DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 10

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 38

PHẨM BỒ-ĐỀ.

Tức phẩm thứ năm trong năm phẩm Học xứ, pháp thứ bảy trong bảy pháp. Bồ-đề. Hán là Giác. Ở phẩm này sẽ nói rộng về nghĩa quả đức Bồ-đề, gọi là Bồ-đề. Ba là nói về tâm, bốn là nêu ra, năm là không có gì trên. Bồ-đề vô thượng nói ở đây.

Đã chứng chân thật, hiện đại thần thông thành tựu mình người, phải có quả chứng. Cho nên, sau phẩm thành thục là đến phẩm Bồ-đề này.

Trong văn có ba:

  1. Y cứ ở năm môn, nhằm phát ra thể Bồ-đề.
  2. Kết các thuyết, khuyên biết rõ.
  3. Ba câu ở cuối phẩm, khen ngợi Bồ-đề.

Về văn của năm môn đầu, được chia làm năm:

  1. “Y cứ ở trí đoạn, nêu ra thể Bồ-đề v.v… ” trở xuống, gọi là tự tánh.
  2. Y cứ ở hơn hết để nói về Bồ-đề.
  3. Dựa vào công đức tùy niệm mười hiệu, để nói về Bồ-đề.
  4. Y cứ ở công đức xuất hiện, để nói về Bồ-đề.
  5. Y cứ vào đức khác nhau để nói về Bồ-đề.

Trong phần trước lại có ba:

  1. Y cứ ở hai trí, hai đoạn.
  2. Y cứ ở ba trí, hai đoạn.
  3. Y cứ ở đức cộng, bất cộng.

Hai đoạn, hai trí gọi là Bồ-đề. Pháp sư Thái nói: “Như chín đoạn là quả trí, nên gọi là trí. Hai đoạn cũng là quả Bồ-đề, nên gọi là Bồđề”.

Luận sư Trắc nói: “Hỏi: “Bồ-đề Hán dịch là giác, hai thứ Thể vô vi chẳng phải giác, sao gọi là Bồ-đề”.

Giải thích: “Như Phẩm thù thắng thứ mười của Luận Nhiếp Đại thừa nói là đầy đủ ba thân trí thù thắng, ở đây cũng với hai thứ trí, đoạn như thế, đều gọi là Trí. Vì sao? Vì trong Chân như đầy đủ tất cả tánh công đức như số cát sông Hằng, thuận theo các môn công đức của chủ thể sinh tu, sinh trí v.v… nên gọi là giác, chứ chẳng phải vì “duyên” soi rọi, nên gọi là Giác”.

Tam Tạng Chân Đế nói “Có trí Bản giác, Duyên theo lý bình đẳng, tức là kinh Kim Quang Minh nói chỉ có “Như chiếu”, chỉ có “Như trí”, đó là Pháp thân.”

Nay, Ngài Tam Tạng nói là thuyết này không đúng. Vì, nhân không, Pháp “không”, đã làm rạng tỏ Chân như, chẳng phải thể của thức, làm sao có thể soi rọi?

Nói, “Như chiếu”, nói “Như trí”, gọi là pháp thân, là nêu trí, nhằm làm sáng tỏ Chân như, gọi là pháp thân, chẳng phải tức trí Chân Như , gọi là Pháp thân.

Nói Hai trí, tức là trí “Nhân không” và Trí “Pháp không”.

Trong ba Trí, hai Đoạn, trước là nêu tên ba Trí, hai Đoạn.

“Tất cả phiền não đều là các tập khí vĩnh viễn hại. Nghĩa là chướng phiền não dứt, khắp tất cả hạt giống không nhiễm vô minh. Dứt hẳn không còn thừa, nghĩa là chướng sở tri dứt.

Trong giải thích thứ lớp, chỉ giải thích ba Trí, không giải thích về hai đoạn.

Luận sư Trắc nói: “Dứt trừ chướng phiền não và tập khí, gọi là trí thanh tịnh, tức là trí Chánh thể. Trong dứt trừ tất cả sự, vì không nhiễm ô “không có biết”, nên gọi là Trí Nhất Thiết , tức là trí Hậu Đắc.” Nói Trí không có dính mắc, có hai cách giải thích:

1/ “Tức tác dụng của hai trí trước, vì mạnh mẽ, nhạy bén, nên gọi là Trí không có dính mắc”.

2/ Giải thích: “Chỉ y cứ ở nghĩa mạnh mẽ, nhạy bén của tác dụng trên trí Hậu Đắc, nên nói là không có dính mắc, vì không có tự thể riêng”.

Nói: “Tất cả phiền não”, nghĩa là một trăm hai mươi tám phiền não và hai mươi Tùy phiền não, cùng các tập khí, Cựu luận chép: “Vì dứt trừ hạt giống chánh sử của Phẩm thô, nên có hạt giống phẩm Tế của tập khí tàn thừa.”

Thuyết này nói không đúng. Nay, nói: “Tập khí nghĩa là do hạt giống phiền não, nên trong thân không có tánh chịu đựng, cũng gọi là tập khí, với thân năm uẩn “chẳng phải một”, “chẳng phải khác”, vì chúng không có tự thể riêng, nên không thể nói là “khác”. Dứt trừ tập khí thô, nặng xong, vì năm uẩn không diệt, nên không thể nói là “một”, gọi là tập khí.”

Nói “Trí nhất thiết. Nghĩa là theo các kinh luận, Trí Nhất Thiết chủng là Tục trí; Trí Nhất Thiết là Chân trí. Nếu theo kinh, luận do Tam Tạng Chân Đế dịch thì Trí như Lý, gọi là trí Nhất Thiết chủng, vì pháp giới chân như là duyên chủng nhân của tất cả pháp. chủng nhân, gọi là Nhất Thiết chủng trí, là từ cảnh được tên. Như luận Câu-xá nói: “trí Nhất Thiết chủng diệt các tối tăm, nếu tục trí thì gọi là Nhất thiết.” Nay, dựa vào văn này, “duyên” theo chân trí, gọi là trí thanh tịnh; “duyên” theo tục trí, gọi là trí nhất thiết. Trong đức cộng, bất cộng, đại khái có hai đường:

1. Y cứ ở thân thành thục, nghĩa là chỉ có thân Phật thành tựu công đức. Hàng Nhị thừa không được gọi là bất cộng. Như trong đây nói ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp v.v… Nếu hàng Nhị thừa cũng thành tựu; thì nói là chung. Như trong đây nói là vô tránh nguyện trí, vô ngại giải v.v…

2. Y cứ vào thuyết, nếu giáo pháp của Đại, Tiểu thừa đồng nói về đức của Phật thì gọi là công đức chung; nghĩa là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo v.v… Nếu chỉ trong Đại thừa nói về công đức của chư Phật, còn hàng Tiểu thừa chẳng đề cập thì gọi là không chung, như tuệ rất thanh tịnh của hai mươi công đức trong Nhiếp Luận v.v… Lại, dựa theo đức của kinh Vô Thượng y, để nói về một trăm tám mươi pháp không chung của đức Như lai, (như kinh đó có nói rộng).

Trong y cứ bảy thứ vượt hơn hết, để nói về Bồ-đề, xưa, gọi là vô thượng, nay gọi là Tối thắng (hơn hết). Tối thắng, vô thượng, được giải thích lẫn nhau: do vô thượng, cho nên (sở dĩ) tối thắng; do tối thắng, cho nên vô thượng. Nhưng, theo nghĩa của bản Phạm, phải là Tối thắng, trong đó có bốn:

  1. Nêu số lượng để khen vượt hơn.
  2. Nêu bảy tên gọi.
  3. Dựa vào danh để giải thích.
  4. Thay đổi tên để giải thích khác nhau.

Sở y vượt hơn. Cựu luận gọi là “thân vô thượng.” Trong luận Trí Độ nói: “Bồ-đề của các Thanh văn cũng dựa vào không đầy đủ mà được. Bồ-đề của Độc-Giác hoặc nương tựa thân tất cả thân mà được, cho đến đôi khi dựa vào ba mươi mốt thân tướng mà được, không có nương tựa đủ ba mươi hai tướng mà được, chỉ Bồ-đề Phật là nương tựa thân đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm , được gọi là Sở Y vượt hơn.

Bốn viên mãn. Nghĩa là ba nhóm luật nghi, gọi là giới viên-mãn. Vì không có tà-Kiến, nên gọi là Kiến-Viên-Mãn. Oai nghi đi, đứng v.v… gọi là quỷ tắc viên-mãn. Không có tà-mạng xin cầu và nói pháp v.v… gọi là Tịnh mạng viên-mãn.

Trong trụ hơn hết, đầu tiên, lập ra hai chương: Do các Như lai phân nhiều trụ là chương thứ nhất. ba trụ Vô thượng, Vô-Đẳng v.v… là chương thứ hai.

Trong các giải thích trở xuống: 1- Nêu tên của ba Trụ. 2- “Phải biết rằng v.v… ” trở xuống, trong giải thích chương, trước, giải thích chương hai, hai là trong ba trụ này trở xuống là giải thích lại chương đầu. Môn Ba không và Diệt định, gọi là Thánh trụ. Nghĩa là chỉ có Thánh trụ được gọi là Thánh Trụ, cho nên nói đức Như lai trụ ba không hạnh và trụ Diệt-định. Bốn thiền, Bốn không là chủng loại trời, là nhân sanh cõi Trời. Đức Phật trụ nhân cõi trời, nên gọi là Thiên-Trụ. Người dù được định, nhưng không thọ báo của định thì không gọi là Nhân Trụ. Bốn vô lượng chia ra đạo Phạm-Thiên, được báo của Phạm Thiên, phần nhiều là Phạm Trụ. Trong Thánh Trụ, đa số người trụ không và diệt định. Nếu trụ vô nguyện, thì nhàm chán Y tha. Nếu trụ vô tướng, thì ưa thích chân thật. Nay trụ không, tức dứt trừ sự nhàm chán, ưa thích. Nếu nhập diệt định, thì duyên lự đều thôi dứt. Định, Tuệ của ba Địa dưới, phần nhiều định ít, định của Bốn “không”, đa số tuệ ít, chỉ có định, tuệ của định thứ lớp đều đồng với đức Như lai là nhiều trụ.

Trong bốn Phạm Trụ, ý Như lai phần nhiều gồm thâu khổ, nên trụ Đại bi.

“Ngày, đêm sáu thời v.v… ” trở xuống, là giải thích rõ về ý trụ Đại bi. Như Luận Trí Độ của Bồ-tát Long Thọ chép: “Trên ba trụ trước, thêm một Phật trụ là bốn Phật trụ, nghĩa là Thủ-lăng-Nghiêm với vô lượng Tam-muội và các pháp bất cộng như , mười lực, bốn vô úy v.v… của Đức Phật, đều là Phật trụ. Hoặc chia mười sáu Thiên trụ có tám, nghĩa là cõi Sắc bốn, Vô Sắc bốn. Phạm Vương có bốn, tức bốn vô lượng. Địa vị Thánh có bốn, tức diệt định, vô nguyện v.v… nên có mười sáu, tức vô lượng, như Luận Trí Độ kia nói, thứ ba nói trong mười Hiệu, Pháp sư Cơ nói: “Mười Hiệu gọi là Tùy niệm công đức, tùy niệm của chúng sinh mà được công đức nên gọi là Tùy niệm công đức. Nói Thể của Đức Thế Tôn chỉ là một, có mười danh hiệu. Nếu như nay, Tam Tạng xếp một hiệu sau là hiệu chung thì chín hiệu trước là danh hiệu riêng.

Theo hiệu riêng, thì ba hiệu đầu có cả hai lợi; ba hiệu giữa chỉ lợi mình; ba hiệu sau chỉ lợi người.

Nếu vậy, như hiệu đầu và thứ ba chỉ nói về thắng nghĩa của pháp giác của lời nói không có luống dối thì chỗ nào nói về lợi ích?

Vì từng lời không có luống dối, không nói đơn độc, mà phải có người thọ lãnh, cho nên trong Như lai cũng có lợi người v.v… so sánh sẽ biết. Dưới đây trong lợi người cũng có lợi mình, nghĩa là so sánh giải thích, có thể như thế. Nếu như xưa Pháp sư Viễn nói chín hiệu riêng, năm hiệu trước là danh của đức mình; bốn hiêu kế là hiệu của lợi người thì lẽ ra là lợi người sao lại nói là đức mình? Lại trong năm hiệu trước, mỗi hiệu là hai cặp:

  1. Nêu đạo viên mãn.
  2. Quán diệt cùng cực.

Nói về hai nhân của Chỉ, Quán ban đầu và một quả đức sau. Nay nếu nói theo nghĩa, thì lẽ ra chỉ có nghĩa Ứng lợi, chứ chẳng phải là lợi người, nên cũng lợi mình.

Luận sư Trắc nói: “Mười hiệu như thế, được danh có bảy: ba hiệu Như lai, Ứng Cúng, Thiện thệ từ nhân mà được Danh; Chánh Đẳng Giác từ Dụng và Thể được Danh; Minh hạnh viên mãn, từ đức và thắng nghĩa được Danh; Thế gian giải và Thiên, Nhân sư là từ Cảnh và Dụng được Danh. Vô thượng trượng phu, Điều Ngự Sĩ, là từ giả Nhân và Dụng được danh. Phật, là từ đương thể được danh. Bạc-Già từ nhiều nghĩa được Danh, nghĩa là sáu nghĩa: như Tự tại v.v… như Luận Phật Địa nói.” Nói: “Không có luống dối, gọi là Như lai”, Cựu Luận chép: “Chẳng có nói luống dối, nên gọi là Như lai. Hoặc như luận Trí Độ, luận Thành Thật nói: “Nương đạo như thật mà đến thành Chánh giác”, nên gọi là Như lai.”Kinh Niết-bàn chép: Nương sáu Ba-la-mật, mười một Không mà đến, nên nói là Như lai”. Đại Phẩm Bát-nhã nói: “Vì nhân Tát Bát-nhã đến, hóa độ chúng sinh, nên gọi là Như lai”. Kinh Kim cương Bát-nhã nói: “Không có từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như lai”.

Hỏi: “Nếu nói không có luống dối, gọi là Như lai thì Đức Phật vốn do nhân duyên phát nguyện: “Nếu các chúng sinh không nhập Niếtbàn, thì ta cũng không nhập. Nếu mọi chúng sinh không được Bồ-đề, thì ta cũng sẽ không chưng”. Dù Đức Phật phát nguyện này, nhưng các chúng sinh không tự Niết-bàn, không được Bồ-đề, Đức Phật bỏ chúng sinh, tự nhập Niết-bàn và chứng Bồ-đề, thì sao được gọi là lời nói không có luống dối?”

Luận sư Cảnh đáp: “Về mặt đạo lý cũng khó, một là nói phát tâm căn bản dù có nguyện này, nhưng từ đây về sau, quán Bồ-tát dù lợi ích mà không bằng Phật. Nếu không thành Phật thì sự nghiệp lợi người sẽ không rộng, vì thế phải thành Phật đạo, chỉ vì các chúng sinh không nhập vô dư, cuối cùng, không nhập Niết-bàn vô dư , nên không có luống dối”.

Lại, có thuyết nói: “Phát tâm căn bản, thệ độ chúng sinh, không được Bồ-đề, ta thề sẽ không chứng”. Nay, các Bồ-tát dù công hạnh Thập địa đã hoàn thành nhưng không thủ chứng, như Bồ-tát Văn-Thù v.v… tức Kinh Lăng-già nói: “Xiển-đề có hai hạng:

1. Dứt thiện căn.

2. Bồ-tát Xiển-Đề rốt ráo không nhận lấy Chánh Đẳng Giác Vô thượng Bồ-đề. Luận sư Trắc nói: “Ở đây lấy trí chánh thể làm Thể. Về sau, nói là Thế gian giải lấy trí Hậu Đắc làm Thể.

Nay, giải thích: “Cũng có thể Chánh Trí, gọi là Chánh Giác; Hậu trí gọi là Đẳng giác.”

Nói “Như Thắng nghĩa kia”. Nghĩa là Y tha, Chân thật, gọi chung là Thắng nghĩa, do đối với tính Biến kế sở chấp vì có pháp, nên nói là y tha cũng gọi là Thắng nghĩa.

Minh, là ba Minh; Hạnh như kinh nói. Hai phẩm v.v… Chỉ, Quán, như Cựu Luận nói: “Ba minh, như kinh nói. Hạnh là hai phẩm của các Chỉ, Quán. Nay luận trái với kinh ấy, do đối trị với ngu ba đời, nên gọi là ba minh.”

Hỏi: “Phàm phu, người hữu Học, La-hán, Bích-chi, Bồ-tát và Chư Phật đều biết quá khứ, vì sao có minh, chẳng phải minh, có lực, chẳng có ực?”

Đáp: “Phàm phu, người hữu Học chỉ biết quả chung, biết quả có cùng tận, nên không được gọi là minh. La-hán, Bích-chi Phật không bằng Chư Phật nhân, quả đều biết, soi rọi pháp cùng khắp, đều gọi là Minh. Tám muôn kiếp về trước, đi suốt qua đối tượng không bằng, vẫn còn có không có biết. Không biết đã bị khuất phục, không được gọi là Lực.”

Hỏi: “Túc mạng biết quá khứ. Phàm phu, Nhị thừa đồng biết trong tám muôn kiếp, vì sao Thiên Nhãn thấy hiện tại, tức nói là phàm phu thấy bốn thiên hạ; Phạm vương thấy Tiểu Thiên; hàng Thanh văn thấy Nhị Thiên; Bích-chi Phật thấy ba ngàn thế giới ư?”

Luận sư Cảnh nói: “Tác dụng của tuệ kém trong năm thức Thiên Nhãn, Nhĩ thông, nên tùy theo khí lực của con người thấy cảnh hiện tại, xa, gần, ngăn cách với chung quanh, tùy khả năng thấy xa, gần.

Túc mạng, thông v.v… là ý thức mạnh mẽ biết được tám muôn kiếp.”

Có giải thích: “Chỉ chủng tánh Bồ-tát vô sinh, biết được tám muôn kiếp, như Số Luận v.v… chẳng phải phàm phu khác. Tỳ-Bà-Sa quyển một trăm nói về thường kiến, thấy kiếp khác nhau, rằng, chủng tánh Thanh văn nhớ hai muôn kiếp; chủng tánh Độc giác nhớ bốn muôn kiếp, chủng tánh Bồ-tát nhớ tám muôn kiếp.”

Trong giải thích Thiên, Nhân sư, là nêu bốn chương, lại dùng nghĩa để giải thích, với chỉ bày rõ ràng về liễu nghĩa, để khai Đạo.

Giải thích là thật nhãn, nên làm chỗ nương tựa cho tất cả nghĩa. Giải thích vì thật trí, nên nghĩa nương tựa trí, rõ ràng là nghĩa đã nương tựa, là chủ thể liễu cho bất liễu nghĩa, nên ngang với bốn trường hợp, giải thích là thật nghĩa:

1. Đức Như lai đối với nghĩa chúng sinh chưa liễu có khả năng quyết liễu.

2. Với nghĩa do chúng sinh cùng sinh ra, có khả năng dứt trừ.

3. Chỗ rất sâu sắc chung của Đệ Nhất nghĩa Đế có khả năng làm rõ.

4. Với người mới chứng rất sâu, lại giúp họ được suốt, sạch. Vì đủ bốn nghĩa này, nên gọi là Thật nghĩa. Vì làm căn bản cho tất cả pháp, nên đồng ba trường hợp, giải thích là Thật pháp.

Pháp là giáo pháp. Đức Như lai là căn bản cho tất cả giáo pháp, là người khai mở, dẫn dắt giáo pháp, vì làm nơi nương tựa cho giáo pháp, cho nên đức Như lai là thật pháp.

Trên, đã nói về công đức của đấng Đại sư, dưới đây, sẽ giải thích về nghĩa của Sư.

Đức Như lai, là người có khả năng truyền trao giáo pháp chân chính cho trời, người v.v… Luận sư Trắc nói: “Nói là Thật nhãn nên “duyên” trí nghĩa; vì là Thật trí nên “duyên” pháp trí; vì Thật nghĩa nên lại trí nghĩa; vì Thật pháp, nên nói lại Pháp Trí v.v…

Về nhóm pháp có khả năng dẫn nhiếp nghĩa lợi có ba. Theo Cựu luận nói: “Nghĩa lợi ích, chẳng phải nghĩa lợi ích; chẳng phải nghĩa không lợi ích. Đây là ba tánh: như Thiện v.v… có khả năng phá tan các ma, có nhiều công đức, được gọi là Bạc-già-phạm. Dựa vào Phẩm, nước phương Tây, cho hiệu này là hơn hết, không luận ngoại đạo và người Phật pháp, đều khen ngợi đức Bản sư là Bạc-già-phạm. Trong đây vì không có danh từ nào để phiên dịch, nên vẫn giữ nguyên tiếng Phạm. Nếu theo Bản Phạm thì hầu hết tựa đề các kinh đều nói là Bạc-giàphạm, không để là Phật nói, đến sau cuối cũng có hiệu là Thế Tôn.

Theo luận Thành Thật: “Vì có đủ chín đức nói trên, nên gọi là Thế tôn”, cũng không hợp lý.

Trong phần nói về xuất hiện, văn chia làm ba:

1/ Nói trong một thế giới, hoặc nhiều kiếp không có Phật, hoặc trong một kiếp có nhiều Đức Phật ra đời.

2/ “Kia kia v.v… trở xuống, là nói về các thế giới mười phương có vô lượng Phật.

3/ “Quyết định không có trong một cõi Phật”. Trở xuống, đại ý nói trong một thế giới, không có hai Phật ra đời.

Trong phần trước, hoặc một kiếp có nhiều Phật, nghĩa là trong kiếp hiền có một ngàn vị Phật xuất hiện thế gian, nên luận Trí Độ chép: “Vào lúc thế giới mới hình thành, trên biển hiện ra hoa sen ngàn cánh, cho đến cõi trời A- Ca-Ni-Trá thấy trong nhóm nước có hằng ngàn hoa sen, tức nói rằng, ở kiếp này có một ngàn vị Phật ra đời là bậc Hiền, thiện.”

Hỏi: “Nếu một ngàn Đức Phật kia đều xuất hiện trong cùng một kiếp Thành, Hoại, thì vì sao Ngài Chân Đế lại nói rằng kiếp Thành, Hoại, Không, đều chẳng có Phật ra đời, chỉ ở kiếp Trụ có Phật ra đời. Trong mười kiếp trước trong hai mươi kiếp, có Phật ra đời, mười sau không có. Năm kiếp trước trong mười kiếp cũng không có Phật xuất hiện. Trong kiếp thứ sáu đạo Phật Câu-lưu-tôn ra đời; kiếp thứ bảy, có Phật câu-na-hàm-mâu-ni ra đời. Trong kiếp thứ tám, có Phật Ca-diếp ra đời. Trong kiếp thứ chín, Đức Thích-ca xuất hiện thế gian. Trong kiếp thứ mười, Đức Phật Di-lặc sẽ ra đời. Từ kiếp Không trong vô lượng kiếp sau kiếp Di-lặc, sẽ không có Phật ra đời. Cho nên, biết một ngàn vị Phật không được xuất hiện liên tục trong một kiếp thành, hoại. Nếu ở kiếp hiền có một ngàn vị Phật, nói là đồng ở trong một kiếp Thành, Hoại thì cũng trong một kiếp Trang Nghiêm ở quá khứ có một ngàn vị Phật, lẽ ra cũng đồng ở trong một kiếp thành hoại.

Nếu nói là đồng thì không đúng, vì như kinh Quán Dược vương, Dược Thượng Bồ-tát nói: “Phật bảo đại chúng! Xưa kia, khi gặp Đức Phật Diệu Quang, lần đầu tiên phát tâm, nghe nói danh hiệu năm mươi ba vị Phật, ta cảm thấy lòng mình rộn lên niềm vui mừng, liền nói cho người khác nghe, thì có một ngàn người phát tâm Bồ-đề. Cứ như thế, lần lươt dạy bảo, lại cò thêm một ngàn vị phát tâm Bồ-đề! Này người thiện nam! một ngàn vị đầu tiên, tức một ngàn vị Phật trong kiếp Trang nghiêm ở quá khứ. Ngàn người giữa, tức một ngàn vị Phật trong kiếp hiền . Một ngàn vị sau, tức một ngàn vị Phật trong kiếp Tinh tú ở vị lai, xuất hiện ở thế gian, như kiếp Trang Nghiêm. Ở quá khứ cuối cùng có. Ba vị Phật tức là Phật Tỳ-Bà-Thi, ra đời vào kiếp đầu tiên trong chín mươi kiếp. Như các Đức Phật Thi-khí, Tỳ-Xá-Phù, tức ra đời trong ba mươi hai kiếp. Về sau, không có Phật. Mãi cho đến kiếp thứ chín, mười một, tức là đầu kiếp hiền, mới có Đức Phật Câu-lưu-tôn ra đời trước nhất.

“Đã nói một ngàn vị Phật trong kiếp Trang Nghiêm, ba vị Phật sau cuối trải qua trước sau trong chín mươi kiếp, một ngàn vị Phật trong kiếp hiền lúc ra đời cũng không đồng ở trong một kiếp Thành, Hoại?”.

Đáp: “Ông dẫn điều mà ngài Chân Đế phán quyết, chưa đủ làm chứng. Vì sao? Vì phương Tây hiện phán quyết, này chính là hai mươi tiểu kiếp của kiếp Trụ. Tiểu kiếp về trước, có bốn vị Phật ra đời. Bồ-tát Di-lặc sẽ ở đầu kiếp Trụ này. Từ giảm đến lúc tăng tám van tuổi, mới xuất hiện ở thế gian, vì theo Đại thừa phán quyết rằng hai mươi kiếp Trụ đều có một lần tăng, một lần giảm, mới thành một Tiểu kiếp. Nếu căn cơ của các chúng sinh đã thành thục, thì sẽ có duyên gặp Phật. Cứ mỗi Tiểu kiếp, có một ngàn vị Phật ra đời, là không có lỗi, há nói lại có mười chín Tiểu kiếp? Ông dựa vào ngài Chân-Đế mà phán quyết vội rằng: “Trong mười kiếp sau không có Phật ra đời và năm kiếp trước cũng không có Phật, là không hợp lý”.

Lại dẫn luận Câu-Xá nói ba vị Phật sau trong kiếp Trang Nghiêm ở chỗ đức Thích-ca, tu nghiệp tướng tốt trước, sau trong chín mươi mốt kiếp, mới ra đời là đủ biết không đồng một loại kiếp có một ngàn vị Phật, thì không đúng. Vì, Đại thừa không nói sau ba tăng-kỳ, đặc biệt trong một trăm kiếp tu nghiệp tướng tốt, mà nói là đức Thích-ca, ba tăng-kỳ đã mãn, lại gặp ba vị Phật kia trong chín mươi mốt kiếp, tu nghiệp tướng tốt ấy, đây là nói thuận với bất liễu nghĩa của Tiểu-thừa, nên không thể dẫn lời ngài Chân-Đế để chứng minh. Cho nên, nay thấy kinh Dược-Vương, Dược-Thượng nói: “Một ngàn vị đầu tiên đồng ở một kiếp Trang-nghiêm ra đời, cũng là một ngàn người trong một kiếp Thủy-hỏa, đồng ở một kiếp Hiền ra đời. Một ngàn vị sau, đồng ở một kiếp Tinh-Tú, ra đời ở thế gian”. Lại, tức Khoái Thuận Trí luận đã nói: “Trong kiếp này có một ngàn vị Phật ra đời, như lời ghi nhận của quyển hai ở trước đã nói về nghĩa ấy”.

Trong văn thứ hai được chia làm ba:

1/ Sơ lược lập tông, ở nhiều thế-giới lại có nhiều Phật.

2/ “Vì sao?” trở xuống, là hỏi đáp, nói rộng.

3/ Giải thích xong, tổng kết.

Vì sao? Nghĩa là vì sao các thế giới ở mười phương có nhiều vị Phật? Ở đây cũng có ba:

Đầu tiên, hỏi; kế là, giải đáp, sau là kết.

Trong giải thích có ba:

1/ Nói về tu nhân có nhiều người thành Phật, cũng phần nhiều chứng có nhiều vị Phật.

2/ “Lại, ở mười phương hiện có v.v… ” trở xuống là nói trong một cõi không có hai vị Phật đồng ra đời, là chứng minh có nhiều vị Phật.

3/ “Lại không nên nói v.v… ” trở xuống, là phá chấp đồng thời tu nhân, theo thứ lớp thành Phật và không thành Phật.

Trong phần trước nói rằng đối với phần như thế luận Địa Trì nói: “Oai-nghi như thế, ở đây gọi là phần. Lại, nếu lúc bốn oai-nghi kia riêng biệng thì gọi là phần, cũng có thể là sáu thời phần kia”.

Kế là, nói: “Lại, ở mười phương, cho đến người nhất thời thành Phật. Nay, ý ở đây nói là có người tu tư-lương Bồ-đề trong nhất thời viên mãn, đa số là các Bồ-tát. Nếu không một lúc thành Phật ở thế giới khác mà ở một thế giới, là không đúng. Vì phá chấp của Tiểu-thừa nên nói là không có Phật mười phương. Ý của đoạn văn dưới đây nói: “Nếu đều trụ ở Đỗ-Sử kế là thứ lớp thành Phật và không thành Phật là không đúng”. Trong đây có vấn nạn: “Như một lúc phát nguyện, nhất thời viên mãn, chúng sinh ở một thế giới một Đức Phật, chúng sinh nhất thời, căn cơ thành thục, làm sao hiểu được?”

Nghĩa là không có việc này, nếu vậy, thì Bồ-tát Di-Lặc, đức Thíchca, chúng-sinh hãy còn có trước, sau, căn cơ thành-thục mà không đồng nhau, huống chi nhất thời, chúng sinh căn cơ thành-thục đồng ở một cõi?”

“Cho nên, phải biết rằng v.v… ” trở xuống là thứ ba, kết.

“Do lý này.” Trở xuống, là đoạn văn thứ ba trong đoạn lớn thứ hai, văn kết có nhiều Phật.

Trong ý nói về một cõi không có hai Đức Phật.

1/ Lược nói một cõi không có hai Đức Phật.

2/ Hỏi đáp, nói rộng.

Trong đáp có ba:

1/ Nêu tùy theo lời nguyện xưa: không có hai Đức Phật cùng lúc ra đời.

2/ Nói về Đức Phật thứ hai ra đời, lẽ ra không có lợi ích.

3/ Nói về một Đức Phật ra đời, thì lợi ích; nhiều Phật ra đời, thì tổn hại.

Từ đây trở xuống, là thứ năm, y cứ vào đức khác nhau v.v… để nói về Bồ-đề. Trước nói về thật đức, tức đồng. Kế là, nói về tướng hóa có khác nhau. Sau là nói về chuyển y thân nữ có khả năng chứng Bồ-đề.”

Hỏi: Nếu nói thân nữ không chứng Bồ-đề, thì vì sao kinh Pháp Hoa nói: “Long nữ thành Phật v.v… ”, làm sao hiểu được?”

Nghĩa là: “Nhưng Long nữ kia cũng biến thành người nam, sau đó mới thành Phật, chứ chẳng phải ngay thân nữ mà thành Phật được.”

Từ trên đến đây là năm đoạn, nói chung thứ nhất, là nêu thể Bồđề. Từ đây trở xuống, là thứ hai, kết các thuyết rất dễ hiều. Thứ ba, trong ba câu khen ngợi, gồm nêu:

Ba thứ vượt hơn:

a- Thể vượt hơn,vì vượt qua đạo Tầm, Tư. b- Đức vượt hơn, vì mọi đức đã nhóm họp thành. c- Dụng vượt hơn, vì sinh ra Bồ-đề của Ba thừa. Lại dùng bốn Danh để kết ngợi khen.

 

PHẨM LỰC CHỦNG TÁNH.

Các sư xưa nói: “trên đến đây, với năm phẩm nói về pháp sở Học. Mười một phẩm dưới đây sẽ nói về hạnh của Học kia. Dù rằng phẩm hạnh là pháp, nhưng trước là thể của pháp, còn dưới đây là nghi thức của phương tiện tu tạo, nên, gọi là chung là xứ phương tiện. Trong đó có ba:

  1. Một phẩm đầu nói về phương tiện Nhiếp Học căn bản.
  2. Kế là, có chím phẩm tạo duyên chánh Học .
  3. Một phẩm sau, Nhân Học, thành đức.

Nay, thì không như thế, Trì Học thứ ba có mười sáu phẩm, năm phẩm trước, nói xứ sở học. Y cứ nói sở học (đối tượng Học), gồm có người “năng học” (chủ thể học), chưa nói nên học như thế nào?. Một phẩm thứ sáu, chính nên là nói học hành như thế. Mười phẩm còn lại chánh là nói về năng Học. Y cứ nói về hạnh của năng học, gồm có pháp sở học, nên về Trì học, trước nói rằng: “Nếu xứ “sở học” nói là Học như thế có thể tu học, nen có ba chương. Nếu theo phẩm thứ nhất này thì tức là sẽ có sinh khởi, hoặc văn của xứ sở học.”

Đã giải thích năm phẩm xong, đến phẩm Lực Chủng Tánh này lại có sinh khởi, nếu văn của sự Học như thế là nói Từ trên đến đây, nói về sáu phẩm xong.

Giải thích: “Nếu có thể tu học trong phẩm Thí, thì đầu tiên, dù không có sinh khởi văn để tu học, nhưng lấy lý này để y theo tông của năm phẩm trước, để nói xứ sở học gồm có người “năng học”.

Mười một phẩm dưới đây sẽ nói về hạnh sở học, dù nói về pháp sở học, người “năng học”, tức ba câu đầu của Học trì, hoặc xứ sở học; hoặc học như thế.

Chia phẩm nhiều ít. Câu đầu, nói pháp mới học, dù nói về pháp sở học mà chưa nói “nên học như thế”, cho nên, hai câu theo thứ lớp nói “nên học như thế”. Nếu chủ thể tu học là xứ sở học, thì trong “Học như thế” gồm để nói. Về nghĩa nấy cũng chưa rõ ràng, chưa giải thích như trước chia làm ba lại vượt hơn.

Hoặc xứ sở học; hoặc học như thế, sáu phẩm trước mới có sinh khởi, có thể tu học trong phẩm Thí, dù không có sinh khởi, nhưng công đức cuối cũng có văn kết. Cho nên biết Mười phẩm là Học chứng”.

Chủng tánh của Lực. Lực là mười lực, hạt giống của mười lực, gọi là chủng tánh lực. Phẩm chủng tánh thứ nhất trước, nói chung tất cả tánh, chủng tánh, chưa nói tập thành chủng tánh của mười Lực. Nay vì muốn nói riêng về tập chủng tánh, nên nói phẩm Lực chủng tánh.

Trong văn, đầu tiên, là kết trước, sinh sau; kế là, chia ra nêu chương môn. Sau dựa vào chương để nói rộng.

Trong phần chia ra gồm có:

  1. Nêu tụng.
  2. Văn xuôi nói về kệ.

Bồ-tát trước, muốn nói năm phẩm, bảy pháp, Học xứ được thích hợp, tinh tấn, siêng năng tu học. Trước nên phát nguyện. Nguyên là Thắng giải. Thắng giải xong, cầu pháp. Tự mình đã cầu pháp, nên nói cho người khác nghe. Nói xong nên tự tu hành. Chính mình đã tu rồi, lại truyền dạy cho người khác sao cho họ tu điều thiện. Lại dạy răn người khiến họ dứt bỏ việc ác. Người khác đã trụ trong truyền dạy, khuyên răn, thì có thể thu nhiếp thân, ngữ, ý khởi sự thực hành điều lành.

Trong phần dựa vào chương để nói, có mười đoạn; đầu tiên, trong phần nói về Thắng giải, trước, là nói về tám thứ thắng giải, sau, nói chung tu tám nhân duyên thành tựu viên mãn.

Ở phần trước nói: “Đôi với tám thứ kia, cho đến quyết định Hỷ, Lạc: Pháp sư cảnh nói: “Thắng giải, Tín, dục trong đây, “dục” là Hỷ, Lạc đều là thể của nguyện, với tám cảnh này gọi là chỗ nguyện nương tựa.”

Luận sư Trắc nói hai giải thích:

1/ “Hỷ, Lạc của số Thắng giải là số của dục khởi sự vào địa vị Phật, cần phải trước hết, khởi tín hạnh, thuận với cầu Tam bảo thì mới nhập được ”.

2/ “Thắng giải là số giải thoát đối với Tam bảo, đối tượng duyên, quyết định Thắng giải”.

Hỏi: “Nếu vậy, vì sao luận nói rằng: “Tín tịnh là quyết định Hỷ, Lạc ở trước ư?”

Giải thích “Hai pháp: Tín, dục này là số giải thoát, đồng thời là giúp đỡ. Do hai pháp này có thể tạo ra tướng quyết định đối với Tam bảo.”

