DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 9

Môn nghiệp thứ năm trong chín môn nói về nghiệp.

Không nói quả sĩ-dụng. Nghĩa là vì lìa ba quả, không có tướng thêm riêng, cho nên, trong cho quả dị-thục chỉ nói về quả Dị thục phải chịu trong Na-lạc-ca.

Luận Đối-Pháp quyển bảy và kinh Nhân Quả đều nói: “Đối với bàng sinh, ngạ quỷ, na-lạc-ca thọ dị-thục.”

Luận kinh ấy y theo dị thục phải chịu quả nghiệp sát ba phẩm thuợng, trung, ha. Luận này chỉ y cứ vào phẩm thượng, chỉ nói về địa ngục:

Trong quả Đẳng Lưu, mười trường hợp như tuổi thọ bị rút ngắn, như thứ lớp, phối hợp mười nghiệp đạo ác.

Quả giống với nhân, gọi là quả Đẳng-lưu. Tuổi thọ rút ngắn, thật là quả tăng thượng, giả gọi là đẳng-lưu.

Đẳng-lưu tà kiến, tăng thêm si: Luận Đối-Pháp nói: “Các tà-kiến, là tăng thượng si, thành nghiệp đạo, chỉ có tăng thượng.”

Hỏi: “Nếu vậy thì vì sao nghiệp đạo, gọi là tà-kiến, còn được quả lại gọi là tăng thượng si?”

Đáp: “Tăng thượng si mới là tà-kiến, tà-kiến tức là tăng thượng si. Tà-kiến, tất nhiên có si, có si, chưa hẳn có tà-kiến.

Nghiệp đạo nêu chủ thể nương tựa, nói tà-kiến không nói là si. Được quả nói đối tượng nương tựa, là nói si, không nói tà-kiến, hai môn ảnh lược nhau mà nói, để cho chúng sinh biết nghiệp đạo chỉ có tà-kiến si, vì chung cho hành động, nên không gọi là Nghiệp đạo.

Trong quả tăng thượng, luận này dựa vào một vật để phân tích mười quả, luận Đối-Pháp dựa vào các việc để nói về mười quả, cho nên, vì các một quả không đồng, nghĩa đều khác nhau:

Ở đây có mười trường hợp, cũng y theo nghiệp đạo, thứ lớp phối hợp riêng. Không tiện nghi, nghĩa là không thuận với lòng người.

Luận sư Cảnh bổ khuyết: “Dựa vào Bà-sa có hai thuyết:

1/ Nghiệp phương tiện chiêu cảm nhân tuổi thọ ngắn ngủi trong loài người, nghiệp căn bản đọa vào đường ác.

2/ Lúc cầm dao định giết người, làm cho sắc mặt không có vẻ sáng suốt, tươi thắm, ngoài giảm biên đủ không sáng sủa, khiến người khác cam chịu biên khổ, đọa vào đường ác chịu khổ.

Cắt đứt mạng sống người khác, không nối tiếp nhau. Về sau tuổi thọ ngắn ngủi trong loài người.

Nay, dựa vào Du-già giải thích như lúc hành động giết người, làm cho người khác chịu khổ, gương mặt không tươi sáng, cắt đứt mạng người khác, lôi kéo chung vào đường ác. Nghiệp này, thế khác, về sau sinh ra nghiệp chướng diệt mang trong loài người, khiến cho mạng căn rút ngắn, gọi là quả đẳng-lưu.

Cho quả hiện pháp: Tức là ba quả trước do nghiệp thiện, bất thiện hiện tại lôi kéo sinh ra.

Trong tám dục, giải, bốn thiện, bốn bất thiện đối nhau để nói thì thành bốn cặp: Cặp đầu, là “duyên của cải của thân”,. Cặp kế, là duyên ruộng bi; cặp kế, duyên ruộng kỉnh, và cặp sau là ruộng ân.

Trong nghiệp Vô gián, quyển thứ sáu mươi chép: Lời nói lừa dối. Nghĩa là phá tăng bốn, thuộc thân nghiệp; trong đó ba là sát sinh.

Gia hạnh sát sinh . Nghĩa là làm cho thân Phật chảy máu, tùy theo sự thích hợp, thì lấy hai nghiệp thân, ngữ đề làm tự tánh.

Giải thích riêng về nghĩa phá tăng, sơ lược có mười một điều:

Tăng phá. Thân của tăng bị phá không hòa hợp trong bất tương ưng làm tánh. Vô phú, vô ký dựa vào thức Dị-thục, vì không hòa hợp với pháp luân, v.v…

1/ Thể của chủ thể phá. Là như thuyết trên, là lời nói dối trá từ quả đặt tên.

2/ Là Tỳ-kheo, không phải ở tục.

3/ Kiến hạnh, chẳng phải ái hạnh.

4/ Tịnh hạnh, chẳng phải phạm giới, ý nói oai nghi không trang nghiêm.

5/ Phá chỗ khác, chứ chẳng phải trước Phật, vì các Như-lai không dễ gì khinh khi, bức xúc.

6/ Phá người ngu, không phải bậc Thánh.

7/ Nhẫn dị sư thánh đạo. Nghĩa là năm pháp là Đạo, tám chánh chẳng phải Đạo.

8/ Tất nhiên không trải qua đêm.

Phá pháp luân tăng, có thể làm chướng ngại luân thánh đạo, vì phá hoại hòa hợp tăng.

9/ Phá pháp luân, vì châu này có Phật. Phá yết-ma có ở cả ba châu, vì có giáo.

10/ Phá pháp luân, ít nhất chín người. Đối tượng phá được chia làm hai bộ, vì chủ thể phá là một. Phá yết-ma ít nhất có tám người, vì được chia làm hai bộ, nên phần nhiều cũng không ngăn ngại.

11/ Mới thành Đạo về sau, sắp nhập Niết-bàn. Và lúc ghẻ giới chưa khởi, khi chưa lập cặp thứ nhất chỉ, quán; lúc sau khi Phật diệt độ; khi chưa kiết giới. Đối với sáu giai đoạn này không có phá pháp luân.

Ngoài sáu giai đoạn này, thời gian khác, mới có thể phá tăng.

Bài tụng trong luận Câu-Xá chép:

Đầu, sau ghẻ cặp trước

Phật diệt, chưa kiết giới

Sáu giai đoạn như thế,

Không phá pháp luân tăng.

