DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 11

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 44

PHẨM CÚNG DƯỜNG THÂN CẬN VÔ LƯỢNG

Trên đây, bảy phẩm nói về hạnh tự phần lợi mình, lợi người đã xong.

Dưới đây là hai phẩm nói về thắng tấn của công hạnh ấy. Trong đó, trước, là phẩm Cúng dường, nói chung về hạnh lợi mình, lợi người, tùy duyên tạo nên hạnh tu. Sau, phẩm Bồ-đề phần, là nói về hạnh nội chứng kia.

Nay, trong phẩm này nói rộng về cúng dường Tam Bảo, gần gũi bạn lành, tu Bốn Vô lượng, cho nên dùng để nêu danh.

Trong văn, trước hỏi, sau đáp. Trong đáp, trước nêu bài tụng, chia ra ba chương môn. Sau là dựa vào môn để nói, giải thích, tức là ba đoạn:

Đầu tiên, văn giải thích cúng dường chia làm hai: Trước, nói về mười thứ cúng dường. Sau, nói về sáu thứ ý lạc tăng thượng.

Trong phần trước lại có hai: a) Nói về cúng Phật. b) So sánh cúng Pháp, Tăng.

Trong phần trước có ba: a) Hỏi.

  1. Đáp.
  2. Kết.

Trong phần đáp trước, nêu mười môn. Sau, dựa vào môn để phân tích.

Một cặp sơ, nhị trong mười môn, nghĩa là cúng dường thân Phật kể cả Chế-đa. Luận sư Cảnh nói “Thiết-lợi-la, Hán dịch là Thể. Nghĩa là cúng dường Thể của Phật.

Ca-Da, dịch là Thân. Xá-lợi là nếp, lúa. Lại, đệ tử Phật, gọi là Xá-lợi-tử, nên nói là Xá-lợi-phất-đa. Xá-lợi là chim biết nói. Mẹ tên Xá-lợi, vì có đôi mắt giống như con chim kia.

Phất-Đa, dịch là Tử. Nay, vì chữ Xa này khó nói, nên lại nói là Xá-lợi-tử.

Nói Chế-đa, ngài Tam tạng nói “chứa nhóm. Chứa nhóm gạch, đá, cho đến vàng, bạc để làm tháp Phật. Do xây dựng tháp Phật, nên có thể khiến mình, người khác chứa nhóm nghiệp phước, cũng gọi là chứa nhóm, bên trong đôi khi có thờ Xá-lợi, hoặc không có, đều là tháp Phật, đều tên là Chế-đa.”

Tốt-đổ-ba là nghĩa cao, tỏ rõ, cũng tương đương với nghĩa Phù-đồ của Xứ này.

Pháp sư Thái nói “Thiết-Lợi-La, Hán dịch là Thân, nghĩa là gần gũi cúng dường sắc thân Như lai. Xá-lợi là âm sai.

Tốt-đổ-ba, Hán dịch là chỗ cúng dường. Cựu luận nói Phù-đồ là âm sai. Theo bản Phạm gọi là Bột Đà, Chế-đa, Hán dịch là Cao Thắng, là chỗ tốt đẹp.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Thiết-lợi-la là Thể, tức là thể của Đức Phật. Ở đoạn văn dưới đây dù nói là cúng dường Sắc thân Phật, nhưng vì ngụ ý cúng dường Pháp thân Chân Phật, nên nói là Thể.”

Luận sư Trắc nói “Theo pháp phương Tây, phần nhiều là nơi thờ Xá-lợi Phật, gọi là Chế-đa. Hoặc theo Luật-Tăng-kỳ nói rằng “Nơi có Xá-lợi, gọi làtháp, không có Xá-lợi gọi là Chi Đề.”

Kế là, một cặp hai hiện tiền, không hiện tiền. Kế là, một cặp hai tự mình làm, bảo người khác làm, tức thứ bảy, tức bảy thứ trước.

Đối với sự nhiều của, vận dụng tâm rộng lớn, gọi là cúng dường rộng lớn, tức tám thứ ở trước. Tịnh tâm cúng dường, gọi là không có nhiễm.

Chín thứ trên đây, là cúng tài vật, chánh hạnh thứ mười là cúng dường hạnh.

Trong phần dựa vào môn để phân biệt, tức chia làm hai:

  1. Nói về chín thứ cúng dường tài ở trước.
  2. Nói về cúng dường hạnh thứ mười.

Trong phần trước, gồm có:

  1. Nói có chín thứ cúng dường tài, hạnh
  2. “Nếu không có sức” trở xuống, là kế là, nói không có tài, vậndụng tâm để cúng dường.

Trong phần trước, lại có hai:

1) Nói riêng chín thứ 2) Nói chung.

(1) và (2) trong phần trước rất dễ hiểu.

Y cứ giải thích hiện, bất hiện trong phần trước, văn chia làm hai: Trước, nói về cúng dường hiện, không hiện. Sau, nói về cúng dường sẽ được quả khác nhau.

Trong phần trước có ba:

  1. Hiện đối trước Phật và hiện đối với Chế-đa cúng dường.
  2. Chung cho hiện, không hiện.
  3. Không hiện cúng dường.

Nói “Nếu một Pháp tánh Như lai, tức là Pháp tánh Như lai ba đời. Một tánh Chế-đa tức là tất cả Pháp tánh của Chế-đa trong mười phương, nghĩa là lý Chân như đồng với thể của Pháp thân là một.

Thời nay, Bồ-tát đối với một Như lai và một Chế-đa, “duyên” Pháp tánh của Như lai và Chế-đa ấy, Khởi lên ý cúng dường, tức là vận dụng tâm Như lai khắp mười phươngvà Chân như Chế-đa, đều Khởi cúng dường.

Đối với tất cả Như lai, tất cả Chế-đa, không hiện tiền, đối với Phật ba đời và Chế-đa, thi thiết cúng dường, nghĩa là ngay khi vận dụng tâm, không nhìn thấy Phật và Chế-đa, gồm đối với Đức Phật hiện tại của phương khác và với Chế-đa, đều tưởng đến Phật quá khứ, vị lai và Chế-đa, không hiện cúng dường. Dưới đây, sẽ nói về đắc quả.

Đắc quả có hai:

  1. Thành đức Nhân.
  2. Thành đức Quả.

Đức nhân có ba:

  1. Gồm phạm hạnh, phước rộng nhiều công đức.
  2. Nói về xa lìa lỗi, không rơi vào đường ác.
  3. Có công năng thành tựu tư lương Bồ-đề.

Trong văn, đại khái nói về cúng dường không hiện tiền để trở thành đức nhân.

Trong thành tựu đức quả, trước nói về hiện cúng chỉ đối với một vị Phật và một Chế-đa, tâm, cảnh ít, hẹp, chỉ được quả lớn. Kế là, “duyên” Đức Phật không hiện và Chế-đa, tâm, cảnh rộng dần, được quả rộng lớn. Thứ ba, cúng hiện, không hiện ở trước, cảnh khắp, tâm khắp, hạnh được quả trên hết.

Kế là, trong phần nói về tự làm, bảo người khác, làm 1) Nói về ba thứ cúng dường. 2) Nói về được quả không đồng.

Nói “Không dựa vào sự lười biếng, trễ nãi, các chốn buông lung. Cựu luận nói “Không có chữ “Xứ”. Nói là Xứ, nay cho là chỗ thường dựa, nằm và chỗ của lỗi quấy. Không được dựa vào chỗ này mà đặt bày cúng dường.

Trong giải thích về tài cung kính, như Cựu luận nói “tài Vô tận là của hơn.” Nhưng xét trong bản Phạm, không có nói của tài hơn. Nay, nói là tài Vô lượng, nghĩa là đã được định tự tại của vật mà Bồ-tát đã hóa hiện ra là để cúng dường Vô tận.

Ngài Tam tạng nói “Pháp sư Viễn nói Vô tận là nhiều.”

Trong sự rộng lớn. Luận sư Cảnh nói “Đầu tiên, là nhắc lại trước, khởi sau, nghĩa là trên đã bày tỏ tài cung kính cúng dường, để nhắc lại trước. Dưới đây, biện minh về tướng rộng, hoặc nhiều mầu nhiệm, nghĩa là hai thứ này nói về vật rộng. “Hoặc hiện, không hiện, hoặc tự làm, bảo người khác làm, bốn thứ này nói về sự rộng.”

“Hoặc tâm thuần tịnh…” trở xuống, là nói tâm người kia rộng. Dưới đây, nhắm vào lấy bảy thứ cúng dường ở trước, khéo Xa cầu Bồđề để giải thích về nghĩa rộng lớn. Pháp sư Cơ nói “Bảy thứ gọi là trên là nhiều đối tượng cúng dường, tức phụng thí tài Vô tận, là đối tượng cúng dường mầu nhiệm.

Lại tức tài cung kính cúng dường, như đã nêu trên là chung. Nói chung, là nêu như trên, hoặc nhiều thứ cúng dường là thứ nhất, cúng dường mầu nhiệm là thứ hai, cho đến tâm thuần tịnh, mạnh mẽ, nhạy bén, thắng giải là bảy.

Pháp sư Tuệ Viễn nói “Nếu các Bồ-tát ở chỗ Như lai là một, chỗ Chế-đa là hai, cho đến ba thứ tài cúng dường, nhiều mầu nhiệm v.v…; hiện tiền bốn, không hiện tiền năm, tự làm sáu, người khác làm bảy.”

Hoặc tâm thuần tịnh…” trở xuống, là giải thích sự phát tâm trên, về ý nghĩa có trở ngại. Lại ý văn có trái, lấy gì làm bảy, nghĩa là trong đây, nói về sự rộng lớn, là ý ở tâm tài cúng dường, kể cả vật tự mong cầu Bồ-đề, mà lấy Như lai, Chế-đa là không đúng, vì cảnh được cúng dường. Các Pháp sư đều đồng với giải thích này.

Nay, Đại sư dựa vào thứ hai để giải thích “Dùng nhiều tài của là thứ nhất; của mầu nhiệm là thứ hai; cho đến tâm thuần tịnh là thứ bảy.” Luận sư Trắc đồng với giải thích của Pháp sư Viễn .

Cúng dường vô nhiễm có sáu. Luận sư Cảnh nói:

1. Không có tâm khinh dễ, ngạo mạn

2. Không có tâm buông lung, biếng nhác

3. Không khinh thường vất bỏ, tâm không tản mạn, tâm không tạp nhiễm.

4. Không giả dối đặt bày cúng dường.

5. Không được xoa “thư hoàng” vào kinh, tượng, vì nó hôi hám. Không được dùng bơ dầu để tẩm, rưới tượng.

6. Không dùng hương Cuộc-quật-La, vì khi đốt, nó tỏa ra mùi rất hôi, giống như mùi hôi của keo ở trong đây, mùi hôi của hoa Át-Ca v.v…

Nên dùng hoa thơm v.v… làm vật cúng dường. Hoa này to như tay người, màu đỏ thắm như thịt. Đây là hoa phược ca thời Bàn-Lập .

Pháp sư Thái nói “Người phương Tây cúng dường hình tượng Chư thiên, quỷ thần ở miếu, hoặc dùng thư hoàng, đồ tể để rưới, vì đều là vật hôi hám, nên gọi là cúng dường nhiễm ô.”

Bồ-tát không như thế. Cuộc-quật-la, Hán dịch nói là An tất hương; hoa Át Ca là hoa mầu đỏ, đều là loại hoa thơm để cúng dường thần, quỷ, do đó, không nên dùng để cúng dường Phật.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Nói vô nhiễm có sáu, nghĩa là có năm chữ cúng dường là năm, trong chữ cúng dường thứ ba được chia làm hai:

Không khinh thường, vứt bỏ, nghĩa là không ném vật cúng dường, tức là một, không tản mạn, không tạp nhiễm là một, nên có sáu thứ.

Pháp sư tuệ Viễn giải thích hoàn toàn khác ở đây.

Luận sư Trắc nói

  1. Tự tay cúng dường
  2. Lìa khinh khi, ngạo mạn3) Lìa lỗi buông lung v.v…
  3. Lìa khinh miệt v.v…
  4. Lìa dua nịnh, giả dối, tham lam.
  5. Lìa lỗi tài vật nhiễm.

Trên đây, là nói riêng chín thứ cúng dường, dưới đây là nói chung, trong đó,

  1. Nói dùng ba tài của làm chín thứ cúng dường ở trước.
  2. Nói về Bồ-tát tự tại hóa ra sự cúng dường.

Ba thứ tài của là:

  1. Tự lực được.
  2. Từ người khác được.
  3. Được mọi dụng cụ, của báu tự tại.

Trong văn thứ hai, có bốn trường hợp:

  1. Nói về hóa ra nhiều thân để cung kính, lễ bái.
  2. Nói về mỗi hóa thân hóa ra nhiều tay cầm hoa cúng dường.
  3. Nói về tất cả hóa thân đều phát ra âm thanh mầu nhiệm khen ngợi Đức Phật.
  4. Nói về hóa ra các dụng cụ trang sức để cúng dường Như lai.

Dưới đây nói: “Do Bồ-tát này đã được chứng nhập Địa v.v… bất thối chuyển.”

Luận sư Trắc nói “Do đã nhập Đệ bát Địa trở lên, nên thường ở Tịnh độ, thường thấy thân tha thọ dụng của Chư Phật, mà làm việc cúng dường.”

Lại giải thích “Bất thối có hai:

1. Bát Địa trở lên, vì chứng được Vô tướng vô công dụng, nên nhậm vận thường có tiến, không có lùi.

2. Sơ địa trở lên chứng kiến Chân như vô phân biệt v.v… các kiến phiền não và sự xúc chạm các khổ không thể nghiêng động. Nay, ở trong đây, y cứ chung một thứ không lay động.

Trên đây, đã nói rộng về hữu tài cúng dường, dưới đây, là nói không có tài sức, vận tâm “duyên” ba phẩm dụng cụ trong đại thiên giới kia, để cúng dường Như lai.

Trên đây, nói chung là chín cúng dường ở trước đã xong. Dưới là nói về hạnh cúng dường thứ mười:

  1. Chính nói về hạnh.
  2. Trong so lường, chỉ bày hạnh vượt hơn.

Luận sư Cảnh chia làm sáu:

  1. Tu bốn Vô lượng.
  2. Tu bốn pháp.
  3. Tu tập tùy niệm.

Ốt-Đà-Nam, Hán dịch nói là nghĩa sơ lược, nghĩa chung. Tam Bảo và Ba-la-mật, tu tập tùy niệm.

  1. Tín giải ly ngôn Chân như.
  2. Tu ba học.
  3. Tu sáu Độ, Bốn nhiếp.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Nói tu tưởng Vô thường, tưởng khổ, tưởng Vô ngã, đây là ba pháp ấn. Chẳng nói “không”, tức là đồng với Vô ngã, cho nên không nói.”

Lại nói “Tu tưởng thắng lợi về Niết bàn kia, rằng, đây là tụng nói là thường tụng. Già Tha là tụng. Ốt Đà Nam là nhóm (họp). Ở đây nói đối với Niến-bàn kia, tu tưởng thắng lợi là thường tụng.” Luận sư Trắc nói

  1. Nói về Đạo Tư lương.
  2. “Ít thời gian…” trở xuống, là nói về Đạo phương tiện.
  3. “Pháp tánh ly ngôn…” trở xuống, là nói về Kiến đạo.
  4. “Huống chi…” trở xuống, là nói về Tu đạo.

Trong phần trước, nói về bốn Vô lượng. Kế là, nói về pháp ấn. Sau, nói về bốn Niệm, là Phật, Pháp, Tăng, Ba-la-mật-đa.

“Như thế, Bồ-tát ở chỗ Tam bảo…” trở xuống, là thứ hai, nói lúc Khởi sự cúng dường, phát khởi sáu thứ ý lạc tăng thượng.

Hoa mầu nhiệm Ổ-Đàm, trong đây không có danh từ để dịch. Phương Tây nói là Đại hữu. Cây này không có hoa, chỉ ở trong lá có hạt mà mọc lên. Khi Luân Vương xuất hiện, nó mới trổ hoa. Như hoa sen xanh có hoa không có hạt chính là trái với cây Ổ-Đàm-Bát có hạt, không có hoa.

Dưới đây là thứ hai, giải thích về sự gần gũi bạn lành. Trước, là bảy câu hỏi, trong đó, bốn câu hỏi trước hỏi về thể, tướng của bạn lành; ba câu hỏi sau, hỏi về việc cầu pháp.

Trong phần trước, câu hỏi đầu, thành tựu bao nhiêu tính chất tốt mới được làm bạn lành?

Câu hỏi hai: Có bao nhiêu đức tương ưng mới được làm bạn lành giáo hóa không giả dối?

Câu hỏi ba: Thành tựu bao nhiêu tướng, để cho người khác nghe từ xa, rất sinh niềm tin thanh tịnh?

Câu hỏi bốn: Do bao nhiêu thứ tướng đối với đối tượng đã giáo hóa, sinh ra việc bạn lành?

Văn ba câu hỏi sau rất dễ hiểu.

Dưới đây, dựa vào bảy câu hỏi, theo thứ lớp giải thích:

“Nói oai nghi v.v… mầu nhiệm vượt hơn. Luận sư Trắc nói “Trong câu hỏi đầu có bốn trường hợp:

Trường hợp đầu, tập lâu, nay thành.

Trường hợp thứ hai, quần áo được xem xét rất kỹ càng.

Trường hợp thứ ba, ba ngàn oai nghi đều đủ.

Trường hợp thứ tư: Toàn thân tề chỉnh, nhìn thấy nghiễm nhiên.

Nói “Bốn câu đối với bạn lành, hoặc chính thức y chỉ ở nghĩa đúng như pháp, hoặc hợp, hoặc ly tùy tự tại chuyển v.v… Pháp sư Cơ nói “đã nương tựa sư nói pháp, nếu đồng với Cựu luận thì gọi là hợp, nếu khác nhau, gọi là ly. Hoặc nương tựa kinh, luận v.v… gọi là hợp, nếu phát ra riêng kiến thì sẽ không dựa vào kinh v.v… gọi là ly, đều kiến như pháp, tùy theo Sư tự tại mà không nghiêng động.”

Lại, tự tánh, gọi là hợp; Sai khác, gọi là Ly. Lại, hợp là làm cho nghĩa này phù hợp nhau, như hợp v.v… trong Nhân minh. Nếu ly, thì sẽ khiến nghĩa này riêng, như ly trong Nhân minh v.v… :

1. Khởi tưởng quý báu, vì nghĩa khó được, nghĩa là giáo pháp khó được.

2. Khởi tưởng mắt, nghĩa là do pháp mở mang, dẫn đường, nhân tuệ rộng lớn, như mắt dẫn đường, có thể có sở đắc. Cũng có thể giáo pháp mở mang, dẫn dường có thể sinh Tuệ nhãn, vì nhờ mắt, nên gọi là khởi tưởng mắt, do đó được tên quả.

3. Có ý tưởng sáng suốt. Đã được Câu sinh Tuệ nhãn rộng lớn. Nghĩa là nhắc lại nghĩa ở trước.

Vì nghĩa soi rọi khắp tất cả sở tri v.v… Nghĩa là do giáo pháp soi rọi, sinh ra tuệ v.v… gọi là sáng suốt. Do đó được gọi là quả, nói giáo pháp là sáng suốt.

Trong văn giải thích tu bốn Vô lượng, được chia làm ba:

  1. Y cứ ở ba duyên, tu bốn Vô lượng.
  2. Đối với một trăm mười khổ, nói riêng về Tu tuệ.
  3. Kết khen tướng thắng lợi.

Trong phần trước lại có ba:

  1. Nêu số, nêu danh.
  2. Giải thích.
  3. Phân biệt môn nghĩa.

Trong phần trước, gọi giải thích ở trước là Thể.

Về Thể. Luận sư Cảnh nói “bốn Vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả. Nếu chúng sinh “duyên”, nghĩa là theo thuyết Tiểu thừa nói, chỉ quán giả tưởng. Từ bi, dùng Vô nhuế làm thể. Hỷ là hỷ căn, xả là Vô tham. Theo giải thích của Đại thừa thì có chung giả, thật. Nếu Bồ-tát mới học vì điều phục tâm mình, nên tu tập giả tưởng, phát ra Thể như trước. Nếu học lâu, thì sẽ tự tại cho vui, cứu khổ, có thể có ích thật, tức sử dụng trí tuệ làm Thể.

Pháp “duyên” vô lượng, tức dùng trí quán Nhân không của Chư Phật, Bồ-tát để làm Thể. Chỉ quán nhân duyên của năm uẩn là giả có, rốt ráo không có “nhân”. Do trí quán này, nói bày hữu tình giúp cho họ đồng được, gọi là pháp “duyên” Bốn vô lượng tâm. Vì thế, nên Kinh Duy-ma nói “Quán chúng sinh là thế nào? Đáp “Như mầm (mộng) lúa bị cháy sém, như thân Kiến của Tu-đà-hoàn, như thai người của A-nahàm, như ba độc của A-la-hán, như tham, nhuế, hủy hoại giới cấm của

Bồ-tát đắc nhẫn.”

“Nếu vậy, thì sao gọi là Từ?”

Đáp “Được pháp này xong, vì chúng sinh nói, là Từ chân thật.”

Vô duyên Bốn vô lượng, tức là trí Vô phân biệt , xa lìa tất cả phân biệt hí luận. Do được trí này, thấy lý bình đẳng, sự nghiệp lợi tha được thành tựu. Cho nên, lúc bấy giờ gọi là chứng Địa của con một rất đáng yêu. Vì thế, Vô duyên Từ lấy trí vô phân biệt làm Thể tánh. Kinh Niếtbàn cũng nói rằng “Vô duyên, nghĩa là duyên theo Pháp thân Vô duyên của Như lai. Như lai vì lìa phân biệt, nên gọi là Vô duyên.”

Hỏi “Chứng trí, duyên lý đã không có phân biệt, không có tướng lợi vật, sao gọi là Từ?”

Đáp “Như Bồ-tát vì muốn đem lợi ích cho hữu tình, nên cần châu báu như ý. Khi được ngọc báu này rồi, dù không có phân biệt, vẫn có thể tùy theo năng lực phước của chúng sinh mà trên, dưới khởi mây mưa báu, nhằm thành tựu công việc lợi ích. Ở đây cũng thế, Bồ-tát vốn vì sự nghiệp lợi tha, nên đã tu tập trí này. Khi được trí này rồi, dù không có phân biệt, nhưng tùy phước lực của chúng sinh, trên dưới, khởi mây Hậu trí, cho pháp, cho của, mưa các thứ châu báu, tất cả đều hoàn thành, dù không có phân biệt mà là Đại từ.”

Nếu vậy, tại sao trong luận đều xếp trí này, vào gọi là lợi mình?”

Đáp “Vì hai trí khác nhau, nên nói lên thuyết này. Nay, y cứ ở sự nghiệp lợi tha của Hậu trí sở dĩ được thành tựu, đều do Trí Vô phân biệt này, nên nói chứng trí là Thể của Chân từ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Căn lành Vô si của Từ là tánh, căn lành Vô sân của Bi là tánh, căn lành Vô tham của Hỷ là tánh. Xả như số Xả. Nếu theo Tiểu thừa, thì vì dứt trừ “hoặc” trái với tướng trên, nên mượn để nói về quán, mà nay, Đại thừa vì dùng ba cảnh sở duyên, nên thật sự Khởi Vô lượng để cứu giúp chúng sinh.”

Giải thích về danh hiệu của bốn Vô lượng. Vì thương yêu rất mực, gọi là Từ, thương xót, gọi là Bi. Yêu vật, gọi là Hỷ, quên nhớ, gọi là Xả, đều từ nghĩa được danh. Đây là y cứ trong duyên chúng sinh mà giải thích danh.

“Nếu vậy, “duyên” pháp Vô duyên Từ, Bi, Hỷ, Xả làm sao được tên?”

“Duyên” pháp Vô lượng là Trí “Nhân không” còn Vô duyên Vô lượng là trí chứng kia, lúc hai trí khởi, thật sự không có bốn hạnh khác nhau yêu thương, thương xót v.v… Do trí này, nên có thể Khởi hạnh giải của tướng riêng: Từ, Bi, Hỷ, Xả trong duyên hữu tình. Vì từ quả mà được tên. Cho nên, cũng đặt bốn thứ tên .”

Trong giải thích có hai:

  1. Nêu cảnh của BốnVô lượng.
  2. Đối cảnh để nói về tu.

Đầu tiên, nói rằng “Nếu các Bồ-tát đối với tất cả hữu tình đều được an lập ở ba Nhóm kia, cho là không có khổ, không có vui v.v… :

1. Nhóm tà định, nghĩa là gây ra năm tội nghịch, nhất định đọa Địa ngục.

2. Nhóm chánh định, được Nhẫn xong, bỏ định, được Niết-bàn.

3. Nhóm bất định, ngoại trừ hai nhóm trước còn lại là chúng sinh, Đại, Tiểu thừa đều chấp nhận nghĩa này.

Nay, Du-già y cứ ở chúng sinh mang tánh cố định của Ba thừa, gọi là Chánh định. Người không có tánh của Ba thừa, gọi là tà định. Người có tánh bất định của Ba thừa, gọi là Bất tịnh.

Bồ-tát mới học, đến với ba nhóm này, giả tưởng an lập cho là ba thứ:

1/ Không có khổ, không có vui, tức cảnh của Từ. Từ là cho vui, Từ không “duyên” khổ. Vì “duyên” khổ là Bi. Cảnh của Từ không có khổ. Vì người không có niềm vui, nên cho họ niềm vui, không có khổ cho là cảnh Từ. Có khổ là cảnh Bi. Có vui là cảnh Hỷ. Hỷ vì người kia vui, thì ba cảnh trước, nói chung là cảnh Xả.”

