DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 12

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 48

Trong giải thích giới trụ Tăng thượng, trước hỏi, kế là, giải thích, sau, là kết, giải thích hội danh. Trong giải thích có ba:

1. Giải thích về mười ý lạc, tức Địa luận gọi là phát khởi phần tịnh.

2. Nói về tướng trụ, luận kia gọi là phần tịnh của tự thể.

3. Nói về so lường. Địa luận vì lấy trước để so với sau, nên không có văn này. Nếu theo đoạn văn kết dưới đây, tức là chín đoạn. Các địa dưới, cũng tùy theo đoạn văn kết, tức chia ra ngần ấy đoạn, y theo đó sẽ biết.

Sơ địa ở trước vì thực hành mười ý lạc rất viên mãn, vượt nhập Nhị Địa. Trong mười ý lạc, chín thứ trước là lợi mình, một thứ sau, là lợi chúng sinh, tức do mười thứ ý lạc như thế, thành tựu phẩm thượng.

“Cho nên ngang bằng v.v…” trở xuống, là thứ hai, nói về Tự thể tịnh, trong đó, 1) nói về Thể của trụ. 2) “Ở trong trụ này v.v…” trở xuống, là nói về tướng trụ, gồm có năm câu: Hai câu đầu, nói về giới Luật nghi. Một câu kế nói về giới Nhiếp thiện pháp. Sau, có hai câu, nói về giới Nhiếp hữu tình.

Nói đầy đủ tánh giới trong trụ này, nghĩa là Sơ địa dù không cố phạm giới, cũng có lầm phạm.

1. Nay, vì ở Nhị Địa nên lầm phạm giới đều không có, nên gọi là đầy đủ, đây là câu một.

2. Phạm giới tà ác rất nhỏ còn không có, huống chi là phẩm trung, thượng, tức lìa tất cả thứ nhơ bẩn hủy phạm giới.

3. Lại, đối với mười thứ nghiệp đạo viên mãn hiển hiện v.v…, nghĩa là nhờ dứt trừ mười nghiệp đạo ác, nên mười nghiệp đạo thiện viên mãn, tự tánh thể hiện rõ.

Tánh giới đầy đủ như thế, có thể dùng tuệ mầu nhiệm, đối với nhiễm của thế gian, không nhiễm hiện hạnh của các nghiệp, quả Đẳng lưu Dị thục và Đẳng lưu của các nghiệp xuất thế, đều biết rõ như thật.

4. Nói tự dứt ác, tu thiện, lại khuyến khích người khác thực hành.

5. Nói về bình đẳng quán chúng sinh, thương xót chúng phải cam chịu đau khổ.

Nỗi khổ của nghĩa thứ nhất là hành khổ kia.

“Các Bồ-tát này an trụ…” trở xuống, thứ ba, là nói về suy lường, trong đó có hai:

1. Nói về quả điều phục, nhu nhuận.

2. Nói về gồm thâu quả báo, quả Phát Thú là Kiến giải, vì gồm thâu cuộc hạn ở Sơ Địa, nên ở đây không nói. Theo Pháp sư như Chánh giải thích “Vì chỉ bày phương tiện của đạo không mê, mà vì tu chánh hạnh, nên bỏ đi quả Phát thú. Lại, lấy trước so sánh với sau, nên không do nói đạo lý, mười Địa đều có quả phát thú. Quả của nguyện, nghĩa là đồng với Sơ địa, vì chẳng khác với trước, nên cũng không nói.

Trong quả điều phục, nhu nhuận, trước, chỉ chung đồng với trước. Sau, nêu dụ để làm rõ.

Nói thấy rộng thiện căn thanh tịnh của Chư Phật, như trước nên biết, nghĩa là trong Sơ Địa ở trước nói “đối với Phật, Pháp, Tăng, cúng dường, nhiếp thọ, dùng bốn thứ nhiếp thành thục hữu tình, dùng tất cả thiện căn để hồi hướng Bồ-đề.

Trong nêu thí dụ chỉ bày, trước là dụ, sau là hợp.

Ca-Tứ-Ta, là đá phèn xanh, đen. Bản dịch xưa rằng “Thuốc Catư-ta, Địa luận nói là đá phèn. Do thể chất vàng có vết bẩn nhỏ nhiệm, nên đặt đá phèn vào để trừ.

“Trong trụ này…” trở xuống, nói về gồm thâu quả báo, đầu tiên, là nói về quả của tại gia. Kế là, nói rằng “Phải biết oai lực vượt quá gấp mười lần trước, tức bảo cho biết quả của xuất gia.”

Bản dịch xưa rằng “Mười sự của thần lực, như Tu-đa-la nói “Theo như kinh Thập Địa rằng “1) Trong một niệm, được ngàn tam-muội, cho đến mười hai. Trong mỗi thân, có khả năng thị hiện ngàn Bồ-tát để làm quyến thuộc.

Trong đây nói rằng gấp mười lần, nghĩa là Sơ địa được một trăm, nhị địa được một ngàn, nên tức Bản dịch xưa rằng “mười việc” là sai lầm!

Có chỗ giải thích “Ở đây nói rằng “oai lực, tức gọi là nguyện biết quả.”

Giải thích này, không đúng. Trong kết giải thích hội danh, có ba:

  1. Kết, nói sơ lược.
  2. Chỉ kinh nói rộng.
  3. Giải thích hội tên khác.

Trong phần trước có chín câu:

– Một câu, kết mười ý lạc.

– Có hai câu, kết Giới luật nghi.

– Có một câu, kết giới Nhiếp thiện pháp.

– Có hai câu, kết giới Nhiếp hữu tình.

– Có một câu, kết quả điều phục, nhu nhuận.

– Có hai câu, kết gồm thâu quả báo.

Trong tăng thượng tâm trụ, cũng hỏi đáp, kết.

Chín câu trong phần đáp, theo Địa luận thì câu đầu là Nhị Địa thú nhập phương tiện của ba Địa. Câu kế là, tức là tâm của chánh trụ địa. Sau, có sáu câu nói về quả nhàm chán, tức tâm mãn của Địa.

Trong câu đầu nói rằng “Đã được mười thứ ý lạc thanh tịnh”, nghĩa là tự chia công hạnh trong Nhị Địa.”

“Lại, do mười tâm tịnh khác…” trở xuống, là nói về hạnh thắng tấn của Nhị Địa, cho đến nhập Tăng thượng tâm trụ. Mười tâm tịnh này, cho đến như Địa luận nói:

1. Dựa vào tăng thượng tâm trụ kia, khởi tâm niệm tịnh sâu sắc, như kinh nói “Vì tâm tịnh”.

2. Dựa vào không bỏ thừa mình, như kinh nói “Vì tâm không dao động”.

3. Đối với chí cầu pháp vượt hơn, khởi phương tiện thiện. Đây là chủ thể nhàm chán tai hại tham dục ở đương lai, như kinh nói “Vì tâm nhàm chán”.

4. Dựa vào không tham dục hiện của người, như kinh nói “Vì ly dục”.

5. Dựa vào không bỏ lợi đao của thừa mình, như kinh nói “Vì tâm không lui sụt”.

6. Dựa vào phiền não của Địa mình không thể phá hoại, như kinh nói “Vì tâm vững chắc”.

7. Dựa vào Tam-ma-Bạt-Đề tự tại, như kinh nói “Vì tâm rất sáng suốt”.

8. Dựa vào thiền định tự tại có sức, dù sinh xuống Địa dưới, nhưng không lui sụt, như kinh nói “Vì tâm đôn hậu”.

9. Dựa vào Địa dưới sinh, phiền não không thể nhiễm, như kinh nói “Vì tâm vui sướng”.

10. Dựa vào lợi ích chúng sinh, không cắt đứt các hữu, như kinh nói “Vì tâm rộng lớn”.

Theo Địa luận kia nói, trên đây tức giải thích về thu hướng phần công hạnh. Kế có một câu nói về tâm của trụ địa ban đầu, nghĩa là Bồtát an trụ, cho đến có thể khởi ý lạc thương xót rộng lớn, đó là khi Bồ-tát an trụ tăng thượng tăng trụ, đã có các thứ tai họa lỗi lầm, có thể làm hư hoại tất cả công hạnh lành, đều có thể khởi tâm sâu sắc nhàm lìa v.v… đối với các công hạnh đó.

Nói “Sinh tâm dựa vào nghĩa”, nghĩa là sinh tâm nghĩa lợi lạc, nghĩa là nghĩa lợi.

Kế có một câu nói về tâm chánh trụ địa, nghĩa là “quán các hữu tình, cho đến “đều nghe chánh pháp dùng làm duyên khởi, trong đó, đầu tiên, là quán phương tiện giúp cho hữu tình thoát khổ, chỉ là trí không có chướng ngại của Đức Phật kia. Kế là, tìm kiếm trí Phật, do Học kia khởi trí vô phân biệt. Kế là, tìm kiếm trí này do dựa vào định khởi, nghĩa là tức định v.v… mà ba Địa đã tu. Lại, tìm kiếm ở định này, biết nhân giáo pháp, khởi sự lắng nghe làm đầu.

“Quán thấy từ đây…” trở xuống, có sáu câu, là quả của phần nhàm chán. Đầu tiên, đối với chánh pháp, học hỏi, tìm kiếm không biết mệt mỏi.

1. Từ câu “Bồ-tát phát khởi tinh tấn như thế” trở xuống, là có khả năng chính tu pháp tùy, pháp hạnh.

2. Từ câu “Đã phần nhiều trụ rồi, lại ruồng bỏ v.v…” trở xuống, là ruồng bỏ tĩnh lự, tùy lạc, ái, sinh cõi Dục.

Nói “Như thế, Bồ-tát vì lìa dục tham, nên gọi là cắt đứt sự trói buộc của dục, nghĩa là lìa dục được được định.”

Lìa bỏ Tĩnh lự, đẳng trì, Đẳng chí, nên gọi là dứt trừ hữu tình trói buộc, nghĩa là bỏ định trên, không thọ, gọi là cắt đứt sự trói buộc của hữu.

Ở trước từ hạnh địa thắng giải, cho đến rốt ráo không chuyển biến, Luận sư Cảnh nói “Ở trước, từ Thắng giải địa nhập Chân như quán, đã đoạn Kiến phược, tà tham, nhuế, si, rốt ráo không chuyển biến.” Pháp sư Thái nói “Do từ Thắng giải hạnh Địa, vì tu thắng giải ở đối với pháp Chân như, nên đã dứt trừ kiến phược trong Sơ địa. Dựa vào các Kiến phược mà khởi tà tham, nhuế, si cũng diệt theo. Nếu phân biệt ngã kiến gồm thâu Kiến phược, thì sẽ dứt hết hạt giống trong Sơ địa. Nếu câu sinh ngã kiến là dục phược, thì sẽ thuộc về hữu phược. Trong Địa thứ tư, khuất phục, không để sanh khởi, đến Kim Cương, mới dứt trừ hạt giống.

Biên Kiến cũng chung cả phân biệt, Câu sinh, như đối với ngã kiến dứt trừ. Nếu hai thủ tà kiến vì phân biệt khởi, thì ba Kiến này chỉ gồm thâu kiến phược. Bồ-tát Sơ địa hạt giống cùng tận.

3. Từ câu “thấy nhiều Chư Phật…” trở xuống, là nói về quả điều hòa, nhu nhuận.

Địa vị xứng lượng v.v…, nghĩa là Nhị Địa trước như tôi luyện khoáng chất chưa hết, gọi là thiêu hủy nhẹ hai Hữu. Nay, ở ba Địa, như khoáng chất hết, vàng sạch, gọi là hai trụ định.

4. Nói về sự thọ sinh.

5. Nói về oai lực, đều là văn gồm thâu quả báo. Luận sư Cảnh nói “Có oai lực…” trở xuống, nói về quả oai lực trong quả của nguyện trí, giải thích không như vậy.

Trong đoạn kết, trước, kết nói sơ lược, kế là, chỉ kinh nói rộng. Sau, giải thích hội tên khác.

Do phát nghe, thực hành chánh pháp sáng suốt, đẳng trì sáng suốt v.v…, nghĩa là khi cầu pháp, vì văn tuệ soi rọi pháp sáng suốt, nên nói “nghe, thực hành chánh pháp sáng suốt. Do nghe sinh tu, nên nói “đẳng trì sáng suốt v.v….”

Do nội tâm tịnh, nghĩa là Địa này vì chứng nội, tu tuệ sáng suốt, nên nói “nội tâm tịnh”. Ý tịnh Vô lậu, gọi là nội tâm, nghĩa là tức định.

Trong phần giáo tương ưng với Tăng thượng tuệ trụ, gồm có hỏi, giải thích, và kết.

Y theo văn kết dưới đây thì sẽ biết trong phần giải thích có mười ba đoạn.

Trong phần đầu nói “ các Bồ-tát, cho đến “Nên biết tướng v.v…

kia”, nghĩa là theo như Địa kinh nói “Sẽ dùng mười pháp sáng suốt nhập Địa thứ tư, mười pháp là gì? Cho đến nói rộng.

Địa luận giải thích “Pháp sáng suốt nhập, nghĩa là được chứng Địa sáng suốt, dựa vào trí sáng suốt đó, nhập vào pháp mà đức Như lai đã nói. Trí đó được gọi là pháp sáng suốt nhập. Pháp mà đức Như lai đã nói đó, do chánh quán tư duy so lường, biết như thật về hai Xứ là thuận theo hạnh. Sự tư duy so lường này có mười thứ khác nhau:

1. Tư duy so lường phân biệt chúng sinh, giả gọi là sai biệt, như kinh nói “So lường giới chúng sinh vì sáng suốt hội nhập.”

2. Y kinh phân biệt, như kinh nói “So lường thế giới, sáng suốt thể nhập.”

3. Dựa vào nhiễm phân biệt, như kinh nói “So lường pháp giới, sáng suốt thể nhập.”

4. Vô tận phân biệt, như kinh nói “So lường hư không giới, sáng suốt nhập.”

5. Nhiễm, tịnh y chỉ phân biệt, như kinh nói “So lường thức giới, vì sáng suốt nhập.”

6. Phiền não khiến nhiễm phân biệt, như kinh nói “So lường cõi Dục, Sắc, Vô Sắc, sáng suốt nhập.”

7. Tịnh phân biệt, như kinh nói “So lường tâm vượt hơn, quyết định tín, giới, vì sáng suốt nhập.”

8. So lường tâm đại, quyết định tín, giới, vì sáng suốt nhập.Sử phiền não trong đây, nói là ba cõi tịnh, nghĩa là hai câu:

9. Dựa vào phiền não bất nhiễm.

10. Dựa vào không bỏ nghĩa đồng, không đồng, của chúng sinh, Thanh văn v.v….

Nay, luận này nói “Nếu giả thuyết v.v…”, Luận sư Cảnh nói “Trong đây chỉ có mười pháp sáng suốt nhập đã nói sơ lược về nghĩa, Nghĩa là nếu pháp kia là giả lập thì sáng suốt nhập thứ nhất. Chúng sinh là sự nhóm họp giả có. Nếu do giả thiết ở trong đó, là thứ hai.

Đối với thế, chỉ, trụ, là giả lập. Thế giới nhập cũng là sự nhóm họp giả có. Nếu do giả thiết này là thứ ba, thì là pháp nhiễm của ba tánh như thiện hữu lậu v.v… Do pháp ba tánh của pháp giới này, giả thiết chúng sinh và khí thế giới. Nếu Thắng nghĩa bình đẳng, là thứ tư. Đại hư không này cũng có thể nói Chân như kia gọi làhư không, nên trong đây nói Thắng nghĩa bình đẳng. Nếu vì nhiễm não, vì thanh tịnh nên trở thành nhiễm, thành tịnh, là thứ năm. Do thức là chỗ nương tựa của nhiễm, tịnh, nên nói thành nhiễm, thành tịnh. Nếu do phiền não ràng buộc mà nhiễm thì đó là thứ sáu, thứ bảy, thứ tám.

So lường cõi Dục, Sắc, Vô Sắc, dùng sự ràng buộc để kiến lập riêng ba cõi, nếu do thanh tịnh vô thượng mà tịnh, thì tức là thứ chín, thứ mười.

1. So lường hai pháp thắng thiện, đại thiện sáng suốt nhập. NiếtbànVô lậu của Nhị thừa bất nhiễm, gọi là thiện vượt hơn. Vô lậu của Đại thừa vì vượt hơn Nhị thừa, nên gọi là Đại thiện.

2. Nói về Thành tựu trí, như khế kinh nói “Ý lạc không hư hoại mà là thượng thủ, cho đến đều thành thục”, nghĩa là mười thứ Pháp trí, chủ thể thành tựu trí; Trí là được thành tựu. Mười thứ này là Pháp thành tựu trí, là ý nghĩa trong đây.

Ý lạc không hư hoại, mà làm Thượng thủ, Pháp sư Cơ giải thích

“Tức thứ nhất trong mười pháp, nên nói là Thượng thủ.” Luận Địa Trì bản cửu dịch nói “Thành thục tịnh không hư hoại là đứng đầu.” Địa kinh tương đương với thứ hai, đồng kính Tam Bảo, gọi là tịnh không hư hoại. giải thích này tương đương với tâm không lui sụt thứ nhất kia. Không hư hoại, tức là nghĩa không lui sụt.”

Kinh rằng “Vì trí đầu tiên nên nói là thượng thủ.” kinh ấy nói “Các Phật tử là Bồ-tát được Đại địa, tức nương tựa vào nhà Như lai, chuyển biến có thế lực vì được pháp nội, dùng mười thứ pháp trí, giáo hóa thành thục chúng sinh. Mười trí đó là:

  1. Tâm không lui sụt.
  2. Nương tựa Tam Bảo, quyết định cung kính, vì rốt ráo hết lòng.
  3. Phân biệt quán hành sinh, diệt.
  4. Phân biệt quán tự tánh các pháp bất sinh.
  5. Phân biệt quán tuệ thanh tịnh của thế gian.
  6. Phân biệt quán ưa có sinh.
  7. Phân biệt quán Niết-bàn thế gian.
  8. Phân biệt quán Nghiệp sai khác của thế giới chúng sinh.
  9. Phân biệt quán sự khác nhau giữa mé trước, mé sau.
  10. Phân biệt quán không có cùng tận.

Nói lớn lên trong nhà Như lai, nghĩa là Sơ địa, gọi là sinh vào nhà Như lai. Đã sinh trong nhà Như lai rồi, nay, Địa v.v… này, gọi là lớn lên trong nhà Như lai.

Được pháp thề kia, Luận Địa Trì bản cựu dịch nói là được tự tại.

kinh rằng “Được lớn lên trong nhà Như lai rồi, được thế lực tự tại. Lại, được Pháp thể, được thể của Như lai, nghĩa là Chân như là Pháp thể.” Lại, mười tự tại, gọi là Pháp thể.

Nói về tu tập pháp Bồ-đề phần. Nói “Quán nhất thiết chủng Bồđề Tát-đỏa, vì sức tăng thượng. Đây là nói tu phần giác. “Duyên” Bồđề, gọi là giác, là cảnh được mong cầu. Tát-đỏa, Hán dịch là hữu tình, là cảnh được giáo hóa. Lại, năng cầu giác ngộ hữu tình. Lại, Tát-đỏa là nghĩa mạnh mẽ, mạnh mẽ cầu đại Bồ-đề.

Nói về dứt trừ thân kiến v.v…, Địa này có khả năng ra lìa, điều phục ngã kiến trong thức thứ sáu. Ngoài ra, tham, sân v.v… hãy còn. Thức thứ bảy kia vẫn còn điều phục khi nhập Bát Địa.

“Do dứt trừ kia…” trở xuống, là thứ năm, nói về chế nghiệp, khai nghiệp, xa lìa tập gần.

“Đã như thế…” trở xuống, thứ sáu, nói về tâm điều hòa, nhu nhuyến.

Theo Địa luận, có mười tâm:

  1. Tâm nhuần thấm lợi ích.
  2. Tâm mềm mỏng
  3. Tâm điều hòa.
  4. Tâm vui, yên ổn.
  5. Tâm bất nhiễm.
  6. Tâm chuyển, cầu thắng hạnh thượng thượng.
  7. Tâm chuyển trí thù thắng.
  8. Tâm cầu thế gian.
  9. Tâm cung kính các thầy, thuận theo thọ giáo.
  10. Tâm hễ nghe được pháp nào liền tu hành pháp đó.

Nay, luận này có ba câu:

1. Nhuận thấm, nhu hòa, gồm thâu chung ba tâm ban đầu kia, cũng có thể thấm nhuần là tâm nhuận ích đầu tiên. Nhu, là tâm mềm mỏng thứ hai; Hòa là tâm điều hòa thứ ba.

2. Có khả năng gồm thâu tâm bất nhiễm, vui yên ổn kia.

3. Tâm kia chuyển biến, thêm vào đó, các thứ hành tướng đều khéo thanh tịnh, gồm thâu năm tâm sau kia.

Lại, “khéo biết ơn…” trở xuống, thứ bảy, nói về thuận theo công đức đều hưng thịnh, như Địa kinh nói “Bồ-tát này thành tựu tâm biết ơn như thế, với tâm biết trả ơn chuyển sang tâm ngay thẳng, nhu hòa, đồng dừng ở yên vui, tâm nhuyến không có rừng rậm, hạnh không có dua nịnh, cong vạy, không có ngã mạn. Khéo thọ lãnh sự dạy răn, được gọi là ý.”

Luận này nêu hai câu đầu, đồng lấy câu khác. Tìm kiếm Địa trên đến xa được an trụ, là chi Đại tinh tấn của nghiệp tu trị Địa thứ tám.

Địa kinh nói về mười tinh tấn:

1) Tinh tấn, không thôi dứt, cho đến điều lành thứ mười, phân biệt là Tinh tấn của Đạo, chẳng phải Đạo, như kinh kia nói rộng.

Nói về ý lạc thắng giải tịnh tu trị.

Nói về Thánh giáo, oán thù không thể lấn át, nghiêng động.

Địa kinh nói “Là, Bồ-tát, tâm sâu, cõi thanh tịnh. Tâm sâu, cõi không mất. Tín hiểu cảnh giới chuyển biến sáng suốt, sinh thiện căn tăng trưởng, xa lìa vẩn đục, của thế gian, dứt trừ các tâm ngờ vực, không có lưới nghi. Hiện ở trước đầy đủ thành thục Hỷ, lạc. Đức Như lai hiện ở trước, che chở vô lượng tâm sâu hiện tiền thành thục.”

Nay, xếp đoạn văn kia chính thuộc về câu này, nghĩa là cho đến thiện căn tăng trưởng, phối hợp với câu thứ chín.

“Xa lìa vẩn đục thế gian v.v…” trở xuống, là phối hợp với câu thứ nhất.

Cũng có thể hệ thuộc chung câu thứ chín để giải thích.

“Thấy rộng Chư Phật v.v…” trở xuống, thứ mười một, nói về thiện căn thanh tịnh, gọi là quả điều nhu.

“Phần nhiều làm v.v…” trở xuống, là câu thứ mười hai gọi là quả Nhiếp pháp.

Tô-Dạ-ma, Hán dịch là thiện thời phần. Dưới đây, trong giải thích hội danh nói là pháp Bồ-đề phần, như Phật biết ánh lửa có thể thành tựu giáo chánh pháp, tuệ soi sáng v.v…. Luận sư Cảnh nói “Trí của phẩm tu đạo trong bốn Địa, gọi là ánh lửa, trí có thể lập giáo, gọi là Tuệ, gọi là Diệm Tuệ địa.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “giáo chánh pháp là đối tượng soi rọi. Trí này vì hay soi rọi giáo chánh pháp, nên gọi là Diệm Tuệ địa.” Trong các Đế tương ưng với Tăng thượng tuệ trụ, giải thích, kết.

Trong giải thích có mười:

Tu mười thứ ý lạc bình đẳng, được nhập Ngũ Địa.

Nói “Như Khế kinh chép: “Nên biết tướng kia”, nghĩa là như kinh Thập Địa nói “Các Phật tử trong Ngũ Địa! Nếu Bồ-tát được Địa Bồ-tát thứ tư khéo viên mãn các công hạnh xong, muốn nhập Địa Bồ-tát thứ năm, thì phải dùng mười tâm tịnh, sâu sắc bình đẳng để nhập Địa thứ năm, mười tâm tịnh là?

  1. Tâm tịnh sâu sắc, bình đẳng của pháp Phật quá khứ.
  2. Pháp Phật ở vị lai.
  3. Pháp Phật hiện tại.
  4. Giới tịnh.
  5. Tâm tịnh.
  6. Dứt kiến, nghi, hối, tịnh.
  7. Trí đạo, phi đạo tịnh.
  8. Hành đạo, trí tịnh.
  9. Tịnh thượng thượng, so lường tất cả pháp Bồ-đề phần.
  10. Tâm tịnh sâu sắc bình đẳng hóa độ chúng sinh tịnh.

Luận rằng “Đối trị mạn vượt hơn, nghĩa là mười tâm tịnh sâu sắc, bình đẳng vì đồng nghĩ đến tâm không lui sụt, nên ở trước đã nói giải pháp đối trị ngạo mạn. Nay, trong Địa này nói thân tịnh, đối trị với mạn phân biệt, cho đến giải thích rộng.”

Giải thích “ở Tứ Địa, tự cho rằng mình được sinh vào nhà Phật vượt hơn Tịnh, vì được pháp nội tịnh của phẩm Đạo kia, nên khởi ngạo mạn Thân tịnh, chính là che lấp nghĩa bình đẳng của Pháp thân. Nay, tu bình đẳng, chính là trị tâm kia.”

Ba tâm trước trong mười tâm này quán Pháp thân, tu tâm bình đẳng, dứt trừ ngạo mạn khởi trên nội pháp của phần đạo lợi mình, lợi người mà nhà Phật đã được.

Trong đây, Pháp sư Cảnh, Cơ đồng giải thích rằng “Nói là Vô đẳng giác, nghĩa là giác biết tất cả công đức của Phật ba đời, tất cả pháp bình đẳng, Phật là đấng không ai bằng, giác ngộ không có ai bằng này gọi là Vô Đẳng giác, do Phật ba đời tức là ba bình đẳng, tức không có ngang bằng với không có bình đẳng.”

Nói ngang đồng với các giác, tức là sáu thứ kế thuận theo Pháp của Chư Phật ngang bằng với giác của ba đời là nhân, nên nói là ngang bằng với các giác. Dù có sáu thứ, nhưng chủ yếu gồm có ba, cái gọi là ba học: Một học đầu là giới, một học kế là định, bốn học sau là tuệ. Dù chia ra bảy, cái gọi là bảy tịnh:

  1. Giới tịnh.
  2. Định tịnh.
  3. Kiến tịnh, trừ Thân kiến.
  4. Độ nghi tịnh, trừ nghi.
  5. Đạo, phi đạo tịnh, trừ giới thủ.

Nắm thứ lớn, nhỏ trước này gọi là đồng; hai thứ sau, gọi là khác. Người Tiểu thừa.

6. Hạnh tịnh.

7. Hành đoạn tịnh, do người Tiểu thừa thú hướng Diệt tận.

Người Đại thừa: Thứ sáu, gọi là Hành đoạn, thứ bảy gọi là so lường tịnh thượng thượng của pháp Bồ-đề phần, do dựa vào sự đoạn kia vượt qua sự mong cầu vượt hơn trong Đại thừa. Như bảy tịnh này tức sáu bình đẳng, do hợp với độ hai Nghi, Kiến làm một, vì độ Nghi Kiến bình đẳng.

Nếu y theo địa vị để nói, thì giới, định ở trước Kiến đạo, ba thứ kế, ở Kiến đạo, hai thứ sau, ở Tu đạo.

Nếu vượt qua các cõi hữu tình khác, tức là tâm tịnh sâu sắc bình đẳng, giáo hóa chúng sinh tịnh. Đấng Đại bi giáo hóa, đem lại lợi ích cho chúng sinh vượt qua người Nhị thừa, phàm phu v.v…. Chín thứ trước trong mười thứ này là lợi mình, một thứ sau là lợi người.

Nói “và các pháp, như bình đẳng kia”, nghĩa là giải thích từ ngữ bình đẳng, tương đương với Địa luận rằng “Do tâm được thanh tịnh trong bình đẳng, nên gọi là tâm tịnh sâu sắc bình đẳng.” Nếu theo Luận sư Trắc thì nói là Vô Đẳng giác, ngang bằng với các giác, là ba câu trước trong kinh, là pháp của Chư Phật.”

Nói “Kể cả các pháp như bình đẳng kia, là bảy câu sau trong kinh, là thuận theo pháp của Chư Phật.”

Nói về khéo quán Đế. Rằng, thường mong cầu tánh cao siêu của trí, nghĩa là trụ trong Ngũ Địa, phần nhiều mong cầu trí quán các Đế.

Đối với bốn Thánh đế, đến “nên biết tướng của Đế kia”: nghĩa là y theo kinh này có mười bốn Đế. Bốn là gốc, mười là ngọn. Ngọn, giải thích gốc, bốn chẳng phải có pháp riêng. Mười Đế là:

  1. Thế đế.
  2. Đệ nhất nghĩa đế.
  3. Tướng đế.
  4. Sai biệt đế.
  5. Thuyết đế.
  6. Sự đế.
  7. Sinh khởi đế.
  8. Tận Vô sinh đế.
  9. Nhập đạo đế.
  10. Các Địa Bồ-tát khởi trí đế của Phật.

Hai đế đầu là hai Đế Chân, Tục. Bốn Đế kế là, gọi là khổ đế; một đế kế là, gọi là Tập đế; một đế kế là gọi là Diệt đế; hai đế sau, gọi là Đạo đế.

Chín trí trước giáo hóa người Tiểu thừa, một trí sau, giáo hóa người Đại thừa. Kinh ấy đã nói rộng, trong đây chỉ nói nghĩa sơ lược, rằng dựa vào hiểu biết rõ người khác cho đến “gọi là thuyết như thế. Nghĩa là dựa vào làm cho người khác hiểu biết v.v…. Ba trí đầu, Pháp sư Huyền Trang có hai giải thích: Dựa vào làm cho người hiểu rõ thì đây là câu một, nghĩa là dùng bốn Thánh đế để giáo hóa người Nhị thừa, nên nói là “tha” (khác). Dựa vào tự nội trí, đây là câu thứ hai, nghĩa là dùng trí này giáo hóa chúng sinh mang chủng tánh Đại thừa. Chúng sinh của chủng tánh Đại thừa là tự thừa của Phật, nên gọi là dựa vào tự nội trí. Dựa vào đều có nơi chốn, đây là câu thứ ba. Nghĩa là hai trí trước là Biệt giáo, đây là câu một, là Tổng giáo. Hai Đại thừa, Tiểu vì những người chung, riêng của hai thừa này nói bốn Đế, gọi là thuyết này.”

Lại, giải thích “Ba câu đầu tức ba lần xoay bánh xe pháp, dựa vào sự làm cho người hiểu biết là thị hiện chuyển tướng, nghĩa là bảo cho người khác biết rõ đây là khổ”, cho đến “đây là đạo”. Dựa vào tự nội trí là tướng chứng chuyển, rằng “Nỗi khổ này ta đã biết”, cho đến “đạo này ta đã tu”. Dựa vào xứ sở đều có, nghĩa là khuyến chuyển, nghĩa là bảo rằng “Nỗi khổ này ta đã biết, ông nên biết”, cho đến “Đạo này ta đã tu, ông nên tu.” Vì ba chuyển này, nên gọi là thuyết này, tức là ba hành tướng.”