Sư Tát-bà-đa nói: “Phật có nghiệp đời trước, vì oán đối nên có, là sự thị hiện của Đại-thừa.

Hại cha, mẹ, vì phá hoại ruộng ân: Trong năm nghịch này, ba thứ ruộng còn lại đều là phá hoại ruộng đức, do đây thành nghịch. Vì chung cả ba thừa. Năm tội nghịch mà kinh tát-già Ni-kiền-tử nói, không đồng với luận này. chỉ Đại-thừa có, vì đối cơ khác nhau nên cũng không trái nhau.

Trong năm tội nghịch này, tội phá tăng là nạng nhất, vì làm hư hoại pháp thân công đức, vì che lấp đạo giải thoát của người, trời, nhập Thánh, được quả, lìa nhiễm, lậu hết, đều bị ngăn ngại. Cho đến bánh xe pháp trong Đại thiên không xoay; vì thân tâm của trời, người, rồng, v.v… đều rối loạn, nhất định chiêu cảm một kiếp đại tội Vô gián.

Kế là làm thân Phật chảy máu, sau đó giết A-la-hán; tiếp theo là ghết mẹ, ghết cha; những tội sau nhẹ dần. (Các nghĩa môn nói rộng như luận Câu-xá quyển mười tám nói)

Đồng phần nghiệp Vô-gián. Nghĩa là tội đồng loại của nghiệp Vô-gián. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Làm ô uế A-la-hán-ni và mẹ là loại hại mẹ. Đánh thân sau cùng của Bồ-tát là loại giết cha. Hoặc làm việc sát sanh ngay nơi miếu thờ trời, v.v…, hoặc bị hư hại nặng nề về việc gửi gắm, hoặc đối với ruộng nghèo khổ, thí vô úy rồi lại gây bức não; đó là loại giết A-la-hán.

Cướp giựt vật của tăng, là loại phá tăng; phá hoại linh miếu, v.v…là loại làm thân Phật chảy máu, hoặc gọi là loại chung, không cần phối hợp riêng.

Nay giải-thích: Làm ô “Nhiễm ni vô-học, là loại giết A-la-hán; làm ô nhiễm mẹ, là loại giết mẹ. Đánh Bồ-tát thân sau cùng và phá hoại linh miếu là lám thân Phật chảy máu. Cướp giựt vật của tăng là loại phá tăng. Hành động khác là loại giết cha, v.v…

Nói cướp giựt vật của tăng, Luận sư Cảnh nói: “Vật của tăng thường trụ. Do có vật này, tăng môn tụ tập, bố-tát, nói giới. Do cướp đoạt vật này, nên tăng không được hòa hợp, chẳng hạn người khác muốn cho tăng vật dụng, tự tìm cách để vật đó thuộc về mình. Các Luận sư Bị, Thái và Cơ đều giải thích đại khái đồng, nhưng Pháp sư Khuy Cơ nói: “Vật của Tăng, là những vật dụng do đâu mà tăng có?”. Luận sư Thái nói: “Đã xếp vào vật của Tăng mà cướp đoạt, v.v… có khác đôi chút.”

Hỏi: “Theo luận Đối-Pháp quyển tám và văn dưới của luận này, đều nói về năm nghiệp Vô-gián là hoàn toàn là sinh thọ, sao trong đây nói là có hiện thọ?”

Luận sư Cảnh đáp: “Năm nghiệp vô gián, là y cứ xứ định để nói, còn trong các kinh, luận phần nhiều nói sinh thọ. Về mặt lý, thực chất có cả hiện sinh, hậu thọ. Như gây ra nhiều tội nghịch, tất nhiên, đối với thân hiện tại nếu chịu khổ nhẹ thì ở sau, thân sau, sẽ thọ khổ nặng hơn. Thế của nghiệp chưa hết, chết đi, sống lại trong địa ngục, nghĩa địa ngục là sẽ chịu quả báo sau.

Cho nên trong luận Đối-Pháp quyển tám nói: “Như kinh ấy nói rằng: “Do nghiệp Vô-gián thường thường chết, sống ở trong địa ngục, để chịu khổ lớn dị-thục.”

Về sau bổ khuyết: “Nghiệp nghịch kia cũng được hiện quả, vì khổ nhẹ, nên không được nói, từ đầu tiên đến phần vị, gọi là tác hiện thọ; từ nghiêm trong là hàng đầu, chỉ nói sinh thọ.”

Pháp sư Khuy Cơ lại giải-thích: “Đây là y cứ ở hành vi tội nghịch, vì đang bị sát, v.v…, nên gọi là thọ hiện pháp. Luận kia dựa vào thứ lớp sinh, đọa vào Vô gián, v.v… gọi là thuận sinh thọ, cũng không trái nhau.”

Hỏi: “Nghiệp thuận hiện thọ không cảm quả chung, chẳng lẽ năm nghiệp Vô-gián lại thọ quả riêng hay sao?”

Đáp: “Do nghiệp gia-hạnh thọ quả riêng ở hiện tại. Do nghiệp căn bản thọ quả chung ở tương lai, chứ không phải do một nghiệp hiện và sau đều thọ. Từ ban đầu được tên, gọi là hiện pháp thọ, tất nhiên, không phải năm Vô-gián không chiêu cảm quả chung, chính là do nghĩa này, nên luận Đối-Pháp nói: “Kẻ gây ra quá nhiều nghiệp Vô-gián, chắc chắn, khổ cụ mà họ chiêu cảm là rất nhiều, dữ dội, nhạy bén và thọ tức khắc mọi đau khổ.”

Kinh Ha-Oán Tâm nói: “Do nghiệp Vô-gián, nên chúng sinh bị giam trong Na-lạc-ca, thường chết đi sống lại, chịu khổ dị-thục lớn.”

Kinh Bát-nhã, Pháp Hoa cũng nói: “Vì chê bai kinh, nên từ một địa ngục sinh đến một dịa ngục khác, từ địa ngục đầu tiên được đều gọi là thuận sinh-thọ.”ở đây cũng như thế.”

Hỏi: “Vì sao giết Độc-giác chẳng phải tội nghịch?”

