năm Cứu cánh hoặc phương tiện”, là Gia hạnh đạo, lược bỏ không có nói Tưởng của nó, nhân đó nói phương tiện, phương tiện không phải nghiệp đạo, chín nghiệp đạo còn lại căn cứ theo đây có thể hiểu. Luận này nói Dục lạc làm nhiễm tâm, là lựa riêng với từ bi thực hành sát sinh của Đại thừa Bồ-tát, trong Hậu đắc trí thì không phải nhiễm ô. Trong năm nghĩa nếu thiếu một thì không thành nghiệp đạo, phải đủ năm chi mới thành nghiệp đạo. Lại như sát sinh, đối với sát sinh kia mà không phải Tưởng sát sinh kia, không phải đối với các Tưởng sát sinh kia; Phi nghiệp đạo, đối với các Tưởng kia, không phải đối với sát sinh kia mà không phải Tưởng sát sinh kia, đều không thành nghiệp đạo. Các nghiệp đạo còn lại đều căn cứ theo đây mà biết.

Trong Dục tà hạnh, “chỗ không nên làm”, là ba nhiếp của người khác, tất cả nam và bất nam. “Nếu Phi đạo…”, nếu là vợ con của mình cũng thành nghiệp đạo, vì người khác nhiếp lấy.

Trong vọng ngữ, “giả dối chứng”, là trong Kiến văn giác tri giả dối chứng là không thấy nghe hay biết.

Trong thô ác ngữ nghiệp đạo, “là hữu tình khác”, đây là căn cứ theo Tăng thượng thù thắng ngữ, Đối Pháp luận ghi: “Chỉ phát lời ác thì liền thành nghiệp đạo”. Hoặc đối với hữu tình mới thành nghiệp đạo, Phi tình không đối thì đều không phải là nghiệp đạo. Quyển 0 ghi: “Thô ngữ nghiệp đạo thuộc chỗ hữu tình khởi”. Văn này cũng nói đối với hữu tình. Nhưng trong quyển 9 và Đối Pháp nói thô ác ngữ nhiễm mới hủy báng, nói phát ngôn gọi là Cứu cánh, không phải đều là nghiệp đạo.

Trong ỷ ngữ, “không nói Cảnh”, là Độc đầu ỷ ngữ, chỉ phát ngôn thì liền thành nghiệp đạo. “Chỗ nhiếp cùng với chỗ khác hợp chung”, là cũng có Cảnh, quyển 0 ghi: “Ba thứ sát sinh, thô ngữ và sân khuể, tham sân si làm Gia hạnh, Sân làm Cứu cánh. Ba thứ không cho mà lấy, Dục tà hạnh và Tham dục, cả ba làm Gia hạnh, Tham làm Cứu cánh. Ba thứ Vọng ngữ, Ly gián ngữ và Ỷ ngữ, cả ba làm Gia hạnh, cả ba làm Cứu cánh. Một thứ Tà kiến là Gia hạnh, Si làm Cứu cánh. Tụng rằng: Sát, thô, sân do Khuể, Trộm, tà, tham do Tham, Ba ba Tà kiến Nghi,Ác nghiệp đạo Cứu cánh.

Trong mười nghiệp đạo, thì Sát sinh, Tà hạnh, Vọng ngữ, Ly gián, Thô ngữ, Sân khuể, sáu nghiệp đạo này thuộc chỗ hữu tình khởi; hai nghiệp đạo không cho mà lấy và tham dục, thuộc chỗ tài sản khởi, vì hữu tình và vật đều là tài sản. Ỷ ngữ nghiệp đạo thuộc chỗ thân khởi, Tà kiến nghiệp đạo thuộc chỗ của các hạnh khởi, nếu hủy báng Vô vi, vì không thân cận, phải nói tụng rằng:

Hữu tình và tài sảnLà Hành xứ của thân

Sáu, hai, một và mộtNhư vậy nghiệp đạo khởi.

Trong mười Thiện nghiệp đạo, mỗi một nghiệp đạo đều có năm, đó là: Sự, Tưởng, Nghiệp, Phiền não và Cứu cánh.

Đoạn lớn thứ ba, nghiệp nhân theo mười hai chủng tướng, ba chủng tướng đầu là Bất thiện căn; thứ tư là do Tự lực; thứ năm là do Tha lực; thứ sáu là do chỗ đuổi bức của vua; thứ bảy là đã được vật của tự mình mà sinh tham dục, trước là tham vật của người khác, đây là tham ái tài sản của tự mình, cho nên thành sai biệt; thứ tám là có chỗ kinh sợ mà hành các nghiệp sát, đạo… như sợ người khác giết mình mà mình hành sát…; thứ chín vì có chỗ tổn hại, như chuột làm tổn hại vật, hoặc sợ rắn tổn thương mà hành sát…; thứ mười là một pháp Tưởng đem làm đạo lý, như chấp rằng hại sinh vật cho là chánh pháp.

Trong nghiệp vị, do “Nhuyễn phẩm bất thiện nghiệp sinh vào Bàng sinh…”, kinh Thập Địa ghi: “Trung phẩm thì sinh Súc sinh, Nhuyễn phẩm thì sinh Ngạ quỷ”, cùng với luận này không đồng. Quỷ có hai thứ:

  1. Phước đức.
  2. Bạc phước.

Luận này căn cứ theo trung phẩm bạc phước, luận kia căn cứ theo phước đức phẩm hạ, cũng không trái nhau.