Dù có hai giải thích, nhưng giải thích trước là vượt hơn. Dưới đây sẽ giải thích về không là số của số một, hai v.v… của Cựu luận, nên Pháp sư Viễn v.v… đã lầm số tám thứ Tắng giải, tức số Tam bảo là ba; đối với Bồ-tát v.v… là thứ tư; nghĩa Chân là thứ năm; Nhân, quả kết hợp là thứ sáu; về nghĩa nên được là thứ bảy; đối với phương tiện được là thứ tám.

Đối với ngôn ngữ v.v… thiện là nói chung tám pháp ở trước. Nay tân luận này nói: “Một, hai v.v… rõ ràng không biết. Y cứ mỗi pháp trong tám, so sánh có hai đoạn:

1/ Dẫn kinh nói thành Thắng giải.

2/ “Các ở” trở xuống, là Bồ-tát Di-lặc giải thích y kinh:

  1. Đối với Tam bảo nguyện cúng.
  2. Nguyện được thần thông.
  3. Đối với hai Đế, nguyện chứng.
  4. 5 nguyện thông suốt trong lý nhân, quả.
  5. Nguyện được Bồ-đề.

Pháp sư Thái nói: “Đối với nghĩa nên được, Bồ-đề có nghĩa lợi lớn, gọi là đó là nghĩa. Vì nên được Đại Bồ-đề, nên nói rằng, ở nghĩa nên được.

  1. Tu hành phương tiện Bồ-đề.
  2. Nguyện hiểu rõ mười hai phần giáo.

Nói: “Ở thiện ngôn, thiện ngữ, thiện thuyết: Luận sư Cảnh định bổ khuyết rằng: “Mười hai bộ kinh vì y cứ ở Tạng không đồng, nên có ngôn, ngữ, nói riêng.”

Thứ hai, trong giải thích về cầu pháp, trước hỏi, sau đáp. Trong hỏi có ba:

  1. Sẽ cầu ở đâu? là hỏi pháp đã cầu.
  2. Cầu là thế nào? là hỏi về cách thức cầu.
  3. Nghĩa nào nên cầu? Nghĩa là hỏi về ý cầu.

Dựa vào ba câu hỏi này, đáp cũng có ba:

Trong đáp câu hỏi một, có hai:

a/ Khai hợp năm minh, nói về cầu bốn pháp.

b/ “Tất cả như thế, v.v… ” trở xuống, là ly hợp bốn pháp, nói cầu năm minh.

Trong phần trước, nói “Sẽ cầu tạng Bồ-tát, tạng Thanh văn”, đây là chia nội minh ra làm hai pháp. Tất cả luận của ngoại đạo, đây là kết hợp: Nhãn minh, Thinh minh; Y phương minh làm pháp ngoại. Vì trong luận ngoại đạo, trước nói về luận Nhân minh, Thinh minh v.v… Pháp Phật cũng thường nói về Nhân minh, nhưng chưa áp dụng nhiều. Về sau, đến Luận sư Như ý, mới bắt đầu soạn tập, nhằm ngăn ngừa vấn nạn của luận ngoại đạo, mới thực hành dần, nhưng chưa thể chế phục được đối phương. Sau, đến ngài Trần-na, bộ môn này mới bắt đầu hưng thịnh. Tất cả ngoại đạo đều đến nghe, tập. Cho nên, từ gốc kết hợp với ba minh kia là luận của ngoại đạo. Tất cả luận giả công nghiệp xứ của thế gian, việc làm của xứ sở công xảo minh, phần nhiều lập riêng làm một, là thứ tư.

Nói: “phải biết đối với mười hai phần giáo, một phần phương Quảng chỉ cho Tạng Bồ-tát, các phần còn lại là tạng Thanh văn”. Luận của cực dịch Địa Trì nói: “Mười một bộ khác chỉ có Tạng Thanh văn , tức là Đại thừa không có mười hai bộ. Nay nói: “Các phần còn lại có Tạng Thanh văn, là tức Đại thừa có đủ mười hai. Trong Thanh văn chỉ có mười một trừ phần Phương Quảng. Một chữ sai lầm, thì lý thú sẽ cách xa. Nghĩa ấy ra sao? Vì một phần phương Quảng nói về lý Đại thừa, nên chỉ có Tạng Bồ-tát , Mười một còn lại là tạng Thanh văn, có khi chẳng phải Thanh văn tạng. Như Đối Pháp nói: “năm thứ như khế kinh v.v… thuộc về Tố-Đát-Lãm trong tạng thanh văn ”. Thì Đại thừa cũng có nghĩa của năm bộ này, vì đều nói về sự Phương Quảng. Vì thế, ngoài Phương Quảng không lập riêng. Vì Tiểu thừa không có phương Quảng, nên lập riêng năm bộ này. Năm bộ này vì không có hai tạng tương ưng riêng,nên chỉ thuộc Tố-Đát-Lãm.

Về sau, Luận Đối Pháp kia nói: “Duyên khởi, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, bốn pháp này thuộc về quyến thuộc Bồ-tát của tạng Tỳ-nạida trong hai tạng. Phương Quảng, pháp vị tăng hữu, hai pháp này thuộc Tố-Đát-Lãm trong tạng Bồ-tát .

Kinh khác và Luận tạng này, ở đoạn văn sau có điểm bất đồng, nghĩa là kết hợp giải thích trong lời ký của quyển tư, quyển năm như trước.”

Nói về bốn pháp ly, hợp nhằm nói, tìm cầu năm Minh.

Trong phần đầu, nêu về năm minh, thứ hai, là hỏi đáp, phân biệt, trong đó.

  1. Hỏi đáp nói về pháp “ giải thích” của năm minh nhiều, ít.
  2. Nói rộng về nghĩa ‘sở thuyên” của Nhân minh.

Trong phần trước, hỏi về giáo của năm minh, gọi là pháp giải thích nghĩa, mỗi thứ có bao nhiêu tướng chuyển?.

Trong phần đáp, về nghĩa giải thích của Luận Nhân minh dù có vô lượng tông nói về Nhân, quả. Nhưng vì tông của Nhân Minh nói về tỷ lượng, nên chứng tỏ dẹp bỏ người khác, tự lập đạo lý.

Về Thinh minh:

1/ Bày tỏ an lập tướng của giới, nghĩa là bày tỏ Thể của chữ, chủ thể thành lập tướng, đây là nói về “duyên” chữ.

2/ Hiển bày tướng thắng lợi của ngữ công, nghĩa là nói về dụng của Thinh minh, cái gọi là tướng nam, nữ, trên, dưới v.v… gọi là thắng lợi của ngữ công. Về tướng trạng của hai minh sau, rất dễ hiểu.

Từ đây, trở xuống, là hỏi đáp, nói rộng về nghĩa “sở duyên” của Nhân minh, trong đó, trước là giải thích về tướng của chánh nhân, quả.

Sau, nói về tướng-trạng đã làm, chưa làm, được, mất.

Trong phần trước có ba:

1/ Giải-thích về tướng Nhân, tức là mười Nhân.

2/ Giải-thích về tướng Quả, tức là năm quả.

3/ Tổng kết, Bồ-tát biết tướng Nhân, Quả xong, khiến cho chủngtánh, trí lực của Xứ, phi xứ ngày càng được tăng-trưởng dần. Trong phần trước, gồm có; 1/ Nêu chung về số.

2/ Nêu ba chương.

3/ Giải-thích.

4/ Giải-thích xong, tổng kết không có quá tăng .

Theo trong giải-thích thứ ba, trước giải-thích về nêu số. Sau, giải thích ba chương.

Trong phần trước, trước là hỏi, sau là đáp. Trong phần đáp, đầu tiên, nêu mười danh. Kế là, giải-thích mười Nhân. Sau, đối với hai nhân, bốn duyên nhiếp nhau thông bít.

Văn giải-thích mười nhân, tức giải-thích chung về nghĩa của mười Nhân, ba tánh. Trong đó, ba pháp: danh, tưởng và ngôn-thuyết là nhân tùy thuyết. Do tưởng, thuyết, pháp, danh mà khởi ngôn thuyết, do nói nghĩa rõ ràng là tức pháp tùy theo thuyết làm rõ danh, tùy theo thuyết nhân. Luận sư Cơ nói nghĩa là vì có sắc, danh như trước, cho nên về sau, khi nghe danh này, liền khởi tưởng nhận lấy hình-tượng thiện, ác. Do nhận lấy hình-tượng này nên bèn khởi nhân của ngôn-thuyết là lời nói về sắc v.v…

Lại, như luận Tạp Tập , quyển hai nói nhân tùy thuyết , nghĩa là danh, tưởng thấy ngôn thuyết, dùng cả trước làm thể, luận này không nói ngôn, kiến đó là có ý gì? Do tưởng nhận lấy hình tượng của sắc, nên liền khởi chấp mắc, chấp mắc, gọi là kiến, do chấp mắc, nên khởi ngôn-thuyết”.

Hỏi: Nếu là nhân Thanh-tịnh thì sao gọi là chấp mắc?

Vì kiến của Nhân thanh-tịnh, tức chánh-kiến. Vì gọi là pháp kia, nền dù chẳng phải chấp mắc, nhưng cũng gọi là “Kiến”.

Thuyết của Luận Tạp Tập kia nói, do tác-dụng của tưởng đều khác nhau, nên luận v.v… không nói đến, nghĩa là đối với nhận lấy hình-tượng, khởi chấp mắc, tức một vật giống nhau, do “Kiến” thuộc trong tưởng, cho nên không nói.

Lại, như thông thường có nói năng, chỉ có tưởng, chưa hẳn khởi chấp, nên luận kia y cứ ở kết hợp pháp tạo tác, đều khởi chấp mắc mà nói luận này chỉ y cứ ở chỗ không chấp mà nói, do đó, không trái nhau”.

Kế vì quán đối đãi pháp này làm nhân, nên cầu lấy pháp kia, gọi là nhân quán đãi.

Nói: “Tất cả hạt giống đối với quả của mình sau này, gọi là nhân dẫn dắt.” Nghĩa là theo văn trong đây, chung cho phần huân tập thủ, hữu, lôi kéo quả Dị thục sau. Lại, có huân tập danh ngôn, dẫn đến quả đồng loại sau, gọi là nhân dẫn dắt. Trừ ba duyên khác của hạt giống nhân duyên, gọi là nhân nhiếp thọ, gồm thâu chung hai thứ hạt giống của phần hữu, danh ngôn. Mới niệm về quả của mình, gọi là nhân sinh khởi, tức đồng thời sinh.

Pháp sư Thái nói: “Như Quyết Trạch nói: “Dựa vào các hành nghiệp tịnh, bất tịnh, chỗ tập khí nương tựa, giả đặt ra nhân dẫn dắt. Dựa vào hạt giống thấm nhuần hữu, chỗ nhân nương tựa, giả đặt nhân sinh khởi. Vì sao? Vì các hạt giống đả được thấm nhuần này, trước đã lôi kéo, đều có tự thể riêng, sẽ được sinh khởi. Như kinh nói: “Nghiệp là nhân của bào sinh; ái là nhân sinh khởi.”

Giải thích: “Do nghiệp thấm nhuần hạt giống ái, nên báo mới được sinh khởi. Khi mới khởi; vì cần ái thấm nhuần mói khởi, nên hạt giống của; ái đối với quả mới khởi”.

Giải thích: “Do nghiệp thấm nhuần hạt giống ái, nên báo mới được sinh khởi. Khi mới khởi vì cần ái thấm nhuần mới khởi, nên hạt giống của ái đối với quả mới khởi, gọi là nhân sinh khởi. Thời gian sau, nối tiếp nhau, lại không do ái, như La-hán không có báo ái, cũng được nối tiếp nhau, chỉ do sức nghiệp nối tiếp nhau khởi báo sau, nên nói rằng: “Tất cả hạt giống đối với tự quả sau, gọi là nhân dẫn dắt. Hai nhân này tức nghĩa của hai nhân dẫn sinh của luận Nhiếp Đại thừa .

Theo Pháp sư Viễn , thì phương Tây có ba giải thích:

1. Giải thích: “Tất cả hạt giống của báo đối với niệm ban đầu khởi, gọi là nhân sinh. Đối với niệm sau trở đi, khởi báo, gọi là nhân dẫn.

2. Giải thích: “Đầu tiên đối với một báo sinh thân, gọi là nhân sinh, đối với thây chết sau, gọi là nhân dẫn. Cho nên Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Chết, vẫn còn nối tiếp nhau”.

3. Giải thích: “Vô minh, hành đối với sinh, già chết ở vị lai, gọi là Nhân dẫn. Ái, Thủ, Hữu đối với sinh, già chết là nhân sinh. Vì cho nên vô minh, hành trong mười hai nhân duyên là chi “năng dẫn” (chủ thể dẫn), Ái, Thủ, Hữu là chi “năng sinh”.

Kế là gồm thâu chung tất cả hạt giống trước đã sinh hiện hạnh, gọi là nhân dẫn phát. Gồm thâu chung pháp ba tánh v.v… của nội, ngoại, mỗi pháp đều là nhân duyên khác nhau, gọi là nhân quyết định riêng. Tùy bất cứ pháp nào khởi, đều nhờ vào nhân quán đãi này v.v… mới được sinh khởi, gọi là nhân đồng sự. Tất cả hữu vi trở ngại, pháp sinh là nhân trái nhau. Nhân không trái nhau rất dễ hiểu.

Theo cách giải thích của luận Địa Trì bản cựu dịch, “Hai nhân ban đầu và hai nhân sau chung. Trong sáu nhân trung gian đều giải thích trong đây, chỉ y cứ ở nhân vô ký của pháp ngoại để giải thích.

Dưới đây nêu sáu thứ trái nhau: Chính thức lấy trái nhau của sinh khởi, gọi là nhân trái nhau.

Trong oán địch trái nhau nói rằng: “Nói là rắn độc, chuột, sói, mèo, chồn, chuột dữ. Các loài này là kẻ thù lẫn nhau. Cho đến chuột dữ trở nên sợ rắn độc. Như thế theo thứ lớp mà oán thù lẫn nhau, lúc gặp nhau, chúng không có tâm tình.”

Từ đây trở xuống đối với hai nhân, bốn duyên nhiếp nhau thông suốt, bít lấp. Đầu tiên, đối với hai nhân phải biết dẫn dắt, hạt giống sinh khởi hạt giống, gọi là nhân “năng sinh”; các nhân “sở thuyên”, gọi là nhân phương tiện: Duy thức nêu ra hai thuyết:

1/ “Ở đây nói dẫn dắt, sinh khởi, dẫn phát, quyết định sự việc đồng khác, , các hạt giống nhân duyên trong bất trái nhau, ở phần vị chưa thành thục, gọi là hạt giống dẫn dắt, phần vị đã thành thục, gọi là hạt giống sinh khởi. Các hạt giống nhân duyên trong sáu nhân kia đều gồm thâu trong hai giai vị này, nên dù có nhân của chủ thể sinh hiện tại, như sinh tự chủng trong bốn nhân mà phần nhiều xen hở.

2/ Ở đây lược qua không nói. Hoặc gần nói về quả, cũng đặt tên là chủng, như nói giống lúa mì hiện hành. Nhân khác nghĩa là hai, năm, chín nhân ban đầu và pháp chẳng phải nhân duyên trong sáu nhân, đều là hạt giống nhân duyên khác của sinh, thục, nên nói chung thuộc về nhân phương tiện, chứ chẳng phải hai hạt giống này chỉ thuộc về hai nhân kia. Vì có hạt giống nhân duyên trong bốn nhân khác, chứ chẳng phải tám nhân kia gọi là nhân khác. Hai nhân kia cũng có hạt giống chẳng phải nhân duyên, nên nói “ở đây nói hạt giống dẫn dắt, tức các nhân khác của hai nhân kia, tức tám nhân khác kia dù trong hai nhân có chẳng phải năng chủ thể sinh, mà chung nhân duyên vì vượt hơn rõ ràng nên nói khắp. Dù trong nhân khác co nhân chẳng phải phương tiện, mà tăng thượng nhiều là vì rõ ràng nên nói khắp”.

Ngài Tam Tạng nói: “Trong Địa Bồ-tát này nói hai nhân dẫn dắt, sinh khởi, đều chung cho huân tập phần hữu và danh ngôn, nên hai nhân này đều thuộc về nhân “năng sinh”. Trong Địa Tầm, Từ chỉ nói huân tập phần hữu là nhân dẫn dắt, cho nên không nhập “năng sinh” (chủ thể sinh) thuộc về nhân dẫn dắt.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hai nhân dẫn dắt, sinh khởi đâu có riêng khác?”

Nghĩa là: “Hai thứ khác nhau:

1. Rộng, hẹp khác nhau. Nhân dẫn dắt chung cho duyên tăng thượng , nhân duyên, nên thuộc về hai nhân: Nhân năng sinh và nhân phương tiện. Nhân sinh khởi hẹp, chỉ thuộc nhân duyên.

2. Thấm nhuần, chưa thấm nhuần khác nhau, nên trong y xứ nói: “Nhân dẫn dắt là nhân y xứ của tập khí, hạt giống của chi Hành, Thức chưa bị thấm nhuần. Nhân sinh khởi là nhân y xứ của hạt giống có thấm nhuần, tức đã bị thấm nhuần , cho nên có khác nhau.

Kế là, đem bốn duyên chung với hai nhân gồm thâu nhau. Ở đây nói nhân duyên thuộc về nhân “năng sinh”, tánh của duyên tăng thượng tức thuộc nhân Nhiếp Thọ, của hai duyên trung gian của nhân phương tiện. Luận Duy thức giải thích: “Dù cho nhân phương tiện có đủ ba duyên sau, nhưng vì duyên tăng thượng nhiều, nên ở đây nói riêng. Nhân khác cũng có hai duyên trung gian, nhưng vì làm rõ trong Nhiếp Thọ, nên nói riêng.

Trên đến đây, đều là giải thích, đầu tiên nêu số có mười nhân xong. Dưới đây là giải thích mười nhân của ba tánh và lập ba câu hỏi. Sau, đáp theo thứ lớp, trong đó trước là giải thích về nhân thế gian. Nói rộng như Nhiếp xác luận nói. Luận sư Cảnh nói: “Cũng như người đi buôn trong đây, cần phải thuật lại giống nhau”. Pháp sư Cơ nói: “theo tục lệ của cõi nước kia, chép sự việc sáng suốt, xác thực v.v… gọi là

Nhiếp xác luận.”

Kế là, giải thích về mười nhân tạp nhiễm.

Nói: “Cảnh giới quán đãi mà có vị ái, cho đến làm nhân quán đãi. Nghĩa là ái là gốc của sinh, tử, do ái kia là gốc của các phiền não sinh nhiều “hoặc” khác, phát nghiệp được báo, nên Chi Hữu nối tiếp nhau, tức nói ái kia là nhân quán đãi.

Pháp vô minh v.v… trong hiện pháp cho đến làm nhân dẫn dắt. Pháp sư Thái nói: “Vô minh, Hành ở hiện tại huân tập thành hạt giống, do hạt giống này đối với sinh, già chết v.v… của đời sống khác ở vị lai, vì dẫn dắt xa nên làm nhân dẫn dắt. Nếu ái, thủ, hữu trong hiện tại, thì đối với sinh, già chết là nhân sinh khởi trong nhân dẫn phát.

Luận sư Trắc nói: “Hạt giống vô minh v.v… ở hiện tại do nhân dẫn dắt ở trước, đối với dẫn sinh, già chết, đều là hạt giống. Nay, nhân dẫn phát này cũng do hạt giống của danh sắc, sáu nhập v.v… đối với dẫn sinh, già chết, đều là hạt giống, đâu có khác nhau?”

Giải thích: “Y cứ sự thật để nói thì đều là hạt giống. Đối với một hạt giống là hai nghĩa kia. Chủ thể dẫn dắt gần khởi, gọi là nhân dẫn dắt; dẫn phát xa, gọi là nhân dẫn phát.

Nói: “Chi vô minh khác và tự hạt giống, cho đến Chi hữu, sinh ra Na-Lạc-Ca (địa ngục) v.v… Luận sư Cảnh nói: “Chi vô minh khác, lược qua không nói Hành. Tự chủng tử, là tức hạt giống của năm chi như thức v.v… Cho đến Chi Hữu, nghĩa là vượt qua ái, thủ, chỉ nói chi Hữu. Từ mạnh mẽ chỉ nói ở nghiệp. Nếu duy trì sự thấm nhuần kia về sau, sự mạnh yếu gồm thâu chung năm chi như thức v.v… hạt giống danh ngôn cũng là chi Hữu.”

Pháp sư Thái nói: “Từ chi Vô minh, cho đến chi hữu hiện khởi và hạt giống làm nhân, đều sinh ra sự khác nhau của năm đường, là quyết định nhân riêng.”

Luận sư Trắc nói: “Đọa Na-lạc-ca, chi vô minh, cho đến chi Hữu, đối vói bốn đường còn lại, gọi là khác.”

Dưới đây, nói về mười nhân thanh tịnh:

Các hạnh quán đãi, vì nhiều tai hoạn lổi lầm, nên ưa mong cầu thanh tịnh. Luận sư Cảnh nói: “Các hạnh quán đãi nhiều lổi lầm, nghĩa là chính đáng phát ra Thể của nhân quán đãi.

“Ưa mong cầu v.v… ” trở xuống, là nêu ra quả do nhân quán đãi sinh ra. Ưa mong cầu thanh tịnh, nghĩa là phát nguyện. Nhiếp thọ thanh tịnh là khởi hạnh, thành mãn thanh tịnh là đắc quả.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Như thứ lớp, nghĩa là địa vị trước của địa mới phát tâm đã được vô lậu. Sơ địa trở lên và đã mãn, vì quả Phật vô lậu Viên mãn an trụ chủng tánh cho đến làm nhân dẫn dắt. Luận sư Cảnh nói: “Nếu đối với đạo Đế, thì gọi là nhân dẫn dắt. Nếu đối với diệt Đế, thì gọi là nhân chứng đắc. Trong văn tự nói là chứng hữu dư đối với diệt Đế. Chủng tánh kia đối với thanh tịnh là nhân dẫn dắt, dẫn đến đạo Đế.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tức chủng tánh đối với chứng hai cõi Niếtbàn, Trí là nhân dẫn dắt. Đối với Niết-bàn, các căn thành tựu, nghĩa là tám thứ báo vượt hơn, như trước đã nói. Thuộc về chủng tánh cho đến là nhân sinh khởi. Luận sư Cảnh nói: Tướng đồng thời này sinh ra nhân

dẫn dắt ở trước, lôi kéo xa nhân quả khac thời ở vị lai.”

Luận sư Trắc thuật lại các nước phương Tây có ba giải thích:

1. Theo Ngài Hộ pháp nói: “Do bản hữu “pháp nhĩ”, hạt giống vô lậu, chủ thể sinh của hiện hạnh vô lậu. Cho nên hiện hạnh vô lậu của Sơ địa trở lên, đều có nhân duyên, hoặc có hạt giống mới huân tập Địa tiền, là vì hữu lậu, nên chỉ là duyên tăng thượng. Sơ địa trở lên, mới huân tập hạt giống vô lậu, đối với hiện hạnh vô lậu kia cũng được làm nhân duyên, vì là vô lậu.”

2. Ngài Hộ Nguyệt nói: “Chỉ có hạt giống pháp nhĩ sử dụng hạt giống này làm nhân duyên sinh hiện hạnh vô lậu.”

3. Ngài Thắng Quân nói: “Chỉ có mới huân tập”.

Nay, luận này lại y cứ ở nghĩa có thể sinh nói là hạt giống.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nhất định trong nhân khác như, chỉ dùng tác pháp của Ba thừa, đây là y cứ theo thô để nói. Y cứ ở tế trong ba thừa lại chia ra vô lượng, vô số về quả nào, nhân nào v.v… ?”

Trong nhân đồng sự nói: “Nếu phẩm thanh tịnh, là phân biệt với đồng sự tạp nhiễm, nhưng trong tạpnhiêm ở trước không nói. Nếu nói nhân đồng sự của pháp phẩm tạp nhiễm, thì đây là ảnh lược. Lại ở đây nói nếu thanh tịnh, tức biết được nhân đồng sự của Tạp nhiễm ở trước, nên phải lựa chọn.”

Thứ tư kết rằng: “Như thế, hiện có mười nhân tạp nhiễm, mười nhân thanh tịnh, cho đến trừ mười nhân này, không có thêm quá. Pháp sư Thái nói: “Trước đây, nói trong ba thứ mười nhân trong mười nhân như lúa mì, v.v… mười nhân cũng là thuộc về phẩm Tạp nhiễm. Trong đây, nói chung là hai.

Trên đến đây, đã giải thích tướng mạo của chánh nhân xong.

Dưới đây là thứ hai, nói về tướng trạng của chánh quả, tức là năm quả:

Thể của luận tức lấy Dị thục sinh và hạt giống của Dị thục danh ngôn, đều là thể của quả Dị thục.

Nói Dị thục, nghĩa là A-lại-da.

Khi khởi nhân báo đáp, trước, sau thường khởi chung khắp cả ba cõi, được gọi là Dị thục.

Dị thục sinh, nghĩa là ngoại trừ quả báo của A-lại-da, năm uẩn từ hạt giống của Dị thục khởi, được gọi là Dị thục sinh. Hạt giống của danh ngôn dù không là nhân báo đáp, nhưng nó là loại Dị thục gọi là quả Dị thục. Lại do vô minh và vì hành đã dẫn phát, nên cũng gọi là quả Dị thục.

Kế là lấy chung ba tánh lậu, vô lậu trong ngoài . Kết tất cả hữu vi từ nhân đồng loại ở trước sinh, đều gọi là quả Đẳng lưu.

Niết-bàn Trạch diệt do được Thánh đạo khắc ghi, gọi là quả ly hệ, gồm thâu tất cả hữu vi và Phi trạch diệt, đều do tác dụng của sĩ phu đã đạt được, đều gọi là quả sĩ dụng. Tất cả hữu vi do tự thể của nhân không chướng ngại mà sinh, là quả tăng thượng. Lại, do Thánh đạo vô vi được hiển tỏ, cũng là quả tăng thượng. Văn luận giản lược, mà không đầy đủ, pháp nói không hết.

Kế là, giải thích tên Dị thục. Nhân là thiện, ác, quả là vô ký. Nhân khác nhau mà vì thành thục, nên gọi là Dị thục, là từ nghĩa được tên. Tất cả hữu vi trước, sau giống nhau gọi là nhân Đẳng lưu . Đẳng lưu là quả, gọi là quả Đẳng lưu, tức ngay thể mà được tên. Cũng có thể Đẳng lưu chung là quả, gọi là quả Đẳng lưu, tức từ nhận được tên.

Thể của Trạch diệt vô vi dứt hết trói buộc nên gọi là ly hệ (lìa trói buộc) Ly hệ tức quả, đương thể được tên.

Năm uẩn hoà hợp, giả lập sĩ phu, quả mà tác dụng sĩ phu có được, gọi là quả sĩ dụng. Quả nấy tức từ tác dụng của nghĩa đặt tên. Sĩ phu là dụng nghĩa, là tác dụng. Hoặc muôn pháp không chướng ngại, mỗi một pháp đều có tăng thượng. Tăng thượng tức quả, ngay thể được tên. Cũng có thể sử dụng nhân có được công của quả, gọi là quả tăng thượng, từ nhân được gọi là tên gọi là.

Lại nữa, nói: “hoặc giống như nghiệp trước, quả sau tùy chuyển. Như nói: “Sát sinh, tuổi thọ thân sau, tức mạng ngắn ngủi v.v… Quả có thể được, dường như nhân trước, nên nói dường như nghiệp trước, quả sau tùy chuyển.”

Sau đây là tổng kết như văn.

Trên đến đây giải thích về tướng trạng của chánh nhân, quả xong.

Dưới đây nói về tướng mạo đã làm, chưa làm, được, mất, trong đó, trước giải thích, sau kết.

Biết xong, khiến cho nghiệp, trí lực, chủng tánh (chủng tánh của trí lực của nghiệp) được tăng trưởng dần.

Luận sư Cảnh nói: “Nhân nghĩa nhận, cho, trước là nói về bốn duyên nhận, cho. Nhân “duyên” sinh quả, quả khởi. Hạt giống hiện tại, khi đối với tướng quả sinh, được gọi là nhận, cho. Diệt tướng quá khứ không có pháp, không gọi là nhận, cho?”

Đáp: Tự loại của hạt giống danh ngôn lúc sinh ra nhau, lúc niệm trước diệt có quả dắt dẫn gọi là Thọ. Hạt giống của niệm sau khởi, lúc trụ tướng sanh thì, hạt giống trước mới được tên. Với duyên đẳng Vô gián , việc nhận, cho cũng thế.

Duyên Sở duyên: Nghĩa là nếu lúc “duyên” hiện cảnh, tâm, tâm sở sinh, thì tác nghiệp cảnh giới đồng thời nhận, cho. Nếu lúc “duyên” pháp không có: lông rùa, sừng thỏ ở quá khứ, vị lai, tâm đương lai của tướng phần biểu hiện rõ tướng phần, sinh ra kiến phần, cũng gọi là nhận, cho.

Duyên tăng thượng, cũng y cứ ở hiện tại sinh ra quả, gọi là nhận, cho. Pháp sư Cơ nói: “Nói là các hữu tình tự mình tạo nghiệp đến cuối cùng chẳng có mất mát, hư hoại. Đây là nói chung về nghĩa huân tập v.v… của phần hữu, cũng không có không làm, hoặc khác với quả Thục. Đây là kết Thủ, Hữu.”

Pháp sư Thái nói: “Đây là khởi cách đối. Cũng không có không tạo nghiệp mà có quả thục. Hoặc về sau tạo ra nhân ác khác mà có dị thục như hương khác, v.v…

Luận sư Cảnh về sau giải thích thêm: “Không có người kia làm khác, người này Dị thục.”

Đáp câu hỏi đầu tiên xong. Dưới đây, trong đáp câu hỏi thứ hai, trước hỏi, kế là, giải thích, sau là kết.

Bỏ câu hỏi xa trước, nên nêu lại câu hỏi rằng: “Bồ-tát cầu nghe chánh pháp như thế nào?”

Trong giải thích có ba:

  1. Nghe pháp hết lòng trân trọng.
  2. So lường, làm rõ vượt hơn.
  3. Nói lại nghe pháp ân cần, trân trọng.

Trong phần so lường, Ngài Tam Tạng nói: “phân số, phần trăm, phần ngàn, tức tương đương phần muôn; phần toán tức tương đương phần ức. Cho đến phần Ổ-Ba-Ni-Sát-Đàm. Đây là cùng cực trong số của phương Tây, như giống với hư hoại trong đây, chở chuyên trong rãnh nước, số chở rất cùng cực.”

Ngài Tam Tạng lại nói: “Theo số của Tiểu thừa, có sáu chục, gọi là một a-tăng-kỳ. Nếu theo số của Đại thừa, thì có sáu trăm, gọi là một a-tăng-kỳ.”

Luận sư Trắc nói: Nếu trong Bồ-tát Đại thừa, có một trăm hai mươi số. Như kinh Tạng Nghiêm nói: “Tức là số một trăm hai mươi thứ nhất, tức Luận này gọi là phần Ổ-Ba-Ni-Sát-Đàm.

Nói lại nghe pháp hết lòng: Trước, nói vì kính trọng pháp, nên tâm không có vấn nạn. Sau nói ở chỗ thầy, không có nhiễm, tán loạn, trong đó, trước, nêu hai câu. Sau, hai câu của lúc khác.

Trong giải thích vô nhiễm gồm có: Hỏi, giải thích, kết.

Trong giải thích, trước nêu ba trường hợp. Kế là, chia ra số tướng của ba trường hợp. Sau giải thích riêng rằng: “Nói không vì thuận theo, không tìm kiếm lổi lầm v.v… ”

Định bổ khuyết: “Lúc Bồ-tát nghe pháp, không vì thuận theo mong cầu, mà vì người tu hành nên nghe pháp, cũng không tìm kiếm lổi lầm của thầy. Nghe pháp không tự khinh miệt, nghĩa là khởi tâm rèn luyện, mài mò, chớ tự khinh miệt.”

Giải thích không có tán loạn: “Nghe tiếng thuộc về tai. Linh là nghe. Nghe tiếng chuyên ở tai.”

“Vì sao Bồ-tát cầu nghe chánh pháp” trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba về ý cầu pháp. Muốn cầu Trí nhất thiết, vì trí nên cầu pháp.

Trong giải thích nên nói chánh pháp, đầu tiên, là kết trước, sinh sau, tức là ba câu hỏi: Sẽ nói pháp gì?, nghĩa là hỏi về pháp đã nói; nói thế nào? Nghĩa là hỏi về cách nói; và vì nghĩa gì nên nói? Nghĩa là hỏi về ý nói pháp.”

Dưới đây, trong đáp, trước là đáp hai câu hỏi đầu và sau. Sau là đáp phương của thuyết thứ hai, nghĩa là các Bồ-tát chính là đối tượng nên cầu, tức là đối tượng nói, tức Bồ-đề, Niết-bàn, chỗ của đối tượng nên cầu, vì Bồ-đề, Niết-bàn này mà nói cho người khác nghe.

“Dựa vào hai thứ tương ưng vì người khác nói ” trở xuống, là v.v… đáp câu hỏi thứ hai, nói về phương pháp, trong đó có ba:

  1. Chia ra hai môn.
  2. Giải thích theo thứ lớp.
  3. Tổng kết làm hai.

Mười tướng, thuộc về Chương môn ở trước, dựa vào thuận theo nói có mười lăm.

Nói không gián đoạn. Nghĩa là nói nghĩa cho người nghe , theo thứ lớp không có xen hở.

Không làm ra vẻ tay của thầy; nghĩa là cầm đưa lên không bỏ xuống, gọi là nắm. Bồ-tát nói pháp tác động không nắm tay, không keo kiệt. Cũng nói là không chấp tác động ý của sư trưởng, mà không bỏn sẻn chánh pháp. Nói thanh tịnh có hai tướng rất dễ hiểu.

Lấy hai mươi tướng thuộc đương hai môn.

Hai mươi câu, nghĩa là nếu theo Luận sư Cảnh nói rằng: “1- Nên phải an trụ, oai nghi đúng pháp v.v… gọi là đúng thời. Lại, đối với 00 chánh pháp, sinh tâm tôn trọng, gọi là trọng pháp.

“Lại, vì tất cả nói pháp v.v… ” trở xuống, có mười ba câu, gọi là theo thứ lớp nói.

Như thế, theo thứ lớp xét nghiệm lại, gọi là thuộc đương rất dễ hiểu.”

Luận sư Trắc nói: “Như thứ lớp đó, phối hợp với hai mươi tướng trước”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Bốn pháp nối tiếp nhau, nghĩa là chánh pháp không keo kiệt ở trước, nghĩa là vì không keo kiệt, nên vì nói một cách liên tục.”

Mười pháp không đuổi, nghĩa là nói lời chúc mừng, an ủi trước đối với kẻ có tội, không xua đuổi trừng phạt họ, chỉ nên chúc mừng, an ủi.”

Là trong giải thích về pháp tùy pháp hạnh, đầu tiên, chia ra năm môn. Sau giải thích theo thứ lớp: thân, ngữ, ý, nghiệp là ba. Chánh Tư thứ tư; chánh tu thứ năm.

Pháp tùy pháp hạnh. Đã giải thích như trước.

Luận sư Trắc nói: “Pháp là học pháp . Tùy pháp hạnh là nghi thức của Học”

Trong giải thích, chia làm ba: 1- Giải thích ba nghiệp 2- Giải thích chánh tư. 3- Giải thích chánh tu.

“Nếu Phật, Thế tôn chế phục thân ngữ ý tức giới luật nghi. Chia ra thân, ngữ, ý, tức hai nhóm giới: Nhiếp thiện và Nhiếp chúng sinh.

Không có xa lìa trái ngược. Nghĩa là lìa lổi, tức Giới luật nghi, không có tu chứng trái ngược, tức hai nhóm giới sau.

Trong giải thích Chánh tư, trước hỏi, kế là, giải thích; sau là kết.

Trong giải thích, 1/ Nói về tướng của tám tư duy. 2/ Do chủ thể xa lìa không nghĩ bàn.” trở xuống là thành tám tướng có lợi ích.

Trong phần trước, nói là các Bồ-tát cho đến trước phải xa lìa chỗ không nghĩ bàn, để tư duy pháp kia là tướng thứ nhất.”

Nói “Chỗ không nghĩ bàn”, như: khì thế gian là hữu biên, vô biên? Chúng sinh thế gian có hết, không có hết v.v… Nếu tư duy, thì sẽ phát sinh điên loạn! Luận Hiển Dương nói: “Xứ không nghĩ bàn gồm có chín:

  1. Ngã.
  2. Hữu tình.
  3. Thế giới.
  4. Nghiệp báo.
  5. Tĩnh lự, nghĩa là cảnh giới.
  6. Cảnh giới của chư Phật.
  7. Mười bốn thứ không thể ghi chép.
  8. Chẳng phải chánh pháp.
  9. Tất cả thuộc về Niết-bàn.

Giải thích rộng, như Luận Hiển Dương kia.

“Kế trở xuống, cho đến”mà không có trể nãi, “thong thả” là thứ hai.