Đáp: “Vì ít nên không nói, được xếp vào loại giết A-la-hán. Hoặc dựa vào kinh Địa-Tạng Bồ-tát nói: “Giết Bích-chi Phật không thành tội nghịch, vì vị ấy không có nói pháp, đem lại lợi ích cho chúng sinh.”

Hỏi: “Vì sao chê bai chánh pháp không gọi là tội nghịch? Giải thích: Hủy báng chánh pháp, tội rất nặng, còn hơn cả tội nghịch, cho nên không lập. Hoặc vì đối với con người nói là nghiịch. Ở đây là nói theo chê bai pháp Đại thừa. Nếu theo kinh Tát già Ni-kiền-tử nói về năm tội nghịch, thì chê bai pháp ba thừa là tội nghịch thứ hai.”

Cúng dường từ định, v.v… được pháp quả ở hiện đời: Dựa vào lúc mới sinh, nghĩa là như mới xuất Từ định, vô tránh diệt định, được Dựlưu và quả A-la-hán cũng thế, chứ không phải xuất định đã lâu, về sau không nói Độc-giác, là vì số ít, nên lược qua, thực chất thì cũng được.

Nhất lai, Bất-hoàn vì chẳng phải đầu tiên được quả Thánh, cho nên không nói.”

Hỏi: “Vì sao chỉ nói định từ, không nói định bi, hỷ, xả, v.v…?”

Đáp: “Vì hỷ, xả kém; vì Bi có cả tán, vì đối với thế gian, xuất thế gian, lạc, từ, v.v… vượt hơn. Vô tránh, v.v… cũng thế, bên trong chứng chân vô-tránh, bên ngoài thôi dứt các phiền não, vì nguyện trí, v.v… thù-thắng, nên không nói pháp khác.

Về sự khác nhau giữa Tăng Học, Vô học. Luận Đối-Pháp chép: “Đức Phật là vị tăng thượng thủ. Nghĩa là các tăng hiện hữu đối trước Đức phật, hoặc Tăng là đệ tử Phật; Tăng phàm, Thánh Học, Vô học tôn xưng Đức Phật là vị tăng thượng thủ. Vì nói Tăng ở đây chẳng phải là người khác.

Với quả tăng thượng khác, nói là cũng phân biệt do thọ nghiệp quả hiện pháp, nghĩa là chẳng những do người khác mà còn do hiện nghiệp của chính mình được gặp Phật, cúng dường, v.v…

Nghiệp Trời. Nghĩa là người đời phần nhiều cho rằng, thiện, ác do trời, về mặt lý, thực chất do nghiệp, nên gọi nghiệp là trời.

Môn tổn ích có tám:

Bảy môn đầu tức là thân ba, miệng bốn, theo thứ lớp phối hợp. Thứ tám hợp là ba nghiệp-đạo của ý, cũng có thể phân biệt sáu thứ trước. Các nghiệp thứ bảy, thứ tám đều dẫn phát chung. trong nghiệp tăng thượng thứ sáu có sáu. Bốn nghiệp trước có cả thiện, ác. Nghiệp thứ năm bất thiện, nghiệp thứ sáu chỉ có thiện.

Một nghiệp đầu là tướng nhạy bén; nghiệp thứ hai là tướng siêng năng; nghiệp trong tự tánh thứ ba. Ngữ đầu, với bốn sự khảo xét so lường. Kế là thân có ba; ý sau có ba, từ nhẹ đến nặng, khảo xét chung ba nghiệp; so lường riêng mười nghiệp.

Trong nghiệp đạo trước sắc, sau tâm. Trong sắc, trước nặng, sau nhẹ. Trong nghiệp đạo ý, trước nhẹ, sau nặng. Vì tác pháp không đồng, nên cũng không có lỗi. Nhưng ba nghiệp phạt, thì ý nghiệp nặng nhất.

Tà-kiến trong năm kiến cạn hẹp, là rất nặng. Trong năm nghiệp Vô-gián, thì phá tăng rất nặng, vì đối tượng so sánh riêng.

Nay ở đây nói không so sánh với Vô gián, nên nghiệp ngữ nhẹ, về lý không có lỗi.

Trong điên đảo của nghiệp thứ bảy, sát sinh giống như tội đồng phần, nghiệp đạo gia-hạnh giống với căn bản.

Chấp thọ điên đảo chỉ nói cho đến lời nói thêu dệt, không nói ba nghiệp đạo của ý, nghĩa là vì bảy chi của thân, ngữ có cả tánh giới, vì cùng chung đối tượng biết (sở tri), vì dị chấp về sắc.

Trong sự sai khác của nghiệp thứ tám có hai:

1/ Nếu tên của bốn nghiệp vị.

2/ Tùy theo giải thích riêng, nêu vị có bốn:

  1. Có năm thứ hai môn.
  2. Có mười thứ ba môn.
  3. Có một thứ bốn môn.
  4. Có một thứ năm môn.

Tác nghiệp. Nghĩa là hoặc nghiệp lo nghĩ; hoặc lo nghĩ rồi; khởi nghiệp thân, ngữ: Xem xét quyết định, lo nghĩ, gọi là tư nghiệp. Phát động sự lo nghĩ vượt hơn, gọi là sự lo nghĩ đã khởi nghiệp thân, ngữ. Hoặc phát động tư, gọi là nghiệp tư, tư này đã khởi hai nghiệp thân ngữ, gọi là tư khởi nghiệp thân, ngữ.

Giải thích này đồng với luận Đối-Pháp, luận ấy nói: “Nghiệp Tư Thế nào? Nghĩa là nghiệp bất động phước, phi phước. Nghiệp Tư rồi là sao? Nghĩa là nghiệp thân, ngữ, ý.

Ngài Tam-Tạng giải thích: “Trước là nghiệp tư phương tiện; sau là ba nghiệp căn bản.

Không tác nghiệp: Pháp sư Cảnh nói: bỗng nhiên, tâm khởi nghiệp ý tứ, chẳng phải vì được khởi tư tiền phương-tiện của thân, ngữ, mà vì là

không có đối tượng khởi hai nghiệp thân, ngữ căn bản.” Luận sư Bị đưa ra hai giải thích:

1/ “Tâm phân biệt nghiệp đã tạo, gọi là tác nghiệp thân tha hồ (mặc tình) mà tác nghiệp, gọi là không tác nghiệp.