Kế là ba tạng, khế kinh là kinh, Điều phục, là Tỳ-nại-da, là Luật Bản Mẫu là Ma-đát-lý-ca, là luận do ba Tạng này, nên ta nói bốn Đế, gọi là “do thuyết này”. Vì khắp ba thứ trước, nên hợp thành sáu thứ. Dựa vào tự tánh của mọi nỗi khổ trong hiện tại là khổ đế, dựa vào nhân của nỗi khổ ở vị lai, sinh ra tánh là Tập đế. Dựa vào nhân hết, nỗi khổ kia hết, không có sinh, là Diệt đế, tức nhân diệt hết, quả diệt hết. Dựa vào sự tu tập tánh của phương tiện dứt kia là Đạo đế. Nói Bốn đế như thế, gọi là “thuyết như thế”, tức là mười hành tướng.”

Luận sư Trắc nói “Hiểu rõ người khác, tức chín trí trước trong mười tướng trí mà Địa luận đã nói, là tạo ra trí của người Tiểu thừa. Đối với “Đại”, gọi là “tha”.

Dựa vào tự nội trí, là một trí sau. Đối với “Tiểu” gọi là “tự”. Trí của hai câu này, tức trí của mười tướng.

Dựa vào đều có nơi chốn. Nghĩa là trí bốn Đế bao gồm chung tự, tha, gọi là “câu”. Vì ba câu này nói hai môn trí.

Dựa vào khế kinh v.v…. Nghĩa là trí của ba câu này do ba Tạng giáo, nên nói. Dựa vào tự tánh của các khổ ở hiện tại, đây là cảnh sở duyên của hai môn trí.

Như thuyết này nói, nghĩa là đạo lý bốn Đế này có thật, không có thật, tánh tướng thường trú, pháp thật, phân biệt trí quán, tức là sự khác nhau giữa bốn Đế này, nói là mười Đế, là phương tiện trí giáo hóa chúng sinh.

“Như thế, Bồ-tát khéo léo đối với Đế…” trở xuống, là thứ ba, nói về phá hoại các hành, thương xót hữu tình. Dùng tuệ để hủy hoại chính đáng. Địa kinh nói “Biết như thật tất cả hành vi đều là luống dối.”

“Hoặc phàm phu nhiếp thọ cho đến “tâm phát chánh nguyện”, là câu thứ tư.

Và, “Tức đối với hữu tình kia, cho đến “đều thành thục”, là câu thứ năm.

Và, tức dùng ý lạc, chánh nguyện kia làm chủ thể nhiếp, chánh niệm, tuệ hạnh v.v… là đối tượng tu, khởi niệm, tuệ, tàm, quý v.v…. Vì niệm, tuệ trong các đức thù thắng ở ngay lúc đầu, nên nói Niệm, Tuệ là thượng thủ.

“Các tác ý, cho đến “thành thục hữu tình” là câu thứ sáu.

“Như khế kinh nói…”trở xuống, là thứ bảy, nói về dẫn phát nghiệp công xảo thế gian, trong đó chia làm hai:

  1. Nói chung về nguyên nhân dẫn phát.
  2. Kết luận.

Trong phần trước có mười hai câu. Câu đầu là chung, mười một câu sau là giải thích riêng.

Sở dĩ khéo về năm luận, là nói có thể lợi ích hữu tình, viết chép, biện luận, in ấn, toán số v.v…, nghĩa là nhưng loại sách này có bốn thứ chướng đối trị, bốn chướng đó là:

1. Chướng quên trong việc đã sử dụng: Lấy cho, gửi gắm, dặn dò, nghe pháp, tư duy nghĩa, những việc làm, không làm; việc đã làm, chưa làm, việc nên làm, không nên làm. Đây là đối trị với loại sách cũ.

2. Chướng tà kiến, trí nhu, dùng Nhân Luân, Thinh luận để đối trị hai thứ luận cũ này.

3. Chướng vật đã lấy, không giữ gìn. Đây là đối trị in ấn cũ.

4. Chướng lấy, cho, sinh nghi. Đây là đối trị toán số cũ. Số là một với một là hai, hai với hai là bốn, như thế v.v…. Toán là từ mười ngang, như thế v.v….

“Ngoài ra, tất cả…” trở xuống, là thứ tám, nói về thiện căn thanh tịnh.

Vật báu Mâu-Bà-La: ở đây nói là báu Mã não, nghĩa là Địa trước, ở trên vàng, đã thêm Mạt-Ni Bảo. Nay, Địa này lại thêm báu mã não.

“Thọ sinh, thường làm v.v… trở xuống là thứ chín nói về thọ sanh.

San-Đô-Sử-Đa, Hán dịch là Hỷ túc, đây là gồm thâu quả của tại gia trong quả báo. Nếu ở trong loài người, cũng có quả của xuất gia.

Sở dĩ oai lực, phải biết đây là nói số ngàn câu chi, là câu thứ mười.

Trong Duyên khởi tương ưng với tăng thượng tuệ trụ, gồm có câu hỏi, giải thích, kết.

Trong phần giải thích có mười:

Đầu tiên, nói về mười pháp thành tựu, viên mãn, được nhập Trụ này, như Địa kinh nói “Phải dùng mười pháp bình đẳng mới được nhập Địa thứ sáu. Mười pháp đó là:

1) Tất cả pháp vô tướng bình đẳng, cho đến nói rộng. Nay, trong đây nói “Đối với tất cả pháp, do có tự tánh thắng nghĩa, vì tánh bình đẳng, cho đến “có”, “không”, chẳng hai, vì tánh bình đẳng nên ngang bằng. Như Luận Địa Trì bản cựu dịch nói “Có số một, hai v.v… là dùng số để nêu danh luận này có mười một chữ “cố”, không thể thêm. Vả lại, theo bản dịch xưa nói “Số một là tự tánh bình đẳng của nghĩa đệ nhất, hợp với thứ nhất trong đây, là tánh bình đẳng vô tướng của tự tánh Thắng nghĩa, tức hợp với Vô tướng bình đẳng của tự tánh tất cả pháp bậc nhất của kinh. Ý trong đây nói là do “duyên” lý Thắng nghĩa, nên tất cả pháp bình đẳng. Như Bản dịch xưa quyển hai nói “Không có lời nói, thực hành vô tướng bình đẳng, hợp với nay nói rằng “lời nói, tạo tác, ảnh tượng, tánh bình đẳng vô tướng, hợp với kinh nói “Vô tướng bình đẳng thứ hai.” Trong đây Ý nói “Tất cả lời nói, tạo tác, ảnh tượng v.v… đều do tưởng khởi.” Nay, tướng này cũng là không, không có tướng bình đẳng. Về lý, vốn là vô tướng, vì “có” là do giả dối sinh ra, như bản dịch xưa nói ba là vô sinh bình đẳng, hợp với nay nói “Tức do tướng này tự nhiên bất sinh, vì tánh bình đẳng”, hợp với kinh nói “Vô sinh bình đẳng.” Luận sư Cảnh nói “Tức ở trước dựa vào pháp nhân sinh, nên gọi là Vô sinh bình đẳng.”

Pháp sư Khuy Cơ giải thích “Ý ở đây cho tức do tâm tưởng này là không nên tự nhiên không có khổ sinh ra. Lại, tức do đây, đối với lời nói, tạo tác, vì tánh y tha bình đẳng, nên chấp có tự nhiên sinh, Tự nhiên bất sinh này chỉ là nhân duyên sanh nên nói Vô sinh bình đẳng, không có tự nhiên sinh.”

Giải thích trước là hơn. Như bản dịch xưa nói “Bốn là nhân duyên không vượt qua bình đẳng, thích hợp với nhân này cũng là bất sinh, vì tánh bình đẳng, thích hợp với kinh nói rằng “Không có thành bình đẳng.” Nay, lại nói rằng “Vì lẽ tự nhiên với nhân đều bất sinh”, nghĩa là nêu cả hai câu trước, để khởi sau.” kinh nói “Không có thành bình đẳng, Sớ rằng “Do Vô sinh, nên cũng không có tánh khổ, trở thành khởi hiện ở trước.”

Ngài Tam Tạng nói “Nhân là “năng thành”, quả là sở thành (đối tượng thành). Chấp có Tự Tại thiên v.v… là nhân. Nhân đã không thể sinh, nên nói là không thành bình đẳng, bởi vì từ nhân duyên sinh, nên tự nhiên với nhân đều bất sinh, nghĩa là chấp có trời Tự Tại v.v… làm nhân sinh ra đều bất thành.”

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích “Sinh bất bình đẳng trước, nghĩa là tâm tưởng tạo tác vì đồng đẳng không có nên nỗi khổ tự nhiên bất sinh, chứ chẳng phải chỉ tự nhiên bất sinh. Nay, vì nhân cũng là không, nên không thành bình đẳng. Tự nhiên với nhân đều bất sinh, nghĩa là hai lớp giải thích lại nghĩa quả, nhân đều sinh, tức “bất sinh” thứ ba “không thành bình đẳng” thứ tư. Như bản dịch xưa nói rằng “Thứ năm, rốt ráo vắng lặng, bình đẳng thích hợp với nay nói “Tánh bình đẳng rốt ráo vốn vắng lặng.”

Kinh chép: “Vắng lặng, bình đẳng thứ năm.” Y trong đây nói rằng “Vì tạp nhiễm xưa nay vắng lặng.” Nếu theo giải thích của Pháp sư Khuy Cơ thì, thứ sáu là trí “năng soi rọi.” Thứ năm, thứ sáu đều y theo Chân như để nói.”

Ngài Tam Tạng triển khai câu một “rốt ráo vốn vắng lặng, vì tánh bình đẳng, thành bình đẳng vắng lặng, bình đẳng vốn tịnh thứ năm, thứ sáu. Kế là, câu dưới phân tích là bình đẳng thứ bảy v.v….”

Hỏi “Hai câu đầu khác nhau thế nào?”

Như Bản dịch xưa giải thích “Câu thứ năm, lìa nhân nhiễm, do câu thứ tư, thứ ba lìa quả nhiễm. Nay, câu thứ sáu là nói lìa tướng tịnh đối trị với Diệt. Nay, sao lại giải thích riêng, nói lời “rốt ráo vắng lặng” đều là đúng?”

Một câu vắng lặng, bình đẳng thứ năm của bản dịch xưa chính là Chân như. Dưới đây, sự của thể hiện hữu, có thể lấy Chánh trí lìa các hí luận làm tánh bình đẳng, thích ứng với “lìa các giả dối, bình đẳng” của bản dịch xưa. Vốn thanh tịnh bình đẳng của bản dịch xưa tức là Chánh trí lìa hí luận luống dối.”

Hỏi “Như đoạn văn của Bản dịch xưa có thể thông suốt, như kinh nói “Vốn tịnh tức Chân như”, thì làm sao hiểu? Vì câu thứ sáu này là Chánh trí?”

Nghĩa là “Như kinh nên cũng là Chánh trí, vì soi rọi “vốn vắng lặng”, nên gọi là “Bản tịch”, chứ chẳng phải thể là “Bản tịch”.

Lại giải thích “Một câu sự v.v… của Thể hiện hữu này là câu thứ bảy của kinh. “Không có hí luận bình đẳng” tương xứng với câu thứ tám của bản dịch xưa, tức là Chánh trí. Câu thứ năm, thứ sáu của kinh đó rốt ráo bản tịch như trước đã chia ra.”

Luận sư Cảnh nói “Cũng đồng như bản dịch xưa nói rằng “Câu thứ sáu, lìa các giả dối, bình đẳng”, thích ứng với câu thứ sáu của kinh rằng “Bản tịch, bình đẳng.” trong đây ý nói “Thể, tướng Chân như thường thanh tịnh, nên nêu trí “năng chứng” để làm rõ. Như Bản dịch xưa chép “Câu thứ bảy, bình đẳng không có lấy, bỏ”, thích ứng với nay, xa lìa tất cả lấy, bỏ, tạo tác, vì tánh bình đẳng.”

Câu thứ bảy của bản dịch xưa “Tất cả pháp không có hí luận, bình đẳng.” Pháp sư Cơ nói “Xa lìa tất cả lấy, bỏ, tạo tác, vì tánh bình đẳng, tức mọi khổ tạp nhiễm phiền não này, lìa trói buộc, giải thoát, vì tánh bình đẳng, thích hợp với câu bảy: lấy, bỏ, bình đẳng của Luận Địa Trì, hợp với câu thứ tám, bình đẳng không có lấy, bỏ của kinh.”

Nếu y theo kinh, dùng làm rốt ráo bản tịch làm hai thứ vượt hơn. Nếu hợp thành một thứ, thì chia chữ “cố” này thành hai. Tuy nhiên, không dựa vào văn kinh, vì ý trong đây nói là các khổ phiền não vì được giải thoát, nên tất cả lấy, bỏ đều bình đẳng. Như bản dịch xưa nói “Thứ tám, tất cả pháp lìa bình đẳng”, tương đương với nay nói “Tức mọi khổ tạp nhiễm phiền não, lìa trói buộc, giải thoát, vì tánh bình đẳng.”

Kinh nói câu thứ tám “Tất cả pháp không có lấy, bỏ, bình đẳng.” Đại ý trong câu này nói là đối với pháp nhiễm, tịnh, vì không có tướng mạo lấy, bỏ, nên bình đẳng.”

Pháp sư Cảnh nói “Một” lần lại nữa này, Địa kinh không có. Như bản dịch xưa nói “Cảnh giới vọng tưởng thứ chín như huyễn, như hóa, bình đẳng”, thích hợp với nay nói “Tự tánh của cảnh giới phân biệt sở chấp, như huyễn, hóa v.v…, vì tánh bình đẳng.”

Kinh nói “thứ chín, tất cả pháp như huyễn mộng, ảnh, tiếng vang, mặt trăng đáy nước, hình tượng trong gương, ánh lửa, biến hóa, đều bình đẳng.” Ý trong đây nói là ngã, ngã sở, thật ra chẳng thật có, cho nên bình đẳng. Như bản dịch xưa nói “Thứ mười, Cảnh giới vọng tưởng “có”, “không”, “không có hai”, bình đẳng”, thích hợp với trong đây nói “Đối tượng hiện hành của trí Vô phân biệt, “có”, “không”, “chẳng hai”, vì tánh bình đẳng, Kinh nói tất cả pháp bậc nhất hữu vô không hai, vì là bình đẳng. Ý cho rằng hoặc thành, hoặc hoại, không có hai tướng.”

“Như thế, Bồ-tát trụ trong trụ này…” trở xuống, là thứ hai, nói về giác ngộ duyên khởi, sinh môn giải thoát.

Dùng tất cả thứ duyên khởi chánh quán, quán sát biết rõ, nghĩa là như Địa kinh nói “Mười lượt quán pháp nhân duyên nhóm họp lại, cái gọi là nhân duyên, vì chia ra thứ lớp, vì thuộc về nhất tâm, do tự nghiệp thành, vì không lìa bỏ, nhau, vì ba đạo không dứt, vì quán mé trước, sau vì ba khổ nhóm họp, vì nhân duyên sinh, vì nhân sinh, diệt, ràng buộc và thuận theo quán có cùng tận. Như kinh, luận kia giải thích rộng.”

Nói Nhất thiết chủng chánh quán dựa vào trí duyên khởi, có thể dẫn phát ba môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, nghĩa là quán duyên khởi, vì sinh, diệt, vì Vô ngã, nên là hạnh “Không”. Do có đạo lý sinh diệt Vô thường trôi lăn và đoạn, vì được vô vi, nên gọi là Hạnh “Vô tướng”. Do hữu lậu hữu vi này rất có thể nhàm chán hư hoại, vì không nảy sinh hy vọng, mong cầu, nên gọi là Vô nguyện, là ý trong đây.

“Do nhân duyên này…” trở xuống, là câu “tất cả tà trưởngkhông hiện hành” thứ ba. “Như thế, Bồ-tát khéo léo đối với thắng nghĩa, đến tất cho đến cả hữu vi” là câu “Phương tiện nhiếp thọ sinh, tử” thứ tư. Nghĩa là Bồ-tát vì khéo thấu suốt Chân như, nên xót thương hữu tình. Vì biết phiền não trói buộc,vì các duyên hợp, nên lìa ngã, ngã sở và các nhiễm ô, không lìa các duyên phiền não tụ hợp mà có sự trói buộc hữu tình riêng. Vì biết như vậy, nên không bỏ sinh, tử, trụ ở Niết-bàn. Vì thương xót hữu tình, thành thử không nên diệt hẳn tất cả hữu vi, nhập Bát Niết-bàn, nên vào sinh, tử giáo hóa hữu tình, là ý trong đây.

“Như thế, cho đến “mà cũng không trụ”, là câu “trí vô trước hiện tiền” thứ năm. kinh rằng “Bồ-tát thực hiện quán như thế xong, vì khởi Đại bi, nên không bỏ tất cả chúng sinh, tức thì được môn Vô ngại trí hiện ở trước, gọi là hành Bát-nhã Ba-la-mật, sáng suốt hiện tiền. Bồtát này thành tựu hạnh Bát-nhã Ba-la-mật như thế, ánh sáng hiện hành ra. Soi chiếu, vì đầy đủ nhân duyên giúp đỡ Bồ-đề phần, mà không trụ chung với pháp hữu vi với tánh tướng vắng lặng, cũng không trụ trong đó, mà vì muốn đầy đủ pháp phần Vô thượng Bồ-đề.”

Luận nói: “Trí không có chướng ngại, nghĩa là trí Như lai. Nhưng vì trí này chưa thành thục, nên gọi là ánh sáng hiện ở trước.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Ví trí Vô trước hiện ở trước, nên không nhiễm sinh, tử. Vì trí Bát-nhã hiện tiền, nên không nhập Niết-bàn. Trước, nói là Chánh trí, sau, nói là Trí hậu đắc. Lại, đều có chung hai trí, lại, y theo hai công hạnh Bi, Trí, khác nhau.”

Nói “Lại, tức trụ này có Nhẫn v.v… mạnh mẽ, nhạy bén, nghĩa là như kinh nói “Bồ-tát trụ hiện tiền Địa, hạnh Bát-nhã tăng thượng, thành thục, được Đảnh, Nhẫn, thứ ba, thuận theo pháp như thật, không có trái, nghịch.”

Luận sư Trắc nói: “Đây tức đối với Nhẫn phẩm thượng của phương tiện trước thứ bảy. “Như thế, cho đến “Phải biết như thế”, là thứ sáu, chứng đắc Vô lượng Tam-ma-địa.” Như kinh nói rằng “Bồ-tát này trụ Địa này, được Tín không tam-muội, cho đến ly bất ly không tam-muội thứ mười, là Bồ-tát này được mười môn Không tam-muội như thế, đứng hàng đầu một trăm, ngàn, muôn môn “Không tam-muội” hiện ở trước. Hai tam-muội khác cũng vậy. “Do đây, cho đến ý lạc không hư hoại”, là câu thứ bảy. Như kinh nói “Bồ-tát trụ ở Địa này, lại chuyển biến đầy đủ tâm không hư hoại, tâm quyết định, cho đến đầy đủ tâm hạnh của trí phương tiện thứ mười.”

Nói về tâm không hư hoại, nghĩa là vững chắc không lui sụt. Tâm không hư hoại này có chín thứ:

1) Tín quán không hư hoại, như kinh nói “Vì tâm quyết định.” Cho đến thứ chín, công hạnh giáo hóa chúng sinh không hư hoại, như kinh nói “Vì đầy đủ tâm hạnh của trí phương tiện.”

Đối với Nhất thiết chủng, cho đến không thể dẫn đoạt, là thứ tám, đối với Thánh giáo của Chư Phật, không thể dẫn đoạt.

Pháp sư Khuy Cơ giải thích rằng “Vì sao Sơ địa ở trước chẳng phải “dẫn tha”, nay lại nói về? Sơ địa ở trước với nghĩa đầy đủ. Nghĩa là giáo của Chân như chẳng phải là “tha dẫn ”, hoặc tất cả giáo chẳng phải “tha dẫn ”. Nay, ở đây đối với nhất thiết chủng Thánh giáo chẳng phải là “tha dẫn”, chẳng phải “tha dẫn” trong tướng riêng. Nay ở đây đối với Thánh giáo của Nhất thiết chủng chẳng phải tha dẫn, trong tướng riêng chẳng phải tha dẫn.

“Pháp khác, như thuyết trước đã nói…” trở xuống, là câu thiện căn thanh tịnh thứ chín. Nay, ngọc báu lưu ly trong địa này là trang sức trên vàng ở trước, tức tất cả Địa y cứ theo trước, phải biết.” Nói bốn phong luân, nghĩa là hoặc bốn phương.

“Thọ sinh, phần nhiều tạo ra…” trở xuống, là thứ mười, một câu thứ mười rất dễ hiểu.

Trong “có gia hạnh, có công dụng, vô tướng trụ, gồm có: hỏi, giải thích, và kết.”

Trong phần giải thích có mười hai. Đầu tiên, nói về Tuệ mầu nhiệm đã dẫn phát Thắng hạnh Tiến đạo, thành tựu, viên mãn, được nhập trụ này, đã được mười thứ phương tiện tuệ khéo léo. Tuệ này tức là phương tiện nhập trụ đã dẫn thế gian không chung với tất cả hữu tình, mà là đối với tấn đạo, thắng hạnh của tất cả thế gian.

Pháp sư Cảnh nói “Vì hạnh tùy theo thế gian, nên là chung. Vì pháp thế không nhiễm, nên gọi là không chung.”

Hướng đến cầu Địa kia, gọi là Tiến đạo. Học hạnh của Địa sau, gọi là Thắng hạnh.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Tiến đạo, Thắng hạnh này tạo ra có hành tướng, tướng duyên sự có sai khác, nên gọi là thế gian, vì chẳng bị ràng buộc bởi nghiệp phiền não, nên gọi là không chung, vì thể là Vô lậu, do có tướng, nên cũng gọi là chung. Vì điều mà hữu tình không thể thực hành, nên gọi là không chung. Vì tạo ra tướng duyên sự, nên gọi là chung.”

Luận sư Trắc nói “Do trí không trụ sinh, từ nên gọi là không chung. Do Bi không nhập Niết-bàn, nên gọi là chung.

“Như kinh nói rộng” nên biết tướng chung v.v…, nghĩa là Địa kinh nói “Bồ-tát khéo đầy đủ công hạnh của Lục Địa xong, muốn nhập Địa thứ bảy, phải dùng mười thứ chi trí phương tiện, khởi hạnh thù thắng để nhập. Mười phương tiện ấy là gì? Cho đến nói rộng.

Luận chủ gom mười thành bốn:

  1. Gọi là sự nhân của thân của mạng, tài sản.
  2. Gọi là sự nhân ngăn dứt điều ác.
  3. Gọi là sự nhân giữ gìn việc thiện.
  4. Bảy thứ sau, gọi là sự của nhân hóa sinh.

Nay, trong đây nói “dựa vào chủ thể khởi nhiếp thọ phước đức hưng thịnh của thế gian, ý nói là dựa vào chủ thể khởi sự của nhân hưng thịnh thế gian, nhiếp thọ phước đức của hạnh Bồ-tát, tức thứ nhất sự nhân của thân, của. kinh nói “Khéo tu không, Vô tướng, Vô nguyện mà nhóm họp công đức lớn để giúp Đạo.”

1. Dựa vào ý lạc tăng thượng, đem lại lợi ích yên vui cho hữu tình, nghĩa là đối với đa số hữu tình, mà khởi lên điều ác, nên hữu tình là nhân ác. Nay, do ý lạc tăng thượng của lợi ích yên vui đối với hữu tình kia, nên không khởi điều ác, tức là sự nhân của thủ hộ điều ác. kinh nói “Nhập các pháp vô ngã, vô thọ mạng vô chúng sinh, mà không bỏ, vì khởi bốn Vô lượng.

2. Dựa vào pháp Bồ-đề phần so lường, phước đức của Bồ-đề, thắng tấn ở sau sau, nghĩa là vì chứng quả Bồ-đề, nên mau chóng nhóm họp so lường, tức sự của nhân thủ hộ điều thiện. kinh nói “khởi Pháp công đức, tạo ra công hạnh tăng thượng Ba-la-mật, mà không có pháp nào để chấp.”

3. Dựa vào Thanh văn, Độc giác không chung, tức là sự của nhân hóa sinh.

Nguyện lực thứ nhất trong bảy môn, là nhận lấy chúng sinh, thưc hành hạnh giáo hóa chúng sinh là hàng đầu. kinh nói “Được xa lìa ba cõi mà có thể ứng, hóa, khởi công hạnh trang nghiêm ba cõi.”

1. Dựa vào cõi hữu tình, là môn thứ hai nói là đối trị. kinh nói “Niết-bàn rốt ráo vắng lặng, mà có thể vì tất cả chúng sinh khởi công hạnh Niết-bàn dứt tham, sân, si.”

2. Dựa vào các Pháp giới, là môn thứ ba, vì dứt trừ các chướng. kinh nói “Thuận theo huyễn, mộng, ảnh, tiếng vang, biến hóa, trăng đáng nước, hình tượng trong gương, tự tánh không hai, mà khởi Niếtbàn, vì vô lượng tâm sai khác.”

3. Dựa vào các thế giới, là môn thứ tư, đối với chủng hội của Pháp Đại thừa nhóm họp. kinh nói “Khéo biết tất cả cõi nước, đạo, như hư không, mà khởi hạnh trang nghiêm, thanh tịnh cõi nước Phật.”

4. Dựa vào thân trí của các Như lai, là môn thứ năm, thấy nghe, gần gũi, cúng dường, tu hành, sinh phước đức. kinh nói “Biết Pháp thân Phật, tự tánh không có thân mà khởi hạnh trang nghiêm tướng tốt của Sắc thân.”

5. Dựa vào trí ngữ của các Như lai, là môn thứ sáu, xoay bánh xe pháp. kinh nói “Biết âm thanh của Chư Phật không có tiếng, xưa nay vắng lặng, không thể nói là tướng, mà tùy tất cả chúng sinh, khởi các thứ hạnh khác nhau để trang nghiêm âm thanh.”

6. Dựa vào tâm, trí của các Như lai, là môn thứ bảy, hỏi, và khéo giải thích. kinh nói “Nhập Chư Phật ở trong một khoảnh ý niệm, thông suốt sự việc ba đời, mà có thể phân biệt các tướng, số kiếp tu hành, tùy quán tâm sai khác của tất cả chúng sinh.”

“Bồ-tát vì tương ưng chung với Chư Phật kia…” trở xuống, là phần thứ hai, thấu suốt cảnh giới của Như lai, khởi gia hạnh Vô gián khuyết.

“Từ đầu cho đến” cảnh giới của Như lai”, nghĩa là vì tương ưng chung với mười thứ tuệ phương tiện mầu nhiệm ở trước, có thể thấu suốt tất cả cảnh giới của Như lai, do chỗ mà tuệ ở trước đã hiện hành là cảnh giới Phật.

Nói “Và vì hữu tình kia, khởi Vô tướng v.v… không có công dụng, cho đến “không xa lìa đạo”, Luận sư Cảnh nói “Trong Bát Địa, vì Chân quán, vô công dụng, nên nói là Vô tướng không có dụng công, vô phân biệt. Tục quán vẫn có công dụng, rất dễ hiểu Tục đế cũng như huyễn, hóa, nên nói là không có phân biệt khác.

Bát Địa quán cảnh giới của hai Đế kia, gọi là quán Vô lượng cảnh giới Phật. Hai quán chỉ khởi danh, khởi Vô gián. Nhưng quán Chân, Tục, còn gọi là “không có thiếu” (Vô khuyết).

Nay, Bồ-tát Thất Địa, vì khởi hạnh quán như thế của Bát Địa, nên tinh tấn, siêng năng tu học tất cả oai nghi, hoặc đi, hoặc đứng, thường tác ý luôn, không xa lìa đạo trong tất cả địa vị.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Lại, vì cảnh giới Phật, nên khởi Vô tướng vô công dụng, không có phân biệt biến kế chấp. Vô lượng Trí hậu đắc y tha phân biệt, quán cảnh giới của Chư Phật, khởi Vô gián khuyết. Thường tinh tấn, siêng năng tu học tất cả oai nghi đi, đứng, không lìa tâm, miệng, thân mà thực hành hạnh này, là đạo không xa lìa công hạnh của tất cả phần vị.

Vô tướng vô công dụng này, quán cảnh giới Phật là Đạo. Tác ý đi, đứng trong oai nghi, tất cả phần vị đều không xa lìa đạo. Cho nên, đoạn văn kết dưới đây nói rằng “Thấu suốt cảnh giới của đức Như lai, khởi Vô gián, Vô khuyết, vì siêng năng gia hạnh.”

“Bồ-tát kia, trong mỗi sát na tâm…” trở xuống, là thứ ba, nói về mỗi sát-na, chứng viên mãn tất cả pháp phần Bồ-đề. Địa kinh nói “Bồtát đối với Thập địa đều đầy đủ tất cả pháp trợ Bồ-đề phần, chỉ địa thứ bảy vì vượt hơn, nên được tên gọi, cho đến nói rộng. Nay, chính trong trụ thứ bảy này, phát khởi đầy đủ tất cả pháp Phật, chi giác viên mãn, trong Thất Địa, vì niệm niệm thường khởi mười Ba-la-mật, nên nói là đầy đủ chi giác viên mãn. Vì gia hạnh của Bồ-tát trụ này thuộc về công hạnh viên mãn, là công dụng rốt ráo.

Trí mầu nhiệm, tức là trí phương tiện. Công hạnh thần thông thanh tịnh, nghĩa là dẫn phát công hạnh thù thắng của thế gian, lìa tướng tu tập, gọi là thanh tịnh, có thể nhập Trụ thứ tám, nghĩa là hạnh công dụng cuối cùng được nhập địa vị vô công dụng của Bát Địa. Nếu theo giải thích của Luận sư Trắc v.v…, thì từ gia hạnh của Bồ-tát Trụ này, vì công hạnh viên mãn, nên cuối cùng có thể là lý do nhập trụ thứ tám.

Phán quyết là câu thứ tư có gia hạnh, thuộc về công hạnh viên mãn.

Từ “Do Bồ-tát này…” trở xuống, là thuộc về câu thứ năm. Nay, lấy đoạn văn sắp xếp của Luận sư Cảnh vì thuận với đoạn văn kết ở dưới “Do Bồ-tát này trụ Vô gián này v.v…” trở xuống, là thứ tư, nói về an lập nhiễm ô, không nhiễm ô, nghĩa là vì Địa thứ tám không có công dụng, nên hoàn toàn thanh tịnh. Thất Địa vì có công dụng, nên gọi là tạp nhạp. Địa thứ bảy này được Vô tướng là vì Địa thứ tám dẫn đường trước, nên gọi là bất nhiễm, chưa được Vô tướng căn bản, vẫn còn có công dụng, có đối tượng mong cầu, vì chưa thể nhậm vận vô tướng, nên rơi vào tạp nhiễm.