“Kế trở xuống, cho đến dùng lý quán sát mà tùy ngộ nhập, thứ ba.”

“ Kế trở xuống, đối với phần ít kia, chỉ tin hiểu sâu, thứ tư”.

“ Kế trở xuống, cho đến chỉ dựa vào nghĩa kia, không theo văn kia”, thứ năm.

“Như thật biết rõ nói là chắc, gọi là đại,” thứ sáu. nói: “Nói hắc, nói đại” là nói ác. Nói thiện. “Chính thức biết rõ tư duy trước nhất” là thứ bảy.

“ Đã ngộ nhập rồi, thường thường tác ý, khiến được vững chắc,” thứ tám.

Lại trong thành tám tướng v.v… Pháp sư Thái giải thích rằng: “Đối với nghĩa chân thật, không có vật, không có pháp gì để khuynh đảo, có thể lay động, nghĩa là không có nhân, vật nào để khuynh loát, không có giáo pháp nào để lay động. Chính là có thể ngộ nhập tư duy ban đầu, nghĩa là tư Tuệ gọi là tư duy trước nhất”.

Trong giải thích về chánh tu, trước hỏi, kế giải thích. Trong giải thích gồm có bốn:

  1. Nêu số, nêu tên
  2. Dựa vào nêu mà giải thích3- Kết làm rõ lợi ích của tu.

– Tổng kết hạnh nhiếp của bốn tu cùng khắp.

Thứ nhất, thứ hai trong bốn tu là tu riêng. Thứ ba, đều cùng tu, chưa được thành tựu viên mãn. Thứ tư, ưa được thành tựu viên mãn, nhậm vận khởi”.

Luận sư Cảnh nói: “Về đạo lý, tu chỉ, quán đều có, vì lúc tu chỉ, quán, thế có tăng, giảm. Nếu thế của “Chỉ” tăng, thì gọi là Tu Xa-matha; “Quán”tăng, gọi là Tu tỳ-Bát-Xá-Na; chỉ, quán đồng, đều gọi thì song tập. Thuần thục, gọi là ưa tu”.

Luận sư Trắc nói: “Do tám thứ tư duy đều thiện, vì nương tựa, gìn giữ, tức tám thứ tướng của tư, là nói nhân.

Đối với lìa ngôn thuyết, chỉ sự, chỉ nghĩa trong cảnh sở duyên, là cảnh sở duyên. (Đối tượng duyên) của định. Lìa ngôn thuyết, nương tựa y tha và lìa ngôn thuyết, nghĩa viên thành thật tánh làm cảnh sở duyên.

Buộc tâm cho dừng lại, chính là nói về thể, lìa các hý luận v.v…nói về lìa chướng Hí luận, tức là năm thứ. Xét theo đối pháp, đối với các sở duyên mà tạo nên thắng giải”.

“Xét về địa Thanh văn, phải biết rằng v.v… ” trở xuống: trong kết nói lên lợi ích của tu, lượt đầu kết tu tập định, tuệ thứ ba trên. Định, tuệ thanh tịnh là kết ưa tu tập thứ tư trên. Dưới đây, chỉ nói riêng, dựa vào định mà được, nghĩa là trong đối tượng nương tựa, nên bỏ đi thô, nặng, là dứt trừ chất khoáng cứng, là tánh không điều hòa; nhu thuận trong thân người kia, là công năng của “chỉ”. Và, đối với sở tri. Nên thanh tịnh tri kiến, là công năng của “quán”.

Trong giải thích về giáo thọ, trước hỏi; kế giải thích. Trong giải thích có ba:

  1. Nói về tám loại giáo thọ.
  2. Gồm tám thành ba.
  3. “Bồ-tát như thế, hoặc do v.v… ” trở xuống, là nhắc lại kết giáo thọ thành tám tánh.

Trong phần trước, đầu tiên là nêu số, phân biệt về sự truyền dạy mình, người.

“ Đến khi truyền dạy”trở xuống, là nói thích đáng tám thứ.

1. “Nói là hoặc Tam-ma-địa vì làm y chỉ, nên từ bi v.v… đối với người kia, là nói các Bồ tát có khả năng dạy bảo người, ý nói hoặc do còn lại đến làm Giáo thọ cho người, là nói về Bồ-tát kia vì người, Đại Bồ-tát khác và Phật truyền dạy, văn dưới đây, lại tự chứng tỏ. Nhưng loại bốn trước trong tám giáo-thọ, xét kỹ căn cơ, dùng làm phương tiện truyền dạy. Bốn giáo-thọ sau, chính thức nói về giáo-thọ.

Đầu tiên, tư duy tâm mình. Pháp sư Thái nói Tâm là định. Tầm, Tư là bốn Tầm, Tư. Trí Như thật là bốn Trí Như thật. Trước hết, Bồ-tát dùng Tầm, Tư để tìm kiếm, tư duy định. Lại, dùng trí như thật để nhận biết đúng về định.

2. Kế là, căn Tầm, Tư: tức bốn căn như tín v.v… Ý ưa thích, tức ưa muốn.

3. Tùy-miên Tầm, Tư, Nghĩa là chủng-tử của Tầm, Tư, Dục v.v…,tức gọi là Tánh. Pháp sư Thái nói: Ở trước nói về dục v.v… đều y cứ ở hiện khởi, huân tập thành hạt giống, gọi là tùy miên. Tùy miên, là tên chung của hạt giống, cũng có thể y cứ riêng hạt giống phiền não để nói. Tánh căn dục của tâm này, tức là cảnh giới của bốn Lực, đều trước khởi Tầm, Tư, sau khởi Trí Như thật.

4. Tầm, Tư ở dưới, nói về giáo thọ.

5. Dạy thực hành năm pháp quán dừng tâm.

6. Dạy quán có nhân ở quá khứ, lìa chấp thường.

7. Dạy quán sẽ có quả của sinh, già chết ở vị lai, lìa chấp đoạn.

8. Dạy ruồng bỏ tâm tăng thượng mạn không được, cho là được.

Pháp sư Tuệ Viễn nói: “Chưa làm cho rằng đã làm, chưa được cho rằng đã được. Người này khởi ngạo mạn đối với giáo đạo. Chưa tiếp xúc, cho là đã tiếp xúc; chưa chứng cho là đã chứng, người này khởi ngạo mạn đối với chứng đạo, đều đầu cuối chia làm hai.

Nhiếp Luận về sau, các đức v.v… như thế nào? Hai đức trước, y cứ lượng trí, hai đức say y trí chánh thể, có khi chẳng phải bốn ngạo mạn không có khác nhau.”

Có thuyết nói: “Chưa làm cho rằng đã làm là sự ngạo mạn của phàm phu. Không được cho rằng được là sự ngạo mạn của Dự lưu. Chưa tiếp xúc cho rằng đã tiếp xúc là ngạo mạn của Tư-đà-hàm. Chưa chứng cho rằng đã chứng là sự ngạo mạn của A na hàm.”

Có thuyết nói: “Đều là sự ngạo mạn của bậc Thánh, hai câu đầu nói về ngạo mạn được quả vô vi. Bốn ngạo mạn này là thú hướng khắp hành v.v…”

Bốn lực sau, như thứ lớp phối hợp: gồm thâu tám, là năm thứ trước gồm thu trong ba là một, cái gọi là trụ nơi nhiếp tâm.

Kế là, chung cho cả hai thứ xa lìa đoạn, thường, được gọi là lợi mình.

Vì một xả ở lưu nạn, nếu biết tâm kia cho đến buộc niệm không có trái ngược giải thích về năm thứ trước là một nghĩa đầu.

“Nếu vì nói rộng về chủ thể trị đoạn, thường v.v… ” trở xuống, là giải thích lìa đoạn, thường là nghĩa thứ hai.

“Nếu niệm xả v.v… ” trở xuống, là giải thích thứ tám, là nghĩa thứ ba.

Nếu, kết giáo thọ thành trong tánh của tám lực.

Nói: “hoặc do người khác được từ chính thức truyền dạy, nghĩa là nêu, kết đoạn văn ở trước. Hoặc do Bồ-tát khác kia; hoặc do đức Như lai v.v… hoặc do bố thí cho người v.v…

Nhắc lại kết: hoặc do Tam-ma-địa là ba câu như Y chỉ v.v…

Đã nói chủng tánh của tám lực được tăng thượng. Luận sư Cảnh phân biệt: “Nói về tánh của chánh nhân, quả ở trước do mười lực đã xong, khiến cho chủng tánh của lực xứ, phi xứ được tăng trưởng.

Kế là, nói về việc đã làm thì không mất, chưa làm thì không được. Lại khiến chủng tánh của Nghiệp trí lực tăng trưởng. Tám lực còn lại chưa nói, vì rằng thời nay chỉ nói là chủng tánh của tám lực được tăng trưởng.”

Luận sư Trắc nói: “Hai lực trước, đại khái nói về nhân, quả để cho động vật phát sinh niềm tin, vì chúng giáo hóa. Tám lực sau, nói về công hạnh truyền trao mọi người khiến họ tập nói, làm Giáo thọ. Vì thế, nên nay y cứ ở lực này nói là tám, hoặc giải thích đồng với Luận sư Cảnh.

Nói về dạy răn rất dễ hiểu.

Trong giải thích về thân, ngữ, ý thuộc về phương tiện cho rằng: “Lại, vì nhân duyên gì chỉ có bốn nhiếp Sự nói là phương tiện? Ý hỏi: Về công hạnh thì rất nhiều, vì sao chỉ nói bốn nhiếp lợi người?”

“Trong ý đáp ở dưới, về công hạnh lợi người rất rộng, trong đó, đại khái gồm thâu bốn, tức cùng tận, không có tăng trưởng quá.

Phương tiện tùy nhiếp. Luận sư Cảnh nói: “Bố thí nhiếp hóa người khác, vì thuận theo ái ngữ, nên gọi là phương tiện tùy nhiếp.”

Luận sư Trắc nói: “Thực hành bố thí trước, là vì tùy thuận hữu tình kia, nên gọi là phương tiện tùy nhiếp.”

Về phương tiện chủ thể nhiếp (năng nhiếp) Luận sư Cảnh nói: “Ái ngữ, khai đạo, chính là “năng nhiếp” Luận sư Trắc nói: “Người kia chưa nương tựa ở mình, khiến cho họ nhiếp thọ, quán sát lý lẽ chân chính, gọi là phương tiện Năng Nhiếp.”

Khiến nhập phương tiện. Luận sư Cảnh nói: “Công hạnh lợi tha, là khiến cho hữu tình kia lìa điều ác, khuyên đến với đạo, điều phục chúng, gọi là khiến nhập. Pháp sư Trắc nói: Sau khi quán sát xong, bảo họ đi vào chỗ thiện, nên gọi là khiến nhập.”

Phương tiện Tùy chuyển. Luận sư Cảnh nói: “Đồng sự, nghĩa là đối với sự nghiệp chính đáng, cũng tu hành chung, là phương tiện khiến người kia tùy theo công hạnh của mình mà đổi phương tiện.

 

BẢN LUẬN QUYỂN 39

PHẨM THÍ

Trên đến đây, Bồ-đề phần trì có mười sáu phẩm, đã nói năm phẩm là pháp sở học. Chia ra phẩm chủng tánh là phương tiện Học. Dưới đây, có mười phẩm kia là công hạnh của chủ thể Học (năng học), gồm có đối tượng Học (sở học), trong đó, nếu theo văn phán quyết của Luận sư Cảnh thì: Tám phẩm đầu, nói về lợi mình, lợi người, tạo nên hạnh tu. Một phẩm Bồ-đề phần pháp, nói về hạnh Nội chứng; một phẩm công đức sau cuối, do hai công hạnh trước chứng minh cho công đức đã được hoàn thành.

Sáu phẩm đầu trong tám phẩm trước, là nói về công hạnh lợi mình; một phẩm Tứ Nhiếp; là nói về hạnh lợi người.

Phẩm Cúng Dường thứ tám, nói về công hạnh gần gủi, tu tập, kết hợp với một phẩm Vô Lượng, là nói chung hai hạnh. Dù có thuyết này, nhưng nay, nếu theo sự phán quyết của Pháp sư Khuy Cơ v.v… thì bảy phẩm đầu là phần lợi mình, không nói về sự trùng hợp về thời gian, chỉ công hạnh của phần mình.

Kế là, có hai phẩm nói về đạo Thắng Tấn. Một phẩm sau cuối, nói về nhân thành quả mãn.

Theo phẩm Tự phần, chia làm hai:

Nói về nghĩa có ba. Phẩm chia làm hai:

1. Có sáu phẩm thuyết minh về công hạnh lợi người.

Phán quyết về nghĩa được chia làm ba:

2. Phán quyết như trên, tức cuối phẩm Tứ Nhiếp.

“Như thế, đã nói về nhiều thứ Bố thí, trì giới, cho đến đồng sự” trở xuống, là song kết về hai lợi, tạo nghiệp, bày tỏ công hạnh tu, thành tựu lợi ích.

Sáu phẩm tự lợi, tức gọi là sáu độ. Vì phẩm Thí được lập ra trước nhất nên nói là phẩm Thí.”

Hỏi: “Vì sao trước nói về sở học xứ? Như thế, phẩm Học Pháp sinh khởi hàng đầu.

Nói về văn của chủ thể tu học không sinh khởi trước là có ý gì ư?

Nghĩa là: “Nghĩa y cứ rất dễ hiểu, đâu cần phân biệt. Trong phẩm Công đức dưới đây, sẽ có văn kết.

Tóm tắc của đoạn văn nói về hạnh lợi mình đã xong. Phần giải thích đầu tiên của phẩm lực chủng tánh, như trước, trong hạnh lợi mình 06 gồm có:

1. Nêu chung về số, nêu tên sáu độ.

2. Giải thích riêng theo thứ lớp.

3. Cuối phẩm Tuệ “Lại nữa, sáu thứ như thế v.v… ” trở xuống, là tổng kết sáu thứ, dẫn chứng, khen vượt hơn. Theo giải thích riêng, thì chia làm sáu đoạn:

4. Cương yếu chung của bài Tụng đầu và văn xuôi trong giải thích bố Thí là chia ra chín chương môn.

5. Dựa theo chương nói rộng.

6. Giải thích xong tổng kết. So sánh văn của năm độ khác, đồng với văn ở đây.

Thí tự tánh: Nghĩa là nói riêng về tướng trạng của hạnh bố thí. Vì công hạnh Thí cho chẳng phải một, nên nói “tất cả”.

“Y cứ ở công hạnh Thí cho này, chia ra bảy môn”, trở xuống, là tự thuộc đương.

Nói: “Khó thực hành Thí”: nghĩa là khó buông bỏ, gọi là “khó thực hành”. Công hạnh thí thù thắng, gọi là thí khó thực hành.

Thí tất cả môn: Nghĩa là tất cả công hạnh thí đều gồm thâu vào môn này, gồm thâu công hạnh rộng khắp gọi là Thí trong tất cả môn. Lại, tu thí trong tất cả môn, gọi là Thí tất cả môn.

Thí Thiện Sĩ: Nghĩa là hạnh bố Thí thuần túy thiện, việc làm thuần thiện, gọi là thiện thí.

Thí tất cả thứ. Nghĩa là hạnh thí đầy đủ. Thành tựu công hạnh Thí cho này trong tất cả duyên, gọi là tất cả thứ.

Với hai thứ trước, nói tất cả, gọi là khác nhau.

Lại, Ngài Tam Tạng nói: “Môn tự ban đầu, đều là thể Thí của tâm. Kế là tâm riêng cho tất cả Thí. Thể của tất cả thí, tất cả môn thí, nghĩa là tâm thí trước. Do tất cả thứ thí, nghĩa là nói về mỗi thứ thí của nhân trước, gọi là riêng là Tất cả thứ Thí.

Năm độ dưới đây, là giải thích ba, tất cả y theo đây, nên biết.

Toại bèn cầu Thí, nghĩa là gọi là người đến, với tâm tùy hỷ những gì mình có, gọi là bèn toại cầu thí.

Niềm vui ở đời khác, nghĩa là lợi ích được vui của hai đời: đời này, và đời khác, gọi là niềm vui hai đời.

Thanh Tịnh Thí. Nghĩa là hạnh thí cho không có tội, công việc đã làm không có tội, gọi là thanh tịnh thí.

Trong dựa vào chương để nói, tự tánh Thí, tức dùng vô tham đều cùng tư duy và nghiệp thân, ngữ làm tánh Thí.

Y cứ ở văn, chỉ phát ra thể của tài thí. Về mặt lý, pháp thí không có vô úy thí, cũng đủ ba nghiệp và tánh vô tham.

An trụ Luật nghi, nghĩa là nói không phá giới.

“A-Cấp-ma v.v… ” trở xuống, là nói không phá kiến, xưa gọi là A-hàm là sai. Nay theo bản Phạm, A-cấp-ma, Hán dịch là truyền lai, có hai nghĩa:

1. Nhân có khả năng truyền đến quả, kiến của bất nhân, gọi là A-Cấp-Ma.

2. Giáo gọi là truyền, vì Chư Phật ba đời xoay vần nói pháp, kiến của tín giáo, gọi là kiến A-Cấp-Ma tự cò ở giới phá, kiến không phá, kiến phá, giới không phá; đều phá, không phá, người hành thí có bốn trường hợp này: giới phá, kiến không phá; Đều không phá, hai trường hợp này là thiện thí, hài trường hợp còn lại chẳng phải thiện thí . Văn trong tất cả Thí văn chia làm ba:

  1. Hỏi.
  2. Giải thích.
  3. Kết trước, sinh sau.

Trong giải thích có hai: a- Nói rộng về sáuThí. b- Kết, tóm tắt nghĩa.

Trong phần trước, tức sáu thí:

1. Nói về thí có của, thì không có của.

2. “Cuối cùng, không trao cho bằng miệng”, trở xuống là nói về pháp Thí.

3. “Đối với tất cả Thí, nghĩa là pháp Thí v.v… ” trở xuống, là nói về Thí vô ngại giải.

4. “Đối với những người có oán v.v… ” trở xuống, là nói về thí ý lạc vượt hơn.

5. “Đối với chướng ngại thí kia v.v… ” trở xuống, là nói về trí đối trị với chướng ngại Thí.

6. Bên trong, ở chốn nhàn tản, tĩnh lặng v.v… ” trở xuống, là nói về Thắng giải của ý kạc tăng thượng.

Trong phần trước có hai:

  1. Nói về thí có của.
  2. “Lại, nếu các Bồ-tát không có của, vật có thể thí.

Nơi phần trước lại có hai:

1. Nói về Thí trong, ngoài:

2. “Lại, các Bồ-tát chẳng phải không có khác nhau v.v… ” trở xuống, là nói về đối với căn cơ nào nên Thí, không nên thí, tài vật trở xuống là nói không có tài vật mà thí.

Trong phần trước lại có hai:

1. Nói chung về Thí trong, thí ngoài.

2. “Lại, các Bồ-tát giản lược do hai tướng v.v… ” trở xuống, là y cứ ở trong, ngoài, chia làm bốn. Trong phần trước lại có hai:

  1. Nêu số, nêu danh, để bày tỏ trong, ngoài.
  2. Trong chia ra giải thích, gồm có:

a/ Thí trong. b/ Giải thích về Thí trong, thí ngoài. c/ Giải thích thí ngoài, cách hành văn rất dễ hiểu.

Về sau, chia ra trong, ngoài ở trước là bốn:

1) Chia ra trong làm hai: a) Hợp với thí thân. b) Chia ra thí chi tiết.

2) Chia ra ngoài ra làm hai: a) Thọ dụng b) Tự tại.

Luận sư Cảnh nói:

3. Thí cho thọ dụng, như Bố thí y phục. Một ngày thọ dụng của bằng thí cho, sử dụng một năm. Chẳng phải chỉ Thể của thí, gọi là Thí thọ dụng.

4. Cầu tự tại. Nghĩa là tất cả tâm đoạn đều thí cho. Pháp sư Khuy Cơ nói “cầu thọ dụng trong của tiền, dụng cụ, tùy ý những gì mà người kia mong cầu, tùy thọ dụng của họ là bậc nhất, không muốn thọ dụng về của cải. Bồ-tát dứt bỏ vật dụng của mình với tâm tưởng lìa bỏ của cải để cho người kia, tùy ý tự tại là thứ hai.

Kế là, trong phần nói đối với căn cơ nên cho, không cho, trước lược, sau rộng.

Trong nói rộng có ba:

1. Y cứ ở trong thân để nói về thí cho không thí cho.

2. Y cứ vật ngoài, nói về thí, không thí.

3. “Lúc thực hành bố thí trùm khắp tất cả…” trở xuống, là nói về cách thức thí.

Trong phần trước nói “Nếu các Bồ-tát với ý ưa thanh tịnh đối với việc thực hành thí cho, cho đến không nên lìa bỏ lợi chúng sinh ngay trước mắt, mà thí cho phần thân.

Trong đây, các Bồ-tát với ý ưa thanh tịnh từ trên đến đây, không tiếc thân mình, nhất là đối với việc có lợi chúng sinh ở hiện tiền. Nếu có người đến cầu xin các thân phần của Bồ-tát, thì không nên thí cho, vì lợi ích hiện ở trước nhiều, vì lúc bỏ lợi ích ít, nên tùy theo việc đem lại nhiều lợi ích mà thực hành. Nếu tâm đổi thay lui sụt, hãy tự cảm nghĩ rằng “Về việc này đáng cho hay không cho, sinh tâm keo kiệt, bỏn sẻn, luyến tiếc thân mình. Vì phá bỏ sự bỏn sẻn, nên phải lìa bỏ thân phần. Tâm đã thanh tịnh ở trước không bỏ thân mình hiện ở trước. Đối với việc lợi ích về sau nhiều hơn thành ra không nên thí thân phần, là ý ở đây.

Y cứ ở ý trong vật ngoài, có mười lăm trường hợp, trường hợp thứ năm “Đối với vật vui chơi v.v… trước là nêu chung ý nghĩa. Kế là, giải thích riêng năm trường hợp. Sau, tổng kết cương yếu của Tông chỉ.

Nói “Nếu có người đến xin lờ, lưới săn thỏ, cung nỏ. Lờ, lưới, là dụng cụ để bắt cá, lưới săn thỏ là dụng giăng lưới bắt nai. Cung nỏ, là dụng cụ để săn bắt thỏ, trĩ v.v…

Trường hợp thứ bảy “Trong không hợp với cha, mẹ, sư trưởng. Rằng, tùy ý được làm đồ tể, giết hại, đánh đập, trói buộc, mua bán, trao đổi. Nghĩa là thuận theo cha mẹ, vì để biết ơn, nên tùy ý cha mẹ, làm đồ tể giết hại. Còn tự không dám thầm ôm ấp tâm thí, huống chi công khai cho người đến xin.”

Đây là tổng kết không được cho cha mẹ v.v… ở trên. Có tâm còn tự không ôm ấp, huống chi dùng phẩm vật để bố thí một cách công khai.

Đại ý trường hợp thứ tám “Không được đem vợ, con, quyến thuộc, của các trăm họ v.v… đoạt lấy riêng để bố thí, chỉ giữ lấy thôn, ấp, châu báu, cõi nước, hoặc trọn vẹn, hoặc từng phần mà khi bố thí, vợ con, một trăm họ v.v… kia ở trong đó đều được bố thí. Dù được bố thí, nhưng vẫn bảo với người kia rằng “Biết ơn tôi, làm việc cung kính, tôn thờ Phật pháp, ông cũng nên thế!”

Trường hợp mười lăm “Không vượt qua Học xứ mà thực hành tuệ thí”, nghĩa là không dùng sát sinh, trộm vật v.v… của người mà thực hành tuệ thí.

Trong phần nói phương thức thí có hai mươi chín trường hợp. Trường hợp thứ tư “Không dùng ý khác lạ, không dùng tâm phẩn nộ khuấy đục mà tuệ thí”, nghĩa là không dùng giả dối có riêng nhằm cầu danh, không dùng ý khác.

Trường hợp thứ chín “cuối cùng, không chấp luống dối, chỉ có tất cả thứ rất thiện, thanh tịnh mà thực hành tuệ thí v.v… ” nghĩa là hoặc có người chấp luống dối về người thí cho, danh như pháp, tất cả thứ rất thiện, thanh tịnh. Người thí cho như thế, tức là đạo lý dục thanh tịnh thế gian và ra đời gian. Đây là chẳng phải đạo, chấp là đạo.

Bồ-tát không có chấp giả dối này, Bồ-tát chỉ xem xét, biết rõ là đã thực hành ba việc như thế, chỉ là tư lương của lìa dục thanh tịnh, chứ chẳng phải đạo chân thanh tịnh. Đạo chân thanh tịnh, là Tuệ Vô lậu.

Trường hợp mười ba “Trong không thí, vật không hợp nghi thức”, có nêu, giải thích, kết. Lại, không thưa bạch, cho đến Bồ-tát không làm. Pháp sư Khuy Cơ nói “Rằng, như có người ở trước không ăn hành, không bạch cho người biết, như pháp bố thí mà có ý cho, Bồ-tát không làm, cho đến nói rộng, chứ chẳng phải trực tiếp không cho người kia hành này, cũng không dùng đồ tể vàng bạc này, các sự nghiệp v.v… không hợp nghi thức, mà thì cho người kia, là ý trong đây. Lại, theo phương pháp vớt lấy mà thí cháo. Nếu không kính trọng thì đối với Bồ-tát kia không làm. Không chánh oai nghi mà thí thì Bồ-tát sẽ không làm. Pháp sư Cơ nói “Nói hoặc lại xử trí v.v… nghĩa là hoặc xử trí người khác khiến họ làm những việc không đúng như pháp, rồi sau đó, mới thực hành bố thí. Chẳng hạn như bảo người khác giết v.v… rồi sau mới cho.

Trường hợp mười lăm, phân tích kỹ trong đây dựa vào tiếng tăm, lợi dưỡng mà thực hành thí cho, có bốn trường hợp. Quyển hai mươi sáu nói “Hợp thời, không lấy phi thời, nghĩa là khi đói, cho cơm, không cho áo. Lúc thời tiết oi bức, nóng nực thì cho mát mẽ, không cho lửa v.v…

Mình, người tịnh thí. Nghĩa là không thấy người trao, kẻ nhận. Hợp với nghi thức, nghĩa là đối tượng thí, là dao, rượu độc v.v… thí cho với tâm không rối loạn, nghĩa ấy rất dễ hiểu.

Trong quyển hai mươi chín nói thêm tuệ trong thực hành thí cho, gồm có:

1) Nêu chung các trường hợp 2) Hỏi đáp, giải thích rộng 3) Kết.

Trong giải thích rộng, có bốn lượt văn. Trong lượt thứ ba nói rằng “Tánh quyết định tham lam keo kiệt là loại keo kiệt tham lam, nghĩa là bản tánh keo kiệt tham lam, gọi là tánh là keo kiệt tham lam. Nếu chẳng phải bản tánh keo kiệt tham lam, bị người xúi giục khiến keo kiệt, tham lam, là loại keo kiệt tham lam.”

Trong lượt thứ tư nói “Còn che giấu lỗi của người, không cho họ biết, huống chi tiếp xúc với họ”, nghĩa là huống chi lại hiện diện dùng lời lẽ tiếp xúc để giác ngộ họ.

Trên, đã nói về hiện có tài thí, dưới đây, trong phần nói về không có tài thí, văn chia làm hai:

1. Chính nói hiện không có của báu, thêm tuệ để thực hành thí cho.

2. Xếp vào giai vị, là Địa tiền, giả gọi là Bồ-tát thực hành bố thí , chứ chẳng phải đăng Địa.

Thứ hai, trong phần nói về Pháp thí,

1) Y cứ vào kinh sách, v.v… nói về thí cho, không thí cho.

2) “Thế nào là phương tiện không thí cho của Bồ-tát…?” trở xuống, là hỏi đáp, để giải thích lại phương tiện thực hành thí cho.

Trong phần trước có hai:

1. Nói dùng kinh sách để thí cho và không thí cho. Nghĩa là có người đồng học Phật pháp, mong cầu Kinh điển, Bồ-tát tự xem xét, nếu đối với kinh này, mình đã nói về nghĩa Kinh rồi, thì nên thí cho. Nếu chính mình chưa hiểu, thì phải có thời gian tìm đọc thì không nên thí cho.

2. Nói về không có Kinh sách v.v… tức quán sát tâm mình có ba trường hợp. Trong hai trường hợp đầu rằng “Dù do thực hành pháp thí này, thậm chí khiến cho ta thiếu kém tư lương của trí mầu nhiệm.” Pháp sư Thái nói “Dù do pháp này nên ta thành lỗi lầm, si mê, câm ngọng, pháp không nhẫn, keo kiệt, phiền não, vẫn còn nên bố thí pháp, huống chi lúc thí pháp, do tự mình không có pháp, nên đã làm cho ta phải thiếu kém đi tư lương của Diệu trí ngay trong hiện tại, mà không si mê, câm ngọng, không thể thí ư?”

Nay, xét Cựu luận nói “Thà rằng ta đem pháp để thí cho những kẻ si mê, câm ngọng hiện đời, vì dứt trừ phiền não, vẫn còn nên bố thí cho, huống chi tạo nên phương tiện trí tuệ ở đương lai.”

Trong trường hợp thứ ba, lại có ba cảm nghĩ: Nói là vì bị tổn hại phiền não của mình v.v… chăng? Nghĩa là vì thực hành pháp thí, sẽ gây tổn hại cho phiền não của mình ư? Hay là vì thực hành bố thí pháp, sẽ được viên mãn tư lương của trí mình?”

Các kiến thông khí cho Kinh s1ch của người kia, người này, ngang đồng với trí tư lương vượt hơn. Nghĩa là để lai bản Kinh tự đọc là tư lương nuôi lớn trí, chứ chẳng phải đem thí cho người kia nhằm kiến lập công đức, nghĩa là cho người kinh sách, sẽ không có ích này, vỉ chỉ đối với lợi của pháp, nhiêu ích mong manh ở đương lai, chứ chẳng phải là giác tuệ. Nếu bỏ đi sự tìm đọc, đem Kinh quyển thí cho người khác, thì có lợi của pháp được, mất ở đời sau, chứ chẳng đủ giác tuệ.

Trong hỏi đáp, giải thích lại, phương tiện nói “Như Bí-sô tịnh Xả, nghĩa là có tịnh thí xoay vần, có tịnh thí chân thật, như trong luật nói.”

Nói về Vô ngại, giải thí. Luận sư Cảnh nói “Trong đây nói đối với ba thí, rõ thấu thể danh, vì người nói pháp, tức là hai thứ pháp, và nghĩa không có hành thí bình đẳng. Nếu hiểu rõ lý khác nhau của nhân, quả thì tùy sự ưa thích, vì họ nói, tức gọi là ưa nói Vô ngại. Khéo về phương ngôn, khuyên tu ba thí, tức Biện Vô ngại.” Pháp sư Thái nói “Nếu là môn khác thì: Một phần thí cho Từ, bi, gọi là môn khác. Hoặc thí cho thể tánh, hoặc giải thích tên gọi bố thí. Hoặc thí cho nhân, quả, đều biết như thật . Đây gọi là Vô ngại giải thí. Pháp sư Cơ thuật lại lời ngài Tam Tạng rằng “Nếu thể, tướng của môn khác, giải thích về danh thì đây là Pháp Nghĩa Vô ngại giải, năng thuyên, sở thuyên phân biệt v.v… nếu nhân quả khác nhau là Biện Vô ngại giải, vì biện nói về nhân, quả. Lại, nếu theo đoạn văn kết ở dưới, thì chỉ nói rằng, do tài thí, do pháp nên ở đây kết hai môn trên, do Vô ngại giải, không nói là Vô ngại nào? Vì sao không nói bốn Vô ngại đều gồm thâu?”

Nay, giải thích nghi vấn đó, rằng “Nói là trong Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí trước đã nói có môn khác là Pháp Vô ngại, nghĩa là các giáo pháp phần nhiều dùng môn khác để phân biệt pháp tướng. Nếu thể tướng tức nghĩa Vô ngại. Về nghĩa “sở thuyên” phần nhiều y cứ ở thật thể để nói về thể tướng. Nếu giải thích về danh, thì nói là Huấn từ Vô ngại. Vì giải thích danh tự, nếu nói là sự khác nhau của nhân, quả là Biện thuyết Vô ngại, do hay nói về nhân, quả của thuyết pháp, tức bốn Vô ngại đều ở trong đây, do ở trên tài thí v.v… có Vô ngại này. Như thật biết rõ mà thực hành bố thí, gọi là Vô ngại giải thí.

Lại, trong bốn Vô ngại, mỗi Vô ngại đều có thể, tướng của môn khác, cho đến nhân, quả v.v… không hẳn phải phối hợp riêng. Nay, y theo Cựu luận nói rằng “So sánh tướng mạo của loại, nếu lấy danh nghĩa để phân biệt về nhân, quả, thì do Pháp sư Cơ nói rằng, môn khác là pháp Vô ngại, đều là khéo giải thích.”

Nói về Vô lượng tâm thí. Các người có ơn v.v… dựa vào tâm Xả gần.

Nói về Đối trị thí, trong đó có hai:

  1. Nêu chung
  2. Giải thích riêng.

Trong giải thích riêng có ba:

  1. Nói về bốn chướng bị đối trị (đối tượng trị)
  2. Nói về bốn trí “năng trị” (chủ thể trị)
  3. Nói về công dụng của bốn trí có khác nhau.

Luận sư Trắc nói “Thể của bốn chướng là:

1. Trước chưa quán tập, vì do trên hạt giống không có tánh kham nhậm làm thể.

2. Vật thí rất thiếu kém. Nếu nói về vật ngoài thì do bốn tướng của sáu pháp là các trần. Nếu nói về pháp trong v.v… thì lấy năm uẩn, mười hai chi làm Thể.

3. Ham vui chấp mắc của vật với ý vui vẻ mầu nhiệm trên hết, lấy tham tăng thượng làm Thể.

4. Quán thấy mình sẽ có đầy đủ quả của cải ở đương lai mà rất ưa vui, lấy tà kiến mong cầu quả đương lai làm thể.

Kế là, nói về bốn trí, của chủ thể trị:

1. Giác ngộ, là giác ngộ mình, từ trên đến đây, vì chưa quen thí cho, nên dù hiện đang có nhiều của mà vẫn không ưa thí cho, cố gắng thực hành.

2. Chịu đựng các nỗi khổ, nghĩa là vật thí cho vốn có ít, có thể cam chịu khổ đói, lạnh, để cho ngay.

3. Biết khắp điên đảo. Nghĩa là ưa thích của cải tốt đẹp, cho là rất lạc, tịnh, bảo cho biết đều là nguồn gốc phát sinh phiền não, bất tịnh, cho nên có thể ruồng bỏ, gọi làbiết điên đảo.

4. Thấy tánh hạnh không vững chắc. Nghĩa là không chấp mắc quả của việc thí cho, nhận hiểu rõ tính vô thường.

Nói về thí tăng thượng ý lạc. Cựu luận gọi là Nội trược tịnh tâm thí. Trong khó thực hành thí cho nói rằng “hoặc có ơn phẩm thượng”, Cựu luận nói “vật thí tăng thượng”.

Các Đại đức xưa giải thích “Nghĩa là vật tinh tấn, như bảy báu v.v… Nay, theo Tân luận, có ơn phẩm Thượng; hoặc có thể là ơn nặng, sai khiến, ban cho, đem ân Tuệ cho người; hoặc có thể là con cái, vợ, tôi tớ v.v… đối với mình có ơn, đem ban cho người, rằng thật là khó!

Trong tất cả môn thí cho, đại khái có bốn tướng. Nếu theo Cựu luận thì có năm đoạn văn, bốn đoạn đồng với Tân luận. Lại có một câu “Hoặc tự gom góp để bố thí”, cho nên, người Cựu luận thường nói có bốn môn không đồng. Cha mẹ là một; vợ, con là hai; tôi tớ làm sứ giả là ba; bạn lành, quan lớn là bốn. Nay, dựa theo tân luận, tài sản của mình là một; giáo hóa người được của là hai; Thí cho bà con, cha mẹ v.v… là ba; thí cho người đến xin là bốn.

Hai môn trước, y cứ của cải, chia làm hai; Môn sau y cứ ở cảnh thí có hai. Bực Thiện Sĩ thí có năm tướng rất dễ biết.

Trong tất cả thí có mười ba tướng.

1. Vô y thí. Nghĩa là không dựa vào tiếng tăm, quả báo.

2. Quảng đại thí. Nghĩa là không thấy có người nhận, vì phàm, Thánh cầu xin đều là không. Kinh Thiện Giới nói “Không thấy ruộng phước, chẳng phải ruộng phước.”

3. Hoan hỷ thí. Nghĩa là ba thời đều vui vẻ.

4, 5. Điền khí thí. Nghĩa là thí bốn biên đạo, tịnh ruộng phước.