2/ Tâm tỉnh ngộ mà tạo nghiệp, gọi là Tác nghiệp. Tâm mê loạn mà tác nghiệp, gọi là không tác nghiệp.”

Lại giải thích: “Tác nghiệp, có cả gia-hạnh; nghiệp đạo căn bản; nghiệp biểu, vô biểu, chưa diệt, chưa xả, gọi là tac nghiệp tức căn bản, gia hạnh, hạt giống của hai nghiệp. Nghiệp biểu, vô biểu đã diệt, đã xả, gọi là bất tác nghiệp, vì không thành tựu, vì không có tác dụng vượt hơn.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Các nghiệp biểu gia-hạnh, căn bản, gọi là tác nghiệp, vì có khởi tác. Các nghiệp vô biểu, gọi là bất tác nghiệp, vì không có khởi tác. Đây là chung cho cả nghiệp biểu, vô biểu của ba thừa.”

Không nói ý trong nghiệp tăng trưởng, không tăng trưởng

Tám nghiệp vô ký của tự tánh. Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Nghĩa là thiện, bất thiện chẳng thuộc về nghiệp đạo. Tánh của phẩm trung, hạ chẳng phải là tánh vô ký trong ba tánh. Vì tự thể không tăng, gọi là vô ký, hoặc là nghiệp vô ký trong ba tánh.

Chín nghiệp bị hao hụt của sự ăn năn. Quyển tám mươi chín chép: “Các tác nghiệp không tăng trưởng, nếu không có ăn năn hối tiếc, không tu đối trị thì có thể sẽ thọ quả, gọi là nghiệp tăng trưởng. Ngược lại nếu ăn năn hối tiếc, v.v… gọi là nghiệp không tăng trưởng. Hoặc trước kia, nghiệp tăng trưởng do ăn năn hối cải, v.v…, nếu chưa sinh thù oán thì gọi là nghiệp bất tăng trưởng. Nếu không ăn năn hối cải, v.v… thì gọi là nghiệp tăng trưởng.”

Quyển sáu mươi chép: “Dựa vào người chưa giải thoát để kiến lập định, thọ nghiệp. Người giải thoát, khởi đạo phục, đoạn.”Luận ĐốiPháp chép: “Vì có năm thứ nên tư tạo nghiệp:

1, Được người khác dạy bảo.

2, Được người khác khuyến thỉnh.

3, Không biết rõ.

4, Chấp trước căn bản.

Nghĩa là ba độc che lấp tâm, chấp mắc mạnh mẽ, nhạy bén khởi các nghiệp.

Năm phân biệt điên đảo. Nghĩa là nghiệp ác sẽ làm vượt hơn không có tội. Trong năm căn bản này, chấp trước, phân biệt, hoặc tác, hoặc tăng trưởng, chẳng phải không thọ Dị-thục, vì nặng ba pháp còn lại tuy làm mà không tăng trưởng không hẳn là thọ dị thục vì nhẹ.

Luận Đối-Pháp giải thích: “Tác giả, nghĩa là khởi tạo các nghiệp, để cho nó hiện hành. Tăng-trưởng, nghĩa là sao cho tập khí được tăng ích. Cho nên tư nghiệp, nghĩa là cố lo nghĩ xong, hoặc tác nghiệp, hoặc tăng trưởng nghiệp, v.v…, nghĩa là trong đây, cố tác hoặc tăng trưởng, gọi là “nghiệp cố tư”.”

Luận Đối-Pháp chép: “Nghiệp cố tư trái với tăng-trưởng này, vì chung cả tăng-trưởng, không tăng trưởng. Đây là dựa vào tư mạnh mẽ thù-thắng, tương lai nhất định sẽ chiêu cảm Dị-thục, gọi là “nghiệp cố tư”. Dựa vào nghiệp đó, chỉ là đối tượng tác (sở tác) của “Cố tư”, chứ không phải nghiệp nhậm vận thông qua tương lai được quả, đều gọi là “Cố tư”, vì đối tượng so sánh riêng; nên cũng không trái nhau.

Thuận dịnh thọ nghiệp, bất định nghiệp: Ngài Tam-Tạng Pháp sư giải thích: “Lúc thuận định thọ nghiệp, báo đầu cùng có định, bất định thì trái với ở đây.”

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích: “Chính là nghiệp “Cố tư” ở trước nhất định sẽ chiêu cảm Dị-thục. Nghiệp “không cố tư” ở trước sẽ không chiêu cảm Dị-thục.

Luận Đối-Pháp chép: “Quyết định thọ nghiệp, quyết định có ba:

1/ Tác nghiệp định, do sức nghiệp đời trước, chiêu cảm thân quyết định. Trong đời này, tất nhiên tạo nghiệp này theo kỳ hạn quyết định, cuối cùng không trái vượt, dù thần lực của Phật, v.v… cũng không thể chế ngự.

2/ Thọ định Dị-thục, tức là quả của thuận định thọ nghiệp đã nói ở đây lúc nhất đinh sẽ thọ, vì chưa nhất định.

3/ Phần-vị định: Nghĩa là phần vị định nghiệp của thuận hiện thọ và sinh thọ, nghĩa trong đây rõ ràng: Nếu là nghiệp thuộc về nghiệp đạo thì gọi là thuận định thọ, sau gia-hạnh khởi, có cả định, bất định. Nếu chưa ăn năn, đã giải thoát, sẽ được gọi là định bất nghiệp. Nếu đã ăn năn, đã giải thoát thì gọi là nghiệp bất định.

Luận này nói là tác và tăng-trưởng: Tác nghĩa là tác động hiện nghiệp; tăng, nghĩa là vì tăng-trưởng cho hạt giống.

Nghiệp đã thục, chưa thục. Luận sư Cảnh nói: Trước kia là quả của sinh thục đã xong, công năng của nghiệp đã tiêu hết. Về sau, công năng này vẫn còn nối tiếp mãi.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nghiệp quả của quá khứ và hiện tại chính thức sinh, được gọi là nghiệp đã thành thục. Nghiệp quả của vị lai và hiện tại, sẽ sinh, được gọi là nghiệp chưa thục.

Trong ba nghiệp tánh, hữu phú vô ký cũng gọi là nghiệp vô ký, vì không phải ba thiện căn, ba bất thiện căn là nhân duyên.