Nay, “Trong trụ này…” trở xuống, là thứ năm, nói về câu có gia hạnh, thuộc về công hạnh viên mãn. Như Địa kinh nói “Bồ-tát trụ trong địa Viễn hành, nên không gọi là có phiền não. Vì ham cầu trí Tuệ của đức Như lai, vì chưa đầy đủ, nên chẳng gọi là không có phiền não. Pháp sư Cảnh nói “Tu dứt hai phẩm thượng trung phiền não ở trong Kiến đạo đã chế phục không hiện hành. Vì chúng sinh, nên Thất Địa trở xuống vẫn khởi, lúc phiền não phẩm hạ lại hiện hành. Thì nay, nói phiền não hàng đầu như tham v.v… đều dứt trừ. Y cứ vào thời gian nhập quán trong Thất Địa, thì nhiều, thời gian xuất quán khởi “hoặc” thì rất ít. Lấy theo đa số, nên nói tham v.v… đều dứt trừ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Trụ này, đều dứt trừ tất cả tham v.v…. Y theo tâm viên mãn của Địa, chứ chẳng phải tâm của Bát Địa đoạn. Như thế, hoặc như luận Phật Địa tự phải phân biệt. Phải biết trụ này chẳng có phiền não…” trở xuống, giải thích rằng “tất cả phiền não vì không hiện hành, nên Địa được nói là viên mãn.”

Như giải thích trước, chẳng phải lìa phiền não…” trở xuống, giải thích rằng “Cầu trí Phật chưa được. Do có ái tương tợ Bồ-đề Phật, vì còn chấp, nên chẳng phải lìa phiền não, do đó, đoạn văn kết dưới đây nói là có gia hạnh, vì công hạnh viên mãn.”

“Hành giả như thế…” trở xuống, là thứ sáu, nói về ba nghiệp thanh tịnh. Dựa vào ý lạc, nghiệp thanh tịnh chuyển sang biến nghiệp công xảo thế gian, đều được viên mãn, cho nên nói riêng.

Nghiệp công xảo trong địa thứ bảy viên-mãn, hễ là công xảo, kinh doanh tạo tác, thì công việc đã làm được hoàn thành.

Từ khi mới phát tâm, vì lợi ích cho chúng sinh, nên học các Công xảo, dựa vào cầu tài vật, nhằm thực hành cứu giúp cho, cho đến Thất địa đã học công xảo, mới bắt đầu thành tựu mầu nhiệm, do công dụng của Địa thứ bảy rốt ráo, vì công xảo hoàn thành viên mãn. Đức Phật khen thì làm, không khen thì không làm. Như thuyết của Tứ Địa nói “Ở trụ thứ năm đã được công xảo. Nay, đến Thất Địa, chuyển biến được viên mãn, cho nên, cả thế giới Tam thiên đều thừa nhận chung là bậc Thầy. Đại khái không nói là trừ Bồ-tát đẳng vị, vì Bồ-tát Đẳng vị cũng không làm thầy lẫn nhau.

Các Tĩnh lự v.v… trong Địa thứ tám, như trụ Dị thục, không cần gia hạnh, nhậm vận hiện trước. Nay, trong Địa này chưa có thể nhậm vận. Như Dị thục trụ của Địa thứ tám, nên có công dụng. Cho nên, các Tĩnh lự v.v… mới có thể hiện tiền, do tướng tu hành biểu hiện ở trước.

Luận Địa trì hơi khác với luận này. Tất cả Thiền định, Pháp Bồ-đề phần kia đều thể hiện ở tu mà không thọ báo pháp.

“Các Bồ-tát này…” trở xuống, là thứ bảy, nói theo kịp Tam-mađịa không chung với Nhị thừa.

“Phương tiện như thế, cho đến môn Tam-ma-địa.” Địa kinh nói “Bồ-tát trụ, nhập trong Địa thứ bảy, được gọi là trí khéo lựa chọn tammuội của Bồ-tát v.v…, đầy đủ, cho đến Bồ tát là Đại trí thông môn như thế đứng hàng đầu mười tam-muội, có thể nhập trăm, ngàn tam-muội của Bồ-tát tịnh trị Địa này.”

Bản dịch xưa chép: “Bồ-tát ở trụ này, tư duy phương tiện nhập, khéo điều phục tam-muội, sinh trăm, muôn tam-muội. Bồ-tát như thế, tất cả phiền não đều xa lìa, cho đến gia hạnh mạnh mẽ. Luận sư cảnh nói: Bồ tát Thất Địa do lìa các hoặc, tất cả phân biệt, ba nghiệp sở tùy thảy đều không hiện hành mà vẫn lìa bỏ tìm cầu Bồ-đề với gia hạnh mạnh mẽ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Do có phân biệt nhỏ nhiệm, nên khó rất dễ hiểu rõ. Vì không có phân biệt thô, nên gọi là Vô tướng. Địa v.v… ở trước có phân biệt thô, gọi là có tướng. Các Địa này đều vì thuận phân biệt Bồ-đề, nên không lìa bỏ. Tu trị mầu nhiệm, đã thể hiện rõ Vô sinh Pháp nhẫn, nghĩa là nhập lâu dài Chân quán Vô sinh pháp nhẫn, niệm niệm thêm sáng suốt, nên nói khéo tu Vô sinh Pháp nhẫn. Vô sinh Pháp nhẫn tức chánh chứng trí Vô phân biệt trí.

“Lại, các Bồ-tát…” trở xuống, là thứ tám, nói về niệm niệm có thể nhập Diệt định.

Trong trụ thứ sáu, đã nhập Diệt định. Nay, mỗi niệm trong trụ này đều có thể nhập. Pháp sư Cảnh nói “Chỉ nói trụ thứ sáu, không là năm trụ trước, là vì nêu sau để chỉ rõ trước. Từ Sơ địa về sáu, có xuất, quán nhập quán khác nhau, vì không thường Diệt định, nên nêu thứ sáu, so sánh chứng tỏ năm trụ trước cũng tạm nhập Diệt. Cũng có thể tướng của ba Địa trước đồng với thế gian, nên không nói được Diệt kia. Tướng của Tứ địa, Ngũ Địa, Lục Địa đều đồng với Nhị thừa. Tứ Địa, mới được vô lậu của phẩm đạo, ví như Sơ quả chưa được Diệt định. Bồ-tát Ngũ Địa, như thứ hai cũng chưa được Diệt định, cho nên nói riêng. Bồ-tát Địa được Vô sinh nhẫn, vì như A-la-hán, nên trong mỗi niệm thường nhập Diệt định.”

Hỏi “Nếu Thất Địa mỗi niệm thường nhập Diệt, thì tức là hai trí rốt ráo không hiện hành?”

Đáp “Y cứ ơ khả năng có thể mỗi niệm nhập, chưa hẳn niệm niệm thường nhập diệt. Vì nếu y cứ Chân quán lìa tướng, giả gọi là Diệt định, tức niệm niệm nhập.”

Ngài Tam Tạng nói “Phương Tây có hai giải thích:

1. “Bát Địa trở lên, mới nhập Diệt định, Thất Địa trở xuống, Bồtát ngộ tức khắc, tức không thể nhập. Vì sao? Vì Thất Địa trở lại, vượt qua “hoặc” của ba cõi, mà hiện ở trước, nên không thể nhập. Nay, nói rằng “Trong Lục Địa, Thất Địa, có thể nhập Diệt định, nghĩa là y theo chánh thể trí tương ưng với định, vì thường “duyên” vắng lặng, nên gọi là định Diệt Tận, chứ chẳng phải định Diệt Tận trong hai mươi bốn Bất tương ưng.”

2. Rằng “Sơ địa trở lên đều nhập Diệt định, nên kinh Lăng-già

chép: “Phật bảo Đại Tuệ! Từ Sơ Địa cho đến Lục Địa nhập định Diệt Tận, Thanh văn, Duyên giác cũng nhập Diệt định, cho đến Thanh văn, Duyên giác tức không được nhập. Bồ-tát Thất Địa, niệm niệm nhập Diệt định. Nay, nói rằng “Địa thứ sáu, vì được Vô Tướng, nên có thể chế phục phiền não. Có khả năng chế phục phiền não, có thể phá tướng nhập Diệt định.”

Lại, Tam Tạng nói rằng “Sáu Địa trở lên, do tạo nên Vô lượng gia hạnh, mới nhập Diệt định.”

Địa thứ bảy cũng do phương tiện muốn nhập liền nhập. Cho nên, giả thiết là nói có thể niệm niệm nhập, chứ chẳng phải cho rằng vì nghĩa tiếp nối nhau, nên gọi là niệm niệm. Vì sao? Vì Lục Địa trở lên, cũng có nhiều sát na nối tiếp nhập. Nhưng Bồ-tát này rất ít có nghiệp gửi gắm, đến có thể không tác chứng, nghĩa làm rõ lại Bồ-tát Thất Địa, thường nhập Chân quán trong cảnh thật tế, mà không tác chứng khởi công hạnh lợi tha.

“Bồ-tát kia do như thế…” trở xuống, là thứ chín, nói về hiện hành hạnh thế gian không chung của tất cả hữu tình.

Pháp sư Cảnh nói “Có thể thực hành tất cả công hạnh đồng với hữu tình, khác với công hạnh mầu nhiệm mà Bồ-tát đã thực hành, nên nói là không chung. Công hạnh mầu nhiệm của Bồ-tát dù đồng với thế gian nhưng chẳng phải là tánh của thế gian kia, như kinh nói rộng.”

Luận sư Trắc nói “Dù ở trong nhiễm mà không đắm nhiễm, nên gọi là không chung.” “Nghĩa chung trong đây…” trở xuống, phát ra công hạnh giống nhau, hiện đồng với hữu tình trong kinh đã chỉ dạy kia.

Về nghĩa chung có tám:

  1. Đồng với việc phước nghiệp.
  2. Đồng với việc nhiếp thọ, thân thuộc, đồ chúng.
  3. Đồng với việc phàm phu cầu thọ sinh.
  4. Đồng với người mới phát tâm, phát khởi tiến đến cầu trụ ba giải thoát.
  5. Đồng với việc tin ưa thừa hạ, vì điều phục người khác.
  6. Đồng với sự khác nhau của thọ dụng các dục.
  7. Đồng với việc ngoại đạo được Phật giúp cho quay trở lại.
  8. Đồng với người đời, tùy chuyển tâm người khác, tùy chuyển đại chúng.

“Pháp khác như trước đã nói…” trở xuống, là thứ mười, nói về căn lành thanh tịnh.

“Thọ sinh, nhiều tạo tác…” trở xuống, là thứ mười một, hai oại lực thọ sinh, lời văn rất dễ hiểu.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Mười hai đoạn văn trong Địa này lại như đoạn kết, y cứ phối hợp mà biết.”

Có gia hạnh, vì thuộc về công hạnh viên mãn. Xét văn trên giống với đoạn kết điên đảo thứ tư.

Thứ tư phối hợp với thứ năm, thứ năm phối hợp với thứ tư. Ngài Tam Tạng nói “Thứ năm này có gia hạnh, thực hành viên mãn, tức là hôm nay, tất cả tham v.v… trong trụ này, đều dứt trừ. Do có gia hạnh, vì thực hành viên mãn, cho nên dứt trừ “hoặc” còn lại, lại dựa vào đoạn kết kế là, chứ chẳng phải pháp điên đảo.

Trong không có gia hạnh Vô tướng trụ, gồm có hỏi đáp, giải thích, kết.

Trong giải thích có mười một: Đầu tiên, là nói nhập đệ nhất nghĩa trí của tất cả pháp thành tựu viên mãn, được nhập trụ này.

Xét Địa kinh nói:

  1. Nhập tất cả pháp xưa nay vô sinh.
  2. Không có thành.
  3. Không có tướng (Vô tướng).
  4. Không có xuất (Vô xuất).
  5. Không có mất (Vô thất).
  6. Không có cùng tận (Vô tận).
  7. Không hiện hành (Vô hành).
  8. Chẳng phải có hữu tánh.
  9. Đầu, giữa, sau bình đẳng.
  10. Chân như vô phân biệt, nhập trí nhất thiết trí. Luận Trí Độ giải thích về Nhẫn kia ở trong bốn thứ Vô sinh, nên biết:

– Sự Vô sinh.

– Tự tánh Vô sinh.

– Sác sai khác Vô sinh.

– Tác nghiệp sai khác Vô sinh.

Bảy câu đầu là sự Vô sinh. Ba câu sau, như thứ lớp phối hợp. Ba thứ sau, Vô sinh. Như Pháp sư Viễn v.v… giải thích “Tất cả pháp Vô sinh có mười câu giải thích về trí Vô sinh này, gọi là Nhập trí. Nay, lại nói Đệ nhất nghĩa của tất cả pháp, nghĩa là loại trừ hai chấp, mà làm rõ Chân như, gọi là Đệ nhất nghĩa trí của tất cả pháp, nghĩa là dựa vào ba đời, như đối tượng thích ứng với ba đời, dưới đây, nêu ra mười thứ. Pháp sư Cảnh nói “Văn ở đây và văn của luận Thập Địa, chẳng phải không có một vài điểm khác nhau, vì đại ý giống nhau.” Pháp sư Cơ nói “Như văn luận Địa Trì không thể là nhà chú sớ giải thích riêng. Văn ở đây cũng không có đủ mười pháp. Mười pháp, nghĩa là dựa vào ba đời, như đối tượng thích hợp với ba đời, vì tùy ở ba đời có chấp này, nên tùy đối tượng thích ứng. Mười pháp này đều loại trừ Biến kế sở chấp.

Mười câu như xưa nay Vô sinh v.v…, như thứ lớp phối hợp. Địa kinh giải thích rằng “Viễn Pháp sư nói “Nói là đối với ba đời, nghĩa là Địa thứ tám này trở xuống, Thất Địa là quá khứ, đương Địa, gọi là hiện tại; Nhị Địa sau, gọi là vị lai. Bốn địa đầu trong đây sẽ phối hợp với ba đời. Nghĩa ấy thế nào?

Ở quá khứ có Sơ, Nhị, nghĩa là Vô sinh, Vô khởi, hiện tại Vô tướng, vị lai Vô thành. Quá khứ được chia làm hai: Sơ địa, gọi là “Sinh”, nhị Địa, cho đến thất Địa, gọi là “khởi”. Nói vô danh nghĩa là không có pháp tịnh của Sơ địa sinh. “Vô khởi”, nghĩa là không có Nhị Địa trở đi “khởi”. khởi, tức khởi tác. Nhị Địa này, nghĩa là loại trừ chấp quá khứ.

Nói Vô tướng, nghĩa là chấp ngay Bát Địa có tướng Vô sinh Pháp nhẫn. Nay, loại trừ chấp tướng này, nói là Vô tướng, tức là hiện tại.

Nói Vô thành, nghĩa là không có Cửu Địa trở lên, cho đến thành Bồ-đề của Phật, có chấp thành Bồ-đề Phật này, nay đều loại trừ. Do bản dịch xưa nói, chỉ có bốn thứ này không có ba thứ kế là, có ba thứ sau.

Luận sư Trắc nói: “Ngài Tam Tạng dựa vào sự xem xét kinh Hoa Nghiêm bản Phạm có mười thứ quán Vô sinh:

  1. Vô sinh
  2. Vô khởi
  3. Vô tướng
  4. Vô thành
  5. Vô thất
  6. Không có hữu tánh
  7. Không có tánh trôi lăn
  8. Không có tánh ngừng dứt
  9. Tánh bình đẳng của đầu, giữa, sau.
  10. Ở Chân như không có chứng nhập trái ngược.

Tánh bình đẳng không có phân biệt. Mười thứ này với Đại bản Hoa Nghiêm và luận Thập địa. Đã giải thích kinh này có đồng nhau: Năm câu trước trong mười câu Đại Bản Hoa Nghiêm kinh hoàn toàn đồng nhau. Không có câu thứ sáu, không có câu hữu tánh, hai câu không có đến, không có đi, thích hợp với “không có tánh trôi lăn, không có tánh dừng nghỉ ở đây. Một câu không có ban đầu, không có ở giữa, không có sau, cũng như luận Thập Địa. Luận ấy nói “Ban đầu, giữa, sau bình đẳng.” Về sau, một câu nhập trí Như lai, là nói lược qua, cũng không thích hợp với Địa luận bản Phạm. kinh nói “Câu đầu, đồng với bản Phạm. Câu thứ hai, Vô thành trái ngược với bản Phạm, vì “Vô thành” của bản Phạm kia ở câu thứ tư.

Câu Vô thường thứ ba, cũng thích hợp với bản Phạm. “Vô xuất” thứ tư, cũng trái ngược với bản Phạm này. “Vô tận thứ sáu, không hiện hành thứ bảy, không thích hợp với bản Phạm.” “Chẳng phải có có tánh” thứ sáu của bản Phạm. Hai câu sau, phần lớn đồng với bản Phạm.

Nay dựa theo kinh Hoa Nghiêm bản Phạm, để phối hợp, giải thích văn này. Như ngài Tam Tạng đã giải thích:

“Nói là dựa vào ba đời, như đối tượng thích ứng với ba đời đó, xưa nay Vô sinh, Vô khởi, Vô tướng. Nhà chú thích có hai giải thích:

1. Nói là đối với Chân như vì không có việc chưa sinh, nên nói là Vô sinh; vì không có từng khởi, nên nói là Vô khởi, vì không có sự tướng hiện tại, nên nói là Vô tướng. Nếu theo thứ lớp thì, trước nói quá khứ; kế nói vị lai, sau, là hiện tại. Tuy nhiên, vì không theo thứ lớp này, nên nói rằng “Đối với ba đời, như đối tượng thích hợp với ba đời đó.”

2. Nói xưa nay Vô sinh, nghĩa là không có quá khứ sinh. Vô khởi, nghĩa là không có vị lai khởi, Vô tướng, nghĩa là không có tướng hiện tại. Nếu theo thứ lớp thì, đầu tiên, nói quá khứ; kế nói hiện tại, sau nói vị lai. Nhưng, vì không theo thứ lớp đó, nên nói là “Như đối tượng mà ba đời đó thích hợp.”

Ba quán trên đây, là y cứ vào sự quả của ba đời để nói về quán Vô sinh:

Dựa vào tánh của nhân khác là không nên Thành, vô hoại, nghĩa là tất cả hữu vi là Nhân; công năng (chủ thể) sinh ra các pháp, gọi là “Nhân thành”. Cũng có công năng dứt trừ các pháp, gọi là hoại Nhân, vì Chân như không phải nhân khác năng thành, năng hoại, nên nói “Dựa vào tánh của nhân khác là không Thành, không có Hoại.” Quán hai nhân này y cứ vào tánh của nhân khác để nói về Vô sinh quán.

Năm trường hợp trên đây, y cứ vào việc kia để nói quán Vô sinh.

Dựa vào Đệ nhất nghĩa rốt ráo lìa lời nói, nghĩa là vì Chân như Đệ nhất nghĩa không thể nói năng, do tánh y tha dù là tự tánh ly ngôn, nhưng cũng có thể vì danh ngôn mà làm rạng rỡ nghĩa Đệ nhất. Nay, thật tánh của Chân như này chính là tự tánh ly ngôn, rốt ráo không bị danh ngôn nêu bày, cho nên nói “rốt ráo ly ngôn.”

Các sự tự tánh: Tức Chân như này là thật tánh của các pháp, nên nói “sự tự tánh”. Sự là the sự. Lời nói, tạo tác, ảnh tượng, tự tánh có hai nghĩa:

  1. Tự tánh của lời nói, ảnh tượng.
  2. Tự tánh của tạo tác, Biến Kế sở chấp, ảnh tượng.

Vì thể tướng và vì tánh của nhân, nên đều không có gì, nghĩa là không có “hữu tánh”, mà có hai nghĩa:

1. Không có “cái có”, vì không có các tướng của tự thể.

2. Không có tánh, nghĩa là không có tánh nhân của “Nhà có”. Vì Thể tướng của thể, tức thích hợp với “không”. Vì tánh của Nhân, tức thích hợp với “tánh không có”. Tướng của Thể này và tánh của nhân vì không có sở đắc, nên nói “đều không có chỗ được.”

Lại giải thích “Nói do “tướng của thể” là thành tự tánh của ảnh tượng, lời nói trên. Và, là “tánh của nhân”, sẽ trở thành tự tánh của ảnh tượng, tạo tác ở trên. Hai thứ như thế đều không có gì. Sự kiện này y theo Thể tánh để nói về quán Vô sinh, là trường hợp thứ sáu, tức do Thể tánh tạp nhiễm như thế. Không có tánh trôi lăn, có nghĩa là ở trên Chân như, không có tánh trôi lăn của mười hai duyên sinh. Nói “không có tánh trôi lăn”, tức là trường hợp thứ bảy.

Không có tánh chất dừng, nghỉ, nghĩa là dựa trên Chân như cũng không tánh hoàn diệt của mười hai duyên sinh, nên nói “Không có tánh chất dừng nghỉ. Sự dừng nghỉ dựa vào (trôi lăn). Trôi lăn đã không thì dừng nghỉ cũng không, đây là trường hợp thứ tám. Dựa vào mười hai duyên sinh này, lấy Vô trí tà chấp làm nhân, cho đến tất cả thời gian, tánh nhiễm bình đẳng, nghĩa là do mười hai duyên sinh dùng Vô minh, ác Kiến làm nhân. Đối với các sự “có thể” của ly ngôn kia, tức là nhân sự đã sinh, ở trên Chân như không có đầu, giữa, sau. Về đầu, giữa, sau này có hai giải thích khác nhau:

1. Y theo ba đời, nhằm phân tích đầu, giữa, sau: Quá khứ gọi là đầu, vị lai, gọi là sau; hiện tại, gọi là giữa.

2. Y theo chủ thể dẫn (năng dẫn), đối tượng dẫn (sở dẫn); năng sinh, (chủ thể sinh), sở sinh (đối tượng sinh), để nói về đầu, giữa, sau.

“Năng dẫn” thuộc về Vô minh, hành là biên tế đầu, đối tượng dẫn là Thức, danh sắc, sáu Xứ, Xúc, thọ và chủ thể sinh là ái, thủ, hữu, là bờ mé ở giữa, đối tượng sinh, sinh, già chết là biên tế sau.

Nay, Chân như này vì không có ba phần vị sai khác, nên nói “Dựa vào vô trí này, cho đến tánh bình đẳng nhiễm, đây là trường hợp thứ chín.

Dựa vào Chân như, cho đến tánh bình đẳng, đây là y cứ trí năng

quán lìa phân biệt, thể hiện rõ lý tánh bình đẳng, để nói về Vô sinh, đây là trường hợp thứ mười.

Nói chủ thể trừ tạp nhiễm, tức Địa kinh nói “Bồ-tát này xa lìa tất cả tâm, ý, thức, nhớ tưởng, phân biệt, không có tham chấp, như hư không, bình đẳng nhập tất cả pháp, như tánh hư không. Đoạn văn này lấy sự giải thích để chế phục những lời bắt bẻ.

Trên đây, y cứ vào Chân như v.v… không có Biến kế sở chấp, để nói về Vô sinh, vì e người tu hành sẽ bị dứt trừ trí vô phân biệt cho nên có đoạn văn này.

Ngài Tam Tạng giải thích “Xa lìa tất cả phân biệt của Tâm, ý, thức, nhớ tưởng, có là hai giải thích:

1. “Phân biệt tự tánh các pháp, cũng ý thức phân biệt sai khác, gọi là phân biệt nhớ tưởng.”

2. “Xa lìa tất cả Tâm, ý, thức là xa lìa tâm vương của tám thức. Phân biệt, nghĩa là xa lìa phân biệt pháp số.”

Không có tham, chấp nghĩa là người dịch lầm lẫn, nên nói là không có đối tượng ngăn ngại.

Luận giải thích có ba sự vượt hơn trong Địa dưới đây:

1) Hạnh tự nhiên vô công dụng, như kinh nói “Không có tham, chấp.” Ngài Tam Tạng nói “Trí Vô sinh thông minh không có công dụng, không hề bị ngăn ngại, như hư không bình đẳng.”

Luận rằng:

“2) Tưởng khắp tất cả pháp”, ngài Tam Tạng nói “Ở đây nói về Trí hậu đắc, duyên khắp các pháp như hư không, nhập tất cả pháp như tánh hư không.”

Luận rằng:

“3) Nhập hạnh tự nhiên Chân như không lay động.” Ngài Tam Tạng nói “Cũng là trí chánh thể “duyên” trí hư không bình đẳng Chân như.

Nói “được nhập trụ thuần thanh tịnh trụ thứ tám. Pháp sư Cơ nói “Do tâm hữu lậu ngăn cách, nên gọi là tạp nhạp. Thuần túy Vô lậu, gọi là thuần tịnh.

Tương tục gia giải thích trên Bát Địa này “Vì Thất Địa có công dụng, nên gọi là tạp nhạp; còn Bát Địa thì không, nên gọi là thuần. Nói cách ngăn, không cách ngăn Bát Địa này, do bỏ đi tâm hữu lậu gián cách là nghĩa của người khởi.”

Luận sư Trắc nói: “Vì phiền não hoàn toàn không còn hiện hành, nên gọi là thuần.”

“Trụ trong trụ này…” trở xuống, là thứ hai, nói do quán ở trước được Vô sinh nhẫn. Đối với Pháp Vô sinh, chứng được nhẫn thanh tịnh tối cực bậc nhất, Sơ địa cũng được Vô sanh nhẫn, hai trường hợp này khác nhau thế nào? Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: Theo luận Hiển Dương quyển sáu thì vô sanh nhẫn có ba thứ, tánh sở chấp gọi là Vô sinh nhẫn xưa nay, y tha, gọi là Tự nhiên Vô sinh nhẫn; Viên thành, gọi là Vô sinh nhẫn khổ cấu. Hai chấp phần biệt chứng, đoạn của Sơ Địa là đắc Vô sanh nhẫn xưa nay. Bát Địa trở lên, Chân, Tục hiện hành song song, được hai Vô sinh nhẫn tự nhiên, và khổ cấu. Lại, Bát Địa trở lên, vì chứng một vị Chân như quán thuần túy, nên gọi là được khổ cấu Vô sinh, do ở trước đã chứng đắc Vô sinh nhẫn khác. Lại, vì ở trước đã được Vô sinh nhẫn Phần đoạn. Bát Địa trở đi, chứng Vô sinh nhẫn Biến dịch. Lại, Sơ địa v.v… không Vô sinh nhẫn đường Ác. Bát Địa trở lên, chẳng phải tâm hữu lậu Vô sinh nhẫn gián sinh. Đối với tất cả pháp, chính Tầm, Tư xong. Ngài Tam Tạng nói “Thất Địa trở xuống đều có Tầm, Từ xong, là do sức Tầm, Tư của Địa thứ bảy trước. Địa thứ tám trở lên, do trí Như thật sinh, chứ chẳng phải là Địa thứ tám có Tầm, Tư. Vì sao? Vỉ Bát Địa trở lên, bất cứ lúc nào cũng thường nhập quán “Nhân”, không và “Pháp không”.

Lại giải thích “Lại, có khi xuất quán, vì chẳng phải pháp gia hạnh, nên không thực hành quán Tầm, Tư. Bấy giờ, cho đến không bao giờ còn sinh nữa. Pháp sư Cảnh nói “Từ xưa đến nay, do pháp tà phân biệt luống dối thường khởi, giờ đây, không còn khởi nhân phân biệt, nên pháp luống dối vị lai sẽ không bao giờ còn sinh nữa.”

Luận sư Trắc nói: “Trong Bát Địa này, tất cả “nhân chấp và pháp ý thức đều không hiện hành, nên nói rằng tất cả tà chấp phân biệt đều xa lìa. Trí Như thật này, cho đến Nhẫn thanh tịnh cùng cực.”

Luận sư Cảnh nói: “Địa vị công dụng tu hữu chưa thanh tịnh. Nay, trí Như thật của Bát Địa này vì quán lìa công dụng, nên gọi là thanh tịnh cùng cực. Trí Như thật này tức quán Vô sinh. Văn này tức nói Bát Địa cũng thực hành Tầm, Tư Như thật quán trí, phải biết rằng Cửu Địa, mười Địa cũng thực hành quán này, chỉ các Đấng Như lai lìa hẳn Tầm, Tư, Thập Địa vẫn còn.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Vì sao không nói bốn Tầm, Tư? Vì Tầm, Tư chẳng phải Vô sinh nhẫn, nên chỉ có hữu lậu, trí Như thật có cả Vô lậu, là thể Vô sinh nhẫn của Bát Địa này. Vì thế, hai văn trước giải thích lại trí Vô sinh nhẫn, nên ở trước nói “Vậy là thế nào? Nghĩa là các Bồtát do bốn Tầm, Tư, đối với tất cả pháp chánh, Tầm Tư ứng xong, hoặc có lúc giữ gìn được bốn trí Như thật, cho nên biết trí này tức là thể của Nhẫn. Nói có Tầm, Tư xong, nên biết Tầm, Tư không ở Bát Địa trở đi, vì không có tâm hữu lậu, do ở trước đều có tâm hữu lậu. Trí hậu đắc kia chỉ tạo ra nghĩa giống nhau, nên không có ngăn ngại, thật ra, tạo nên Tầm, Tư chỉ hữu lậu. Y muốn dẫn sinh trí Như thật Vô lậu. Trí Vô lậu đã tương xứng với Pháp tức là Như thật, vì sao lại thực hành quán Tầm, Tư, dẫn sinh trí Như thật ? Dù lúc thực hành là giống nhau, chứ chẳng phải thực hành chân thật.”

“Các Bồ-tát này…” trở xuống, là thứ ba, nói về dứt trừ bốn tai họa. Bản dịch xưa gọi là lìa bốn não.

Pháp sư Cảnh nói “Địa kinh có nói ba dụ:

  1. Dụ Diệt định.
  2. Dụ tỉnh mộng.
  3. Dụ sinh lên cõi trời Phạm Thiên.

Nay, luận này đã nói về bốn thứ tai họa là trong thí dụ kia đã lìa lỗi. Hai thứ đầu là lỗi đã lìa trong thí dụ Diệt định kia. Hợp trụ báo hạnh thành. Thứ hai, tức Địa kinh kia nói “Lìa việc của thân, miệng, ý. Thứ ba, là thí dụ thứ hai kia, hợp từ xưa đến nay, thấy các chúng sinh rơi vào bốn con sông lớn, phát ra sức tinh tấn lớn, tu rộng hành đạo, đến Bất động địa, lìa tất cả tưởng, có hạnh công dụng v.v….

Thứ tư, là thí dụ thứ ba kia, hợp rằng “Tất cả tâm Phật, tâm Bồtát, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn không hiện hành, huống chi sẽ hiện hành tâm thế gian.”

Pháp sư Thái nói: “Nói bốn, nghĩa là trừ dứt có hành hiện tiền của tướng nhỏ nhiệm, nghĩa là Bồ-tát lúc nhập quán, tướng thô, tế đều không khởi. Khi xuất quán, tướng nhỏ nhiệm vẫn còn khởi. Nay, nhập Bát Địa không có xuất quán, nên dứt trừ hiện hành nhỏ nhiệm, chấp tướng. Lại, “Bồ-tát này đối với sự nghiệp thần thông to lớn trong dòng pháp môn như thế”, là câu thứ tư.

Địa kinh nói: “Bồ-tát được địa Bất động xong, vì năng lực bản nguyện trụ, nên bấy giờ, Chư Phật cho Bồ-tát trí tuệ Như lai trong môn pháp lưu thủy kia, cho đến nhờ vào bảy điều khuyên của Phật:

1. Khuyên ông vì mục đích thành tựu pháp của Chư Phật, nên hết lòng, tinh tấn, đừng bỏ môn Nhẫn này.

2. Khuyên dù được vắng lặng, giải thoát, nhưng ông phải xót thương, nghĩ đến chúng sinh.

3. Khuyên nên nhớ đến Bi, trí của nguyện xưa.

4. Khuyên ông chớ chung với Nhị thừa, chỉ mong cầu Pháp tánh.

5. Khuyên quán Vô lượng thân Phật, cõi nước v.v… nên khởi thị hiện.

6. Khuyên vì được Vô lượng pháp môn của Như lai, ông nên khởi Pháp này.

7. Khuyên nên quán thông suốt về sự khác nhau của Vô lượng cõi nước, chúng sinh khắp mười phương (giải thích rộng như kinh luận kia).