6. Phi điền khí thí. Cựu luận quyển sáu , gọi là nhất thiết thí.

7. Tất cả vật thí. Nghĩa là có vật đều Xả.

8. Tất cả xứ thí. Nghĩa là đã phân biệt xứ sở.

9. Tất cả thời thí. Nghĩa là không phân biệt thời tiết.

10. Vô tội thí. Nghĩa là chẳng phải pháp, tài vật, cho nên thí cho người.

11, 12) Phương độ thí. Tùy theo địa phương nào cần, đều thí cho tất cả.

13) Luận bản dịch xưa “thiếu hữu tình vật thí, chia tài ra làm hai số, thành mười ba. Bèn cầu thí cho có tám. Cựu luận nói “Trừ não thí. Đời này, đời khác ưa thí, đại khái có chín thứ. Pháp sư Cơ nói “Vả như Cựu Viễn Sư giải thích rằng “Tài, pháp, vô úy v.v… mỗi thứ đều có ba: Trong tài có ba, nghĩa là thượng diệu là một, thanh tịnh là hai, Như pháp là ba. Thượng diệu tức vật mầu nhiệm trên hết như Mạt ni v.v… thanh tịnh, nghĩa là vật chẳng phải do trộm cướp mà được. Như pháp, nghĩa là của cải đúng như pháp, chẳng phải dao, rượu v.v…

Pháp thí, vô úy thí v.v… kia đều có ba, rất dễ hiểu.

Lại, có người nói “Đầu tiên nói là Tài thí; Pháp thí, Vô úy. Đây là nói về ba thứ thể . Trên ba thứ này chia ra sáu công dụng. Tài thí có hai công dụng, nghĩa là chứa chất sự nhơ bẩn keo kiệt, bỏn sẻn.”

Vô úy thí có ba, nói về là sự sợ, Pháp thí hợp thành một.

Hỏi “Trong đây, vì sao ở chỗ khác, pháp thí là đầu, sau mới nói về Vô úy? Nay, Vô úy thí này ở trước, pháp thí ở sau. Nghĩa rằng: Luận ở dưới chép: Tài thí, vô úy thí có thể khiến chúng sinh, được yên vui trong đời này, vì cả hai thí này đều là niềm vui hiện tại. Cho nên, gần Kế tài thí, trước nói , Vô úy thí, pháp thí ở sau. Vì lợi ở đời sau, cho nên nói sau.”

Pháp sư Thái nói “Điều phục keo kiệt, bỏn sẻn, nghĩa là ruồng bỏ sự chấp mắc của vật. Tự có người biết được vật kia vô dụng đối với mình, nhưng vì tính keo kiệt, bỏn sẻn, chấp mắc, nên không cho người. Điều phục chứa chất cất giữ, nghĩa là bỏ chấp mắc, nghĩa là chứa nhóm của vật, định tự thọ dụng. Bồ-tát cũng bỏ nốt tâm này. Trong ba thí, thứ nhất, bỏ của vật tốt đẹp, thứ hai, thứ ba, chẳng phải của vật tốt đẹp.

Thanh tịnh thì có mười tướng. Nói chẳng phải người đến cầu xin, hy vọng nhanh chóng được của, như các Bồ-tát mong mỏi nhanh chóng tuệ thí, nghĩa là hy vọng nhanh chóng chung tuệ thí, gặp người ở trước, hy vọng nhanh chóng được của.

Không chấp sự thí cho. Cựu luận nói “Kiến, ngôn không khác nhau, hoặc chấp kiến này là không, không có quả v.v… Có ba Kiến:

  1. Kiến chấp không có quả
  2. Hại vì chánh pháp không có
  3. Kiến chấp chẳng phải vượt hơn cho là vượt hơn.

Ba Kiến này đều thuộc về tà kiến. Vì sao? Vì nếu theo Tát-bà-đa thì, kiến chấp chẳng phải vượt hơn, là thuộc về Kiến thủ. Nay, theo Đại thừa, Kiến thủ, tất nhiên, phải giống với Kiến mới gọi là Kiến thủ. Nay, trong đây, vì đều không “duyên” Kiến, nên chẳng phải kiến thủ. Lại, chính quán thấy người cầu hoặc chung, hoặc riêng giống như nhau, cho dần, cho ngay, vật bình đẳng, vì sao chấp có khác nhau? Nghĩa là nếu một trăm người mà thí cho riêng dần trước sau, và cùng một thời gian, thí cho ngay một trăm người, phước kia vẫn bình đẳng, vì sao lại chấp cho rằng phước có khác nhau?

BẢN LUẬN QUYỂN 40

PHẨM GIỚI

Nếu theo bản Phạm thì giới kia có ba tên: Thi-la, Hán dịch là Thanh lương, tức nói giới thể có oai lực thù thắng, có công năng giúp cho thân, tâm người tu hành thường được mát mẽ. Tiếng Phạm là Tỳnại-da, Hán dịch là Điều phục, y cứ ở giáo là chủ thể điều phục. Lại có một tên gọi là Tỳ-Xí-Đa, là “đã điều phục”, đây là y cứ ở người hành luật, gọi là đã điều phục. Bản Phạm chỉ có ba tên gọi này, cũng không có tên Tỳ-ni. Nếu nói là Luật nghi, kể cả giới v.v… thì đều là tên gọi là trong đây. Luận sư Cảnh nói “Vì có đối tượng ngăn ngừa, nên gọi là Giới. Giới chung cho cả thiện lẫn ác, thiện, ác đều có sự ngăn ngừa, đề phòng. Nay, nói về giới thiện, nhằm đề phòng pháp ác, nên gọi là giới.

Nếu nói vì ngăn ngừa điều sai quấy, thôi dứt việc ác, gọi là giới, thì giới ác làm sao gọi là ngăn quấy, dứt ác? Do có trở ngại này, nên được nói phòng ngừa gọi là giới, cũng gọi là Luật nghi. Điều phục nội tại gọi là Luật, biểu lộ pháp thức bên ngoài, gọi là Nghi. Luật nghi dù chung cho giới thiện, ác, nay, nói về Luật nghi thiện pháp.

Sư Khuy Cơ nói “Giới là tên khác của sự ngăn quấy, Nói giới ác, nghĩa là thể của ác chẳng phải là Thi La. Ác ở Thi-La, gọi là Ác thila.”

– Nếu vậy, lẽ ra Thể của điều ác cũng chẳng phải ác kiến, vì đối với Kiến, nên gọi là ác Kiến?

– Giải thích “Tức không đúng, vì tìm kiếm, mong cầu để hiểu thì thiện, ác đều tìm kiếm, mong cầu. Thanh lương, gọi là Thi-La. Thi-La tìm cầu thể ác, ở trước nói về phẩm Thí để dứt bỏ keo kiệt bên ngoài. Nay, kế là trì giới, để ngăn ngừa vết nhơ bên trong, đó là lý do có phẩm này.”

Trong văn có ba: Trước hỏi, kế giải thích; sau kết. Trong giải thích lại có ba:

1) Giải thích chín môn tịnh giới 2) Nói về sự thắng lợi của giới 3) Nói về tác dụng của giới.

Trong phần trước, đầu tiên, là tụng và văn xuôi nêu lên môn, sau, dựa vào môn để nói, tức là chín đoạn.

Trong giải thích về tự tánh, trước hỏi, kế là, giải thích, sau là kết.

Trong giải thích có ba:

1) Nêu số, nêu danh 2) Thứ lớp, giải thích riêng 3) Kết, vấn nạn về thắng lợi.

Dựa vào giới tu đắc trong trình bảy bốn, gọi là, chánh thọ từ người khác, không dựa theo sự truyền trao của thầy, chủ yếu là kỳ hạn tự tịnh, gọi là khéo tịnh ý nghiệp.

Cựu luận nói “Khéo tịnh tâm, thọ, phạm rồi liền ăn năn, được gọi là tịnh trở lại. Hoàn toàn mát, tịnh, gọi là trừ cung kính, chuyên niệm.

Hai thứ trước là thọ, hai thứ sau là trì. Trong giải thích có ba:

  1. Dựa vào hai thọ sinh ba đức
  2. Nói về thọ tùy theo phân biệt3) Nói về vốn tịnh, tịnh trở lại.

Trong phần trước, vốn thọ, đối với người, nói “Con giữ được”, nên hôm nay phạm, cảm thấy xấu hổ với người. Vốn tự kỳ hạn rằng “mình không bao giờ phạm giới”, nên hổ thẹn đối với mình.”

Nói “Vì hai nhân duyên nên lìa các ác tác.”

Pháp sư Thái nói “1) chính thức thọ, Từ người khác.

2) Ý lạc thanh tịnh, dùng làm nhân duyên, nên về sau, không sinh tâm ăn năn.

Luận sư Trắc có bốn giải thích:

  1. “Hai thọ là một “duyên”, hai trì là một “duyên”.
  2. “Tức lấy hai trì là hai “duyên”.
  3. “Tàm, quý là hai nhân duyên; hai thọ là hai “duyên”.
  4. “Hai thọ là hai “nhân”, tàm, quý là hai “duyên”.

Dù có nhiều giải thích, nhưng nay nhận lấy, tức lấy hai trì làm hai “duyên”, vì thuận theo giải thích của cách hành văn.

Trong phần kết khen thắng lợi, nên biết tức là giới thiện mầu nhiệm, chính thức thọ tùy theo giới học v.v…

Y theo luật nghi giới, nên biết tức là Vô lượng tịnh giới v.v…

Giới Nhiếp thiện pháp, nên biết chính là lợi ích tất cả hữu tình v.v…

Giới Nhiếp Hữu tình, nên biết tức là có thể đạt được quả lớn, là tịnh giới . thù thắng v.v… gồm ba giới, được quả lợi lớn.

Trong tất cả giới, trước hỏi, kế giải thích, sau là kết trước, sinh sau.

Trong giải thích có hai:

  1. Y cứ ở tại gia, xuất gia, nói lược nói tất cả giới.
  2. “Lại tức dựa vào đây…” trở xuống, là nói rộng tất cả giới, trong đó lại có hai:
  3. Nói về giới thể của ba nhóm, tức là Sở học (đối tượng học)
  4. “Nếu các Bồ-tát muốn được sở học của Bồ-tát như thế v.v…” trở xuống, là nói dựa vào giới để tu học, tức chủ thể học.

Trong phần trước có ba:

  1. Nói lược về giới thể của ba nhóm trong thọ.
  2. Bồ-tát trụ Giới luật nghi, trụ Giới nhiếp thiện pháp ra sao?… “ trở xuống, là nói về giới tướng của ba nhóm trong trì.
  3. Kết.

Trong phần trước có hai:

1) Nêu chung, nhắc lại để chia ra 2) Dựa vào chương, giải thích riêng.

Nói là các Bồ-tát đã thọ giới luật nghi giải thoát của bảy chúng, tức là giới của Bí-sô v.v… Luận sư Cảnh nói “Giới luật nghi của Bồ-tát xa đến Bồ-đề. Nay, y cứ hình bảy chúng ở luật nghi, để nói về Bồ-tát, do đồng ngăn cấm lỗi thô. Lại, thân Bồ-tát kia ở bảy chúng, bảy chi của thân, ngữ tùy theo bảy chúng kia có đủ, không đủ. Tỳ kheo, Tỳ-kheo-ni có bảy chi thân, ngữ. Năm chúng như Sa-Di, Sa-Di-Ni và chánh Học v.v… chỉ có bốn chi thân, ngữ. Ý ba đều đầy đủ. Đại giới của Bồ-tát, hai chúng có đủ mười chi. Năm chúng còn lại chỉ có bảy chi, trừ ba chi trong ngữ. Cũng có thể Bồ-tát dù hình ở năm chúng sau, nhưng lìa đủ các điều ác. Bảy chúng khi thọ Giới luật nghi đều có mười nghiệp đạo thiện, do tất cả điều ác đều xa lìa, vì thiện này đều tu, chúng sinh này đều nhiếp hóa.”

Luận sư Trắc nói “Luật nghi Bồ-tát thật sự khác với luật nghi của Thanh Văn, chỉ vì bảy chúng xưa kia người thọ giới Thanh văn, về sau đến khi thọ giới Bồ-tát, mới phát ra chủng chi. Nếu Bí-sô tức như chủng chi của giới Bí-sô, trừ người không chung học với Thanh văn, ngoài ra chủng chi tức đồng với chi mà Bí-sô đã phát, cho đến nếu nam nữ, cận sự thọ năm giới xong, về sau, lại khi thọ giới Bồ-tát đã phát ra chủng chi với giới Cận sự, nên nói “Bảy chủng giới như thế tức là giới luật nghi của giới Bồ-tát.” Dù thọ không phát, chỉ do chủng chi đồng, nên nói “Tức là giới mà bảy chúng đã thọ. Ngoài ra, bốn Ba-la-di , bốn mươi hai giới khinh của Bồ-tát, đều là giới Nhiếp thiện pháp .

Trong giới Nhiếp chúng sinh , vì có trái phạm, nên lập các giới này, chứ chẳng phải nghi Nhiếp giới luật .

Lại, mất giới Thanh văn, không mất giới Bồ-tát, vì sao? Vì giới Thanh văn, khi qua đời, có hai hình sinh đều mất giới Thanh văn, mà không mất giới Bồ-tát.

Hoặc có hai duyên:

  1. Thối, mất tâm Bồ-đề.
  2. Khởi tăng thượng phiền não, mất, mà không mất giới Thanh văn. Cho nên, biết giới Bồ-tát khác với giới Thanh văn.

Trong giới Thiện pháp, nói các Bồ-tát sau khi thọ giới luật nghi thì tất cả là Đại Bồ-đề v.v… là nêu tóm tắt.

Luận sư Cảnh nói “Thọ ba nhóm giới, về lý thật đồng thời, nói về nghĩa thì có trước, sau, vì trước lìa ác, sau mới thiện.”

Luận sư Trắc nói “Theo Cựu luận cho rằng “Bồ-tát thọ Giới luật nghi trên.” Người Cựu luận giải thích “Hình ở trước, khen ở sau. Xét lường luật Nghi vượt hơn, chính là ý đồng nhau. Bảy chúng sở dĩ không bằng là vì Nhiếp thiện làm tu không chung với Nhị thừa, nên gọi là “trên”. Nay, nói là thọ giới Luật nghi sau, đây là về nghĩa, nên nói có trước, sau, chứ chẳng phải việc thọ giới có trước, sau.”

– Hỏi “Ba nhóm tịnh giới đều là “thọ được”. Vì sao nay lại nói rằng “thọ Luật nghi sau, vì Đại Bồ-đề chứa nhóm các điều thiện, là giới Nhiếp thiện pháp ư?”

– Giải thích “Ở đây nói tướng mạo hiểu rõ: Giới luật nghi là “chỉ thiện”, nói hiểu rõ giới “Nhiếp thiện pháp là “Tác thiện”, vì trụ tịnh giới là đã tu tập tướng rõ ràng, nên nói “Thọ Luật nghi vì Đại Bồ-đề gom góp điều thiện, gọi là giới Nhiếp thiện pháp . Đó là lý do y cứ ở sự thật, ba nhóm giới đều nói là “thọ được”.

“Đó là thế nào?” trở xuống, là nói rộng, trong đó có ba:

  1. Y cứ ở ba tuệ, để nói về “Nhiếp thiện”.
  2. Y cứ vào ba nghiệp để nói. Như thế, thường nói về thân, nghiệp.

“Đối với các khuYết-mầu nhiệm…” trở xuống, là nói về ngữ nghiệp.

“Ở các thế giới mười phương v.v…” trở xuống, nói về ý nghiệp.

“Dùng thân, ngữ, ý…” trở xuống, là y cứ chung ba nghiệp, để nói về hồi hướng, phát nguyện và công hạnh cúng dường, mà không có buông lung thân nghiệp. Trước là y cứ ở ruộng kỉnh để nói về ba.

“Đối với bệnh tật v.v…” trở xuống, là y cứ vào Ruộng bi để nói.

1. “Đối với các học Xứ v.v…” trở xuống, nếu theo Luận sư Cảnh thì nói, nói về bảy điều thiện. Nay, dựa theo Luận sư Trắc thì nói về chín việc thiện:

1/ Chánh niệm

2/ Chánh tri

3/ Chánh hạnh

4/ Ngăn giữ thầm hộ căn môn.

5/ Ăn, phải biết lượng.

6/ Đầu, hôm, gần sáng thường tu thức tỉnh.

7/ Gần gũi bậc Thiện Sĩ, y chỉ bạn lành.

8/ Hộ trì không trái phạm

9/ Phạm rồi, ăn năn.

Chín pháp thiện trên đây đều trong hai đạo tư lương của Địa Xuất ly, và Địa Thanh văn đã nói.

Ở đây nói rằng chánh niệm, tương đương với địa vị Tư lương thứ năm kia, chính là khả năng ngăn ngừa, giữ gìn căn, thể của luật nghi.

Chánh tri, tương đương với địa vị Tư lương thứ tám kia.

Chánh hạnh, tương đương với an trụ giới Cụ túc v.v… của địa vị Tư lương thứ tư.

Giữ gìn, thầm hộ căn môn, nghĩa là luật nghi ngăn ngừa tâm, căn. Thể của sáu căn do đã ngăn ngừa không có lỗi, vì thanh tịnh, đồng vì suy nghĩ, so lường một chỗ thiện.

Nói “Đối với ăn phải biết lượng; đầu hôm, gần sáng thường tu thức tĩnh, gần gũi bậc Thiện Sĩ v.v…”, như Luận sư Trắc có nói rộng.

Nói “Đối với tội lỗi mà mình đã trái phạm, xét kỹ, biết rõ, nhận thấy lỗi ấy một cách sâu sắc rồi chưa bỏ, là thích hợp với Tư lương thứ tư.”

Có năm trong sáu câu nói về tội ít, nhỏ nhặt, nhận thấy rất sợ hãi.

Trong giới Nhiêu ích hữu tình , nếu theo Cựu luận thì chính trong phần này được chia làm hai, là sự nghiệp kia kia và chăm sóc người bịnh v.v… chia ra làm hai.” Nay, luận này cho rằng đều là giúp đỡ nên hợp thành một. Hai môn thứ tư, thứ năm của luận này hợp thành thứ năm, cho nên có khai hợp, khác nhau. Do đó, số mười một là đồng.

Luận kia có nói riêng chữ thứ nhất, thứ hai v.v… còn luận này có chữ “hựu” (lại). Người Cựu luận liền dựa vào y cứ của sự nghiệp kia để giải thích rằng “Hai pháp đầu trong mười một là đồng sự kia, một pháp kế là Ái ngữ; bốn pháp kế, là bố thí, bốn pháp sau là lợi hành.

Sự lợi ích trong Đồng sự là sự vui của bạn. Đồng bệnh v.v… là nỗi Khổ của bạn, đồng trong việc chung. Nay, theo Tân luận, thì một pháp đầu là Đồng sự; một pháp kế là Ai ngữ; Kế đến là năm bố thí, sau là bốn lợi hành.

Đồng sự có hai:

  1. Đồng sự tùy theo nghĩa lợi.
  2. Đồng sự về việc cứu khổ.

Trong năm bố thí, có: 1) Thí Trả ơn. 2) thí Vô úy . Trong Vô úy thí có: 1) Vì một pháp đầu tiên nên Khổ, thí cho Vô úy. 2) Một pháp kế là, bỏ đi ái, thí vô úy. Một pháp kế là, chính là tài thí, một pháp sau, thí chúng chế ngự.

Trong bốn lợi hành, gồm có:

  1. Một pháp đầu đối với người thiện không có đức, thuận theo tâm chuyển.
  2. Đối với người thiện có đức, khen ngợi thật đức.

Nói “Hoặc che giấu, hoặc phát lộ v.v…. Nghĩa là 1/ hoặc ở nơi vắng vẻ; hoặc ở trước chúng, khen thật đức của người. 2/ Đối với hữu tình có lỗi, thì nhu nhuyến điều phục, phẩm Trung là quở trách, trị phạt; phẩm Thượng là đuổi đi.

Đối với hữu tình, người ác quá ngang bướng thì dùng thần lực để chế phục.

Giới tướng của ba trụ trong phần nói về trì, đầu tiên, đều đặt ra ba câu hỏi. Dưới đây, là đáp theo thứ lớp.

Trong luật nghi đầu, trước có mười câu giải thích, sau, là nêu mười câu kết.

Câu thứ hai trong mười câu trước nói “Đến đời vị lai, ở cung vua Thiên ma, nơi có dục mầu nhiệm, người không sinh hỷ lạc vì sao không mong muốn sinh lên Vô Sắc v.v… ? Vì cõi ấy là qua định, vì Giới luật nghi là tán thiện, nên không sinh lên Địa kia.”

“Nhân duyên thì bó buộc, đến cõi kia không hiện hành hỷ, lạc cũng thế, nghĩa là tự thu lại gọi là bó buộc. Do bó buộc, nên lời nói không chính đáng, cho đến Tầm, tư không còn để tâm. Chẳng hạn như xưa, đối với ngôn luân không chính đáng, hiện hành sinh hỷ, lạc. Bồ-tát an trụ nơi đây, ngôn luận v.v… không thích đáng kia không hiện hành. Hỷ, lạc cũng đồng với Hỷ, lạc hiện hành ở trước, nên nói “cũng thế”.

Nói “Các hữu tình đã không có tâm gây tổn hại, không có tâm sân nhuế, đối với họ, vì Đại bi, nên Bồ-tát đã phá hoại pháp của phẩm thượng.” Luận bản dịch cũ nói: tâm không nhuế hận, khởi pháp tâm bi tâm.

Pháp sư Tuệ Viễn nói “Tâm pháp, nghĩa là Tuệ. Dùng Tuệ thêm vào tâm kia, là vì pháp số, nên không có người, để sân.”

Tâm bi, nghĩa là cứu vớt người kia, e họ sẽ chịu đau khổ. Nay, lại giải thích rằng “pháp Đại bi , nghĩa là do phá hoại pháp phẩm thượng, nên có thể khởi ý Đại bi, để cứu khổ chúng sinh, không nói về pháp.”

Trong năm chi không buông lung thứ chín, ba chi ở hiện tại, chính đã trái phạm, như pháp sám hối để tiêu trừ, là y cứ ở trái phạm hiện tại của ba đời lớn, lập tức sám hối để dứt trừ.

Bốn chi trước ở thời gian sau, sẽ bị trái phạm, phát Khởi mạnh mẽ,nhạy bén, tự thề về dục lạc v.v… cho đến kết rằng “Lúc trước đã thực hành không buông lung.

Luận sư Trắc thuật lại lời Pháp sư Viễn nói rằng “Như điều nên thực hành là thực hành pháp lành, như điều nên trụ là pháp “chỉ thiện”.

Thực hành như thế, như thế, cho đến khiến không có trái phạm giới điều nào, là chuyên tâm gìn giữ.

Lại giải thích “Như như sự thích ứng, là nhắc lại thọ pháp trì ở trước. Như như đối tượng nên trụ, nghĩa là nêu pháp thọ ở trước. Đây là nói pháp sở y.”

“Đi, đứng v.v… như thế”, là nói đúng về hạnh trì giới. Pháp sư Khuy Cơ nói “Ý trong đây nói là như có một thân trước, ở vị lai, đã có chỗ trái phạm, tự thề không phạm, đối với điều nên làm, đều thề thế. Quá khứ phát nguyện , thân sau đã có pháp lành, hạnh ác đều thôi dứt, là ý trong đây. Chi thứ năm “Nếu các Bồ-tát lấy công hạnh không buông lung đã thực hiện ở thời gian trước như thế để làm đối tượng nương tựa, cho đến không khởi hủy phạm v.v… Luận sư Cảnh nói “Kế trước, tức lấy tác ý như lý ở trước của không buông lung trong ba đời làm cấm giới đã thọ thứ tư. Nay, chi thứ năm này tức do lý tác ý trước của không buông lung trong ba đời làm nương tựa sinh ra không buông lung trong ba đời kia, đều thực hành như lý tác ý là chi thứ năm.”

Luận sư Trắc nói “Ba chi trước trong năm chi này là hạnh ăn năn lỗi lầm, hai chi sau là ngăn ngừa phi hạnh.Vì sự ăn năn lỗi lầm rơi vào ba đời, nên có ba thứ khác nhau. Ngăn ngừa lỗi quấy ở vị lai nên có hai khác nhau.”

“Bồ-tát thành tựu mười chi như thế…” trở xuống, có mười câu. Kết mười chi trước, nói rộng về nghĩa.

Chi thứ tư, lại ưa xa lìa, không sinh điều thiện là kết đoạn văn trước có hai. Dùng hai câu này, tìm kiếm nghĩa để phối hợp, theo chi thứ mười phối hợp, chi thứ năm cũng thế.

Trong chi thứ mười có hai:

1) Đầy đủ phép tắc 2) Đầy đủ tịnh mạng.

Đầy đủ phép tắc, nghĩa là kết phát lộ xong, ghét sự che giấu, tự khéo léo cho đến oai nghi đều vắng lặng.

Đầy đủ tịnh mạng, kết trước lìa sự giả dối v.v… tất cả có thể khởi tà mạng là pháp của pháp lớn tà mạng. Giả dối để được của cải là mạng bất tịnh, khiến lìa bỏ sự giả dối này, gọi là đầy đủ tịnh mạng.

Kế trong phần đáp câu hỏi thứ hai về Giới nhiếp thiện pháp, trước y cứ ở sáu Độ, chia ra thành mười tướng. Sau, kết phối hợp với văn trên.

Trong phần trước, y cứ ở năm Độ, tức là năm tướng; chia ra Tuệ Độ dùng làm năm tướng, trong đó có hai:

  1. Nêu năm tên gọi
  2. “Các Bồ-tát này v.v…” trở xuống, là giải thích:

a) Khéo biết thắng lợi của quả. b) Khéo biết về nhân. Kế là, khéo biết về nhân quả.

3, 4) So sánh không có trái ngược là ba, bốn.

5) Khéo biết về chướng Nhiếp thiện pháp, Đối với vọng kiến vô thường không cho là thường, v.v… đối với bốn Thánh luận về tướng khổ là thô nhất, cho nên trong đó khởi điên đảo, chẳng phải ba đế còn lại. Chướng của nhiếp thiện pháp: Tức là sáu phát. Nếu theo Pháp sư Khuy Cơ giải thích rằng “trong luận Trí Độ, chia riêng thành năm Xứ. Năm Xứ, là như thắng lợi của quả thiện thứ nhất, nghĩa là tức có thể khi được Bồ-đề đã có tất cả công đức v.v… của tướng tốt, biết rõ nhân thiện, là thứ hai, nghĩa là hạnh sáu Độ v.v… biết rõ nhân quả thiện, trái ngược, không trái ngược thứ ba, nghĩa là tức tạo ra sự hiểu biết về thường, lạc, ngã, tịnh v.v… là nhân, quả không trái ngược.

Nếu cho rằng khổ, vô thường, v.v… là nhân quả không điên đảo biết rõ về chướng pháp lành thứ tư, là biết rõ chướng của sáu Độ, nghĩa là sáu thứ chướng như keo kiệt v.v… Biết rõ về sự thắng lợi của quả thiện, tìm cầu nhân thiện. Trong nhân, quả biết trái ngược, không trái ngược, không chấp là tịnh v.v… biết rõ chướng v.v… của thiện, mà có thể nhanh chóng xa lìa thứ năm. Nếu theo Pháp Viễn sư nói biết nhân quả thiện trái ngược, không trái ngược thứ ba này là hai. trái ngược như thế, có hai, chẳng trái ngược như thế, bốn. Lại trong chữ chia làm năm Xứ, “các Bồ-tát này có thể đối với quả thiện” trở xuống, là giải thích về năm Xứ trước. Nghĩa này không đúng. “Các Bồ-tát này” trở xuống, Văn cuối nói rằng “Biết rõ về chướng của Nhiếp thiện pháp, vì nhiếp thiện nên nhanh chóng có thể xa lìa, là giải thích văn nào trước? Nếu giải thích thứ năm trước, biết rõ nhiếp thiện pháp, nghĩa là ở trước chỉ nói tri chướng, không nói xa lìa. Nay nói xa lìa là kết thứ năm ở trước, há không trái nhau?”

Nay, “phân biệt các Bồ-tát này” trở xuống, là thứ năm, vì xa lìa chướng và Tri chướng riêng.

Hỏi “Nếu lấy xa lìa chướng làm thứ năm, thì có khác gì với biết nhân thiện ở trước?”

Đáp “Ở trước biết nhân thiện, biết sáu Độ v.v… là nhân, nhưng chưa thể dứt trừ chướng. Nay, thứ năm vì dứt trừ chướng, nên có riêng khác. Nếu ông dùng tri chướng để dứt trừ chướng thì sẽ không được là hai biết trái ngược, chẳng trái ngược lẽ ra không được là hai. Ông đã không thành, thì nghĩa của tôi hiển nhiên được lập, “biết trái ngược với chướng (chướng) điều thiện đâu có khác nhau?”

Đáp “Vì sao có sáu câu hỏi trong ba nhóm giới của câu hỏi trước? Là trụ Giới luật nghi, khéo hộ trì Giới luật nghi v.v… ?”

Ở trước kết Giới luật nghi, tức nhắc lại cả hai pháp là trụ Giới luật nghi, khéo hộ trì Giới luật nghi. Nay, giải thích về Giới nhiếp thiện pháp và dưới đây giới nhiêu ích hữu tình , không kết câu hỏi thứ hai, chỉ kết trụ Giới nhiếp thiện pháp v.v… là có ý gì?”

Nghĩa là “Chỉ văn kết trước, lấy trước để so sánh sau. Song kết trong Giới luật nghi xong, so sánh với hai luật nghi sau, nên biết, cho nên không nói.”

Lại, có giải thích khác “Trong Luật Biệt giải thoát nghi kia, mới sinh khởi trong văn, chỉ có trụ Luật nghi Biệt giải, “nói là không có nói thủ hộ khéo giới biệt giải” trở xuống, là văn kết, tức song kết, gồm lời nói có sự giữ gìn khéo léo.”

Trong giải thích về Nhiêu ích hữu tình thứ ba kia, mới sinh khởi, chỉ có một ở lời nói có trụ, không nói khéo tu Giới nhiếp thiện pháp, tức cả hai thứ trong văn kết kia đều kết.

Giới nhiếp thiện pháp thứ hai kia sinh khởi, chỉ có trụ ở lời nói, trong văn kết kia nói rằng “Gọi là trụ Giới nhiếp thiện pháp, nhanh chóng có thể nhiếp thiện lời nói tất cả chủng tướng.” Ý tức kết lời nói khéo tu Giới nhiếp thiện pháp. Lấy lý làm tiêu chuẩn giới Biệt giải thoát, tức sinh Khởi và kết đầy đủ có hai. Nhiếp thiện kia lợi ích chúng sinh lẫn nhau có tiêu chuẩn so sánh Nhiếp thiện đều có hai kết sinh khởi, chỉ có một lợi ích chúng sinh, tức có hai sinh khởi không có hai kết trong tiêu chuẩn, nên văn không nhất định.

Lại, giải thích “Câu hỏi trước lại có ba câu hỏi, rằng, trụ Luật nghi mà có thể khéo thủ hộ. Ở đây chỉ một nghĩa, chứ chẳng phải có hai câu hỏi.”

Dưới là so sánh lợi ích chúng sinh và nhiếp thiện, cũng là một câu hỏi, nên phần sinh khởi và kết trong giải thích dưới đây cũng chỉ một thứ, không nhọc công giải thích nữa.

Trong phối hợp kết dưới đây nói “Xoay vần.”

Pháp sư Thái nói “Các hạnh vì không thể tu tức khắc, nên dần dần tu thí v.v… Đáp câu thứ ba dưới đây, trong nhiêu ích hữu tình giới, đầu tiên, nêu số, nêu lược. Kế là, giải thích rộng, sau là kết.”

Trước nói rằng “Do mười một tướng gọi là trụ v.v… Pháp sư Viễn nói “Mỗi một tướng trong mười một tướng đều có mười một tướng, cho nên được biết như thế là vì y cứ trong Báo ân thứ ba dưới đây, có đủ mười một nhất thiết chủng. So sánh trong tướng khác, cũng có thể đồng có, vì lược qua nên không nói.”

Lại giải thích “Trong mỗi tướng vì có nhiều tướng, nên nói là “Tất cả”, chưa hẳn có đủ mười một.”

Pháp sư Khuy Cơ giải thích “Những gì là mười một tướng? Nếu xét cách giải sơ lược trước về mười một tướng của đoạn văn dưới, thì các Bồ-tát đối với sự nghiệp kia của các hữu tình đều làm giúp đỡ”, trở xuống là thứ nhất. Lại, “các hữu tình Bồ-tát như lý giảng nói rằng, đối với lạc hạnh, ác hạnh v.v… ” trở xuống, là thứ hai. “Lại, các Bồ-tát đối với hữu tình có ơn kia, đã biết ơn sâu sắc, ban cho tuệ” trở xuống, là thứ ba. Lại, “các Bồ-tát hay vì cứu hộ các loại hữu tình đang gặp phài sự sợ hãi” là thứ tư. Lại, các Bồ-tát đối với các loại hữu tình đang ở trong hoàn cảnh suy hao não nề, có thể khéo khai mở” trở xuống, nói thứ năm. Lại, các Bồ-tát sẵn sàng có người đến cầu xin, lập tức đều thí cho…” trở xuống, là thứ sáu. Lại, các Bồ-tát với tánh ưa nhiếp thọ các loại hữu tình, đúng như pháp chế ngự chúng…” trở xuống, nói thứ bảy. Lại, “các Bồ-tát thích tùy chuyển tâm tánh của các hữu tình, khi tùy tâm chuyển…” trở xuống, là nói thứ tám. Lại, “các Bồ-tát tánh ưa khen ngợi, biểu dương công đức chân thật, để cho người khác vui mừng…” trở xuống, là nói thứ chín. Lại, tánh các Bồ-tát ưa thương xót, dùng pháp điều phục để điều phục hữu tình…” để trở xuống, là thứ mười. Lại, các Bồ-tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình, nên hiện thần lực…” trở xuống, là nói thứ mười một. Mười một thứ này so sánh với mười một tướng đã giải thích sơ lược ở trên để phối hợp.

Lại, theo trong Tĩnh lự nói ở quyển bốn mươi ba dưới đồng với đây. Dù giúp đỡ là hai, nhưng vẫn kết hợp là thứ nhất. Nếu chia làm hai, tức mười hai tướng, nên biết kết hợp với giúp đỡ làm một.

Nếu theo luận Địa Trì, bản cựu dịch thì có một, hai cho đến số mười một. Trong phần giản lược ở trước cũng thế.

Trong phần giải thích sơ lược ở trước đã hợp hai luận với lý do bất đồng. Nay, trong đây, dựa theo mười một của luận Địa Trì bản cựu dịch nghĩa là các Bồ-tát đều làm giúp đỡ đối với sự nghiệp kia của các hữu tình…” trở xuống là thứ nhất.

“Đối với các cứu khổ cũng là giúp đỡ…” trở xuống là thứ hai, tức chia ra thứ hai trong thứ nhất ở trước nói , tức kết hợp thứ tư, thứ năm ở trước, làm chung một tướng thứ năm, đã có khai hợp khác nhau như thế trong giải thích sơ lược ở trước. Phần giải thích rộng kia đồng với văn giản lược.

Nay, nếu theo quyển bốn mươi ba ở dưới, thì sự nghiệp giúp đỡ cứu khổ là hai môn. Lại, ở trước nói “Trong giải thích về trả ơn thứ ba, vì sao đối với sự nghiệp, đối với nỗi Khổ như thế, như lý mà nói v.v… tức chia sự nghiệp ra làm hai là ý gì?”

Nghĩa là “Nay, y theo giải thích sơ lược trước, thì về nghĩa của mười một tướng, tức sự nghiệp cứu Khổ được kết hợp thành một; để làm giúp đỡ, vì nghĩa đồng nhau. Nếu đã làm giúp đỡ, thì một là sự nghiệp, một là cứu Khổ, vì hai nghĩa khác nhau, do quyển bốn mươi ba sau và trong Báo ơn chia ra thành hai. Làm sao được biết? Vì chính trong Báo ân giải thích rằng “Đối với như lý nói, đối với phương tiện nói, đối với như lý, nói tướng thứ hai của mười một tướng ở trước. Phương tiện nói là gì?

Thứ ba là báo ơn, phương tiện nói kết hợp tương đương với thứ ba. Chỗ nào trong Báo ân có nghĩa phương tiện nói?

Nay, giải thích “Trong thứ hai, như lý nói, có nói rằng “Hoặc là phương tiện khéo giảng nói, như về lạc hạnh v.v… tức là phương tiện nói. Ở đây, nếu mười tướng được nói về nghĩa, thì tức Như lý phương tiện giảng nói kết hợp với thứ hai. Nếu nói dù đồng như lý, nhưng về hai nghĩa phương tiện khác nhau, nên trong đây chia làm hai.”

Hỏi “Nếu vậy, thì vì sao trong mười giải thích về báo ân này không nhắc lại báo ân có nghĩa là gì. Nghĩa rằng: Ở đây giải thích báo ân, báo ân có mười tướng trước sau, cho nên không nhắc lại riêng về tướng báo ân, nếu phương tiện nói cho nên khổ đều là một. Trong phần ở trước lẽ ra mười hai tướng chia giúp đỡ thành hai, nghĩa là giúp đỡ này có hai. nếu thế thì vì sao trong phần lược có mười một chữ “lại”.