Nghiệp, v.v… thuộc về luật nghi. Nghĩa là nghiệp của luật nghi biệt giải thoát, y theo văn quyết-trạch. Dùng năm căn: như Tín, v.v… và sáu pháp như tư làm tánh. Luật-nghi này vì lấy nhân phát nghiệp, tâm đẳng khởi, nên sáu pháp là thể. Nếu lấy giới thể, chính là lấy hạt giống của bảy chi nối tiếp nhau, bên nghĩa ngăn ngừa sái quấy để giả lập.

Luật nghi biệt giải-thoát hiện hành, hiện khởi một niệm của thân, ngữ, thì tiêu diệt thể của phi luật nghi.”

Luận Đối-Pháp chép: “Tức luật-nghi mà bảy chúng đã thọ: Năm chúng xuất gia và cận-sự, cận-trụ. Do người xuất gia suốt đời xa lìa hạnh ác, hạnh dục. Bởi vì người cận-sự trọn đời lìa hạnh ác, không rời hạnh dục. Do người cận-trụ không thể suốt đời lìa hạnh ác, hạnh dục, cho nên, ba thứ biệt giải-thoát được kiến lập. Hoặc quả của tĩnh lự, đẳng chí là nghiệp thuộc về luật-nghi đoạn. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tĩnh lự, nghĩa là bốn tĩnh lự cõi Sắc, Đẳng chí, nghĩa là bốn cõi Vô Sắc. Quả, nghĩa là dựa vào tĩnh lự Vô Sắc mà công đức được sinh ra do tu.

Đoạn, nghĩa là tức hiện tư tương ưng với Vô Sắc tĩnh lự, đề phòng xa các phạm giới cõi Dục, chớ không phải đoạn giới. Quả thì đoạn giới, đoạn quả. Thể thì định sinh luật nghi. Ba thừa thì có cả thân, ngữ; còn Đại-thừa gồm ý nghiệp.”

Có giải thích: “Đoạn, tức là tánh giới của vô vi; quả là luật nghi do định sinh.”

Nay, ở đây giải thích: “Đã nói nghiệp là đoạn quả, không nói đoạn quả, vì đoạn không phải vô vi, như thuyết trước nói là hay. Hoặc là quả và đoạn, vì cả hai đều là thể của giới, nên nhận lấy cả hai. Chỉ vị-chí đầu tiên có đối trị đoạn, trở thành đoạn xa trong các địa trên. các địa này dựa vào định hữu lậu, sinh ra nghĩa giới.”

Quyết-trạch phần chép: “Chỉ cõi Sắc có. Văn này là văn của phần thứ ba thông qua Vô Sắc có.”Luận Đối-Pháp chỉ dựa vào cõi sắc để kiến lập. Luận ấy tự hội ý rằng: “Vì sắc thô của cõi Vô Sắc không có, nên lược không kiến lập.”

Pháp sư Thái nói: “Bốn thiền, bốn định là nhân, đã phát luật nghi gọi là quả. Đây là luật nghi của tĩnh lự Vô Sắc. Lại nữa, gọi là giới đoạn, thì quả định vì dứt được phương tiện “hoặc”, nên không phải chính dứt hoặc, vì là hữu lậu.

Nghiệp thuộc về luật nghi vô-lậu. Nghĩa là người kiến Đế do sức vô-lậu mà được tánh viễn ly, tức là đạo cộng giới. Kết quả này đều y cứ ở giới nghiêm cấm điều sái quấy và ngăn ngừa, đây là chỉ thiện. Nếu vậy, thì lễ Phật, tụng kinh, v.v… được gọi là tác thiện.”

Pháp sư Thái nói: “Giới biểu biệt giải-thoát cũng suốt qua trên hạt giống, dả lập không đồng. Vô biểu chỉ dựa vào hạt giống mà nói, vì nối tiếp nhau, đạo kia nhất định vô biểu, vì tùy tâm có, không, nên dựa vào hiện hành giả lập. Nếu vậy, thì khi xuất định, có được thành tựu chăng?”

Pháp sư Bị nói: “Dù quá khứ, vị lai không có, mà về nghĩa thuyết thì thành, đều này đâu có lỗi? Nhưng vì không nối tiếp nhau, nên chỉ dựa vào hiện hành để giả lập.”

Pháp sư Thái nói: “Dựa chung hiện, chủng để lập, bất luật nghi cũng dựa vào nghiệp chủng của bảy chi bất thiện nối tiếp nhau, ngăn ngừa biên nghĩa thiện mà lập. Dựa vào văn quyết-trạch dưới đây, chỉ riêng trong bảy chi trước, sau mà được. Lại, mỗi chi đều chi trọng.

Gièm pha đâm thọc. Nghĩa là hành động gièm pha, nịnh hót, chê bai, đâm thọc người khác để mưu cầu mạng sống, là loại bất lương, bọn khủng bố, quát mắng.

Người coi ngục: Ở Tây-Vức lập ra người coi ngục (phán quyết bản án), nhằm mưu sinh để nuôi sống:

Luận này có mười hai, Đối Pháp nói có mười bốn. Luận này nói không có ba người kia là: 1/ Kẻ săn nai, 2/ Bắt cá, 3/ Hại bò. Luận Đối Pháp nói không có một người này, là người coi ngục. Trong kinh Niếtbàn nói có mười sáu: Bò, dê, heo, gà, vì được lợi, nên nuôi. Khi chúng béo mập rồi thì đem đổi bán. Vì quyền lợi nên mua chúng. Mua rồi cho đồ tể giết, thì thành tám hạng: bắt cá, bắt chim, thợ săn, cướp trộm, làm nem thịt, kẻ nói lưỡi đôi chiều, ngục tốt, chú rồng, lại vì chia làm tám. Nên không có người coi ngục và trói voi này.” Tạp Tâm nói có mười hai: đồ tể dê, nuôi heo, nuôi gà, lưới cá, bẩy chim, thợ săn, làm kẻ trộm giặc, làm nem chả thịt, cai ngục, chú rồng, rình rập, săn bắn, đồ tể chó. Các văn khác nhau.

Tóm tắt nêu ngần ấy nguyên nhân, không phải chỉ bấy nhiêu việc, không như thế thì những kẻ chuyên nghiệp giết mổ ngựa, lừa, v.v…, há không phải là những hạng kia ư?