Pháp sư Khuy Cơ rằng: “Hỏi “Bồ-tát trụ này không có dụng công, thì đâu cần phải khuyên?”

Nghĩa là “Do được Vô tướng, nên nói là phần nhiều nhập Vô tướng, không ưa tiến tu. Với bày lời khuyên của Chư Phật, sẽ giúp cho Bồ-tát khởi quán Vô tướng. khởi quán Vô tướng xong, tự nhiên, như Dị thục, nhậm vận tinh tấn vượt hơn, không đợi gia hạnh.”

Như vậy, “nhờ đức Phật giác ngộ, khuyến khích, dẫn dắt Vô lượng phân thân, trí mầu”, là câu thứ sáu.

Địa kinh nói “Kim Cương Tạng nói với ngài Giải Thoát nguyệt rằng “Phật tử! Nếu Chư Phật không cho Bồ-tát này khởi môn trí, thì lúc bấy giờ, Bồ-tát này sẽ gặp Niết-bàn ngay, ruồng bỏ phục vụ lợi ích cho tất cả chúng sinh. Do Chư Phật cho Bồ-tát này Vô lượng, Vô biên môn khởi trí, nên trong một ý niệm đã khởi lên nghiệp trí. So với từ khi mới phát tâm đến nay, cho đến Địa thứ bảy cuối cùng, trăm phần không bằng một v.v…, cho đến chẳng phải tính, đếm, thí dụ mà hiểu được. Vì sao? Vì Phật tử trước, phải dùng một thân để khởi trí hạnh. Nay, trong Địa Bồ-tát này vì được Vô lượng thân khác nhau của Bồ-tát, vì nhóm họp Vô lượng sức công hạnh, nên ngang bằng nói rộng.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Dẫn phát Vô lượng phần thân, tức dẫn phát khiến sinh năm phần pháp thân.”

“Được mười tự tại…” trở xuống, là thứ bảy, là nói được tự tại. Xét Địa kinh, trước là nói ba tự tại, nghĩa là công hạnh tự tại của khí thế gian, hạnh tự tại của chúng sinh thế gian, hạnh tự tại của tri chánh giác. Kế là Quán, nói mười tự tại, trong đây chỉ nói mười tự tại. Vì được tự tại, nên tùy theo đối tượng muốn trụ, như ý có thể trụ. Đây là nói về mạng tự tại.

Tùy theo ưa an trụ Tĩnh lự, đến Như lai có thể trụ, là nói về tâm tự tại.

“Nếu tạm tư duy, cho đến đều có thể hiện hành”, là của vật tự tại, có thể “hoặc” sinh nghiệp khắp tất cả, nghĩa là nói về nghiệp tự tại. Và đối với tất cả nơi chốn hậu sanh được tự tại sanh về, gọi là sanh tự tại.

“Tùy theo đối tượng yêu thích cho đến, đều khởi tác, là như ý tự tại.”

Tất cả nguyện mầu nhiệm cho đến đều làm thỏa lòng Phật, nghĩa là nói về nguyện tự tại.

Tùy theo sự vật cho đến, đều thành không khác, là thắng giải tự tại.

Tùy đối tượng mà trí ưa muốn, cảnh giới của trí đều là trí Như thật, là nói về trí tự tại.

Khắp tất cả danh, cú văn thân đều được khéo léo, nghĩa là nói về pháp tự tại.

“Bồ-tát như thế, cho đến “nên biết tướng kia” là thứ tám, nói về thắng lợi tự tại.

Xét Địa kinh chép: “Bồ-tát được mười tự tại thì được gọi là bậc trí giả v.v… không thể nghĩ bàn, cho đến nói rộng.” Luận giải thích “Thắng đại, có ba thứ đại:

  1. Trí đại.
  2. Thừa đại, tức ba nghiệp thanh tịnh.
  3. Công đức của hai trụ kia đại. (giải thích rộng như kinh ấy)

“Lại có thể rời bỏ” trở xuống, là thứ chín, gốc lành thanh tịnh. Xét Địa kinh rằng “Ví như vốn vàng thật, thợ kim hoàn giỏi khéo léo, chế tạo ra dụng cụ trang nghiêm, đem cho vua Diêm-phù đề hoặc ở đầu, hoặc đeo trên đỉnh. Người Diêm-phù trang sức bằng dụng cụ báu khác, họ không thể cướp đoạt. Như thế, Bồ-tát trụ Bất động địa, các căn lành kia, tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ-tát Thất Địa đều không thể hư hoại. Bồ-tát được dùng đại trí của Địa, ánh sáng, phá tan chướng phiền não đen tối. Lại nói “Ví như quốc vương của ngàn thế giới, vua Đại Phạm Thiên, có khả năng trong cùng một thời gian, trang trải lòng Từ đầy khắp hằng ngàn thế giới, cũng có thể ánh sáng chiếu rọi trong đó.

Như thế, Phật tử! Bồ-tát trụ trong Địa Bất động này, có thể phát ra ánh sáng trên thân chiếu khắp mười ngàn muôn Tam thiên Đại thiên thế giới, số thế giới chúng sinh nhiều như cát bụi, có thể dập tắt dần các lửa phiền não, để được mát mẻ.

Oai lực thọ sinh của Bồ-tát trụ này rất lớn, nên biết tướng ấy, là câu thứ mười một.

Về thọ sinh, Địa kinh nói “Bồ-tát trụ trong Địa này, đa số làm Đại Thiên Vương, làm chủ ngàn thế giới.”

Oai lực tự tại trên hết. Như kinh nói “Trong khoảng một niệm, được trăm muôn tam thiên Đại thiên thế giới số tam-muội như cát bụi và thấy Phật v.v…, cho đến nói rộng.”

Trong Vô ngại giải trụ, gồm có: hỏi, giải thích, kết luận.

Nói trong trụ rất sâu của Địa thứ tám, bất sinh Hỷ túc, nhập địa Thắng tấn. kinh nói về mười trường hợp làm phương tiện của Pháp sư. Nay, trong đây nói “Hỷ túc bất sinh sâu xa” tức thích hợp với trường hợp thứ nhất trong kinh. kinh nói “Này Phật tử! Bồ-tát dùng trí Vô lượng như thế, trí khéo so lường, lại cầu vận chuyển sâu sắc vượt hơn vắng lặng, giải thoát.”

Lại, yêu thích tánh thù thắng của trí tăng thượng, là hợp với trường hợp thứ hai của kinh. kinh rằng “Lại chuyển, sang mong cầu trí rốt ráo của Như lai.”

Tùy nhập, là thích hợp với trường hợp thứ ba của kinh. kinh rằng “Nhập trong pháp sâu kín của đức Như lai.” Bảy trường hợp còn lại, trong đây lược qua không nói.”

Cũng có thể tùy nhập lời nói, tức gồm thâu chung tám trường hợp sau.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Hỏi “Bát Địa trước, loại trừ bốn tai. Địa thứ hai trừ dứt đối với thanh tịnh trụ ở trên, tinh tấn, siêng năng kính mến, thì vì sao địa thượng có yêu thích thú nhập đối với tánh thù thắng của trí?”

Nghĩa là “Trước kia có đối tượng mong cầu là nhiễm pháp chấp, Thất Địa khởi, Bát Địa dứt. Nay, Địa này chỉ yêu thích trí thù thắng Vô ngại giải trong Vô lậu quán, chứ chẳng phải nhiễm pháp chấp, cho nên không đồng với trước. Các Bồ-tát này đến nên vì người khác nói tất cả pháp, là trường hợp thứ hai. Pháp sư Cơ “Hỏi “Vì sao Bát Địa trở lên, gọi là không có gia hạnh? Còn Địa này thì nói có khởi trí gia hạnh?”

Nghĩa là “Trong Thất Địa trước, đối với giải thoát cõi trên, cần phải siêng năng gia hạnh thì mới mong thú nhập, được gọi là gia hạnh. Đối với Phật địa, muốn vì hữu tình nói pháp, thì nhậm vận nói, chứ chẳng phải gia hạnh. Nay, Trụ này vì đã thú nhập giải thoát cõi trên, nên không có trí gia hạnh nhậm vận như Dị thục vượt hơn. Nhưng khi muốn vì hữu tình nói pháp thì không thể như Phật nhậm vận mà nói, phải tác ý mới nói được, tức là trong quán Vô lậu, khởi tác ý nói pháp gọi là khởi gia hạnh, do đó không đồng với trước.

“Khắp tất cả việc nói pháp v.v…” trở xuống, là thứ ba, nói về việc làm này như thật biết.

Địa kinh nói về rừng rậm có mười một:

  1. Tâm hạnh rừng rậm của chúng sinh.
  2. Hành phiền não.
  3. Hành của ba nghiệp.
  4. Hành của căn.
  5. Hành của tín.
  6. Hành của tánh.
  7. Hành của tâm sâu sắc.
  8. Hành của sử.
  9. Hành của sinh.
  10. Hành của tập khí (thói quen).
  11. Hành rừng rậm sai khác của ba nhóm.

Ngài Tam Tạng nói “Tín, là dịch lầm, lẽ ra dịch là Thắng giải, nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Thắng giải thoát.”

Nay, đoạn văn này nói “Phải biết việc nói pháp đã làm ở đây.

nghĩa là chính thức ra khỏi rừng rậm. Cách hành văn dưới đây rất khó. Ngài Tam Tạng xem xét, giải thích, biện luận, để giải thích rõ đoạn văn này, “Nói là đối với tất cả hạnh gần gũi rừng rậm, đây là nêu chung mười một thứ rừng rậm, mười một thứ rừng rậm như tâm, hạnh v.v…, tức là cảnh sở quán của Bồ-tát. Tạp nhiễm như thế, thanh tịnh như thế, là rừng rậm của tâm hành, tức tâm hành nhiễm, tịnh.

Do tạp nhiễm này, tức là rừng rậm phiền não, rừng rậm hành nghiệp.

Do thanh tịnh này, là rừng rậm của căn hành nghĩa là năm căn như Tín căn v.v….

Hoặc đối tượng tạp nhiễm, hoặc đối tượng thanh tịnh, nghĩa là rừng rậm Tín, hạnh, tức là Thắng giải. Nếu tương ưng với phiền não thì gọi là đối tượng tạp nhiễm (bị tạp nhiễm), nếu tương ưng với pháp thanh tịnh, thì gọi là đối tượng thanh tịnh. Nếu chẳng hoàn toàn thì nói là rừng rậm hành tướng của tánh, là rừng rậm hành tướng của tâm sâu, là sở quán của Bồ tát, hoặc là hữu tánh, hoặc là vô tánh, chứ chẳng phải hoàn toàn. Nếu là hoàn toàn thì là rừng rậm của sử hành, rừng rậm của Sinh hành. Nghĩa là hầu hết đều thuộc về phiền não, vì hoàn toàn nhiễm. Bồ-tát đã dứt hết năm khổ v.v…, vì sinh là thanh tịnh, nên nói là hoàn toàn.”

Hỏi “Hành rừng rậm của sử có khác với phiền não rừng rậm ở trước nhau chăng?”

Đáp “Phiền não là tâm trên, còn sử là hạt giống, nên có sự khác nhau này. Nếu chung cả hai thứ, nghĩa là rừng rậm Tập khí và rừng rậm của ba nhóm hành. Ở đây gồm thâu chung bốn thứ tập khí rừng rậm v.v… của hành tánh, nên nói là hai thứ. Lại, vì gồm thâu ba nhóm hữu tình, nên nói là có cả hai thứ.”

Pháp sư Cảnh nói “ Đối với tất cả hạnh rừng rậm gần gũi, tạp nhiễm thế đây, thanh tịnh như thế: là nêu chung pháp nhiễm, tịnh. Do tạp nhiễp này, do thanh tịnh này, là nêu nhân tịnh. Nếu chẳng phải hoàn toàn, nghĩa là nhóm tà định, chánh định. Nếu chung cả hai thứ, nghĩa là chung cho cả ba nhóm.”

Nói hành rừng rậm, như kinh nói có mười một. Địa luận nói rằng “Rừng rậm, là nghĩa nhiều, nghĩa khó biết. Hành, nghĩa là không chánh tín”, như Luận kia có nói rộng.

“Bồ-tát như thế…” trở xuống, là thứ tư, nói về phương tiện khéo léo thành Đại Pháp sư.

phương tiện khéo khéo trong nói pháp, nghĩa là nhắc lại trường hợp thứ hai ở trên. Nói đã tạo ra phương tiện khéo léo, nghĩa là nhắc lại câu thứ ba ở trên.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Oai nghi nói pháp, gọi là nói khéo léo, nói hợp với căn cơ, gọi là nói những gì đã làm. Lại, đối tượng giải thích rõ ràng, hợp lý, gọi là nói khéo léo. Thích hợp với căn cơ, lợi ích chúng sinh, gọi là đã làm đúng như lời nói.”

Đối với nhất thiết chủng, thành đại Đại Pháp sư, Địa kinh nói “Bồ-tát trụ trong Địa Thiện Tuệ, đại khái là nói làm Đại Pháp sư, trụ trong nghĩa mầu nhiệm sâu sắc của Đại Pháp sư, giữ gìn pháp tạng của Chư Phật.”

Luận giải thích là trong đó, nói là gìn giữ, hai câu thị hiện.

Trụ ở trong nghĩa mầu nhiệm, sâu sắc của Đại Pháp sư, nghĩa là có hai mươi thứ để tạo nên sự nghiệp của Pháp sư:

  1. Thời gian.
  2. Y chính đáng.
  3. Đốn (tức khắc).
  4. Nối tiếp nhau.
  5. Tiệm (dần dần).
  6. Thứ lớp.
  7. Thứ lớp câu, nghĩa.
  8. Bảo cho biết.
  9. Vui mừng.
  10. Khuyên răn.
  11. Đủ đức.
  12. Không hủy phạm giới cấm.
  13. Không tán loạn.
  14. Đúng pháp.
  15. Tùy chúng.
  16. Tâm từ.
  17. Tâm yên ổn.
  18. Tâm thương xót.
  19. Không đắm lợi dưỡng, tiếng tăm.
  20. Không khen mình, chê người (cho đến nói rộng).

Đạt được Vô lượng môn Đà-la-ni. kinh nói “Được các nghĩa Đàla-ni, cho đến thứ mười, được các nghĩa Đà-la-ni.

Được các môn Đà-la-ni như thế v.v…, đầy đủ mười a-tăng-kỳ, trăm ngàn, đối với tất cả chi âm, từ, chia chẻ phân tích đầy đủ, khéo léo, tức là từ Vô ngại. Biện tài Vô tận là nhạo thuyết Vô ngại.

Thành tựu Pháp Đà-la-ni như thế, lãnh thọ kham năng, như kinh nói “Bồ-tát này ở chỗ một vị Phật, đã dùng một trăm ngàn môn Đà-lani trong suốt mười a-tăng-kỳ để lắng nghe, thọ lãnh chánh pháp. Như nghe pháp ở chỗ một vị Phật, ở chỗ Vô lượng, Vô biên Chư Phật khác cũng vậy. Bồ-tát do Vô ngại giải thù thắng này, dẫn phát ngôn, từ, có thể ngồi tòa pháp mầu nhiệm như thế. Do ba biện tài khác, dẫn phát Từ biện, việc làm tự tại, đủ khả năng lên pháp tòa, nói rộng bốn Vô ngại”, như trong kinh ấy nói, nếu ở trong đây, Thích Luận chép: “Nghĩa là lúc nói pháp được diễn ra trong hội đại tập.”

“Nếu ở chỗ này”, nghĩa là nói pháp ở chỗ cõi nước, nói rộng chánh pháp, tường tất cả tận môn, là tùy căn cơ chúng sinh kia, giảng nói chánh pháp, cùng tận pháp môn kia.

“Nếu do đây… nên”, cho đến đều hoàn toàn thành tựu: Do căn cơ này đối với các hữu tình hoặc nói là khuyến khích, dẫn đường, hoặc nói là an ủi, dẫn dụ, với những khả năng đều thành tựu căn lành, thanh tịnh, oai lực, thọ sinh, như kinh nói nên biết, là trường hợp thứ năm, sáu, bảy.

Căn lành thanh tịnh. Như kinh nói “Ví như vàng ròng, được chế tạo nên các dụng cụ trang nghiêm, đeo trên đầu hoặc cổ vua Chuyển Luân. Tất cả dụng cụ trang sức của tất cả Tiểu vương, người của bốn thiên hạ, đều không thể sánh bằng. Như thế, Bồ-tát trụ trong Địa Thiện Tuệ này, các căn lành kia càng trở nên sáng, sạch vượt hơn. Tất cả Nhị thừa và Bồ-tát ở Địa dưới không thể làm hư hoại.”

Lại, nói rằng “Ví như trong thế giới Tam thiên của Đại Phạm vương có tất cả chỗ rừng rậm sâu, đều được soi rọi đến.”

Như thế, Bồ-tát trụ ở Địa này, ánh sáng của gốc lành soi rọi tâm phiền não của chúng sinh, nơi rừng rậm âm u được chiếu rọi trở lên.

Thọ sinh, như kinh nói “Trụ trong Địa này, đa số làm Đại phạm Thiên Vương, được thế lực lớn, chúa tể của thế giới Tam thiên, được tự tại trong đó.”

Oai lực: như kinh nói “Trong một niệm, được tam-muội nhiều như số cát bụi của trăm ngàn cõi nước Phật trong mười a-tăng-kỳ, và thấy Phật v.v…, cho đến nói rộng.”

Trong Bồ-tát trụ được thành tựu viên mãn trên hết, trước hỏi, kế là, giải thích, sau là kết.

Trong giải thích hội thông, gọi là giải thích, y theo đoạn văn kết ở dưới đây. Đã không có kết quả riêng. Đây là đoạn văn khó chia ra, phán quyết. Nếu theo Địa luận, thì có tám phần khác nhau trong Địa thứ mười:

  1. Phương tiện tạo tác đầy đủ Địa phần.
  2. Được phần tam-muội đầy đủ.
  3. Được phần thọ vị.
  4. Nhập phần tận lớn.
  5. Địa giải thích danh phần.
  6. Năng lực thần thông phần vô thượng, hữu thượng.
  7. Phần ảnh tượng của Địa.
  8. Phần lợi ích của Địa.

Nay, đoạn văn này có sáu phần trước, lược qua không có hai phần sau. Nay, y cứ theo trước nay, chia làm chín câu:

Đầu tiên, là nói về chín công hạnh của Cửu Địa viên mãn, có khả năng nhập vào Thập địa là vua Quán Đảnh. Địa luận gọi là phương tiện tạo tác đầy Địa đủ phần, như kinh nói “Phật tử! Nếu Bồ tát có vô lượng trí, khéo quán trí như thế, cho đến Địa Bồ-tát thứ chín, là khéo giải thích trí.”

Khéo đầy đủ pháp thanh bạch v.v…, cho đến gọi là được đến Nhất thiết chủng, trí nhất thiết, trí Thọ vị. Địa luận, giải thích phương tiện của Địa, tạo ra đầy đủ Địa phần, nghĩa là trí nghiệp khéo giải thích Sơ địa đến Cửu Địa, nên biết. Trí khéo giải thích này có bảy tướng:

9. Vì khéo tu hành, nên có ba câu. Như kinh nói “Khéo đầy đủ pháp trong sạch, nhóm họp Vô lượng pháp giúp đạo, vì khéo gồm thâu đại công đức trí tuệ. Dưới đây có sáu tướng phối hợp với sáu câu dưới của kinh, giải thích rộng như kinh ấy.”

“Được lìa nhơ bẩn v.v… cho đến vì hiện ở trước.”

10. Nói được Tam-ma-địa hiện ở trước, Địa luận gọi là tam-muội.

Nói “được Vô lượng, vô số ly cấu v.v… vượt hơn Tam-ma-địa”, như kinh nói “Phật tử! Bồ-tát thuận theo thực hành trí như thế, được nhập Địa thọ vị, tức được Bồ-tát gọi là tam-muội Ly cấu mà hiện ở trước, cho đến thứ mười gọi là hiện tất cả Chư Phật hiện tiền trụ tammuội suốt mười a-tăng-kỳ, đều hiện ở trước.” Trăm ngàn các môn Tam muội thượng thủ như thế trong mười A-tăng-kỳ đều hiện tiền.

Nói “Tạo ra đối tượng đã tạo kia”, nghĩa là thích hợp với kinh ấy kế là nói “Bồ-tát nhập tất cả tam-muội này, biết phương tiện tam-muội, cho đến tam-muội đã tạo ra Chánh thọ.”

Nói “Tất cả trí trí v.v… ” thích ứng với kinh nói kế là “tam-muội sau cùng, gọi là “Trí nhất thiết trí thọ vị vượt hơn” tam-muội của Bồ-tát mà hiện ở trước, được tương xứng với Toà mầu nhiệm của tất cả Phật, cho đến có thể dẫn dắt rộng khắp mà giáo hóa hữu tình, phần thứ ba, nói được tương xứng với Tòa mầu nhiệm của tất cả Phật, quán đảnh, giáo hóa, dẫn dắt. Địa luận nói “Đây gọi là “được phần thọ vị”, như kinh nói “Là khi tam-muội hiện ở trước, thì có vua Đại Bảo Liên Hoa ra đời, tròn khắp Tam thiên đại thiên thế giới bằng mười a-tăng-kỳ, cho đến nói rộng.”

Luận thích nói “Được thọ vị trong đây, nghĩa là tùy các tòa nào, tùy thân lượng nào tùy các quyến thuộc nào? Tùy những tướng nào? Tùy xuất xứ ở đâu? Tùy theo địa vị đã được, tùy theo sáu việc đã nói như thế, nên biết, cho đến nói rộng.”

Nay, trong đây nói “Được tất cả tòa tương xứng với Phật là thứ nhất, tùy những tòa nào? Chỗ tòa ngồi có mười tướng:

1. Tướng sinh, như kinh nói “Tức có vua Đại Bảo Hoa xuất hiện.”

2. Tướng lượng, như kinh nói “tròn khắp như trăm Tam thiên ngàn

Đại thiên thế giới, trong mười A-tăng-kỳ.”

3. Tướng thù thắng, như kinh nói “Dùng các châu báu trang nghiêm.”

4. Tướng Địa, như kinh nói “Vì vượt qua cảnh giới thế gian.”

5. Tướng nhân, như kinh nói “Vì gốc lành của thế gian sinh ra.”

6. Tướng Thành, như kinh nói “Thực hành các pháp như huyễn, vì cảnh giới của tánh đã thành tựu.”

7. Tướng Đệ nhất nghĩa, như kinh nói “Ánh sáng, khéo soi chiếu tất cả pháp giới. Khéo soi, còn gọi là chánh quán.”

8. Tướng công đức, như kinh nói “Vượt qua tất cả cảnh giới của chư thiên.”

9. Tướng của thể, như kinh nói “Dùng báu Đại lưu ly ma-ni làm cọng v.v….”

10. Tướng trang nghiêm đầy đủ, như kinh nói “Thân hoa có Vô lượng ánh sáng, với các thứ châu báu đan xen trong đó, cùng Vô lượng lưới báu giăng mắc trên đó.”

Nói “thân”, là thứ hai, tùy những kích cỡ thân nào?, như kinh nói “bấy giờ, thân Bồ-tát mầu nhiệm đặc biệt, xứng với tòa hoa v.v….”

Nói “các quyến thuộc, là thứ ba, tùy những quyến thuộc nào, như kinh nói “bấy giờ, quyến thuộc của vua Đại Bảo Liên Hoa trên hoa sen có Bồ tát v.v… được ánh sáng rực rỡ lớn chiếu khắp qua, lại”, là thứ tư, tùy những tướng nào?, như kinh nói “Bồ-tát này lên tòa Đại bảo liên hoa vương, và Bồ-tát quyến thuộc ngồi trên tòa sen, nhập tam-muội xong. Bấy giờ, tất cả thế giới trong mười phương đều rung chuyển dữ dội. Tất cả đường ác đều biến mất, ánh sáng tỏa soi, chiếu khắp tất cả Pháp giới. Tất cả thế giới đều trang nghiêm thanh tịnh, đều được thấy, nghe tất cả các đại hội của Chư Phật.”

Tùy những chỗ nào? Tức là chỗ phát ra ánh sáng, như kinh nói “Phật tử! Bồ-tát này vì sao cho đến công đức trí tuệ đều được hiển hiện ở trước? Tất cả hành tướng, tất cả trí trí đều rưới lên đỉnh đầu họ.”

Tùy địa vị đã được, như kinh nói “Như thế, Phật tử! Lúc bấy giờ, Chư Phật phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày, gọi là nhiêu ích tất cả trí thông, cho đến khi nhập vào đỉnh đầu Bồ-tát kia, gọi là đắc vị v.v….”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Nghĩa là rưới nước pháp lên đỉnh đầu Bồtát, gọi là tất cả tướng. Đây là trí Nhất thiết tri, cũng là việc đã làm.”

“Phật sự v.v… đối với phương tiện giải thoát kia”, là thứ tư, nói về phương tiện giải thoát, được trí như thật, kịp được Vô lượng giải thoát, Tổng trì, thần thông.

Địa luận gọi là nhập phần Đại tận, nên có năm thứ:

  1. Trí Đại.
  2. Giải thoát đại.
  3. tam-muội đại.
  4. Đà-la-ni đại.
  5. Thần thông đại.

Nay ở đây nói rằng: “Phật sự của phương tiện giải thoát kia là tam-muội đại. tam-muội có thể làm nhân cho giải thoát.

Nói: “Phật sự của phương tiện giải thoát”, là nói được trí như thật, là Trí Đại.

Kịp được Vô lượng giải thoát, là giải thoát đại.

Một Đà-la-ni, là Đà-la-ni đại. Năng lực thần thông, là Thần thông đại (nói rộng như Địa luận kia).

“Và, Tăng thượng này cho đến an lập, phần thứ năm, nói được Niệm trí đại, huấn từ an lập. Địa luận, gọi là Địa là giải thích phần danh. Giải thích danh có ba:

1. Được sức niệm lớn, có thể thọ lãnh mây mưa nói pháp của Chư Phật, nên gọi là Pháp vân.

2. Pháp thân che khắp, rưới xuống mưa pháp, vì dứt sạch phiền não, nên gọi là Pháp vân.

3. Rưới xuống mưa pháp, sinh vật này mầm tươi tốt, nên gọi là Pháp vân.

Nay, trong đây nói rằng “Và, tăng thượng đại niệm, đại trí này”, là thứ nhất, giải thích danh.

Tăng thượng dẫn phát huấn từ an lập, là hai thứ sau giải thích danh. “Nhưng ở đây, giải thích danh” trở xuống, là tự giải thích. Nay, trước nêu tóm tắt nhằm bổ sung cho phần kế là.

Và, đại thần thông tăng thượng dẫn phát, là thứ sáu, nói về sự thần thông. Nếu theo Địa luận, thì dưới đây có năng lực thần thông. Có năng lực thần thông vô thượng, hữu thượng.

Không có ai trên, nghĩa là so sánh với năng lực thần thông của chúng sinh khác. Có trên, nghĩa là do so sánh với năng lực thần thông của Như lai.

“Gốc lành thanh tịnh” là câu thứ bảy. kinh nói “Phật tử! Thí như thợ kim hoàn khéo léo, luyện thỏi vàng này thành vật trang sức. Dùng báu Ma Ni không chi trên trộn lẫn trong đó, đeo lên cổ hoặc đỉnh đầu Tự Tại Thiên vương. Ngoài ra, vật trang sức của trời, người đều không thể sánh bằng.

Lại nói “Ví như ánh sáng của Ma-hê-thủ-la thiên vương sáng hơn tất cả ánh sáng của chúng sinh ở chỗ sinh, khiến cho thân, tâm của chúng sinh được trong mát. Như thế, Bồ-tát trụ trong Địa này, trí tuệ sáng suốt, cho đến Bồ-tát trụ ở Cửu Địa đã không sánh bằng.”

Thọ sinh, là câu thứ tám. kinh nói “Bồ-tát trụ trong trụ này, đa số làm Ma-hê-thủ-la thiên vương với đầy đủ oai lực tự tại v.v… ”, là câu thứ chín. kinh chép: “Trong một niệm, được mười không thể nói trăm, ngàn, muôn, ức na do tha thế giới Phật với tam-muội như số cát bụi, và thấy Phật v.v… (nói rộng như kinh).

“Phải biết rằng…” trở xuống, là thứ ba, kết hợp giải thích danh.

Văn chia làm ba:

1) Kết luận phần trên nói sơ lược 2) Chỉ ra kinh nói rộng 3) Giải thích tên gọi khác.

Lại, Bồ-tát này tự như vầng mây lớn chưa hiện Đẳng giác Vô thượng Bồ-đề, hoặc hiện Đẳng giác. Pháp sư Cơ nói “Địa thứ mười có ba tâm:

1) Tâm Nhập. 2) Tâm Trụ. 3) Tâm Mãn.

Trong tâm mãn này, gọi là Đẳng giác Bồ-tát. Đức Như lai gọi là Diệu Giác. Bồ-tát nhập trụ kia, không gọi là Đẳng giác. Hoặc ở hai tâm nhập trụ, hoặc chưa hiện Đẳng giác; hoặc ở tâm mãn, đều gọi là giác đã hiển hiện v.v…. Lại, Đẳng giác là Phật, chưa hẳn là Bồ-tát Đẳng giác, ý nói Bồ-tát này ở đương địa chưa thành Đẳng giác, cũng có thể giáo hóa chúng sinh, nói pháp như mây mưa. Nếu thành Đẳng giác, Phật rồi cũng có khả năng giáo hóa chúng sinh, nói pháp như mây mưa. Nói là giống với Phật, như Đẳng giác Bồ-tát, gọi là Đẳng giác.

Trên đây, nói rộng, phân biệt riêng trong trụ đã xong, dưới đây nói chung.

Văn chia làm năm:

1. Nói về giới hạn phần tu chứng.

2. Nói về phần vị đoạn chứng.

3. Nói về thanh tịnh dần.

4. Nói gồm thâu tám pháp trong phẩm Công Đức ở trước, ở trong mười ba trụ này.

5. Lấy nhiều so với ít, tương đương theo thứ lớp. Trong phần đầu được chia làm hai: Trước, là giải thích khuất phục vặn hỏi. Sau, là nói về các trụ tu chứng, trải qua kiếp số nhiều, ít.

Trong phần trước là ý vặn hỏi “Bồ-tát Thập Địa, mỗi Địa đều tu muôn hạnh, vì sao ở trước lại nói là Sơ địa tu đàn (bố thí); Nhị Địa, Trì giới, Tam địa tu định, Tứ địa tu Đạo phẩm v.v… ư?” Cho nên, luận để làm giải thích.

Như thế, đã nói công đức của phần chi giữa trong Trụ sau sau, chẳng phải trụ trước trước, tất cả đều không. Nhưng vì phẩm dưới đây không rơi vào số v.v…, nghĩa là địa ở trước vì tu chưa hoàn thành viên mãn, nên không lập, đến Địa sau viên mãn, mới Kiến lập.

Pháp sư Thái nói “Nếu dựa vào mười hai trụ của Bồ-tát này mà tu tánh công đức, thì cũng sẽ có đầy đủ trong chủng tánh trụ ban đầu. Nhưng vì chưa thành tựu viên mãn, nên chưa lập danh hiệu của mười một trụ còn lại.”

Dù có giải thích này, nhưng không bằng giải thích ở trước.