Nghĩa là “Chữ “lại” thứ tư, thứ năm kia kết hợp thành thứ năm, trong chữ “lại” thứ nhất kia chia giúp đỡ làm hai, tức cần phải biết đích xác trong văn rộng này. Nghĩa là “Do người xưa nói, thật ra trong bản Phạm của luận không có nêu tên một, hai, ba, bốn v.v… mà là do người dịch tự thêm vào. Do vậy, nghĩa thứ nhất trước là đúng, nếu theo Đại sư Tuệ Viễn thì thứ hai là Đồng sự, kế là, một ái ngữ. Kế là, bốn Bố thí, sau là bốn lợi hành. Nay, thì không như vậy, một thứ đầu tiên là đồng sự, một thứ kế là ái ngữ, năm thứ kế là bố thí, kế là bốn lợi hành. Do hai văn trái nhau, nên dẫn riêng như trước.

Lại, có vui, Khổ trong đồng sự, trước vui, sau Khổ của Đồng sự, dựa theo văn để tìm.

Kế là, trong một tướng Ái ngữ, nói rằng, do văn, cú v.v… tương ưng cho đến “mà vì nói rộng”, tức lấy bảy câu để nói về như lý nói tướng:

1/ Do văn cú tương ưng.

2/ Giúp đỡ

3/ Thuận theo

4/ Trong sáng

5/ Có dụng

6/ Tương xứng, ưng thuận

7/ Thường ủy thác, phân chia pháp tư lương. Các trường hợp như thế trong luận Hiển Dương quyển mười ba và Nhiếp Thích phần, v.v… có nói rộng. Nhiếp Thích phần quyển ba nói thế nào là văn nghĩa là có sáu thứ: Một là danh thân, hai là cú thân, ba là văn thân, bốn là ngữ, năm là hành tướng, sáu là cơ thỉnh.

Dưới đây nói ngữ, phải biết rằng, đại khái có tám phần, nghĩa là tốt đẹp đứng đầu v.v… Do văn cú của ngữ kia tương ưng, cho đến ủy thác, phần tư lương, nên có thể nói chánh pháp, cho đến nói “Tám ngữ như thế, tóm tắt có ba đức:

  1. Đức thu hướng, nghĩa là một thứ đầu
  2. Đức tự thể, nghĩa là hai thứ kế
  3. Đức gia hạnh, nghĩa là các thứ còn lại.

Tương ưng, nghĩa là: danh, cú, văn, thân an lập khéo theo thứ lớp.

Lại, vì dựa vào bốn thứ đạo lý tương ưng.

Giúp đỡ, nghĩa là thành thứ lớp. Thuận theo, nghĩa là giải thích theo thứ lớp. Trong suốt, nghĩa là câu văn, rõ ràng. Thanh tịnh tư trợ, nghĩa là tâm khéo nhập chúng. Tương xứng, nghĩa là như chúng hội,v ì ứng cúng, vì xứng pháp, vì dẫn nghĩa và vì thuận với thời gian.

Thường gửi gắm phần tư lương, nghĩa là tra xét, điều đã làm, thường đã làm, gọi là thường gửi gắm.

Phần kia, nghĩa là chánh kiến v.v… đây là tư lương kia. Nhưng câu tương ưng v.v… này, Luận sư Trắc chia làm tám khác nhau, vì lấy ưng thuận làm thứ bảy. Pháp sư Khuy Cơ xếp thành làm tám câu để giải thích nghĩa, nghĩa là bảy ưng thuận thường gửi gắm, tám phân biệt pháp tư lương. Nay, đều không theo, tức xếp thành là bảy.

Kế là, nói về bố thí có bốn: 1) Một Báo ân thí 2) Vô úy thí. 3/ Kế là, một Tài thí, 4/ Sau là một Pháp thí.

Trong Báo ân thí, có mười một tướng ở trước. Luận sư Cảnh nói “Đầu tiên là Báo ân thí, rất dễ hiểu.”

Kế là, “Đối với như lý nói, đối với phương tiện nói, nghĩa là bốn Ai ngữ trong Báo ân thí.”

Kế là, đối với cứu giúp sự sợ hãi, đối với chỗ suy vi khổ não, giải tỏa nỗi lo buồn. Nghĩa là nói về Vô úy thí trong Báo ân thí. Hai câu rất dễ hiểu.

Đối với Tuệ tư cụ. Nghĩa là tài thí trong Báo ân thí, gọi là Tuệ tư cụ.

Đối với y chỉ chung, nghĩa là pháp thí trong Báo ân thí, dưới đây có bốn câu đối với lợi hành trong Báo ân thí.

Về tùy tâm chuyển, nghĩa là đối với người thiện, không có đức, tùy chuyển biến sự việc của họ, thể hiện rõ thật đức, để họ được hân hoan, vui vẻ sâu sắc. Đối với người lành có đức, thì khen ngợi đức để họ được vui vẻ.

Đối với người có tâm thân ái, dùng phương tiện điều phục, nghĩa là đối với người có lỗi, dùng tâm mềm mỏng để điều phục, đối với người có lỗi thì tâm mềm mỏng điều phục, xua đuổi họ. Về việc hiện thần thông là thứ mười một, nghĩa là trong trường hợp có kẻ ngang bướng, Bồ-tát sẽ hiện thần thông khuất phục sự sợ hãi, rồi dẫn dắt họ. Như cần nói rộng thì phải biết cũng thế, nghĩa là như vì sự sợ hãi, cho nên hiện thần thông, vì muốn dẫn dắt, nên hiện thần thông cũng thế.

Pháp sư Thái nói “Lập tòa ở chỗ tốt lành, nghĩa là ở chỗ đẹp, tốt lành, lập bày giường, tòa.”

“Tánh ưa tùy chuyển” trở xuống, trong phần nói về lợi đắc có bốn:

1. Đối với người thiện không có đức, tánh ưa tùy chuyển, trước chung, sau riêng. Trước, biết hữu tình, hoặc thể, hoặc tánh. Luận Địa Trì bản cựu dịch nói rằng “Hoặc tánh tự tánh.” Pháp sư Viễn giải thích “Hoặc tánh nghĩa là có tánh cộng trụ (ở chung). Tự tánh, nghĩa là không có tánh ở chung. Có tánh tự hành xong, tùy các hữu tình, đồng ở, đồng làm.”

Dưới đây là nói riêng về Tùy chuyển có bảy câu. Câu đầu có ba:

1. Nói về Bồ-tát đã biểu hiện thân, ngữ, sah ra nỗi khổ ưu tư cho người khác vô ích thì thôi, có ích thì làm.

2. Kế là nói Bồ-tát hiện hành thân, ngữ trong việc của người, nảy sinh nỗi khổ lo lắng cho hữu tình khác thì dừng, có ích thì làm.

3. Nói về Bồ-tát hiện hành thân, ngữ trong việc của mình, sinh ra khổ lo cho người, thuộc phi Học xứ, không thuận với phước, trí thì thôi, nếu thuận thì thực hành. Như sinh nỗi khổ lo buồn cho người, sinh hỷ, lạc cũng thế.

Trên đến đây, sinh ra nỗi khổ, niềm vui cho người, có tùy, không tùy.

Dưới đây là thứ hai, biết triền phẫn của người có thể bỏ, không thể bỏ, có tùy, không tùy.

Thứ ba, là nói về người khác đến, phải bàn luận chung. Câu bốn, năm, sáu, như văn rất dễ biết.

Câu thứ bảy nói “Không thường hy vọng, biết lượng mà thọ, nghĩa là đối với đối tượng chẳng phải thân tình, không thường hy vọng được cúng dường, thí cho. Nếu có cúng thí, không nhận vật quá phần mình muốn dùng.”

Dù có bảy câu, nhưng đều là công hạnh lợi người, là câu đầu trong bốn câu xong.

1. Nói khen ngợi người có đức, rằng, đối với công đức v.v… của tín, nghĩa là nói về bảy Thánh tài, lược qua không nói tàm, quý.

2. Nói về có lỗi, dễ điều phục, trị phạt, xua đuổi. Ba phẩm tâm phạm, ba phẩm quở trách.

3. Nói về có lỗi khó điều phục, hiện thần thông để chiết phục, hoặc vì sợ hãi, hoặc vì dẫn dắt.

4. Trước chia ra hai môn, sau giải thích rất dễ hiểu.

Thứ hai, trong phần nói là nương tựa giới để tu học. Trước là nói nương tựa giới để tu học. Sau, nói về thắng lợi của giới học.

Trong phần trước lại có hai:

  1. Nói rộng về tu học
  2. Tùy theo vấn nạn, giải thích lại.

Trong phần đầu lại có hai: Trước, nói chính thọ với người . Sau, nói từ tịnh tâm thọ.

Trong phần trước có ba:

  1. Nói từ chính thọ với người khác,
  2. Nói về chuyên tinh tấn, thủ hộ giới.
  3. Nói về phạm rồi, mà biết ăn năn.

Trong phần trước có bốn:

  1. Nói về thọ giới
  2. Nói về giữ giới
  3. Nói lại nói về thọ giới) Nói về giới tướng.

Trong phần đầu có hai:

Thứ nhất, chính nói về thọ giới.

Thứ hai, khen lợi ích của giới, xét nghiệm, so lường, nhằm làm rõ pháp vượt hơn.

Trong phần trước có ba:

  1. Nói về tiền phương tiện
  2. Nói về chính thọ giới
  3. Nói về phương tiện sau thọ giới

Trước, phân tích sơ lược về nghĩa có ba môn:

1) Nói về người thọ giới 2) Nói thầy truyền giới 3) Nói về nhân của giới.

Trong phần trước có hai:

1. Nói về người mới học phải nương theo Đại thừa mà phát nguyện.

2. Nói về giới, cõi. Người thọ giới Bồ-tát chung cho cõi Dục, bốn đường và cõi Sắc. Do Kinh Phạm Võng nói “Mười tám Phạm Thiên, tất cả quỷ, thần v.v… chỉ hiểu được lời nói của thầy, đều thọ được giới” mà không nói Địa ngục và cõi Vô Sắc. Mười tám vị Phạm Thiên, như Đại Bát-nhã nói “Trong Sơ thiền có bốn:

  1. Trời Phạm Chúng
  2. Trời Đại Phạm
  3. Trời Phạm phụ
  4. Trời Phạm .

Trong Nhị thiền có bốn:

  1. Trời Thiểu Quang
  2. Trời Vô lượng Quang
  3. Trời Âm
  4. Trời Quang

Trong Ba thiền có bốn:

  1. Trời Thiểu Tịnh
  2. Trời Vô lượng Tịnh
  3. Trời Biến Tịnh
  4. Trời Tịnh Thiên.

Trong Bốn thiền có sáu:

  1. Trời Phước Sinh
  2. Trời Phước Ái
  3. Trời Quảng Quả
  4. Trời Thanh Tịnh
  5. Trời Tự Tại
  6. Trời Đại Tự Tại

Hình tướng của ba minh là chung cho Đạo, Tục. Bốn là nói ngăn ngừa vấn nạn. Như kinh nói “Tỳ-kheo không được hiện thân thọ giới chung với người gây ra bảy tội nghịch. Bảy tội nghịch là: Làm thân Phật chảy máu , giết cha, mẹ; giết A-Xà-Lê; Phá tăng Yết-ma; chuyển pháp luân; giết bậc Thánh .

Nếu có bảy “già” thì thân không đắc giới, tất cả người khác đều được thọ giới.

Năm Minh hư, thật, như kinh nói “Cho đến người biến hóa đều được thọ giới.” Đây là chung cho cả người biến hóa, chứ chẳng phải như Thật báo của Tiểu thừa được thọ, chẳng phải người biến hóa.

Sáu, y cứ năm uẩn. Luận sư Trắc nói “phải đủ năm uẩn, không có tâm thì không được, chẳng phải như Tiểu thừa, cho đến nhập Diệt định, chỉ có hai uẩn, cũng đắc giới.

Nói về Sư có khả năng truyền trao học giới của Bồ-tát Đại thừa. Theo kinh Thiện Sanh Ưu-Bà-Tắc Giới, thì hai mươi sư Yết-ma, thọ bốn, giống như ni sáu pháp . Kinh Phạm Võng chép: “Đối trước hình tượng Bồ-tát, tự thệ thọ giới. Nếu sám hối, thấy được tướng tốt, tức là đắc giới. Nếu không thấy được tướng tốt, thì không đắc giới. Nếu hiện tiền thọ giới Bồ-tát, hoặc khi thọ giới trước Sư , thì không cần phải thấy tướng tốt. Nếu trong ngàn dặm, Sư không có khả năng truyền trao giới, được thọ giới trước Phật, Bồ-tát nhưng phải thấy tướng tốt.”

Hỏi “Vì sao Thanh văn phải đủ mười Sư, trong khi Bồ-tát chỉ một?”

Đáp “Vì sức nhân của giới Thanh văn yếu, phải nhờ “duyên” mạnh mẽ, nên cần đủ mười Sư, còn Bồ-tát với tâm Bồ-đề mạnh, nên một sư vẫn được.”

Lại hỏi “Theo đoạn văn dưới đây nói “Người trí muốn truyền giới Bồ-tát, trước, phải vì nói giới Bồ-tát và tướng phạm giới, để cho tự mình tư duy “Ta có khả năng thọ giới hay không?”

Vì lẽ gì hàng Thanh văn thọ giới về sau, vì nói bốn Trọng, bốn y? Trước, Bồ-tát phải thuyết giới và tướng trái phạm?

Đáp “Trong pháp Thanh văn, nếu vì nói giới trước, e sẽ trở thành “Tặc trụ”, nên không được nói trước. Bồ-tát thì không như thế. Cần phải đối diện, trước hết, Bồ-tát trù tính cân nhắc xem mình có đủ khả năng truyền giới hay không? Sau đó mới vì thọ.

1. Nói về nhân của giới, nếu là tướng chung, nói về nhân, tức tâm Bồ-đề, nên văn này nói “Phát nguyện Vô thượng Bồ-đề rồi, nếu nói riêng, thì phát ba tâm là nhân của ba nhóm, có nghĩa là dứt ác, tu thiện và độ sinh. Lại, nếu theo Nhiếp Luận, thì năm căn là nhân của ba nhóm. Tinh tấn là nhân của giới đầu trì căn là nhân của giới thứ hai, Định căn là nhân của giới thứ ba. Hai căn Tín, niệm, chung cho nhân của ba giới, vì hai căn này có thể nhiếp hộ chung, nên y cứ vào phương tiện trước có ba. Đầu tiên, lại có ba:

Trước là nói về phương tiện xa của thọ, nghĩa là trước phát nguyện, kế là, thỉnh sư cầu giới; sau, “vén y…” trở xuống, niệm công Đức Phật, Bồ-tát, vận tâm cúng dường.

Nói “Đối với nghĩa ngữ biểu, năng truyền trao, năng khai mở. Pháp sư Thái nói “Xưa nói hai tác thân và khẩu, nay nói hai biểu thân, khẩu, vì “năng biểu” ở trong tâm. Đối với nghiệp ngữ tác, có công năng khiến người khác hiểu rõ.”

Luận sư Cảnh nói “Nay ta muốn ở chỗ ngườ Thiện nam đối với người xuất gia, không thọ giới Bồ-tát , nên cầu khắp giới. Hoặc ở chỗ trưởng lão đối với người xuất gia nhỏ.” Nay, tìm trong luật Thiện Kiến của Luật tạng nói rằng “Người già nói là Đại đức, người trẻ xưng là Trưởng lão.” Luật Sư Thủ nói “Về việc này cũng không nhất định. Rằng, trong luật Tứ phần, nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị đều nhỏ hơn nhóm Tỳ-kheo sanh vị, mà bảo nhóm Tỳ-kheo sáu vị rằng: “Trưởng lão là thượng tọa chúng ta.”

Lại, trong năm trăm vị kiết tập, Ly-Ba-Đa kêu gọi là tất cả hãy bỏ đi Thượng tọa lớn nhất, làm trưởng lão đại đức.

Luật Thập Tụng nói “Từ nay, không được gọi là ngay Thượng tọa là Trưởng lão, nên nói là Trưởng lão tên gì? Chẳng hạn như gọi là Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên v.v…”

Không nề mỏi mệt, thương xót chấp nhận truyền trao giới. Nghĩa là nguyện sư không ngại gì mỏi mệt, vất vả, xót thương chấp nhận lời cầu thỉnh của con và trao cho con giới pháp.

2. “Tùy theo các giới Sư kia có chấp nhận hay không…” trở xuống, cho đến “đứng im lặng, là nói về phương Tiện gần.

3. “Lúc bấy giờ, người có trí, có sức” trở xuống, là nói về phương tiện gần của giới sư. Luận sư Trắc nói “Về nghĩa phương tiện xa của giới sư trong đây, nghĩa có mà văn “Không, sở đắc biết là có, nghĩa là trong giới Bản Biệt hành nói “Chính nói giới tức phương tiện xa, cho nên biết có nghĩa. Nhưng đoạn văn dưới đây lại lựa chọn là chẳng phải thuyết trung dung, nên ở đây không nói.”

Nói “Hoặc ngồi, hoặc đứng.” Luận sư Cảnh nói “Nếu đối trước tượng giới sư đứng thì đứng, nếu đối trước tượng giới sư ngồi thì ngồi, nên nói “hoặc đứng, hoặc ngồi”

Pháp sư Huy nói rằng “Giới sư tráng niên, thiếu niên có sức khỏe, thì nên đứng, nếu không có sức khỏe thì ngồi. Sư này dựa vào Trì luận mà xếp. Chương Thọ Giới rằng “Có ba lượt hỏi đáp:

1) Hỏi về chủng tánh 2) Hỏi về danh tự 3) Hỏi về phát nguyện.

Dưới đây, ba lượt Yết-ma là căn bản thọ giới Bồ-tát.Cựu luận nói không có Yết-ma của chánh pháp. Ngài Tam Tạng xem trong đây không có người nào thọ giới Bồ-tát, nên không chịu dịch. Về các đức hoặc chiêm bao, được văn Yết-ma bày tỏ với ngài Tam Tạng. Ngài Tam Tạng nói “Nên được lưu hành, có Yết-ma riêng chính đồng với luận này.”

Trong văn này, Sư chủ thể thọ hỏi, người thọ Bồ-tát giới đều đáp “Có thể”, không đồng với thọ giới Tỳ kheo, lúc ba Yết-ma không có hỏi đáp. Về sau, văn trong phương tiện có hai:

1. Nói về giới sư chung cung thỉnh chư Phật mười phương tác chứng, pháp nhĩ tướng hiện trước chúng.

2. Nói về thọ xong, kính lễ rồi lui ra.

Trong sự khen vượt hơn, xem xét, suy lường thường có bảy: 1) một trăm. 2) một ngàn. 3) số. ) kể. 5) Toán. 6) Dụ. 7) Ổ Ba Ni Sát đàm phần. Nếu dựa vào chủ thể đoạn, thì Kinh Kim cương thường có mười:

1) một trăm. 2) một ngàn. 3) một trăm ngàn. 4) Câu chi một trăm ngàn. 5) Câu-chi-Na-dữu-đa một trăm ngàn. 6) số. 7) kể. 8) Toán. 9) Dụ. 10) Ổ-Ba-Ni-Sát-đàm phần.

Trong đây, lược qua không nói một trăm ngàn Câu-chi-na-dữu-đa. Nếu theo Luận sư Bát-nhã , thì giải thích mười số trước dùng làm bốn thứ:

1. Một trăm, một ngàn, mười ngàn. Ba số này gọi là thắng số. Về phước trì kinh, số ấy vượt hơn rất nhiều so với phước thí cho ở trước.

2. Câu chi một trăm ngàn, Câu-chi-na-dữu-đa một trăm ngàn. Hai số này gọi là Thắng lực. Phước trì kinh, như trên thân người có nhiều lông, chỉ dựa vào một sợi lông mà phân tích thành trăm, ngàn phần, phước bố thí không bằng một phần, vì nói phước trì kinh có thế lực lớn.

3. Số, kể, toán, dụ, bốn thứ này gọi là sự vượt hơn không giống nhau. Phước trì kinh, phước ấy rộng lớn như núi Tu-di, so sánh với phước thí cho ở trước, cũng như hạt cải. Vì lớn, nhỏ, nên lại nói “không giống nhau.”

4. Ổ-Ba-Ni-Sát-Đàm Phần, Hán dịch là Nhân quả thắng, nghĩa là nói đem công đức trì Kinh để thành tựu nhân quả vô lậu; phước bố thí, thành tựu nhân, quả hữu lậu. Nay, y theo cách giải thích này, công đức mà giới Bồ-tát có so với giới đức của hàng Thanh văn cũng thế. Đại khái không có Câu-chi-na-dữu-đa một trăm ngàn, gọi là Lực thắng.

Trên, nói về thọ giới rồi, dưới đây là thứ hai, nói về trì giới, trong đó, trước là thường tư duy đế lý, chuyên tâm nghe pháp.

Ma-đát-lý-ca, Hán dịch gọi là Bản mẫu. Sinh trí Bản mẫu, tức là tên của Luật tạng.

Lại, “các Bồ-tát không từ tất cả…” trở xuống là thứ ba, nói lại về phương tiện thọ giới, tức là vì phương tiện xa, nên lại nói sau, trong đó có ba:

  1. Lựa chọn giới sư
  2. Nói về người trụ giới, so luờng căn cơ để truyền cho giới pháp.
  3. Nói về thầy chọn lựa đệ tử.

Trong phần trước có hai:

1. Nói về giới sư có tuệ, không có đức tin, không nên theo thọ.

2. Nói giới sư có sáu thứ chướng kia, không tu sáu Độ, thì không nên theo thọ.

Có người keo kiệt, tham lam v.v… Y cứ chướng đàn việt có bốn trương hợp. Luận sư Trắc nói “Hai câu đầu, y cứ ở sự phân biệt của đời, trong đó, câu trước là tham ở vị lai.”

Như thế, Bồ-tát trụ Giới luật nghi có bốn thứ thắng Xứ khác…” trở xuống, là thứ tư, phân biệt rộng về giới tướng, trong đó có hai:

1. Nói về bốn giới Trọng

2. Nói về bốn mươi hai Khinh, trong phần trước có hai: 1) Nói về tướng của bốn trọng 2) Tùy nghĩa phân biệt.

Nếu theo Kinh Phạm Võng, nói có mười trọng, luận này lược qua, không có sáu pháp trước.

Xưa gọi là Ba-la-di, Hán dịch là “Bất cộng trụ.” Ngài Tam Tạng nói “Tiếng Phạm là Chánh Ba-la-xà-dĩ-ca, Hán dịch là “Tha thắng xứ pháp”, nghĩa là nếu người phạm giới này thì người khác vượt hơn. Bốn pháp Thắng Xứ khác này có đủ ba nhóm giới:

1. Không vì tham cầu mà khen mình, chê người là Giới luật nghi, tức hợp với Kinh Thắng-man nói “Không Khởi tâm ganh tỵ đối với các chúng sinh.”

2. Không keo kiệt, luyến tiếc tài, pháp là giới lợi ích hữu tình, tức tương đương với Thắng-man nói “Không Khởi tâm keo kiệt đối với pháp trong, ngoài.”

3. Kiết không giận dữ, cũng là giới nhiêu ích hữu tình.

4. Không chê bai Đại thừa nói pháp giống nhau, là Giới nhiếp thiện pháp.

Trong bốn tha thắng này, 1) Tham, 2) Keo kiệt, 3) Sân, 4) Si, mạn, như thứ lớp làm thể.

Thứ hai, trong tùy nghĩa phân biệt có năm:

1. Nói về lý do người khác vượt hơn, không có hai kham năng, nên bị ma vượt hơn.

2. Nói về Khởi triền phẩm hạ, trung, phạm giới không xả, triền phẩm thượng liền xả.

Nói “Chẳng phải các Bồ-tát tạm một hiện hạnh, cho đến liền xả bỏ giới Biệt giải thoát. Luận sư Cảnh nói “Như thuyết của Kinh Bộ, Thượng tọa Bộ, Chánh lượng Bộ v.v… trong Tiểu thừa đều nói rằng, trong ba phẩm triền, hễ Khởi bất cứ triền nào, phạm trọng tội đầu tiên liền xả Luật nghi. Chỉ có Thập Tụng, Tát-bà-đa Khởi ba phẩm triền, phạm tha thắng xứ, đều không xả giới.” Nay, Tông Chỉ của Đại thừa không đồng với hai phái kia: Nếu khởi triền phẩm thượng mới Xả tịnh giới, phạm thì không xả giới, cho nên chẳng phải các Bồ tát tạm một 36 hiện hạnh pháp tha thắng Xứ, tức Xả luật nghi. Như Tiểu thừa nói các “Bí-sô v.v… phạm pháp tha thắng, tức Xả giới Biệt giải thoát. Như Kinh Thập Luận chép: “Tỳ-kheo phạm trọng mà không Xả giới, vì để cho người tục sanh kính tín đối với tăng, nên nói là phạm trọng không Xả. Đây là y cứ ở Khởi triền phẩm trung phạm. Dưới đây Quyết Trạch nói trong năm duyên Xả giới rằng “Hoặc do Xả đối tượng Học Xứ, là Tác ý Xả giới, hoặc do phạm tội căn bản, nên Xả giới, nghĩa là vì y cứ ở triền phẩm thượng phạm. Kinh Niết-bàn nói “Các đệ tử của ta, hoặc nói vì phạm tội trọng nên Xả giới, hoặc nói không Xả đều không hiểu ý ta.”

Nay, xem tông Đại thừa qua thể văn luận này nói “Giới Thanh Văn hễ trái phạm tội trọng liền Xả. Giới Bồ-tát do thường khởi triền phạm mà về sau mới Xả, ý đại khái đồng nhau.”

Luận sư Cảnh lại nói “Như thuyết của Tiểu thừa nói, nay không dùng lời này.”

3. Nói về thọ lại

4. Nói về hai duyên xả giới Bồ-tát. Vì Quyết Trạch dưới đây, nên bốn duyên xả giới, khai, hợp đồng, đến luận kia sẽ giải thích.

Luận sư Cảnh nói “Quyển năm mươi ba dưới đây sẽ nói về năm duyên đối với giới Bí-sô. Trong đây, vì sao Bồ-tát không có gốc lành đoạn, xả? Một là hình mất, hai hình sinh Xả?”

Giải thích “Giới Bồ-tát từ phương tiện khéo phát. Lúc dứt tiền phương tiện khéo, đã mất đi phương tiện khéo, liền mất giới Bồ-tát. Vì không có lúc chính đoạn thiện mới xả, nên không có đoạn thiện xả. Bản tánh của Bồ-tát thuần thiện, vì nghiệp ác nhẹ, nên không có hai hình sinh. Xả phạm trọng xả, nghĩa là sẽ khởi triền phẩm thượng, phạm tha thắng xứ. Xả sở học xứ, tức sẽ lui sụt nguyện Bồ-đề giới Bồ-tát, mạng chung Xả, vì trải qua sự sinh không mất.

5. Nói về tịnh giới, trải qua sự sinh không mất, dù rằng thọ lại nhưng không gọi là mới được.

 

 (Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 41

Dưới đây là thứ hai, trong phần nói về giới khinh, văn chia làm ba:

1. Khuyên chung, biết tướng phạm, chẳng phạm. Tất nhiên, khi phạm tội, vì có phẩm xuống cấp, nên nói là nhuyến trung, thượng.

2. Giải thích riêng

3. Tổng kết không phạm.

Trong giải thích riêng, nếu dựa theo Cựu luận, có bốn mươi hai giới Khinh, Tân luận, có bốn mươi ba. Xét cả hai bản: Cựu luận không có bảy chi tánh tội sát sinh, trộm cắp thứ chín v.v…, vì hoàn toàn không chung, nên về số có bốn mươi hai. Tân luận thì có, nên đủ bốn mươi ba, trong đó, nếu giá tội thứ tám kia có chung, không chung, được chia riêng làm hai, lẽ ra nên nói là số có bốn mươi bốn.

Lại, giới thứ hai mươi chín kia, nghe Tạng Bồ-tát, thần lực của Chư Phật, không sinh tín hiểu. Về lưỡi đôi chiều trong chê bai, được chia riêng làm hai, lẽ ra số thành bốn mươi lăm, mà nay, cả hai chỗ vì đều hợp lại, nên nói rằng số có bốn mươi ba. Nếu theo Kinh Nhân Vương thì nói là có bốn mươi tám thứ, nhưng không nêu tên.

Trong kinh Phạm Võng có bốn mươi tám, mỗi thứ đều nói riêng, nhưng so với luận này đã nói về giới tướng có nhiều không đồng.

Phần lớn trong bốn mươi ba giới khinh này được chia làm hai:

1. Trái phạm bốn mươi hai giới Khinh, chướng sáu Độ Giới nhiếp thiện pháp.

2. Phạm mười một thứ Khinh, chướng bốn nhiếp, giới lợi ích chúng sinh .

Trong phần trước, Phạm bảy thứ Khinh đầu là chướng bố thí. Phạm bảy giới Khinh kế là chướng giới; phạm bốn giới Khinh kế, chướng tinh tấn, ba thứ kế, chướng định, tám thứ khinh sau, chướng tuệ.

Trong chướng thí có bảy: năm thứ đầu, chướng tài thí; một thứ kế là, chướng pháp thí; một thí sau, chướng Vô úy thí.

Một thứ đầu trong phần trước, luống qua ngày, đêm không cúng dường Tam Bảo.

Chế-đa, Hán dịch là Linh miếu, nói “Nếu người không cung kính v.v… Luận sư Trắc nói “Luận Quyết Trạch nói “Bồ-tát lúc siêng tu tập giới nhiếp thiện pháp, đại khái nên khéo quán sát sáu tâm:

Tâm khinh miệt

Tâm biếng nhác “câu hành” (đều hiện hành)

Tâm có chướng

Tâm siêng năng, mỏi mệt Tâm bệnh tùy hành Tâm chướng tùy hành.

Nói rông cho đến ba thứ trước của sáu tâm như thế sinh khởi mà chịu đựng là hoàn toàn có tội. Tâm bệnh tùy hành, tiến đến chịu đựng về sau thì hoàn toàn không có tội. Hai tâm còn lại, nếu sinh khởi rồi mà chịu đựng được thì hoặc là có tội, hoặc là không tội.

Lúc siêng năng tu tập trong giới làm nên lợi ích cho hữu tình, cần phải quán sát sáu xứ nhiếp hạnh, cái gọi là tài của mình, người suy sụp, tài thịnh, pháp thịnh. Trong đây, Bồ-tát làm pháp mình suy yếu để cho tài của người hưng thịnh, điều này không nên làm. Như khiến cho tài thịnh pháp suy cũng thế. Làm tài mình suy đồi, để cho tài người hưng thịnh, không dẫn đến pháp suy vi, điều này nên làm. Nếu dẫn đến pháp suy vi thì điều này không nên làm. Như khiến cho tài hưng thịnh, pháp hưng thịnh cũng thế. Lại, tạo ra pháp mình hưng thịnh, làm cho tài người hưng thịnh, thì điều này nên làm. Như khiến tài hưng thịnh, pháp hưng thịnh cũng thế. Nói rộng như Quyết Trạch kia.”

Nay, trong đây nói rằng “Không cung kính, chính là tâm khinh miệt kia.”

Trễ nãi, lười biếng, nghĩa là tức tâm đều hiện hành. Người vì ngộ nhận, quên mà phạm, tức là chướng tâm tùy hành. Phần bàn luận v.v… hỷ, lạc, hoặc có sáu tâm mà không gồm thâu thì sẽ không trái phạm. Nghĩa là người tâm điên loạn, tức tương đương với tâm bệnh tùy hành.

Tự mình không phạm, không thọ, minh Sơ địa trở lên không phạm. Như Bí-sô đã được bốn bất hoại tịnh. Thứ hai danh lợi không biết đủ thì chướng Bố thí của mình.

Luận sư Trắc nói “Nói có đại dục v.v… kia, nghĩa là tức tương đương với chướng thứ ba trong sáu tâm của Luận Quyết Trạch, nghĩa là vì dứt trừ sự sinh khởi ưa muốn kia v.v… do phát siêng năng, tinh tấn, nên tuy thường khởi hoặc, mà vẫn gọi là không phạm. Điều này tương đương với tâm mỏi mệt trong sáu tâm kia.”

Thứ ba đối với trưởng giả có đức, không đứng dậy tiếp đón, sinh bàn luận. Luận sư Trắc nói “Đây là nói về pháp thí.” Lại nói “Lười biếng, quên, nghĩa là nói chung tâm hỷ Vô ký. Nghĩa tâm pháp tạm thời không tiến tới, nói là lười biếng quên niệm (chẳng phải tùy phiền não, nên chẳng nhiễm phạm. Có mười câu như bị bệnh nặng v.v… trong không trái phạm.

Nói “Hoặc có trái phạm người nói chánh pháp, nghĩa là người sắp muốn. Pháp sư Thái nói “hoặc vì tuổi cao nên có trái phạm nói pháp. Pháp sư vì muốn bảo vệ người nói pháp, nên không đứng dậy đón rước.”

Thứ tư, người khác thí cho tiền của, dụng cụ, vì kiêu căng, ngạo mạn, nên không nhận, cũng gây trở ngại cho việc bố thí của họ.

Sinh sắc có thể nhiễm: Vàng, gọi là sinh sắc, vì trước sau không đổi. Bạc, gọi là thể nhiễm, vì có thể nhiễm, biến đổi.

Hoặc còn biết người mê loạn đối với việc thí cho, nghĩa là người kia không muốn thí cho, chỉ do mê loạn, nên lầm loạn làm việc bố thí v.v…

Tùy xả, tùy thọ, nghĩa là đa số thí chủ ưa bố thí, hễ được của là cho ngay. Nếu tùy xả, liền thọ, do đó, nhất định thí chủ sẽ trở nên nghèo nàn nên họ chống đối không thọ thì không phạm.

Túy Đô Ba, Hán dịch dịch là chỗ Cao Thắng, là pháp keo kiệt thứ sáu, chướng ngại Pháp thí. Có tám trường hợp trong không phạm. Nếu theo Cựu luận thì trong trường hợp thứ bảy, được chia thành ba trường hợp, có riêng chữ “nếu”. Nghĩa là “Nếu” người độn căn kia khi nghe pháp mầu nhiệm, sâu xa, sinh tâm sợ hãi. “Nếu” biết, nghe rồi tăng trưởng tà kiến. “Nếu” biết, nghe xong, chê bai, thì lui mất.

Hoặc lại biết pháp kia vừa đến tay họ là chuyển đi khắp kẻ phi nhân, vì chẳng phải pháp khí, nên gọi là Phi nhân.

Cựu Luận rằng “Nhắm vào người ác nói.”

Đối với kẻ phá giới, người buông bỏ không làm việc lợi ích, gây chướng ngại cho Vô úy thí.

Kế là, trong phần nói về giới có bảy: Một già tội đầu là chung, không chung. Trước, nói về Học chung, sau, nói về Học không chung.

Sự nhỏ, nghiệp nhỏ, hy vọng nhỏ. Cựu luận nói “Lợi nhỏ, việc làm nhỏ, phương tiện nhỏ.”

Luận sư Trắc giải thích “Không thể tiếp nhận rộng đàn việt thí cho nhiều, khiến sinh phước thí cho, gọi là sự nhỏ. Không thể vì người có rộng điều cầu xin, gọi là nghiệp nhỏ. Không thể chứa của, dẫn dắt nhiều chúng sinh, gọi là phương tiện nhỏ.”

Lại giải thích “Trong năm Thiên giới, chỉ y cứ ba mươi việc có đồng, không đồng. Trong số đó, có mười một không đồng với Học nhỏ:

Xin ý cư sĩ chẳng phải bà con để.

Biết quá đủ mà còn nhận lấy y.

Quá ba lần, sáu lần im lặng,

Biểu hiện giận dữ mà vẫn tha thiết xin.

Đồ nằm thuần lông dê đen

Đồ nằm thuần lông dê trắng

Dưới sáu năm, đã sắm đồ nằm mới

Không may chồng tọa cụ cũ

Cất giữ vật quý báu

Xin bát

Tự xin chỉ sợi bảo người chẳng phải bà con dệt y.

Xin áo mưa và sử dụng quá trước thời gian.

Trừ mười một Học nhỏ này, các Học nhỏ khác đều là đồng có giải thích này mà lớn, nhỏ, thực hành riêng, chưa thể phán quyết nhất định.

Y-kiêu-thế-da, tiếng Phạm là nói Câu-Xá, Hán dịch là Kiển (cái kén tằm). Phương Tây không có chiếc kén tằm của thần nhà, chỉ có cái kén của thần dã. Kén tằm sản xuất ra tơ, dùng để dệt áo, gọi là Kiêu thế da y. Cựu luận nói là y Kiêu-xá-da, là dịch âm sai.

Bảy chi tánh tội thứ hai, hoàn toàn không chung. Bồ-tát vì chúng sinh mà dùng quyền hành thì không phạm. Nếu nhân giữ giới mà thiếu việc đem lại lợi ích cho chúng sinh thì dù có công hạnh lớn lao, cũng gọi là phạm.