Trên đây, đều y cứ ở đối tượng giết hại kia, “duyên”cảnh để nói, bàn về thể chỉ là nghiệp của bảy chi nghiệp bất thiện.

Tự tánh của bố thí cho. Nghĩa là tư đã khởi chủ thể xả, đối tượng vật thí cho, thân nghiệp, ngữ nghiệp. Luận Đối Pháp, Duy-Thức đều lấy ba nghiệp tư và vô-tham làm tánh. Nay, ở đây lấy thuyết vô tham làm nhân duyên, lấy thuyết tư trong môn đẳng khởi. Lấy nghiệp thân, ngữ trong tự tánh, y cứ ở ngoại biểu, phô bày ba thừa để nói chung, cho nên chỉ thân, ngữ không nói về ý nghiệp. Trong tự tánh giới vì lấy ba nghiệp làm tánh, nên nói là nghiệp thân ngữ, v.v… Như Duy-Thức nói: “Vì thọ giới Bồ-tát, nên chung cả ba nghiệp; y xứ chung cho cả tình, phi tình, có nghĩa là tánh giới, già giới, là tùy thuộc vào đối tượng thích hợp của tình, phi tình kia, vì dựa chung cả hai. Tu tánh tự tánh, gọi là Tam-mađịa. Nghĩa là thể từ của bốn vô lượng kia không có sân; thể của bi không hại; thể hỷ không ganh tỵ; thể của xả thì ba thiện căn thường hay xả.

Nay, vì từ đối tượng nương tựa, nên nhất định làm thể Y xứ: Là ba cõi hữu tình, đối tượng duyên, đều thành ba loại:

  1. Không có khổ, không có vui, cho vui, gọi là từ.
  2. Có khổ, cứu vớt, gọi là bi.
  3. Có vui, giúp mừng, gọi là hỷ.

Đối với loại đầu, khởi tưởng lìa si; đối với loại thứ hai, khởi lên tưởng lìa sân; đối với loại thứ ba, khởi tưởng lìa tham. Bình đẳng sao cho lìa ác, gọi là xả. Ở đây nêu cử cảnh từ, đồng lấy ba thứ còn lại.

Nói có ba. Nghĩa là tướng mạo, chỉ ra như kinh khác.

Phước nghiệp. Nghĩa là những người cảm Dị-thục của đường lành. Nghiệp phước đối với người, trời, thọ Dị thục chung. Và với thọ năm đường. Nghĩa là bốn cõi thọ Dị-thục riêng, thọ quả đẳng-lưu trong địa ngục kia giống với quả báo riêng. Nói chung là thuận với năm, có nghĩa không đúng.

Thành-Duy-Thức chép: “Chỗ khác nói: Trong “Địa ngục kia có vui đẳng-lưu.”Nên biết rằng, vì luận đó dựa vào lý “tùy chuyển”, cho nên nói như thế.

Trong Đại-thừa, Địa ngục kia không có quả thiện. Vì nghiệp thiện, nên chịu khổ nhỏ nhẹ, gọi là mắc quả, lại không có báo riêng. Không đồng với Tiểu-thừa nói về bốn trần Địa ngục, lại chiêu cảm nghiệp thiện.”

Lại giải thích: “Lìa phi thiên là một, vì hợp thành sáu cõi, nên nói là nghiệp thiện thuận với năm cõi có Địa-ngục thật sự là không có?” Luận sư Bị nói: “Nghĩa có nghiệp thiện cũng được, chiêu cảm quả riêng của Địa-ngục. Như tiểu địa-ngục được gió mát, v.v…

Thuận với thọ nghiệp không khổ, không vui, quả báo riêng chỉ có nghiệp của đệ tử tĩnh lự trở lên, ở đây có hai nghĩa:

1/ Ba định trở xuống, có thọ quả báo riêng. Luận này và Đối-Pháp không nói có nghiệp, vì lẽ y cứ ở phần nhiều nghiệp lành cảm quả xả thọ. Cho nên lược qua không nói. Không như thế, thì vì sao nghiệp thiện của địa dưới không được quả của địa đó?

2/ Ba định trở xuống, không có nghiệp xả thiện riêng. Quả xả trong thức thứ sáu vắng lặng. Nghiệp của địa dưới thì thô, nên thiện chỉ chiêu cảm niềm vui, cho nên không có quả xả.”

Hỏi: “Nghiệp thiện của đạo dưới thô, không chiêu cảm quả xả, sao nghiệp của địa dưới của quả xả thứ tám lại không chiêu cảm?”

Đáp: “Vì chung, riêng khác nhau, vì thế, không nên so sánh.”

Luận sư Cảnh nói: “Nay, trong Địa-thừa dù không có văn nói, lấy lý mà nói, trong cõi thiện trở lên, khéo chiêu cảm xả thọ lấy lại-da nào làm báo chung, gồm chiêu cảm báo xả của sáu thức, thiện của địa dưới cảm, hỷ, lạc, vì quả báo riêng.

Trong đường ác, ác phẩm thượng chiêu cảm xả thọ của bản thức, vì là quả báo chung, cũng gồm chiêu cảm xả-thọ của sáu thức. Ác phẩm hạ, chiêu cảm khổ thọ, vì là quả báo riêng, nên trong thuận hiện pháp thọ nghiệp, v.v…” Luận này và Đối-Pháp đều nói có ba:

Từ ban đầu đặt tên, hiện chỉ báo riêng, ngoài ra, có cả chung, riêng:

Quyển mười sáu nói có bốn nghiệp:

  1. Định Dị-thục.
  2. Định Thời phần.
  3. Cả hai đều nhất định.
  4. Cả hai đều bất định.

– Luận Hiển-Dương quyển mười chín chép: “Có năm nghiệp:

  1. Hiện pháp -thọ quyết định.
  2. Sinh-thọ quyết định.
  3. Hậu thọ quyết định.
  4. Thọ báo quyết định.
  5. Tác nghiệp quyết định.

Luận sư Cảnh nói: “Y theo văn dưới mà phán quyết thì tám nghiệp là nghĩa Đại-thừa.”

Luận sư nhật xuất thuộc Kinh bộ lấy nghĩa Đại-thừa để phân biệt

tám nghiệp trong bộ kia.