Trong văn thứ hai được chia làm ba:

1. Phân biệt chung, riêng số lượng kiếp của các Trụ.

2. Quyết định kiếp Đại, Tiểu, nói về tu trong thời gian dài, ngắn.

3. Nói về tinh tấn có thể chuyển biến, không thể chuyển biến.

Trong phần trước, trước riêng, sau chung. Trong phần riêng, nói rằng “Lại, tức trong mỗi trụ, rất được thành tựu, viên mãn. Trong mỗi trụ, trải qua Trung kiếp, có nhiều tai hủy, hỏa, phong v.v… ; đến Đại kiếp, do tu tập mới được viên mãn. “Nhưng tất cả trụ v.v…” trở xuống, là luận chung.

Nói “Đây là y theo luôn thường mạnh mẽ tinh tấn và, nói ở đây tức là định v.v…. Pháp sư Cảnh giải thích “Trong Tăng Kỳ đầu, công hạnh có thực hành, bỏ giở, chỉ là luống qua. Thời tiết (giai đoạn) không tu hành, bỏ không lấy, chỉ y cứ vào trí hạnh, để khắc phục khi lấy. Về hành tướng của quãng thời gian từ Sơ địa trở lên, quyết định không có thời gian vô ích, vì được ý lạc tịnh.

Kế là, trải qua vô số đại kiếp thứ ba, cho đến chứng được Bồ-tát trụ thành tựu, viên mãn trên hết. Pháp sư Cơ nói “Vì sao ở đây không nói chứng đắc Như lai?”

Nghĩa là “Vì ba kiếp này đều ở nhân, nên không nói chứng Phật, vì Đức Phật ở ngoài ba kiếp. Lại, ở trước, nói về hai kiếp, văn đều có nói theo thứ lớp, cho đến chứng đắc Cực Hỷ trụ v.v… Nay, trong phần thứ ba này không có nói về thứ lớp, nên không nói Địa Như lai, chỉ giữ lấy địa vị của mình. Thứ hai, trong quyết định số kiếp nhiều, ít trung bình mà nói. Nếu y theo sau để nói, cho đến không vượt qua số lượng này. Pháp sư Viễn nói “Lấy số một trăm hai mươi trong kinh Bất Tư Nghị làm một lượng Tăng-kỳ.” Lại giải thích “Trong số một trăm hai mươi, đầu tiên có một trăm lẻ ba là lượng của kiếp ban đầu. Kế có mười bốn là kiếp thứ hai. Lại, có ba số là kiếp thứ ba.”

Luận sư Cảnh nói “Văn này rõ ràng.” Lại, dẫn kinh Anh Lạc nói rằng “Địa thứ mười mãn, lại trải qua nhiều kiếp để học (bắt chước) bước đi của voi đầu đàn mới được Bồ-đề. Chứng ngoài ba kỳ, lại trải qua nhiều kiếp, lấy ba kỳ mãn của Tiểu thừa. Về sau, lại trải qua một trăm kiếp tu nghiệp tướng tốt.” Việc này không đúng. Nhiếp luận bản dịch xưa chép: “Hoặc nói ba kỳ, hoặc nói bảy tăng-kỳ, hoặc nói ba mươi ba. nay, quyết định nói ba Đại Kiếp tăng-kỳ, liền được thành Phật, không hơn, không kém. Ở chỗ này, văn luận nói là chỉ trải qua ba vô số đại kiếp, không quá số lượng này. kinh Anh Lạc thì y cứ nghĩa trong Thập địa để chia ra vô số Tiểu kiếp, ở trong đó tu tập bước đi v.v… của voi đầu đàn, cũng là trong số ba kỳ, mà không hơn.”

Pháp sư Thái nói “Lấy kinh làm chính, chỉ vì Luận chủ lấy đa số bao gồm thiểu số, nên nói là không hơn.”

Lại giải thích “Luận nói về thật nghĩa, không đồng với luận Tiểu thừa. Lại nói “kinh Anh Lạc là kinh do Ngài Trúc-Pháp-Niệm dịch vào thời đại đời nhà Tiền Tần, nhưng nay, ngài Tam Tạng không tin.”

Luận sư Bị nói “Kinh Anh Lạc không ở trong mục lục, do đó, không thể chứng minh.”

Trong tinh tấn có thể chuyển biến, không thể chuyển biến, ý nói là công hạnh của Địa tiền có thịnh, suy, đồng trụ Bồ-tát, được có vượt qua trên Sơ địa không có vượt qua. Trung kiếp, là kiếp đao binh. Đại kiếp, là kiếp nước, lửa.”

Dưới đây, là thứ hai, nói về phần vị dứt chướng. Ở đây nói rằng “Tam trụ dứt trừ hai chướng kia, nghĩa là ở trong Cực Hỷ trụ, cho đến nhập Như lai trụ, nghĩa là ở Sơ địa, dứt trừ phiền não của đường ác. Lại, chế phục hai phẩm trung, thượng “tu hoặc” hoàn toàn không hiện hành. Dứt trừ hai phẩm “hoặc” trung, thượng trong Địa thứ tám, khuất phục phẩm hạ kia đều không hiện ở trước, chính là thời gian tâm Kim Cương dứt trừ tức khắc tất cả hạt giống “hoặc”.

Ngài Tam Tạng nói “Theo luận Đối Pháp thì “tất cả phiền não đều chế phục, đến Kim Cương sau mới dứt.”

Văn trong đây nói là Địa thứ tám dứt, nghĩa là chỉ dứt trừ hạt giống “hoặc”, trên thể có tánh không điều nhu, cũng gọi là dứt trừ thô nặng, chứ chẳng phải dứt thể của hạt giống. Dứt trừ “Kiến hoặc” thô nặng trong Sơ địa kia, và hạt giống của “kiến hoặc” đã dựa vào thô nặng, đều gọi là thô nặng.

Địa thứ tám chỉ dứt trừ thô nặng, chưa loại trừ hạt giống của “Tu hoặc” ở trong Thập địa đã thọ phần đoạn, nên quyển tám mươi nói rằng “Trong mười Địa chỉ tu đối trị chướng Sở tri, không tu đối trị chướng Phiền não.”

Pháp sư Thái nói “Khí còn dư lại của các Sư từ xưa đến nay, gọi là Tập khí. Nay, thì không như vậy. Hạt giống phiền não cũng gọi là Tập khí, cũng gọi là Tùy miên. Phải biết rằng phẩm Chướng sở tri đã có thô nặng, cũng có ba thứ v.v…. Luận sư Cảnh nói “Ở đây nói rằng “Ở da, vỏ, hạt phần nhiều y theo thân cây. Lỏi cây ngay thẳng, bền chắc, gọi là “thật”. bản dịch xưa nói “Vỏ, da, xương, cũng gọi là da, thịt, tim. Hai thứ này được gọi là y cứ chung cả pháp tình, phi tình làm thí dụ. Phật địa đều dứt thật, nghĩa là y theo đạo giải thoát, chứng đoạn gọi là đoạn. So sánh dứt chướng phiền não, cũng gọi là Phật địa đoạn, mà nói là Bồ-tát đoạn hữu trên hết. Y theo Vô ngại đoạn, so với dứt chướng Sở tri, Vô ngại chánh đoạn cũng nên nói là trụ đoạn trên hết, đây là y cứ ảnh lược, làm rõ lẫn nhau. Pháp sư Cơ nói “ Vỉ lẽ gì chướng phiền não không nói là ở da v.v… ?”

Nghĩa là “Phẩm Phiền não hữu, lấy ba phẩm để nói. Nay, chướng này thì không như thế, nên mới nói ở da v.v…. Ngài Tam Tạng nói “Đoạn văn này y theo thô nặng, không y cứ hạt giống chướng Sở tri.” Luận sư Bị y theo chướng Sở tri, trong ba trụ, cho đến tu dứt tư lương.” Pháp sư Cảnh nói “Chủng tánh, giải hạnh, trụ tu Cực Hỷ Trụ, dứt “hoặc” tư lương. Từ tu đạo Sơ địa tu đạo cho đến Thất Địa, tu tư lương đoạn đạo của Địa thứ tám Cửu địa tu đạo Tư lương của Thập địa. Đây là y cứ riêng ở chỗ mãn của ba Kỳ để nói ba trụ đoạn.”

Luận sư Bị nói “Như chướng Sở tri, mỗi Địa trong mười Địa, đạo tu dứtriêng phiền não, cũng ở các Địa, các Địa dứt riêng, mà vì y theo chỗ rốt ráo để nói, nên nói là Tam trụ dứt vì Địa khác dứt chưa được rốt ráo, nên nói tu đoạn so lường.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Mỗi Địa đều dứt chướng Sở tri vì sao nay nói so lường?”

Nghĩa là “Dù dứt Địa mình, do khởi các “hoặc” ở Địa sau, ba chỗ này đều dứt, vì Địa sau, Địa mình không bao giờ hiện hạnh, không đồng với Địa khác, nên không nói so lường.”

Trong phần nói về thanh tịnh dần, vì hợp ba tuệ thành một, nên chỉ có mười một. Thứ tư, nói về gồm thâu tám pháp trong phẩm Công đức ở trước trong mười ba trụ này. Phẩm Công Đức nói “Có tám thứ pháp có thể gồm thâu đủ tất cả Đại thừa:

1. Tạng Giáo Bồ-tát.

2. Tức chỉ bày rõ các giáo chân thật trong Tạng Bồ-tát như thế.

3. Chính trong tạng Bồ-tát như thế, chỉ bày rõ giáo với oai lực rộng lớn hơn hết, không thể nghĩ bàn của tất cả Chư Phật, Bồ-tát.

4. Như lý lắng nghe đã nói ở trên.

5. Như lý tư duy, so lường, là thu hướng trước nhất về ý lạc vượt hơn.

6. Thú Hướng ý lạc vượt hơn là trước khi nhập tu về hành tướng.

7. Nhập tu hành tướng là trước khi tu quả thành tựu viên mãn.

8. Tức do tu quả thành mãn như thế, nên rốt ráo xuất ly. Nay, ở đây nói là trong trụ thứ nhất, thứ hai, cho đến lắng nghe, thọ lãnh, tư duy, đó là chủng tánh, giải hạnh.

Gồm thâu năm pháp trước trong hai trụ trong tạng Bồ-tát là ba pháp trước trong tám pháp, đều là tạng Bồ-tát. Sinh tín, thắng giải, lắng nghe, thọ lãnh, tức pháp thứ tư.

Tư duy, tức pháp thứ năm, thật ra, về sau, các Địa chẳng phải không có năm pháp này. Y cứ cho rằng trên đây đã áp dụng tăng thời gian ngang bằng với ngôn ngữ.

Nói “Trong trụ thứ ba được ý lạc vượt hơn, thu hướng hành giả vượt hơn công hạnh ở trước, tức gồm thâu một phần thứ sáu, nghĩa là ưu tiên hướng đến ý lạc vượt hơn, vì trong Sơ địa, được Vô tướng trước nhất, vì thu hướng hạnh trước là Vô tướng, nên được một phần.”

Nói “Đối với tất cả pháp khác, cho đến có gia hạnh, có công dụng đắc tu rộng lớn trong Vô tướng trụ.” nghĩa là ở đây gồm thâu một phần thứ sáu, là nhập tu hành tướng. Chung với Sơ địa, gồm thâu chung Vô tướng thứ sáu. Đây là tức tu tập Vô tướng tu, rộng lớn như ở đây, chứ chẳng phải như Sơ địa được gọi là hạnh tu ở trước.

Ba thứ trên đây thuộc về hanh thanh tịnh, tu quả thành tựu, viên mãn trong Bồ-tát trụ.

Địa thứ tám, chín, mười gồm thâu nhập tu hành tướng của Địa thứ bảy trước khi tu quả thành mãn. Phải biết rằng trong Như lai trụ, đạt được rốt ráo xuất ly, nghĩa là gồm thâu địa thứ tám kia, tức do tu quả thành mãn rốt ráo xuất ly như thế.

Nói về lấy Đại đa số so với Tiểu, tương đương theo thứ lớp: Thanh văn có mười hai trụ. Luận sư Cảnh nói “Chủng tánh, tức vào lúc chưa phát tâm, vốn có chủng tánh.

  1. Ở bảy phương tiện.
  2. Ở Kiến đạo, cho đến Sơ quả.
  3. Giới học.
  4. Định học, đều ở trong đạo phương tiện tinh tấn dứt “tu hoặc” ở cõi Dục.
  5. Ở dứt ba phẩm “hoặc” trên.
  6. Ở dứt ba “hoặc” của phẩm trung.
  7. Dứt ba phẩm “hoặc” dưới, ba này là tuệ.
  8. Đã được bốn định căn bản, làm đạo gia hạnh cho cõi Vô Sắc kia.
  9. Là ba Vô Sắc, vì ba Vô Sắc có chân vô lậu, bỏ tất cả tướng, gọi là Vô Tướng Trụ.
  10. Từ dứt chín Vô ngại của Phi Tưởng và được Diệt định.
  11. Là Đế chân thật của quả A-la-hán.

Trong Nhiếp Luận Sớ cũng sắp xếp như thế. Vì mười hai của Tiểu thừa chỉ so sánh với mười hai trụ Học Địa của Bồ-tát, không lấy trụ Như lai thứ mười ba.

Người chú thích lại giải thích “Dựa vào định Vị Chí, lìa thiền cõi Dục, đạo phương tiện của Sơ thiền, gọi là thứ chín, lấy bốn thiền căn bản làm thứ mười, do Xã các thứ tướng phi pháp của cõi Dục, nên tức lấy Bốn không, cho đến Phi Tưởng. Vô ngại thứ chín và được Diệt định là thứ mười một. Vô học là thứ mười hai, tám thứ trước, như cũ.”

Pháp sư Thái nói “Sơ trụ là phần giải thoát thiện chung, riêng của năm pháp quán dừng tâm.”

Đây là y theo tập chủng tánh để nói. Nếu giải thích chủng tánh, thì cũng chung cho Vô thỉ sinh tử. Bốn địa vị như Noãn vị v.v… làm gia hạnh cho Kiến đạo, là ở Chân tướng Kiến đạo.

Địa vị của ba học giới, định, tuệ, được Sơ quả về sau, lúc khởi đạo Thắng tấn, vì muốn “tu hoặc”, lại tu tập ba học giới, định, tuệ, tức là ba trụ. Bốn trụ sau, phần lớn đồng với giải thích lại của người chú giải.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Như các Thanh Văn, cho đến trụ thứ tư cũng thế, nghĩa là trong đây, người Thanh văn chẳng phải lúc được trụ Sơ quả, như trụ thứ tư của Bồ-tát. Trụ thứ tư của Bồ-tát ở Địa thứ hai, vì lìa Sơ địa. Nay, vì y theo trong tâm hướng dẫn đến ở Sơ quả của người Thanh văn để biện luận, nên giống với Bồ-tát. Lại nữa, lúc trụ quả, cũng được so với Bồ-tát, vì giới được Sơ quả cũng có, vì sao phải giống với Bồ-tát khi thuộc về Sơ địa, gọi là trụ thứ tư? giải thích trước là hơn, vì giải thích sau còn có sở đắc. Về tâm học, Tuệ học ở dưới y cứ theo đây, ở tâm thú hướng nên biết.

Phẩm sinh thứ nhất của Du-già Xứ rốt ráo. Nghĩa là bốn Xứ của Bồ-tát địa, đây là thứ ba. Do ở trước, tùy yêu cầu cần thiết, tức là được rốt ráo, vì gồm thâu lợi mình, lợi người, nên gọi là Rốt ráo Du-già Xứ. Có năm phẩm: Vì nhiếp hóa chúng sinh là trước, nên nói là thứ nhất.

Y cứ trong năm phẩm, đầu tiên, có ba phẩm, nói về hạnh của phần mình. Kế có một phẩm, nói về hạnh Thắng tấn. Sau, có một phẩm, đối với công hạnh, nói về quả.

Trong phần trước có hai:

  1. Có hai phẩm nói về hạnh của phần mình.
  2. Một phẩm nói về Địa, nơi nương tựa của hạnh.

Trong phần trước lại có hai:

  1. Nói về năm sinh, là hạnh lợi ích chúng sinh.
  2. Nói về sáu hạnh nhiếp hóa chúng sinh.

Trong phần trước, chia làm ba:

  1. Nêu số, nêu danh.
  2. Giải thích theo thứ lớp.
  3. Nói về năm sinh, nhiếp hóa chúng sinh một cách khắp hết.

Trong giải thích trừ tai nạn cho chúng sinh, trước là hỏi, kế là, giải thích, sau là kết sơ lược, chỉ bày rộng.

Trong giải thích có hai:

  1. Nói về sự dứt trừ năm nỗi khổ ở hiện tại.
  2. Nói về cách dứt trừ tà kiến, ác hành. Năm khổ là:

Đói rét, thiếu thốn.

  1. Bệnh tật.
  2. Nạn chiến tranh.
  3. Kẻ thù.
  4. Trị phạt.

Nói năng lực trì các minh chú có linh nghiệm, nhiếp thọ rộng lớn thân lương được vương v.v…, nghĩa là do sức nguyện, lại dùng năng lực chú để nhiếp thọ chi tiết thân mình, trên dưới đều thành thuốc hay. Chia cắt, bố thí cho người, nhằm tiêu trừ bệnh dịch cho người, trong tăng thượng, ngài Khuy Cơ nói: Sơ Trụ làm nhất Thiên vương. Nhị trụ làm tứ thiên hạ, cho đến trụ thứ tám làm chủ Tiểu thiên giới. Trụ thứ chín làm chủ hai ngàn thế giới. Bồ-tát trụ thứ mười sinh lên trời Ma-hê-thủ-la tức Tịnh độ, thật ra là ở trong hai cõi dưới, do nghiệp Vô lậu mà sinh, nên gọi là rốt ráo trên. Ở đây, là nói theo chưa được Pháp giới Thọ dụng thân để biện luận. Pháp sư Cảnh nói “Nói đủ, nên nói Ma- ha. Ma-ha là Đại-hê-thủ-la, Hán dịch là Tự Tại. Trong lần thọ sinh sau cùng, hoặc sah vào nhà Đại quốc sư thuộc dòng dõi Balamôn, đồng hiện Đẳng giác.” Pháp sư Cảnh nói “Là hành tướng thành đạo của thân biến hóa, nếu là Phật báo thân, thì lần thọ sinh sau cùng, thân kia cao lớn đặc biệt, sinh trong hoa sen lớn, lượng đồng với Pháp giới.”

Pháp sư Khuy Cơ thuật lại lời ngài Tam Tạng rằng “Có kinh nói “Phật bảo Từ Thị! Ông sẽ sinh vào nhà Bàlamôn, ta sinh trong nhà Sất đế lợi. Ta sinh bên hông phải mẹ, còn ông sẽ hóa sinh trên đỉnh đầu. Ta hưởng thọ tám mươi tuổi, ông sẽ sống lâu đến sáu muôn tuổi v.v….”

Có kinh riêng này trái với kinh Di-lặc. Xét về câu hỏi, văn nhiếp hóa khắp hết chúng sinh, nói rằng “Chỉ trừ Địa phàm phu, Bồ-tát thọ sinh ở đây, là lấy Bồ-tát có trí làm năm sinh, có hai cách giải thích:

1. “Chỉ lấy nhập ở Thập tín trở lên, cho đến mười Địa làm năm

sinh này, không lấy Thập tín trở xuống, Bồ-tát đã thọ sinh trong chủng tánh ngoại đạo, phàm phu.”

2. “Chỉ lấy Bồ-tát có trí của Đại địa, vì hữu tình thọ sinh, không lấy Bồ-tát phàm phu Địa tiền, vì chưa bình đẳng đối với chúng sinh. Sơ địa đến Thất Địa trở xuống, đã thọ năm sinh, chung cả biến hóa. Bát Địa trở lên, chỉ biến hóa sinh. Ngài Tam Tạng chỉ giữ lại cách giải thích sau, vì đúng hơn.

VII. Nhiếp thọ, cũng là nói ở trước: Vì muôn vật ưa thọ năm sinh. Đối với năm thân sinh, dùng sáu thứ nhiếp thọ nhằm lợi ích hữu tình.

1/ Kế là, nói về phẩm Nhiếp, trong đó đầu tiên, nói về sáu thứ nhiếp thọ, trong đó, trước là chia sáu môn. Kế là, dựa vào môn để giải thích. Sau, nói về nghĩa sáu Nhiếp khắp cùng tận.

2/ Thứ hai, nói về nỗi khó khăn khi nhiếp thọ, qua đó, trước nói về việc gặp phải mười hai nạn. Sau, nói về phương tiện khéo léo đối trị mười hai nạn ấy, trong đó, lời văn khó có thể lấy riêng.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Theo thứ lớp của mười một câu đầu, mỗi câu đối với một đối tượng trị.”

Thứ mười một vì giải thích thứ mười một ở trên, mười hai việc khó khăn.

Luận rằng: 1. “Hoặc ở trong đó, nên quán nặng nhẹ, như đối tượng thích hợp mà thực hành phương tiện.” Tức là thứ nhất ở trước, rất dễ hiểu. 2. Hoặc ở trong đó nên phân biệt Bổ-đặc-già-la, tức là thứ hai. do phân biệt với hữu tình ở trước nên nói năng mềm mỏng nhẹ nhàng, tự không khởi phiền não. 3. Hoặc ở trong đây nêu duyên mạnh mẽ, nhiếp thọ nhân chuyển, tức là thứ ba. . Tuy vật ít nhỏ nhưng vận tâm phan duyên mỏng manh, nay nhiếp nhân khởi khắp, nếu phát chánh nguyện tức là thứ tư. 5. Tuy không có năng lực làm khắp các việc, chỉ phát chánh nguyện, sau có lúc thực hành, cứu giúp cùng khắp, hoặc ở trong đây chế ngự tâm mình, không để cho rong ruổi là thứ năm. 6. Các thứ thọ lạc phần nhiều thuộc về buông lung, tâm không tán loạn có công năng xa lìa rong ruổi. Hoặc ở trong đó an trụ tâm cuồng là thứ sáu. 7. Không có khả năng lợi sanh, an tâm kính làm sau sẽ được quả tâm, mạnh mẽ chọn lựa tức là thứ bảy. 8. Khởi tâm chọn lựa, có thể nhiếp, không thể nhiếp thì nên xả bỏ , không sanh nhàm mỏi mà tự an nhẫn tức là thứ tám, rất dễ hiểu. Hoặc ở trong đó mà thực hành buông bỏ: Trước giải thích thứ mười rằng: đối với vật này khó xả bỏ nên lẽ ra không sanh luyến mến mà chấp lấy bố thí cho, hoặc ở đây giải thích thứ bảy ở trước, đời này có thể xả bỏ chọn lựa mạnh mẽ ở trước hợp giải thích thứ tám, hoặc ở trong đó phát khởi siêng năng tinh tiến, hăng hái không biếng nhác. Thứ lớp lại giải thích thứ chín ở trước, rất dễ hiểu. Nếu dùng hạnh trước này để buông bỏ là lại giải thích thứ bảy ở trước, đây là hợp giải thích thứ chín, thứ mười. Hoặc ở trong đó khéo léo phương tiện giải thích thứ mười một ở trước, là đối trị rất dễ hiểu. Mà chánh tu hành: là giải thích thứ mười, mười hai ở trước, rất dễ hiểu. Có chỗ giải thích: Ở trước đối trị như trước phối hợp, hoặc ở trong đó an trụ tâm mình trở xuống, cho đến mà tự an nhẫn để giải thích đối trị thứ sáu ở trước. Hoặc ở trong đó mà thực hành buông bỏ là giải thích đối trí của câu thứ bảy ở trước, hoặc ở trong đó phát tâm siêng năng tinh tiến, hăng hái không biếng nhác là giải thích câu thứ tám, thứ chín, thứ mười ba, tinh tiến trong đây là một, hăng hái là hai, không biếng nhác là ba. Như kế đây là ba. Hoặc ở trong đó khéo léo phương tiện mà chánh tu hành là hợp giải thích mười một, mười hai. như trước giải thích rất dễ hiểu. Nếu theo Địa Trì thì năng trì trong đây có chín câu, không thể y theo xem xét, tuy có nhiều lời mà chưa quyết định. Nay lại giải thích hai luận tâm và cựu đều như thứ lớp có mười hai câu để đối trị mười hai vặn hỏi ở trước, nghĩa là trong đây đầu tiên nói rằng các Bồ tát gặp các việc nạn, hoặc ở trong đó nên quán xét nặng nhẹ, đúng như sự thích ứng mà thực hành phương tiện. bản dịch xưa nói “Đối với chúng sinh, Bồ-tát không quán nặng nhẹ mà thực hành phương tiện. Đây tức là đối trị với điều khó thứ nhất ở trước.”

Thứ hai nói rằng “Hoặc ở trong đó, nên chọn lựa Bổ-đặc-già-la. Bản dịch xưa chép rằng: Hoặc quán sát ở người mà thực hành sai, là đối trị nạn thứ hai ở trước, thứ ba là ở trong đó phan duyên mạnh mẽ nhiếp thọ nhân chuyển biến.” bản dịch xưa nói “Hoặc phương tiện mạnh mẽ vì tạo ra nhân duyên, đối trị với việc khó thứ ba.”

Thứ tư nói rằng “Nếu phát chánh nguyện.” bản dịch xưa nói “Hoặc tu nguyện chân chính, đối trị với việc khó thứ tư.”

Thứ năm nói rằng “Hoặc ở trong đó, chế ngự tâm tình, không để cho rong ruổi.” Bản dịch xưa nói “Hoặc tâm tịnh tín, đối trị việc khó thứ năm.”

Thứ sáu nói rằng “Trong đó, an trụ tâm mình.” Bản dịch xưa nói “Hoặc chuyên tâm, đối trị việc khó thứ sáu.”

Thứ bảy nói rằng “Tư duy lựa chọn một cách mạnh mẽ, nhạy bén.”

Bản dịch xưa nói “Tư duy, quán sát, đối trị với việc khó thứ bảy.”

Thứ tám nói rằng “Bất sinh nhàm chán, mỏi mệt.’” Bản dịch xưa nói “Không mỏi mệt, đối trị với việc khó thứ tám.”

Thứ chín nói rằng “Mà tự an nhẫn.” Bản dịch xưa nói “Hoặc đôi  khi nhu nhuyến, đối trị với việc khó thứ chín.”

Thứ mười nói rằng “Hoặc ở trong đó mà thực hành không bỏ.” Bản dịch xưa nói “có khi hành Xã, đối trị việc khó thứ mười.”

Thứ mười một nói rằng “Hoặc ở trong đó, phát siêng năng tinh tấn hăng hái, không có lười biếng.” Bản dịch xưa nói “Đôi lúc tinh tấn, đối trị việc khó thứ mười một.”

Thứ mười hai nói rằng “Hoặc ở trong đó, dùng phương tiện khéo léo mà tu hành chân chính.” Bản dịch xưa nói “Đôi khi dùng phương tiện khéo để đối trị việc khó thứ mười hai.”

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN 49

PHẨM ĐỊA

Thứ bậc nhiếp thọ, đem lại lợi ích cho mình, cho người, gọi là Địa.

Trước, nói hai phẩm Sinh, Nhiếp là hạnh, mà hạnh thì phải nương tựa, nên kế đây sẽ nói về phẩm Địa.

Trong văn có ba:

1/ Nói gồm thâu mười ba để làm bảy địa.

2/ Nói về nhân duyên lìa đường ác của Sơ địa.

3/ Nói về mười thứ tịnh tu địa.

Trong phần trước nói thứ bảy là, một loại Bồ-tát, Như lai, lập xen lẫn làm địa. Nghĩa là ở trước nói thứ bảy chỉ ở địa thứ mười. Nay vì sao lấy chung là có.

Y theo sự thật, chung trong Phật, vì ở trước chỉ y theo phần vị nhân, nên lược qua không nói về Phật. Nay thật sự ghi chép, nên gồm lấy cả Phật.

Không có gia hạnh, cho đến rơi vào quyết định thứ ba. Pháp sư Cảnh nói trong phẩm Công Đức ở trước, nói về ba quyết định:

1/ Chủng tánh quyết định, vì người có chủng tánh thì sẽ thành Phật.

2/ Phát tâm quyết định, vì hễ phát tâm rồi, về sau, nhất định sẽ không lùi bước.

3/ Không có hạnh suông quyết định.

Địa vị của ba quyết định này khó biết. Thập Tín trở xuống, gọi là chủng tánh. Mười Tín gọi là phát tâm. Thập giải trở lên, gọi là hạnh không giả dối. (Vô Hư Hạnh)

Văn luận trong đây đã nói Bát địa, gọi là hạnh không giả dối quyết định thứ ba, tức biết Bảy địa trước gọi là phát tâm quyết định. Địa tiền, gọi là chung là chủng tánh quyết định, bởi vì chủng tánh khác đó ở trước chưa có vô lậu hiện hành, chỉ có thành thục hạt giống vô lậu.

Pháp sư Khuy Cơ nói phát tâm quyết định, là nhập Sơ địa. Nay địa thứ 8, gọi là hạnh không giả dối quyết định.

Có chỗ giải thích: Thứ ba này, nói là ở Sơ địa. Nay lấy cách giải thích trước, như văn luận Hiển Dương. Ở Sơ địa, nghĩa là thời gian được tự tại. Lại, giải thích về Tăng kỳ thứ ba của địa thứ tám này, như Dị thục trụ, nhậm vận khởi hiện hạnh, lại vì không có tâm hữu lậu ngăn cách, nên gọi là quyết định.

1. Trong phần nói lìa đường ác, nói mười khổ, như quyển bốn mươi bốn nói các nghiệp đường ác của tất cả hữu tình, do ý lạc tịnh, đều nguyện thân mình thay cho hữu tình để lãnh thọ.

Tịnh ý lạc có hai thứ:

1/ Vô lậu, nghĩa là nhập địa thượng.

2/ Vì hơn nên gọi là tịnh, tức Địa tiền này.

2. Nói về tu các trụ, có thể thanh tịnh mười pháp, ở trong đó đầu tiên là nhắc lại trước, khởi sau, chia ra ba chương.

1- Dựa vào thứ lớp của chương, để giải thích riêng.

2. Tổng kết. Như phẩm Trụ ở trước đã nói tín v.v… có thể tịnh tu đối trị mười pháp của các trụ. Đây là nhắc lại trước. Nay từ đây trở xuống, là nói khởi sau, là an lập chủ thể trị, đối tượng trị, là một môn chương. Nghĩa sơ lược, nghĩa là môn chương thứ hai, thứ lớp là môn chương thứ ba. Sau dựa vào ba chương này để giải thích, rất dễ hiểu.

PHẨM HẠNH

Trên đây, ba phẩm nói về hạnh của phần mình đã xong. Kế là, một phẩm này nói về hạnh thắng tấn, dựa vào địa khởi hạnh, nên sau Địa, là nói về hạnh, hạnh có bốn thứ nhân để nêu danh.

Trong văn có ba:

1/ Nói chung về bốn hạnh.

2/ Giải thích riêng về hạnh ba la mật.

3/ Giải thích lại bốn hạnh.

Trong phần trước lại có ba:

1/ Nêu số, bày danh.

2/ Giải thích.

3/ Kết luận.

Trong giải thích về hạnh thứ nhất có ba lượt. Giải thích đầu nói rằng trước nói sáu thứ ba-la-mật-đa, nghĩa là trước nói phẩm Sáu Độ. Bốn thứ như phương tiện v.v… kia là sáu giúp đỡ ở trước, đây là một lượt.