Một đoạn văn này, ở Cựu Luận hoàn toàn không có, mà là do người dịch tách riêng ra. Nếu theo Luận sư Cảnh thì đoạn văn này lại thuộc về giới đầu tiên trong tám. Nay, tìm kiếm ở cách hành văn, cũng có thể đồng với giải thích của Ngài, nhưng do tánh, tội già tội không đồng, nên lấy riêng làm một giới, trong đó, trước nêu chung, sau giải thích riêng thành bảy.”

Luận sư Trắc nói “Sát sinh trong đây là y cứ ở Bồ-tát địa lớn. Nếu bát địa trở lên, thì trong bất cứ lúc nào cũng thường nhập quán, nên chỉ có sát sinh của tâm thiện. Thất Địa trở xuống, vì có Địa xuất, nhập quán, nên được có tâm ký sát vô , nên chẳng phải ở Địa tiền.”

Thứ nhất, Hỏi “Bồ-tát Địa thượng không đọa vào Địa ngục, vì sao nói “Nếu ta cắt đứt mạng sống chúng sinh ác kia, thì sẽ đọa địa ngục?”

Giải thích “Đây là giả thuYết-mà luận, nếu y cứ sự thật thì bất sinh.”

Bồ-tát xuất gia đối với giới dâm, tất cả không nên làm. Người tại gia được làm. Bồ-tát xuất gia vì bảo vệ đối với sự chê bai nặng nề của thế gian, nên ngăn cấm không cho.

Đối với nói dối rằng “Vì giải thoát cho mạng sống của nhiều hữu tình, nên nói dối.”

Thứ hai, Hỏi “Cũng có Bồ-tát vì tai nạn của mạng mình, không dựa theo cảnh sở tri chính đáng mà nói dối, đâu riêng vì người khác?”

Nói chung, dù các Bồ-tát vì sự khó khăn của mạng mình, cũng có nói dối, không theo cảnh sở tri chính đáng, nhưng ở đây nói là vì cứu giúp hữu tình,vì biết mà tư duy phân biệt nên mới nói dối.

Thứ ba, nói về pháp tà mạng sinh khởi sự lừa dối, biểu hiện tướng mạo khác lạ.

Thứ tư, là điệu cử giao động.

Thứ năm, Khởi kiến lập luận, khiến cho nhàm chán Niết-bàn, đối với các phiền não không nên nhám chán, sợ hãi.

Thứ sáu, là tự thân Bồ-tát hay phát ngôn nặng nề rằng không tin tưởng ở người khác, không che chở, không rửa trừ.

Thứ bảy, nên thực hành phạm hạnh, trị phạt, gia hạnh lợi chúng sinh, không thực hành là trái phạm.

Tiếp theo là nói về chướng Nhẫn có bốn:

1. Giải thích về bị đánh đập, mắng nhiếc, không thể an nhẫn.

2. Đối với người khác, có đối tượng xâm phạm, do trái ngược, nên không từ bỏ, không rửa sạch.

3. Xâm phạm người khác đến, từ chối không nhận, gọi là phạm.

4. Đối với người khác, ôm lòng giận dữ, giữ mãi không bỏ.

Kế là, nói về chướng Tinh tấn có ba:

  1. Tâm nhiễm chế ngự chúng
  2. Trễ nãi, lười biếng, ham vui, ngủ nghỉ.
  3. Với tâm háo thắng, nói năng vô bổ luống qua ngày tháng.

Kế là, nói về chướng định có ba:

  1. Vì trễ nãi, thong thả, không cầu pháp thiền.
  2. Không dứt trừ năm cái làm chướng Định
  3. Tham vị Tĩnh lự.

Kế là, nói về chướng tuệ có tám, năm thứ trước trong tám, y cứ vào pháp; ba thứ sau, y cứ ở Nhân. Trong năm thứ trước có:

1. Khởi kiến, lập luận, không chấp nhận học Tiểu thừa.

2. Học Đại thừa chưa tinh tường đã bỏ Đại thừa, theo học Tiểu thừa.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Vì sao không nói rằng “Nếu đã nghiên cứu kỹ về tạng Bồ-tát xong, mới học tạng Thanh văn, chẳng phải là phạm?”

Đáp “Bởi Bồ-tát chỉ có ba thời học trong ngày, chưa có thời gian nghiên cứu kỹ về tạng Bồ-tát, là nghĩa bỏ Đại thừa, học Tiểu thừa, cho nên, kế là, giới dưới đây chia chung, không phạm. Ban ngày được chia ra ba thời: phần trên, tu lời Phật nói, phần giữa, học luận ngoại, tức Tiểu thừa song song với luận ngoại. Phần dưới, chia ra về trong nghĩa v.v….

3. Đối với giáo pháp Phật, chưa nghiên cứu tinh thông, mà học đòi thuần túy dị luận, tức luận phù phiếm của ngoại đạo, sách thế tục.

4. Vượt qua pháp Bồ-tát, tìm kiếm vụn vặt đạo khác. Với tâm sâu sắc nhìn cảnh đẹp thật sự, chẳng phải như thuốc cay mà tập gần gũi. Luận sư Cảnh nói “Như vì chữa bệnh, nên uống thuốc vị cay, liền chấp mắc vị cay. Vì nhận biết tà tông, tạm thời kẻ vạch, luận bàn, tức yêu thích tà luận. Lại, vị thuốc có tác dụng chữa bệnh tà. Luận bất chính của ngoại đạo hoàn toàn không có tác dụng sinh trí.”

Lại, nói “Chẳng phải như thuốc cay mà tập gần.” Pháp sư Cơ nói “Trạng thái của luận ngoại đạo này, đồng với thuốc cay, nên nhàm chán, trái bỏ, không thể gần gũi, là ý trong đây.”

5. Nghe tạng Bồ-tát, thần lực của Chư Phật không sinh tin, hiểu, thêm vào đó sự chống đối, chán ngán, chê bai, trong đó có hai:

  1. Nói về chê bai có phạm.
  2. Nói về tin tưởng mạnh mẽ không phạm.

Luận sư Cảnh nói “Đoạn văn sau đây, vẫn thuộc về thứ năm.” Pháp sư Khuy Cơ nói “Trong đây nói “Bồ-tát tin ở lời Phật nói, nên tin tưởng mạnh mẽ. Tự biết mình không có Tuệ nhãn, nên đối với những điều Đức Như lai nói, không nên sinh chê bai, chỉ biết mình không biết, không nên chê bai, mà tìm kiếm cái hay biết của Phật v.v… là ý trong đây.”

Nói “Ngôn ngữ mật ý của Như lai”, nghĩa là như Kinh Mật Tích Lực Sĩ nói “Bí yếu của Như lai có ba: thân mật, khẩu mật, ý mật. (Như kinh ấy Nói rộng).

1. Có ái, có nhuế, tự khen, chê người khác.

2. Nghe nói chánh pháp, luận bàn, quyết định chọn lựa, thường không lắng nghe.

3. Đối với việc thuyết pháp, tỏ thái độ khinh thường, chê bai, cười nhạt.

Trên đây, ba mươi hai giới khinh, chướng sáu Độ Giới nhiếp thiện pháp.

Từ đây trở xuống, có mười một thứ Khinh, chướng bốn Nhiếp, giới Nhiếp hữu tình , trong đó, 1) Hai chướng Đồng sự. 2) Một chướng Ái ngữ. 3) bốn thứ kế là, chướng bố thí, ) bốn thứ sáu, chướng lợi hành.

Trong phần trước, một thứ đầu, không giúp cho sự nghiệp, một thứ kế là, không chung bệnh hoạn. Pháp sư Cơ nói “nếu theo mười một thứ tướng của quyển trước thì không nói rộng, đã nói như trước. Nay, trong đây, chỉ là mười một tướng kia:

1. Đối với sự nghiệp, đồng giúp đỡ.

2. Làm bạn giúp cho khổ. Trong đây, không nói thứ sáu, sợ cọp, sói, sư tử v.v… Nếu dựa theo quyển trước thì bất luận rộng, lược. Giúp cho khiến được niềm vui nhất.

Nói về cứu giúp sợ sư tử v.v… có hai giải thích:

1. Giải thích “Như Luận địa trì bản cựu dịch nêu tên ba v.v… của mười một tướng.”

2. Giải thích “Như trong phần sơ lược của luận này giải thích về mười một tướng là mười một.”

Sự gặp gỡ ở đây khác nhau, nghĩa là sự việc cho vui, cứu khổ khác nhau, nên trong đây được chia làm hai:

1. Quyển trước vì đồng là giúp đỡ, nên kết hợp nói là trong đây do chia giúp đỡ làm hai, nên không nói là sợ sư tử v.v…

2. Lại, tức giống nhau ở chỗ cùng mất tài vật, nên không nói. Quyển kia vì khiến giúp đỡ, nên nói về sợ sư tử v.v…

Lại, quyển bốn mươi ba dưới đây với mười một tướng sơ lược trước đồng nhau, dù chia giúp đỡ làm hai nghĩa, nhưng chỉ là thứ nhất, hoặc là hai, tức mười hai tướng, chứ chẳng phải mười một tướng.

Hỏi “Vì sao không nói về mười một tướng trong ba mươi hai giới sơ lược mà mười một tướng trong đây để làm trực thuộc?”

Nghĩa là “Trong ba mươi hai giới sơ lược, do sau Ba-la-mật gồm thâu riêng, nên không lấy mười một tướng thuộc. Nay, mười một tướng này, mỗi tướng đều có đủ Độ, nên không đồng với ba mươi hai giới sơ lược ở trước. Nghĩa của ba mươi hai lược giới hẹp, nghĩa trong đây rộng.

Dưới đây, là tổng kết không phạm.

Trên đây, đều là phần thứ nhất nói về người khác chính thọ xong.

Dưới đây là thứ hai, chuyên thuần túy thủ hộ, do ý cầu học khéo thanh tịnh, nghĩa là tâm ưa cầu thọ Giới luật nghi.

Ý ưa Bồ-đề, nghĩa là tâm cầu thọ Giới nhiếp thiện pháp. “Nhiêu ích…” trở xuống, tâm cầu thọ giới Nhiếp hữu tình .

“Giả sử có…” trở xuống, là thứ ba, phạm rồi, mà biết ăn năn. Trước lược, sau rộng.

Tất cả trái phạm đều là ác tác. Luận sư Cảnh nói “Hoặc Khinh, hoặc trọng đều có thể biết chừa bỏ, đều gọi là ác tác.” Luận sư Trắc nói “Tức là thuộc ác tác thứ năm trong bốn mươi lăm nhóm tội Khinh của Bồ-tát.”

Về nghĩa ngữ biểu v.v… Luận sư Trắc nói “ Nghĩa là chủ thể hiểu ngữ, biểu này chẳng phải người điếc, mù v.v… lớn, nhỏ, dù khác, nhưng vì đồng là người tu hành, nên vẫn được đối diện.”

Trên đây là nói chung về chính thọ giới từ người khác.

“Lại, các Bồ-tát… cho đến “nếu không hộ ngộ…” trở xuống, là thứ hai, nói tự chướng tâm thọ. Nếu theo Kinh Anh Lạc sẽ có ba thứ thọ:

1. Phật, Bồ-tát ở đời, người trực kế là thọ, gọi là giới phẩm thượng.

2. Phật ở đời quá khứ, về sau, phàm phu theo thọ giới Bồ-tát, gọi là thọ giới phẩm trung.

3. Trong ngàn dặm, không có người thọ, phải qua nhiều sám hối, tiêu trừ, được tướng thiện, tốt đẹp, sau đó mới thọ, gọi là phẩm hạ.

Ngoài ra, tất cả như trước nên biết. Nghĩa là như trước, thọ giới xong, thỉnh bạch Chư Phật, Bồ-tát, việc tướng hiện v.v… học rộng về giới tướng, chuyên cần tinh tấn, hộ trì, sám hối, thanh tịnh trở lại, nói rộng như trước. Lại, trong đạo phạm giới của Bồ-tát không có vô dư.

Dưới đây là thứ hai, tùy theo vấn nạn, giải thích lại, trong đó, trước hết, phân biệt giới Thanh văn, nếu phạm bốn giới Trọng, thì trong hiện đời không thể sám hối, gọi là phạm vô dư. Nay, nói giới Bồ-tát Xả mà không thọ lại, nên nói về là không có phạm Vô dư.

Pháp sư Minh nói “Y cứ bốn pháp tha thắng xứ ở trước, gồm có:

  1. Do phạm tham.
  2. Do phạm keo kiệt.
  3. Phạm sân.
  4. Tà kiến.

Nếu phạm tà kiến, thì giới thứ tư không đồng, Thượng, trung đều

mất giới Bồ-tát. Nếu phạm sân, thì phạm thượng trung của giới thứ ba liền mất, phẩm hạ không mất. Nếu phạm keo kiệt, thì phẩm thượng của giới thứ nhất đều không mất. Người Thanh văn thì không như thế, nên nói rằng “Bồ-tát không có phạm Vô dư.”

Một cách giải thích khác “Trong giới Thanh văn, tất cả phiền não đều phạm giới, nên nói rằng “nói là phạm Vô dư.” Trong giới Bồ-tát, Khởi phiền não tham, hoặc không phạm. Nếu vì đem lại lợi ích cho hữu tình mà tham thì không phạm giới Bồ-tát, vì lợi ích cho riêng mình, thì phạm giới Bồ-tát. Nếu phiền não sân vì mình, vì người khác, đều có thể phạm giới, nên nói rằng “không có phạm Vô dư.”

Nói về tham, sân trong Kinh độ vô cực, đối nhau phân biệt mất giới. Sân phẩm thượng, mất giới, phẩm trung hạ không mất. Phạm ba phẩm tham không mất giới.

Kế là, nói về phần giới hạn phải thọ. Phần nhiều lẽ ra sân chung mà Khởi phạm, chứ chẳng phải do tham mà Khởi. Luận sư Cảnh nói “khởi sân thì phạm giới, khởi tham, không phạm. Nếu theo Cựu luận, như đức Thế tôn nói “Bồ-tát Khởi sân, phạm sân não, nên thọ lại, chứ chẳng phải thọ phạm tham dục.”

Luận sư Trắc nói “Hỏi “Ở trước đã nói là phạm trong bốn pháp Thắng xứ khác cũng mất”, sao ở đây lại đáp “Nếu theo Cựu luận thì chỉ nói là phạm nhiễm, mất giới chứ chẳng phải tham. Cho nên, trước sau trái nhau.”

Đáp “Nay, tân luận, đã nói rằng phần nhiều ở sân, tức biết phạm tham cũng mất. Cho nên, hai văn trước, sau không trái nhau.”

Nói “Chẳng phải phi sở phạm: là phân biệt chẳng phải sân mà khởi…” trở xuống, là nói về phạm khinh, trọng, như phần nhiếp sự, lẽ ra phải biết rõ. Trong Cựu luận lầm rằng “như phẩm Bốn nhiếp, nên phải biết rõ.” Pháp sư Viễn nói “Trong phẩm Bốn nhiếp không có nghĩa này, chẳng hay chỉ cho Bốn nhiếp của Kinh nào ư?”

-“Sư kia không biết luận này có riêng phần nhiếp sự đã nói trong quyển thứ chín mươi chín.”

Ở trên, nói y theo giới để tu học. “Như thế, Bồ-tát chính đã dựa vào tất cả Tỳ-nại-da của mình…” trở xuống, là thứ hai, nói về thắng lợi của Học giới, được ba viên mãn.

“Như thế, nếu giảng nói lược, rộng v.v…” trở xuống, là đoạn văn lớn thứ ba, là văn kết giới của tại gia, xuất gia trên.

“Như thế, giảng nói rộng, kết phần nói rộng trên, văn nói về ba nhóm giới.”

BẢN LUẬN QUYỂN 42

Giới khó thực hành có ba: Y cứ ở Cựu luận trong thứ ba tức có ba “Tất cả”:

1) “Tất cả” tu hành’ 2) “Tất cả” trụ định; 3) “Tất cả” nhớ nghĩ. Tất cả môn giới có bốn:

1. Giới Chánh thọ, tức chính thọ từ người khác và tịnh tâm thọ của mình.

2. Giới bản tánh, nghĩa là Thập Tín trở xuống, do năng lực tánh chủng mà Khởi thân, ngữ, thường chuyển thanh tịnh.

3. Giới quán tập, tức nhập Thập Tín trở lên, trong Tập chủng tánh, đã có giới thể lợi mình.

4. Giới phương tiện tương ưng, tức giới lợi người của bốn Nhiếp sự.

Thiện sĩ giới có năm thứ, như văn. Trang Nghiêm Thi-la trong tất cả giới, như Địa Thanh Văn.

Người Cựu luận đều biết trong mười bảy, tự có Địa Thanh văn đã làm xong sự Trang Nghiêm, nghĩa là nói chỉ riêng cho Địa Thanh văn trong kinh Tiểu thừa làm xong.

Bảy thứ như giới chỉ tức v.v… Luận sư Cảnh nói

1. Là Giới luật nghi.

2. Giới chuyển tác, tức hai nhóm giới: là Nhiếp thiện và Nhiếp sinh.

3. Giới phòng hộ, tức hộ chung hai giới trước, dùng làm thứ ba.

Bốn giới sau là quả.

4. Giới Đại sĩ tướng Dị thục, tức ba nhóm giới được tướng Niếtbàn.

5. giới Tăng thượng Tâm Dị thục, tức ba nhóm giới trước được quả của hai cõi trên.

6. Giới Khả ái Khởi Dị thục, tức ba nhóm giới trước được quả trời, người cõi Dục.

7. Giới Lợi hữu tình Dị thục, đây là quả của giới lợi tha ở đương lai.

Pháp sư Thái nói “Chỉ là chỉ trì. Giới chuyển tác là tác trì chuyển gọi là Khởi. Có đối tượng Khởi tác, gọi là giới chuyển tác .”

Luận sư Trắc nói “giới Tâm tăng thượng Dị thục là giới Định cộng, có thể cảm quả Dị thục của cõi Sắc, Vô Sắc.”

Giới Lợi hữu tình Dị thục , nghĩa là cảm quả thù thắng, báo của người, nhiếp lợi hữu tình.

Toại cầu giới, Cựu luận gọi là tức khổ giới, có tám thứ là thân và ngữ bảy nghiệp đạo bất thiện, và tay cầm phương tiện sát: cục đất, gậy gộc v.v… dùng làm thứ tám.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Hỏi “Trong đây, vì sao không nói về ba nghiệp của ý?”

Nghĩa là “Nếu lấy ý ba, xen vào thân, miệng bảy tức là mười. Nếu mười thì sẽ không thành môn tăng số, do đó, không lấy. Môn tất cả thứ (môn nhất thiết chủng) ở trước có sáu thứ, bảy thứ. Lạc của hai đời sau có chín môn. Nay, Toại cầu này nhân từ trên đến đây hợp với nhau tăng thành tám, nên không lấy ý ba ở sau để thành mười thứ. Lại, bảy thứ trước đã phát ở thân, khẩu, không lìa ba thứ sau, có thể phát chủ thể phát ra nơi thân, khẩu, tất nhiên, phải do ba thứ sau, nên không nói.

“Nếu vậy, thì há không có khởi riêng ý ba sau hay sao?”

Nghĩa là “Dù có ẩn không nói, nhưng vì gồm thâu ở chủ thể phát ra trong bảy thứ trước, nên không nói. “

Trong giới của lạc hai đời, Luận sư Cảnh nói “Ngăn ngừa, nghiêm cấm là Giới luật nghi. Mở ra cho là giới Nhiếp thiện . Nhiếp thọ, điều phục là giới Nhiêu ích hữu tình . Với người không có lỗi, thì nên nhiếp thọ (thu nhận), kẻ có lầm lỗi, thì nên điều phục. Bốn thứ này đều là giới Độ, năm Độ còn lại đều là giới hạnh, lại là năm thứ. Nhờ giới được định, gọi là niềm vui trong hiện tại. Về sau, chứng đắc Bồ-đề, gọi là niềm vui ở mai sau.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Tức ngăn, cấm; khai cho; nhiếp thọ và điều phục là bốn; không lấy hai nghiệp thân, khẩu. Và năm Độ, không luận giới độ. Chín thứ này tức là giới Độ.”

Luận sư Trắc nói “Đầu tiên chia giới ra làm bốn; năm Độ sau là năm, hợp thành chín thứ. Hai thứ trước trong bốn thứ trước là hạnh lợi mình; hai thứ sau là hạnh lợi người, cũng có thể hai thứ trước là y cứ theo pháp để phân biệt: ác, là pháp ngăn thiện tức là khai. Hai môn sau, đối với người để phân biệt: hễ là điều thiện, thì nhiếp thọ; việc ác, thì khuất phục ngay. Bốn thứ này là giới Biệt giải thoát.

Tĩnh lự trong năm thứ sau, đều hiện hành là Định cộng giới. Tuệ đều hiện hành là Đạo công giới.

Ba thứ Thí, tinh tấn đều hiện hành, cũng thuộc về Biệt giải thoát tùy hành.

Giới thanh tịnh có mười. Luận sư Cảnh nói “Một giới đầu là thọ; giới thứ mười, là nói về Trì, tám thứ khoảng giữa là nói về lìa chướng 8 của giới.”

Nói “Hôn trầm không thái quá và Điệu cử không thái quá, nghĩa là do Hôn trầm thái quá, nên trái phạm về giới. Dù cho sinh tàm, quý, cũng còn lớp mỏng. Nay, xa lìa tàm, quý là do điệu cử thái quá, nên chẳng phải chỗ nên hối mà sanh tàm quý, nên nay cũng xa lìa.”

Pháp sư Thái nói “Hôn trầm, Điệu cử thái quá, nghĩa là nếu lúc Bồ-tát phạm giới, khởi tàm, quý tăng thượng. Lại có người thật sự không phạm giới, liền sinh tàm quý, gọi là tàm quý phi xứ, là tâm điệu cử lớn, Bồ-tát cũng xa lìa.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Mười tướng, như Luận Địa Trì nói: thứ hai trong đây, luận kia chia làm hai: Hôn trầm thái quá là một, trao cử thái quá là hai. Gồm thâu quỹ tắc thứ sáu này với tịnh mạng thứ bảy làm một, thật ra, về nghĩa quỹ tắc và tịnh mạng khác nhau, không thể là một, điều mà luận kia đã lầm.

Giới trao cử thái quá trong thứ hai này, nói là chẳng phải chỗ ấy, nghĩa là trì giới thái quá, bèn trì chẳng phải chỗ, chỗ có thể trì, gọi là lỗi của chỗ. Chỗ không thể trì của có thể trì này là “phi xứ” (chẳng phải chỗ). Nếu Điệu cử thái quá, vượt qua đây, đến “phi xứ” thì có thể sinh hối quý.

Luận sư Trắc nói “Như Quyết Trạch quyển bảy mươi lăm ở dưới chép “Lại nữa, đã nói mười thứ Thi-la thanh tịnh trong phẩm giới ở trước. Phải biết rằng, một giới đầu tiên là ý lạc thanh tịnh; chín giới khác là gia hạnh lại có năm thứ:

  1. Không có gián đoạn, thiếu gia hạnh.
  2. Tu khắp gia hạnh
  3. Hướng chung gia hạnh) Giúp đỡ gia hạnh 5) Thủ hộ gia hạnh.

Thứ hai, thứ ba là gia hạnh đầu; thứ tư là gia hạnh thứ hai; thứ năm là gia hạnh thứ ba; thứ sáu, thứ bay, thứ tám, thứ chín là gia hạnh thứ tư; thứ mười là gia hạnh thứ năm.

Thứ hai, thứ ba kia trong phần nói về gia hạnh Vô gián, một thứ trước, nói về lìa hôn trầm, Điệu cử, để nói về gia hạnh Vô gián, một thứ sau, lìa biếng nhác, v.v… để nói về gia hạnh Vô gián.

Nói “hôn trầm thái quá”, là nói về lìa phạm nhỏ, sinh ra hối quý, gây trở ngại cho hạnh lợi người.

Trạo cử thái quá v.v… Nghĩa là cảm thấy hổ thẹn đối với chỗ chẳng phải giới. Chẳng hạn như giới gà, giới heo v.v… của ngoại đạo.

Nói “Năm chi không buông lung như trước đã nói”, nghĩa là cho trì đầu tiên của phẩm Giới ở trước, nghĩa là ba đời đều hiện hành và những việc đã làm trong thời gian trước, đều nói rõ về hạnh Tùy hành không buông lung. Về phần nhiếp sự sau cũng nói về hạnh đó.

Nếu y theo luận bản cựu dịch thì thứ sáu, thứ bảy hợp thành một. Nay, chia làm hai: Thứ hai, thứ ba hợp thành thứ hai. Y cứ ở Quyết Trạch thì Vô gián thiếu gia hạnh và gia hạnh trợ bạn, biết được sự khai, hợp của luận bản cựu dịch là sai lầm.

Trên đây, đã giải thích về chín môn tịnh giới xong. Thứ hai dưới đây trong phần nói về sự thắng lợi của giới, gồm có:

1. Nói về giới Đại Thi-la sẽ được Bồ-đề.

2. Nói về chưa thành Phật đến nay, được năm thắng lợi. Hai thứ đầu trong năm là thắng lợi của hiện báo, thứ ba, thứ tư là thắng lợi của báo đời sau, thứ năm chung cho thắng lợi của hiện tại và đời sau.

Dưới đây là thứ ba, nói việc làm của giới hạnh, trong đó:

  1. Nhiếp chín làm ba.
  2. Nói về ba nhóm giới, mỗi nhóm đều có việc đã làm.
  3. Nói về gồm thâu hết việc đã làm.

Nói “Luật nghi có thể an trụ tâm. Nghĩa là nhờ giới được định, gọi là phẩm an trụ trong tâm. Đoạn lớn có ba: Hai đoạn trước đã xong. Trong phần kết của đoạn thứ ba nói “Chỉ có ngần ấy tịnh giới của Bồtát”, là nhắc lại chín môn trước, chỉ có ngần ấy lợi của tịnh giới là nhắc lại môn thứ hai, chỉ có ngần ấy việc mà tịnh giới đã làm, là nhắc lại môn thứ ba. Trừ các môn này, không có quá tăng, nghĩa là nói gồm thâu khắp hết, kết không có thêm, bớt.

“Quá khứ…” trở xuống, kết các giới trước, ba đời đều cùng tu học.

PHẨM NHẪN

Đối với cảnh mà tâm an, gọi là Nhẫn. Phẩm này nói rộng, nên gọi là phẩm Nhẫn.

Trong văn, trước là hỏi; kế là; giải thích, sau là kết, khen công năng của Nhẫn.

Trong giải thích có hai:

  1. Chia ra chín chương
  2. Dựa vào chương giải thích.

Trong tự tánh nói “Hoặc sức tư duy lựa chọn là đối tượng nương tựa v.v… Luận sư Cảnh nói “Cho đến khả năng có thể nhẫn kẻ oán, hại, thể nhẫn không lợi ích của người. Đây là đối với tất cả khổ cụ, có khả năng nhẫn chịu, nên nói rằng khắp tất cả, đối với tất cả kẻ oán thù v.v… vì có thể nhẫn, nên nói rằng khắp tất cả. Dùng thế văn này để giải thích riêng không lợi ích của người, cũng có thể lấy sức tư duy, lựa chọn v.v… để nói về nhẫn không lợi ích cho người.”

“Khắp tất cả…” trở xuống, là nói về an thọ Khổ nhẫn. “Cùng khắp tất cả v.v…” trở xuống, là nói về tư duy giải nhẫn.

Nói “Do không có tâm nhiễm, nghĩa là không quên thiện căn.”

Vì thuần thương xót, nghĩa là bi “duyên” chúng sinh, tức văn sau đây thuận với giải thích ở trước.

Pháp sư Thái thuật lại bốn giải thích:

1. “Nhẫn Tư Tuệ, gọi là sức tư duy lựa chọn. Nhẫn tu tuệ, gọi là Tự tánh, do tự tánh của tu tuệ có thể kham nhẫn.”

2. “Nhẫn của Địa trước, nghĩa là sức tư duy lựa chọn, học lâu, thành tựu, gọi là tự tánh nhẫn.

3. Nhẫn trước khắp tất cả đều có thể nhẫn, nhẫn sau, khắp tất cả đều có thể nhẫn. Trong một chúng sinh có nhiều việc, nghĩa là hoặc việc đánh đập, hoặc mắng nhiếc v.v… chẳng phải một.”

4. Pháp sư Khuy Cơ nói “Về thời gian, chung cho ba cõi, gọi là Biến nhẫn; về không gian, nhuần thấm cả bốn sinh, là Phổ nhẫn. Lại, chung khắp cả hữu tình là Biến nhẫn, chung cho cả kẻ oán, người thân, là Phổ nhẫn. Như thế, Vô lượng phân biệt!

Do tâm không có nhiễm, có thể thương xót, nghĩa là theo Địa Trì, tâm không có nhiễm, tức Vô tham. Do nhẫn dựa vào Vô tham và tâm bi, nên có thể nhẫn, nay, tâm không có nhiễm. Tâm nhiễm tức tham cũng được. Lại, tức sân cũng được.

Luận sư Trắc nói “Sức tư duy, lựa chọn là nương tựa, nghĩa là nói về nhân của Nhẫn kia. Hoặc do tự tánh, nghĩa là đối với duyên, chính nêu ra thể nhẫn của tự tánh, trong đó, đầu tiên, chính là nêu ra Thể của Nhẫn. “Khắp tất cả v.v…”, nghĩa là có thể nhẫn đối với hữu tình.

Về sau, khắp tất cả v.v… Nghĩa là đối với pháp, có thễ nhẫn, do tâm không có nhiễm, vì hay thương xót, nên có thể nhẫn, nghĩa giải thích thành nghĩa nhẫn.

Do tham ái nhiễm thân mình, nên hễ gặp phải hoàn cảnh ngang trái thì nổi giận ngay. Chính vì thế, nên dựa vào tâm không có nhiễm,có thể có kham nhẫn. Do sân, không có thương xót chúng sinh, hễ gặp phải cảnh ngang trái, thì liền phẩn nộ, cho nên, nương tựa thương xót, có thể có khả năng nhẫn.

Trong tất cả nhẫn, đầu tiên, là gạn; kế là, giải thích; sau là kết trước, chia ra sau.

Trong giải thích có hai:

1. Y cứ ở nhân chia làm hai

2. Y cứ ở cảnh, chia làm ba, trong đó, đầu tiên, y cứ cảnh được chia làm ba; sau, dựa vào chương nêu, giải thích.

Trong phần trước, gồm có:

1. Nhẫn nại khi bị người khác oán ghét hãm hại. Luận sư Cảnh nói “Dùng Vô nhuế và bi “duyên” chúng sinh làm tánh.

Luận sư Trắc nói “Dùng Vô si và tuệ làm tánh.”

2. An thọ Khổ nhẫn, dùng hai số tinh tấn và Tuệ làm tánh.

Ba pháp: Tư, thắng giải, nhẫn. Luận sư Cảnh nói “Dùng trí tuệ, vô duyên đại bi làm tánh. Luận sư Trắc nói “Dùng hai số định, tuệ làm tánh.”

Trong dựa vào chương để giải thích, trước là giải thích về sự nhẫn nại, sự oán hại của người khác, văn được chia làm ba: Đầu tiên, là hỏi, kế là, giải thích, sau là kết.

Trong giải thích có ba:

  1. Nêu cảnh nhẫn
  2. “Nên biết rằng, học như thế v.v…” trở xuống, là đối cảnh tu nhẫn.
  3. “Sao gọi là nhẫn?” trở xuống, là giải thích nhẫn, nghĩa là .

Đầu tiên, nói là mạnh mẽ, nhạy bén, nghĩa là khổ nặng. Vô gián, là khổ nối tiếp nhau chủng chủng, nghĩa là nhiều nỗi khổ, thời gian dài, nghĩa là nỗi khổ lâu xa. Các khổ từ tha sanh hiện tiền: là bốn khổ trước hiện tiền ép ngặt.

Trong đối cảnh tu nhẫn có hai: Trước, tu ba quán; sau tu năm tưởng.

Nói ba quán là:

1) Quán tư duy nghiệp đã qua của mình. 2) Quán tánh Khổ của các hành 3) Quán dùng thứ nhỏ chú thành to.

Nói “Ở trên tánh Khổ, lại tăng là Khổ”, nghĩa là tất cả pháp hữu lậu lấy Khổ hạnh làm tánh, tức trên tánh Khổ này, vì thêm Khổ Khổ, Khổ hoại , nên nói như thế. Nhưng trong năm tưởng: 1) trước hết, nêu sơ lược.

2) Giải thích rộng.

Thân giáo quỹ phạm, tôn giống với tôn v.v… Hòa thượng, gọi là Thân giáo sư. Xà-lê gọi là Quỹ phạm sứ. Phần lớn, người đồng học và có đức, gọi là Tôn giống dưới đây gọi là Tợ tôn.

Trong tưởng Vô thường nói rằng “Các hữu tình, hoặc sinh hoặc trưởng. Pháp sư Khuy Cơ nói “Sinh, nghĩa là hóa sinh, vì loại tăng trưởng. Trưởng, nghĩa là ba sinh còn lại tăng trưởng dần.”

Nay, giải thích “Đầu tiên sinh ra, lớn lên, cuối cùng trở về với cái chết.”

Trong giải thích danh, Luận sư Cảnh nói “Tự không giận dữ, không báo óan người khác, nghĩa là đối với oán có thể nhẫn.”

Cũng không tùy miên chảy rót, thường nối tiếp nghĩa là giả sử tạm thời Khởi sân, nhưng nối tiếp nhau không lâu. Luận sư Trắc nói “Tự không có giận v.v… là nói về tâm Vô thượng. “Cũng không tùy miên v.v…”, là nói về hạt giống đoạn.”

Kế là, giải thích An thọ Khổ nhẫn, văn được chia làm ba: 1) Hỏi, 2) giải thích, 3) kết.

Trong giải thích có ba:

  1. Nêu xưa để so sánh nay, tiêu biểu chung về chủ thể nhẫn (năng nhẫn).
  2. “Thế nào…?” Trở xuống, là giải thích rộng tất cả sự Khổ có ba.
  3. “Lại, các Bồ-tát dù xúc chạm các khổ…” trở xuống, là khen chung, chỉ rõ sự vượt hơn.

Y cứ giải thích rộng, trước, nêu tám Khổ, kế sau, là giải thích theo thứ lớp.

Y, nghĩa là bốn y, tức là Y phấn tảo. Thường mặc đi khất thực, ngồi trong gò mả, dưới gốc cây, là bệnh, thì chữa trị. Bốn thứ này gọi là các vật lặt vặt.

Trong Khổ xứ của thế pháp có chín, bốn thứ trước là bốn trong tám thế pháp, tức duyên trái mà hợp, nên Khổ. Trong đây, bất luận bốn thứ như lợi v.v… Do đó, nếu nhân tướng chẳng phải Khổ, nên về sau, chính vì pháp ái lìa, nên sinh ra Khổ.

Pháp sư Thái nói “Hoại của hoại pháp , nghĩa là đối với pháp có thể hư hoại, lúc hư hoại sinh ra khổ. Đối với pháp có thể hết, khi hết sinh ra Khổ, cho đến pháp có thể chết, lúc chết, sinh ra Khổ.”

Tám pháp như thế, một lúc gặp duyên, gọi là “hoặc chung”. Duyên riêng một thứ mà hội ngộ, gọi là sai khác.

Luận sư Cảnh nói “Hoại hết, nghĩa là tiền của, dụng cụ bên ngoài, chỗ ở, ruộng, vườn, rừng cây, nhà cửa, y phục đều hư hoại hết, gọi là dựa vào Khổ xứ ở trên. Già, bệnh, chết là Khổ hoại của báo bên trong. Pháp sư Khuy Cơ nói “Pháp của hoại, pháp là tánh của các pháp dục là pháp hư hoại, đến lúc hư hoại, gọi là pháp hoại hoại pháp.

Pháp hết, nghĩa là thể của các pháp dục đến hết, không có lúc nào là hết. Pháp hoại trước cũng có chất, pháp hết hôm nay hết, không có chất, già v.v… y cứ so sánh sẽ biết.

Hỏi “Nếu vậy, pháp hết hết, với pháp tử tử, pháp hoại hoại với pháp bệnh bệnh có gì khác nhau?”

Nghĩa rằng “Một bên là pháp ngoài, còn một bên là pháp trong, cho nên khác nhau.”

Trong pháp nhiếp bảy. Luận sư Cảnh nói “Năm pháp trước là Văn tuệ, người Tiểu thừa nói “Thọ trì kinh, luận là Sinh đắc tuệ.” Đại thừa thì cho là Văn tuệ thọ trì ba tạng. Thứ sáu là Tư tuệ, thứ bảy là chỗ lợi người của tu tuệ.”

Khổ có mười một thứ như trước nói, nghĩa là “mười một thứ sự như giúp đỡ v.v…” trở xuống, giải thích về pháp, nhẫn tư thắng giải đầu tiên là nói tám chỗ sanh thắng giải. Sau, là nói do hai nhân duyên mà nhẫn được an lập.