Nay, y theo văn này, dù nói là nghiệp ba thời, cũng gồm thâu tám nghiệp. Vì sao? Vì thời gian nhất định, Dị-thục không nhất định; thời-gian, quả đều nhất định, là nói nghiệp ba thời không đợi nói cũng thành.

Lúc báo nhất định, thời gian không nhất định, thời vào báo đều không nhất định nghiệp của hai thứ. Nếu khi được quả không lìa ba thời, thì tùy thuộc ở thời gian nào được Dị-thục, là thuộc về thời gian đó. Chính vì thế, nên nói ở nghĩa ba thời gồm thâu tám nghiệp. Cũng có thể trong đây chỉ nói thời báo của ba thời đều là nghiệp của định, cũng có thể trong dây chỉ lấy hai quan điểm: Thời gian nhất định, báo không nhất định, thời báo đều nhất định, nghiệp là nghiệp ba thời, thì không được thuộc về báo định thời bất định, thời báo đều bất định.

Nghiệp học. Nói là nếu phàm phu, v.v… Nghĩa là các phàm phu phát tâm ba thừa, giải-thoát phần thiện về sau, đều gọi là học nghiệp học chung cho cả hữu lậu, vô-lậu. Vô học cũng thế.”

Nghiệp phi-học, phi-vô-học, nghĩa là trừ hai học trước, đã có nghiệp thiện, bất thiện, vô ký trong nối tiếp nhau khác.”

Hỏi: “Trong thân Hữu học, Vô học ở trước, đều được giải-thoát phần, quyết-trạch phần và vô lậu nghiệp, gọi là Học, Vô Học.

Trong thân học kia, có thiện phần lậu, nghiệp bất thiện, vô ký. Trong thân vô-học, có nghiệp thiện phần phước và nghiệp vô ký, há chẳng phải đều là nghiệp của phi-đạo, phi vô học hay sao? Nếu vậy thì vì sao lại đối với nghiệp câu phi, nói là trừ hai học trước, đã có nghiệp thiện, bất thiện, vô ký trong nối tiếp nhau khác ư?” Pháp sư Bạt có ba giải thích:

1/ Trong hai thân trước, dù có phần phước, thiện, v.v…, nhưng do từ nhiều phần đều gọi là nghiệp Học, Vô học, cho nên, trừ hai học trước. Nghĩa là các giai đoạn phàm phu trước kia chưa phát tâm, tất cả nghiệp gọi là “Câu phi”.

2/ Trừ hai ở trước: nghĩa là trừ nghiệp Học, Vô-học trong hai thân của Học, Vô-học ở trước.

Trong nối tiếp nhau khác. Nghĩa là nói “khác”này, tức thông qua, có nghĩa là trừ trong thân Học, Vô-học và trong thân phàm phu khác, sở hữu phần phước, nghiệp thiện, nghiệp vô ký, v.v… đều là “Câu phi”.

3/ Rằng, nghĩa là trừ hai học ở trước, trong nối tiếp nhau khác: Trừ đã có nghiệp Học, Vô-học trong hai nối tiếp nhau của học, vô học ở trước.

Tất cả nghiệp thiện, bất thiện, vô ký. Nghĩa là trong thân người học, trong thân phàm phu, đã có phần phước, nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, và nghiệp vô ký. Trong thân vô học, có được phần phước, thiện, và nghiệp vô ký đều là nghiệp “Câu phi”. Cho nên nói tất cả nghiệp thiện, bất thiện, vô ký.

Trong quyển sáu mươi sáu chỉ nói bậc Thánh cho là hữu học, vì từ sự vượt hơn mà được.

Ở đây, y cứ đối tượng nương tựa kết hợp mà được nói là người học, sinh đắc thiện, v.v… cũng gọi là Học. Nếu không như vậy, thì tức là chẳng phải không thuận với học kia.

Nghiệp do kiến dứt trừ: Nghĩa là thọ nghiệp bất thiện, v.v… của đường ác, đồng lấy nghiệp thân người nữ; nghiệp “hữu”thứ tám; nghiệp trời Vô Tưởng; nghiệp Uất-đơn-việt và nghiệp thiện, báo riêng của quỷ, súc, vì được kiến-đạo rốt ráo không thọ.

Nghiệp, v.v… Do tu mà dứt trừ. Nghĩa là có nghiệp bất thiện cũng lãnh chịu khổ thọ, báo riêng của người, trời. cho nên, với nghiệp thiện và nghiệp vô ký, đồng do tu đạo dứt trừ.”

Hỏi: “Thiện và vô ký chẳng phải là thể che lấp, sao lại do tu dứt trừ?”

Giải thích: “Cũng bị duyên phiền não ràng buộc, vì chưa lìa trói buộc dứt đoạn thiện hữu lậu và thể của uẩn vô ký, gọi là Đoạn. Cho nên quyết-trạch nói rằng: “Dứt kiến-hoặc, được đoạn giới; dứt tu hoặc, được không có cõi Dục. Hai thứ này là Niết-bàn hữu dư. Đoạn thiện hữu lậu và uẩn vô ký được diệt giới, đây là Niết-bàn vô-dư.

Lại do kiến đoạn phiền não, phát ra nghiệp ác, hoàn toàn chiêu cảm hai báo chung, riêng của đường ác. Nếu y cứ nhân mất, quả tan, thì đoạn, cũng gọi là kiến đạo đoạn. Vì thế, văn chỗ khác nói: “Tất cả cõi uẩn, giới, xứ đều là kiến đoạn. Nếu y cứ ở bên nghĩa cắt đứt duyên buộc ràng thì đây là hai báo chung, riêng của đường ác, đều là tu đoạn”(do tu dứt trừ), cho nên, chỗ khác, nói: “Tất cả thể của uẩn vô phú, vô ký đều là tu dứt trừ. Nếu kiến đoạn chỉ làm nhân xa, v.v… phát khởi nghiệp lành, chiêu cảm hai báo chung riêng trời, người thì nghiệp và báo này đều là tu đoạn.

Do từ tu dứt trừ, nên tâm thiện phát nghiệp, cảm báo, chẳng phải do kiến dứt trừ hoặc, vì phát khởi gần.

Tu dứt trừ phiền não, nếu tăng phẩm trên, thân phát nghiệp ác, cảm đến nghiệp chung, riêng trong đường ác, thì nói chủ thể phá là tu đạo đoạn. Và, nghiệp thiện, ác cảm xả thọ của Lại-da kia.