Nói: Như ở trước đã nói về phương tiện khéo léo của mười hai hành tướng, nghĩa là như trong phẩm Pháp Bồ-đề phần ở trước đã nói về mười hai thứ khéo léo sáu nội, sáu ngoại. Năm thứ nguyện lớn đều như phẩm Địa kia, thật sự là mười nguyện, vì y theo phần hơn, nên nói là năm thứ trước.

Phương tiện mười lực, như phẩm Lực chủng tánh đã nói. An lập, nghĩa là an lập giáo. Kế là nói về sự khác nhau giữa hai trí.

Thứ sáu “duyên” chân, thứ mười “duyên” tục. Đây là lượt thứ hai.

Lại có môn khác nói là vô lượng trí, gọi là phương tiện, nghĩa là hoặc lấy bốn vô lượng tương ưng với trí; hoặc năm vô lượng trí ở trước làm thể phương tiện, để cầu tánh thù thắng của trí hậu đắc ở sau, gọi là thể của nguyện.

Văn này nói rõ ràng về trí mong cầu, gọi là thể của nguyện, đạo lý ma không phá hoại được, gọi là lực. Lực lại là trí. Cảnh của trí Như thật gọi là trí. Đây là lượt thứ ba.

Giải thích về hạnh thứ tư, rằng như trước đã nói về hai thứ vô lượng:

1/ Đối tượng điều phục v.v… Hỏi: – Vì sao gọi vô lượng này gọi là hạnh thành thục hữu tình?

– Nghĩa là vô lượng này đã thành thục. Do có vô lượng này nên

khởi hạnh thành thục, gồm tiếp nhận lấy.

2/ Trong giải thích riêng về hạnh ba-la-mật-đa có ba:

– Giải thích nghĩa ba la mật.

– Do ba nhân duyên kiến lập theo thứ lớp.

– Gom sáu độ kia thành ba học.

Trong giải thích nghĩa ban đầu, Pháp sư Cơ nói có hai thứ “đáo bỉ ngạn” (đến bờ kia):

– Thời đáo bỉ ngạn, nghĩa là ba đại kiếp.

– Thể đáp bỉ ngạn, nghĩa là trí như vì ở nhân nhiễm, nên chưa hiển hiện, ở quả vì sáng tỏ nên gọi là đến bờ bên kia.

– Bồ-đề ngạn: Nhị thừa gọi là nhân, không gọi là quả viên mãn. Đại Bồ-đề gọi là quả đáo bỉ ngạn.

Ngài Tam tạng lại nói đáo bỉ ngạn này có bốn, thêm thiện căn đáo bỉ ngạn, thiện căn của Đại thừa mà vượt hơn Nhị thừa, cho nên trong đây luận nói rằng vượt qua tất cả thiện căn của Thanh văn, Độc giác ở thế gian. Nếu theo dưới đây, thì văn luận chỉ có ba thứ thiện căn ở trước, nghĩa là nhờ thiện căn sẽ được quả mầu nhiệm, không lấy thiện căn hữu vi.

Theo trong giải thích môn thứ hai, đầu tiên chia ra ba chương. Sau dựa vào chương để giải thích. Phải biết rằng hầu hết ba la mật khác đều thuộc về ba chương này, vì sáu tệ nên lập ra sáu độ. Phải biết rằng bốn độ sau, tức thuộc về sáu độ trước. Như phương tiện độ thuộc tướng riêng của công hạnh trong kinh Tương Tục Giải Thoát, là ba bạn trước.

Nguyện độ là bạn tinh tấn; lực độ là bạn của định; trí độ là bạn giúp đỡ của tuệ. Nếu theo Địa kinh thì bốn độ sau là bạn chung với sáu độ trước, tức khéo nhiếp hóa chúng sinh trong sáu độ trước, gọi là Phương tiện. Chủ thể tinh tấn tăng thượng gọi là Nguyện độ. Pháp của ma không nghiêng động, gọi là Lực độ. Sai khác biết khác được nói là trí độ, tức thuộc sáu độ trước, nên không nói riêng.

Dựa theo sự thật, như Địa kinh, Tương tục giải thoát kinh, y theo nghĩa hơn thêm để luận.

Thứ ba, nói về gồm thâu sáu độ để làm ba học: bốn độ trước là giới học. Thí là so lường giới; giới là tự tánh; nhẫn là quyến thuộc; tinh tấn là thủ hộ. Hai độ sau là tuệ tâm, rất dễ hiểu.

Trên đây, ba đoạn đều là giải thích riêng thứ hai về độ hạnh. Dưới đây là thứ ba, giải thích lại bốn độ trước, dùng bốn để giải thích bốn, tướng văn như thứ lớp đó, rất dễ hiểu.

PHẨM KIẾN LẬP

Trên đây, dù rằng nói chung về nhân, và quả nhưng phần nhiều nói về nhân. Dưới đây, là đối với nhân để luận về quả. Công hạnh khuyến tu của đại kiếp, cần có quả, nên được quả thành tựu viên mãn, cầu thoả mãn bản tâm, do kiến lập mà thành, gọi là phẩm Kiến Lập.

Trong văn, một là nói về công đức của Phật địa; hai là cuối phẩm kết luận chung, Trên đây, đã nói về nhân quả.

Trong phần trước, gồm có:

1/ Nêu mười một pháp môn công đức.

2/ Tùy theo từng pháp môn, giải thích riêng.

3/ Nói chung.

Dựa vào Như lai trụ, nghĩa là Như lai trụ trong mười ba trụ. Và dựa vào Như lai đến Địa rốt ráo, nghĩa là một phần thứ bảy trong Thất Địa.

Địa, trụ, là nêu cả hai, bao gồm nghĩa viên mãn.

Trong giải thích về tướng tốt, văn được chia làm sáu:

1/ Đến tướng và danh số tùy hảo.

2/ Được phần vị viên mãn.

3/ Nói về nhân duyên chiêu cảm tướng tốt.

4/ Nói về địa vị tu chứng.

5/ Tướng, danh, phế lập.

6/ Suy xét, so lường hơn kém.

Đầu tiên, là nêu danh số, y theo các kinh, luận đã nói về tướng trượng phu, chẳng phải một lời mà bao gồm hết được. Vả lại, đối với nói rộng, lược thuật, tách rời, kết hợp, nói rộng về chân thì chia ra hai tướng: gót chân, mu bàn chân. Bốn gót chân của Phật tròn, dài, đoan nghiêm, ngay thẳng. Bảylà mu bàn chân đầy đặn, hai bên ngay ngắn, sai với gót chân gọi là tập tễnh.

Lại, phân tích một lỗ, một sợi lông làm hai tướng, một lỗ sinh một sợi lông, lông thân xoay vòng theo chiều bên phải, vai vế đầy đặn tức lấy chung vai vế làm một tướng; tướng thân thứ mười tám rộng lớn, ngay ngắn tức nói chung thân không cong vạy, và lớn ngay ngắn làm một tướng. Lại, chia tướng thứ hai mươi hai làm hai tướng. Tướng thứ hai mươi ba, tướng đủ bốn mươi răng; răng ngang, bằng, khít khao; răng ngà trắng tươi, có ánh sáng bóng loáng, tức nói chung là luân này lấy tướng hai mươi ba, hai mươi bốn làm một. Hai luận đối nhau, có thể có bốn trường hợp chung:

1/ Hợp với đây, lìa với kia, như gót chân, mu bàn chân v.v…

2/ Hợp với kia, lìa với đây, như thân không cong vạy v.v…

3/ Kia, đây đều hợp, như bảy chỗ đầy v.v…

4/ Kia, đây đều lìa, trừ ba trường hợp trên.

Ô-sắt-nị-sa trên đỉnh đầu, là xương đỉnh trùng, giữa búi tóc của Đức Như lai có xương đỉnh trùng (lớp xương đỉnh đầu), giữ lấy âm Phạm, gọi là Ô-sắc-nị-sa.

1. Trong Tùy hảo nói rằng hàm răng trên, dưới đồng đều, nghĩa là hàm răng trên dưới trông như chiếc mão Mạn-đà-la-hoa, đều mầu nhiệm đặc biệt. Nướu răng là một tướng. Bản dịch xưa chia làm hai là sai. Tóc trái đào, hai tai là bốn, bản dịch xưa nói hai mái tóc, hai trái đào, hai tai, tức là sáu. Nay trái đào, mái tóc đều là một tướng, chia tai làm hai, nên thành bốn tướng tốt.

2. Trong được địa vị mãn. Văn này nói rõ ràng, từ Sơ địa trở lên, thìđược tướng tốt tăng hơn dần, cho đến khi ngồi toà Bồ-đề, mới chứng được công đức của mười hạnh khác. Nếu viên mãn thì tiến đến địa vị Phật mới được. Nếu người thấp kém thì lúc còn là Bồ-tát ở trước, cũng đã thành thục.

Nói: Lại, tất cả tư lương Bồ-đề này, đại khái có hai thứ là cách Bồ-đề hoặc xa, hoặc gần, nghĩa là chưa được tướng tốt, gọi là xa tức trụ Địa tiền. Nếu được tướng tốt thì gọi là gần, nghĩa là được nhập địa trở lên. Vì sao biết được? Vì kế trước nói rằng nhập địa ý lạc tịnh thắng, các tướng tùy hảo, đã được Dị thục, cho nên biết Địa tiền không được tướng tốt của thật báo. Lại, đoạn văn sau quyển này nói rằng tướng tốt, nếu đối với địa chủng tánh thì chỉ có hạt giống nương vào thân. Ở giải, hạnh địa, tu phương tiện kia. Nếu ở ý lạc địa thù thắng thì mới gọi là Đắc; các địa trên gọi là thanh tịnh, ở Phật địa, được thiện tịnh vô thượng.

3. Trong phần nói về nhân của tướng tốt, trước nêu ý nói. Về lý, tất cả nghiệp tịnh, được tướng tốt của diệt. Do không có sai khác mà tùy ưa nói nghiệp sai khác. Kế chính thức nói về nghiệp nhân, trong đó có hai: kiến lập rộng và nói cách sơ lược.

Trong kiến lập rộng có bốn:

  1. Nói sáu mươi ba nghiệp chiêu cảm tướng tốt.
  2. Chỉ có tịnh giới chiêu cảm tướng tốt.
  3. Nói về hợp lập.
  4. Tổng kết.

Nói “chỉ vì một trụ”, nghĩa là chỉ một chỗ vắng. Vì nương tựa một người bạn, nghĩa là y chỉ bạn làm thầy, tạo nên nghiệp tướng tốt này. Hoặc đồng một trú xứ, nhiếp thọ chung với nhau, đồng học một thầy, như nước với sữa. Vì nghĩa này nên các lỗ chân lông của thân, mỗi lỗ đều mọc một sợi lông.

Theo phần nói lược, nói là đều dựa vào bốn hạnh của phẩm Phần, có thể chiêu cảm tướng tốt. Bốn hạnh nói ấy là:

  1. Khéo tu sự nghiệp.
  2. Phương tiện thiện xảo.
  3. Lợi ích hữu tình.
  4. Hồi hướng không trái ngược.

Đầu tiên, khéo tu sự nghiệp. Không ngay thẳng có bốn thứ là: Quyết định tu tạo; Ủy thác đều tu tạo; Luôn thường tu tạo; Không có tội tu tạo. Nay, y cứ vào ngay thẳng, đầu tiên khéo tu sự nghiệp có bốn hạnh để nói về khả năng chiêu cảm tất cả tướng tốt, trong đó quyết định tu tạo, chiêu cảm được một tướng. Ủy thác đều tu tạo, có công năng cảm chín tướng. Luôn thường tu tạo, có công năng chiêu cảm năm tướng. Không có tội, tu tạo, có thể chiêu cảm tướng khác, nghĩa là trong cách tu này chia ra làm tám trường hợp:

1/ Không có hao hụt gia hạnh, chiêu cảm hai tướng.

2/ Theo thứ lớp, gia hạnh hợp thời, chiêu cảm một tướng.

3/ Hoan hỷ, tịnh tâm, hiện hành, các điều thiện, chiêu cảm bốn tướng.

4/ Không dựa vào tiếng khen ngợi, tu thiện, che giấu đức của mình, chiêu cảm một tướng.

5/ Gốc lành tu được hồi hướng Bồ-đề, chiêu cảm bốn tướng.

6/ Tu điều thiện, không nhàm chán, không có gia hạnh kém, chiêu cảm hai tướng.

7/ Đối với các hữu tình, nhìn bằng tâm lợi ích bình đẳng thì chiêu cảm ba tướng.

8/ Đối với việc thiện thấp kém, bất sinh hỷ túc, khởi gia hạnh vượt hơn, thì chiêu cảm một tướng.

Như thế, tổng số là ba mươi ba. Do thiếu các lỗ chân lông của thân thứ mười bốn, mỗi sợi lông sinh ra như màu xanh biếc, có vân xoắn ốc xoay về bên phải.

Thân thứ mười lăm với da màu vàng ròng. Tướng hai mươi hai răng đồng đều, bằng phẳng, nên tướng kia nếu thêm một hợp với hai, lại thành số ba mươi hai.

4. Địa là vị tu chứng, tức có năm vị:

1/ Chủng tánh chỉ có hạt giống vô lậu của tướng tốt.

2/ Địa thắng giải hạnh, thập giải trở lên, học thực hành quán không là có thể được phương tiện vô lậu.

3/ Địa ý lạc tăng thượng hiện khởi so lường vô lậu, hữu lậu cảm Dị thục vượt hơn.

4/ Địa trên chuyển biến vượt hơn.

5/ Phật địa vô thượng.

5. Tướng thứ năm, gọi là phế lập. Các tướng như thế là vì có sắc, nên chúng sinh ba phẩm dễ biết nên lập làm tướng. Pháp không chung khác vì khó biết rõ, cho nên không lập làm tướng. Và tức ba mươi hai tướng như thế là đối tượng nương tựa cho công đức khác, vì khả năng gìn giữ, nên gọi là riêng là tướng. Do thù thắng cùng cực, khiến thân đoan nghiêm, nên gọi là “tùy hảo”.

6. Tướng thứ sáu, xem xét, so lường hơn kém, trước, nói về so lường, sau, nhân nói về ba vô lượng.

Nói “tướng đại pháp loa”, nghĩa là trong hai mươi hai tướng trước không có tướng pháp loa (vỏ ốc pháp). Tướng pháp loa, tức là “tứ đại sương khư” trong cổ họng của đức Như lai, hình dáng của nó trông giống như con ốc, từ con ốc này phát ra tiếng rất viên mãm khắp vô biên thế giới.

Thuộc về tự thể, nghĩa là tướng tốt nói ở trước, và ngoài tướng tốt ra, bốn trần phù căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thân căn đều là tự thể thuộc sắc uẩn, được chiêu cảm từ vô lượng phước đức tư lương.

Một tịnh sở y trong bốn thanh tịnh, nghĩa là tập khí thô, nặng của phẩm Phiền não đã dứt trừ hẳn, đây là y theo thân thọ dụng. Lại, ở trong trụ, xả của tự thể, tự tại chuyển biến đây là y theo thân biến hóa. Trong đây, kiêm lấy phiền não, tập khí thô nặng đều dứt hẳn. Như luận Đối pháp quyển mười bốn nói chỉ có lấy trụ, xả không có tập khí v.v… diệt hẳn ở trước, tức trong phẩm Giải công đức của Bồ-tát địa này cũng đồng với luận Đối pháp. Luận này có ý gì? Trong luận này y cứ pháp Nhiếp cùng khắp, trong địa kia y theo tịnh hữu vi, không lấy tịnh vô vi. Y cứ thật sự là chung cả hữu, vô vi.

Tâm tịnh thứ ba, nghĩa là vì tất cả tâm thô, nặng đều dứt hẳn, là nói về định thanh tịnh. Do sự thô nặng đã dứt hết, nhập trụ vô ngại, đây là nói lìa lỗi. Lại, vì tất cả gốc lành trong tâm đều chứa nhóm, nghĩa là thiện căn, định rất sâu của Phật đã chứa nhóm, đây là nói về công dụng của định, có thể gồm thâu đức tốt.

Trí tịnh thứ tư, nghĩa là bốn trí của Chư Phật đều được thanh tịnh, vì đã lìa vô minh thô, nặng, đây là nói về thể của trí lìa lỗi.

Tự tại vô ngại, nghĩa là nói về công dụng của trí kia gồm thâu đức tốt. Trong giải thích mười lực, văn chia làm hai:

1/ Phân biệt riêng về cảnh duyên của mười lực.

2/ Ở quyển sau, trước là chia ra bảy môn.

Trong phần trước, trước nêu danh, sau giải thích theo thứ lớp.

Dựa vào dưới đây, quyết định lựa chọn mười lực, lấy “như lượng làm thể”. Theo quyển sau, đầu tiên, phát ra tự tánh, nói rằng cả năm căn đều là tự tánh. Do tuệ vượt hơn, nên chỉ nói, trí lực của xứ, phi xứ, không nói tín lực và lực v.v… khác. Do “duyên” mười cảnh, tức gọi là mười lực, từ cảnh đặt tên.

Trong giải thích về lực ban đầu, trước, là giải thích riêng mười một câu trường hợp. Sau là nói chung về nghĩa sơ lược.

Văn ban đầu tức giải thích về nghĩa của mười một trường hợp trong kinh. Nếu theo giải thích dưới đây, thì đại và địa vị tôn quý của tiên, được chia làm hai trường hợp, nên nói rằng mười hai trường hợp. Nay theo nghĩa lược qua, có thể là mười một trường hợp, cái gọi là đức Như lai biết như thật về xứ, phi xứ. Lực thứ nhất, thành thục Niết-bàn trên hết. Tôn vị đại tiên tự biết chuyển Phạm luân, chánh sư tử hống trong đại chúng.

Nói nhân bất bình đẳng của quả tịnh, bất tịnh trái với ở trên, là gọi là phi xứ, nghĩa là nhân bất bình đẳng của trời Tự tại, chẳng phải chỗ sinh ra quả.

Xa lìa tất cả trí tăng thượng mạn, nói là như thật. Đức Thế tôn xa lìa trí tăng thượng mạn chưa được, cho là đã được, nên gọi là như thật. Ở đây, tức giải thích về những cái có trên, đã nói tất cả như thật, nên gọi là Như lai.

Nếu trí nhất thiết chỉ bày bình đẳng v.v… trở xuống, đây lại là thay đổi cách giải thích nhắm vào xa lìa tất cả trí tăng thượng ở trước, như phẩm Bồ-đề trước đã nói. Kế là, giải thích thứ nhất, tiếp đến giải thích về nghĩa lực, đệ nhất nghĩa xứ, phi xứ của đức Như lai trong giải thích kinh nói trên.

Dưới đây là giải thích về cảnh giới của lực xứ, phi xứ. Văn còn lại có năm trường hợp:

1/ Đối tượng nên được, tức là Niết-bàn.

2/ Phương tiện năng được, tức tám chi đạo.

3/ Tự chứng diệt, đạo.

4/ Khai thị cho người, gọi là chuyển phạm luân.

Tăng ngữ là danh, nghĩa là các Như lai đều có tên phạm này, nói là Phạm.

Trước hết chuyển biến từ đây về sau. Pháp còn lại là khác v.v…

trở xuống, xoay vần chuyển hóa, dẫn đường khắp cả các hữu tình, đây là giải thích nghĩa “Luân”.

5/ Đức Thế tôn tự hiển hiện, rơi ở Chư Phật nói pháp, thuộc Đại sư viên mãn, chủ thể nói chánh đạo, phá tan tà đạo. Đối với đạo, oán thù không có yếu hèn, vì khuất phục luận người khác, giảng nói luận mình, nên gọi là sư tử hống.

Tóm lại v.v… trở xuống, là thứ hai, về nghĩa giản lược có hai phen:

1/ Công hạnh lợi tha đã mãn, tức địa vị tôn quý đại tiên của Niếtbàn trên, tự biết. Lợi tha viên mãn tức Chuyển phạm luân ở trên, để có thể phát rõ ràng, nói xong, dựng lập, mở bày.

Hai lợi viên mãn không chung, nên gọi là chánh sư tử hống trong đại chúng, cũng có thể chín câu trong mười một câu. Nếu tự lợi viên mãn thì có hai câu, sau gọi là lợi tha viên mãn.

2/ Lượt thứ hai rằng: Lại có môn khác, về nghĩa lược qua trong đây, nói là pháp nên được v.v…, kết năm nghĩa ở trước:

– Pháp nên được, tức Niết-bàn ở trên.

– Phương tiện tốt đẹp, tức tám chi đạo ở trên.

– Tự biết diệt, đạo.

– Xoay bánh xe phạm.

– Chánh sư tử hống ở trong chúng.

Trong năng lực nghiệp, trước, là giải thích, sau là kết. Phần giải thích có tám trường hợp.

Biết bốn pháp thọ. Nói rộng như trong phẩm Tự lợi, lợi tha đã nói. Trong đoạn kết rằng: Tất cả phần vị, nghĩa là bốn pháp thọ, gia hạnh sai khác, nghĩa là có ích, không có ích v.v…

Trong sức định, đầu tiên, là nói về sở tri (cái bị biết) sau, nói về thể của sức “năng tri” (người biết). Sở tri có bốn:

1/ Biết đẳng trì, đẳng chí, chủng tánh được giáo hóa. 2/ Biết trị chướng. 3/ Biết giả lập. 4/ Biết thanh tịnh.

Có bốn tĩnh lự, có tám giải thoát, nghĩa là nêu chung sở tri, tức “do như thế”, cho đến “đều có thể thành xong, nghĩa là biết công năng của định.

Nếu theo tĩnh lự, giải thoát kia, cho đến gọi là Đẳng trì, Đẳng chí ấy, thì đồng giữ lấy loại sai khác của sắc có mười một, đẳng chí có sáu.

Nói rộng như Tam-ma-hý-đa-địa.

Như nói, cho đến nói rộng, nghĩa là dẫn lời Phật nói để chứng minh. Do sức định, nên ánh sáng soi rọi khắp, tiếng nói được nghe khắp. Theo Đức Phật nói kinh A-hàm, đôi khi vì giáo hóa chúng Phạm, Ngài lên cõi trời kia, thân phát ra ánh sáng rực rỡ, miệng giảng nói pháp nhiệm mầu. Các Phạm thiên thấy ánh quang, nghe ngài nói, không nhìn thấy hình dáng.

Như thế, Như lai cho đến trừ định này ra, không có hoặc quá, hoặc thêm, ở đây, là nói về Như lai vì dựa vào tĩnh lự, nên hay có thành xong, cũng là sự “sở duyên” của sức định Như lai ở chỗ tĩnh lự này, cho đến Đẳng trì, Đẳng chí, nghĩa là giải thích về tác dụng của kinh đã dẫn trên, kể cả đoạn văn kết v.v…, ý nói riêng Như lai dựa vào tĩnh lự. Như lai ở nơi tĩnh lự này mà tạo ra chủng loại, phần nhiều trụ như thật, chỉ nói đẳng trì, đẳng chí, giải thoát đều thuộc về tĩnh lự, không nói Đẳng chí, Đẳng trì, giải thoát trong định Vô Sắc.

Giải thích về trị chướng. Giải thoát tạp nhiễm của tĩnh lự có hai thứ, thanh tịnh có bốn thứ, trái với tạp nhiễm ở trên, nên biết tướng của chúng, nghĩa là trong hai thứ tạp nhiễm, mỗi thứ đều có hai, nên thành bốn.

Nhiễm đầu có hai: không có gia hạnh khéo léo, và các cái hiện ở trước.

Nhiễm thứ hai có hai: triền phiền não của địa mình và tùy miên của tự địa.

Vì trị bốn nhiễm này nên thanh tịnh có bốn.

– Giả lập, nghĩa là dựa vào tĩnh lự v.v… dẫn phát các thứ công đức, tùy theo công đức đó, giả đặt tên gọi.

– Thanh tịnh, rất dễ hiểu.

Đức Như lai đối với lực này v.v… trở xuống, là nói về lực, rất dễ hiểu.

Như đã thành thục tu viên mãn, cho đến gọi là các căn vượt hơn, thua kém. Đây là nói về cảnh sở duyên của căn, lực. Trong đây vì chỉ nói về căn nhập đạo, nên chỉ nói năm căn như tín v.v… Nếu nói chung cả căn sinh tử, thì tức hai mươi hai căn đều là căn sinh tử, nên Bà-sa nói căn lực chung cả bốn niệm xứ. Nếu từ người khác tin, cho đến mỗi thứ thắng giải, thì đây là nói về sở duyên (đối tượng duyên) của năng lực thắng giải. Thắng giải như thế, hoặc tin từ người, hoặc tự quán sát, tức trở thành ba phẩm ái lạc, tức giải quyết định, gọi là thắng giải, bản dịch xưa, gọi là dục.

Kế là, nói về giới lực. “Duyên” theo giới chủng tử của hạt giống. Hành sai khác như tham v.v… của chỗ khác, có tám mươi bốn ngàn. Nay vì nói số lớn, nên nói tám mươi ngàn. Bản dịch xưa rằng tám muôn bốn ngàn hành. Nếu tức các nẻo như thế mà đi vào cổng, cho đến như kinh Ca-la-ma v.v… có nói rộng, đây là nói sức của hành đến khắp sở tri có bốn:

1/ Biết quy thú thuận với quán hạnh.

2/ Biết nghiệp bất động tội phước, hướng đến hành của năm đường.

3/ Biết bè đảng, mỗi bè đảng đều thuận, trái với kiến hạnh.

4/ Biết tất cả phẩm loại sai khác. Hạnh hướng đến không có tôi của đời này, đời khác. Nghĩa là biết ba thừa và tánh bất định, khởi hành động vô tội hướng đến Niết-bàn.

Hỏi: Năng lực hành hướng đến khắp này có gì khác với năng lực của xứ, phi xứ?

Đáp: Năng lực xứ, phi xứ biết cảnh, tức rộng. Năng lực của hành hướng đến khắp, chỉ biết các hành có thể có đối tượng hướng đến. Năng lực của xứ, phi xứ chẳng phải chỉ biết hành này, cũng như pháp khác, cái gọi là số giọt nước của biển cả, đại địa, vi trần, các niệm tâm sở của tất cả hữu tình.

Lại biết việc bảy báu chân, ngụy v.v… như thế là vô lượng. Tiếng Phạm là Ca-la-ma, Hán dịch là thời. Nước ngoài có thời kinh riêng.

Trong năng lực túc trụ, trước tiêu biểu chung, kế là giải thích riêng, sau kết sơ lược. Tám lời nói, sáu thứ câu, sơ lược về hành. Pháp sư Thới nói vì nói lược về sáu hành, nên nói là sáu hành sơ lược. Cưu luận nói sáu thứ đồng hành, nghĩa đồng lẫn lộn với nghĩa lược qua, cho nên dịch lầm.

Tám thứ Sự của có thể là lời giải thích, nên nói tám câu lời nói. Pháp sư Cảnh nói lời nói đã giải thích rõ ràng về sự, lý, rộng tức vô lượng, lược qua thì có sáu hành. Trong tám lời nói, ba lời nói sau kết hợp thành một, đồng là lượng tuổi thọ, nên chỉ có sáu.

Nói cho nên, là chỉ đối với phẩm loại như thế, phát khởi tùy niệm, lại không có tăng, nghĩa là nói về sức túc trụ, tùy khởi niệm ở trước, lại không có cảnh nào khác.

Hỏi: Năng lực túc trụ cũng biết diệt, đạo vô lậu quá khứ của mình, người hay không?

Đáp: Nay trong luận này dù văn không nói, nhưng về mặt đạo lý, cũng nhận biết như kinh Pháp Hoa nói: “Quá khứ có Phật hiệu là Oai Âm Vương, thành chánh giác v.v… ”

Nói là “nếu lời nói, hành động mà có hành tướng ấy”, tức là đã nói sáu hành sơ lược. Nếu câu lời nói, tất cả nêu thuyết tức là tám câu lời nói.

Và, “tức đối với tùy khởi nhớ nghĩ này” chính là nói về biết sức của túc trụ tùy niệm.

Kế là nói về sức, trí sinh tử, cũng gọi là sức thiên nhãn, trong đó trước y theo sức thiên nhãn để giải thích, sau y cứ vào sức tử, sinh để giải thích. Tĩnh lự trong đây đươc gọi là thiên trụ, cho đến gọi là thiên nhãn, nghĩa là đã tu được nhãn, từ tĩnh lự kia cũng gọi là thiên, nên gọi là thiên nhãn. Ngài Tam tạng nói: – Vì có ánh sáng, nên gọi là trời. Trời là nghĩa ánh sáng. Trong giải thích kinh dưới đây, có hai câu rất thanh tịnh, vượt hơn loài người.

Kế là, giải thích về năng lực của trí sinh tử, trong đó đầu tiên, là nói lúc sinh tử đã thấy sắc tướng tốt, xấu. Sau nói do hành vi thiện ác, nên qua đến chỗ khổ vui, trong đó chia làm hai:

– Nói đến đường ác.

– Nói đến đường thiện.

Trong phần trước, đầu tiên, giải thích rộng về nhân quả, sau tổng kết.

Tất cả hoại giới, nghĩa là hành động ác của thân, ngữ và đẳng khởi của hành động đó, nghĩa là hành động ác của ý. Và kẻ trụ phẩm loại khác của ý kia đã trở thành tà kiến v.v… Và kẻ trụ phẩm loại khác của ngoại đạo, đã trở thành tà kiến chê bai hiền Thánh.

Vì muốn chỉ bày tướng của Na-lạc-ca (địa ngục), nghĩa là vì muốn mở bày hữu tình, khiến sinh tưởng Na-lạc-ca, nên trong kinh nói đoạ vào đường hiểm ác, vì muốn mở bày tự tánh, sự thể v.v…, nghĩa là vì chính khai thị sự thể của địa ngục, nên kinh lại phải nói về Na-lạc-ca.

Kết rằng phải biết rằng trong đây, nếu do sự sinh này, nghĩa là ác hành, tà kiến v.v… Nếu được sinh rồi, kẻ đã thọ các khổ não, chính là sinh vào đường ác. Nếu chịu khổ rồi, lại khởi tự nghiệp khác mà tạo ra các thứ khổ, nghĩa là đọa trong địa ngục, chịu khổ của nghiệp trước xong, lại khởi nghiệp khác, chiêu cảm các thứ khổ.

Trái với ở trên v.v… trở xuống, là thứ hai, làm rõ pháp trái lại sức lậu tận của đường thiện nói rằng sau cùng có thuyết gọi là nội chứng.

Thứ sáu, thần thông. Pháp sư Cảnh nói bậc A-la-hán được lậu tận thông, trụ thân sau cùng, gọi là nội chứng.

Pháp sư Tuệ Viễn nói: bốn thứ như sự sinh tử của ta đã hết v.v…,

như thật biết đạo là trí chứng, tùy theo nghĩa nói là bốn, tức lúc đầu tiên khởi trí chứng, vì được tận trí, nên gọi là sự sinh của ta đã hết. Vì được trí vô sinh, nên không thọ hữu sau. Luận Thành Thật cũng đồng trường hợp này.

BẢN LUẬN QUYỂN 50

Trên đây, đã giải thích riêng, về mười năng lực rồi.

Dưới đây là dùng cả bảy môn để phân biệt. Đầu tiên, là nêu bảy môn. Sau giải thích theo thứ lớp.