Luận sư Trắc nói “Nếu phân biệt thô sơ, thì bốn Thiền trở lên, gọi là không có khổ, không có vui. Ba đường ác, gọi là có khổ. Ba Thiền trở xuống, là cho đến người, trời cõi Dục, gọi là có vui.

Phân biệt lớn, nhỏ, ở cõi Vô sắc có đủ ba thứ, nên Luận Trí Độ nói “Nghĩa Ma-ha-diễn nói là bốn Vô lượng “duyên” chung cho ba cõi, có cả hữu Lậu, Vô lậu.”

Trong đối cảnh, nói về tu, đầu tiên, đối với Cảnh ban đầu, tu ba thứ Từ.

2/ “Như hữu tình “duyên”…” trở xuống, là so sánh nói đối với ba cảnh, tu ba Vô lượng.

Trong phần trước, dù không có nêu lên cảnh không có khổ, vui, như cảnh có khổ v.v… mà nói là cho vui, tức đã giải thích xong.

An trụ không có trái ngược. Luận sư Trắc nói “Chỉ giả lập hữu tình ở trong uẩn, không có ngã chân thật, nên gọi là hữu tình v.v… không có trái ngược.

Thứ hai, là nói so sánh, nói là xa lìa “hoặc” si, sân, tham. Luận sư Cảnh thuật lại hai giải thích:

1. “Xả chúng sinh, đối tượng duyên không có khổ, vui, phần nhiều sinh ra si. Do Xả Vô lượng, khiến người kia bỏ si. Hữu tình có khổ, thường sinh ra sân. Do sức Xả, nên làm cho chúng bỏ sân. Hữu tình có niềm vui, phần nhiều sinh ra tham. Do sức Xả, nên giúp họ bỏ tham, cho nên nói “như thứ lớp kia, lìa si, sân, tham, tu Xả, đều có tâm.”

2. “Tất cả hữu tình, hoặc có một phần ở thân Bồ-tát, không sinh khổ, vui. Người như thế, phần nhiều sinh ra tâm si của Bồ-tát. Hoặc có một phần ở thân Bồ-tát là oán, sinh khổ, hay sinh ra tâm sân của Bồtát.

Thời nay, tu Xả, đối với hữu tình sinh ra khổ, không khởi tâm sân, một phần là sinh gần niềm vui của Bồ-tát. Đối với họ, Bồ-tát lẽ ra khởi tâm tham. Thời nay, tu Xả, không Khởi tâm tham, nên nói rằng “theo thứ lớp lìa tham.”

Cách giải thích của Pháp sư Cơ cũng đồng với lối giải thích đó.

Lại nói “Lại, khiến chúng sinh lìa “hoặc”, tiến đến quả vị Thánh mà buông bỏ, gọi là Xả. Lại, vì oán, thân đều bình đẳng, nên gọi là Xả. Ở đây, cụng y cứ khiến chúng sinh lìa ba “hoặc”, ba hiện lạc ở trước chẳng có lợi ích. Xả một, khiến lìa ba “hoặc”, đương lai, sẽ thoát khỏi khổ, mới gọi là lợi ích.

3. Dưới đây là thứ ba, phân biệt về môn nghĩa:

4. Nói về ba duyên có chung chung, không chung. Duyên hữu tình, chung với ngoại đạo. Về đạo lý, cũng chung với Nhị thừa. “Duyên” pháp chung với hàng Nhị thừa, nghĩa là Nhị thừa cũng quán chỉ pháp không có Nhân. “Duyên” pháp này không chung với ngoại đạo, vì các ngoại đạo đều có “ngã chấp”, nên không có “duyên” pháp. “Vô duyên” chỉ Đại thừa mới có.

5. Y cứ ở việc lợi lạc để phân biệt. Luận sư Cảnh nói “Ba Vô lượng trước chỉ gọi là ý yên vui, vì cho ích hiện tại và thế gian. Xả, gọi là ý lợi ích, vì cho đời sau và ích xuất thế.”

Pháp sư Thái nói “Ba Vô lượng trước chính thức có thể cứu khổ, cho vui, gọi là ý an vui, thuộc về lạc. Xả Vô lượng, trừ bỏ trái, thuận, bình đẳng, lợi vật, gọi là ý lợi ích, thuộc về lạc.

6. Nói về tên khác. Dưới đây là thứ hai, đối với mười khổ, nói riêng về ba Tu Bi, trong đó có ba:

a) Nói về đối khổ tu bi. b) Nhân giải thích về nghĩa Đại bi. c) Kết, khen thắng lợi của tu bi.Trong phần trước lại có ba:

  1. Nói chung đối với khổ, tu Bi.
  2. Hỏi đáp, biện minh rộng về một trăm mười khổ.
  3. Giải thích xong, tổng kết.

Y cứ trong phần nói về một trăm mười khổ, gồm có: a) Y cứ ở năm mươi lăm khổ trong môn tăng một. b) Y cứ riêng phần nói về năm mươi lăm khổ trong môn chín khổ.

Hai lượt như thế, như Giới kinh nói “Năm mươi lăm thứ trước, quán khổ của chúng sinh, năm mươi lăm thứ sau, tự quán nỗi khổ của mình.

Trong phần trước nói rằng “Nỗi khổ trôi lăn không có khác nhau, tức là khổ đế.”

Lại, có hai khổ v.v… Pháp sư Thái nói “Nói dục là nỗi khổ căn bản. Vì nhân dục, nên tham lam chấp mắc việc đáng yêu trong, ngoài. Những việc đáng yêu nếu đến khi đổi thay, hư hoại, thì sinh ra các khổ.”

Nói Dị thục si, nghĩa là đo thọ báo si, vì không có tuệ biết, nên, nếu bị Thể khỗ mạnh mẽ, nhạy bén tăng thượng. Khi bị xúc chạm, tức thì ở nơi thân mình chấp ngã, ngã sở một cách ngu si, mê muội, thật là tự oán trách lắm thay!

Vì thân, tâm đã bị mũi tên khổ bắn vào, nên không thể tự giải tỏa một cách sáng suốt. Nếu là người trí tuệ sáng suốt dù xúc chạm khổ đau, vẫn tự mình cởi mở, không có hai mũi tên.

Luận sư Cảnh nói “Thông thường, thọ khổ xúc chạm, chấp ngã, oán trách, thở than, tất nhiên, ở lức tuổi hai mươi trở đi, nên nói là thể mạnh mẽ, nhạy bén, tiếp nhận đối tượng xúc chạm, chấp ngã, ngạ sở v.v… Hiện đã chịu khổ, chính là do nghiệp trước đã cảm. Đến nay gặp phải khổ báo này, không biết nó đã xuất phát từ đâu? Nên gọi là Dị thục sinh ra khổ.

Duyên hiện tại sinh ra khổ, tức là dục trước là nỗi khổ căn bản, chỉ vì nghĩa khác nên có.

Trong thêm chín, Luận sư Cảnh nói “Pháp hư hoại, pháp hết, đây là y cứ ở nương tựa bên ngoài, dựa vào quả hư hoại, dứt hết, cho nên sinh khổ.”

Pháp sư Thái nói “Nỗi khổ khi pháp hư hoại, tan rã. Lúc có thể tan rã, sinh khổ.”

Nỗi khổ khi tận của pháp cùng tận, nghĩa là pháp có thể cùng tận, nếu đến khi hết, bèn sinh khổ lớn, ở trước chỉ hư hoại, không cùng tận.

Trong tám pháp, không nói khổ, chỉ nói ba thứ lợi v.v… tức nỗi khổ đã nói trong đây, nên không nói khổ, nghĩa là như phẩm Tự lợi, tha lợi ở trước đã nói:

1. Nhân vui, nay, trái lại nói là nhân khổ, cái gọi là nghiệp ác trái lại nghiệp thiện. Căn, cảnh thuận với khổ thọ xúc, trái với thuận Lạc thọ, nhân khổ.

2. Lạc thọ, nay trái lại nói là khổ thọ, tức thọ khổ.

3. Lạc đối trị khổ, nghĩa là đói được ăn v.v… Nay, trái lại khổ không được.

4. Thọ đoạn lạc, nghĩa là nhập Diệt định. Nay, trái lại là vì ở giai vị Hữu tâm, nên khổ.

5. Niềm vui xuất ly, tức vui xuất gia. Cho nên, dưới đây nói “Gia, tức nỗi khổ của tại gia.” Xa lìa, tức được Sơ định của cõi Sắc, xa lìa kiết cõi Dục. Nay, vì không được Sơ định cõi Sắc, nên có khổ của kiết cõi Dục.

Vắng lặng, tức định thứ hai lìa vui Tầm của Sơ Thiền. Nay, vì không lìa Sơ thiền, nên có khổ của Tầm.

Niềm vui Bồ-đề, tức ba Bồ-đề. Nay, vì ở địa vị phàm phu, Tầm là pháp của cõi Dục, như thứ lớp phối hợp.

Ba khổ trước trong năm khổ là khổ khổ, Kế là khổ Hoại, sau là Hành khổ.

“Lại, các Bồ-tát…” trở xuống, là thứ hai, nhân giải thích Đại Bi, trong đó có hai:

1. Nói về đối tượng duyên (sở duyên) của Đại Bi.

2. Giải thích nghĩa Đại. Cựu luận chia “nỗi khổ ép ngặt do tự mình tạo ra” trong Tân luận quyển sáu ra làm hai, nghĩa là khổ tự tạo ra và nỗi khổ bức não.” Lại có một nỗi khổ, đó là nỗi khổ do người khác tạo nên, ít hơn tất cả khổ trôi lăn thứ mười bốn và nỗi khổ theo đuổi thứ mười bảy, nên chỉ mười tám.

Nay, tám thứ trước trong mười chín đến trong năm mươi lăm nỗi khổ trước, mười một nỗi khổ sau đến trong năm mươi lăm khổ sau.

Hỏi “Vì sao chỉ ngấn ấy nỗi Khỗ đến, còn khổ khác không đến?”

Nghĩa là “Vì lấy tăng thượng trong mỗi môn, nghĩa là “đến” để làm cảnh của Đại Bi, cái gọi là nỗi khổ ngu si, tức khổ ngu si trong hai môn trước. Nỗi khổ rốt ráo, tức khổ hành trong ba môn trước. Nhân khổ tức nhân khổ trong sáu môn trước. Sinh khổ, tức sinh khổ trong bảy môn.

Nỗi khổ bức não do tự tạo, nghĩa là nỗi khổ tự ép ngặt trong tám môn trước. Nỗi khổ hao hụt, suy đồi của giới, tức nỗi Khỗ hao hụt, suy  đồi của giới trong chín môn trước.

Nỗi khổ của nhân đời trước, là năm mươi lăm khổ sau. Nhân đời trước trong hai môn trong đã sinh ra khổ.

Nỗi khổ rộng lớn, tức là tên chung trong bốn môn. Nỗi khổ Na Lạc Ca, tức khổ Na Lạc Ca trong bốn môn. Nỗi khổ thuộc về đường lành, lại là nỗi khổ đường lành trong bốn môn. Tất cả nỗi khổ do tà hạnh sinh ra, tức là tên khổ chung trong năm môn.

Tất cả nỗi khổ trôi lăn, tức là tên khổ chung trong sáu môn. Nỗi khổ không có trí, nghĩa là nỗi khổ của hiện hạnh không có trí trong bảy môn. khổ tăng trưởng, nghĩa là phiền não tham v.v… của các người xuất gia trong tám môn Tăng ích sinh khổ. Nỗi khổ theo đuổi tức tên khổ thứ tám trong chín môn. Thọ khổ tức khổ thọ trong mười môn. Nỗi khổ thô nặng của phiền não ba cõi trong mười môn.

Trong Hiển Dương, giải thích rộng năm mươi nỗi khổ khác. Nhưng hơi khác với luận này.

Kế là, giải thích về nghĩa Đại, do bốn duyên, nên Bi, gọi là Đại Bi v.v… nghĩa là nếu Bi ở Bốn Vô lượng, gọi là Bi, không gọi là Đại Bi, còn chung với Thanh văn, Bồ-tát sơ địa trở lên cũng có. Nếu Bi gọi là Đại Bi, chỉ ở Phật địa và Địa thứ mười.

Hỏi “Vì sao Sơ địa đến cửu Địa không gọi là Đại Bi?”

Nghĩa là “Do bốn duyên mới được gọi là Đại Bi. Cửu Địa trở xuống, dù Bồ-tát có “duyên” khổ hạnh rất sâu và hai nhân duyên tác ý mạnh mẽ, nhạy bén, nhưng vì không có tập trong thời gian dài và nhân duyên rất thanh tịnh. Do ba duyên tập v.v… trong thời gian dài, nên rất thanh tịnh, chủ yếu là Địa thứ mười v.v… Vì thế, nên Bồ-tát cửu Địa trở xuống không gọi là Đại Bi.”

Dưới đây trở là kết khen thắng lợi. Trong đó, 1/ Trước là khen ngợi. 2/ Nói về sự thắng lợi. 3/ Dẫn thuyết về chứng thành. Thắng lợi có hai:

  1. Nói về thắng lợi tu Bi của Địa tiền.
  2. Nói về thắng lợi tu Bi của Địa thượng.

Địa tiền có hai:

1. Nói về Địa tiền do tu Bi, nên nhanh chóng nhập Địa, được sáu thứ tâm.

2. Vượt qua tâm nhàm lìa Vô học Kiến đạo của Tiểu thừa.

Tâm hạnh trước của Bi, nghĩa là Địa tiền tu Bi, chính là tâm hạnh trước của Bi Sơ địa, chính thức quán hữu tình đọa ở một trăm thứ mười thứ uẩn khổ cực đại.

Dưới đây là dẫn thuyết để chứng thành: Hoàn toàn khác với Cựu luận. Luận ấy nói “Nếu có người hỏi “Ai được gọi là Bồ-tát?”, thì nên chính thức đáp “Là người trụ Đại Bi.”

Trên đây, giải thích tu bốn Vô lượng. Đoạn văn lớn có ba. Hai đoạn trước ở giữa đã giải thích xong.

Dưới đây là tổng kết khen tướng thắng lợi của bốn đẳng:

  1. Tổng kết khen
  2. Nói được bốn thắng lợi

Bốn thắng lợi đó là:

  1. Được trụ hiện pháp lạc
  2. Được tư lương của phước
  3. Ý lạc vững chắc đối với Bồ-đề.
  4. Là khổ sinh nhẫn.

PHẨM BỒ ĐỀ PHẦN

Trên đây, phẩm Cúng Dường trước trong hạnh Thắng tấn, nói về thuyết tùy duyên xây dựng tu hành.

Ở đây, đã nói phần Bồ-đề phần, tức là hạnh nội tại. Như bài tụng đã nêu mười lăm pháp đều hướng đến Bồ-đề, gọi là chung là pháp Bồđề.

Phần cũng có thể thứ chín trong mười lăm pháp, nói thú hướng về Bồ-đề. Gọi chung là phần pháp Bồ-đề, cũng có thể thứ chín trong mười lăm pháp là nói về Bồ-đề phần. Từ đây, nêu tên Phẩm là phẩm Bồ-đề Phần.

Trong văn, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, đầu tiên, có hai bài tụng nêu mười lăm môn. Sau là giải thích riêng theo thứ lớp trong văn xuôi.

Trong hai bài tụng, bài tụng đầu, nêu chín, bài tụng sau, nêu sáu.

Nếu theo kinh, luận Thập Địa nói chung cho thực hành pháp Bồ-đề phần có mười thứ:

  1. Tín.
  2. Xả.
  3. Từ.
  4. Bi.
  5. Tàm.
  6. Quý.
  7. Sức giữ vững.
  8. Không có nhàm chán.
  9. Luận trí mười đời.

Sáu pháp như Tàm v.v… của Kinh Thập Địa kia, đồng với chỗ này. Bốn pháp như Tín v.v… lược qua không nói. Vì sao? Luận sư Trắc giải thích “Phẩm chủng tánh ở trước nói tám thứ. Trong phẩm Thí, giới, nói rộng về Xả v.v… Trong phẩm Cúng Dường, nói rộng về Từ, Bi, cho nên chỗ này không nói.”

Trong phần giải thích riêng của Văn xuôi, tức là mười lăm đoạn:

Đầu tiên, giải thích về tàm, quý. Rằng, đối với mình mà sinh ác tác hữu y, theo đuổi không Xả mà cảm thấy hổ thẹn. Luận sư Cảnh nói “Ác tác là ăn năn. Vì ăn năn rồi làm trở lại, nên gọi là Hữu y tùy trục.”

Pháp sư Thái nói “Vì ăn năn chỗ đã nương tựa, nhưng không thể bỏ, dựa vào sự ăn năn chỗ nương tựa này mà sinh hổ thẹn. Phải biết gọi là Y Xứ thứ tư.”

Pháp sư Khuy Cơ nói , “do làm ác thứ ba đã ăn năn, ăn năn rồi, lại làm nữa. Vì làm sau dựa vào làm trước, nên gọi là “hữu y”.”

Luận sư Trắc nói “Đối với mình đã làm điều thiện, ác vì nghi ngờ Khởi lên mà cảm thấy hổ, thẹn. Ác tác là ăn năn; “hữu y” là nghi. Cho nên, Cựu luận nói “Nếu là nghi ngờ ăn năn, tự có thể trừ diệt, tiếp tục khởi hổ thẹn, gọi là Y xứ thứ tư.”

Kế là, giải thích về sức tánh giữ vững. Luận sư Cảnh nói “Nói cấm được tâm nhiễm, tức lấy Niệm, Tuệ làm tánh.”

Kham nhẫn tánh khổ, nghĩa là an nhẫn là Trí. Đối với nhiều sự sợ hãi mạnh mẽ, nhạy bén, không có tánh nghiêng động, nghĩa là khó phá hoại tánh tinh tấn , cho đến hay chính đáng tư duy lựa chọn, lại là Trí. Tìm văn, lượm lặt, tức dùng Niệm, Tuệ, tinh tấn làm tánh của sức giữ vững.

Luận sư Trắc nói “Tánh dũng cảm tương ưng dưới đây phát ra Thể của trì. Nói tánh dũng cảm, nghĩa là tinh tấn. Nói tương ưng, nghĩa là định này. Chủ thể tư duy, lựa chọn, là Tuệ. Cho nên, trong luận Trang Nghiêm, hỏi thế, tướng của Vô úy thế nào? “Kệ rằng “Ba tấn, định, tuệ Khởi.”

Tâm không nhàm chán, mệt mỏi. Luận sư Cảnh nói “Tức dùng ba pháp Tinh tấn, Tuệ, Bi làm Thể.”

Trong năm nhân duyên, 1/ Tự tánh có sức mạnh. 2) Thường tu tập. Do hai nhân duyên này, nên không có nhàm chán, mỏi mệt. Ba pháp dưới đây phát ra Thể. Thứ ba, Tinh tấn; thứ tư, là Tuệ mầu nhiệm; thứ năm, là tâm Bi. Nên biết, ba pháp là Thể.

Luận sư Trắc nói “Cựu luận chép: không nghiêng động.” Nay, ở đây nói là tâm không có nhàm chán, mỏi mệt. Nếu theo luận Trang Nghiêm thì gọi là không lui sụt.

Chia ra bốn môn: 1) Phẩm loại có ba:

  1. Nghe pháp không nhàm chán, không lui sụt.
  2. thường đại tinh tấn, không lui sụt.
  3. Đối với khổ sinh tử, thường không lui sụt.

2) Y chỉ có hai:

a) Tàm, b) Dũng.

Người có hổ thẹn, không lui sụt, lui sụt thì chẳng phải mạnh mẽ.

3) Tự tánh. Nghĩa là ưa thích Đại Bồ-đề. Nếu quay lại sự muốn ưa, tức lui sụt.

4) Sai khác, có ba:

a) Chưa thành, nghĩa là ở Địa Tín, Hạnh, Bồ-tát không lui sụt.

b) Thành, nghĩa là Sơ địa, cho đến Thất Địa, Bồ-tát không lui sụt.

c) Cực thành không lui sụt, nghĩa là bát Địa trở lên, Bồ-tát không lui sụt. Nên biết lấy muốn ưa thường xuyên làm Thể của không nhàm chán, mệt mỏi.

Khéo biết nói. Luận sư Cảnh nói “Phần này có bốn:

1)Văn tuệ.

  1. “Đối với…” trở xuống, là kế là, luận về Tư tuệ.
  2. “Như thế, biết pháp, biết nghĩa…” trở xuống, là vì ôn lại, nên không quên, tức dùng niệm với tinh tấn làm thể.

) “Lại, vì biết rõ…” trở xuống, là biết cái mới, cũng chung cho văn, tư. Luận sư Trắc nói “Nếu theo luận Trang Nghiêm thì gọi là biết pháp.

Chia ra sáu môn:

  1. Biết pháp, nghĩa là biết luận Ngũ minh
  2. Biết pháp nghiệp, nghĩa là biết lợi mình, lợi người, lấy đây làm nghiệp.

Biết Nội luận, nghĩa là tự tu và nói cho người khác nghe. Biết nhân luận, nghĩa là vì bày tỏ nghĩa của mình và khuất phục nghĩa của người. Biết Thinh luận, nghĩa là vì âm tốt lành, nên khiến người tin, nhận. Biết y luận, nghĩa là vì chữa bệnh cho người. Biết Xảo luận, nghĩa là vì giúp cho người hiểu.

  1. Biết tướng Luận, nghĩa là biết năm luận này có được năm nhân, là Bồ-tát biết tướng của luận:
  2. Nghe được.
  3. Giữ gìn được.
  4. Tụng được.
  5. Tư duy được.
  6. Thông suốt được.

Trước khi nói, Bồ-tát có nghe, nghe xong, thọ trì; trì rồi tập tụng, tụng rồi dừng lại tư duy, tư duy rồi, thông suốt. Thông suốt, nghĩa là biết là công năng, biết lỗi lầm ấy. Đây là lời nói thiện, đây là lời nói ác.

1) Tướng Vô tận. Nghĩa là như trí này, cho đến phiền não vô dư cũng không cùng tận.

  1. Đắc quả. Nghĩa là tự biết chứng được trí Nhất thiết chủng .
  2. Hai môn:
  3. Môn Tam muội.
  4. Biết Đà-la-ni.

Biết luận, Bồ-tát dùng môn tam-muội, để thành thục chúng sinh, tùy hóa độ dẫn dắt. Dùng môn Đà-la-ni để thành thục pháp Phật, tùy theo pháp đã được, đều có thể giữ gìn.

Nay, trong Văn này có ba:

1. Nói Văn tuệ, tức thích hợp với ba tướng: Nghe, trì, tụng trong phần biết tướng của Luận Trang Nghiêm.

2. “Tức đối với như thế…” trở xuống, là nói về Tư tuệ, thích hợp với tư duy tướng đắc của Luận Trang Nghiêm.

“Lại, vì biết rõ…” trở xuống, là nói về Tu tuệ, tức thích hợp với thông suốt tướng đắc của Luận Trang Nghiêm, trong đó có hai:

  1. Nói về Tu tuệ hữu lậu.
  2. “Ở đây” trở xuống, là nói Tu tuệ Vô lậu, khả năng biết Thể, tức số Tuệ.

3. Khéo biết trong thế gian, đầu tiên là hỏi, kế là, giải thích, sau là kết.

Trong giải thích, trước là biết thế gian. Sau, là thuận theo thế gian. Luận Trang Nghiêm nói “Bồ-tát có ba thứ biết thế gian:

a) Thân biết thế gian, nghĩa là dung nhan sáng rỡ, hớn hở, cười vui tươi.

b) Miệng biết, nghĩa là trước hết, ngỏ lời hỏi thăm, an ủi, khen tốt đẹp.

c) Đế biết, nghĩa là: 1) Biết thế sinh, đây là biết khổ, Tập. 2) Biết thế diệt, tức đây là biết Diệt đạo, nói rộng như trong Luận Trang Nghiêm.

Y cứ trong phần đầu tiên biết thế gian có năm:

  1. Biết chúng sinh thế gian.
  2. Biết Khí thế gian.
  3. Thực hành tám quán.
  4. Thực hành thắng nghĩa quán Nhân vô ngã.
  5. Nhắc lại để kết.

Trong phần trước có hai:

1. Biết thế gian không biết rõ như thật về nhàm chán sinh, tử, trên đến xuất ly. Pháp sư Thái nói “Đạo Vô lậu, có công năng dứt sinh tử, gọi là trên đến, xuất ly, mà các hữu tình đối với đạo xuất ly, không biết rõ như thật. Luận sư Trắc nói “Người, trời, phàm phu ra khỏi ba đường, gọi là trên đến; ba Thừa, Bồ-tát giải thoát ba cõi, gọi là xuất ly.

2. Biết thế gian vẩn đục, tăng, giảm. Thể tánh (tánh chất) của năm vẩn đục (năm trược):

– Tuổi thọ trược, người Đại thức lấy thức A-lại-da giữ gìn mãi không chết để giả lập ra Mạng căn, tức dùng mạng căn này làm Thể của tuổi thọ vẩn đục.

– Hữu tình trược trong giải thích ở dưới nói “Không biết cha, mẹ, Sa-môn hoặc Bà-la-môn, không nhận thức gia trưởng, lấy sự kiêu căng, ngạo mạn làm thể. Không sợ tội đời này, lấy vô minh làm thể. Không tu thiện v.v… lấy sự lười biếng làm Thể, tức lấy năm pháp làm Thể vẩn đục của hữu tình. Nếu năm uẩn đồng thời, thì lấy cả năm làm Thể.