Trong phần trước nói rằng “Đối với tất cả pháp, có thể tư duy, lựa chọn là nói mới tu quán, do khéo quán sát v.v… là nói “tu quán cuối cùng thành” trở xuống, là phát ra thể của cảnh. Nếu theo Cựu luận thì không đặt để số một, hai v.v… là do người Cựu luận, cho rằng, Tam Bảo được chia làm ba, nhân, quả hợp thành một, không đến tất cả sở tri, hành xứ được thích ứng là một số riêng mà thành tám.

Nay, tám số này như phẩm lực chủng tánh ở trên đã nói rộng, chỉ phẩm kia đã nêu thứ lớp của số, so với đây hơi khác. Thứ hai của xứ kia là oai lực. Thứ ba, nghĩa chân thật. Nay, oai lực này là thứ ba, nghĩa thật là thứ hai. Văn rất dễ hiểu.

Do hai nhân duyên:

  1. Vì tập quán trong thời gian dài, nghĩa là phẩm lực tánh nói rằng: “Vì phần nhiều tu thắng giải.”
  2. Vì chứng thiện tịnh trí: phẩm Lực Tánh nói “Vì chứa nhóm nhẫn mạnh mẽ, nhạy bén.”

Trong nhẫn Thiện sĩ, như Pháp sư Viễn nói “các Bồ-tát cho đến trong thế giới trời, là một; “Thấy thắng lợi” trở xuống, là hai; “khuyến hóa v.v…” trở xuống là ba; khen ngợi nhẫn là bốn; thấy năng thực hành nhẫn là năm.”

Pháp sư Cảnh và Thái đồng trường hợp này.

Luận sư Trắc nói “Văn chia làm ba:

  1. Nói chung về thấy thắng lợi của Nhẫn.
  2. “Khả năng có thể nhẫn” trở xuống, chính là nói về nói năm Nhẫn.
  3. “Thấy thắng lợi” trở xuống, là nói về việc làm thắng lợi.

Nói năm nhẫn: Trước ở đời đương lai, sẽ không có nhiều kẻ thù là một. Không có nhiều tai nạn thình lình là hai. Có hỷ, lạc là ba, lúc chết không có ăn năn là bốn. Sau thân hư hoại v.v… là năm. Trong Kinh Thiện Giới nói “1) Không chấp mắc tâm ác, tâm sân, cho đến năm là chết rồi, thọ niềm vui trời, người.”

Thứ ba, trong phần nói về việc làm thắng lợi có bốn câu: Câu đầu là lợi mình; ba câu sau là lợi người. Nay, dựa vào ba câu sau để giải thích, tức vì dựa vào thấy năm điều lợi, nên sinh Nhẫn, gọi là năm nhẫn. Sáu thứ, bảy thứ trong tất cả thứ nhẫn. Thế nào là sáu thứ? Sáu thứ đó là:

1) Phi ái Dị thục, vì sợ nên thực hành Nhẫn.

2) Thương xót các hữu tình trực tiếp khéo thực hành nhẫn.

3) Đối với Vô thượng Bồ-đề, khởi tâm mạnh mẽ, nhạy bén, viên mãn nhẫn độ mà năng thực hành Nhẫn.

4) Pháp xuất gia thọ nhẫn. Nói “Do pháp thọ. Luận sư Cảnh nói

“Nói là vì muốn thọ nên được chánh hạnh.”

5) Đã tập xuyên suốt, nay an trụ nhẫn.

6) Biết pháp nhẫn không có hí luận.

Thế nào là bảy thứ? Bảy thứ đó là:

1. Nhẫn không lợi ích, tức nhẫn nại sự oán hại của người khác.

2. Từ nhẫn tất cả, tức An thọ Khổ nhẫn. Bốn thứ này đối cảnh phân biệt.

3. Nhẫn tất cả xứ.

4) Nhẫn tất cả thời. Phân biệt hai thứ thời và xứ này.

5) Nhẫn thân.

6) Nhẫn ngữ

7) Nhẫn ý.

Đây, tức là phân biệt ba nghiệp. Sáu thứ trước là hạnh tự phân biệt; bảy thứ sau là hạnh thắng tấn, gồm mười ba thứ.

Trong Toại cầu nhẫn, trước, giải thích tám thứ, gọi là Toại cầu nhẫn. Sau, trong giải thích về danh, nghĩa của nhẫn, có tám. Luận sư Trắc nói “Ba thứ trước là nhẫn nại sự oán hại của người, chỉ trừ tự não. Năm thứ sau là An thọ Khổ nhẫn, trừ não của mình, người.

Trong phần trước, đối với những người Khổ, đến cầu xin, người bị điều ác ép ngặt có thể nhẫn. Kinh Thiện giới nói “Người nghèo hèn, thường theo cầu xin Bồ-tát. Dựa vào pháp Đại bi, nhẫn không gây tổn não, do nương tựa giáo pháp và nương tựa đại bi, nên có thể nhẫn. Nghĩa là khả năng có thể nhẫn nại, dứt trừ các Khổ, các Khổ của hữu tình, người đã có siêng năng, Khổ nhọc. Do hữu tình kia có các Khổ, nên Bồ-tát dựa vào những nỗi Khổ đó, không hề cảm thấy mệt mỏi, có khả năng chịu đựng.”

Nếu đối với hữu tình có tổn não, do nhẫn nên xa lìa được. Cựu luận chép: “Việc nhỏ đã có thể kham nhẫn được lợi ích.”

Trong ưa nhẫn của đời khác này có chín. Luận sư Trắc nói “Cựu Luận sư cho rằng, sinh, già, bệnh, chết là tức bốn; lạnh, nóng, đói, khát hợp thành một, vì trừ không buông lung trước, nên có chín thứ. Nay, giải thích không đúng. Đầu tiên, trụ không buông lung là một; đối với các pháp lành là hai. Trường hợp khác, rất dễ hiểu. Lại, giải thích “Trụ không buông lung là trường hợp chung. Hoặc thân, hoặc tâm thì hợp thành hai. Trường còn lại rất dễ hiểu. Cảnh, Pháp sư Khuy Cơ đồng với giải thích sau, tức với điều kiện có thể nhẫn là thứ nhất. Kế là, lạnh, nóng là hai; đói, khát là ba; muỗi, rận là bốn; gió, nắng là năm; rắn, rít là sáu; thân cần cù, nhọc nhằn là bảy; Tâm nhọc mệt là tám; sinh, già là chín.

Trong thanh tịnh nhẫn có mười. Nghĩa là các Bồ-tát cho đến cuối cùng không đáp lại quả báo là một, cũng không có ý giận là hai; cũng không có oán ghét, hoài nghi ba; ý lạc nối tiếp nhau, cho đến chẳng phải thù oán, tự tánh ăn năn, từ bỏ năm, cuối cùng không khiến người khác, cho đến vừa từ bỏ, liền thọ là sáu; đối với việc không thể nhẫn, thành tựu tăng thượng tàm, quý mạnh mẽ, nhạy bén là bảy. Dựa vào có thể nhẫn, cho đến yêu thích mạnh mẽ, nhạy bén, nên yêu là tám.

Dựa vào không tổn não, cho đến ái lạc là chín. “Tất cả không nhẫn” trở xuống là mười.

Y cứ trong Luận địa trì bản cựu dịch, đặt số thứ nhất v.v…

Luận sư Cảnh nói “Tất cả không nhẫn, nghĩa là sân nhuế, đều là pháp giúp đỡ, nghĩa là nghiệp thân, ngữ đều sinh (câu sinh) với sân. Rằng, đều là pháp giúp đỡ pháp tâm, tâm số tương ưng với sân và các pháp như căn, trần v.v…”

“Vì đều được dứt trừ, nên lìa dục của cõi Dục”, do chín thứ nhẫn tư duy lựa chọn ở trước làm nhân mà sinh ngang đồng với mười nhẫn của sức tu tập, nên có thể dứt trừ dục phiền não của cõi Dục, nhập địa Tĩnh lự.

Quyển bảy mươi lăm chép: “Lại nữa, trong mười nhẫn Ba-la-mật đa thanh tịnh, đại khái có hai thứ thanh tịnh, nghĩa là chín thứ nhẫn trước, gọi là sức tư duy, lựa chọn thanh tịnh; nhẫn thứ mười, gọi là sức tu tập thanh tịnh. Sức tư duy lựa chọn thanh tịnh lại có bốn thứ:

1. Xa lìa tội, sinh thanh tịnh

2. Tội kia không hiện hành, thanh tịnh

3. Không có tội sinh thanh tịnh

4. Xa lìa nhân duyên thanh tịnh kia, một thứ, hai thứ, ba thứ, bốn thứ, như thứ lớp của các thứ đó. Phần thứ ba ở dưới, là kết khen công đức.

PHẨM TINH TẤN

Khích lệ, cố gắng siêng năng tu, gọi là tinh tấn, tức dùng sự siêng năng thường xuyên của phần vị thiện làm Thể. Trong đây, vì nói rộng, nên gọi là phẩm Tinh tấn. Phân tích Văn, y theo trước.

Trong giải thích tự tánh. Luận sư Trắc nói “Nói là tâm kia dũng mãnh, mạnh dạn kham năng, tức là Tinh tấn Hoạn giáp dưới đây, nhiếp thọ Vô lượng pháp lành, tức là Nhiếp thiện pháp ở dưới, đem lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình, tức là lợi ích hữu tình ở dưới. Nay, phán quyết tâm dũng mãnh, mạnh dạn kia là Hoạn giáp dưới, có khả năng có thể nhiếp thọ pháp lành, là Nhiếp thiện ở dưới.

Trong tất cả tinh tấn, đầu tiên là chướng Vô gián; sau, là giải thích riêng.

Trong Hoạn giáp rằng “Tâm kia dũng mãnh v.v… có bốn trường hợp:

1. Nói về sự dũng cảm, mạnh dạn kia.

2. “Nếu ta vì giải thoát nỗi khổ của một hữu tình”, nghĩa là nói vềviệc đã làm. Cho nên, luận Đối Pháp nói “Việc làm vượt hơn hết, là vì đem lại lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình.”

3. Dùng ngàn đại kiếp, cho đến cũng không lùi bước, chịu khuất, là nói về thời gian dài. Vì thế, nên Đối Pháp nói rằng “Thời gian dài hơn hết là đã chứa nhóm trải qua ba ngàn kiếp A-tăng-kỳ da.”

4. “Đối với cầu Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề” trở xuống, là nói về hồi hướng rốt ráo. Cho nên, luận Đối Pháp nói rằng “Vô tận tối thắng do hồi hướng Đại Bồ-đề rốt ráo Vô tận.”

Trong Nhiếp thiện nói “Rằng, các Bồ-tát có tinh tấn v.v… Địa tiền có thể là gia hạnh sáu Độ, lại có thể nói Địa thượng.”

Ba-la-mật đa, đại khái có bảy thứ. Pháp sư Viễn nói “Nhưng bảy thứ hạnh này, thật ra đồng thời tùy theo phần giống nhau, chẳng phải không có thứ bậc. Ba thứ đầu là địa vị tánh hạnh; một thứ kế là giải hạnh; một thứ kế là Sơ địa; một thứ kế là là nhị Địa trở lên; một thứ sau là Bát Địa trở lên.”

Nói “Tất cả phân biệt, các thứ phân biệt. Nghĩa là như luận Đối Pháp nói “Các thứ phân biệt là mười tán động; Tất cả phân biệt, tức là tán động.”

Kế là, giải thích phần trước.

“Nói phương tiện tương ưng với Tinh tấn, cho đến bình đẳng vì thông suốt. Pháp sư Thái nói “Vô thượng Bồ-đề là nghĩa nên được.

Thập Địa trở lên, còn gọi là đạo không có điên đảo.”

Trong khó thực hành tinh tấn có ba: Luận sư Trắc nói “1) Tu không có gián đoạn. 2) Tu trong suốt thời gian dài. 3) Tu không có thừa (Vô dư).

Ý chú trọng một thứ nghĩa bao trùm ba nghĩa trước.

Trong tất cả môn có bốn: Hai cặp đầu là bốn Chánh Cần, hai cặp sau, là nói về thắng lợi của tu.

Do dứt trừ hai nhiễm, nên ba nghiệp tịnh. Nhân tu bốn điều thiện mà ba tuệ tăng. Trong Thiện Sĩ nói “Không Xả tất cả gia hạnh dục, nghĩa là không bỏ dục rộng lớn là nguyện có thiện đều tu, sáu thứ, bảy thứ, trong tất cả thứ.”

Trong sáu thứ, Luận sư Trắc nói “Dù danh có sáu, nhưng gồm thâu làm ba đôi:

  1. Tu không có gián đoạn; tu ân cần trân trọng, là một cặp.
  2. Hai trước nhân hiện khởi, là một cặp.
  3. Hai phần thắng tấn của mình, là một cặp.

“Trong không có lay động” có hai trở xuống, là nói về không lay động:

1. Không bị mọi nỗi khổ hiện tại khuấy động, nên gọi là không lay động.

2. Bồ-tát tu tinh tấn không chuyển thành ba Hữu của Nhị thừa, vì phần tánh, nên không lay động. Pháp sư Khuy Cơ nói “Sở dĩ nói sáu thứ như có thế, có siêng năng v.v… là thuộc về sáu thứ trước, nghĩa là có vững chắc, có mạnh mẽ xen với bốn thứ còn lại là có sáu thứ.”

Trong bảy thứ. Luận sư Trắc nói “Sáu thứ đầu là “chuyên”; một thứ sau là “hoàn”. Một thứ đầu trong sáu thứ trước là Hoạn giáp; bốn thứ kế là Nhiếp thiện, một thứ sau là nhiêu ích lợi tha. Mười một tướng tinh tấn chỉ đồng với thuyết tinh tấn nhiêu ích hữu tình.

Trong tinh tấn thanh tịnh có mười thứ, như Quyết Trạch quyển bảy mươi lăm nói.

Lại nữa, Tinh tấn Ba-la-mật đa có mười thanh tịnh:

1/ An xứ thanh tịnh.

2/ Thuần thục.

3/ Răn chắc làm cho phát khởi.

4/ Phương tiện.

5/ Chỗ trụ không luống dối.

6/ Trụ ở chỗ không gian nan.

7/ Xuất ly.

8/ Nhiếp thọ giúp đỡ.

9/ Thần thông nhanh chóng.

10/ Tánh vô tận thanh tịnh.

Thỉ nghiệp, sơ nghiệp. Pháp sư Cơ nói “Thỉ nghiệp, sơ nghiệp, tức trước sơ phát tâm, nói về năm pháp quán dừng tâm v.v…”

Luận sư Trắc nói “Gieo trồng gốc lành của phần giải thoát, gọi là Thỉ nghiệp. Năm pháp quán dừng tâm, gọi là Sơ nghiệp.

Đầy đủ các thứ: chỉ nêu, tướng xả, tướng nhập, trụ, xuất, nghĩa là như địa Tam-Ma-hý-đa ở trước đã nói v.v….

Nói “Có thể khéo hiểu rõ v.v… Cựu luận chỉ có hai trường hợp, nghĩa là thường khéo quán sát , không phân biệt luống dối. Nay, theo văn này có ba trường hợp:

  1. Khéo biết rõ, nghĩa là biết được tám tướng.
  2. Không có lỗi hư vọng, nghĩa là tướng trụ không luống dối.
  3. Khéo thông suốt, nghĩa là thông suốt tướng xuất.

Nói “Tu tác không gián đoạn, tu tác ân cần trân trọng.” luận bản dịch xưa không có hai thứ này, như địa Tam-Ma-hý-Đa nói)

Tác ý vô gián. Nghĩa là tất cả thời gian không có gián cách, không có đứt đoạn, chuyển biến nối tiếp nhau.

Tác ý ân cần trân trọng. Nghĩa là phương tiện gia hạnh không trễ nãi, chậm chạp.

Nói “Nghe nói các thứ rất rộng lớn”, nghĩa là cùng tận tất cả tánh, tức cảnh Tục đế. Rất là sâu sắc, nghĩa là như tất cả tánh, tức cảnh của Thắng nghĩa đế, không nghĩ bàn, thành tựu cảnh tục trước, không vượt qua thành tựu cảnh thắng nghĩa.

BẢN LUẬN QUYỂN 43

PHẨM TĨNH LỰ

Như Đối Pháp nói “Tâm kia thuần thiện, vì trói buộc tâm ở một cảnh, nên gọi là Tĩnh lự. Phẩm này vì nói rộng, nên nói là phẩm Tĩnh lự. Phân tích văn, y cứ theo trước.

Trong giải thích tự tánh, ở tạng Bồ-tát, Văn, Tư là trước nhất, nghĩa là phương tiện tu định.

Tất cả điều thiện mầu nhiệm, là phân biệt vị định. Thế gian, xuất thế gian, nghĩa là hữu lậu, gọi là thế gian; Vô lậu, gọi là ra đời. Lại, “duyên” Thế đế trong Vô lậu, gọi là thế gian; “duyên” Chân đế, gọi là ra đời. Một tánh cảnh của tâm, nghĩa là phát ra thể của tĩnh lự.

Tâm chánh an trụ: là giải thích nghĩa Tĩnh lự. Hoặc phẩm Xa-matha v.v… Luận sư Cảnh nói “Thế định lúc chính tu nghiêng về đa số, hoặc trí tuệ tăng riêng. Đây là y cứ ở nhóm đồng phát ra Thể, vì dùng bốn chi, năm chi, đều gọi là Định.”

Nói “đạo vận dụng song song, chung cho hai phẩm, hai phẩm định, tuệ đồng đều cùng vận chuyển. Pháp sư Cơ nói “Trong đây, vì sao nói Tỳ-Bát-Xá Na?” -Luận sư Cảnh nói “Vì hôn trầm, trao cử, với ý lấy Xa-ma-tha.” Lại, nghĩa là “Trong đây, không đúng! Nay, trong đây đều có phẩm nói “Nếu trong đồng thời lúc ở phẩm định, thì chẳng phải không có tâm, tâm pháp v.v… khác. Nếu đồng thời ở phẩm quán, thì chẳng phải tâm, tâm pháp v.v… không có định, mà chỉ vì tùy tăng, nên nói là phẩm Định, phẩm Quán. Y cứ ở sự thật, thì chính lúc đó, có đầy đủ định, tuệ v.v… Trường hợp riêng đã như thế, thì trường hợp chung cũng đều như thế.”

Luận sư Trắc nói “Bốn trường hợp này là nói bốn thứ tu chân chính:

1. Phẩm Xa-ma-tha

2. Phẩm Tỳ-Bát-Xá-Na

3. Đạo hay vận dụng song song.

4. Đều cùng đi suốt qua hai phẩm, tức đồng với bốn thứ tu chân chính đã nói ở phẩm Lực Chủng Tánh ở trước. Phẩm ấy nói: 1) Xa-matha. 2) Tỳ-Bát-Xá-Na. 3) Tu tập Xa-ma-tha, Tỳ-Bát-Xá-Na. 4) Ưa tu tập Xa-ma-tha, Tỳ-Bát-Xá-Na, cho đến nói rộng.”

Trong tất cả tĩnh lự, đầu tiên, là y cứ ở địa vị, chia làm hai. Sau, y cứ trên phần thực hành, được chia làm ba. Luận sư Trắc nói “Nói xa lìa tất cả phân biệt v.v… nghĩa là lìa Kiến hoặc, nên thân, tâm khinh an, xa lìa kiêu mạn, điệu cử v.v… Vì lìa tu hoặc, nên triệt tiêu tất cả tướng.

Kế là, giải thích dẫn Đẳng trì, trước là nói về đức không chung. Sau, nói đức chung với Nhị thừa.

Về sau, trong giải thích về mười một tướng lợi ích hữu tình, Pháp sư Cơ nói “Trong đây, đồng với mười một tướng sơ lược trong giới trước, do bạn đồng sự nghiệp có thể vì cứu Khổ hợp thành thứ nhất, vì thứ mười khác với thứ mười một; mười là điều phục, vì thứ mười một hiện thông suốt, nên đồng với mười một tướng giới sơ lược, như hai quyển bốn mươi mốt bốn mươi hai ở trước đã hội thông.

Trong phần Tĩnh lự khó thực hành, có ba việc khó làm:

Việc khó làm thứn nhất, nghĩa là Bồ-tát đã được dẫn phát thần thông cực thiện, thành thục tĩnh lự, xứng đáng sinh lên cõi trên, vì đem lợi ích cho hữu tình, nên sinh lại cõi Dục, đây là việc khó làm, ý trong đây. Luận sư Cảnh nói “việc này không khởi phiền não, chỉ có hạt giống thấm nhuần sinh khởi “hoặc”, nhuận sinh ở đây cũng không có hao hụt, do Thất Địa trở xuống đều có lợi ích, cần khởi phiền não, lúc bấy giờ liền Khởi ngay.

Tĩnh lự Thiện Sĩ có năm:

1) Tĩnh lự không có vị ái, nghĩa là tĩnh lự Hữu lậu. Trí Hậu Đắc chỉ lấy Vô lậu, nghĩa là y cứ ở phần vượt hơn mà nói. Trong nhất thiết chủng nói:

“2) Vô ký biến hóa tĩnh lự, nghĩa là nếu Bồ-tát vì đùa giỡn nên hiện thần thông, thì điều này chỉ Vô ký. Nếu vì nhiếp hóa nên hiện thần thông thì đây chỉ là thiện, như Quyết Trạch và Tạp Tập nói.”

Gọi là “Duyên” theo nghĩa “duyên” . Nghĩa là do “duyên” pháp giống nhau trong tu tuệ, nhưng vì môn lý, thì luân v.v… nói rằng “Hiện lượng không “duyên” danh v.v… nghĩa là y cứ ở hiện lượng của tán tâm mà nói, tâm nhập định “duyên” danh nghĩa đều là hiện lượng. Cho nên, luận Tập Lượng chép “Tất cả tâm định đều là hiện lượng.”

Trong Toại cầu nói “1) Đối với các thuốc độc, cho đến có thể thôi dứt, có thể thành chú thuật, đều là người đã dựa vào Tĩnh lự. Bồ-tát dựa vào định, có khả năng tiêu diệt các thuốc độc, cho đến tai hoạn cũng có thể thành.”

Thứ sáu và thứ bảy trong tĩnh lự thanh tịnh có khác gì nhau không?” Pháp sư Cơ nói “Thứ sáu thuận với nhập, trụ, xuất tự tại; thứ bảy nghịch với nhập, trụ, xuất tự tại, nên có khác nhau.”

Luận sư Cảnh nói “9) Lìa tất cả “Kiến” thú, nghĩa là kiến hoặc.

10) Tất cả phiền não chướng sở tri thanh tịnh, nghĩa là lìa tu hoặc.

Luận sư Trắc nói “1) Thanh tịnh thanh tịnh. 2) Vô lậu thanh tịnh. 3) Căn bản tu phương tiện thanh tịnh. 4) Chứng đắc căn bản thanh tịnh. 5) Tự tại phương tiện thanh tịnh. 6) Trụ tự tại thanh tịnh. 7) Dẫn phát thần thông tự tại thanh tịnh. 9) Hàng phục ngoại đạo tự tại thanh tịnh. 10) Vô thượng Trừ chướng thanh tịnh.

PHẨM TUỆ

Tiếng Phạm là Bát-nhã, Hán dịch, là Tuệ, phải biết là Độ thứ sáu. Tiếng Phạm nói Nhã Na, Hán dịch là Trí là Độ thứ mười. Trước, nói vể phẩm định, vì tâm chuyên chú được soi sáng, nên kế là, nói về Tuệ. Trong đây, vì nói rộng, nên nói là phẩm Tuệ.

Trong giải thích tự tánh, Cảnh, Pháp sư Khuy Cơ đồng nói “chủ thể ngộ nhập tất cả sở tri, là trí vô phân biệt, và đã ngộ nhập tất cả sở tri phân biệt, các pháp v.v… là trí Hậu Đắc.”

Pháp sư Thái nói “Tự tánh Tuệ có hai công dụng:

1. Ngộ nhập tất cả cảnh sở tri.

2. Ngộ nhập xong, trong cảnh sở tri, lại phân biệt nữa, “duyên” khắp tất cả năm Minh xứ để chọn lựa.

Luận sư Trắc nói “Trong đây, 1) Nói “duyên” Chân tuệ. 2) “Duyên khắp…” trở xuống, là nói “duyên” Tục tuệ. Y theo trên, lẽ ra hữu lậu sinh ra tánh Tuệ, vì lược qua không nói, cũng có thể vì lợi sinh mà tùy duyên, nên càng không có tánh riêng.

Nói “Ngộ nhập tất cả sở tri, nghĩa là gia hạnh chính chứng hai trí.”

“Và, đã ngộ nhập…” trở xuống, nói về trí Hậu Đắc “duyên” lý. Hoặc có thể trước là gia hạnh; sau là chánh chứng. trí Hậu Đắc là ngộ nhập tất cả sở tri, phân biệt các pháp, nghĩa là phân biệt lựa chọn tánh viên thành thật của tất cả pháp, chẳng phải cho rằng phân biệt, tánh Y tha khởi, mà gọi là phân biệt.

“Khắp tất cả…” trở xuống, nói về trí “duyên” tục, như phẩm Lực Chủng Tánh ở trước đã nói.

Trong nhất thiết Tuệ nói “Tánh Vô ngã đối với ly ngôn thuyết pháp, đây là nêu cảnh của Chân trí. Hoặc muốn giác ngộ về Chân đế, tức trí gia hạnh.”

Chánh giác ngộ: là sự giác ngộ của trí chánh thể.

Tất cả trí tuệ mầu nhiệm là trí Hậu Đắc, rất vắng lặng, hiểu rõ ràng sáng suốt.

“Biết rõ ở trước không có phân biệt v.v…” trở xuống, là nói về hành tướng của ba tuệ trước.

Nhập tướng của Đại đức, nghĩa là Chân như là tướng chung. Lại, hai “Vô ngã” là chung. Pháp sư Cơ hỏi “Vì sao ở đây nói trí gia hạnh hữu lậu?”

– Nghĩa là “Ở trước nói về thế gian, ra đời gian có ba thứ, nên  trong đây lui sụt trí gia hạnh hữu lậu.”

Kế là trong Tuệ, Pháp sư Cơ nói “Nếu hành tướng Chân như chỉ có trí Hậu Đắc Vô lậu. Nếu nói chung, thì về chủng loại hữu lậu, trí Hậu Đắc cũng có. Nếu y cứ ở tánh mà nói thì như nói Vô phân biệt của nghĩa ba môn giải thoát cũng có. Nay, lấy lui sụt hữu lậu, vô lậu là tốt. Như cái khó của trí gia hạnh ở trước.

Giải thích “Nói tám Xứ, nghĩa là năm Minh xứ là năm; pháp của ba tánh là ba. Phẩm Tuệ này, thượng hạ đều lấy ba trí gia hạnh v.v… để phối hợp, nhiếp thu.”

Tuệ Khó thực hành có ba, đó là:

  1. Nói về chứng lý rất sâu, để nói về cái khó.
  2. Rất dễ hiểu phương tiện điều phục, giáo hóa hữu tình, để nói về sự khó khăn.
  3. Y cứ ở cảnh trí vô ngại để nói về cái khó.

Tất cả môn Tuệ có bốn:

  1. Tuệ do văn thành.
  2. Tuệ do Tư thành.
  3. Nên làm thì làm; không nên làm thì Tư Tuệ. Luận sư Trắc nói

“Đây là đã thành Tu tuệ hữu lậu.”

4) Nói do tu mà sinh tu tuệ Vô lậu.

Tuệ của bậc Thiện Sĩ có năm. Luận sư Cảnh nói “Ba thứ trước tức là ba tuệ; thứ tư, tức pháp, nên biết, nghĩa là trí biết nhân, quả. Thứ năm, tuệ xả phiền não, tức Tuệ chứng lý.”

Pháp sư Thái nói “Thứ tư, nghĩa là tự tánh các pháp, gọi là pháp trụ của các pháp. Sự sai khác của các pháp gọi là pháp an trụ.”

Trong tự tánh sai khác của các pháp, không có tuệ điên đảo. Pháp sư Khuy Cơ nói “Pháp, nghĩa là pháp quả, vì pháp quả trụ ở trong pháp nhân, nên nói là pháp trụ.”

Luận sư Trắc thuật lại hai giải thích:

1) “Trí nhân trong biết mười hai duyên sinh.” 2) “Pháp có hai thứ:

1- Có một pháp, nghĩa là tất cả năm trần v.v… có, không v.v… các tư tưởng đều trụ ở vị của chúng.

2- Có thể có sai khác trên pháp, nghĩa là về nghĩa sai khác của thường, vô thường v.v… có thể thấy, không thể thấy v.v… trên sắc v.v…

Nói “Pháp trụ đối với các pháp, nghĩa là “duyên” pháp hữu. An lập, nghĩa là “duyên” trí pháp.

Lại, có môn khác lạ v.v… Luận sư Cảnh nói “1) Xứ như tất cả. 2) Biệt tận tất cả. Luận giải thích hai câu này có hai:

1. Như Luận Đối Pháp nêu chung pháp của sự pháp Thế đế đều cùng tận, gọi là Tánh Tận tất cả, tức pháp của sự kia có nhiều môn nghĩa: các thứ nghĩa môn hữu lậu, vô lậu, hữu đối, vô đối, gọi là như tánh sở hữu.

2. Chân như này tức gồm thâu các pháp, như tận, gọi là tánh Tận sở hữu:

1/ Tuệ vi tế ngộ nhập sở tri, tánh tận sở hữu, vì “duyên” theo lý.

2/ Tuệ đủ khắp, ngộ nhập sở tri, tánh tận sở hữu, vì “duyên” sự, có thể đều nói rằng, Chân như và Bốn đế, mười sáu đế v.v… nghĩa là tánh như sở hữu “duyên” tất cả pháp, sự sinh ra uẩn, giới, xứ v.v… gọi là Tánh Tận sở hữu. Ở đây, như Đối Pháp và Du-già thượng, hạ, phần lớn có văn này.

3/ Tuệ Câu sinh v.v… Tự tánh niệm sinh trí, vì Bồ-tát được, nên chẳng phải chỗ sinh được trí, các đường khác được.

4/ Cụ giáo tuệ, tức là Văn tuệ.

5/ Cụ chứng tuệ, tức là Tu tuệ.

Luận sư Trắc nói “Năm thứ trước là phân biệt chứng pháp của Văn, tư và tu. Năm thứ sau là cảnh, vì nhân cụ giáo trụ, nên phận biệt Địa. Hai thứ đầu trong năm thứ sau là cảnh; một Tuệ vi tế ngộ nhập sở tri, vì tánh như sở hữu v.v… Theo Tam Tạng Chân Đế nói “Như lý trí, gọi là tánh như sở hữu. Như lượng trí, gọi là tánh Tận sở hữu.”

Nay, giải thích “Đều có cả hai trí. Nói tánh như sở hữu, nghĩa là xứng pháp mà biết được tự tánh các pháp.”

Tánh tận sở hữu, nghĩa là đối với lý và sự, phân tích, đo lường cùng tận, biết được sự khác nhau của các pháp này.

Hai thứ như thế, đều có ba trường hợp:

  1. Chỉ “duyên” ở “lý” mà có hai thứ.
  2. Chỉ “duyên” về “sự”, cũng có hai thứ.
  3. Lý, sự đều “duyên”, cũng có hai thứ.

Nếu theo văn dưới, chỉ y cứ riêng “duyên” lý, để chia làm hai thứ.

Nói Câu sinh tuệ, túc trí v.v… nghĩa là do sức trí mà đời trước thường tập, nên trong thân hiện tại, trí nhậm vận sinh, gọi là Câu sinh Tuệ.

Cụ giáo tuệ v.v… là trí có khả năng lãnh thọ, lắng nghe ý nghĩa, nên gọi là giáo tuệ. Cụ chứng tuệ: Đầu tiên, Sơ địa trở lên đã có trí tuệ, như văn. Sáu thứ, bảy thứ trong Tuệ Nhất thiết chủng; bốn Đế trong sáu y cứ ở Địa học; Tận vô sinh ở Vô học. Có các thứ nghĩa của Loại trí, Pháp trí của bảy môn.

Du-già nói là “duyên” danh, pháp của cõi dưới, danh loại của cõi trên.

Luận Thành Thật nói là “duyên” danh, pháp trong hiện tại’ “duyên” quá khứ, vị lai, gọi là Loại. Đối Pháp nói “duyên” lý, gọi là Pháp trí. “Duyên” trí “Năng duyên”, gọi là Loại. “Duyên” tự loại này, gọi là Loại. Như Đối Pháp nói chín tâm trong Kiến đạo. Hoặc pháp của niệm đầu, niệm sau trở đi, đồng “duyên” gia cảnh của niệm đầu, gọi là Loại. Như Luận Đối Pháp nói ba tâm trong Kiến đạo. Hai tâm trước là Pháp; tâm thứ ba là Loại.

Trí thế tục, tức là Đẳng trí; trí thần thông, tức Tận trí, nói là: “Sự sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập. Tướng đầu tiên của Vô học, gọi là Trí tướng. Hạnh trí trước của mười Lực, tức là trí Vô sinh.”

Có trí Vô sinh, nghĩa là căn tánh rất nhạy bén, có thể được mười Lực, gọi là trí hạnh trước của mười Lực.

Lý trí của chánh đạo trong bốn đạo lý, tức trí của bốn Đế, Chánh biến tri trong trí bốn Đế.

Pháp sư Thái nói “Biết được tướng các pháp, gọi là Trí tướng. Trí tiền phương tiện của mười lực gọi là gia hạnh trước của mười Lực.”

Xưa Pháp sư Viễn nói “Ba thứ trước như trên. Trí thần thông, nghĩa là trí sáu thần thông. Trí tướng, nghĩa là tướng của pháp trí. Phương tiện của mười lực. Là nhân của mười lực cũng có thể vì công dụng khéo, nên gọi là sự phương tiện.”

Cụ túc trí là bốn trí Vô úy. Cựu luận chép: “Cụ túc sự.” Nay, nói là lý trí của bốn Đạo.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Sáu thứ như văn, vì sao không nói là trí khác? Ở đây vì lấy sáu môn làm pháp, nên, nếu lấy trí khác, thì tức là số tăng, cho nên, không nói.

Lại, về môn nhân, quả, bốn trí trong nhân vì gồm thâu trí khắp; hai trí trong quả vì gồm thâu trí khắp. Lại, vì phần vị nhân y cứ ở Đế, nên chỉ có bốn trí hạnh; phần vị quả vì luận chung, nên y cứ ở hai trí, gồm thâu các Tận trí. Bảy chủng trí trước được nói rõ là nhận lấy.

Trí tướng tức trí tận. Trí hạnh trước của mười Lực, tức trí Vô sinh.

“Nếu vậy thì vì sao ở đây lại không nhận lấy trí của bốn Đế trước?”

Có người nói “Trí tướng, nghĩa là trí “duyên” ba mươi hai tướng. Trí hạnh trước của mười Lực, tức trí phương tiện khi định khởi mười lực.”

Nay, giải thích “Nếu y theo sự thật, thì hai trí Pháp, Loại, tức trí bốn Đế. Nay, lấy mỗi tướng của mười trí để nói thì chẳng phải là trí của mười Lực đồng với giải thích trước.”

Trong Tuệ lạc của hai đời có chín: Tuệ của năm môn Xứ là năm, tức dựa vào năm tuệ này, đối với sự ngu si, buông lung, yếu kém của người mà siêng tu chánh hạnh bốn thứ sau, như thứ lớp đó, đối với người ngu, thì thị hiện; đối với kẻ buông lung thì giáo hóa, dẫn dắt; đối với người yếu hèn, thì khen ngợi, khích lệ, đối với người siêng năng tu hành, thì chúc mừng an ủi.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Một thứ nội minh là Tuệ Bồ-tát đã vận hành, đã chứng, đã làm là khéo an trụ. Bốn Minh còn lại thì không như vậy, nên chẳng phải đối tượng an trụ (chỗ an trụ).”

Luận sư Trắc nói “Năm thứ đầu, nói về biết sự khác nhau của các pháp; bốn thứ sau, nói về điểm sai khác giữa giáo hóa và lợi ích. Bốn thứ sau, vì hóa độ bốn hữu tình như ngu si v.v… như thứ lớp, thị hiện, giáo hóa, dìu dắt, khen ngợi, khích lệ, vui mừng, an ủi, tức là thị, giáo, lợi, Hỷ đã nói trong kinh khác.”

Lại, như phẩm Giới nói “Hữu tình đã được giáo hóa, có bốn hạng khác nhau:

1. Đối với người thiện không có đức, thì thuận theo chuyển biến tâm, tức thích hợp với sự khen ngợi, tưởng lệ hữu tình yếu hèn trong đây.

2. Đối với người thiện có đức, thì khen ngợi biểu dương đức chân thật, tương đương với ở đây là chúc mừng, an ủi hữu tình siêng tu hạnh chân chính.