Đầu tiên, về tự tánh có thể hiểu, kế là trong phân biệt, Pháp sư Viễn Công nói:

1/ Y cứ vào thời gian để nói về lực. Túc trụ trong mười lực, biết quá khứ, thiên nhãn biết vị lai, bảy thông còn lại biết ba đời. Về lậu tận thông, cần phải phân biệt. Nếu y theo thân mình hiện chứng lậu tận, được biết hiện tại. Về lý, sở tri vô vi không rơi vào ba đời. Luận chủ trạch diệt y cứ vào con người, nên chung cả ba đời.

2/ Y cứ vào pháp nói về lực. Trong mười lực, lực đầu tiên rất rộng, biết cả tự thể Lực thứ bảy cũng thế.

Biết bất tịnh v.v… là biết tự tướng. Biết pháp vô ngã, gọi là biết cộng tướng (khái niệm). Sức lậu tận kia thấy có trừ ám, có thê biết tự tướng chứng “không”, lậu tận, rất dễ hiểu cộng tướng, bảy thứ còn lại, biết đạo lý của mình. Mười lực cũng biết vô vi. Vì luận muốn y theo phẩm loại để phân biệt về mười lực, nên nói không chứng vô vi.

3/ Y theo con người để nói về lực, mười lực đều “duyên” tất cả hữu tình. Biết phương tiện lợi ích đối với mỗi hữu tình riêng. Pháp sư Cảnh nói ba là năng phân biệt biết về sự thể khác nhau giữa thân của các hữu tình. Nay hiểu rõ nghĩa sự của tân luận, tức lợi ích của Bản dịch xưa.

Nói nếu y cứ vào Đức Như lai phần nhiều đã an trú, thì sức trụ đối cơ của Chư Phật sẽ khác nhau

5/ Nói về tác nghiệp: trong sức nghiệp nói: Và có thể hàng phục, thí phước, di chuyển các thứ tranh luận. Pháp sư Viễn công nói hoặc chấp bố thí là có phước. Hoặc cho rằng bố thí không có phước, gọi là thí phước dời đổi. Về lý, chế phục khắp tất cả tội, phước, tranh luận. Người bố thí, vì đa số nên nói riêng.

Pháp sư Cảnh nói như có một người cố ý đến lễ cây Bồ-đề, và bố thí, có người không biết lại dùng vàng bạc để mua lấy công đức bố thí của người đến lễ cây Bồ-đề kia. Lại, có người nói dù mua vẫn không được, nên xảy ra các thứ tranh luận. Nay, với sức nghiệp của Phật, hễ mình làm, mình chịu, không có việc mua bán ở đây.

Trong định lực, nói ba thần biến:

1/ Thần túc thần biến rằng hiện các thứ, khiến người khác phát sinh niềm tin.

2/ Ký tâm thần biến, tức sự ghi nhớ của tha tâm thông, nói lên tâm niệm thiện ác của hữu tình, sao cho họ quy phục.

3/ Giáo giới thần biến, tức lậu tận thông. Tự chứng lậu tận, lại vì người khác nói để cho họ cùng chứng lậu tận.

Và, có thể hàng phục v.v…, tức dùng thần biến thần túc ở trước để hàng phục mà không tin. Thần biến của tha tâm hàng phục những kẻ kiêu hãnh, ngạo mạn. Thần biến lậu tận, hàng phục phiền não của hữu tình, trái với tranh luận, oán hại của phẩm khác.

Trong giới lực, trước, nêu sơ lược tướng của giới. Sau, nói rộng về truyền dạy. Trong phần trước rằng có thể như căn kia, nghĩa là nêu căn ở trước. Như ý lạc kia, nghĩa là nhắc lại thắng giải trước. Như tùy miên kia, là nêu giới hạt giống trước kia.

Dựa vào sự truyền dạy không trái ngược trong môn thú nhập kia, như nên an lập. Dựa vào hữu tình kia, hoặc mới thú nhập môn Ngũ Đình Quán. Hoặc có khi thú hướng, năm đường. Hoặc có khi thú nhập hạnh môn, kiến khác của bè bạn. Hoặc có khi thú nhập hạnh môn thánh đạo của ba thừa. Như nên an lập môn giáo thọ này, tức là hướng đến khắp đối tượng duyên của hạnh lực, chỉ nay nói vì biết giới sai khác, nên nhân đó nói về giới.

Y cứ trong phần nói rộng, chia làm hai:

1/ Dạy Thanh văn giáo, chỉ như Địa Thanh văn.

2/ Nói về dạy Bồ-tát trong đó trước là hỏi, kế là giải thích, sau là kết.

Nghiệp ban đầu, Pháp sư Cảnh nói là mười tín.

Xưa, Pháp sư Viễn nói so lường của Đẳng trì trở xuống, đều không có tượng giáo, không bằng giải thích trước. So lường có mười một:

  1. Tịnh trì giới.
  2. Được bạn lành.
  3. Giữ gìn căn môn.
  4. Ăn biết độ lượng.
  5. Hao hụt ngủ nghỉ.
  6. Có tâm thiện.
  7. Có tin hiểu.
  8. Có phần của hành giả.
  9. Có xứ giải thoát.
  10. Lìa ba chướng.
  11. Bỏ tâm chấp mắc (nói rộng như luận Thành Thật).

Nay nói rằng so lường, là gồm thâu chung mười một thứ kia. Trong giải thích có ba:

1/ Phát quán hạnh. 2/ Quán nhiếp thọ. 3/ Dạy không xả.

Trong phần trước, trước là phương tiện giáo, nghĩa là các Đức Như lai, cho đến ở nơi vắng lặng bên trong trở lại. Kế là, nói về quán hạnh của giáo căn bản, trong đó, trước là “quán nhân không”; sau là dạy “quán pháp không”.

Đầu tiên nói như lý tư duy về việc mà cha mẹ ông đã làm để đặt tên, cho đến ở trong đây, nói như thế, gọi là chuyển biến tư tưởng lập bày, giả đặt lời nói. Nghĩa là ông nương tựa ở cha mẹ, sư tăng vì ông đặt tên, tức tùy theo tên này, chấp có thật ngã. Ông nên tư duy vì lìa sáu xứ như nhãn v.v… có ngã chân thật của tự tánh riêng. Hoặc lìa ngoại xứ như sắc v.v… hoặc lìa cả trong, ngoài và khoảng giữa, có thể của ngã này, trong đó có ngã, như thế gọi là tưởng thi thiêt, giả lập lời nóit chuyển biến chăng.

Giáo quán như thế, lìa xứ trong ngoài đều không có cái tên ngã, chuyển biến ở trong đó. Ông đã tư duy đúng như thế xong, đối với pháp này phải không có sở đắc. Tư duy như thế rồi, ông phải biết rằng ngoài pháp sáu xứ này đều không có thể của ngã để được, chỉ phải như thật biết rõ như thế, chỉ đối với pháp khách, có chuyển biến tưởng khách, nghĩa là Đức Phật khuyên người kia hãy biết rõ, chỉ đối với pháp nhân duyên giả có, có giả danh chuyển biến, không thật sự có ngã, nghĩa là danh tự tùy chuyển.

Dưới đây là giáo pháp không quán, trước là nhãn không; sau so với nhĩ v.v… Nếu bấy giờ đối với tên của mình, chỉ có tưởng khách đã sinh, đã được, nghĩa là nêu lên cha, mẹ ở trước đặt tên cho mình, chỉ là giả danh, đã sinh, đã được, không thật có ngã.

Nói lại nên ở trong, như lý tư duy, cho đến trừ tư duy này không có, hoặc tăng, nghĩa là chế lập nhãn, hoặc là một việc. Gọi là tưởng thi thiết, đều là sự sai khác của tên nhãn. Và nhãn này chỉ sự, ở trong đó giả đặt tên, tưởng thi thiết là việc thứ hai, chỉ có nhãn căn y tha là sự lìa lời nói, trong đó giả đặt tên nhãn v.v… danh tự không thể bằng. Nếu tìm kiếm danh của nhãn, chấp có tự thể của nhãn thì đó là biến kế sở chấp, vì rốt ráo không có thể, nên nói là “nhãn không”.

Nói ở trong nhãn này, tất cả chế lập danh, tưởng của nhãn. Nếu giả lập thì chẳng phải nhãn. Nghĩa là lại nói về danh v.v… trở xuống, đã giải thích không có thể của nhãn. Thời nay, lại nói về danh của nhãn, vì chẳng phải nhãn, nên nói là “đã có chế lập danh của nhãn”. Tưởng của nhãn lại chẳng phải là nhãn, nói nhãn này chỉ có sự, ở trong đó giả đặt danh, tưởng v.v… của nhãn. Phải biết rằng tự tánh cũng chẳng phải nhãn, nghĩa là nhãn này chỉ có sự của lời nói kia, trong đó giả đặt danh, tưởng v.v… của nhãn. Phải biết tự tánh của danh, tự nhãn cũng chẳng phải nhãn, đây là thành lập tông.

Dưới đây, hỏi đáp để nói. Vì lý do gì? Nghĩa là vì sao tên của nhãn đã nói, chẳng phải là tự tánh của nhãn?

Chẳng phải ở trong đó, cho đến ít có nhãn giác biết mà vì có thể chuyển, nghĩa là do tìm kiếm danh, chấp nhãn, chứ chẳng phải lìa danh nhãn mà sinh ra giác của nhãn, nên biết lìa danh, không có tự tánh của nhãn. Đây là giải thích thuận.

Nếu có việc này, cho đến chỉ có chuyển giác nhãn đối với việc này, nghĩa là nếu dưới tên nhãn có thật thể của nhãn, xứng với danh nhãn thì chỉ “duyên” thể nhãn, lẽ ra sinh giác nhãn, cần gì phải đợi danh nhãn, mới sinh giác.

Nhưng không có như thế, cho đến nhãn giả đặt ra, nghĩa là khác cũng là giả. Cho nên trong đây chỉ ở trong lý giả đặt pháp tướng, giả đặt ra tưởng lập bày tên nhãn, không có tự tánh của nhãn của đối tượng giải thích riêng.

Ông đã như thế, cho đến “sẽ được”, nghĩa là ông đã tư duy nhãn nội biết không, lẽ ra tư duy danh của nhãn chỉ là giả đặt, sẽ sinh, sẽ được.

Ở trên, nói về “nhãn không”, dưới đây, so với nhĩ v.v…

Như đối với nhãn kia, như thế cho đến chỉ có tưởng khách sẽ sinh, sẽ được, nghĩa là dùng nhãn so với nhĩ v.v…, tùy theo tánh của lời nói, rốt ráo không có tự thể. Lại, y cứ thấy, nghe, hay biết, tùy tầm từ kia, chấp các pháp, phải biết chỉ có giả danh sẽ sinh, sẽ được, không có thật thể.

Kế là, nói về hạnh quán ở trước khuyên nhiếp thọ người kia. Như thế, cho đến đạt được một tánh cảnh của tâm không trái ngược. Dưới đây là thứ ba, khuyên đừng bỏ lìa.

Như thế, các ông cho đến rốt ráo xuất ly, phải biết trở xuống, là thứ ba, kết. Văn có ba:

1/ Chính kết danh.

2/ Nói cả ba đời, đức Như lai đều giả đặt.

3/ Nếu hàng Thanh văn giác biết quán này, thì sẽ nhanh chóng được thông tuệ.

Nếu người nào có thể đối với quán này, như thật thấu suốt, hoặc quán “nhân không”, thì sẽ được nhập các pháp hiện quán của khổ nhẫn. Nếu người nào có thể hồi tâm song quán “hai không”, thì có thể đạt được hiện quán của Sơ địa.

Trong thu hướng khắp lực hạnh, nói rằng hạnh hay xuất ly, nghĩa là năm độ quán v.v… Hạnh không xuất ly, nghĩa là hạnh thú hướng năm đường v.v….

Nói theo thứ lớp có ba:

1/ Trong nói thứ lớp nói rằng với sự truyền dạy đó, khiến cho hữu tình kia thu hướng thế gian lìa dục, giúp chúng đạt được đạo như thật. Pháp sư Cảnh nói vì tĩnh lự của thế tục không điên đảo, nên gọi là đạo như thật.

Có giải thích: Đạo như thật là đạo xuất thế gian, nên kinh Hoa Nghiêm chép: vì chúng sinh cõi Sắc, nói là đạo xuất thế. bản dịch xưa nói: – Dùng thiền giải thoát, trí lực tam-muội chánh thọ, trước, đạo thế tục giáo hóa tâm chúng sinh lìa dục. Kế là khởi trí lực túc trụ tùy niệm, cho đến tịnh tu xong, nghĩa là nêu lực hạnh thu hướng khắp thứ bảy ở trước, khiến hữu tình kia tu gia hạnh thích đáng sau khi thú nhập môn, gồm thâu trụ tâm xong, tịnh tu hạnh xong.

Nói “vì nói Trung đạo, cho đến sẽ dứt chấp, do sức túc trụ, biết nhân duyên quá khứ của hữu tình kia, khiến chúng lìa thường kiến. Trí lực của sinh tử, biết hữu tình kia, trong vị lai sẽ thọ thân sau, khiến chúng lìa đoạn kiến.”

Nói “vì khiến hữu tình dứt hẳn phiền não, từ đây về sau, khởi trí lực lậu tận”, nghĩa là khởi sức lậu tận vì hữu tình kia nói pháp, giúp cho chúng dứt hết lậu.

Nói “nếu có cho đến khởi không mà làm” tác giả: nghĩa là khởi tạo nên việc thiện, không tạo ra phiền não.”

Nói “tăng thượng mạn”, nghĩa là khiến hữu tình kia lìa bỏ tăng thượng mạn này, nghĩa là chưa hết các lậu mà cho là đã hết các lậu. Người tăng thượng mạn, do sức lậu tận, khiến hữu tình kia bỏ ngạo mạn.

2. Theo thứ lớp nói rằng khắp trong tất cả pháp duyên sinh, trí trụ quán sát pháp mầu nhiệm hơn hết, nghĩa là trí lực xứ, phi xứ, biết quả ái, phi ái, trụ trong nhân thiện ác, nên nói là trí trụ pháp mầu nhiệm.

Kế là, khởi sức nghiệp, quán phần tại gia, cho đến tu chứng sai khác, nghĩa là trí lực của nghiệp mình, biết người tại gia lúc đã đang, sẽ  tu nhân, chứng quả khác nhau.

Quán sát về phần tại gia như thế xong, cho đến quán chiếu như thật tất cả thế gian, nghĩa là quán sức nghiệp của phần tại gia xong, khởi trí lực giải thoát của tĩnh lự, quán các tĩnh lự, gọi là quán xuất gia. Dùng định cõi sắc để xa lìa năm dục, gọi là xuất gia, nghĩa là quán tĩnh hữu lậu cõi Sắc đều chẳng phải là đạo xuất ly khổ. Biết các thế gian không có ai cứu vớt, không có ai để quy thú, do đại bi, dùng Phật nhãn kia quán chiếu thế gian. Đã quán chiếu xong, cho đến tâm người kia thú nhập, nghĩa là kế là, khởi căn, lực hiện ở trước biết rồi, tức là đối với pháp đã nói, tâm họ thú nhập thức, căn truyền trao pháp, khiến tâm họ thú nhập.

Kế là, lại như trước, những thứ sự thắng giải, trí lực v.v… nghĩa là từ căn, lực trước, sau khởi thắng giải, lực v.v… theo thứ lớp như trước.

3. Theo thứ lớp nói rằng quán sát tất cả pháp giới duyên sinh, nghĩa là lực đầu tiên biết nhân, quả của ba tánh kia, gọi là pháp giới duyên sinh, tức biết pháp giới vô lượng trong năm vô lượng.

Kế là, khởi nghiệp lực cho đến các quả, nghĩa là sức nghiệp biết các pháp duyên sinh kia giả lập hữu tình mình làm, mình chịu, tức biết vô lượng cõi hữu tình.

Quán sát thật, cho đến “mà truyền dạy cho hữu tình”, kế là, khởi định lực, đã truyền dạy xong, kế là khởi các lực lại v.v…, nghĩa là khởi bảy lực sau, chẳng khác với lực trước.

Nói về sự khác nhau, cũng có sai khác, cũng không sai khác. Pháp sư Cơ nói rằng như xứ, phi xứ với nghiệp của mình, do quán nhân thiện, bất thiện, nên gọi là không có sai khác, chỉ quán nghiệp thiện, bất thiện có thể cảm quả ái, phi ái là xứ, phi xứ, tự tạo ra nghiệp thiện, tự thọ lãnh báo thiện, gọi là sức nghiệp của mình, nên có sai khác. Pháp khác ở dưới y cứ theo đây nên biết. Pháp sư Cảnh nói lực đầu tiên là nghiệp thiện, ác được quả ái, phi ái, đây là biết trực tiếp nhân quả. Sức nghiệp biết cả người giả, tạo nghiệp, thọ quả. Vì biết người giả, nên không đồng với lực ban đầu, cũng có khác nhau, đồng biết quả nghiệp cũng không có sai khác.

Thứ hai đối với thứ ba, biết con người giả kia, chủ thể tu ý lạc tĩnh lự, tức người ấy có thể nhập, là do sức nghiệp. Nếu biết tức dựa vào tĩnh lự, hiện chi ba thiền, giáo hóa, truyền trao cho hữu tình nhờ sức tĩnh lự.

Thứ ba, đối với thứ tư, lấy “định câu sinh ” tín v.v… kia, nhất định là năng lực của tĩnh lự. Nếu phân biệt đúng căn nhuyến trung, thượng thì gọi là căn lực.

Thứ tư đối với thứ năm, nghĩa là nếu do các căn lấy ý lạc kia, thì đây là do căn lực. Nếu phân biệt đúng sự sai khác của ý lạc, do sức thắng giải, thì do thắng giải này phân biện biệt sáu thứ ý lạc. Hai thứ đầu, một cặp, nghĩa là không xuất ly và xuất ly. Hai thứ kế là, một cặp thanh tịnh xa gần. Hai thứ sau, một cặp là hiện được Niết-bàn, sẽ được Niết-bàn.

Thứ năm, đối với thứ sáu, nếu biết thắng giải huân tập thành tự loại, thì giống với hạt giống do sức thắng giải. Nếu chính soi rọi lấy hạt giống khác nhau thì đây là do sức giới, nhân nói hạt giống có bốn.

Thứ sáu đối với thứ bảy, nếu biết các loại giới mà khởi lên dấu ấn hạnh thú nhập, thì đây là do sức giới. Nếu chính phân biệt dấu ấn hạnh, thì thú nhập sẽ do biến hành hướng đến trí lực.

Thứ bảy đối với thứ tám, biết tất cả nhân thú năm thú như năm dừng, năm đường v.v… mé ở trước, đều do trí lực hiện hành khắp thu hướng. Nếu biết tám lời nói, câu của mé trước, thì sáu hạnh lược qua sẽ do sức túc trụ.

Thứ tám đối với thứ chín, biết dựa vào mé trước, trước tạo ra các nghiệp, nên khiến sinh tử mé sau của huu tình do sức túc trụ. Nếu quán chính đáng sẽ thấy sự sinh của mé sau do sức sinh tử.

Thứ chín, đối với thứ mười. Nếu biết hữu tình tự dứt trừ sự lậu, vì chưa được rốt ráo, nên thọ sinh nối tiếp nhau ở mé sau, do trí lực sinh, tử.

Nếu biết hữu tình tự dứt trừ sự lậu xong, sẽ được tâm rốt ráo, khéo giải thoát, hiện được Niết-bàn, do sức lậu dứt hết.

Nói trời “Na-la-diên”, Thới Pháp sư cho rằng: Hán dịch là lực tráng. Vì trời có sức Na-la-diên, nên nói là trời Na-la-diên.

Có giải thích: Ma-hê-thủ-la, gọi là Đại tự tại phạm thiên. Tổ công, gọi là Na la diên. Phạm vương, gọi là Phạm thế.

Trong bốn vô úy, chia văn làm năm:

1/ Nêu chung, chỉ cho kinh.

2/ Chia ra bốn thứ.

3/ Đối vặn hỏi, nói về tướng.

4/ Lập lý do.

5/ Giáo khởi nhân duyên.

Trong phần nêu bốn thứ: trước, nói chung về bốn xứ, Đức Phật tự khen ngợi. Sau, nêu riêng bốn xứ, nghĩa là tự khen rằng: – Ta đã biết chướng dứt trừ, đối với tất cả pháp, giác biết rõ hiện ở trước, tức trí nhất thiết, vô úy, không chung với Nhị thừa. Dứt trừ chướng phiền não, chứng đắc lậu tận, đây là chung với Nhị thừa, tức lậu tận, vô úy.

Vì mong cầu thoát khổ, là nói đạo, có công năng xuất ly khổ, nên phải tu tập, tức hướng về thánh đạo xuất ly khổ ở trước,, có các pháp chướng, khuyến khích xa lìa.

Trong đối với vặn hỏi để nói, ở hai xứ trước mà khởi vặn hỏi rằng: – Đức Phật ở trước tự nói “Ta có Trí nhất thiết, như đệ tử mình an cư hạ xong, từ các nơi đến mà đặt ra câu hỏi rằng “Ông đồng trụ có yên vui không? Khất thực có được dễ dàng không?” Ở đây, vì không biết nên hỏi, không có Trí nhất thiết. Lại tự khen “Các lậu của ta đã hết, mà vẫn dùng ái ngữ đối với La- hầu, giống như có người thương con mình, quở mắng Đề-bà, dường như có sân hận. Đã có ái, giận dữ, là biết lậu chưa hết.

Hai thứ trước này, vặn hỏi chê bai thân Phật. Ở hai chỗ sau mà khởi vặn hỏi: “Thuyết thứ ba trước nói đạo có công năng xuất ly khổ, như A-la-hán được đạo đầy đủ, mà có các nỗi khổ bị rắn cắn, bệnh tật v.v… Phải biết đạo không xuất ly khổ.

Thuyết thứ tư ở trước nói Niết-bàn chướng đạo, như người chứng quả Dự lưu đã đắc đạo nhưng, vẫn yêu vợ con v.v…, thêm nhuế, mỏi mệt v.v… Phải biết rằng phiền não không che lấp thánh đạo, nên nói rằng trước sau trái nhau, rơi vào trạng thái phi lý mà khởi vặn hỏi chê bai, cho rằng đối với thế gian trở xuống, là vặn hỏi chung về vô úy. Trước là nói chung về ý. Đức Phật đối với thế gian có kiến minh, kiến vô minh, có trí tha tâm, không có trí tha tâm. Các đại chúng ở trước đối với chỗ tự khen ngợi này, có thể vì đối trị đạo lý đều không chân thật trong các vặn hỏi chê bai, có thể làm tướng mạo của vặn hỏi. Cho nên nói đều không thấy có tướng của nhân chân thật. Kế là giải thích riêng bốn nạn, như giải thích nạn đầu rằng:

Thầy trò kiết hạ riêng, nay đến tham vấn ta, đã cần an ủi, hỏi han, chứ chẳng phải cho rằng vì không biết mới hỏi người kia.

Giải thích vặn hỏi thứ hai. Chúng sinh nhập đạo, nhờ các thứ duyên. Đề bà vì ngang bướng, nên cần phải dùng lời lẽ thô nhằm điều phục ông ta, chứ thật ra chẳng phải sân nhuế. Vì điều thiện cho La hầu, nên cần nhuyển ngữ để giáo hóa, thật sự chẳng phải kiết ái.

Giải thích vặn hỏi thứ ba, đạo La hán, lậu dứt hết, chưa sinh khổ, rốt ráo không bệnh khổ của hiện thân, trong trường hợp đền trả cho nghiệp trước, vẫn phải cam chịu khổ.

Giải thích vặn hỏi thứ tư, phiền não che lấp đạo có hai thứ, nghĩa là phiền não của kiến đạo, che lấp kiến đạo, phiền não của tu đạo, che lấp tu đạo. Sơ quả đã được kiến đạo, phiền não của kiến đạo rốt ráo không hiện hành. Chưa đủ tu đạo, cho nên vẫn khởi tâm yêu vợ con v.v…

Kế là nói về lập bốn lý do. Vì sao vô úy chỉ lập bốn thứ?

Đáp: Nếu tùy theo đối tượng trị sợ hãi vô lượng, chủ thể trị vô úy cũng có vô lượng. Nay tùy trí đoạn của mình, người mà khởi vặn hỏi, vì chung cho vặn hỏi kia, nên đại khái nói bốn. Hai vô úy trước trong đây chung cho hai vặn hỏi ở trước, tức là tự đặt tên là lợi mình; hai vô úy sau chung cho hai vặn hỏi sau, là yên đệ tử, gọi là lợi người.

Kế là nói về nhân duyên khởi giáo. Trong đây, nếu đức Như lai tự khen ngợi: Nay, ta hiện giác biết các pháp, nên thành Chánh giác. Phải biết rằng vì hướng dẫn Bồ-tát để cho Bồ-tát thu hướng đạo. Nếu tự khen tất cả lậu dứt hết là vì dẫn dắt người tánh Nhị thừa, để họ thu hướng chứng. Nếu lại khen ngợi đạo có công năng xuất ly phiền não che lấp đạo. Phải biết rằng vì dẫn dắt các hữu tình đồng hướng đến ba thừa.

Hỏi: Nếu Đức Phật khen ngợi đạo có công năng ra khỏi phiền não khổ chướng đạo, dẫn dắt hữu tình đồng thu hướng ba thừa. Vì sao trong Đại thừa chỉ nói vì Bồ-tát, không nói vì chướng của Thanh văn ư? Trong kinh Tiểu thừa chỉ nói là vì Nhị thừa nói, không nói vì Bồ-tát ư?

Vì đã thông vặn hỏi này, nên ý giải thích rằng: Đức Như lai đã nói trong nghĩa, câu kinh của Đại thừa Tiểu thừa nhất nhất đều nói vì ba thừa nói hai vô úy sau, mà người kiết tập lại trừ Bồ-tát nói trong tạng Thanh văn, trừ lời nói của Thanh văn trong tạng Bồ-tát.

Trong ba niệm trụ, ý cho rằng trong suốt đêm dài, Đức Phật muốn cho hữu tình, thuận theo trụ trong ba tạng giáo mà ta đã nói, nhưng các hữu tình có thuận, không thuận, là tức tâm Phật có thỏa, không thoả, bất sinh tạp nhiễm, tham, sân, vô minh. Đây là chỉ y cứ lúc người khác ngự trị chúng, Như lai mong muốn có thoả, không thoả, bất sinh tạp nhiễm. Lại, do ba chúng khác nhau kiến lập. Nếu hoàn toàn chúng kia đồng thời giáo hóa, khởi tà hạnh không lo, nếu một phần trong chúng kia là chánh hạnh, một phần là tà hạnh, không đều sinh lo mừng, thì chỉ trụ ở xả.

Trong pháp không quên mất, thường tùy ghi nhớ, hoặc sự v.v… Pháp sư Cảnh nói thông thường có mong cầu tạo ra việc làm căn bản, gọi là sự, hoặc nơi chốn, tức là nơi chốn, phương hướng đã đi qua. Nếu như nghĩa là phương tiện tác nghiệp, như căn bản kia. “Nếu thời gian” (có lúc), nghĩa là thông thường thời gian đã đi qua, đều không quên mất.

Tâm oai nghi v.v… của A-la-hán, cũng kèm theo phiền não không điều phục, nhu thuận, đã khởi thân, ngữ, đôi khi mất chỗ. Pháp sư Khuy Cơ nói “nếu như”, nghĩa là tức tùy phương tiện được thích nghi lúc giáo hóa chúng sinh, thuận với lý, nên gọi là Như. Lại, tức phương tiện như thế, nên gọi là “như”. Trong nhất thiết chủng trí mầu nhiệm. Pháp sư Cảnh nói nghĩa là biết rõ pháp bất thiện, vô ký, chọn lựa, lìa bỏ, gọi là trí nhất thiết chủng. Biết rõ pháp thiện, vì người khác giảng nói, gọi là diệu trí của Như lai. Pháp sư Khuy Cơ nói nếu đối với pháp bất thiện, vô ký, không có trí điên đảo, biết mà không làm là trí nhất thiết chủng. Nếu biết điều thiện mà làm, thì gọi là diệu trí. Trước giống với Trí hậu đắc sau, nói là chánh trí, kỳ thật trí vô phân biệt không quán các pháp như bất thiện v.v…, chỉ thực hành quán thiện, nên chỉ là Diệu trí, Trí hậu đắc kia là Nhất thiết diệu trí chủng. Lại hai thứ Trí hậu đắc đều có chánh trí là không đúng.

Trên đây, là giải thích mười một thứ công đức. Dưới đây là nói chung. Nói chung có bốn:

1/ Nói về địa vị thành tựu viên mãn mười một công đức.

2/ Dùng trí tuệ của Bồ-tát thành mãn sau cùng, đối với Phật để nói.

3/ Nói về mười một công đức vì mười việc lợi ích.

4/ Kết, kiến lập công đức và không chung.

Trong phần trước nói rằng: Như thế, tất cả gọi là chung là một trăm bốn mươi thứ Phật pháp không chung của Như lai: là giải thích xong, tổng kết.

Dưới đây, là nói về địa vị viên mãn.

Nói “tức thiện, thanh tịnh cùng cực ở trong đây”, nghĩa là y theo tướng tốt của thân biến hóa của Bồ-tát thành mãn, nghĩa là từ trời Đổsử-đa, giáng sinh xuống loài người với tướng tốt rất thiện, thanh tịnh.

Nếu lúc bấy giờ, cho đến định Kim Cương dụ, nghĩa là sau thập địa, chứng định Kim Cương dụ, so lường cùng cực viên mãn. Bấy giờ, nếu vì không có thầy, tự tu pháp Bồ-đề phần thì từ vô gián này cho đến đều vì vô thượng, đây là y theo chỗ thành tựu viên mãn mà nói là Đức Phật đốn đắc. Về lý, thật sự các đức từ Sơ Địa trở lên, tức được dần, cho đến địa vị Phật mới viên mãn. Dựa vào phát ngộ, đến chứng nhập tất cả công hạnh của Như lai, địa Như lai. Pháp sư Cảnh nói tâm ý trôi lăn không dừng, như dụ xe, pháp, đều nêu danh làm ý xa, ý xa của Phật viên mãn, vượt qua các Bồ-tát.

Pháp sư Khuy Cơ nói do ý nghiệp có thể có nghĩa vận tải, điều hòa, nên thí dụ ở xe.

1. Trong phần nói về sự khác nhau có tám dụ, năm dụ trước và dụ thứ tám, nói về trí sai khác.

2. Nói về thân; thứ bảy, là nói về tâm sai khác, nên đoạn kết sau nói rằng diệu trí, thân tâm có rất nhiều sự khác nhau.

3. Nói về mười một đức có thể tạo nên mười thứ sự nghiệp của Như lai, do kết hợp tướng tốt làm một sự nghiệp, nên chỉ có mười.

Nói “do ở trước đã nói cho đến bốn vô sở úy đã có thể thành xong”, ở đây giải thích việc thứ tự, đối với bốn vặn hỏi ở trước, như thứ lớp thấy biết, hiểu rõ, nên có thể đáp bốn câu hỏi. Cũng có thể giải thích đối với mỗi vặn hỏi đều thấy biết, hiểu rõ.

Thứ tư, kết kiến lập và không chung. Dựa vào đây, trụ ở đây, nghĩa là Bồ-tát dựa vào công đức của Phật này, vì kính mến tu, học, nên gọi là dựa vào đây. Trụ ở nhân hạnh của Phật vì mong cầu đức của Phật, nên gọi là trụ nơi đây. Dưới đây, là nói về không chung có hai nghĩa:

1/ Với bốn pháp như đại bi v.v…, vì Nhị thừa đều không có phần nhỏ giống nhau, nên nói không chung.