– Phiền não trược. Nghĩa là trừ kiến, và phiền não khác của năm thứ trước, làm Thể của vẩn đục này.

– Kiến trược. Nghĩa là đói khát, bệnh dịch, lấy hai số trong năm trược làm Thể. Việc đao, binh, dùng bốn trần, hoặc năm uẩn làm Thể của Kiếp. Nếu y cứ ở giới để phân biệt thì chỉ cõi Dục, chỉ cho cõi Diêm-phù Đề ở phía Nam . Sở dĩ biết được như thế, là vì trong văn tự nói. Chẳng hạn như con người ở thời đại ngày nay, số tuổi thọ ngắn ngủi v.v… cho đến như vào thời kỳ này dần dần sẽ đi vào cảnh đói khát, trộm cướp v.v…

Nếu nói về đối trị thì vì lẽ do hành động giết hại, nên bị chết yểu. Nay, tu không sát hại, sẽ lìa khỏi mạng trược.

Do không cung kính, si mê, keo kiệt, lười biếng, nên sự vẩn đục của hữu tình Khởi (nổi lên). Nếu tu cung kính, sẽ tách rời sự si mê, keo kiệt v.v… lìa Hữu tình trược. Nếu được Thánh đạo, thì lìa phiền não trược và Kiến trược.

– Kiếp trược, nghĩa là nếu ở vào thời nay, giữ giới không sát trong một ngày, đêm thì cuối cùng sẽ không sinh vào kiếp đao binh kia. Nếu dùng một bữa ăn thí cho ruộng phước tăng thì không bao giờ sinh trong kiếp đói khát kia. Thí một quả A-Lê-Lặc cho một người binh thì sẽ không bao giờ sinh trong kiếp dịch bệnh lan tràn kia.

Nói tập tham phi pháp, nghĩa là tham lấy vật của người dần dần sẽ đi vào kiếp đói khát v.v… Phải biết rằng, thời nay đã bước vào trong ba tai, nhưng chưa rốt ráo. Tai đói rốt ráo là đến thời gian ba mươi tuổi, bệnh đến thời gian hai mươi tuổi, binh đao, chủ yếu là vào thời gian, tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi.

“Lại nữa, các Bồ-tát đối với thế gian kia…” trở xuống, là thứ ba, thực hành tám quán. Cựu luận lược qua không có quán thứ tư. Đối với hành vi nhóm tập có thể qua đến thế gian, có bảy trường hợp còn lại.

Luận sư Cảnh nói “Nói đối với thế gian, thì quán khổ. Đối với Tập của thế gian, đối với Diệt của thế gian, thì quán Tập, diệt. Đối với hành vi nhóm tập qua đến thế gian, đây là quán Thọ. Nhân Thọ sinh ra Ái. Ái là Thể của Tập, Thọ là đi qua, hướng đến, là hành động của Tập. Chỗ khác chỉ thực hành bảy quán, không quán về Thọ.

Đối với hành diệt hay hướng đến thế gian, đây là quán Đạo.

Ái Vị , nghĩa là trùng quán đối với tập. Tai họa, nghĩa là trùng quán đối với khổ. Và, xuất ly, nghĩa là trùng quán đối với Diệt, lược qua không trùng quán đối với Đạo, vì tâm năng quán chính là Đạo.

Vì Tập là gốc của sinh, tử, cho nên dùng ba Độ để quán.

Pháp sư Thái nói “Hỏi “Vì sao Tập đế thì cần ba lớp quán, còn Không đế, Diệt đế chỉ có hai lớp quán?”

-Nghĩa là “Vì khổ, Tập sâu có thể nhàm chán, nên quán hai, ba lớp. Vì Diệt rất có thể phân tích, nên cũng trùng quán. Lại, bốn Đế của năm quán ở trước chỉ trùng quán Tập.”

Hành động hướng đến Tập, gọi là Ái, nghĩa là do sâu có thể nhàm chán, nên cố ý quán lại.

Ở trước là quán riêng bốn Đế, dưới đây, là quán lại bốn Đế.

Ái Vị , nghĩa là Tập đế, hoặc khổ đế. Tai họa lỗi lầm, nghĩa là khổ đế, hoặc là Tập đế.

Xuất ly, là hai Đế Vô lậu là một quán.

Luận sư Trắc nói “Tương truyền giải thích rằng “Tám thứ quán là “Lấy bảy Xứ thiện làm bảy. Vô ngã là thứ tám.” Thuyết này không đúng. Vì ngài Tam tạng xét Thích Luận của Phạm rồi giải thích. Về nghĩa, đồng với Luận sư Cảnh “Tám quán trên, gọi là An lập đế quán.”

Dưới đây, phần thứ tư, nói về Quán Thắng Nghĩa của nhân Vô ngã. Rằng, trưởng lão này có tên v.v… như thế. Cựu luận chỉ có bảy thứ trước, lược qua không có thứ tám, đều đủ bờ mé của thọ lượng.

Từ đây trở xuống, là thứ năm, là nêu, kết bốn thứ trước, rất dễ hiểu.

Trên, đã nói về biết thế gian xong. Dưới đây, là nói về thuận theo thế gian, trong đó có bốn:

1. Nói về vận chuyển ái ngữ nhằm giáo hóa, thuận với tâm tình của chúng sinh.

2. “Hoặc biết, không biết…” trở xuống, là nói về chuyển hạnh lợi tha để hóa độ thích hợp với căn cơ chúng sinh.

3. “Hoặc vì nghĩa sự lợi ích hiện pháp…” trở xuống, là nói về chuyển hạnh thí cho, nhằm giáo hóa, vừa ý chúng sinh.

4. Trong việc đáng nên làm kia…” trở xuống, là nói về hạnh Đồng sự chuyển, nhằm giáo hóa thích hợp với thời cơ.

Mười bốn nghiệp nhơ bẩn, đây là xuất xứ từ Kinh A-hàm Thiện sinh vấn. Kinh ấy giải thích về mười nghiệp rằng “Lìa nghiệp bốn Kiết: Sát sinh; trộm cắp, tà dâm, nói dối. Lìa nghiệp do bốn phi Xứ Khởi. Nghĩa là tham sân, si, sợ hãi, lìa sáu thứ tài sản hao hụt, đó là:

  1. Uống rượu.
  2. Cờ bạc.
  3. Phóng đãng.
  4. Ham ưa ca múa.
  5. Bạn ác làm tổn thương nhau.
  6. Lười biếng, trễ nãi.

Tàng ẩn sáu phương. Thiện Sinh kia hỏi Phật “Như việc của con đây, các quỷ thần ở sáu phương chưa biết Phật, pháp, có đồng với con chăng, bạch Thế tôn! Phật nói “Trong Phật pháp ta cũng nói về công việc của chúng sinh ở sáu phương, nhưng không đồng với ông. Cái gọi là cha mẹ là phương Đông, Sư trưởng là phương Nam; vợ, con là phương Tây, bạn thân là phương Bắc, tôi tớ là phương dưới, bực Sa-môn cao đức là phương trên. Cúng dường, thờ phụng sáu phương, gọi là Tàng ẩn.

Tránh xa bốn bạn ác:

  1. Sợ bạn chế phục. Vì sợ, nên họ rất tâm chẳng phải tốt.
  2. Bạn nói lời trau chuốt, nhưng tâm họ không chân thật.
  3. Kính, thuận với bạn, thiện, ác chỉ thuận theo.
  4. Là bạn ác, mọi việc ác họ đều làm.

Nhiếp bốn bạn lành:

  1. Bạn dứt quấy.
  2. Bạn từ, thương xót.
  3. Bạn lợi người.
  4. Bạn đồng sự.

Là dựa theo Kinh A-hàm kia, mỗi việc giải thích riêng, nhưng luận Địa Trì bản cửu dịch nói rằng “Lìa mười bốn việc nhơ bẩn, nghĩa là che giấu sáu phương; bốn bạn ác gây khó khăn Nhiếp bốn bạn lành. Địa Trì lẽ ra là lầm! Vì “Thi-Khư-Chung-Ca”, ở đây lẽ ra chỉ cho thuyết trong A-hàm kia. Từ các kinh kia, người ta lấy đó đặt tên, Hán dịch gọi là Đảnh Kế Trì. Dưới đây, là thứ ba, tổng kết:

Rằng “Như thế gian kia, chính là đối tượng nên biết, là Kết biết thế gian thứ nhất kia. Như thế gian kia, chính là đối tượng thích hợp, đối tượng được chuyển biến, là thuận theo thế gian thứ hai kia.

BẢN LUẬN QUYỂN 45

Năm môn trước trong mười lăm môn đã giải thích xong.

Dưới đây nói về Tu Bốn y, chia làm ba:

1) Nói chánh tu bốn y 2) Nói sơ lược hiện bốn lượng 3) Nói về công năng tu .

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói “Về thứ lớp bốn Y, kinh, luận nói không đồng. Đại khái có năm thứ:

I. Quán nhập thứ lớp, như Thành luận nói:

1/ Y theo pháp, không y theo người

2/ Y theo liễu nghĩa, không y theo không liễu nghĩa3) Y theo nghĩa, không y theo ngữ ) Y theo trí, không y theo thức.

Đây là y cứ Văn, Tư, tu v.v… để quán nhập thứ lớp: Đầu tiên là dựa vào pháp, không dựa vào người; theo Kinh liễu nghĩa, không theo Kinh không liễu nghĩa, phân biệt chẳng phải lấy là Tập thành Văn tuệ. Thứ ba, y nghĩa, không y ngữ, là phân biệt chẳng phải lấy là Tập thành Tu tuệ; Thứ tư dựa vào pháp trí hạnh của các Hiền, Thánh tập thành Tu tuệ.

II. Từ gốc, Khởi tác dụng của ngọn theo thứ lớp, như Kinh Niết-bàn nói:

1/ Y theo pháp, không y theo người, là Thể của lý Chân như.

2/ Y nghĩa, không y ngữ: Nghĩa là quả Phật, cái gọi là Bát-nhã, giải thoát, Pháp thân. Vì dựa vào lý để thành đức, nên theo thứ lớp để luận.

3/ Y trí, không y thức: Trí là Phật trí, tức là Dụng. Vì văn dựa vào đức Khởi tác dụng, nên theo thứ lớp, để luận.

4/ Y Kinh liễu nghĩa, không y kinh không liễu nghĩa: Vì dựa vào trí, Khởi thuyết, nên về sau mới nói.

III. Nêu quả, tìm nhân, để nói về thứ lớp, Cũng như Kinh Niếtbàn nói:

1. Dựa vào nghĩa, đó là Bát-nhã, giải thoát, pháp thân. Đây là Đức Phật của cho nên nói trước.

2. Nương tựa pháp, không nương tựa con người: Pháp là lý Chân như, quả dự vào lý thành, nên nói kế đó.

3. Dựa vào trí, không dựa vào thức: Trí là nhân liễu. Do trí làm sáng tỏ cho Như, nên nói kế là.

4. Y Kinh liễu nghĩa, không y kinh không liễu nghĩa. dựa vào Kinh giáo liễu nghĩa, tu tập dần, nên mới thành tựu trí chứng lý, vì thế nói kế đó.

IV. Theo thứ lớp, nêu sâu để tìm cạn. Như Phẩm Pháp Cúng Dường của Kinh Duy-ma đã nói:

1. Y nghĩa. Nghĩa là “hai không” đã nêu rõ Chân như.

2. Y trí. Trí là chứng trí. Vì dựa vào lý mới khởi, nên nói kế đó.

3. Y Kinh liễu nghĩa, Kinh là giải thích nghĩa. Nghĩa đã nói trước, do giải thích, nên nói kế đó.

4. Y pháp. Pháp là Pháp hạnh của Địa tiền. Nương tựa pháp hạnh để tu tập, mới được Trí chứng lý.

V. Nương tựa đạo lý của nghĩa, Khởi tu thứ lớp, như kinh đây nói:

1. Y nghĩa, không y ngữ, tức dùng cả nghĩa giáo để giải thích dưới để làm chỗ nương tựa, không dựa vào lời nói. Dù rằng nương tựa nghĩa, nhưng nếu pháp không trái với bốn đạo lý kia, mới đáng được nương tựa. Cho nên, kế là, nói về chủ thể nương tựa.

2. Pháp. Pháp là bốn thứ pháp của đạo lý, hai thứ trên đây dựa vào đạo lý của nghĩa để nói về thứ lớp, hai thứ sau, là khởi tu thứ lớp.

3. Y Kinh liễu nghĩa, không y kinh không liễu nghĩa, tức giải thích giáo pháp ba tánh là Kinh liễu nghĩa. Giáo pháp không liễu khác, không đáng nương tựa. Do dựa vào giáo liễu nghĩa, nên tu thành chứng trí. Cho nên, thứ tư, là nói về y trí, không y văn, tư. Pháp sư Khuy Cơ nói “Theo thứ lớp các Kinh, luận không đồng. Như Kinh Niết-bàn thì từ quả, tìm nhân, để nói thứ lớp. Nghĩa là Chân như là quả, có thể dựa vào quả Chân, không thể dựa vào người, tức “duyên” trí như gọi là nghĩa, có thể dựa vào nghĩa này, không thể dựa vào ngữ, tức nhân trí này khởi hậu đắc nói pháp.

Có thể dựa vào trí này, không thể dựa vào thức: Đã nghe pháp xong, có thể y liễu nghĩa, không thể y không liễu nghĩa. Lại bỏ đi sự tìm kiếm từ nhân đến quả, tức do pháp được chứng Trí Chân như. tức là nghĩa nhân, vì Chân như tức là quả có thể y liễu nghĩa, tức trước quán nhân, sau mới quán trí, không dựa vào thức. Hợp năm lớp này không thể ghi nhận phiền phức. Nay, văn này là lớp thứ ba.

Luận sư Trắc nói “Hai thứ trước trong Bốn y này, là nói về thứ lớp của pháp Nhiếp. Vì nghĩa có thể thành hạnh, nên trước y nghĩa là đúng lý. Nghĩa vì nhờ giải thích rõ ràng, nên tiếp theo là nương tựa pháp, pháp là giáo. Hai thứ sau, nói về Khởi tu thứ lớp. Dựa vào giáo pháp trước để tu tập, hiểu biết cho đúng.

Dựa vào Kinh liễu nghĩa, dựa vào nghĩa lý, để tu tập, khởi công hạnh.

4. Nói về y trí ám thuyết, là đại thuyết, Luận sư Trắc nói “thuyết mà Ngoại đạo Thắng luận v.v… nói, gọi là ám thuyết; thuyết mà Chư Phật nói là Đại thuyết. Chánh tuệ hiểu rõ thuyết này rồi, dùng Thánh pháp của đạo lý làm chỗ nương tựa, không đồng với Luận Trang Nghiêm chỉ dùng giáo pháp làm y chỉ.

Đối với nghĩa chân thật, nghĩa là đối với bốn thứ, pháp Tỳ-nại-da của lý Chân thật. Ở đây có hai giải thích:

1- “Pháp là hai Tạng. Tỳ-nại-da, tức là Tạng Tỳ-nại-da.”

2- “Pháp là ba Tạng, tức là tác dụng diệt ác của ba tạng, gọi là chung là Tỳ-nại-da.”

Về nghĩa bản tánh. Pháp sư Cơ nói “Tức bản thể của các pháp, ý nói thức có tám thứ, là bản tánh của Thức. Tiểu thừa vì không liễu nghĩa, không nói, vì thế nói về bản tánh, cũng không thể hiểu rõ.”

Luận sư Trắc nói “Dựa vào tất cả các thứ môn khác, nhằm nói về tánh Tận sở hữu, Tánh Như sở hữu, nên nói rằng “Dựa vào các môn để nói về nghĩa bản sinh.”

Trong y trí, không y thức, Pháp sư Cơ nói “Văn, Tư, là Trí, vì sao không nương tựa?”

Nghĩa rằng “Dù là trí, nhưng là trí tán, vì chưa viên mãn, nên không đáng nương tựa.”

“Nếu vậy, thì thế gian lẽ ra chẳng đáng nương tựa?”

Nghĩa rằng “Cũng không đáng nương tựa. Vả lại, do ba Tuệ đối nhau, nay không nương tựa, nghĩa là luận chỉ nói Văn, Tư tuệ còn trong Tu tuệ kia cũng có không nương tựa.”

Trong chỉ bày rõ bốn lượng, Luận sư Cảnh nói “Nghĩa đã nói tức là y nghĩa. Chánh lý, tức là y pháp. Đấng Đại Sư, tức là dựa vào Kinh liễu nghĩa mà Đức Đại sư đã nói.” Tuệ do tu thành, tức là y trí.

Trong nói về Vô ngại, Luận sư Cảnh nói “Bốn đều dùng trí như lượng làm thể, tất cả môn khác trong Pháp Vô ngại, nghĩa là danh, vi, cú, giáo, vì có nhiều thứ khác nhau, nên gọi là tất cả môn khác.”

Tánh Tận sở hữu, nghĩa là giáo giải thích về Tục đế, như tất cả tánh , nghĩa là giáo giải thích Chân đế. Cũng có thể y cứ ngay trong Tục đế, nhằm giải thích chung về Tục đế, gọi là Tận sở hữu.

Giải thích riêng, mỗi thứ khác nhau của pháp thế Tục đều có

nhiều môn nghĩa, gọi là Tánh như sở hữu. Tới (ngay như) trực tiếp giải thích chung về Chân như, gọi là Tận sở hữu; giải thích riêng về Chân như thì gọi là la nghĩa không có sinh, không có diệt, Pháp giới, Thực tế v.v… gọi là Như sở hữu.

Nói là mỗi thứ bất đồng của nghĩa đã giải thích trong nghĩa Vô ngại, gọi là tất cả tướng khác. Nghĩa khác đồng với trước đều nói là dựa vào tu mà thành, nên biết chỉ lấy Tu tuệ.

Giải thích về Từ Vô ngại, là biết rành rẽ về phương ngôn, giải thích bất đồng. Trong Biện Vô ngại, đối với tất cả phẩm riêng của tất cả pháp, căn cơ bị đối trị và chủ thể khởi nghiệp sai khác, vì chẳng phải một, nên gọi là phẩm riêng. Hoặc căn cơ, hoặc nghiệp, đều có tánh Tận sở hữu, tánh Như sở hữu, phân biệt rất dễ hiểu.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Pháp do giáo “năng thuyết”. Tuệ “năng thuyên” là Thể của PhápVô ngại. Nghĩa Vô ngại giải kia tức là nghĩa dưới của pháp trước, cho nên, có lời nói môn khác trong nghĩa của đối tượng giải thích, có bàn bạc riêng của tướng khác trong nghĩa của đối tượng giải thích, tức đối với chủ thể giải thích được trí, gọi là Pháp Vô ngại; đối với đối tượng giải thích được tự tại, gọi là nghĩa Vô ngại. Như Tạp Tập quyển mười bốn nói “Pháp Vô ngại đối với tất cả, gọi là sai khác, nghĩa là dựa vào Vô minh v.v… đối với không có trí, không có Kiến, không hiện quán v.v… sai khác, gọi là Trung Vô ngại trí.

Các tướng của nghĩa Vô ngại và ý thú, tướng là tự tướng cộng tướng. Ý thú, là nghĩa riêng.

Từ Vô ngại, ở đây chỉ có ngôn từ giải thích pháp, như Tạp Tập cũng nói rằng, đối với các âm của phương ngôn, rằng từ tư tưởng, âm từ của chúng sinh trong Vô lương, nước, ấp. Giải thích rõ về ngôn, từ của các luận, nghĩa là có thể phá, gọi là thế gian v.v… Dùng một âm để giảng nói, tùy từng loại chúng sinh, mỗi chúng sinh đều được hiểu bằng mỗi thứ tiếng nói. Biện Vô ngại kia, ở đây chỉ nói đối với tất cả phẩm riêng của tất cả pháp. Như tất cả phẩm riêng của Tạp Tập. Nghĩa là các thứ từ biện sai khác: có thật, có giả, có thế Tục, Thắng Nghĩa v.v… Luận sư Trắc nói “Theo Luận Trang Nghiêm quyển mười nói có bốn môn sai khác, với kệ rằng “Ớ tướng môn, nói là trí.”

Giải thích

“1) Trí biết môn rất dễ hiểu sự khác nhau của môn danh đã có trong nghĩa.”

2) “Trí biết về tướng, rất dễ hiểu được nghĩa này thuộc về danh này.”

3) “Trí biết lời nói: rất dễ hiểu lập ngôn âm khác.”

4) “Trí biết được Trí, rất dễ hiểu mình có thể nói pháp. Cho đến dưới đây nói rằng “Nêu pháp nghĩa là lấy môn. Giải thích về pháp, nghĩa là lấy tướng, khiến người khác hiểu, nghĩa là dùng lời nói. Tránh khỏi nạn, nghĩa là dùng trí. Nói rộng như Luận Trang Nghiêm kia.

Nói về Tư lương của Bồ-đề. Nếu theo Luận Trang Nghiêm thì hai nhóm gồm thâu môn sáu Độ, bài kệ chép:

Hai đầu là thể phước

Thứ sáu tức là trí

Ba khác, nhân hai nhóm

Năm cũng thành nhóm trí

Y cứ trong giải thích dưới đây:

Ba khác, nghĩa là Nhẫn, Tinh Tấn, Thiền, làm nhân chung cho hai nhóm phước, trí.

Năm cũng thành nhóm trí, nghĩa là về sau, do Bát-nhã có thể hồi hướng, nên các Ba-la-mật đều thành nhóm trí. Về môn khác, nói rộng như luận Trang Nghiêm kia.

Trong nói về ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, trước là nêu nhắc lại trước sinh, sau, chia ra hai chương. Sau, là giải thích theo thứ lớp.

Trong phần trước, nói là hai thứ pháp Bồ-đề phần của Đại thừa, Thanh văn, gọi là lý thú của Nhị thừa. Bồ-tát biết rõ như thật về Niếtbàn của Thanh văn. Vì muốn khuất phục Thanh văn có trí Nhất thiết chủng , nên trong trí đó không lấy tác chứng, vì lý thú của Đại thừa khác với Thanh văn.

Luận sư Trắc nói “Các Bồ-tát biết rõ như thật về tự tánh ly ngôn, lìa “có”, “không”, nhưng vì không chấp nghiêng lệch, nên nói “mà không tác chứng.” Dưới đây, trong giải thích về hai chướng, pháp Bồđề phần của Thanh văn, chỉ như Địa Thanh văn.

Giải thích chương thứ hai, văn chia làm hai:

1. Đến với hai quán Chân, Tục của ba tánh, để nói về phẩm đạo.

2. Y cứ ở quán bốn Đế an lập, phi an lập, nhằm nói về phẩm Đạo.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói “không phân biệt ở thân, nghĩa là ở trên thân của nhân duyên khác kia, nói là phân biệt quyết định có tánh, tức là lìa chấp tăng ích của Biến kế. Nói “Cũng không phân biệt tất cả chủng loại đều không có tánh, nghĩa là với tánh quyết định của Biến kế sở chấp, dù thân kia không có, nhưng về pháp nhân duyên của thân thì không được nói là chẳng có, cho nên nói “Cũng không phân biệt tất cả đều không có tánh, thì lìa chấp tổn giảm.”

Lại, đối với thân kia, cho đến biết rõ như thật , đây là biết rõ như thật về pháp y tha, pháp của thân và Chân như Viên Thành thật tánh.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Không phân biệt có tánh, không bị Biến kế chấp phân biệt có thân, không phân biệt vô tánh, nghĩa là không phân biệt hai tánh y tha, Viên thành là không. Lại, thân kia xa lìa pháp tánh v.v… của tự tánh ngôn thuyết, đây là giải thích lại Viên thành thật không Khởi ngôn thuyết phân biệt, chân như là không thể nói là, tự tánh, Pháp tánh. Nếu theo đoạn văn dưới đây “Như thế, Bồ-tát đối với pháp, thân v.v… không phân biệt tồn tại v.v… ”, tức là cũng không phân biệt tất cả chủng loại đều không có tánh, tự tánh, pháp tánh, tức là Viên thành thật.”

Nay, lìa ngôn thuyết, ngôn thuyết không tương xứng, không đồng với y tha, nên đoạn văn dưới đây nói “Là pháp tánh của Bốn đế. Pháp tánh tức là Chân như, tức là không phân biệt tất cả chủng loại đều không có tánh là y tha. Xa lìa pháp tự tánh của ngôn thuyết là Viên thành thật.”

Kế là, y cứ ở môn bốn Đế an lập, phi an lập, để luận về phẩm Đạo của hai quán Chân, Tục.

Đầu tiên nói rằng “Đối với các pháp, như thân v.v… không phân biệt khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nghĩa là hướng đến Chân như quán trong trí gia hạnh, dù tìm kiếm bốn Đế mà vẫn không phân biệt, gọi là Thắng Nghĩa quán.

Nói “Lại, tức là đối với Pháp tánh xa lìa tự tánh ngôn thuyết này, cho đến biết rõ như thật, nghĩa là quán bốn Đế, như chánh thể trí quán phi an lập, phải biết gọi là dựa vào lý thú Thắng Nghĩa để tu phần Bồđề v.v… là kết hai lượt giải thích trước, gọi là Thắng Nghĩa quán phi an lập.

“Nếu các Bồ-tát thuận theo Vô lượng…” trở xuống, là quán riêng tám khổ là khổ đế, ái là Tập đế, cho đến tám chi Thánh đạo gọi là Đạo đế v.v… tức là an lập Hậu trí quán môn Thế tục.