3. Đối với hữu tình, tánh nhuyến có lỗi, điều phục, đuổi đi, đây là giáo hóa, dẫn dắt hữu tình buông thả ở đây.

4. Đối với người ác có lỗi ngang bướng, dùng thần lực nhằm chế phục họ, thích hợp ở đây thị hiện hữu tình ngu si.

Trong tuệ thanh tịnh có năm cặp, mười thứ. Luận sư Cảnh nói “Nói về nghĩa chân thật có hai thứ Tuệ: Tánh tận sở hữu và Tánh như sở hữu, lấy nghĩa Chân thật. Đây là đối với nghĩa trong Chân như nói là hai.” Pháp sư Thái nói “Đối với Chân như có hai thứ tuệ: Biết tự tánh Chân như, gọi là Tánh tận sở hữu; biết môn Pháp giới sai khác của Thật tế Chân như, gọi là Tánh như sở hữu, nghĩa là như sai khác.

Pháp sư Khuy Cơ nói “Nếu tự tánh “duyên” Chân như một vị là tánh Như sở hữu; nếu mười sáu hạnh “duyên” Chân như sai khác là Tánh tận sở hữu, thì nhân là một, quả là một, lưu chuyển hai. Tuệ trôi lăn trong sinh, tử, so với chấp thường v.v… là một, chấp Vô thường v.v… không trái ngược là một, là chấp thọ hai. Hai trong rốt ráo, có khác gì với trái ngược?”

Nghĩa là “Luận sư kia chỉ y cứ ở bốn trái ngược, còn ở đây thì y cứ ở tất cả các “hoặc”. Luận sư Trắc nói “Như Quyết Trạch nói “Lại nữa, Tuệ Ba-la-mật đa có năm thanh tịnh:

  1. Thông đạt tướng thanh tịnh
  2. Thông đạt duyên Khởi thanh tịnh
  3. Thông đạt giáo đạo thanh tịnh
  4. Thông đạt Sĩ dụng thanh tịnh
  5. Thông đạt chứng đắc thanh tịnh.

Như thứ lớp tức thích hợp với nghĩa năm cặp trong đây.

Trên đây, lợi mình có hai đoạn trước trong ba đoạn, đã nói xong.

“Lại nữa…” trở xuống, là thứ ba, tổng kết sáu thứ, dẫn chứng, khen pháp vượt hơn. Văn chia làm hai: 1) Dẫn Kinh chứng thành 2) Tên khác, kết khen.

Trong phần trước, lại có hai:

  1. Nói về sáu Độ là thuyết do Đức Phật nói, để cho người khác chính thức sinh niềm tin.
  2. “Lại, các Như lai…” trở xuống, là nói về sáu Độ này là pháp mà Đức Phật vốn đã tu tập trong nhân, để cho người khác ưa tu.

Trong phần trước lại có hai:

  1. Dẫn thuyết chung.
  2. Dẫn riêng chín môn của sáu Độ để nói.

“Lại nữa, sáu Độ như thế, cho đến “nên biết”, ngài Tam Tạng nói “Xét Kinh Thiện Giới, đầu tiên, có kinh “Tôi nghe như vầy khoảng ba trang.” Do đây, Đức Phật nói ba tạng xong, về sau, đều là Địa Trì, lại không có khác. Nghi rằng, ba trang đầu, người dịch vì không hiểu phương âm, nên dịch là Kinh. Thật ra, ba trang này chỉ là pháp do Bồtát Di-lặc nói. Rằng, nếu Phật nói giới thiện. Đây là Phật chuyên nói về sáu độ ở một chỗ trong thiện giới nói về Lục độ, không nên nói trong Du-già này. Sáu độ này nói rải rác khắp nơi. Thời kỳ sau ngài Di-lặc, được gồm thâu ở một chỗ.

Nói thu nhập, nhiếp thọ, nghĩa là ở chín môn này, thu nhập môn nào, tùy theo nghĩa nhiếp thọ?

Kế là, nói về sáu Độ là pháp mà Phật vốn tu, trong đó có hai:

1. Nói chung về khổ hạnh, nương vào sáu Độ.

2. “Hoặc chỉ dựa vào hạnh thí cho…” trở xuống, là nói riêng về Khổ hạnh, nương tựa sự khác nhau.

Ý trong đây nói rằng “Thuở xưa, đức Như lai còn là Bồ-tát, đã thực hành Khổ hạnh, như Xả thân v.v… phải biết rằng, tất cả đều tương ưng với công hạnh bố thí. Bồ-tát vì nương tựa bố thí, nên thực hành Khổ hạnh. Đôi khi thị hiện chỉ thực hành một Độ, hoặc hai, ba cho đến năm, sáu Độ.”

“Với sáu thứ như thế…” trở xuống, là thứ hai, tên khác, kết khen.

Trong đó có ba:

1. Nói do tu làm ra.

2. “Biển v.v… bạch pháp lớn này làm rõ tên khác của sáu Độ.

Nói “là biển pháp bạch lớn, nghĩa là vì rất lớn trong tất cả pháp bạch, nên gọi là Đại bạch.”

Biển pháp, nghĩa là tất cả pháp bạch đều gồm thâu vào trong biển, không lìa sáu Độ này.

Ao, suối báu lớn: là nước suối áo phun lên, sinh ra công đức vô cùng tận.

3. “Lại, tức như thế…” trở xuống, nói về quả cân xứng với nhân.

PHẨM NHIẾP SỰ

Hạnh lợi mình, gồm thâu lợi mình của sáu Độ trước, nếu muốn cùng tận viên mãn, thì phải có lợi người. Vì thế, kế là, giải thích về phẩm Nhiếp sự, nghĩa là dẫn dắt, truyền trao cho hữu tình.

Trong đây, nói rộng, gọi là phẩm Nhiếp. Trong phẩm này chỉ nói về ba Nhiếp sự.

Hỏi “Nếu vậy, ba Nhiếp sự lấy tuệ làm thể, vì sao lại nói?”

Nghĩa “Không đúng! Vì một bố thí trước đã nói rộng. Ba nhiếp sự là thuộc về Tuệ, nhưng trước đây chưa nói rộng, nên nay phải nói.”

Trong văn, trước lấy tụng, văn xuôi để chia ra chung chín chương. Sau, giải thích riêng về ba sự. Đầu tiên, giải thích Ái ngữ, dùng chín môn để giải thích trong tự tánh. Luận sư Cảnh và Trắc đồng nói rằng: “Ngữ, ý vui vẻ, nghĩa là không nói lời thô ác. Đế ngữ, nghĩa là lời nói không giả dối. Pháp ngữ, nghĩa là lời nói không chia rẽ, dẫn nhiếp nghĩa ngữ, là lới nói không thêu dệt.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Lời nói vừa ý, là không chia rẽ, đế ngữ là không nói dối. Pháp ngữ, là không thô ác, lời nói dẫn nhiếp nghĩa là lời nói không thêu dệt. Lại, chưa hẳn phối hợp các ngữ đó, chỉ tùy theo mỗi ngữ đều có bốn thứ này.

Trong tất cả Ái ngữ, trước, là nói về ba thứ, sau, nhiếp ba thành hai.

Tùy theo nghi thức, phép tắc thế gian, đều thuận với tánh người. Pháp sư Thái nói “Thuận theo phép tắc của triều đình, khu vực, ấp, tánh của nhân sĩ, không thuận theo tánh của người làm ruộng, họ đã được thịnh vượng mà không tự biết, như người nên giác ngộ để bày tỏ, chúc mừng, vui vẻ. Chúng sinh có sự tốt lành, hưng thịnh, không tự hay biết, để chúc tụng, an ủi mà bảo.

Ái ngữ Khó thực hành có ba:

1. Dùng kẻ hay có khả năng giết tất cả mọi người, là kẻ thù, bạn ác, có thể làm lợi ích cho họ. Ngoài ra, rất dễ hiểu.

Một trong tất cả các môn, là người muốn dứt trừ các Cái, hướng về đường thiện, là pháp mà trước họ đã làm.

Luận sư Cảnh nói “Nghiệp thiện của người, trời, từ đời Vô thỉ đến nay, vì thường đã được, nên nói là lúc trước đã thích ứng với tác pháp.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Bồ-tát hóa độ hữu tình, muốn cho chúng chứng Đại Niết-bàn, không thể trực tiếp vì nói đạo, nên trước, vì hành động của người, trời, gọi là pháp mà trước đây đã làm.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Giúp họ nhập Phật Pháp, trước nói ngũ pháp quán dừng tâm, trước là pháp đáng nên làm.”

2. Trong Thiện sĩ ái ngữ nói “Được chỗ có nhân, chế lập Học xứ. Luận sư Cảnh nói “Trong Tỳ-ni, dựa vào có chỗ đã trái phạm đắc tội mà chế lập học xứ.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Tức Tỳ-nại-da nhân sự mà chế giới. Nếu pháp đã nói thuộc về Bốn y thì giả đặt ra người thực hành chính hạnh của luật pháp không điên đảo.”

Pháp sư Cảnh, Pháp sư Cơ đồng nói “Như nói “thường khất thực, y phấn tảo, ngồi dưới cội cây, ưa dứt, ưa tu. Vì nương bốn việc này mà tu đạo, hành đạo, nên gọi là Bốn y.”

Pháp sư Thái nói “Dựa vào pháp, không dựa vào người, đều thuộc về bốn y. Nay, lại giải thích rằng, bốn y là “1) Y phẩn tảo; 2) Khất thực; 3) Ngồi dưới gốc cây; ) Thuốc mục rã, nói lên Khổ, hạnh xuất ly không lui sụt, có quyết định mạnh mẽ?”

Luận sư Cảnh nói “Vì nói khổ hạnh xuất ly của hai đạo Kiến, Tu, gọi là không lùi lại.”

3. Thần biến: là thần thông luân, ký tâm luân, giáo giới luân.

Sáu thứ, bảy thứ trong tất cả ái ngữ. Hai thứ đầu trong sáu tức là khai già. Bốn thứ sau tức nói bốn cảnh Vô ngại , pháp, nghĩa, từ biện, như thứ lớp.

Trong bảy, Luận sư Cảnh nói “Một thứ đầu là úy dụ ngữ. Hai là “Khánh duyệt ngữ…” trở xuống, là y cứ trong Thắng ích ngữ, chia làm năm. Một thứ đầu trong năm thứ sau là dạy bảo, chỉ bày cho người khác hiểu rõ về tiền của, dụng cụ, ham muốn nhỏ, phóng túng rộng. Kế là, một Ái ngữ; Vô úy thí ngữ. Kế là, một pháp thí, hai thứ sau, rất dễ hiểu.

Luận sư Trắc nói “Hai thứ đầu trong bảy chi làđồng sự ngữ. Kế là, có ba bố thí ngữ trở xuống, là hai ngữ lợi hành . Một thứ đầu trong thí là tài thí. Một thứ kế là Vô úy thí; một thứ sau là pháp thí. Bốn trong Toại cầu tức lìa bốn lỗi của ngữ. Tám thứ thật ngữ, gọi là tám Thánh ngữ. Pháp sư Thái nói “Nói nương tựa bốn tịnh ngữ tám Thánh ngữ, nghĩa là thật thấy nói là thấy, người khác hỏi nói là thấy. Thật không thấy thì nói là không thấy, người khác hỏi nói là không thấy. Hai thứ này thuộc tưởng, cảnh về đều thiếu. Không thấy cho là không thấy, người khác hỏi nói là thấy. Thật thấy mà nói là không thấy, người khác hỏi nói là không thấy. Hai thứ này thuận với tưởng, trái với cảnh. Bốn thứ này là Thánh ngữ kia.

Nói chẳng phải Thánh ngữ, nghĩa là thật thấy, mà nói là không thấy; người khác hỏi nói là thấy. Thật sự không thấy, mà nói là thấy, người khác hỏi nói là không trông thấy. Hai thứ này trái với tưởng, thuận với cảnh. Thật thấy, mà nói là thấy, người khác hỏi nói là không thấy. Thật không thấy, mà nói không thấy; người khác hỏi nói là thấy. Hai thứ này là cảnh, tưởng đều trái nhau. Bốn thứ này là lời nói của phàm phu kia.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Toại cầu hữu, nghĩa là không lấy bốn tịnh, lấy tám Kiến v.v… sau.”

Trong niềm vui của hai đời có chín: năm thứ vui đầu, trừ nạn; bốn vui sau, khen ngợi điều thiện.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói “Ba thứ đầu là Vô úy thí. Thứ tư, nói chánh pháp.”

Dứt chánh giới khó, nghĩa là trừ ngoại đạo kia đã thực hành giới pháp Khổ hạnh.

Thứ năm, trừ tà kiến. Pháp sư Thái nói “Thứ tư, thứ năm, là ta kiến phá giới, là hiện tạo nên chánh kiến của tịnh giới. Đời sau, sẽ cảm các Khổ trong ba đường ác. Bồ-tát nói Thánh ngữ vì trừ đoạn.”

Luận sư Trắc nói “Ba thứ còn lại trừ nạn Dị thục, một thứ kế là, trừ nạn nghiệp ác, một thứ sau, là dứt trừ nạn phiền não. Về pháp tắc thứ tám, như Địa Thanh văn nói. Thanh tịnh có hai mươi thứ, như phẩm Lực chủng tánh ở trước đã nói. Phẩm ấy nói có hai:

  1. Dựa vào thuyết thuận theo có mười lăm.
  2. Dựa theo thuyết thanh tịnh có năm.

Trên đây, đã nói về ái ngữ xong.

Dưới đây nói về lợi hành, trong đó, trước, chỉ nói rộng như trong Ái ngữ. Kế là, phân tích sự khác nhau; sau, lại dựa vào chín môn giới để phân biệt.

Nói khác nhau, nghĩa là “các Bồ-tát… cho đến “nên gọi là lợi hành”, Luận sư Cảnh nói “Ái ngữ, thông thường nói về lý, giáo, quả, pháp. Nay, trong lợi hành, tùy theo căn cơ, chính là trao hạnh Đại thừa, để cho chúng sinh kia tu tập, gọi là môn lợi, nên khác với Ái ngữ.”

Luận sư Trắc nói “Ở trước, trực tiếp nói pháp, nay, đem pháp này khuyên hữu tình khởi sự tu, gọi là sai khác còn lại.”

Trong tự tánh rằng, do Ái ngữ kia vì các hữu tình thị hiện lý chân chính, nghĩa là nói về pháp mà Lợi hành đã nương, tức là Ái ngữ, nói các thứ pháp, nêu bày chánh lý.

Tùy theo sự thích ứng là chính nói về lợi hành, so lường căn được thích nghi, chỉ riêng một môn, để họ như thuYết-mà thực hành.

Trong hạnh ấy, an trụ tâm Bi, là nói khởi nhân duyên hạnh.

Không có tâm ái nhiễm: là nói dứt trừ chướng lợi hành. Khuyến khích, dẫn dắt v.v… là phân biệt về hành tướng của lợi hành.

Trong tất cả lợi hành, nói rằng, chưa thành thục. Luận sư Trắc nói “Nếu theo Đại thừa, chưa nhập Tam kỳ da về trước, gọi là chưa thành thục. Nếu bắt đầu nhập Kỳ-da trở về sau, thọ gọi là đã thành thục, cũng như trong quyển ba mươi bảy nói về ba phẩm Thành thục.”

Đối với lợi hiện pháp, công hạnh lợi tha là khuyến khích, dẫn dắt, nghĩa là chính khuyên bảo, dẫn dắt, dùng pháp, nghiệp, đức để chiêu cảm, nhóm họp, giữ gìn v.v…; Luận sư Cảnh nói “Giáo học tạo nên pháp vàng, bạc, hoặc cách thức gieo trồng v.v… gọi là pháp.”

Nghiệp, nghĩa là dạy làm nghề nghiệp khéo léo v.v… Đức, nghĩa là dạy tu học đạo đức. Do có pháp, nghiệp đức, nên chiêu cảm, nhóm họp rộng của cải, được tên gọi là lớn và niềm vui hiện pháp.

Pháp sư Thái nói “Hoặc do truyền bá giáo pháp v.v… Hoặc do sự nghiệp tinh tấn v.v… ; hoặc do đạo đức v.v… có thể nhóm họp tiếng khen ngợi và lợi ích, giữ gìn, tăng trưởng phần vị tiền của, tài sản, gọi là vui hiện tại.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Pháp, là đúng như pháp, không do tà mạng mà được của. Nghiệp, về sau, pháp lợi khuyến đạo lợi hành: là chánh khuyên, dẫn dắt, v.v… là nghề nghiệp của lái buôn mà được của. Đức, nghĩa là đạo đức. Vì có đức nên được của, do người khác cúng dường.”

Luận sư Trắc nói “niềm vui hiện tại và mai sau, vì về sau mới quyết định, nên gọi là sau. Vì hiện báo không nhất định, nên không gọi là hiện.”

Trong khó làm rằng “Người kia đối với dấu vết rất buông lung rộng lớn, vì chuyển biến sự ham vui, chấp mắc ở chỗ rất buông lung. Pháp sư Thái nói “Nghĩa là người sống buông thả bước theo dấu vết, đã nương tựa chỗ đình chỉ.”

Luận sư Trắc nói “Chốn vườn, rừng, ngựa, săn bắn, qua, lại, gọi là dấu vết buông thả. Chỗ nghỉ lại đêm ở lầu quán, điện, đường, gọi là chỗ buông thả, ý rất đồng.”

Tất cả môn lợi hành, tức giản lược lấy bốn tài trong bảy Thánh tài.

Trong Thiện sĩ có năm, trong nhất thiết chủng có bảy. Luận sư

Cảnh nói “Năm thứ đầu là Hạnh, hai thứ sau là quả. Một phần của chỗ yên ổn đã hóa độ hữu tình. Nghĩa là vì phân biệt chủng tánh của ba thừa, nên gọi là một phần.”

1) Về tư lương thiện, thủ hộ, trưởng dưỡng v.v… nghĩa là thực hành bảy phương tiện trước của đạo Ba thừa, đều là Tư lương. Hoặc dựa vào sự xuất ly của Tiểu thừa, hoặc nương tựa xuất ly của Đại thừa. Phương tiện xuất ly cũng gọi là xuất ly. Như sự giáo hóa ngày nay ở tư lương thiện, thủ hộ, trưởng dưỡng của hạnh trước của Địa kia.

“Như thế, hoặc…” trở xuống, là so sánh, giải thích về Kiến, Tu lìa chướng, nhiếp thiện.

Lăng Pháp sư nói “Hoặc đối với xa lìa, nghĩa là hạnh lìa chướng của Kiến đạo, hoặc đối với một tánh cảnh của tâm, nghĩa là công hạnh nhiếp thiện của Kiến đạo. Hoặc đối với thanh tịnh các chướng, nghĩa là công hạnh lìa lỗi của Tu đạo. Hoặc đối với tu tập Tác ý, chính là ở chỗ yên ổn, nghĩa là hạnh nhiếp thiện trong Tu đạo.”

Về sau, cũng y cứ ở quả, tức phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa, cho nên khác nhau. Pháp sư Thái nói “Nói “Hoặc đối với xa lìa”, nghĩa là ở chốn A-Lan-Nhã v.v… Hoặc đối với một tánh cảnh của tâm, chính tu định. Hoặc đối với thanh tịnh các chướng, nghĩa là hoặc dựa vào định dứt “hoặc”, hoặc đối với tu tác ý, nghĩa là dựa vào định, tu bảy tác ý.”

Pháp sư Khuy Cơ nói bảy thứ: là theo Nhị thừa xuất ly bậc nhất. Pháp sư Tuệ Viễn nói: “Là Văn tuệ. Dùng tài v.v… trưởng dưỡng nhập vào văn tuệ xa lìa, là Tư tuệ.”

Thứ ba là chỉ, thứ tư là quán, thứ năm là xả. Căn của hai Đại, Tiểu khác nhau. Nay, y cứ thì không đúng, vì dựa vào xuất ly bậc nhất của Nhị thừa, chính là nương tựa phương tiện giáo của Nhị thừa khiến cho xuất ly.

Đây là y cứ tùy ở một phần thiện xảo của Nhất thừa.

  1. Xa lìa, nghĩa là hoặc xa lìa một phần “hoặc” v.v… hoặc so sánh chung xa lìa “hoặc” v.v… của thừa mình.
  2. Hoặc ở một tánh cảnh của tâm mà được định.
  3. Thanh tịnh các chướng được tuệ.
  4. Xa lìa trước, nói chung là lìa “hoặc”, không nói là được Tuệ v.v…
  5. Tu tập Tác ý, chính là đặt vào chỗ yên ổn. nghĩa là tác ý trong Tu đạo, hoặc ở yên ổn đối với tất cả Tác ý.
  6. -7. Ở yên ổn trong hiện tại xong, sẽ được quả của thừa mình.

Toại cầu có tám. Luận sư Cảnh nói “Trong đây, chỉ Bồ-tát giản lược không nói về tám triền của hữu tình chướng. Cựu luận gọi là trừ não, tức thuận với văn luận này nói bỏ đi triền buộc ràng người khác.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Vì sao chỉ tám thứ này? Nghĩa là vì chướng ba Học v.v… Hai thứ Vô tàm, vô quý, hai chướng giới. Hai thứ Hôn trầm, thùy miên, gây trở ngại cho định, hoặc tuệ. Điệu cử, ác tác chướng ngại tuệ, hoặc định. Hai thứ ganh tị, keo kiệt chướng chung ba học. Vì thế, nên không nói là khác.”

Hoặc có thể là tám triền. Luận sư Trắc nói “Gồm thâu tám thành bốn, nghĩa là Vô tàm, Vô quý là chướng của giới. Hôn trầm, thùy miên là chướng của định. Trao cử, hối là chướng của Tuệ. Ganh tị, keo kiệt là pháp đồng, nghĩa là chướng ngại cho sự xoay vần thọ dụng tài, pháp. Cho nên, quyển tám mươi chín nói “Lại nữa, tất cả phiền não đều có triền ràng buộc của chúng, vì phiền não hiện hành, đều gọi là Triền. Nhưng có tám thứ: Các Tùy phiền não thường xuyên hiện hành suốt trong bốn thời gian. Cho nên, chỉ lập tám thứ làm triền, nghĩa là trong khi tu học giới tăng thượng, vô tàm, vô quý thường xuyên hiện hành, hay làm chướng ngại. Nếu ở vào thời gian tu học tăng thượng Định, hôn trầm, thùy miên (ngủ gật) thường hiện hành, có thể gây chướng ngại. Nếu là pháp đồng, thì sẽ xoay vần nhận dùng tài, pháp. Sự ganh ghét, keo kiệt, thường xuyên biểu hiện, hay làm chướng ngại.

Trong niềm vui của hai đời có chín: Ba thứ đầu, là thân nghiệp, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Thứ tư, là không uống rượu. Nếu theo Cựu luận, thì chỉ nói là tất cả trừ không uống rượu. Nay, nói rằng “Tất cả Túy la nhã, là rượu gạo. Mễ Lệ Da, Pháp sư Cảnh, Cơ đồng nói là rượu thuốc. Pháp sư Thái, Luận sư Trắc v.v… nói “Rễ, cọng, cành, lá như mía ngọt v.v… là rượu.”

Mạt-Đà, Hán dịch là Rượu bồ đào.

Kế là, miệng lìa bốn lỗi. Ba căn bản của ý sau, tổng hợp thành một, công với trước thành chín.

Lợi hành thanh tịnh có mười, dựa theo ngoài có năm, theo trong có năm, nghĩa là theo duyên ngoài của hữu tình mà khởi, gọi là thanh tịnh ngoài. Dựa vào trong mình có bi khởi công hạnh vì đem lại lợi ích cho chúng sinh, gọi là thanh tịnh bên trong. Nếu theo Kinh Thiện Giới nói, thì năm thứ trước, y cứ đối tượng được giáo hóa lìa lỗi gọi là ngoại tịnh, công đức giáo hóa quy về mình, nên gọi là tịnh bên trong. Năm thứ sau, y cứ vào Tông chỉ của bốn tâm Vô lượng vì lợi người, gọi là ngoài. Lúc giáo hóa, hóa độ tâm không có nhiễm, gọi là trong.”

Kinh Thiện Giới ngộ nhận rằng, các Bồ-tát đối với hạnh ác, tạp nhạp của các hữu tình. Nếu y theo Cựu luận thì chỉ có ba thứ trước, thiếu không có câu hạnh tạp nhiễm thứ tư.”

Luận sư Cảnh nói “Hai câu trước trong bốn câu này là nói về tại gia.”

Hạnh ác tạp nhiễm, nghĩa là hạnh ác lẫn thiện.

Hạnh trước, nghĩa là thông thường, hễ có được địa vị, là lấy việc ác làm trước nhất. Dưới đây là hai hạng xuất gia:

  1. Có các tội.
  2. Tâm có tạp nhiễm.

Pháp sư Thái nói “Về hạnh ác tạp nhiễm của các hữu tình, nghĩa là trước làm ác, sau tu thiện. Hạnh có tội, nghĩa là tội giá (ngăn), vì là tội, chẳng phải nhiễm. Hạnh tạp nhiễm, nghĩa là tánh tội.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Hoặc từ trên đến đây, kẻ gây ra điều ác, gọi là người làm ác ở trước.”

Luận sư Trắc nói “Người tu hành có tội, là ở tâm Vô ký thiện, phạm giới mình đã tho, như ở địa vị vô học phạm tội.”

Hạnh tạp nhiễm. Tạp, tức phạm tội tạp nhiễm. Lại nói “Hai thứ đầu, về phần mình đã khởi hai phần lỗi: thuần túy, tạp nhạp.”

Không đối với chẳng phải giải thoát, chẳng phải Xứ v.v… định thanh tịnh. Pháp sư Thái nói “Nghĩa là không là ở trời Vô Tưởng v.v… chẳng phải Xứ giải thoát, mong được Chân giải thoát. Không là định của bốn Vô Sắc, chẳng phải xứ thanh tịnh, cầu được định tịnh, tức ở trong đó, có thể chính thức khuyên bảo, dẫn dắt, gọi là lợi hành không thay đổi.”

Lại, giải thích “Chẳng phải đạo, chấp Đạo, gọi là Định thanh tịnh.”

Luận sư Trắc nói “Cầu Đạo điều phục của thế tục là định thanh tịnh .”

Pháp sư Khuy Cơ nói “không vận chuyển pháp Phật, khiến vào trong tà, chẳng phải không thay đổi tà mà tiến đến Đạo.”

Về bốn tánh. Luận sư Trắc nói “Ba thừa và địa vị đường thiện là bốn tánh. Hoặc bốn tánh như Sát-Lợi v.v… như thích ứng.”

Trong Lợi hành. Pháp sư Thái nói “Nói là các phẩm thiện ở nghĩa của mình, tùy theo công năng khác nhau của phẩm hạ, trung, thượng có thể khuyến khích, dìu dắt. Nghĩa là nếu đối với tự tánh của các phẩm pháp lành thành thục, thì công năng khác nhau. Hạ, trung, thượng có thể khuyến khích, dẫn dắt hữu tình, khuyên bảo chúng tu tập. Và, do công năng khác nhau của phương tiện mà khuyến hóa dẫn dắt: Ở hiện tại khởi công năng khác nhau phương tiện gia hạnh, có thể khuyến khích, dẫn dắt ấy, khiến tu gia hạnh khác nhau.

Đối với kia, như kia. Nghĩa là đối với nghĩa tự tánh kia, như phương tiện, mà khuyên bảo, dẫn dắt họ. Pháp sư Khuy Cơ nói “Đại ý trong đây nói, nếu có hữu tình đối với ba phẩm đức của thừa mình: thiện, quả, pháp có thể khuyên bảo, dẫn dắt, thì hãy khuyên bảo, dẫn dắt chúng. Nếu họ đã vào thừa mình rồi, hãy dùng pháp sau mà khuyên bảo, dẫn dắt chúng.”

Dưới đây, là nói sơ lược về tướng mạo đó trong Đồng sự, không trải khắp chín môn để phân biệt.

Luận sư Trắc nói “Y cứ theo loại trên để giải thích, nên có chín môn.”

Do công dụng của đồng sư kia, nên chúng sinh đồng chung với các hạnh trước, lại không có pháp riêng, y theo trên, rất dễ hiểu, nên lược qua không nói.

Sở dĩ biết có chín môn là vì như văn dưới đây nói “Từ tất cả thí cho đến đồng sự, cho đến thí cho thanh tịnh; cho đến đồng sự thanh tịnh”, cho nên biết đều có chín môn.

Nay, trong văn dưới đây, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, 1) Y cứ ở pháp để nói. 2) Y cứ ở bốn trường hợp của người để phân biệt.

Trong phần (1) trước có hai:

  1. Chính nói về Đồng sự.
  2. “Vì sao gì…” trở xuống, giải thích lại.

Nói “Nếu ở đây v.v… Nghĩa là người Cựu luận nói “Nếu ở nghĩa này, nghĩa là dựa vào cảnh mà tu Thể của Đồng sự. Dưới đây là nói “Nếu ngang đồng, nghĩa là trở thành nghĩa tu của phần mình ở trên. Nếu tăng, thì sẽ trở thành nghĩa tu của phần Thắng tấn ở trên.”

Nay, giải thích “Đại khái luận về chủ thể giáo hóa với hữu tình, đối tượng được giáo hóa hoặc ngang đồng, hoặc vượt hơn, mới trở thành chủ thể giáo hóa. Nếu vì kém mà ruồng bỏ chúng thì không gọi là chủ thể giáo hóa, nên nói “Hoặc tăng đồng đều.”

Trong giải thích lại, 1) Giải thích về đồng sự. 2) Giải thích về xa lìa sự chê bai, ngờ vực.

Trong bốn trường hợp, Luận sư Cảnh nói “trường hợp một, nói về Bồ-tát, chủ thể giáo hóa, tự cho là thầy, Bồ-tát được giáo hóa, người thật sự có công đức mà vì tiềm ẩn điều tốt lành của mình, mà vì không bày tỏ oai lực đức của mình, nên tiếp nhận sự giáo hóa.”

Trường hợp hai, chẳng phải Đồng sự của người khác chứng tỏ sự việc chung. Vì hóa độ hữu tình thấp kém, nên hóa hiện giống như Chiên-đồ-la, cho đến chó v.v… mà sinh trong đó.

Trường hợp thứ ba, có các Bồ-tát là đồng sự của người khác, nghĩa là nhận thấy thiện căn được giáo hóa, được tiếp nhận, cũng có thể bị lay động. Vì muốn cho họ không bị nghiệng động, hiện đều được đồng sự.

Hoặc tăng, nghĩa là phần vị công hạnh dù ngang đồng, nhưng vì chưa thành tựu viên mãn, còn có nghĩa lùi bước, nghiêng động, nên Bồtát đồng sự chung mà hành động chung.

Pháp sư Thái nói “Trường hợp thứ nhất, có một Bồ-tát chung với oai lực công đức của đa số Bồ-tát đều được bình đẳng. Đối với đạo Bồtát, hoặc Khởi tăng thượng mạn, tự cho là bực thầy, hoặc thật sự thọ địa vị thầy. Ngoài ra, có chúng sinh cần che giấu điều tốt lành của mình, mà không biểu lộ rõ oai lực đức mình, tương tợ với thầy. Do tự giấu điều thiện nên không tự tỏ bày chung với đồng sự của người khác.

Trường hợp thứ hai, vì hóa độ chó v.v… nên sinh trong loài chó v.v… nhưng không chung với loài chó v.v… đồng làm hành động của chó, gọi là chẳng phải đồng sự của người khác. Mà tự làm sáng tỏ hiện đời sanh kia, nên gọi là tự làm sáng tỏ hiện cùng với kia đồng sự.

Trường hợp thứ ba, rằng, các Bồ-tát nhận thấy kẻ được giáo hóa, vì căn lành đã tu không trụ vững chắc, nên hóa hiện đồng tu chung, để giúp cho họ được trụ vững chắc. Hoặc nói tu điều thiện giống như người kia, hoặc điều thiện vượt hơn.

Trường hợp thứ tư rất dễ hiểu.

Từ trước trên đây, tự phân tích về nghĩa trong công hạnh được chia làm ba.

Hai công hạnh trước, đã nói xong. Từ đây trở xuống, là thứ ba, song kết tác nghiệp của hai lợi, tỏ bày thành tựu lợi ích, trong đó được chia làm ba:

1. Nói về sự khác nhau của tác nghiệp lợi mình, lợi người của sáu Độ và bốn Nhiếp, Nghĩa là sáu Độ, pháp tự thành Phật. Tứ nhiếp thành thục hữu tình. Đây là y cứ ở phần vượt hơn mà nói.

2. Nói về hiện hạnh của sáu độ và Bốn nhiếp hơn hết, kể cả ba thứ nhân duyên thanh tịnh.

3. Nói về sáu độ, bốn nhiếp được nghĩa quả riêng trong tám môn sau.

Đến trong văn thứ hai, trước là nêu chung, kế là, giải thích riêng, sau là kết.

Trong giải thích:

1. Do ba thứ nhân duyên hiện hạnh như thí v.v… của thân, ngữ, ý.

2. Do hai nhân duyên không có tạp nhiễm rộng lớn, nên rộng lớn hơn hết.

Kế là, có ba:

  1. Khắp vì chúng sinh
  2. Khắp các hạnh tu
  3. Tu khắp tất cả thời gian.

Do bốn tướng trở thành không có nhiễm.

Luận sư Trắc nói “Dùng bốn tướng như thứ lớp phối hợp với Sơ địa, nhị địa, Tam địa, Tứ địa trở lên để giải thích.

3. Do ba nhân duyên thanh tịnh thí cho v.v… Nghĩa là do hừng cháy, nên không có lay chuyển, nên thanh tịnh. Sơ địa trở lên, gọi là hừng cháy không có lay động. Thập địa gọi là Thanh tịnh, đến Địa rốt ráo tức Địa thứ mười.

Hoặc hệ thuộc lần sinh, tức trụ ở cõi trời, là hữu sau cùng, tức sinh thân trở xuống.

Y cứ thứ ba, nói về được quả khác nhau, đầu tiên, là nói được quả Phật, sau, nói được nói được quả trong phần nói về nhân.

Chỉ nói tám thứ sau, nói được tám quả, không nói tự tánh. Luận sư Cảnh nói “Trong đây, muốn nói được quả khác nhau. Môn sau, sẽ phân tích về nghĩa được quả của nghĩa khác nhau, nhằm phát huy môn tự tánh, cho nên không nói.

Lại, chỉ nói về đắc quả của tám môn sau, tức gồm thâu tự tánh, cũng nhập trong đó, phân biệt ngoài không có, vì chung. Lại nữa, tự tánh nói về Thể không thể được quả. Vì tám môn chính là nói về công dụng của nghĩa, nên nói được quả.

Pháp sư Khuy Cơ lại nói “Do môn tự tánh không lìa tám môn sau, cho nên không nói.”

Hỏi: “Nếu vậy, như trên đây, chỉ nói rằng tất cả phương sau của môn thứ hai, bảy môn còn lại là sự khác nhau này. Nếu vì không lìa tám môn sau, nên không nói, thì lẽ ra phải nói môn thứ hai đã cảm quả?”

Nghĩa là “Không đúng! Vì thứ nhất là Tự tánh, thứ hai là sai khác. Cảm quả tự tánh không nói, được giống nhau trong cảm quả này, nghĩa là chẳng phải khẳng định thể cảm chung một, từ vì môn nhân của các quả.”

Luận sư Cảnh nói “Nếu là phần nhiều tu tập, là mới tu. Nếu nói khéo thanh tịnh, là kế tu. Nếu nói đầy đủ viên mãn là tu thành. Cũng có thể phối hợp với ba-tăng-kỳ để giải thích ba nghĩa này.”

Trong khó thực hành cảm quả, Luận sư Cảnh nói “Khó thí cho v.v… chiêu cảm quả thần thông biến hóa v.v… kỳ lạ ít có của pháp môn giải thoát.”

Pháp sư Khuy Cơ nói “Cảm quả mầu nhiệm ít có, nghĩa là pháp mầu nhiệm ít có của Thánh giáo, hoặc pháp ít có của thần thông.”

Lại nói rằng “Trong thanh tịnh cảm quả, nói bốn thứ tịnh, nghĩa là tịnh, là đối tượng nương tựa, Thần túc là chủ thể nương tựa. Lấy trụ, bỏ tự tại tức là mạng sống dài ngắn, v.v…”

Cảnh giới tịnh, tức là biến hóa Khởi ba thứ lớp tại, tâm thanh tịnh, nghĩa là tức một sát-na nhập Vô lượng định v.v…

Trí thanh tịnh, tức trong một chữ nói tất cả pháp. Như Đối Pháp quyển mười bốn giải thích “Hoặc đối tượng nương tựa v.v… như trong hai mươi ba công đức đã nói. Cũng chiêu cảm trôi lăn sinh, tử, thuận với hạnh quả của Bồ-tát. Luận sư Cảnh nói “Thời kỳ nhân hạnh của Bồ-tát, trôi nổi trong sinh, tử đã lâu, do tu thí v.v… nên giúp chiêu cảm duyên tăng thượng. Nếu hạnh hữu lậu đối với quả hữu lậu là chiêu cảm chính đáng.