2/ Đức khác dù có phần được giống nhau, nhưng vì đều không viên mãn nên nói không chung.

Phẩm trên đây, chính là nói về đức của Phật địa xong.

Dưới đây là kết chung Bồ-tát địa đã nói học đạo và quả, trong đó, 1/ Kết địa này, nói đủ nhân quả là chỗ nương tựa của giáo. 2/ Giải thích danh hiệu của địa. 3/ Khen luận, khuyên thọ trì.

Trong phần trước, chỉ bày rõ đạo và quả, gọi là Bồ-tát địa. Pháp sư Cảnh có hai giải thích:

1/ Bồ-tát địa ở trước, đầu tiên nêu mười pháp, trì học chỉ cho nhân, kiến lập thứ mười chỉ cho quả, pháp khác có cả nhân và quả.

2/ Phẩm Kiến lập chỉ có quả, còn vị và địa thì có cả nhân, quả, ngoài ra chỉ là nhân.

Pháp sư Khuy Cơ nói đạo học là trí, quả là cảnh Như. Lại, địa trước hữu vi, gọi là đạo học; địa sau có vô vi, gọi là quả của đạo học. Nói đủ cho đến thật y xứ (chỗ nương tựa thật). Vừa rồi nói về đạo học và quả là chỗ nương tựa chân thật của Nhất thiết chủng Bồ-tát tạng giáo.

Kế là, giải thích về địa Bồ-tát có rất nhiều danh, nghĩa là địa này được gọi là Bản mẫu Bồ-tát tạng, do gồm thâu đủ nghĩa, nhân, quả của Đại thừa, nên cũng gọi là Nhiếp Đại thừa. Phiền não nghiệp, khổ, gọi là con đường hư hoại, xuất thế đối trị, gọi là con đường không hư hoại.

Dưới đây là khen luận, khuyên thọ trì, nghĩa là nếu các người trời đối với địa Bồ-tát tin, hiểu, thọ trì rộng vì người nói, đạt được nhóm phước, như Đức Phật nói Bồ-tát tạng giáo ưa nghe, thọ trì, khai thị, khen ngợi, được phước không khác. Vì sao? Vì Bồ-tát phân biệt, chỉ bày rõ Phật nói kinh Bồ-tát tạng. Tiêu biểu sơ lược, giải thích rộng, vì giúp cho người khác được hiểu rõ. Lại, do Bồ-tát địa khai thị ba tạng, khiến cho đa số hữu tình thọ trì, đọc tụng, như lời Phật nói tu hành trải qua nhiều thời gian, pháp tương tợ không hưng tịnh, chánh pháp không diệt. Nếu bấy giờ, pháp tương tợ hưng thịnh có thể dẫn phát lợi ích chân thật thì chánh pháp sẽ diệt nhanh chóng, cho nên thọ trì Bồ-tát địa sẽ được vô lượng phước.

Xưa, Pháp sư Viễn Công nói đại khái có chín người được công đức lớn: 1/ Tín; 2/ Hiểu; 3/ Ưa nghe; / Thọ trì; 5/ Tu học; 6/ Ghi chép; 7/ Cúng dường; 8/ Cung kính; 9/ Sâu nặng.

Phước của chín người này với nghiệp ưa nghe của Bồ-tát Thập Tín trong Hoa Nghiêm, nói rộng công đức của Thập Địa không khác.

Bồ-tát Thập Tín kia có công đức gì ngang bằng với công đức của Bồ-tát Thập địa kia, nghĩa là như kinh Hoa Nghiêm nói như đấng Nhất thiết Trí nhómhọp các công đức. Phẩm Nhất Thiết Trí Công Đức Môn cũng giống như thế, nếu người nghe thì công đức cũng thế.

Đại ý đoạn văn kia nói như Phật địa nhóm họp công đức vô biên. Công đức pháp môn của Thập địa đồng với Phật. Có người nghe, thì công đức đồng với địa, cũng tức đồng với Phật.

1. Trì thứ lớp Du-già xứ: trong Bồ-tát địa có bốn Du-già xứ, trong Du-già đầu tiên, nói về chủng tánh, phát tâm và phương tiện hạnh kết hợp có mười tám phẩm, là pháp sở học.

2. Tùy pháp Du-già nói về hạnh của chủ thể học, nghĩa là bốn phẩm kia nói là hạnh ý lạc trụ của phần tướng.

3. Cứu cánh Du-già: là hạnh thành tựu được quả, là quả của Du-già. Có năm phẩm, đó là: Sinh, Nhiếp, Địa, Hạnh và Kiến lập. Nay, Trì thứ tư lại không có khác, chỉ nói về hai mươi bảy phẩm ở trước và pháp môn trong phẩm Bồ-tát, theo thứ lớp trước, sau, cho nên nói là thứ lớp Du-già xứ của Trì thứ tư.

Trong văn gồm có:1/ Kết trước, hỏi sau; 2/ Chính nói về thứ lớp; 3/ Tổng kết.

Y cứ trong chính nói, nói các Bồ-tát trước phải an trụ chủng tánh Bồ-tát mới có thể phát tâm Bồ-đề, tức kết phẩm chủng tánh và phẩm phát tâm, đã phát tâm rồi, mới tu hành đúng, lợi mình, lợi người. Đây là kết hạnh phương tiện, phẩm Trì nội tự tha lợi, đối với lợi mình, lợi người, lúc tu hành chân chính, được phương tiện không có tạp nhiễm, nên được phương tiện không có nhàm chán, mỏi mệt, nghĩa là kết oai lực, vì trong phẩm này nói về cầu các thần thông nên được không có nhàm chán, mỏi mệt. Vì không có nhàm chán, mỏi mệt, nên được phương tiện tăng trưởng của các căn lành, nghĩa là kết phẩm Thành thục.

“Được tăng trưởng rồi có thể chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồđề”, kết phẩm Vô thượng Bồ-đề. Đây là kết hành phương tiện trì, bảy pháp của năm phẩm. Lại, trong gia hạnh lợi mình, người như thế, cho đến được đại Bồ-tát, là nhắc lại năm phẩm đã kết ở trước.

Khi sắp tu hành, trước là đối với chánh pháp rộng lớn rất sâu, an lập tín hiểu v.v…, đây là kết phẩm Lực Chủng Tánh của phương pháp học, trong phẩm đó có sáu pháp:

  1. Thắng giải.
  2. Cầu pháp.
  3. Nói cho người nghe.
  4. Pháp tùy, pháp hạnh.
  5. Tám thứ giáo thọ.
  6. Phương tiện nhiếp ba nghiệp.

Nay nói tín, hiểu, nghĩa là kết thắng giải thứ nhất, hỏi cầu chánh pháp, đây là kết cầu chánh pháp thứ hai.

Rộng vì người khác, là kết thứ ba, nói cho người nghe, cũng đối với chánh hạnh, tự có thể thành xong, là kết thứ tư, pháp tùy pháp hạnh. Lúc thành xong, nếu do đây, đối với người này, vì người này, nên thực hành, đây là kết thứ năm, tám thứ giáo thọ, sáu thứ dạy răn. Trong giáo thọ, nói là hoặc do Bồ-tát, hoặc do Chư Phật mà có thể giáo hóa, truyền trao, nên nói “do đây”. Đến khi giáo hóa, truyền trao, trước phải xem xét về tâm căn, tánh dục của người kia, nên nói “đối với người này”. Đã biết căn cơ rồi, dạy tu năm pháp quán dừng tâm, trị bệnh tăng riêng, nên nói “vì người này”.

Nói “tức do đây, đối với người này, vì người này mà thực hành” là kết ba nghiệp thuộc về phương tiện thứ sáu kia. Trên đây, là sáu câu tổng kết về phẩm Lực chủng tánh.

Do đây, đối với người này, vì người này, lúc thực hành, như khiến cho phước đức, trí tuệ tăng thượng, đối tượng nên thực hành, tức là công hạnh như thế, kết phẩm sáu ba la mật. Phước đức, trí tuệ đã tăng trưởng rồi, đối với phương tiện không lìa bỏ sinh tử, có thể tu hành chân chính, là tổng kết phẩm Tứ nhiếp và phẩm Cúng dường, gần gủi vô lượng.

Tức ở trong đây, cho đến chánh hạnh viên mãn, đây là kiết phẩm Bồ-đề phần pháp. Trong phẩm đó có hai bài tụng, nói chung về mười lăm pháp môn. Bài tụng đầu, có chín tụng; tụng sau, có sáu tụng. Tụng kia nói giữ lấy sức vững chắc tàm, quý, thế trí không nhàm chán biện luận, chính thức nương tựa vô ngại giải. Bồ-đề phần so lường, phương tiện khéo léo của tánh chỉ quán. Chánh nguyện của Đà-la-ni Tam-mađịa có ba pháp, ốt đà nam có bốn pháp. Nay nói tức ở trong đây, chính lúc thức tu hành, có thể thực hành hạnh sinh tử không có tạp nhiễm, là kết tàm quý ban đầu, tức tu hành chân chính ở trong đây có thể đối với mình, ưa thực hành công hạnh không chấp mắc, đây là kết tánh gìn giữ sức mạnh bền chắc thứ hai.

Tức ở trong đây, cho đến công hạnh không có nhàm chán mỏi mệt, đây là kết tâm thứ ba, không có nhàm chán mỏi mệt. Do không có nhàm chán, mỏi mệt đối với sinh tử, cho đến được không còn sự sợ hãi, đây là kết khéo biết luận khác thứ tư.

Nói “khéo biết luận rồi, cho đến khéo biết thế gian”, đây là kết khéo biết thế gian thứ năm. Như thế, Bồ-tát đến phỏng vấn, hết lòng cầu xin chánh pháp, đây là kết thứ sáu. Bốn y như y pháp, không y nhân v.v… Đã phỏng vấn, tham cầu xong, với khả năng có thể dứt trừ tất cả “nghi ngờ” của tất cả hữu tình, đây là kết bốn vô ngại giải thứ bảy.

Như thế, khả năng có thể dứt trừ “nghi, ngờ” của người, cho đến dần dần được viên mãn, đây là kết so lường thứ tám.

Đã viên mãn rồi, cho đến có thể siêng năng tu hành, đây là kết pháp Bồ-đề phần thứ chín.

Đối với tu phương tiện, có khả năng rõ cho đúng, đây là kết chỉ, quán thứ mười, tức giữ gìn chánh cần như thế mà tu hồi hướng Đại thừa, không cầu quả Niết-bàn của Nhị thừa, đây là kết phương tiện khéo của mười một tánh.

Đã được như thế, cho đến đà-la-ni vô ngại biện tài viên mãn, đây là kết đà la ni thứ mười hai, và chánh nguyện thứ mười ba.

Lại, giải thích đại khái, không kết chánh nguyện, vì muốn dứt trừ vĩnh viễn tất cả chướng, nên tinh tấn siêng năng, tu tập ba môn giải thoát, đây là kết mười bốn Tam-ma-địa.

Tức ở trong đây cho đến chánh hạnh viên mãn, nghĩa là bốn Ốtđà-nam thứ mười lăm của pháp này, cũng gọi là bốn pháp, tức Trên đây, đã kết phẩm Bồ-đề phần xong.

Dưới đây là kết phẩm Công đức có hai mươi lăm pháp, trong đó có năm bài tụng: bài tụng đầu, tụng về bảy pháp; tụng thứ hai, tụng về bốn pháp; tụng thứ ba, tụng năm pháp. Sau có hai bài tụng, tụng về chín pháp.

Như thế, chánh hạnh được viên mãn xong, đối với tất cả hữu tìnhh và Thanh văn, Độc giác, đều là thù thắng: sắp muốn kết thức hai mươi lăm pháp sau, trước nhắc lại khen thù thắng ở trước, chia ra hai chương môn, cái gọi là công đức thù thắng của chánh hạnh, nghĩa là nêu chung bảy pháp của kệ đầu, để làm chánh hạnh, là một chương môn.

Và có thể khen ngợi công đức thù thắng, nghĩa là nêu chung mười tám pháp của bốn bài tụng, sau gọi là đáng khen ngợi, là môn chương thứ hai, nên bài tụng đầu nói rằng:

Ít có, không ít có.

Tâm bình đẳng, đem lại nhiều lợi ích.

Trả ơn và vui khen.

Tánh gia hạnh không dối.

Nay, ở đây, chia ra nêu chương. Trước kết bảy pháp của bài tụng đầu.

Nói “phải biết công đức thù thắng của chánh hạnh trong đây, nghĩa là nhắc lại chương đầu.

Bồ-tát vì lợi mình, lợi người nên siêng tu chánh hạnh, gọi là ít có. Dùng sự nghiệp lợi người để làm sự nghiệp của mình, gọi là không hiếm lạ. Hàng Nhị thừa thì không như thế, đây là hai việc ít lạ, không ít lạ đầu trong kết thứ bảy.

Do các Bồ-tát v.v… trở xuống, đây là kết tâm bình đẳng thứ ba.

Do khởi như thế, cho đến “thường thí cho ân tuệ”, đây là kết lợi ích hữu tình thứ tư. Không mong hữu tình trả ơn, đây là kết báo ơn thứ năm.

Bồ-tát như thế, cho đến “muốn cho hữu tình kia được lợi ích yên vui”, đây là kết hân hoan khen ngợi thứ sáu.

Do ý ưa lợi ích yên vui này thường khởi lên gia hạnh không giả dối. Đây là kết gia hạnh không giả dối thứ bảy.

Phải biết rằng ở đây gọi là lần lượt dẫn phát công đức thù thắng của chánh hạnh, là kết chương đầu. Phải biết rằng khen ngợi công đức thù thắng trong đây, nghĩa là sắp kết môn sau, nên nêu ra chương ba.

Bồ-tát ở chỗ Chư Phật đã được thọ ký, chứ chẳng phải các hàng Nhị thừa v.v…, nghĩa là ở đây khởi bài tụng thứ hai, trước kết tụng thứ ba, do trước hết nhờ ghi nhận, rồi mới khởi hạnh. Vì nghĩa này, nên trước kết tụng thứ ba. Trong bài tụng thứ ba có năm pháp, nên các Bồtát thọ ký trong bài tụng kia, rơi vào quyết định, nhất định là thường nên  làm, hơn hết là sau hết.

Nay nói ở chỗ Chư Phật, Bồ-tát đã được thọ ký chứ chẳng phải hàng Nhị thừa, đây là kết sáu thứ thọ ký thứ nhất.

Được thọ ký xong, tức là chủ thể an trụ địa không lui sụt, đây là kết thứ hai rơi vào quyết định.

Thọ ký có ba:

1/ Chủng tánh rơi vào quyết định.

2/ Phát tâm rơi vào quyết định.

3/ Tu hành không giả dối, rơi vào quyết định.

Nói an trụ trong đây, có thể đã tạo nên đối với tất cả việc làm quyết định, đây là kết việc làm quyết định thứ ba. Việc làm quyết định, thuyết đó có năm:

  1. Quyết định phát tâm.
  2. Thương xót.
  3. Tinh tấn Tu tập.
  4. Tu tập phương tiện minh xứ.
  5. Không có nhàm chán mệt mỏi.

Việc làm thường xuyên, đạt được pháp vững chắc không quên mất, đây là kết thứ tư, luôn thường xuyên làm việc.

Vững chắc như thế, cho đến việc nêu bày trên hết, đây là kết hơn hết thứ năm là sau cùng.

Dưới đây là kết bốn pháp trong bài tụng thứ hai, nên bài tụng kia nói rằng:

Gia hạnh không điên đảo,

Thối đọa và thắng tiến,

Dường như công đức thật,

Khéo điều phục hữu tình.

Nay nói rằng khắp tất cả việc nên làm, có thể không có lui mất, đây là kết gia hạnh không có điên đảo thứ nhất.

Đối với chưa được lui sụt, cho đến như ánh sáng chia mặt trăng, đây là kết thắng tấn thứ hai.

Do các pháp thiện vì chuyển biến tăng trưởng, nên cuối cùng không gọi là giống nhau, đây là kết công đức chân thật thứ ba.

Nói “do được danh hiệu Bồ-tát chân thật, cho đến biết rõ như thật”, đây là kết khéo điều phục hữu tình thứ tư. Trong bài tụng dù có lui sụt sa đọa và hai môn giống nhau, nhưng vì chẳng phải công đức, nên luận gia không kết.

Từ đây trở xuống, là kết môn hữu tướng của hai bài tụng sau, tụng rằng:

Các nêu bày kiến lập,

Tất cả pháp tìm cầu,

Và như thật biết khắp,

Như thế, các vô lượng,

Quả thắng lợi nói pháp,

Tánh Đại thừa và nhiếp,

Bồ-tát mười nên biết,

Kiến lập các danh hiệu,

Vì nói biết như thật.

Tất cả an lập đều được khéo léo, đây là kết nêu bày kiến lập thứ nhất.

Nói “từ tìm cầu này v.v… ” trở xuống, đây là pháp kết tất cả pháp tìm cầu thứ hai.

Nói “từ đây, ở đây, do đây”, nghĩa là từ các Như lai, nêu bày kiến lập ở tất cả pháp do tuệ mà tìm cầu.

Nói “đã tìm cầu xong, do rốt ráo này” trở xuống, đây là kết như thật biết khắp thứ ba.

Nói “với các an lập được khéo léo, cho đến Tam-ma-địa vương”, đây là kết các vô lượng như thế thứ tư, tức là năm vô lượng.

Đạt được Tam-ma-địa như thế xong, cho đến đều có quả vượt hơn, đây là kết lợi quả nói pháp thứ năm, có thể đối với Đại thừa rốt ráo xuất ly, đây là kết tánh Đại thừa thứ sáu. Do dựa vào tánh đại mà vì xuất ly, nên có thể Nhiếp Đại thừa, đây là kết nhiếp thứ bảy.

Do đây lại ở kia, trong địa vị xuất ly của Đại thừa kia, đây là kết mười điều nên biết của Bồ-tát thứ tám.

Được các danh kia, cho đến đều khen ngợi chung, đây là kết kiến lập các danh hiệu thứ chín.

Phải biết rằng danh này đã có thể khen ngợi công đức thù thắng, nghĩa là tổng kết chương thứ hai.

Dưới đây là 25 tổng kết phẩm Công đức xong.

Do được như thế, cho đến thành tựu tướng Bồ-tát kia, đây là kết phẩm Tướng Bồ-tát kia, nghĩa là các Bồ-tát có năm tướng Bồ-tát chân thật. Nếu thành thục thì rơi vào số Bồ-tát, cho đến nói rộng.

Chánh hạnh như thế, cho đến đối tượng (sự việc) có thể thành xong, kết phẩm Phần kia.

Trong hai phần có thể hoàn thành xong, cho đến ý lạc tăng thượng, là kết phẩm Ý lạc.

Ý lạc như thế v.v… trở xuống, đây là kết phẩm Trụ.

Từ đây trở lên, cho đến gặp Phật Bồ-tát, đây là kết phẩm Sinh.

Và, có thể khởi làm các việc đem lại lợi ích lớn cho tất cả hữu tình, là kết phẩm Nhiếp Thọ.

Luôn thường không có gián cách, cho đến “như nhà cửa của mình”, đây là kết phẩm Địa.

Trụ địa vị này xong, cho đến bất sinh hỷ túc, đây là kết phẩm Hạnh.

Thăng tấn như thế, chứng được rốt ráo v.v… trở xuống, là kết phẩm Kiến lập, là gọi là thứ lớp của nghĩa Bồ-tát, nghĩa là tổng kết.

Địa hữu dư y, Cửu Địa trước trong mười bảy địa, nói về cảnh. Sáu địa kế là, nói về nhân đã xong. Nhị Địa sau đây, nói về quả của địa đó. Vì quán cảnh, khởi hạnh mới chứng quả. Trong đây, nếu dựa vào Nhị thừa, thì nhân mất, quả táng, quả lập hai môn để làm trước, sau. Nếu đến thân Phật, thì Bồ-đề, Niết-bàn sẽ được chia thành hai pháp khác dùng làm trước, sau. Trong Nhiếp luận, ngài Thế Thân giải thích do hạt giống diệt hữu dư. Quả báo đều diệt, gọi là Vô dư.

Lại, hữu dư gọi là Thanh (trong) vì lìa vết nhơ của phiền não, nên vô dư gọi là lương (mát mẻ), lìa nóng bức của báo khổ. Lại nói hai thân ứng, hóa là hữu dư; pháp thân là vô dư, đây là y cứ Tha thọ dụng và thân biến hóa, khởi công dụng chưa thôi dứt gọi là hữu dư. Nếu hai thứ này thôi dứt, gọi là vô dư, do thân tự thọ dụng một khi được nối tiếp nhau thì sẽ không có dứt mất. Nay, ở đây cho rằng không nói Niết-bàn hữu dư, chỉ nói hữu dư y, vì ở đây không được lấy riêng Niết-bàn. Thích luận giải thích rằng: – địa hữu dư y, nghĩa là địa hữu dư y Niết-bàn. Y tức là đối tượng nương tựa (sở y) của hữu lậu. Đại khái có tám thứ:

Thi thiết y, cho đến hậu biên y thứ tám, nay hoàn toàn lấy một biên y sau cùng, trừ sự sáu nhiếp trôi lăn chướng ngại lấy một phần còn lại. Lại, trong địa này có bốn vắng lặng. A-la-hán v.v… trụ địa Vô học, đủ bốn vắng lặng có một ít dư y, cho nên nói là địa hữu dư y. Địa này tức là các pháp hữu lậu trong thân vô học của Nhị thừa, đều là tự tánh. Đức Như lai tùy thân tâm hữu lậu dư y không có chân định, có biến hóa tợ hữu lậu y, nên y theo tướng khác cũng được nói là hữu dư y địa.

Trong văn đầu tiên, là kết trước, sau chia ra hai môn chương. Sau dựa vào chương để nói. Một địa nêu bày an lập, nghĩa là trong mười bảy địa, văn này lấy mười một địa hoàn toàn, phần nhỏ của Ngũ Địa là thể của địa này. Vì sao? Vì trong Ngũ Địa, vả như có năm vị vô tâm trong địa vô tâm, nghĩa là vô tâm thùy miên, Vô Tưởng định và bao định Diệt tận, nhập cõi Niết-bàn Vô dư y v.v… Nay chỉ lấy bốn địa vị trước, vì trừ Niết-bàn Vô dư y, nên nói một phần là thể của địa này, một phần của Tu sở thành địa. Pháp sư Cảnh nói rằng hai Niết-bàn đều là tu tuệ đã thành sở đắc của ba thừa. Thời nay, chỉ lấy tu tuệ có thể thành ba thừa, có thể được nghĩa Niết-bàn hữu dư, nên nói một phần.

Pháp sư Khuy Cơ nói tu thành hữu vi, vô vi trong địa do tu thành.

Vô vi của địa kia là thể của Vô dư y, nay loại trừ, lấy tu thành hữu vi.

Hỏi: Nói tu sở thành, chỉ là tu, vì sao có lời nói vô vi?

Nghĩa: Nói thẳng là tu tuệ thì không theo vô vi. Nay, nói tu sở thành, đã có lời nói sở thành nên có cả vô vi. Địa Thanh văn v.v… kia nói chung bốn đế. Trong diệt đế kia có nhân tận quả, tận vô vi. Nay, vì phân biệt bỏ quả, tận vô vi, nên nói dứt trừ một phần. Vô dư y địa, tức đã dứt trừ hoàn toàn.

Hỏi: Địa khác cũng có chẳng phải thể của địa này. Vì sao chỉ trừ một phần của Ngũ Địa này?

Nghĩa là từ nhiều tướng, từ biện luận. Lại, tùy làm rõ tướng, nghĩa là lấy bỏ. Tướng ẩn giấu của địa kia chẳng phải là thể của địa này, nghĩa là lược qua mà không luận.

Thứ ba, dựa vào trong lập bày rằng: Và, vì dựa vào đây nên giả đặt ra tên gọi như thế, cho đến bờ mé của lượng tuổi thọ như thế, tưởng của các tưởng v.v… giả dùng lời nói, nghĩa là ở năm thủ uẩn, giả đặt tám câu lời nói. Quyển như thế, nói La hán khởi tám câu này dựa vào Tương ưng, Bất tương ưng này.

Rằng khởi sáu sự nhiếp thọ không tương ưng chung, nghĩa là tương ưng chung với sự nhiếp thọ của cha mẹ, vì người Vô học không bỏ cúng dường cha mẹ. Vì sáu việc lìa bỏ khác, nên không tương ưng chung.

Với trôi lăn chướng ngại, nương tựa một bề hoàn toàn không tương ưng. Thới Pháp sư nói do tham thu hướng trong bốn thức trụ, nên gọi là “hướng về thức trụ” v.v… La hán không có tham, vì chẳng phải sắc thu hướng thức trụ v.v…, nên không có bốn thức trụ, đó là nhân duyên không thành nhân quả của A-la-hán. Với sự nương tựa khác, chẳng phải tương ưng, chẳng phải Bất tương ưng. Pháp sư Cảnh nói với sự nêu bày ban đầu dựa vào năm thủ uẩn chẳng phải tương ưng, vì đã lìa các thủ. Thân sau củA-la-hán dù rằng lìa thân thủ, nhưng vẫn là loại thủ uẩn, nên chẳng phải Bất tương ưng. Với trụ trì thứ ba kia dựa vào danh, chẳng phải tương ưng, vì đã lìa yêu thích bốn cách ăn, nên chẳng phải bất tương ưng. Thân sau củA-la-hán vẫn mượn bốn chi thực nhằm duy trì trụ.

Khổ não thứ sáu dựa vào danh chẳng phải tương ưng, vì không gây ra nghiệp ác, chiêu cảm nhân khổ, vẫn thọ nghiệp đời trước vì gây ra báo khổ.

Với vui vẻ thứ bảy kia dựa vào danh, chẳng phải tương ưng, vì lìa tham tĩnh lự, niềm vui định, mà có niềm vui định thanh tịnh lìa nhiễm, chẳng phải tương ưng.

Thới Pháp sư nói về sau không nối tiếp nhau, là chẳng phải tương ưng, thân này tạm có chẳng phải không tương ưng, nên nói là với sự nương tựa khác chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Địa vô dư y, thể của địa này tức cái mà địa trước đã dứt trừ. Về nghĩa, cứ theo trước nên biết. Thích luận giải thích rằng: – Nghĩa là địa vô dư y Niết-bàn. Tất cả hữu lậu dư y đều xả. Hữu vi, vô lậu của Nhị thừa cũng xả. Đức Như lai dù có hữu vi vô lậu mà không có tất cả hữu lậu dư y, nên cũng nói là địa vô dư y.

Trong văn, đầu tiên, là kết trước, sinh sau, chia ra ba chương. Sau, dựa vào hai chương để giải thích.

Nói một phần của Ngũ Địa tức thuộc về địa này. Trong địa vô tâm gồm thâu chung định vô tâm và Niết-bàn. Nay, chỉ gồm thâu địa vô dư y trong địa do tu thành, cũng lấy Niết-bàn vô dư. Do tu tuệ được, là vì tu quả, nên thuộc về địa do tu mà thành ba thừa đều có cả vô dư, về nghĩa này có thể hiểu. Năm thức tương ưng ngang với mười một địa, đều là có tánh tâm, nên không chung với vô dư. Lại, ở trong đây y theo vô dư của Ba thừa, nói chung, chỉ nói có phần của Ngũ Địa. Nếu y theo Như lai cũng có địa không có tầm, không có từ, ngang đồng với địa khác.

Lại giải thích thức thuận với ý, vì là hữu lậu. Phật địa không nói năm thức, ý địa và địa định, tấn v.v…

Nói: 1/ “Số giáo vắng lặng” nghĩa là số giáo là số v.v… là ngôn giáo, đều thôi dứt trong vô dư y.

2/ Tất cả dựa vào vắng lặng, Pháp sư Cảnh nói lìa tám y trước trong cõi Vô dư, gọi là y vắnglặng. Thới Pháp sư nói “y” là tên khác của thân, lại là tên khác của hữu lậu.

3/ “Y” là dựa vào khổ, vắng lặng. Pháp sư Cảnh nói dựa vào tám y trước mà sinh, nỗi khổ của chúng sinh cũng được tiêu diệt hẳn.

Thới Pháp sư nói thân gọi là “y”. Nỗi khổ nương tựa vào thân, gọi là nương tựa y.

4/ Dựa vào nỗi khổ của thân (y) sinh ra ngờ. Pháp sư Cảnh nói rằng dựa vào tám y sinh khổ lo nghĩ ngờ vực, trong vô dư không có.

Thới Pháp sư nói dựa vào nỗi khổ của y (thân) đồng với trước.

Người học phàm phu và người vô học lo nghĩ nỗi khổ ở vị lai là sinh, không do có tâm thấp kém.

Đẳng tụng, nghĩa là dẫn kinh nói, hai câu trước có thể chứng nhân của hai Niết-bàn. Câu thứ ba là quả của hữu dư. Câu thứ tư là quả của vô dư.

Nói là với tất cả y không tương ưng, chính là chân vô lậu. Pháp sư Cảnh nói theo Nhiếp luận nói về sáu thứ chuyển y. Thời nay đã nói, tức là chuyển viên mãn, chuyển tám y trước, phiền não và nỗi khổ đã làm sáng tỏ chân như, gọi là giới vô lậu.

Dưới đây, nêu hai kinh để chứng minh, như nói Bí-sô vắng lặng hẳn gọi là an trụ niềm vui chân thật, nghĩa là Niết-bàn vô dư, gọi là vắng lặng hẳn, trụ yên vui chân thật. Lại, như nói là thật có vô sinh, cho đến “vô đẳng” sinh khởi, nghĩa là thật có thể của Viên thành thật vô dư.

Thới Pháp sư nói vô đẳng, nghĩa là pháp vô vi không có gì sánh bằng.

“Cũng có” cho đến “có” đều sinh khởi, nghĩa là do nói lại vô dư tập khởi nhân duyên có trụ, sinh có khởi y tha khởi tánh.

Nếu đương lai không có sinh v.v… trở xuống, giải thích trái lại, nếu không có mê vô dư, thì cuối cùng sẽ không nói là có y tha sinh khởi, cho đến ngược dòng có xuất ly hẳn, tức là kinh nói nếu không có Như lai tạng, thì sẽ không được gieo trồng nỗi khổ. Do thật có cho đến có xuất ly hẳn nghĩa là kết thuận, tức là kinh nói từ vô trụ, vốn lập tất cả pháp.

Nói số không thể đếm, vì không có hai thuyết, nên gọi là không có số. Thới Pháp sư nói số không bị đếm, lại vì không có nghĩa phân biệt hai thuyết, nên nói là thuyết. Nói là “có” “chẳng phải có”, không thể nói, nghĩa là chân như vô tướng, tánh ly ngôn không thể nói là có, kể cả chẳng phải có.

Nói tức sắc, lìa sắc vì không thể nói, nghĩa là sắc trở ngại, như không trở ngại, không thể nói “tức”. Vì “tức” sắc nói “như”, nên không nói “lìa”, cho đến “tức” thức, “lìa” thức, nghĩa không thể nói, so với trước nên biết.

Môn khác vắng lặng, nghĩa là nếu dựa vào Tiểu thừa thì có tám tên: gọi là đoạn, không có dục, diệt, đế, đoạn biết, quả Sa-môn, hữu dư Niết-bàn, vô dư Niết-bàn.

Nay, trong Đại thừa phải biết khác với vắng lặng, gọi là vô lượng.

Nay, chỉ nói sơ lược về hai mươi sáu thứ, lời văn rất dễ hiểu.