Trong phần nói về tu chỉ, quán, gồm có:

1. Nêu chung hai môn. Nói không có đối tượng phân biệt, phải biết gọi là chỉ, nghĩa là một duyên tĩnh lự, lìa các phân biệt, phải biết rằng gọi là Chỉ.

2. Nói về hai trí Chân, Tục, gọi là Quán.

3. Nói riêng phẩm loại sai khác.

Nói “một công hạnh trước của Thắng Nghĩa Thế Tục trí”, Luận sư Cảnh nói “Trước hết Khởi định, dựa vào định tu trí, gọi là công hạnh trước của trí (Tiền hành trí); cũng có thể trước Khởi trí, dựa vào trí để tu định, nên gọi là Trí tiền hành.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Tức là tiền phương tiện định của trí Hậu đắc, Trí vô phân biệt, tức định đồng với trí gia hạnh.”

Hỏi “Vì sao được biết trí Thế Tục trong đây là trí Hậu đắc?” Nghĩa là “Vì trong phần nêu chung môn trước có hai trí:

1. Như thật chân quán.

2. An lập trí mầu nhiệm Thế Tục, nên biết trí Thế Tục trong đây là trí Hậu đắc.

Quả của hai trí Thắng Nghĩa và Thế Tục. Luận sư Cảnh nói “Nếu dựa vào định để tu trí thì trí là quả của định. Hoặc y trí tu định, thì định là quả của trí.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Tức định đồng thời với Chánh trí, trí Hậu đắc là quả của định gia hạnh trước, nên Thể của định đồng thời của hai trí chính là quả.”

Lại giải thích “Tức là định Đẳng lưu đã được sinh sau hai trí, nên nói là quả của Thắng nghĩa, Thế Tục, tức là quả của hai Trí.”

Hỏi “Sao không nói định đều cùng lúc của hai Trí?”

Nghĩa là “Định thứ ba, thứ tư dưới đây tức là định đồng thời hai hai Trí.”

3. Khắp tất cả đối với hí luận, chuyển biết vô công dụng. Luận sư Cảnh nói “Nói về lìa ác.” Pháp sư Thái nói “Là trí thế Tục.” Pháp sư Khuy Cơ nói “Chuyển là chuyển diệt. Nghĩa là chánh trí phổ cập trong tưởng của tất cả hí luận, đều có thể chuyển diệt.”

“Nếu là quả của hai trí đã giải thích như trước, đây là nói nghiệp dụng của định đồng thời của Chánh trí. Nếu như trí Hậu đắc, thì chính thức nói về định đồng thời của Chánh trí.”

4. Tức là đối với ly ngôn như thế, chỉ có sự cho đến một vị thật tánh. Luận sư Cảnh nói “Nói về định của phân biệt trí chính thức của Chân như.”

Pháp sư Thái nói “Tìm kiếm tánh phân biệt ngôn thuyết trong Thế Tục như thế không thể được, vì ở ly ngôn, chỉ sự y tha tánh, tâm người kia vắng lặng là Chân trí.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Nói là Chánh trí quán y tha vì không phân biệt có tánh nên nhập nghĩa một vị Chân như. Nếu theo giải thích trước thì nói là hai lớp nói về nghiệp dụng của hai Trí. Nếu theo giải thích sau, tức là nói lại nghiệp dụng của hai Trí.”

Nói về Thể. Nay ở đây, nói về công dụng của nghiệp:

Nếu y cứ ở địa vị thì,

  1. Ở trong đạo gia hạnh Địa tiền.
  2. Nhập Địa trở đi, cho đến Thất Địa trở xuống.
  3. Ở Bát Địa trở lên, cho đến Cửu Địa.
  4. Mười Địa là chỉ nhập ở Phật địa.

“Đại khái có bốn hạnh, phải biết gọi là Quán”, trở xuống, là văn. Luận sư Cảnh nói “Nói là công hạnh trước của đạo bốn Hạnh chỉ”, đây là câu thứ nhất, nói về dựa vào bốn thứ hạnh chỉ để tu quán, gọi là hạnh trước của đạo chỉ. Cũng có thể dựa vào quán để tu bốn thứ hạnh chỉ trước, gọi là hạnh trước của công hạnh chỉ.”

“Đối với tất cả pháp, xa lìa tăng ích, chấp biên bất chính”, đây là câu thứ hai, biết Biến kế chấp không có tướng.

“Xa lìa biên chấp bất chính tổn giảm”, đây là câu thứ ba, biết rõ Viên thành là có. Và “với thuận theo vô lượng các pháp sai khác v.v…

đây là câu thứ tư, nói về quán sai khác của pháp nhân duyên y tha.”

Pháp sư Thái nói “Nói là tức hạnh trước của Đạo hạnh chỉ, nghĩa là phương tiện trước của đạo bốn chỉ, vì tư duy, suy lường, quán sát, nên gọi là bốn quán. Từ sau bốn quán, nhậm vận mà chuyển, không tác ý tư duy, so lường, tức gọi là bốn chỉ. Pháp sư Khuy Cơ nói “tức hạnh trước của Đạo chỉ của bốn Hạnh là thứ nhất, tức trí gia hạnh. Trí của hạnh trước trong bốn chỉ trước có văn, tư hữu lậu. Vả, nói về trí của bốn hạnh chỉ, thật ra, quán đồng thời với chỉ thứ nhất là Trí gia hạnh, cũng thuộc về chỉ thứ nhất này, lìa chấp tăng ích thứ hai, lìa chấp tổn giảm thứ ba.”

Hai, tức là Trí vô phân biệt lìa hai lỗi. Và, với thuận theo cho đến an lập lý thú là trí Hậu đắc thứ tư.

Bốn trí này ở mỗi Địa đều có, nên phối hợp riêng, thì hơi khó. Dưới đây, phần thứ ba, là kết.

Nói về phương tiện thiện xảo. Trước là nêu chung, nêu. Sau, gạn riêng, giải thích.

Đã nói là hai thứ trong, ngoài khác nhau, thì đâu được bên trong có nghĩa thành tựu chúng sinh, bên ngoài có nghĩa tự thành?

Nghĩa là “Ở bên trong dù nói là chúng sinh bên ngoài, nhưng vì ý lấy tâm của Bồ-tát, nên nói là bên trong. Về nghĩa ngoài, ở hữu tình, không tồn tại tự thành thục nội tại.”

Trong giải thích về sáu thứ bên ngoài, trước là gạn, chia thành sáu thứ. Sau, là giải thích theo thứ lớp, trong đó:

  1. Giải tích riêng hai thứ trước.
  2. Giải thích chung bốn thứ sau.
  3. Một tháng không ăn là chấp của ngoại đạo
  4. Từ đỉnh núi cao nhảy xuống vực thẳm, nhảy vào lửa, là chấp của phái Ni-kiền Tử.
  5. Chú Phệ-Đà-Ca của Bà-la-môn. Hán dịch là Minh Chú.
  6. Rốt ráo tịnh, nghĩa là tịnh của xuất thế vô lậu.

Trong giải thích bốn thứ sau:

1) Đặt ra bốn câu hỏi 2) Giải thích 3) Tổng kết.

Trong giải thích, chia ra sáu chương môn. Sau là giải thích theo thứ lớp.

Trong giải thích về phương tiện ban đầu, rằng, các Bồ-tát cho đến “Lại đối với thu nhập, “duyên” khắp tất cả môn Tam-ma-địa, có thể vì thuận theo v.v… ” trở lại, nói về thuận theo.

Dưới đây, nói về sự hội thông: Thuận theo, là thuận với người kia. Hội thông là giải thích thuyết của kinh cho rõ ràng thông suốt.

Thuận theo người kia sinh vui, ưa vì phương tiện duyên khắp.

Trong thuận theo, trước là ái ngữ, tức là lời nói tốt đẹp.

Kế là, bố thí, cũng lại hiện hạnh thí cho gần, thuận theo chuyển v.v…

Thí cho gần, thuận theo chuyển, nghĩa là tùy khởi sự thí cho mà dẫn dắt gần, hoặc thí cho gần, tức là thực hành sự thí nhiếp mà gần gũi họ.

Tùy chuyển, tức là Đồng sự nhiếp sự . Do bố thí tài vật sự đồng bạn, diệt trừ Nhuế v.v… đã sinh.

“Sinh yêu kính…” trở xuống, là nói về Lợi hạnh.

“Vì hiện thần thông ký hiển thuyết v.v… tức là ba luân.”

“Lại, đối với thu nhập, “duyên” khắp tất cả môn Tam-ma-địa, để vì thuận theo truyền trao, răn dạy v.v… nghĩa là có Tam-ma-địa, có thể “duyên” khắp tất cả, thì định là chỗ nương tựa của trí Nhất thiết chủng.”

Nếu có thu nhập, nghĩa là vì thuận theo người kia nên mới truyền trao, răn dạy, là đại ý trong đây.

Trong hội thông, rằng vì người kia nói là kinh này không nói tất cả các pháp đều không có gì chỉ nói các pháp mà nói tự tánh đều đã có v.v… nghĩa là không nói hai tánh y tha v.v… đều là không. Nhưng vẫn nói tự tánh mà Biến kế nói là không có. Dù có tất cả sự đã nói, vì dựa vào y tha kia, nên chuyển biến các ngôn thuyết, nhưng điều mà y tha nói có thể nói là tự tánh, y cứ Đệ nhất nghĩa thì chẳng phải là tự tánh v.v… Nghĩa là dù có sự mà y tha v.v… đã nói, nhưng nếu dựa vào sự này Khởi lên ngôn thuyết của Biến kế thì như tự tánh mà ngôn thuyết này đã nói, cũng như sừng thỏ, nên y cứ ở Đệ nhất nghĩa, chứ chẳng phải như tự tánh mà Biến kế sở chấp đã nói. Nói không có sự, tức là không co sự biến kế, chứ chẳng phải không có y tha. Ví dụ như trong hư không, có rất nhiều sắc. Nghiệp của sắc có thể dung nạp tất cả các sắc.

Nghiệp sắc v.v… Ở đây dụ cho Chân như như hư không, Biến kế chấp như sắc v.v… Như dưới đây, chỉ trừ bỏ nghiệp sắc của các tợ sắc Biến kế, mà chứng tánh tợ không của Chân như. Lại Bi như huyễn, mộng, như hiển hiện, như thật là có v.v…

Trên đây, nói về tợ không dụ cho Chân như, tợ Biến kế cho nghiệp sắc.

Dưới đây là dụ y tha như huyễn v.v… Như chấp Biến kế là chẳng thật có, như chấp con người là thật v.v… Giả tưởng tợ kia là không vô tức y tha.

“Các pháp như thế, như ngôn thuyết, tập quán của kẻ ngu v.v…” trở xuống, là tổng kết, trên đây, nói về y tha, Viên thành là “có”, Biến kế chấp là “không”.

“Y cứ ở tự tánh ly ngôn của Thắng nghĩa, hai tánh này chẳng phải không có cái có tồn tại hai tánh. Do phương tiện này, ngộ nhập đạo lý: Tất cả pháp chẳng phải có, chẳng phải không, cũng như huyễn, mộng tánh của chúng không hai.”

Đây là kết ba tánh trên. Nói Biến kế cũng chẳng phải có, chẳng phải không. Chẳng phải đồng với sừng thỏ, chẳng phải không có vọng tình. Y tha cũng thế, chẳng phải có, như Biến kế, chẳng phải không có giả mộng. Viên thành cũng thế, chẳng phải có, đồng với Biến kế, chẳng phải không có cái có của Thắng nghĩa.

Không lấy phần nhỏ, không bỏ phần ít v.v… nghĩa là không chấp Biến kế, không bỏ y tha chân thật, không tạo ra tổn giảm, nghĩa là biết hai tánh là có. Không tạo ra tăng ích, nghĩa là biết Biến kế chấp không có. Cho nên, đạo lý này không có sự mất mát, hư hoại.

Mười dụng cụ nuôi dưỡng thân. Tương truyển rằng “Ruộng, nhà v.v… như dưới đây dùng làm mười thứ.” Thuyết này không đúng. Nay, dựa trong rốt ráo thiện xảo, văn của ý thức Tương ưng Địa,

  1. Hỏi.
  2. Giải thích.
  3. Kết.
  4. Giải thích riêng về nghĩa rốt ráo thanh tịnh.

Trong giải thích thứ hai, nói về tám tướng. Trong văn không đầy đủ, đầy đủ, nên nói là:

1) Trụ ở cõi trời Đô-Sử-Đa 2) Hạ sinh, nhập thai. 3) Trụ thai. 4) Sơ sinh. 5) Xuất gia. 6) Thành đạo. 7) Xoay bánh xe Pháp luân. 8) Đại bát Niết-bàn.

Trong văn thiếu bốn việc, thêm một khổ hạnh. Lại, dùng Phật nhãn quán sát thế gian, chớ để cho hữu tình sinh ra sự chê bai rằng: “chỉ do Phạm Vương đích thân tự đến thỉnh Phật. Vì kính Phạm vương, nên Phật mới giảng nói chánh pháp, chứ chẳng phải đối với hữu tình, Đức Phật tự Khởi tâm Bi v.v…”

Pháp sư Thái nói “Vì phá tan một loại hữu tình chấp v.v… nên Đức Thế tôn ở dưới cội Bồ-đề, Phạm Vương đến thỉnh đầu tiên, không là vì nói. Ngài dùng Phật nhãn quán năm anh em Câu-Lân v.v… vì có căn cơ, nên về sau, khi đến vườn Nai mới nói pháp.”

Tổng kết “hoặc lược, rộng, nghĩa là có người giải thích “Y cứ giải thích riêng, có sáu, hoặc sơ lược, hoặc rộng. Thuận theo phải Khế hợp với rốt ráo có ba là rộng, ba tướng còn lại gọi là lược, nên nói thế.

Giải thích về bốn Đà-la-ni, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp có bốn:

1. Nêu số, nêu danh

2. Gạn hỏi, giải thích riêng3) Y cứ ở Địa vị để phân biệt ) Nói về sự khác nhau của nhân.

Luận sư Cảnh nói “Ba trì “Pháp, nghĩa, chú dùng trí Như lượng làm tánh. Nhẫn trì dùng chung, theo pháp số phát ra Thể thì hai trí pháp, nghĩa thì dùng Niệm, Tuệ làm tánh, một thứ chú trì dùng định tự tại làm tánh. Dùng năng lực thiền định để gia bị Văn, câu các chú, khiến cho có thần nghiệm.”

Nhẫn trì, tức dùng trí tuệ làm tánh, tức là dùng Pháp, Tư, tánh, giải, Nhẫn làm tánh. Pháp sư Khuy Cơ nói “Người được Nhẫn Đà-la-ni, dùng trí Vô phân biệt làm Thể Nhẫn, tức chứng Chân như, có thể được Nhẫn. Ở đây, vì trí, chứng Chân như. Cho nên, đoạn văn dưới đây, ở hạnh địa Thắng giải, trong giải thích thứ tư, đầu tiên nói “Thành thục tuệ mầu nhiệm, nghĩa là phát ra Thể (thể xuất ly).

“Một mình ở nơi trống trải, nhàn tản” trở xuống, là nói về phương tiện.

“Đối với thuyết Phật nói…” trở xuống, là nói rộng về tu tướng. Pháp sư Khuy Cơ nói “Nói thành tựu tự nhiên bốn nhân hạnh của bậc Hiền, nghĩa là ở Địa tiền, người đầy đủ Tuệ mầu nhiệm, tức thành tựu thu hướng tuệ mầu nhiệm xuất thế, hoặc đã đầy đủ tuệ mầu nhiệm trong nhân hạnh bất động.

Nói “một mình ở nơi trống trải nhàn tản.” Pháp sư Thái nói “Chỗ trống, vắng, con đường mắt đi qua, vì không có vật nào để xem, nên gọi là trống không, chẳng có vật, thấy đường mà đi.”

Luận sư Cảnh nói “Không cất giữ tiền bạc, “duyên” thấy đường mà đi. Ban đêm không qua chỗ khác, đợi sáng hôm sau, mới tới.” Nói rộng về tu tướng có ba:

1. Nêu chú không có nghĩa. Lời là cảnh tư duy.

2. Ngay nơi câu chú, chính khởi tư duy.

3.Do tư duy, thành tựu nghĩa lợi vượt hơn của Nhẫn, lời chú có hai: a) Có nghĩa. b) Không có nghĩa, tức nêu chú không có nghĩa, lời tư duy quán sát. So sánh biết tất cả tùy tự tánh của lời nói đều không thật có. Do tánh tư duy này được thành tựu Nhẫn Đà-la-ni này.

Văn thứ hai nói “Tức là đối với chương, cú nghĩa v.v… của chú như thế.” Luận sư Cảnh nói “dựa vào câu chú không có nghĩa, chính khởi tư duy, so sánh biết tất cả tánh của ngôn thuyết đều không thật có, gọi là thông đạt.”

“Nói “Biết rõ các chú như thế…” trở xuống, là nói lại sự thông suốt kéo dài thành câu, nghĩa là biết rõ về chương, câu các chú như thế, đều không có nghĩa, là Viên Thành thật, chỉ không có nghĩa, biết rõ như thật câu của chương này, gọi làkhông có nghĩa.

Cho nên, ngoài văn chú này, không có nghĩa nào khác để tìm cầu. Pháp sư Cơ nói “chú này không có nghĩa, chỉ duy có tánh, nghĩa là Bồ-tát Địa tiền tụng chú không có nghĩa này, thân trừ kế chấp. Ở đây, chỉ có danh, chỗ nào có nghĩa? cho nên biết rằng, các pháp chỉ có chấp danh giả dối , không có chấp nghĩa như thật, do đó, không nên dựa vào danh sinh ra chấp.

Do tư duy này, nên có thể nhập Chân quán, chứng Bồ-tát nhẫn.

Luận sư Bị nói “Câu chú chính là giải thích về y tha, Viên thành, vì ly ngôn vô sinh. Bồ-tát tư duy đế, tự nhiên được hiểu Vô sinh Pháp nhẫn.”

Luận rằng “Không có nghĩa, đại ý ở đây. Trong pháp, nghĩa thành, mà không quyết định, nghĩa là do có sự ngộ nhận. Cũng không trụ vững chắc, là do có lui sụt, cũng không rộng lớn, vì trì có giới hạn, chứ chẳng phải như Vô biên.”

Giải thích về đối tượng tu chánh nguyện. Trước là hỏi, sau là đáp.

Nói về thể tánh của nguyện, các Luận sư không đồng quan điểm.

Có Luận sư xưa, dựa vào Thành thật, lấy Nhẫn làm Thể.

Luận sư Bị nói “Lấy trí làm tánh”, nên luận này nói “Trí ở sau, vì mong cầu về sau.”

Ngài Tam Tạng nói “Trên tư duy, muốn, tin tưởng, mà giả lập nguyện.”

Luận sư Cảnh nói “Dùng Thắng, giải, dục, tư, tín làm Thể.”

Trong phần đáp, thì nói về năm nguyện. Phát tâm nguyện, theo Luận Đối Pháp, thì phát tâm có hai: 1) Chung. 2) Riêng. Nay, Sơ phát tâm này tức là chung.

Trong Thọ sinh nguyện nói “Thuận theo lợi ích hữu tình trong các đường lành.”

Hỏi “Vì sao trong đây không nói thuận theo sinh trong các đường ác?”

Pháp sư Khuy Cơ giải thích “có hai ý:

1. Nghĩa là vì lợi của đường lành thì nhiều, lợi của đường ác ít, nên lược qua không nói đến.

2. Thuận với tám tướng, vì chỉ ở đường lành. Hơn nữa, đường ác không có tự tại, vì bị vua v.v… giáo hóa.

Lại, khi nói về đường lành, ý chứng tỏ đọa đường ác, từ chỗ vượt hơn mà nói, nên chỉ nói về đường lành.

Trong chánh nguyện nói “hoặc chung, hoặc riêng”, có giải thích rằng: “Cầu chung các đức, gọi là chung. Cầu riêng giới, định v.v… gọi là riêng.”

Đại nguyện thứ năm xuất phát từ Chánh nguyện. Đại nguyện khác nhau, có mười thứ. Kinh Án Địa nói có mười nguyện, đồng với nghĩa Đại của Luận này. Kinh ấy nói:

  1. Cúng dường nguyện.
  2. Nguyện Thọ trì chánh pháp.
  3. Nguyện Nhiếp pháp thượng thủ.
  4. Nguyện Tăng trưởng chúng sinh tâm hạnh.
  5. Nguyện Giáo hóa chúng sinh.
  6. Nguyện Biết thế giới.
  7. Nguyện Tịnh Phật quốc độ.

Địa luận giải thích “Tướng của Tịnh Phật quốc độ có bảy thứ:

  1. Tướng đồng.
  2. Tự tại tịnh.
  3. Trang Nghiêm tịnh.
  4. Thọ dụng tịnh.
  5. Trú xứ chúng sinh tịnh.
  6. Nhân tịnh.
  7. Quả tịnh, (như luận kia giải thích rộng)

Nghiệp thứ tám (Địa kinh): Được tất cả Bồ-tát đồng tâm, đồng hạnh, cùng góp chung căn lành, vì không có oán ghét, ganh tị, tất cả Bồ-tát đồng quán.

Nguyện ba nghiệp không cùng tận.

Nguyện thành Bồ-đề.

Nói về ba môn giải thoát, gồm có:

  1. Nói về ba tướng.
  2. Nói về Kiến lập.
  3. Kết khuyên tu học.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói “Đây là nói ba Tam-ma-địa không chung của Đại thừa, dùng nghĩa nhất thể của số tịnh tương ưng với Trí vô phân biệt, để nói. Dưới đây, y cứ mười sáu hạnh, để nói về ba Tam-ma-địa chung với Nhị thừa. Pháp sư Khuy Cơ nói “Ý “không” trong đây, nếu tướng Kiến đạo, thì chỉ có hai Hạnh khổ dưới. Ý của văn Vô nguyện, do có diệt hẳn, lời nói vắng lặng chỉ diệt bốn hạnh dưới. Nếu y cứ ở chỗ khác, thì văn có nhiều khác nhau. Một văn như trước. Lại, Vô nguyện đều gồm thâu bốn hạnh dưới của Đạo. Hạnh còn lại như trước. Có văn không có bốn hạnh dưới của Đạo gồm thâu. Vô nguyện thì không như thế, hạnh còn lại như trước nói.

Có văn nói ba Đế như giải thích đầu tiên ở trước. Bốn hạnh dưới của Đạo, thuộc chung ba môn giải thoát . Như Luận Hiển Dương quyển hai nói “Có nghĩa “không” hạnh, nếu y cứ ở dứt “hoặc”, thì chung cho cả bốn Đế, ngoài ra, rất dễ hiểu.

Lại, ý của văn luận trong đây là ở phần nghĩa dụng trong Chân quán, lập ra ba môn giải thoát này. Nếu dứt “hoặc” chỉ là hạnh “không”, nếu cùng lúc thì cũng có nghĩa của Vô nguyện, Vô tướng, thì ý của văn trong Vô nguyện sẽ có lời nói phiền não v.v… vì chỉ gom góp hai hạnh khổ của bốn hạnh, theo môn tăng, giảm ở dưới, đều ở hữu vi mà lập Vô nguyện. Vô nguyện chung cho cả ba Đế.

Lại, đây là nói chung, nếu ý trong đây nói như trước, thì Kiến lập trong ba rằng “Ngã và ngã sở gọi là chẳng thật có.” Luận Địa Trì chép “Không có ngã, ngã sở, gọi là không có.”

Trong kết khuyến học, Pháp sư Khuy Cơ nói “Như thế, cho đến tinh tấn, siêng năng tu học”, đây là khuyên học.

Đối với, Kiến lập này biết rõ như thật, nghĩa là kết trước, chính là nói ba môn giải thoát trước. Lại, kết nghĩa không tăng, giảm, đối với hành tướng khác, ba Tam-ma-địa như thật ngộ nhập, nghĩa là do biết rõ môn giải thoát đã nói này đối với hành tướng khác, như thật ngộ nhập, đều có thể giải thoát.

An lập lý thú, như thật ngộ nhập, tức là đầu tiên, ngộ nhập ba giải thoát môn chân thật.

Tu tập lý thú như thật biết rõ, nghĩa là khuyên tu tập pháp Tamma-địa.

Dưới đây, là giải thích lại “ở trong đó, các chúng Thanh văn tinh tấn, siêng năng tu học, tức là học, hạnh. Và chứng Viên mãn, tức ngộ nhập”. Lại, giải thích riêng về tư duy, rất dễ hiểu.

Nay, giải thích: “Bồ-tát Như thế, cho đến tu học”, là kết chính nói về tướng của ba môn giải thoát trước.

Ở đây, Kiến lập biết rõ như thật, nghĩa là kết môn Kiến lập của văn kế là ở trước.

Đối với ba Tam-ma-địa của hành tướng còn lại thì ngộ nhập như thật, nghĩa là nêu kiến lập này so với kiến lập hành tướng khác đồng với giải thích của Pháp sư Khuy Cơ.

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 46

Dưới đây là thứ mười lăm, giải thích về Ô-Đà-Nam. Nếu nói chữ Ốt, thì phải cải chính. Ngữ xưa không đúng. Gọi là bốn Ưu-Đà-Na, dịch là Ấn, nay dịch là Thuyết, tức Đức Thế tôn thường tụng, nói, nghĩa này giống như “Vô vấn tự thuyết.” Tùy theo bên cạnh nghĩa dịch cũng được gọi là Ấn. Hoặc gọi là nghĩa tổng, lược. Hoặc gọi là tướng tiêu biểu. Như nói “Vô thường là nói tiêu biểu của hữu vi, khổ là tướng tiêu biểu của pháp hữu lậu.Vô ngã là tướng nêu của tất cả pháp. Niết-bàn vắng lặng là tướng tiêu biểu của pháp vô vi.

Nếu gọi là Ốt-Đà-Nam thì gọi là Tập thí, tức gọi là Ô-Đà-Nam, nên là tướng nêu.

Trong văn,

  1. nêu số, nêu danh.
  2. Giải thích nghĩa Ô-Đà-Nam.
  3. Dựa vào bốn nghĩa, giải thích theo thứ lớp.

Dùng ba nghĩa để giải thích Ô-Đà-Nam.

Rằng, nghĩa của pháp tương ưng, nghĩa là Vô thường tương ưng v.v… với pháp hữu vi.

Xoay vần giảng nói. Nghĩa là Chư Phật quá khứ đã nói bốn pháp này, truyền đến hiện tại. Chư Phật hiện tại nói bốn pháp này, sẽ truyền đến vị lai. Phàm phu nương tựa, tìm kiếm dấu ấn của bốn hạnh này, có thể hướng về quả thù thắng của người, trời, gọi là thu hướng Đại sinh, bậc thánh nương tựa, tìm kiếm dấu ấn bốn hạnh này, sẽ được thoát ly ba cõi, gọi là xuất thứ nhất.

Có giải thích “Đầu tiên, trong nghĩa Vô thường, là hỏi, giải thích, kết.

Trong giải thích có hai “Đầu tiên, là y cứ ở Biến kế sở chấp để giải thích về Vô thường, luận Trang Nghiêm nói “vì nghĩa vô là nghĩa

Vô thường, vì tướng phân biệt rốt ráo là không.”

“Lại, tức quán pháp kia…” trở xuống, là thứ hai, y cứ pháp nhân duyên của y tha, nhằm giải thích nghĩa Vô thường, trong đó có ba:

  1. Quán tự tánh của y tha vô thường.
  2. Y cứ ba đời để nói về Vô thường.
  3. Đến bốn tướng, để nói Vô thường.

Đầu tiên nói rằng “Cho đến không hiểu biết (Vô minh) là nhân sinh, diệt có thể được v.v… Luận sư Cảnh nói “ở đây nói về tự tánh y tha không thể nói năng, như mắt chứng sắc, cho đến thân được cảm xúc không thể nói năng, như uống nước lạnh. Người chứng tự biết. Nếu nói năng, tất nhiên, sẽ không thích hợp với những gì mình đã chứng. Tự tướng các pháp nhân duyên đều như thế. Nếu muốn Khởi nói, chỉ nói cộng tướng, nghĩa là nói chung về sắc, tức là nói tất cả thể của sắc đều cùng tận. Nếu nói màu xanh, tức nói, tất cả màu xanh đều cùng tận. Như một niệm nhãn căn thấy một Niệm sắc, như thế, tự tướng sát-na dứt ngay, nói không thể được.

Do không thể biết rõ tự tánh của hình tướng, ngôn thuyết, chỉ tùy theo ngôn thuyết ấy chấp có tánh cố định biến kế sở chấp. Khi chấp như thế, sẽ huân tập hạt giống trở thành hạt nhân sinh ra pháp sắc, tâm v.v… của y tha kia, có sinh thì có diệt, nên gọi là Vô thường.

Luận sư Trắc nói “Do không biết rõ hai thứ chân thật: Tánh như sở hữu và bốn thứ chân thật thế gian, nên khởi chấp các pháp Vô minh hí luận, khởi lên năm uẩn hữu lậu của các thế gian sinh, diệt có thể được.

Kế là, quán các hành Vô thường của ba đời, do các hành kia không có nhân để được, cũng không có tự tánh, nghĩa là nói các hành quá khứ kia không có tự thể tánh, nghĩa là nói các hành quá khứ kia không có tự thể tánh, cũng không có khả năng sinh ra nhân.

Luận sư Trắc nói “trong văn này phương Tây có hai giải thích:

1. Rằng “Về đạo lý của pháp tướng đối với một pháp hiện tại, Kiến lập ba đời, nghĩa là trên hiện pháp, vì đã từng không có, nên gọi là vị lai. Vì đương lai không có, nên gọi là quá khứ. Vì đã có chưa diệt, nên gọi là hiện tại. Đây là y cứ ở đạo lý thắng nghĩa. Nếu theo đạo lý thế Tục, thì cũng được nói là quá khứ, vị lai cũng có, vì từng sẽ có. Y cứ theo đạo lý này, đều được nói là “có”, “không”, cũng có, cũng không có, chẳng phải có, chẳng phải không. Đây là nghĩa của Luận sư nhằm phá y cứ ba pháp, ba đời đều có thật thể.

2. Lý Duy thức lập ra ba đời, nghĩa là trên thể của Kiến phần ở hiện tại có tướng của ba đời mà được biểu hiện rõ ràng, nên nói là ba đời, y cứ sự thật là thuộc về hiện tại.”

Hỏi “Quá khứ, vị lai v.v… đều là không vì sao là Vô thường, ba tạng có hai giải thích:

a/ Vị lai vốn là không, vì là sẽ có nên gọi là vô thường, b/ quá khứ cũng là không, vì từng là có, nên gọi là Vô thường.”

Rằng “Sẽ có, gọi là Vị lai. Lúc đang có, vì “sẽ có”. Không có, nên gọi là Vô thường. Trở lại không có, gọi là quá khứ. Chính khi đang có vì trở lại không có, nên gọi là quá khứ Vô thường.

Trong quán bốn tướng, 1) Nói về bốn tướng. 2) rộng phá chấp của người ngoài.

Trong phần trước, nói, mỗi sát-na đều có ba tướng. Sau sát-na, lại có tướng hữu vi thứ tư. Luận sư Cảnh nói “Ba tướng hiện tại, đồng với nghĩa Thể, nói là quá khứ của tướng diệt.”

Hỏi “Nếu vậy, thì trái với thuyết của kinh nói tức sinh, tức già, tức diệt sao?”

Giải thích “chưa hẳn bốn tướng đồng thời gọi là “tức”. Nay, nói lập, tức là pháp sinh này sẽ diệt hoại, không còn có pháp nào khác, nên nói là “tức”.

Luận sư Trắc nói “Thuật lại hai giải thích của phương Tây:

1. “Ba tướng không có trước, sau. Cho nên, tướng sinh của Đạo Vô ngại, tức khi pháp “hoặc” diệt, chẳng phải cho là cùng một lúc mà cả hai pháp đều biểu hiện.”

2. “Ba tướng có trước, sau, nghĩa là sinh và trụ, dị. Tướng sinh cùng một thời gian với tướng trụ. Cho nên, tướng trụ của pháp “hoặc”, đạo Vô ngại ở tướng sinh đều ở đời hiện tại, vì ba tướng ấy đều ở trong sát-na hiện tại tướng Diệt thứ tư ở quá khứ, nên nói trong mỗi sát-na v.v…”

“Tức ở trong đây, cho đến chánh quán là diệt.” Nghĩa là duyên sinh mới, cũ, chứ chẳng phải là các hành ở trước, nay lại nói là sinh. Pháp sư Khuy Cơ nói “Nếu tức hiện tại đồng thời với Dị mà gọi là Diệt, thì Diệt là không có pháp, còn Trụ, Dị là có pháp. Làm sao có pháp đều cùng lúc cũng không có pháp? Cho nên, Luận này nói rằng “Từ các hành sau khi sinh sát-na, tức tự tánh của các hành sát-na đã sinh này diệt hoại, chính thức nói là Diệt, tức do có pháp không có khi nào đến thời quá khứ mới lập tướng Diệt, cho nên, sinh, diệt, sáng, tối mà không đồng thời.”

Hỏi “Nếu như vậy, thì một sát-na không có bốn tướng?”

Nghĩa là “Pháp này diệt, là khi pháp này sinh, như hai đầu cán cân đều ngang bằng nhau, cho nên, một sát-na có sinh, có diệt.”

“Nếu vậy, thì vì sao trước diệt, sau nói sinh ư?”

Nghĩa là “ Vì từ đầu tiên nói, do lúc đầu phải có sinh.” Hỏi “Trong các kinh đều nói ba tướng hữu vi, ba là gì?” Nghĩa là “Có hai nghĩa:

1. Đem trụ vào Dị, vì trụ giống như vô vi. Lại, nếu nghe nói các pháp có Trụ thì sẽ nhàm chán hữu vi, vì tâm không mạnh mẽ. Lại, Trụ có thể lôi kéo pháp sinh sau, thì đối với Diệt sẽ không có công dụng, nên sáp nhập Trụ vào Dị.

2. Nói đem Dị nhập trụ. Trụ đối với sát-na của mình vì có công năng, nên sinh rồi, chưa hư hoại, nói là Trụ, nên có công năng, nói Dị là khác với pháp trước. Vì đối với niệm của mình không có công năng, nên sáp nhập Dị vào Trụ. Dị thuận với tự tánh không hiển lộ của tướng Diệt, cho nên sáp nhập Dị vào Trụ.

Nếu vậy, thì sao không sáp nhập Dị vào Diệt?

Nghĩa là “Vì Dị có pháp, còn Diệt là không có pháp. Một là quá khứ, một là hiện tại. Về tướng mạo dù có giống nhau, nhưng không thể nhiếp nhập tướng Diệt.”

Nay, lại có giải thích “Tướng Diệt y cứ ở phần vị, dù ở quá khứ mà giả lập làm tướng, cũng ở hiện tại lúc sắp diệt, vì có sinh thì phải có diệt. Tiểu biểu Vô vi sau hiện pháp này, pháp này là tướng Diệt. Do nghĩa này nên một sát-na có đủ bốn tướng. Nhưng trong luận này y cứ thật sự không có phần vị để nói. Cho nên nói rằng “Ở sau sát-na, lại có thứ tư.”

Dưới đây, là phần thứ hai rộng phá chấp của người ngoài:

Nếu theo Tát-bà-đa thì, ngoài pháp, có riêng thể của bốn tướng chẳng phải sắc, chẳng phải tâm. Thể riêng đồng thời, mà dụng có trước, sau.

Nếu theo luận Thành Thật , thì Thể đồng, mỗi thời gian đều lìa các pháp sắc, tâm v.v… không có bốn tướng riêng, nên nói là Thể đồng. Nhưng mới sinh, kế là Trụ, cuối cùng Dị, sau Diệt, nên gọi là thời gian khác nhau.

Nay, Đại thừa nói “Nếu giả, thật, khác thường, dụng hợp, gốc khác, thì tướng ngôn thuyết khác với pháp, không đồng với Luận Thành Thật. Nếu tìm kiếm giả không lìa Thật, tìm kiếm quả không lìa nhân, thì ngoài pháp ngôn thuyết không có bốn tướng riêng, không đồng với phái Tát-bà-đa. Lại, ba tướng đồng thời, không đồng với Thành thật hoàn toàn khác thời, sinh, diệt trước, sau, không đồng với Tát-bà-đa hoàn toàn bốn tướng thường đồng thời.

Văn chia làm hai:

1. Y cứ hai tướng lớn, nhỏ để phá thật có.

2. “Lại, người Thiện nam…” trở xuống, là y cứ ở quán giả có, để thành phá thật có.

Trong phần trước có hai:

1. Lược phá bốn tướng ngoài pháp.

2. “Bốn thứ như thế…” trở xuống, là phá rộng bốn tướng ngoài pháp, trong đó, gồm có: a) Sắp phá, trước phải, bày tỏ chánh nghĩa. b) “Trong đây, Bồ-tát…” trở xuống, là phá chấp tà trong đó có hai: a) Nói về quán chung chẳng phải thật b) “Lại, các Bồ-tát…” trở xuống, là dùng lý để gạn riêng, để phá thật có.

Trong phần trước nói “Vì sao cho đến không có riêng sinh, già, trụ, diệt khác.” Pháp sư Khuy Cơ nói “Vì sao không đồng như đây? Lại, nêu bốn tướng, là dùng pháp nhiếp để ngăn ngừa pháp. Nếu pháp nhiếp vì nhiếp lẫn nhau, nên chỉ nói các hành sinh, cho đến các hành Trụ, già, Diệt. Nếu pháp ngăn ngừa thì cần phải ngăn ngừa,vì có thể của bốn tướng riêng. Vì pháp ngăn ngừa khắp, nên nêu chung bốn tướng.”

Hỏi “Vì sao trong ngăn ngừa Sinh, cho đến Trụ, Diệt cũng thế ư?”

Nghĩa là “Vì trong Trụ cũng có Sinh. Do lúc Sinh có Trụ v.v… nên Đại sinh sinh ra tám pháp v.v… cho nên, ngăn ngừa khắp.

Trong văn thứ hai, chia làm hai:

a) Y cứ bốn tướng để phá thật có. b) “Nếu pháp Diệ…” trở xuống, là y cứ riêng tướng Diệt, để phá thật có.

“Như thế, tìm cầu không thể được”, nghĩa là nếu lìa các hành v.v… của các sắc v.v… kia, thì phá cái sinh của sinh sắc này lẽ ra cũng có sinh, tức Tiểu sinh (sinh nhỏ) trong Tiểu thừa. Nếu nói là một cho đến không hợp với đạo lý. Sinh nhỏ sinh ra bản sinh mà là một với Đại sinh (sinh lớn). Cũng sinh lớn sinh ra các hành, tức là một với các hành. Cho nên, chấp có Sinh riêng , tức gọi là Vô ích (hoang đàng), cho đến không hợp với đạo lý.

Nếu nói Dị là to lớn thì không hợp lý, nghĩa là Tiểu sinh đối với

Thể, tướng của Đại sinh đều khác mà sinh ra Đại sinh ấy thì lẽ ra Tiểu sinh phải khác với hành, mà thật sự có thể sinh ra thể của hành, vì đều khác nhau, nên không hợp lý.

Pháp sư Khuy Cơ giải thích “Chẳng phải hành sinh, sinh là Tiểu sinh. Là Hành sinh, sinh tức Đại sinh. Nếu ông nói Đại sinh khác với Tiểu sinh cũng sẽ giống với Đại sinh, nên có thể sinh ra sắc. Đại sinh sinh ra sắc, pháp, cũng có thể sinh ra Tiểu sinh. Tiểu sinh sinh ra Đại sinh, lẽ ra cũng sẽ sinh ra pháp. Cho nên, Tiểu sinh chẳng phải là hành sinh sinh ra, cho nên, hai sinh khác nhau thì không hợp với đạo lý. Dưới đây, phá riêng tướng Diệt:

Ý cho rằng: “Nếu các tướng Diệt khác với tánh của hành mà tiêu diệt các hành ấy là tức một tướng Diệt sinh ra tất cả pháp lẽ ra diệt, vì thể của nó khác mà vì tướng Diệt. Thí như ánh sáng sinh, tất cả bóng tối diệt. Như thế thì lẽ ra ít dùng công sức có thể diệt các hạnh. Như nhập Diệt định, các tâm, tâm pháp tất cả đều diệt. Lại, trước do tướng diệt sinh, nên các hành diệt theo, tức do tướng Diệt Diệt, nên trước Diệt các hành, tức lẽ ra sinh trở lại, do không có pháp trái nhau. Pháp sư Khuy Cơ nói “Chia văn này là phần thứ hai phá riêng tướng diệt là không đúng. Nếu giải thích sinh kia sinh ra thì so sánh với tướng khác đã xong. Dưới đây, là nêu Diệt sau để phá, nói chung là một cách dịch.

Y cứ vào quán giả có thứ hai, thành phá thật có, nghĩa là “Lại, người thiện nam, đối với pháp ba đời, nếu là thật có mà quán là giả, sẽ được giải thoát thì không hợp lý, đây là giải thích ngược lại.

Với tướng vi này là hợp lý, nghĩa là do pháp của ba đời giả, thì vì quán biết giả, nên được giải thoát. Trong giải thích Vô ngã nói rằng “Biết rõ hai tánh Vô ngã của các pháp, nghĩa là Cựu luận rằng “Đối với tất cả pháp hữu vi, vô vi, vô ngã, ngã, ngã sở. Biết như thật chúng sinh Vô ngã là pháp Vô ngã, tương truyền giải thích rằng “Vô ngã nghĩa là nhân Vô ngã; ngã; ngã sở là pháp Vô ngã. Nay, thì không như thế. Nói chẳng phải có pháp, cũng chẳng phải lìa có pháp, nghĩa là phá thì chấp uẩn khác chấp ngã.

Trong giải thích Niết Bàn vắng lặng, trước là pháp, kế là dụ.

Trong pháp, gồm có:

  1. Giải thích danh Niết-bàn.
  2. Phát ra thể Niết-bàn.
  3. Y cứ người để nói.

Nói nhân trước dứt hẳn, nghĩa là hữu dư này diệt. Vô dư sau diệt, nghĩa là Vô dư này diệt. Ngoài ra, rốt ráo không khởi, không sinh, nói là Niết-bàn, nghĩa là do nhân quả của sinh, tử, ngoài ra, sẽ Khởi nhập phiền não khổ rốt ráo bất sinh nói là Niết-bàn. Lại, nhân trước đã dứt hẳn ở Đạo Vô gián. Vô dư sau diệt ở đạo giải thoát. Lại, nhân trước dứt hẳn ở gia hạnh khuất phục tâm trên. Vô dư sau diệt, dứt hạt giống. Ngoài ra, rốt ráo bất sinh, nghĩa là quả bất sinh, do dứtnhân. Kế là, là nêu thể. Dưới đây, y cứ nhập biện:

Bồ-tát Địa tiền chưa thấy Thanh văn, dù đối với Niết-bàn, miệng nói vắng lặng mà chưa thể chánh chứng. Nhưng Thanh văn kia cũng có tác ý như lý, nghĩa là cũng có tác ý tư lương dựa vào giáo pháp.

Kế dưới là nói về dụ, đầu tiên là nêu dụVương tử, kế là, nêu dụ người bệnh.

Trong phần trước, trước là dụ, sau là hợp. Trong thí dụ, có ba:

  1. Dụ lấy giả làm chân.
  2. Dụ nghe Chân, chưa hiểu.
  3. Dụ giác Chân, hổ thẹn.

Nói nai, trâu, ngựa, voi. Có giải thích “Vì Nai thường ở núi, chằm, nên dụ cho Độc giác. Trâu, chậm, ngựa nhanh, dụ cho Thanh văn có chậm lụt, có nhạy bén. Voi, dụ cho Bồ-tát.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Dụ cho bốn Niết-bàn: Voi, dụ cho Niết-bàn Vô trụ . Ba Niết-bàn còn lại không có dẫn đạo. Nay, không lấy nghĩa để so sánh. Nghĩa là nai, trước, sau thường ở núi yên tĩnh, dụ cho bản lai tịnh. Vì trâu có sừng, nên dụ cho Hữu dư y, vì ngựa không có sừng, nên dụ cho Vô dư y.

Trong hợp lại có ba: Trong hợp thứ ba, bậc Thánh của ba thừa khi nhập Kiến đạo, chứng lý Chân như, tức gọi là trí hiện chứng ở Chân Niết-bàn.

Dụ người bệnh, nghĩa là nói về giáo pháp thích ứng với căn cơ.

Trước dụ, sau hợp. Trong dụ có sáu:

  1. Dụ ứng cơ cảm Thánh.
  2. Dụ nghe giáo pháp, đổi chấp.
  3. Dụ khuyên nghe pháp thù thắng.
  4. Dụ chấp ở trước không bỏ.
  5. Dụ nói giáo pháp cạn, sâu.
  1. người ngu chưa hiểu.

Trong hợp có ba:

  1. Hợp với dụ thứ năm ở trước, cũng có thể hợp chung với năm thí dụ ở trước.
  2. Hợp với dụ thứ sáu
  3. Nhân đó nói về niềm tin thanh tịnh.

Nói “Nếu vượt hơn thượng thượng, cho đến “kể cả cùng cực vượt hơn v.v…” Luận sư Cảnh nói “Ba câu đầu: Hạ, gọi là Chánh giáo. Đầu tiên, là nói tên “thượng”; Kế là, nói là vượt hơn trên (thượng), lúc cuối cùng, gọi là cùng cực trên.

Ba câu kế là, hạ gọi là truyền dạy, khiến người kia khởi hạnh, có hạ, trung, thượng phối hợp với ba câu này.

Ba câu sau: Hạ, gọi là dạy răn, khiến người kia có lỗi, lìa lỗi có ba, nghĩa là hạ, trung, thượng phối hợp với ba câu này.

Pháp giáo là chung, ba câu dưới là riêng.

Pháp sư Thái nói “Ba câu đầu là nói trong ba phẩm của Bồ-tát thừa, nghĩa là ba đạo: Kiến, Tu, Vô học. Ba câu kế là, là nói ba phẩm đạo của Duyên giác thừa. Ba câu sau là nói ba phẩm của phần thượng, trung. Kế là, là ba phẩm của phần trung trung, sau, là ba phẩm của phần hạ trung.

Pháp giáo chánh giáo. Nghĩa là phương tiện giáo, gọi là pháp giáo, căn bản giáo, gọi là Chánh giáo.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Một giải thích về ba câu cùng cực trên v.v… là văn tuệ. Ba câu cùng cực sâu là tư tuệ. Ba câu cùng cực vượt hơn là tu tuệ. Trong ba Tuệ, mỗi Tuệ đều có thượng, trung, hạ. Lại, Pháp giáo, Chánh giáo là ba câu của ba phẩm cùng cực trên. Truyền dạy là ba phẩm của ba câu cùng cực sâu. Răn dạy là ba câu của ba phẩm cùng cực vượt hơn.”

Lại, trong ba tuệ trước, mỗi tuệ đều có phẩm của ba câu pháp giáo, chánh giáo v.v… theo thứ lớp phối hợp.

PHẨM CÔNG ĐỨC

Trên nay là nói riêng về chủ thể Học có mười phẩm, được chia làm ba: Bảy phẩm đều nói về tự phận kia. Kế là, có hai phẩm, nói về thắng tấn đã xong.

Nay, phẩm này nói về nhân thành, quả mãn kia. Công, là công lao; đức là đạo đức. Dụng công mà được đức này, gọi là công đức. Trong đây, nói rộng, gọi là Phẩm Công Đức.

Trong văn, trước hỏi, kế là, giải thích. Có năm bài tụng nói về hai mươi bảy pháp môn, hai mươi lăm thứ chính là nói về công đức.

Từ nêu danh này, lui sụt, rơi vào giống nhau, thật ra chẳng phải công đức, vì theo nhau nên đến.

Năm bài tụng, chia làm bốn lượt, dùng hai bài tụng sau làm một lượt. Bài tụng đầu nêu bảy danh, văn xuôi giải thích theo thứ lớp.

Bồ-tát thành tựu năm pháp không hiếm, lạ gọi là thành tựu rất hiếm lạ. Luận sư Cảnh nói “Khi lợi ích người tức như việc của mình, gọi là không hiếm, lạ. Pháp sư Cơ nói “Y cứ ở tướng mà nói con người đều có thể được thọ, là không hiếm, lạ. Nếu lấy ý mà nói thì sẽ không từ bỏ việc này, gọi là pháp hiếm lạ. Lại, tự loại đối với nhau, thì không hiếm, lạ. Nhị thừa đối với nhau, rất hiếm, lạ.”

Vị vui mặc nhiên. Nghĩa là im lặng không có nói năng. Im lặng, thật sự là vui, chỉ vì hữu tình mà nói chánh pháp. Lại, tự nhập Niết-bàn, sự im lặng này thật sự là vị vui, vì hữu tình mà nói chánh pháp. Lại tự nhập Niết bàn, im lặng thật này là lạc vị, vì hữu tình cho nên nói chánh pháp.

Luận sư Trắc nói “Do tầm, từ đều khởi các ngôn thuyết. Tĩnh lự thứ hai trở lên, lìa Tầm, Từ kia, Khởi nhân ngôn thuyết, nên gọi là vị vui im lặng, mà vì giáo hóa hữu tình, nên bỏ các Tĩnh lự, thọ sinh cõi Dục, lợi ích hữu tình.”

Do năm nhân duyên tạo ra gia hạnh không giả dối đối với các hữu tình, cho đến “nên biết tướng kia”. Nghĩa là, như phẩm Cúng Dường ở trước đã nói “Nếu các Bồ-tát đủ năm tướng có thể là bạn lành, làm việc gì không luống dối:

1. Đối với người trước, muốn cầu thực thi lợi ích, yên vui.

2. Biết rõ như thật về lợi ích yên vui không có điên đảo.

3. Với phương tiện quyền xảo, thiện, thuận với phương thức nói pháp, tùy kham tiếp nhận công việc điều phục có khả năng, có công sức.

4. Thực thi lợi ích, tâm không nhàm chán, mỏi mệt.

5. Đầy đủ Đại bi bình đẳng, đối với phẩm vượt hơn trong các hữu tình yếu kém, tâm không nghiệng lệch.

Ở đây, giải thích đại khái hai thứ. Bài tụng thứ hai có sáu môn, đầu tiên, nói về gia hạnh:

1. Tùy thủ hộ Niệm, Tuệ gia hạnh làm tánh.

2. Trí tuệ gia hạnh không có tội, tinh tấn làm tánh. Hai thứ này đều phát ra thể của gia hạnh, ba thứ sau là y cứ ở địa vị.

3. Với sức tư duy lựa chọn địa vị gia hạnh ở Địa tiền.

4. Gia hạnh ý lạc tăng thượng thanh tịnh, nghĩa là nhập Sơ địa cho đến thất Địa.

5. Rơi vào gia hạnh quyết định, nghĩa là bát, Cửu, Thập Địa, hừng cháy không có trái ngược, tức là tinh tấn.

Công đức giống nhau, thứ năm, là công đức chân thật, hai môn này, ở Luận Trang Nghiêm hợp thành một.

Đại khái ở mười chỗ không trái ngược, điều phục hữu tình v.v…

đã giáo hóa. Nghĩa là nếu theo Cựu luận nói rằng “Trong hai mươi điều phục chúng sinh, có mười thứ, gọi là điều phục chính. Mười thứ đó là: Lìa các triền, lìa phiền não, phân biệt giới ác, tương truyền rằng “Lìa triền, là lìa tám triền, lìa phiền não, nghĩa là mười Sử huân tập phiền não nặng, nói chung là chín.”

Lìa giới ác, nghĩa là lìa tâm tà của ngoại đạo, phân biệt giới gà.

Giới chim nói chung là mười, thuyết này không đúng.

Bài tụng thứ ba có năm môn, thọ ký có sáu. Luận sư Cảnh nói:

1. Địa vị chưa phát tâm an trụ chủng tánh, nghĩa là Thập Tín trở xuống đã có chủng tánh Đại thừa, Đức Phật đã thọ ký cho.

2. Địa vị đã phát tâm, nghĩa là từ Thập Tín trở lên cho đến Pháp Vân, đều gọi là địa vị phát tâm, Đức Phật đã thọ ký cho. Một cặp này là gồm thâu tất cả các thọ ký.

3. Địa vị hiện tiền, nghĩa là đối diện trước Phật, trực tiếp vâng lãnh thọ ký.

4. Địa vị không hiện tiền, nghĩa là không cầu ở chúng, Phật đều thọ ký cho. Cặp thứ hai này cũng gồm thâu tất cả, tất cả thọ ký không ngoài hiện tiền và không hiện tiền. Cũng có thể nhập Bồ-tát Địa, niệm niệm thấy Chân báo, Phật thọ ký, gọi là hiện tiền. Địa tiền chỉ thấy hóa Phật, không thấy được Chân thân, gọi là không hiện tiền.

5. Có giới hạn thời gian nhất định, nghĩa là trong ngần ấy thời gian, sẽ chứng Bồ-đề.

6. Không có giới hạn thời gian nhất định, chỉ ghi nhận chung rằng “Ông thực hành công hạnh này sẽ được thành Phật.” Một cặp sau này cũng gồm thâu tất cả.

Ba thứ rơi vào quyết định, nghĩa là nếu theo luận Trang Nghiêm, thì y cứ tu sáu Độ được sáu thứ quả để giải thích về quyết định.

Nay, ở đây chỉ y cứ ở ba thứ để giải thích về quyết định, tức là chủng tánh, phát tâm thực hành phương tiện. Về địa vị được nêu như trước.

Luận sư Cảnh nói “Tức trong sáu thọ ký ở trước, chỉ y cứ ở tự tại, khởi công hạnh lợi người, không có luống qua, nghĩa là Đức Phật thọ ký cho, y cứ trong mười điều hơn hết, Luận sư Trắc giải thích rằng “Trong tánh của ba thừa, chủng tánh Bồ-tát là hơn hết. Phát tâm nhất thiết trong mười thứ chánh nguyện là thù thắng. Đạo cần sách, tinh tấn Bát-nhã trong sáu Độ là hơn hết. Ái ngữ, lợi hạnh trong bốn Nhiếp là hơn hết. Trong Lưỡng túc hữu tình, Như lai là hơn hết. Trong Phạm, trụ thương xót là hơn hết, Tĩnh lự thứ tư trong Thiên trụ là thù thắng, tam muội không trong Thánh trụ là hơn hết. Trong bốn Đẳng chí, Đẳng chí Diệt tận là hơn hết.

Phẩm Bồ-đề phần nói phương tiện khéo thanh tịnh trong hai phương tiện khéo là hơn hết.

Hai bài tụng thứ tư, gồm có chín môn: Một bài tụng đầu có bốn môn; bài tụng thứ hai có năm môn. Trong Pháp thi thiết nói rằng “Thứ lớp, Kiết tập, an trí, nghĩa là Ma-đát-lý-ca. Chế lập, nghĩa là Tỳ-ni. Lại, Pháp Ba thừa. Lại theo thứ lớp, gom góp văn kia an trí, gom góp nghĩa kia nhằm chế lập các pháp Học Xứ.”

Luận sư Trắc nói “Mười hai phần Giáo như Tố-đát-lãm v.v… đức Như lai đã nói rải rác khắp mọi nơi. Nơi Bồ-tát Văn thù, ngài A-nan Kiết tập, đã an trú văn, cú theo thứ lớp trước, sau, lập ra mười hai không thêm, bớt. Tướng đế trong ba môn tăng môn đế, là thể tướng của các pháp. Ngữ đế, nghĩa là giáo “năng thuyên” (chủ thể giải thích). Dụng đế, tức tướng ngữ trước, đều có tác dụng.

Bốn trước trong tăng năm môn là an lập, môn sau chẳng phải an lập.

Bốn đế trước: Luận sư Cảnh nói 1) Nhân đế, tức là Tập, Đạo.

  1. Quả đế, tức là khổ, Diệt.
  2. Trí đế, là trí của Bốn đế.
  3. Cảnh đế, tức là bốn đế sở tri.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Bốn thứ trước là Bốn đế.” Luận sư Trắc nói “Nhân gồm thâu nhân của thế, xuất thế; quả, gồm thâu quả thế gian, xuất thế gian. Đây là nhân, quả đối nhau gồm thâu tất cả. Trí, cảnh, tức là tâm cảnh đối nhau cũng gồm thâu hết tất cả. Hai môn trước trong tăng sáu môn, tức là Chân, Vọng đối với nhau; bốn môn sau là khổ, Tập, Diệt, Đạo.” Pháp sư Cơ nói “Pháp, thiện, gọi là Đế đế, pháp bất thiện v.v… gọi là Vọng đế. Trong Tăng bảy môn, Cảnh, Luận sư Trắc đồng nói “1) ái Vị là Tập; 2) Tai hại lỗi lầm, là khổ. 3) Xuất ly là

Diệt. ) Pháp tánh, tức là Đế phi an lập. 5) Thắng giải, tức là Đạo đế. 6) Thánh đế tức Diệt, Đạo. 7) Phi Thánh đế, nghĩa là khổ đế, Tập đế.” Pháp sư Khuy Cơ nói “Tai hại lỗi lầm của ái vị, là hai Đế khổ, Tập. Xuất ly, là Diệt đế, hoặc chung cả Đạo đế. Pháp tánh, là Chân như. Đế thắng giải, tức là dứt khổ, Tập, Đạo.

Bốn thứ trước trong Tăng tám là khổ đế, Tạp nhiễm là Tập đế, Hoàn diệt là Diệt đế. Thanh tịnh và Chánh gia hạnh là Đạo đế. Bốn thứ trước trong Tăng chín là bốn hành khổ phẩm hạ. Hai ái kế là, Ái là Tập đế, thứ bảy là gia hạnh của Đạo đế, tám, chín là Diệt đế.

Năm thứ trước trong tăng mười là khổ đế; phiền não nghiệp là Tập đế, hai thứ kế là Đạo đế; thứ mười là Diệt đế.

“Về bốn đạo lý như trước nên biết”, Cựu luận nói “Bốn thứ phương tiện lập bày, như phẩm Lực chủng tánh ở trước đã nói, thì Bốn nhiếp là bốn phương tiện. Thuyết này không đúng.

Nay, dựa vào đạo lý của luận này như Địa Thanh văn, quyển hai mươi lăm nói là bốn đạo lý như Quán đãi v.v… trong bảy hành tướng của Thanh văn thừa:

1. Tuệ không có trái ngược. Ở đây nêu ra Thể của thừa, là Tuệ trong Biệt cảnh, thường chứng Đế, lìa trái ngược.

2. Đây là đối tượng nương tựa của Tuệ, ngài Tam Tạng nói “Đây là Tâm Vương, lại đây là định. Luận sư Trắc nói “Là hạt giống y và Vô gián diệt y.”

3. Sở duyên (đối tượng duyên), tức là bốn Đế.

4.  Loại bạn, là các tâm sở khác.

5. Tác nghiệp, là nghiệp dụng của chủ thể dứt trừ “hoặc”.

6. Tư lương, là đạo phương tiện trước.

7. Đắc quả, là Niết-bàn.

Trong năm Vô lượng, trước nói về tướng, sau, Kiến lập theo thứ lớp.

Hữu tình Như ý địa quyển sáu mươi bốn nói. Nhưng với luận Hiển Dương, lại có điểm bất đồng. Nếu theo Cựu luận nói “Sáu mươi mốt chúng sinh.”

Sách-ha, Hán dịch là Nhẫn.

Môn Tăng bảy trong đối tượng điều phục Vô lượng, Cựu luận nói “Người trong những người ác, người đại trí trong người tiểu trí, điều phục hiện tại, điều phục ở vị lai, tùy theo điều phục vượt hơn, nếu được duyên hồi hướng như thế như thế.”

Luận này nói “Khinh chê v.v…” Pháp sư Thái nói “

  1. Chê bai Tam Bảo.
  2. Trung dung chẳng phải chê.
  3. Ưa nói rộng.
  4. Thích nói lược.

Luận sư Cảnh nói

“1) Khinh chê như việc của Điều-đạt, lấy khinh chê vào mình.

2) Trung dung, như nhóm họp chúng, dùng tối nhuyến ngữ để điều phục.

3) Trí nói rộng bốn; trí nói lược là sự khác nhau về chậm lụt, nhạy bén.

Luận sư Trắc nói “Bảy “duyên” dẫn đến điều phục, như đồng tử Thiện tài nhờ gặp các bực Thiện tri thức, mới được nhập đạo.

Tám bộ Chúng, như đã nói trong Ý địa trước.

Đối tượng mà đức Như lai giáo hóa trong tăng chín. Luận sư Trắc nói “Hoặc có một hữu tình chỉ được đức Như lai giáo hóa, như kinh Niết-bàn nói “Xá-lợi Phất có hai đệ tử:

  1. Người xỏ ngọc.
  2. Người giặt áo.

Cuối cùng không thể giáo hóa. Về sau, đến chỗ Đức Phật. Đối với người giặt áo, Ngài bảo quán xương trăng, đối với người xỏ ngọc, Ngài bảo quán sở tức. Chẳng bao lâu, cả hai người đều đắc đạo v.v… ”, cho đến thời tiết không đồng, cho nên nói “Điều phục Xa, gần.” Diễm-ma, Hán dịch là Tĩnh tức (lặng dứt).

Vô lượng cõi phương tiện điều phục, như ở trước nói, nghĩa là phẩm Thành tựu ở trên nói đủ hai mươi bảy thứ phương tiện khéo léo, nên Cựu luận nói rằng “Như phẩm Thành Tựu ở trước nói “Nếu theo luận Trang Nghiêm thì lấy mười hai phần giáo làm phương tiện.” Trong năm quả lớn:

1. Pháp Nhẫn sinh khởi, nghĩa là Kiến đạo.

2. Được hết lậu, nghĩa là Vô học.

Hai địa vị này được quả Tiểu thừa.

3. Phát đại nguyện, nghĩa là Thập tín.

4. Pháp nhẫn vượt hơn hết, nghĩa là Thập giải trở lên.

5. Thọ trì, đọc tụng, cho đến khiến chánh pháp trụ lậu, nghĩa là giáo pháp Đại thừa thường lưu hành. Các Bồ-tát vì tương ưng với bảy tánh lớn, nên gọi là Đại thừa v.v… nghĩa là ba tánh trước chỉ Địa tiền.

6. Tăng thượng ý lạc đại, chỉ ở Địa thượng.

7. Tư lương đại, Luận sư Trắc nói “Hai Địa trở lên.” Luận sư Cảnh nói “chung cho Địa tiền, Địa thượng.”

8. Thời gian đại, tánh có cả ở trước, sau.

9. Viên chứng đại, tức đã chứng Bồ-đề. Ở đây đồng với bảy tánh lớn mà luận Hiển Dương đã nói. Bảy tánh lớn của Đối Pháp với bảy nghĩa lớn của Trang Nghiêm, danh khác, Thể đồng, không đồng với Luận này.

Pháp Nhiếp Đại thừa. Luận sư Cảnh nói “Bảy thứ trên là giải thích nghĩa Đại, sáu thứ này là giải thích nghĩa Thừa, trong đó, ba thứ trước, là y cứ giáo để nói về Thừa; ba thứ kế, như thứ lớp văn, tư, tu tuệ, tức y cứ ở công hạnh, nhằm nói về Thừa. Thứ bảy là quả tri, thứ tám là quả đoạn, tức y cứ quả để nói về Thừa.” Luận sư Trắc nói “Năm thứ trước đều ở địa vị Thắng giải hạnh. Thứ sáu, ở Sơ địa trở lên, cho đến cửu Địa. Thứ bảy ở Địa thứ mười, thứ tám ở quả Phật .”

Trong Bồ-tát có mười rằng “Bồ-tát như thế, siêng năng tu học xong”, tức Kết văn đầu, pháp trì Bồ-đề phần ở trên.

Văn năng tu học, dưới đây Văn nói rằng “Mười loại Bồ-tát, đối với Bồ-tát Học, có thể chánh tu học. Trên đây không có chủ thể chánh tu học, tức kết đoạn văn thứ ba nói về chủ thể chánh tu học ở trước. Nên biết ba đoạn văn sắp xếp không đồng. Như Học trì thứ ba, phán quyết ban đầu, hai thứ đầu có văn sinh khởi không có kết. Chủ thể chánh tu học không có sinh khởi, có kết, nên biết rằng, so sánh hiển lược mà không nói, được chia làm ba đoạn.

1. Trụ chủng tánh, nghĩa là Thập tín trở xuống.

2. Đã thu nhập, nghĩa là Thập Tín trở lên, cho đến Pháp Vân.

3. Ý lạc chưa tịnh, nghĩa là ở Địa tiền.

4. Ý lạc đã tịnh, nghĩa là nhập Sơ địa.

5. Chưa thành tựu, nghĩa là cửu Địa trở lại.

6. Đã thành tựu, nghĩa là Địa thứ mười.

7. Chưa đọa quyết định, nghĩa là chưa nhập bát Địa, cửu Địa, tức văn ở dưới nói rằng “Chưa được nhập Địa quyết định, nghĩa là chưa nhập bát Địa. Chưa nhập quyết định hạnh Địa, nghĩa là chưa nhập cửu Địa.”

8. Đã rơi vào quyết định, tức đã được nhập.

9. Nhất sinh sở hệ.

10. Trụ hữu sau cùng. Pháp sư Cơ nói “Chủng loại Bồ-tát có ba:

11. Nhất sinh sở hệ, như Bồ-tát Di-lặc v.v… Trước kia, khi ở trong loài người, đối với địa vị Phật ở đương lai, nên có bốn sinh. Người, trời vốn đến hữu trong hai, như bảy lần sinh v.v… gọi là một Đại sinh. Nếu trụ nửa đời trong trời, gọi là một bản hữu, nên Luận Trí Độ nói Di-lặc ba đời. Nói là trừ thân thành Phật ở trong loài người, nên nói là ba.

12. Thân sau cùng.

13. Ngồi đạo tràng, hai điều này cuộc hạn ở thân Phật. Hóa thân đã thế. Hai thân thọ dụng dù không thấy, văn y theo đây, nên đều là thân thọ dụng, thất Địa trở xuống, gọi là nhất sinh sở hệ. Bát Địa về sau, gọi là thân sau cùng, lại vì vô sinh, nên ở tòa hoa sen, gọi là ngồi đạo tràng, thân Tha thọ dụng, như Tiền thân Bồ tát Quan Âm, gọi là nhất sinh sở hệ. Thân Đức Quan Âm gọi là thân sau cùng, ở tòa bảy báu, gọi là ngồi đạo tràng. Pháp thân Vô sinh thì không có nghĩa này.”

Luận sư Trắc nói “Như trụ ở cõi trời Đỗ-Sử-Đa, gọi là Nhất sinh. Gọi là đời sau cùng. Đây là y cứ ở hóa thân để phân biệt. Nếu y cứ ở thân Phật để phân biệt, như Kinh Hoa Nghiêm nói. Ở địa thứ mười tiếp nhận lợi ích hiện báo của địa vị Phật, tức là nhất sinh sở hệ. Kinh Hoa Nghiêm kia lại nói “Ở trí Ma-hê-thủ-la, ở lợi ích của báo đời sau, tức là Bồ-tát thân sau cùng. Pháp sư Nhân người Tân-La giải thích luận Trí Độ nói ba đời Di-lặc rằng “Đầu tiên sinh trong nhân gian, sinh trên cõi trời, trở lại đời sau đến trong nhân gian, đây là gồm có mười sáu tên trong danh hiệu của Bồ-tát ba đời.”

Luận sư Cảnh nói “Đầu tiên, nói về tên riêng Bồ-đề Tát-đỏa.

Luận Đối Pháp nói có hai giải thích:

1. Duyên “Bồ-đề kia và vì phát tâm với Tát-đỏa , nên gọi là Bồđề Tát-đỏa.”

2. Rằng “Tát-đỏa “duyên” Bồ-đề kia phát tâm, nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề Tát-đỏa, gọi là chung cho cả ba thừa, nên là tên chung. Ma-ha-tát ở dưới chỉ Đại thừa của ta, gọi là Đại hữu tình, cho nên là tên riêng.

Thành tựu giác tuệ soi sáng trên hết, v.v… là giải thích lý do được gọi là Đại. Mười phương vô biên như thế, cho đến đức bên trong đều riêng

Vô lượng, Vô biên, tùy theo đức đặt tên, danh cũng Vô lượng.

BẢN LUẬN QUYỂN 47

Phẩm Bồ-tát Tướng trong trì tùy pháp Du-già Xứ thứ nhất nói; bốn Xứ của địa Bồ-tát, đây là thứ hai.

Trì Du-già Xứ ban đầu, chính là nói về pháp sở học. Xứ này nói về học của người năng học sở học đã thành tướng Bồ-tát. Vì tùy theo pháp Sở học ở trước mà khởi sự tu, nên gọi là Tùy pháp Du-già Xứ.

Địa Bồ-tát đầu tiên nói “Có mười pháp Nhiếp thọ đủ đạo và quả của Bồ-tát Đại thừa:

  1. Trì
  2. Tướng
  3. Phần.
  4. Ý lạc tăng thượng.
  5. Trụ.
  6. Sinh.
  7. Nhiếp thọ.
  8. Địa tướng.
  9. Hạnh.
  10. Kiến lập.

I. Trì Du-già đầu tiên, trong đó lược chia làm ba trì:

1. Chủng tánh trì, tức là phẩm Chủng tánh

2. Phát tâm trì, tức Phẩm Phát Tâm

3. Bồ-đề phần pháp trì, Văn trong đó rộng, có mười sáu phẩm, gồm có mười tám phẩm làm Du-già Xứ ban đầu. Du-già thứ hai này có bốn phẩm, tức tăng thượng ý trụ của phần Tướng. Năm pháp sau, là Dugià thứ ba, tức là năm phẩm. Tướng của các phẩm sinh thứ lớp trước, sau là Du-già thứ tư.

II. Tướng, nghĩa là thành tựu pháp này nhập tướng Bồ-tát, nên gọi là tướng.

Phẩm này ở trước phẩm thứ hai, nên nói là Phẩm Tướng đệ nhất.

1. Trong Văn, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, bài tụng đầu và văn xuôi chia ra, chương môn.

2. Dựa vào chương để nói rộng.

Trong phần trước, đầu tiên, là nêu tụng, kế là, thuộc về văn xuôi. Ba chữ của một câu đầu trong bài tụng, nêu Bồ-tát chân thật đầy đủ năm tướng.

Kế là, biết nên…” trở xuống, là khuyên biết năm tướng, mỗi tướng đều đủ năm môn.

Nói năm thứ tướng của Bồ-tát chân thật…” trở xuống, là văn xuôi giải thích, nghĩa là năm thứ như thương xót v.v… lấy làm thể tướng.

1. Đầu tiên, là thương xót lấy từ bi làm thể. Chân thật thì dùng trí tuệ làm thể. Tướng giả thì dùng Vô nhuế làm thể. Dựa vào nhiếp thọ dưới, tức là dùng trí Tĩnh lự làm thể, do dựa vào Tĩnh lự, tu Từ bi.

2. Ái ngữ thì lấy bốn ngữ thiện làm thể. Dựa vào nhiếp thọ nhau ở dưới thì dùng Thi-La Bát-nhã làm tánh. Luận sư Cảnh nói “Đối tượng phát Ái ngữ, tức là Thi-la. Tâm, chủ thể phát ngôn ngữ, tức là Bát-nhã, nên lấy hai Độ làm tánh.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Vì từ luật nghi mà thực hành, dùng Bát-nhã để dẫn đường chúng sinh, cho nên, hai nhiếp thọ này nếu y theo phẩm Thí ở trước, thì giới là Nhiếp độ bốn nhiếp của phẩm Nhiếp, bố thí chỉ Nhiếp bố thí, bốn Độ còn lại, thuần là Đồng sự nhiếp. Nếu trừ bố thí, ba Nhiếp sự còn lại, đều thuộc về Độ trí tuệ. Nay, nói rằng Ai ngữ là Thi-la, đây là chính dựa vào giới mà thực hành. Nhưng dựa vào giới không nói dối v.v… là nói về giới kia không lìa Thể, vì tất cả hạnh đều do trí phát.”

3. Mạnh mẽ, trong đoạn văn dưới đây lấy ba pháp: Nhẫn nhục, tinh tấn, Bát-nhã làm tánh. Pháp sư Khuy Cơ nói “Y cứ sự thật, chỉ là Tinh tấn do Tuệ phát an thọ khổ nhẫn trong thời gian dài, cho nên gồm nói.

4. Dang tay tuệ thí là thuộc về Thí Độ.

5. Khả năng hiểu rất sâu về mật ý của nghĩa lý, tức là bốn Vô ngại.

Văn dưới đây lấy định, tuệ làm tánh. Nếu chỉ Khắc ghi Thể là tuệ, do định phát thì vì Tuệ vượt hơn, nên đều từ sự vượt hơn phát ra đồng thời mà làm và nói nhất định. Năm thứ này đều do dựa vào thực hành sáu Độ. Thành tựu năm thứ này, nhập tướng Bồ-tát.

Trong dựa vào chương để nói, trước, giải thích về năm tướng, năm chuyển. Sau, là kết khuyên, nên biết.

Trong phần trước, y cứ ở năm môn như như tự tánh v.v… mà phân biệt năm tướng, tức là năm đoạn.

Tự tánh của thương xót có hai:

  1. Ở ý lạc, tức là lợi lạc.
  2. Ý lạc làm tánh.

Theo luận Trang Nghiêm, lấy tư, dục làm tánh, theo Nhiếp luận, dùng dục và hai số thắng giải làm tánh.

Tự tánh của Ái ngữ, là như thuyết trước nói. Ở trước nói “an ủi, thí dụ, chúc mừng, vui vẻ là tùy theo lời nói của oai nghi phép tắc. Vượt hơn lời nói vô ích là lời nói thuận với giáo chánh pháp, đây là ba Ái ngữ khó thực hành.

Về Ái ngữ của chín môn, nói rộng như phẩm Nhiếp sự ở trước.

Tự tánh mạnh mẽ. Luận sư Cảnh nói “Cương quyết là trí tuệ; vững chắc, là nhẫn. Không có tánh yếu kém, có tinh tấn với thế lực lớn v.v… Pháp sư Khuy Cơ nói “Nay, ý văn chỉ nói riêng về Tinh tấn, tức là dùng ba thứ như mặc áo giáp Tinh tấn v.v… để phối hợp theo thứ lớp: Tánh bố thí vô nhiễm rộng lớn, gọi là dang tay Tuệ thí, cũng như đã nói rộng trong chín môn thí trước.”

Bốn Vô ngại giải và tức là ở trí chánh gia hạnh v.v… đã dẫn phát không trái ngược kia, nghĩa là bốn Vô ngại giải, chính là trí tánh sau hiểu rỏ nghĩa sâu sắc, tức là trí phương tiện trước của bốn Vô ngại giải, gọi là trí gia hạnh.

Chỗ nương tựa của sự thương xót. Luận sư Cảnh nói “Nói cảnh là Xứ (chỗ), nghĩa là “duyên” năm thứ có khổ và người làm điều ác v.v… mà vì cho thương xót, nên gọi là Y xứ (chỗ nương tựa). Khả năng hiểu được mật ý của nghĩa lý rất sâu cũng là năm y xứ.

Trong y xứ thứ nhất, Luận sư Cảnh nói “Nói dựa vào khế Kinh, thuận theo rất sâu, nghĩa là đối với lý Chân như, trí nông cạn không so lường được, gọi là rất sâu. Kinh nói “Hai không”, vì thuận theo Chân như, nên nói rằng “Thuận theo rất sâu.”

Rất sâu hiển hiện, nghĩa là do tìm kiếm “Hai không”, nên Chân như thể hiện rõ ràng.

Tánh không tương ưng với duyên tánh, duyên Khởi. Duyên tánh là tánh của bốn duyên, duyên khởi là mười hai duyên khởi.

Thể của duyên tánh duyên khởi như thế, lìa tánh Biến kế sở chấp cố định, nên nói tướng ưng với tánh không. Luận sư Trắc nói “Điều mà đức Như lai nói, thường dựa vào hai Đế, nên gọi là “thuận theo”. Lý của hai Đế vì lìa ngôn ngữ, dứt ý nghĩ, nên còn nói là “Rất sâu, rất sâu được hiển hiện rõ ràng.”

Nói tánh không, tức là Viên thành thật. Duyên tánh, duyên khởi, tức là Tục đế của y tha.

Trong y xứ thứ tư, Pháp sư Khuy Cơ nói “Các tưởng, nghĩa Tưởng, nghĩa là danh của chủ thể giải thích (năng thuyên); nghĩa là “sở thuyên” (đối tượng giải thích).

Luận sư Trắc nói “Nói làm sáng tỏ, trừ ý thú v.v… Nghĩa là khả năng làm rõ mật ý, loại trừ tâm nghi ngờ của người.”

Trong y xứ thứ năm nói rằng “Đối với tất cả pháp, nghĩa là giáo pháp ba tạng. “Pháp” là cảnh của Vô ngại của pháp. “Nghĩa” là cảnh Vô ngại cũa nghĩa, giải thích rõ cảnh Từ Vô ngại của lời, phẩm loại nói về cảnh Vô ngại.

Trong lợi của quả thương xót, đầu tiên, nói về lợi của quả. Kế là, dẫn thuyết để chứng thành. Sau, là kết.

Trong phần trước, 1) nói về lợi mình, dứt trứ oán hại v.v…

2) Khắp lợi người ở phẩm hạ, trong dẫn nói để chứng thành, Luận sư Trắc nói “Như trong kinh nói “Tu từ phước, lợi có mười một thứ: Ngủ yên, thức yên, Trời che chở, Phi nhân yêu mến, không bị thuốc độc, không bị binh đao, nước, lửa không làm mất mạng, ngủ không có chiêm bao xấu, chết sinh lên trời Phạm Thiên, còn sống được lợi ích.”

Xét kinh Hoa Nghiêm lại luận giải thoát đạo, nói về tu Từ có mười một công đức:

  1. Ngủ yên, không sợ hãi
  2. Thức yên, không có tướng xấu
  3. Không có mộng xấu

3) Được người thương yêu, nhớ nghĩ 5) Được phi nhân yêu mến

  1. Được Chư thiên che chở.
  2. Lửa, chất độc, đao, binh không hại được thân mình.
  3. Tâm mau được định
  4. Sắc mặt tươi sáng,
  5. Lúc qua đời, tâm không loạn
  6. Chưa được pháp vượt hơn, sinh lên cõi trời Phạm Thiên.

III. Phẩm Phần:

Tiếng Phạm là Bạc-nhẫn, Hán dịch gồm ba nghĩa:

1. Nghĩa phần vị.

2. Nghĩa phần loại sai khác.

3. Nghĩa giúp đỡ. Cựu luận gọi là phẩm Dực, nghĩa là thực hành bốn pháp, có thể mau chóng được quả, cũng như con chim nhờ vào đôi cánh nên bay đến chỗ nhanh. Nay, thì xuất phát từ hai phần vị tại gia, và xuất gia kia, Bồ-tát nêu tên là phẩm Phần.

Đối tượng nương tựa của năm tướng không ngoài hai phần vị tại gia, xuất gia, nên sau phẩm Tướng, kế là, nói về phẩm Phần.

Trong văn:

1. Đầu tiên, là chia ra, nêu về môn chương.

2. Dựa vào thứ lớp bốn chương, giải thích.

3. Phân biệt chung, trong giải thích phương tiện thiện xảo nói rằng “Như trước, tức là trong Địa Bồ-tát này v.v…

4. Nghĩa là bốn thứ trước, như đã nói trong mười hai phương tiện.

5. Như trong Nhân minh xứ.

6. Như giới.

7. Như trong năm nguyện. Về ba thứ sau, chỗ văn chẳng phải một: gần thì như trong phẩm Bồ-đề phần đã nói.

Tùy theo chủng tánh căn v.v… của người kia. Ngài Tam Tạng nói “Danh tánh của hạt giống hiện hành, gọi là căn.” Trong giải thích về lợi ích nói “Có thể đem lại lợi ích cho một phần hữu tình, cho đến một phần yên vui, một phần đều có. Pháp sư Khuy Cơ nói “Tức là bốn Nhiếp sự này, mỗi nhiếp đều có lợi ích, yên vui. Cũng được dù thí cho của người kia khiến họ phát tâm v.v… là lợi ích, hiện được vật dụng, là yên vui v.v…

Như thế, cho đến nhất nhất đều có đủ, y cứ mà biết. Nếu không như vậy, thì Lợi hạnh, ái ngữ tùy tăng nói lới ích, bố thí là yên vui. Đồng sự là chung cho cả hai, vì đồng là thiện, ác.

Ba môn trong Hồi hướng không trái ngược, nghĩa là tức khéo tu sự nghiệp là một, phương tiện thiện xảo là hai, lợi ích người là ba.

Trong phân biệt chung có hai:

1. Nói về bốn thứ này nhiếp khắp cùng tận pháp sở học của tại gia, xuất gia.

2. Nói về tại gia, xuất gia, dù đồng tu bốn sự, mà vẫn khác nhau khá nhiều về chỗ hơn, kém. Bồ-tát xuất gia mà có thể kiềm chế phạm hạnh. Pháp sư Cơ nói “Ý kiềm chế, là lấy nghĩa gò bó cách ngại nhau. Người xuất gia có giới cấm , y cứ ở sự ngăn ngừa ba nghiệp ác, nên như móc xích. Bồ-tát tại gia thì không như thế.

IV. Phẩm tăng thượng ý lạc:

Trong đây, là nói chung về nhập phát tâm, ý lạc của Bồ-tát có bảy thứ lợi người và mười lăm thứ tự lợi, lợi người. Từ việc này nêu danh. Trước đã nói về phẩm tướng, phẩm Phần, là đều là pháp hạnh. Công hạnh đã Khởi, tất nhiên phải xuất sinh từ ý lạc, nên sau Phẩm Phần, là kế là, nói về ý lạc. Nếu theo Nhiếp luận thì “Dục và Thắng giải là thể của ý lạc.” Nếu theo luận Trang Nghiêm thì “Dục và Tư là tánh của ý lạc.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Trong đây có người nói giống như tăng thượng, chỉ ở Địa thượng. Theo văn nói về nghĩa chung cho Địa tiền có ngại.

Trong văn, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, 1) Có một bài tụng chia ra môn chương. 2) Văn xuôi trở đi, dựa theo chương để giải thích.

Nửa trên của bài tụng, nêu chung về bảy tướng lợi người.

“Thương xót…” nửa bài tụng dưới, là nêu chung mười lăm tác sự ý lạc.

Y cứ trong văn xuôi giải thích, được chia làm hai: Trước, giải thích về thương xót, kế giải thích về ý lạc.

Trong phần trước nói rằng “Vì đủ thương xót nên gọi là thiện ý lạc. Luận sư Cảnh nói “Bảy thứ thương xót, phải biết là tưởng giả dối của Từ bi. Từ bi tức là không có tánh Nhuế, từ bi chân thật lấy trí tuệ làm thể, cũng có thể bảy thứ trở lên là ý lạc, vì tương ưng với thương xót, nên gọi là thương xót.”

Bị Luận sư nói “Thắng giải với Vô sân đều cùng từ bạn giúp đỡ, gọi là thương xót. Khắc thể trở lại là thắng giải. Lại, giải thích kinh, luận, gọi là là bất định. Hoặc có thuyết nói “Trí gọi là Đại bi, quán tưởng như thật.” Hoặc có pháp đương lai, như Hỷ Vô lượng trong quán tưởng giả dối.

Nói là cuối cùng không dùng phi pháp v.v… nghĩa là không dùng hành động của mười điều ác, phi pháp, phi luật, phi Hiền thiện và chỗ phi lý của tà pháp ngoại đạo, khuyến khích trao cho hữu tình.

“Nói là tên không có nhiễm, cũng gọi là Vô duyên. Pháp sư Cơ giải thích “Không cầu trả ơn, gọi là không có nhiễm, không mong cầu quả sau, gọi là Vô duyên. Lại, hai thứ đều gọi là vô nhiễm. Vì nhiễm chung cho báo và quả thế gian đời sau, nên “duyên” cũng có cả nhiễm đó.

Thứ hai, trong giải thích về mười lăm ý lạc, được chia làm bốn:

1. Nói về thể, nêu danh.

2. Giải thích.

3. Nói về mười lăm ý lạc, có thể tạo ra mười việc.

4. Kết nhiếp, nói về lợi. Bảy thứ trước trong mười lăm từ cảnh mà được tên. Kế là, có ba thứ từ nghĩa đặt tên. Năm thứ sau, từ địa vị mà được tên gọi.

Nói “Lại, các Bồ-tát không thanh tịnh ý lạc, đây gọi là nên điều phục ý lạc v.v… Nghĩa là Địa tiền chưa chứng pháp, chỉ hiện bốn thứ như thần thông v.v… nhằm điều phục ý lạc. Bát Địa trở lên, tự chứng Chân như, tu tập thần thông trong nhiều kiếp với thân đều cùng sinh, nên thanh tịnh ý lạc thiện thanh tịnh, là ý lạc “câu sinh”, dùng tánh của ý lạc thanh tịnh để thành tựu thiện thanh tịnh an lập.

V. Phẩm Trụ:

Trụ, nghĩa là gì? Tức nhân mười hai địa vị, chủ thể hữu trụ, hữu vi, vô vi trong Bồ-tát trụ, nên gọi là phẩm Trụ.

Trước kia đã nói rộng về các hạnh của Bồ-tát. Hạnh, tất nhiên nương tựa ở địa vị. Cho nên, sau phẩm ý lạc là nói phẩm Trụ. Trong phẩm này, trước là nêu câu hỏi ở trước. Kế là, nêu số, nêu danh. Sau, là hỏi đáp, giải thích.

Ba câu trong phần trước:

  1. Nhắc lại ở trước.
  2. Sinh sau, nêu số.
  3. Nêu danh.

Như thế, bắt đầu từ đầy đủ chủng tánh nói rộng, cho đến sở học của Bồ-tát như đã nói, chính siêng năng tu học, đây là nhắc lại mười tám phẩm Công đức trong trì thứ nhất. Đối với các tướng của Bồ-tát như đã nói, chính thức đồng hiển hiện, là phẩm tướng thứ nhất trong trì này.

Chính siêng năng tu học trong phần gia hạnh của các Bồ-tát, là phẩm Phần.

Ý lạc của Bồ-tát như đã nói, là phẩm ý lạc.

“Các chúng Bồ-tát…” trở xuống, là sinh sau, nêu số, trong đó, đầu tiên, là nêu Bồ-tát trụ. Kế là, nêu Như lai trụ. Trong phần nêu danh, 1) Nêu bài tụng, 2) Thuộc về văn xuôi.

Trong ba trụ tăng thượng tuệ nói rằng “Các Bồ-tát biết rõ như thật, chủ thể quán chân thật v.v… nghĩa là phẩm Đạo là chủ thể quán. Các Đế của phẩm Đạo là sở quán (đối tượng quán). Ngũ Địa quán còn lại là sở quán.

Bồ-tát Lục Địa quán biết chúng sinh, do mê không có trí, nên trôi lăn trong mọi nỗi khổ. Do ngộ có trí, nên các khổ thôi dứt. Chân quán nối nhau trong Địa thứ bảy, gọi là là không xen hở thiếu sót. Dù cũng “duyên” Tục, nhưng phần nhiều trụ Chân như, gọi là Vô tướng trụ.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Chẳng phải không có tâm hữu lậu ngăn cách, mà là dùng nhiều quán Vô lậu nối nhau để nói, nên nói là không có gián cách, chứ chẳng phải thật sự không có gián cách.

Trong bát Địa, Chân, Tục đều quán, gọi là không xen hở thiếu sót. Thuận theo từ Chân quán, gọi là Vô tướng trụ. Kinh Thiện Giới nói “Không thấy Bồ-đề và tướng chúng sinh nên nói là Vô tướng.”

Thứ hai, trong hỏi đáp, giải thích, đầu tiên, sơ lược, kế là, giải thích rộng.

Trong phần sơ lược chia làm hai:

  1. Giải thích riêng.
  2. Phân biệt chung.

Trong chủng tánh trụ, rằng, trụ Bồ-tát chủng tánh là thế nào? Nghĩa là hỏi về thể của chủng tánh. Thế nào là Bồ-tát trụ chủng tánh trụ? Nghĩa là hỏi về người năng trụ.

Trong phần đáp, dùng ba nghĩa để đáp chung hai câu hỏi trước:

  1. Tu tánh phước thiện
  2. Nói về tánh lìa nghiệp Vô gián v.v… thô, nhơ bẩn.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói “ các Bồ-tát trụ chủng tánh, tánh tự nhân, Hiền thành thục, cho đến rất nhiều pháp thiện, nghĩa là thành hạt giống.

Về hiện hạnh kia cũng hiển hiện. Thập tín trở xuống ở phần vị trôi lăn. Do năng lực chủng tánh khiến cho hạt giống kia hiện hành, nghĩa là thường khởi phần thiện của phước, chứ chẳng phải khởi thiện của phần giải thoát, thì là Thập Tín. Thập Tín, tức là gồm cả Giải, Hạnh, Trụ, chẳng phải chủng tánh trụ.

Trong văn dưới đây sẽ nói về hạnh vị khác rằng, từ mới phát tâm, cho đến chưa được ý lạc thanh tịnh, đã có các hạnh, tất cả đều trụ thắng giải, nên biết là khởi mọi điều thiện trong chủng tánh trụ, đều là phần phước, chẳng phải nghi ngờ, do tánh nhân, Hiền, thôi thúc loại bỏ phương tiện, cuối cùng chẳng phải do tư căn v.v… tư, nghĩa là do sức chủng tánh, đôn đốc tu thiện của phần phước v.v… Luận sư Trắc nói “Bồ-tát thích ứng với rất nhiều pháp thiện đối với hiện hạnh kia, nghĩa là có hai giải thích:

1. “Bồ-tát Thập Trụ trở xuống, gọi là chủng tánh trụ. Y cứ khi chưa phát tâm, đã thích ứng với hiện hạnh trong thiện căn của phần trước, nghĩa là dựa vào phần ở trước, cũng có nghĩa năng hiện hạnh. Nếu đã phát tâm, thì không hiện hạnh.”

2. “Bồ-tát Thập Trụ cũng gọi là chủng tánh. Đối với pháp thiện được thích hợp, tức là sáu Ba-la-mật hữu lậu. Nếu theo giải thích trước, thì có một vài điểm bất đồng với Nhiếp luận: Nhiếp luận thì y cứ vào ba-tăng-kỳ để chia làm năm người của ba địa vị. Dựa vào năm người của ba địa vị này làm thành mười hai trụ. Chủng tánh trụ của Bồ-tát kia y cứ ở phát tâm”, còn luận này nói rằng, chủng tánh là phần vị chưa phát tâm, nên không tương đương.”

Ngài Tam Tạng xét Nhiếp luận của bản Phạm thì nay không có văn của mười hai trụ, nên không cần giải thích. Luận Nhiếp Đại thừa cũng không có văn của mười hai trụ. Do đó, nghiệm biết Tam Tạng Chân đế đã dịch lầm.

Ở đây nói rằng “giữ gìn hạt giống của tất cả Phật pháp ở trong nội thể. Luận sư Cảnh nói “Lời nói này là chung.”

Đã đầy đủ trong sở y (đối tượng nương tựa): Đây là y cứ ở chỉ định riêng, thì gìn giữ hạt giống của tất cả Phật pháp kia trong A-lại-da, gọi là trong sở y.

Luận sư Trắc nói “Ở đây, sáu nhập thù thắng trong chủng tánh đã nói trên, lần lượt nối tiếp nhau, vô thỉ pháp nhĩ nghĩa đó là một. Ở trong tự thể, ở trong sở y, cũng là Nhiếp luận dựa vào Bản thức. Sở y của hạt giống có hai:

1. Môn Chân thật lý thì dựa vào A-lại-da mà chuyển.

2. Môn Tùy chuyển lý, dựa vào thân năm uẩn mà trụ. Kế nói rằng, tánh lìa Bồ-tát, cho đến tạo nghiệp Vô gián. Luận sư Cảnh nói “Bồ-tát chủng tánh dù còn trôi lăn trong phàm phu, nhưng không khởi sân thô, mạnh mẽ, nhạy bén, soạn năm luân Vô gián, tà kiến, dứt điều thiện, chỉ vua A-xà-thế giết cha, Đạt-đa làm thân Phật chảy máu v.v… đều là Bồ-tát học đã lâu, quyền hiện đồng với phàm, dẫn dắt người gây ra năm tội nghịch, để họ sớm sửa đổi, ăn năn.” Pháp sư Thái nói “Chủng tánh có hai:

1. Tánh chủng tánh, nghĩa là từ vô thỉ, phàm phu có tánh Đại thừa, cũng tạo Vô gián dứt thiện.

2. Tập chủng tánh, nghĩa là ở trước Thập Tín, phát tâm Bồ-đề và địa vị Thập Tín. Nay, nói về Tập chủng tánh, nên tánh lìa thô, nhơ bẩn.

Trong Thắng giải hạnh nói rằng “Từ phát tâm cho đến gọi là Giải hạnh trụ, phát ra hạnh vị kia. Luận sư Trắc nói “Thuật lại hai giải thích:

1) “Tự Thập Tín trở lên, đều gọi là phát tâm trụ.” 2) “Từ Thập Giải trở lên, mới gọi là Phát tâm.

Nói mười một chủng tánh khác trong chủng tánh trụ và Như lai trụ, chỉ có nhân chuyển biến nhiếp thọ nhân kia v.v… tức là đối với trước, sau để phân biệt sự khác nhau, nghĩa là chỉ thành sát trong chủng tánh trụ, về sau, sẽ trụ ở nhân, chưa khởi hiện hạnh, phát hạnh thu hướng. Luận sư Cảnh nói “Phải biết rằng, trước đây đã nói là mọi công hạnh hiện khởi trong chủng tánh trụ, hiện Khởi, chỉ là phần phước được ngay, nên gọi là được tức khắc. Vì “giáo hạnh” thành tựu ngay, nên gọi là được tức khắc. Vì “chứng hạnh” được thể hiện rõ tức khắc, nên gọi 52 là tịnh tức khắc.

Thế nào là Bồ-tát kia trụ? Trụ sở trị riêng, có Vô lượng phẩm, vì Như lai trụ tướng, chỉ có một phẩm, nên có khác nhau?

Luận sư Trắc nói “Được các công đức, sao là được ngay? Lìa các lỗi lầm, sao là tịnh ngay? Nếu y cứ ở hiện hành thì không thể hiện hành ngay, nhưng vì thành thục, nên nói là được ngay.”

Trong Vô ngại giải trụ nói rằng “Đối với các môn khác của các pháp, nói là nghĩa Pháp biện, hướng đến nghĩa biện, nhằm giải thích sự khác nhau giữa Từ, Từ biện. Biện, tức là bốn biện tài. Phân biệt về biện tài trong phần sơ lược đã xong.

Dưới đây là nói chung, có hai:

  1. Nói về đối tượng tạo tác không đồng.
  2. Nói về công hạnh v.v… thắng giải có khác nhau đối với chứng Vô tướng.

Cho nên không nói chủng tánh trụ, là vì trong đây, chỉ muốn nói về tướng phát tâm Khởi hạnh. Ở Sơ trụ vì không có tướng này, nên không cần giải thích. Hạnh thắng giải trụ công việc làm hẹp, nhỏ. Viễn Pháp sư nói “Vì công hạnh hướng đến hạn chế ít, vì nên gọi là hẹp; vì không thể thường xuyên thực hành, nên gọi là thiếu; vì hạnh, tâm không Hiền, nên nói là bất định; vì hễ gặp “duyên” liền mất mát, nên nói là có lui sụt.”

Luận sư Cảnh nói “Vì mọi công hạnh đã khởi, chưa chứng Pháp giới, nên nói là hẹp, nhỏ; chưa thể lìa lỗi, nên nói có thiếu, vì có khởi, không khởi, nên gọi là không nhất định. Địa tiền là địa vị phàm phu, nói chung là lui sụt. Công hạnh của lục Địa như cực Hỷ v.v… xứng với Pháp giới, gọi là rộng lớn; lìa lỗi nói là không thiếu; thường khởi các công hạnh, gọi là quyết định. Chứng lý, nói là bất thối. Thất Địa, nói là Vô tướng ban đầu. Bát Địa, nói là Vô tướng thứ hai. Thất Địa trở lại, chỉ đối với mỗi công hạnh, mà khởi tất cả công hạnh. Bát Địa trở lên, vì khởi tất cả hạnh trong tất cả hạnh, nói là Vô lượng. Công dụng của thất Địa, về sau, gần lên bát Địa , về tướng thì từ chung, nên nói là Vô lượng.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Có sở đắc, có lui sụt, chứng tỏ công hạnh không nhất định. Lại, không nhất định, nghĩa là việc làm không thuần. Có lui sụt, nghĩa là không thể thuần, tiến tới. Lại, bất định là vẫn còn có tâm do dự, nghĩa là vì không thể tiến hơn, cho nên lui lại.

Trong sai khác của Vô tướng, nếu theo Cựu luận, thì chỉ có bốn trường hợp: Lấy ai Vô Tướng trụ hợp với tu tịnh, luận này có năm trường hợp:

1. Ở Địa tiền, chưa thể chính có khả năng Vô tướng Chân như, chỉ có phát thú.

2. Lục Địa trước, đối với Vô tướng trụ, dù tu, nhưng vì chưa viên mãn, nên nói là đạt được.

3. Địa thứ bảy, nói là chứng đầy đủ viên mãn. Ở đây có hai giải thích:

4. “Tướng của ba Địa đầu, đồng với phàm phu. Tứ Địa, phẩm Đạo. Ngũ Địa, Tứ đế. Lục Địa duyên Khởi, tùy sự quán riêng Vô tướng, không viên mãn.”

Bỏ các tướng của lục Địa trước trong Địa thứ bảy, vì nhập mười thứ hạnh thù thắng của thất Địa, nên nói là Vô tướng viên mãn, như nói rộng ở sau.

a) “Y cứ sự thật để giải thích, lục Địa trước, thời gian nhập Chân quán ít, Khởi Tục quán nhiều, nên gọi là không viên mãn. Trong Địa thứ bảy, thời gian nhập Chân quán nhiều, thời gian xuất quán ít, nên nói là viên mãn. Lại ở Địa này, vì Chân, Tục song hành, nên nói là viên mãn. Lại ở địa này chân tục song hành nên gọi là Viên mãn.

b) Bát Địa vì đủ thanh tịnh, lìa công dụng.

5. Cửu Địa, Tậhp Địa, tu đủ quả, được lãnh thọ, nên nói là do tu hành viên mãn, nên chỉ có thể lãnh thọ.

Luận sư Cảnh nói “Vì hai Địa sau, Chân, Tục đều không có công dụng, là tu, học Vô tướng.”

Dưới đây là thứ hai, nói rộng, trong đó cũng có hai: trước riêng, sau chung. Trong phần trước không nói ý sơ trụ, nghĩa như giải thích ở trước. Y cứ nói thắng giải hành trụ, có hai: đầu tiên là nói tướng hành trạng, sau nói về ba phẩm nhẫn.

Trong phần trước, gồm có: Hỏi, giải thích, kết.

Hạnh là sao? Trạng thái là sao? Tướng là sao? Ngài Tam Tạng nói “Hạnh, tức là trạng thái, trạng thái, tức là tướng, danh khác, mà nghĩa một.”

Luận sư Trắc lại thuật lại hai giải thích:

1. “Trụ riêng có ba thời gian khác nhau, nên nói về Hành, trạng thái, tướng, như thứ lớp phối hợp.

2. “Kiến, tướng, gọi là hành; Tự chứng, gọi là trạng thái, chứng tự chứng phần, là gọi là Tướng.”

Nay, xét theo Cựu luận, chỉ hỏi có hành tướng gì? Lại, trong phần đáp dưới đây, không có giải thích riêng, có ba. Lại, theo ngài Tam Tạng đã nói trước đây.

Trong giải thích có hai:

  1. Nói riêng về tu vượt hơn chưa thành.
  2. Nói về đức thù thắng chưa đủ.

Trong phần trước Văn có chín lượt. Đầu tiên, do tư duy, giải thích, mới có thể tu tạo, chưa thể nhậm vận thành xong tu vượt hơn. Tu vượt hơn, là nhân định. Do định mà sinh ra quả thần thông v.v… cũng chưa thể được, nghĩa là vì chưa được định căn bản, nên chưa vượt qua năm sự sợ hãi.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Chiếu theo chủ thể đối trị năm sự sợ hãi v.v… dưới đây, đối tượng trị (sở trị) là thể của sự sợ hãi này. Sự sợ hãi này lấy gì làm thể?

1. Sợ không sống, lấy ngã Kiến và ngã ái giúp cho sự sinh ái làm thể, nên dưới đây nói rằng “Do trí tu Vô ngã, phân biệt tưởng ngã, còn không chuyển biến, huống chi được có phân biệt ngã ái, hoặc giúp sinh ái, nên biết lấy ngã kiến, và ái làm thể.

2. Sợ tên xấu ác, lấy tham dục làm thể, nên văn dưới đây nói “Do không có hy vọng gì ở người khác, nên thường tự phát Khởi đủ niềm vui như thế, sẽ lợi ích tất cả hữu tình, phi hữu tình có nhu cầu, tìm kiếm. Do nhân này vượt hơn, không sợ tên xấu ác, nên biết lấy tham dục làm thể.”

3. Sợ chết, vì lấy ngã kiến làm thể, nên văn dưới đây nói rằng “Do lìa ngã kiến, nên đối với ngã vì không có tướng mất mát, hư hoại đổi thay, nên không có sợ chết”, là nói biết lấy ngã Kiến làm thể.

4. Sợ đường ác, lấy si làm thể. Luận dưới đây nói rằng “Tự biết sau khi chết, ở đời đương lai, quyết định sẽ gặp Chư Phật, Bồ-tát. Do quyết định này, nên không có sợ đường ác.”

5. Sợ ở mọi tánh, lấy si làm thể, nên dưới đây luận nói “Do ý lạc, tất cả thế gian, còn không có một ai bằng ta, huống chi là hơn. Cho nên, có sợ ở mọi tánh. Đối tượng trị này lấy si làm thể.

Tin người khác…” trở xuống, là nói về tin người khác, nên làm ra vẻ chưa tự biết rõ.

Thành tựu văn hẹp, nhỏ…” trở xuống, là nói về năm căn chưa mãn, thành tựu nghe nhỏ hẹp, mà thành biết v.v… Nghĩa là nói về tuệ căn chưa mãn, đôi khi quên mất, nghĩa là Niệm căn chưa thành.

Hạnh khổ trì thông, nghĩa là Định căn chưa thành tựu, đối với Đại Bồ-đề không có mạnh mẽ, nhạy bén.

Ưa muốn, nghĩa là ở đây nói sự ưa muốn không dữ dội.

Tinh tấn, nghĩa là nói về cần căn, không sâu chắc lắm.

Tịnh tín, là tín căn.

Ở ba chỗ có niệm quên mất.

Từ “thông minh v.v…” trở xuống, là niệm, tuệ không nhất định.

Nói “Hoặc đôi khi ghi nhớ đầy đủ, hoặc vào một thời gian trở thành loại quên nhớ nghĩ, chứ chẳng phải vì nhớ, quên mà nói là loại.”

Đối với các hữu tình trở xuống, là không biết như thật về các thứ phương tiện lợi mình, lợi người.

Hoặc ở vào thời kỳ đối với Đại Bồ-đề…” trở xuống, là nói về hai lợi hạnh tiến, lùi không nhất định. Do tư duy lựa chọn, nên muốn cho người khác ưa thích, nghĩa là lợi mình thì dễ, việc lợi người thì khó, cần phải do tư duy lựa chọn.

Đối với các Bồ-tát có trái phạm…” trở xuống, là nói về thường có trái phạm, do dự, nghi ngờ.

Xa lìa Đại bi đối với các hữu tình.

Trên đây, nói về tu vượt hơn chưa thành tựu trở xuống: là nói về Đức vượt hơn chưa đủ. Văn có bốn lượt:

1. Trong đức viên mãn có mười tám phẩm Sơ trì đã nói như trên chưa thể học khắp.

2. Năm tướng của phẩm tướng đã nói như trên, chưa thể thành thục.

3. Hai phần gia hạnh của tại gia, xuất gia ở phẩm “Phần” chưa hiển hiện đồng đều.

4. Mười ý lạc của phẩm ý lạc cũng chưa thanh tịnh, cho đến đối với sự hừng cháy kia, pháp Bồ-đề phần của điều thiện mầu nhiệm không nghiêng động, chưa có thể thành thục.

Phán quyết thứ hai, trong ba phẩm Nhẫn, văn chia làm ba:

  1. Giải, Hạnh, Trụ là ba phẩm.
  2. Đối với phẩm này, nói về tám trụ sau.
  3. Giải thích chung về vấn nạn của người ngoài.

Nói Nhẫn phẩm hạ lúc chuyển biến, phẩm thượng v.v… của tướng trạng đã nói trên. Luận sư Cảnh, Cơ đồng nói rằng “Lỗi của Địa tiền đã nói trước, ở địa vị Thập tín khi đủ Nhẫn phẩm hạ, lỗi này là phẩm thượng. Ở lúc Thập Giải, Thập Hạnh có đủ Nhẫn phẩm Trung. Thập hồi hướng v.v… đã đủ Nhẫn phẩm thượng, lỗi ấy là của phẩm Trung, hạ.”

Pháp sư Thái nói “Thắng giải hạnh, trụ, nghĩa là Thập Giải, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, tức là ba phẩm Nhẫn hạ, Trung, Thượng.

Kế là, trong văn nói rằng “Do được các pháp đã nói ở Thắng giải hạnh trụ trong phương tiện được Cực Hỷ trụ, nên các pháp Địa tiền đều không hiện, phẩm bạch của Sơ Địa đều thể hiện rõ, đây là bỏ Thể, nghĩa là bỏ đủ được danh.

Giải thích vấn nạn. Nạn rằng “Địa tiền, trải qua một Tăng kỳ kiếp nhằm chế phục “hoặc”, tịnh tu, sao không tịnh ý lạc vượt hơn? Cho nên, ở đây, giải thích rằng “Lúc giải, Hạnh chuyển biến, dù phần nhỏ thanh tịnh thắng giải mà chưa được gọi là ý lạc thanh tịnh. Do bị nhiễm ô của dòng phiền não mà chuyển biến. Cực Hoan hỷ trụ thì không như thế.

Trong Hoan Hỷ trụ, trước là hỏi, kế là, giải thích, sau, là kết.

Trong giải thích có tám:

  1. Nói về sáu quyết định là Thể của các Địa.
  2. Nói về bốn tướng phát tâm.
  3. Nói phát khởi tinh tấn, dẫn phát chánh nguyện.
  4. Nói về mười thứ tịnh tu pháp trụ.
  5. Nói về chia ra rõ trụ khác.
  6. Nói về tu trị căn lành.
  7. Nói về sự thọ sinh.
  8. Nói về oai lực.

Trong tám pháp này, một đoạn văn đầu tiên, nói về thể của các Địa. Bảy pháp sau, nói về Tướng.

Tự tánh Bồ-đề, nghĩa là hai đoạn, hai trí. Phương tiện Bồ-đề, nghĩa là sáu Độ. Sáu độ của Địa tiền chưa mất, ba Luân tùy người khác mà chuyển, vì trừ Xả kia.

Phát khởi sáu tướng mới, khéo quyết định. Nghĩa là nêu chung về số. Tướng quyết định này nhập Địa, mới chứng gọi là mới, thiện. Nếu theo Cựu luận thì sẽ có số một, hai v.v… Luận Thập Địa nói rằng:

1. Gọi là quán tưởng quyết định thiện Chân như quán, vì tướng một vị, như Kinh nói “không có xen lẫn.”

2. Chân thật khéo quyết định, chẳng phải tất cả cảnh giới của thế gian, vì xuất thế gian, như kinh nói “Vì không thể thấy.”

3. Khéo quyết định vượt hơn, cho đến như Kinh nói “Rộng lớn như pháp giới.”

4. Nhân khéo quyết định có hai thứ nhân:

5. Thành quả ái Vô thường, quả nhân khéo quyết định, nhân này như hư không. Dựa vào hư không này sinh các sắc không tận cùng, như kinh nói “Rốt ráo như hư không.” y theo đây sanh ra các sắc, sắc không cùng tận. Như kinh nói rốt ráo như hư không.

6. Quả đương lai nhân khéo quyết định, được đạo Niết-bàn, như Kinh nói “Tận cùng mé vị lai.”

7. Quyết định đại thiện, thuận theo công hạnh tạo lợi ích cho người, như kinh nói “Che chở tất cả cõi chúng sinh.”

8. Không yếu hèn khéo quyết định, nhập tất cả Địa của Chư Phật, vì không yếu hèn. Như kinh nói “Phật tử là các Bồ-tát, vì có thể nhập vào ba đời khởi Địa. Trong đây, đầu tiên nói rằng “nội chứng , tu tánh, Bồ-tát, Đại Phật vượt qua tất cả Phật bạch tịnh khác. Luận sư Cảnh nói “Nghĩa là Vô phân biệt Khởi chứng nội, phát tâm một vị, vì không lẫn lộn, nên siêu việt Đức Phật khác, là tướng quán thứ nhất kia.” Pháp sư Khuy Cơ nói:

1- Đức Phật cầu Bồ-đề không có nguyện lẫn lộn tức là dùng trí Hậu đắc để quán.”

2-  “ Quả v.v… bất cộng vô đẳng…” trở xuống, là vì không thể bằng, nên nói “Vô đẳng”. Không đồng với dưới, nên nói bất cộng, Địa tiền kia vì trước tu tập mà thành, nên nói là quả. Dù đồng với cảnh thế gian, như kinh nói “Vì không thể thấy”, thì đây là chân thật khéo quyết thật thứ hai trong kia.”

3- “Tùy che chở tất cả hữu tình khổ, nên không chung với tất cả

Thanh văn, Độc giác.”

Luận sư Cảnh nói “Là rất khéo quyết định lẫn lộn thứ năm kia.”

Luận sư Trắc nói “Là quyết định đại thiện vượt hơn thứ ba kia.”

4- “Dù một sát-na cho đến quả đáng yêu.” Luận sư Cảnh nói “Là quyết định thiện vượt hơn kia.”

Luận sư Trắc nói “Là nhân quyết định thiện thứ tư kia.”

5-  “Lại, nguyện lớn này không có thay đổi, không có tận cùng v.v… Luận sư Cảnh nói “Là nhân quyết định thiện thứ tư kia.”

Luận sư Trắc nói “Là quyết định thiện thứ năm kia.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Che chở, gìn giữ tất cả cõi chúng sinh”, nghĩa là hình thế của Kinh thích hợp với ba thứ lớp này tùy cứu vớt tất cả hữu tình.”

Thưa ba kia, kinh nói “Rộng lớn như Pháp giới”, là thứ năm ở đây. Nghĩa là được nguyện Vô tận, không thể lui sụt, rộng lớn như Pháp giới.”

6- “Lại, phần vượt hơn này rơi vào Bồ-đề cực đại của bờ mé sau, tức là quyết định yếu kém thứ sáu kia, nghĩa là Đức Phật này là phần vượt hơn, có thể nói là bờ mé sau, có thể tận cùng Bồ-đề cực đại, nhập trí Địa ba đời, trí Địa ba đời là quả Phật. Được đại Bồ-đề, không yếu kém, không đối với Đại Bồ-đề, mà sinh yếu kém.”

Pháp sư Khuy Cơ phán quyết rằng, ba thứ trước trong sáu là trí

Hậu đắc; ba thứ sau, là chung cho hai trí.

Trong nói về bốn tướng phát tâm được chia làm ba:

  1. Nói về bốn tướng phát tâm.
  2. Giải thích nghĩa vui mừng.
  3. Giải thích về lìa nguyên nhân của năm thứ sợ hãi.

Trong phần trước, trước nêu câu hỏi, nên biết sau là giải thích theo thứ lớp. Địa Luận giải thích về tướng, Văn kinh thì bao gồm cả hai. Sơ trụ, an trụ, hợp tác nói là Phần. Phần nhập đủ Sơ trụ, phần trụ, gọi là an trụ. Phần Địa mãn, gọi là xét tra, đo lường phần vượt hơn, tức là phần xuất ly.

Y cứ trong thuyết có ba:

Một phần trụ có hai giải thích đủ ba an trụ. Sự khác nhau trong trụ có bốn mươi câu, được chia làm bốn:

  1. Dựa vào thân nào?
  2. Vì nghĩa gì?
  3. Do nhân nào?
  4. Có tướng gì?

Với bốn tướng của Luận này rất đồng, còn về phần khác, nghĩa là thân nào trong trụ kia? Là Sơ địa phát tâm, dựa vào thân Sơ địa.

Trong đây, nói về người giải, hạnh. Vì sao? Vì lẽ trong luận này muốn nói về mười ba trụ. Vì thứ lớp sinh nhau, nên dùng giải hạnh làm người phát tâm.

Trong đây, tướng nào phát tâm? Nghĩa là hỏi về thể tướng của phát tâm. “Duyên” nghĩ về những gì? nghĩa là “duyên” cảnh giới nào mà phát tâm ư? Trạng thái gì? Tướng gì? Tự tánh nào Khởi? Nghĩa là hỏi về trạng thái phát tâm và với tự tánh mau chóng khởi tư lương Bồđề. Thuận theo và lợi người. Việc làm thuận theo và hai quả thuận theo, là đáp về trạng thái phát tâm.

Tâm nguyện rộng lớn, là đáp tự tánh nào khởi. Có thắng lợi nào? Là hỏi về thắng lợi kia.

Trong giải thích theo thứ lớp, được chia làm bốn đoạn: Tướng một, hai thì có văn kết. Tướng ba, bốn không có văn kết.

1. Đầu tiên, nói về phát tâm tướng nào? Nghĩa là đã vượt qua Địa tiền. Mười câu như gom góp nhiều căn lành sâu dầy v.v… trong Kinh Thập Địa, nhằm nói về sự nương tựa vào thân. Câu đầu là chung chín câu còn lại là riêng.

2. Nói về “duyên” ý nghĩa gì? Nghĩa là tức bốn viên mãn. Câu đầu là nói về nhân tố lợi mình, câu thứ hai, nói về nhân tố lợi người.

3. Quả lợi mình.

4. Quả lợi người.

Địa luận nói “Vì nghĩa gì mà sinh tâm như thế? Kinh nói “Vì được trí Phật , nên đồng có mười trường hợp: Trường hợp đầu là trường hợp chung, chín trường hợp còn lại là riêng.

Về nghĩa nhân, quả trong đây hợp thành mười trường hợp.

Nói về tướng trạng phát tâm, văn cũng có bốn trường hợp. Địa luận nói “Do nghĩa nào nên sinh tâm như thế?” Kinh nói “Có mười trường hợp là tâm Đại bi đứng đầu v.v… ” tức là lấy Đại bi làm trường hợp chung, chín trường hợp còn lại là khác nhau.

Nói về sự thắng lợi. Địa Kinh có chín trường hợp, văn nói về tám lỗi. So lường về lỗi ở giai đoạn phàm phu, thứ nhất là trường hợp chung. Tám trường hợp dưới là riêng.

Trong đây nói rằng “Chứng nhập tánh ly sinh của Bồ-tát là lỗi nhập địa vị thứ nhất.”

Sinh vào nhà Như lai, là lỗi nhà thứ hai, thành con ở hông Phật, là lỗi chủng tánh thứ ba. Như ngoại đạo nói chủng Bà-la-môn sinh ra từ tìm, hông của Phạm Vương. Nay, nói Bồ-tát từ hông Phật sinh, nhất định thu hướng Chánh đẳng Bồ-đề v.v… chính là lỗi hoàn tất định thứ tám kia. Lược qua không nói về lỗi của đạo thứ tư trong đó. Lỗi của pháp thể thứ năm; lỗi gia thứ sáu, lỗi nghiệp thứ bảy.

Dưới đây giải thích nghĩa Hoan hỷ, có bốn trường hợp:

1. Vì chứng bất tịnh, hư hoại, cho nên vui mừng.

2. Quán thân mình, thuận theo công dụng của hai hạnh lợi mình, lợi người, một cách nhanh chóng, vì viên mãn nên thường vui mừng.

Nói “xa lìa nhiều phẫn nộ, hãm hại, đấu tranh.” Pháp sư Thái nói “Địa tiền vì chỉ lìa hiện hạnh, nên nói là phần ít. Sơ địa đều lìa hạt giống nên nói là nhiều phần. Vì chỉ lìa kiến hoặc, chưa dứt trừ tu hoặc, nên chẳng phải hoàn toàn xa lìa.

3. Tự quán thấy điều thiện mầu nhiệm, rộng lớn, lìa dòng hoan hỷ, lợi ích thân, tâm.

4. Lại tự biết rõ cách gần Bồ-đề, vì lìa sợ hãi, nên thường vui mừng.

Phần thứ ba, nói về dứt trừ nguyên nhân của năm sự sợ hãi, trong đó, trước, là nói lìa năm thứ sợ hãi. Sau, nhân lìa sợ hãi, lại nói lìa phiền não khác, tu trí Vô ngã, lìa ngã ái và giúp sinh ra ái, không có nỗi sợ hãi không sống v.v… Đoạn văn này là nói do trí Vô ngã, đối trị nỗi lo sợ không sống, biết ngã kiến và ái v.v… là giả.

Rằng “Vì sợ…” trở xuống, trong phần nói về lìa phiền não khác. Luận sư Trắc lấy Địa bi trong an trụ của Địa kinh làm đầu, đồng phối hợp với ba mươi mốt câu văn, .

Dưới đây là thứ ba, nói phát khởi tinh tấn, dẫn phát chánh nguyện, trong đó chia làm ba: Trước, nêu chung, dẫn phát chánh nguyện. Kế là, giải thích, sau, là kết.

Luận sư Trắc nói “Theo luận Thập địa, dưới đây là xét tra, so lường phần vượt hơn. Xét lường có ba:

1) Xét lường nguyện 2) Xét lường hạnh 3) Xét lường quả.

Văn này tương đương với xem xét suy lường thứ nhất kia.

Y cứ trong giải thích, chia làm hai:

1. Nói về khởi nguyện.

2. Nói mười nguyện có công năng sanh vô số. Trong phần trước có ba: a/ Nói về mười nguyện, b/ Nêu câu vô tận để thành mười nguyện, c/ sau xếp vào hai thứ khởi nguyện nương tựa.

Nguyện trong đây đều nói vì khởi nhân duyên của Phật, nên đều nói là vì dục v.v… Hoặc tiền phương tiện, gọi là nhân duyên. Nếu chính khởi, thì gọi là nguyện căn bản.

Nói mười Phật dưới đây là:

1. Nguyện cúng dường.

2. Nguyện thọ trì truyền, nói.

3. Nguyện khuyến thỉnh xoay bánh xe pháp, cũng gọi là nguyện tám tướng thành đạo.

4. Nguyện tu hành.

5. Nguyện thành thục chúng sinh.

6. Nguyện nhiếp pháp đặt ở đầu.

7. Nguyện tu trị Tịnh độ.

8. Nguyện đồng tâm, đồng hạnh.

Nói “Thường đồng một vị gia hạnh ý lạc với các Bồ-tát,”. Nghĩa là như Cựu luận cho rằng, đồng một phương tiện với tất cả Bồ-tát, dùng Đại thừa để giáo hóa, gọi là một vị.

9. Nguyện ba nghiệp không cùng tận.

10. Nguyện thành Bồ-đề.

Kế là, nêu mười trường hợp vô tận, trở thành mười đại nguyện, mười trường hợp cùng tận:

  1. Thế giới chúng sinh cùng tận
  2. Thế giới cùng tận
  3. Thế giới Hư không tận
  4. Pháp giới viên mãn cùng tận.
  5. Thế giới Niết-bàn cùng tận
  6. Thế giới Phật xuất hiện cùng tận
  7. Thế giới Như lai khởi cùng tận.
  8. Thế giới sở duyên của tâm cùng tận
  9. Vì là cảnh giới Phật, nên nhập giới cùng tận
  10. Thế giới chuyển của trí chuyển pháp luân thế gian cùng tận.

Phát nguyện này, nói thêm thế giới hữu tình v.v… “Như thế giới chúng sinh không cùng tận, nguyện của ta không cùng tận.” Cũng như, đạo thế gian trở xuống, là như khí thế giới bất tận, nguyện của ta bất tận.”

Đây là nguyện của mười nguyện trước, cho đến “Bồ-đề, cuối cùng không quên mất…” trở xuống, là xếp vào hai nguyện sanh Khởi. Mười tám nguyện trước vì “duyên” riêng mười việc nên phát mười nguyện. Mười nguyện Vô tận sau, là “duyên” nguyện Khởi nguyện.

Nói về mười thứ tịnh tu pháp trụ, là thích hợp với tám hạnh xét lường vượt hơn của Địa luận, tức là dựa vào các chánh hạnh như thế, ứng theo thời phần lượng v.v… trong chánh gia hạnh mà tu tàm, quý. Như Địa kinh nói “Thành Thế trí xong, biết thời gian, biết so lường tàm, quý, trang nghiêm tu tập đạo lợi mình, lợi người.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Nghĩa là như thời ký kiếp cuối cùng của năm trược, rằng, tùy theo thời kỳ này có thể thực hành pháp này. Phần lượng, nghĩa là tùy theo ngần ấy v.v… pháp.”

Nói về khai hiển các trụ khác, tức là thích hợp với sự xét lường vượt hơn của Địa luận, lợi của quả có bốn:

1. Quả điều nhu, nghĩa là trong tâm mãn của Địa, tu tập các hạnh điều phục, rèn luyện, đối trị v.v…

2. Quả phát thú, nghĩa là lại gom góp trong Địa đầy đủ, để giải thích phát ra quả thu hướng này.

3. Quả Nhiếp báo, nghĩa là Vua Xà-Phù v.v…

4. Quả trí của bốn nguyện, nghĩa là tác dụng Vô lượng.

Luận này đồng với Địa luận kia, chỉ phần thứ hai của Luận kia là thứ nhất, tức là nói về quả phát thú, có pháp, dụ. Trong pháp nói “Từ Phật, Bồ-tát chuyển tinh tấn, thăm hỏi, cần cầu v.v…”, đây là nói về câu hỏi.

Công đức của đạo Nhất thiết chủng, nghĩa là đạo hạt giống trị chướng của trụ khác. Lỗi lầm, nghĩa là chướng bị diệt trừ. Và, thần thông ưa đạo không có mất mát, hư hoại, nghĩa là dùng thần thông vượt hơn để thấy sắc thân Phật v.v… Khéo lấy công hạnh kia, được tướng Đẳng lưu, nghĩa là nói về hạnh của người kia tu ghi nhận quả Đẳng lưu trong các Địa.

Đối với tất cả trụ, tự nhiên tiến lên, nghĩa là nói về hạnh. Chứng Đại Bồ-đề, là nói về quả.

Trong dụ nói rằng “Bậc Đại đạo sư”, là Đức Như lai. Phải biết rằng, các hạnh trong đây năng nhập, nói là hạnh v.v…” Luận sư Trắc nói “Ba câu này, là thích hợp với câu hỏi về trạng thái gì? Tướng gì? Ở đây cũng là hạnh của ba tâm: nhập, trụ, xuất.”

Có giải thích rằng: “Trí gia hạnh, gọi là Hạnh; Chánh trí gọi là Đắc; Hậu trí, gọi là Đẳng lưu.”

Nói về tu trị gốc lành, thích hợp với quả điều phục, nhu nhuận thứ nhất kia, có pháp, dụ, hợp. Trong pháp được chia làm ba:

1. Phần nhiều thấy Chư Phật khởi công hạnh thắng lợi, do hai “duyên” hiện thấy Chư Phật. Địa Kinh nói hai thứ thấy Phật:

2. Sức thần thông thấy Phật sắc thân.

3. Sức Phật thấy Phật Pháp thân.

“Bồ-tát như thế v.v…” trở xuống, là thứ hai, nói về năng luyện ba duyên:

  1. “Duyên” lợi mình
  2. “Duyên” lợi người
  3. “Duyên” hồi hướng

“Do ba thứ này…” trở xuống, là thứ ba, nói về đối tượng rèn luyện tín v.v… Nói về tịnh, chỉ nói Na-dữu-đa, như số một, mười, một trăm, mười muôn, ức, mười ức, gọi là Lạc-sa, mười Lạc-sa gọi là Câu-chi, mười Câu-chi, gọi là Na-dữu-đa.

Luận sư Trắc nói “Câu-chi, tức tương đương với số triệu của xứ này. Na-dữu-đa, tương đương với số Kinh của xứ này. Công thợ trong thí dụ, là dụ cho Bồ-tát tịnh ý lạc. Lửa, dụ cho ba “duyên”. Vàng, dụ cho tín v.v…”

Nói về sự thọ sinh, tương đương với gồm thâu quả báo kia, được chia làm hai đoạn:

1. Gồm thâu quả tại gia

2. “Nếu lạc phát khởi…” trở xuống, là gồm thâu quả xuất gia (thuộc về quả xuất gia).

Bồ-tát này trụ trong Địa này, thường làm vua Thiết Luân Bộ Châu Thiệm được tự tại, là thân tốt đẹp trong tại gia, xa lìa tất của cải keo kiệt nhơ bẩn v.v… là quả tốt đẹp trong tại gia. Y cứ ở quả xuất gia có mười hai trường hợp:

  1. Chứng một trăm tam-muội
  2. Thấy một trăm Như lai
  3. Biết một trăm Đức Phật, biến hóa, trụ trì.
  4. Có thể lay động một trăm thế giới
  5. Có thể đi qua trăm thế giới
  6. Ánh sáng soi chiếu trăm cõi
  7. Có khả năng hóa ra trăm loài
  8. Lưu lại mạng sống trong một trăm kiếp.
  9. Biết danh của mé trước sau, những việc trong trăm kiếp.
  10. Nhập trăm pháp môn
  11. Hóa ra trăm thân
  12. Ở mỗi thân, hiện ra trăm quyến thuộc.

Thứ tám, nói về oai lực, tương đương với quả của trí Phật kia.

“Phải biết rằng…” trở xuống, là thứ ba, nhắc lại để kết.

Ở trên, nói về tám môn, đầu tiên, là nhắc lại để kết, kế là chỉ ra Đại bản. Sau, giải thích hội tên khác.

Ma-đát-lý-ca, là Bản mẫu. Nay, trong Luận này giải thích nghĩa mười trụ, với kinh kia nói Thập địa là Ma-đát-lý-ca, nghĩa là vì kinh có luận, nên nghĩa rất dễ hiểu.