Tam Tạng Pháp sư nói: “Cũng kiêm cảm báo xả thọ trong sáu thức là xả Dị-thục sinh.”

Hỏi: “Bảy phương tiện thiện của kiến đạo trở xuống cũng chiêu cảm báo riêng của người, trời,vì sao không nói là tu đoạn?”

Đáp: “Đã nói, nghĩa là thọ cõi thiện, trong nghiệp thiện nói: “Trong bốn nghiệp hắc hắc, chẳng phải nghiệp phước gọi là hắc hắc nghĩa là nghiệp chung của ba đường ác và ác riêng của năm đường. Nghiệp bất động kia gọi là bạch bạch. Nghĩa là nghiệp thiện chung, riêng của cõi Sắc, Vô Sắc. các nghiệp phước kia gọi là nghiệp hắc bạch hắc bạch. Nghĩa là nghiệp chung của người trời cõi Dục và thuận với nghiệp thiện riêng của năm cõi. Thiện là đối tượng oán ghét của bất thiện. Vì đối lập nên gọi là nghiệp hắc bạch hắc bạch. Vì chưa dứt nghiệp hắc, nên nghiệp phước kia mới được tên gọi này.

Ở đây Luận sư Cảnh giải thích: “Ở đây nói ngiệp phước lúc chưa lìa dục, gọi là nghiệp hắc bạch, đây là nghiệp bất tận thuộc bốn nghiệp như hắc, v.v… của luận Du-già. Do không thuộc người lìa dục kia khởi nghiệp thiện cõi Dục.”Nhưng Tam-Tạng Pháp sư nói: “Thiện lúc lìa dục là loại thiện chưa lìa dục, được nói là nhiếp hết.”

Ba thứ này, luận Đối-Pháp nói: “Hoặc nhân, hoặc quả đều gọi là chung là nhân hắc hắc vì nhiễm ô, nên quả không đáng ưa thích. Nhân bạch không nhiễm ô nên quả đáng ưa thích.

Nhân hắc bạch hắc bạch, vì thiện, ác lẫn lộn, nên quả ác bị lẫn lộn. Quả của nghiệp phước cõi Dục, nhất định là phi phước, vì lẫn lộn nên gọi là bạch hắc bạch hắc.

Tự có quả phi phước, vì không bị phước lẫn lộn, nên không gọi là nghiệp hắc bạch, hắc bạch.”

Lại, luận kia nói về nghiệp hắc hắc, nghĩa là nghiệp bất thiện: Ý lầy người dứt thiện đã khởi nghiệp thuần bất thiện, và người không đoạn thiện đã khởi nghiệp thuần bất thiện của phương tiện căn bản, dùng làm hắc hắc. Nếu nghiệp bất thiện lẫn lộn với nghiệp thiện kia, thì hoặ là căn bản, hoặc là phương tiện. Như nghiệp bất thiện này hợp với thiện kia, lập ra nghiệp hắc bạch, hắc bạch.”

Hỏi vì sao Du-già nói tất cả nghiệp phi phước đều gọi là hắc hắc.”Luận Đối-Pháp thì loại trừ bất thiện lẫn lộn với thiện. Bất thiện khác khởi riêng mới gọi là hắc hắc?”

Giải thích Du-già lấy nghiệp bất thiện mạnh mẽ của cõi Dục, dù có khởi xen kẽ với nhau, nhưng không bị lẫn lộn với thiện. Cho nên tất cả bất thiện đều gọi là hắc hắc. Đối-Pháp thì y cứ khởi ròng rã nghiệp bất thiện, vì không được thiện xen vào, nên gọi là hắc hắc nếu xen nhau khởi thì thuộc về nghiệp hắc bạch thứ ba.

Lại, Luận Đối Pháp và quyển sáu mươi sáu nói: “Nghiệp bạch bạch, là nghiệp thiện của ba cõi. Nghiệp hắc bạch hắc bạch, là nghiệp lẫn lộn cõi Dục, chẳng phải là nghiệp của một sát na chung cả thiện, ác. Nhưng dựa vào ý lạc và do hợp với phương tiện, nói là một nghiệp, gọi là nghiệp lẫn lộn, nghĩa là vì có niềm vui của ý nghiệp, và vì phương tiện hắc, nên bạch thì giả vờ tướng của tâm lừa dối tu các điều lành. Hoặc có ý nghiệp vì ưa thích, vì phương tiện bạch, nên hắc thì dạy bảo đệ tử phát điều ác của thân, ngữ. Nghiệp hắc bạch này cả tánh thiện, ác.”

Luận này dựa vào ba nghiệp phước, phi phước, bất động để nói về nghiệp hắc hắc, v.v… Luận Đối Pháp kia thì dựa vào thiện, ác thuần-túy lẫn lộn để nói về nghiệp hắc hắc, v.v…, cho nên không trái nhau.”

Chẳng phải hắc, chẳng phải bạch, chẳng phải nghiệp Dị-thục diệt hết các nghiệp, Không chiêu cảm quả vô phú vô ký nên gọi là không có quả dị thục, có công năng dứt ba nghiệp trước nên gọi là có công năng dứt hết các nghiệp nên lấy tất cả đạo phương tiện và vô gián vô lậu làm nghiệp thứ tư. Luận Đối pháp cũng nói: nghiệp phi hắn phi bạch có công năng dứt hết các nghiệp nghĩa là các nghiệp vô lậu trong phương tiện Vô gián đạo là vì các nghiệp đó đã đoạn đối trị, không đồng với luận Tiểu-thừa chỉ nói mười bảy tư vô lậu là nghiệp thứ tư.

Hỏi: “Hai luận đồng lấy các nghiệp vô lậu trong phương tiện, Vô gián đạo, là lấy ý tuệ hay cũng lấy thân, ngữ làm nghiệp thứ tư?”

Luận sư Cảnh giải thích: “Dù chưa thấy văn, nhưng xét về ý thì nên lấy ý tứ đồng thời của Thánh đạo làm nghiệp thứ tư, vì rằng lúc Thánh đạo khởi, thì không có hai nghiệp thân, ngữ riêng làm thể, chỉ y cứ ở ý tứ để giả lập bảy chi thân, ngữ làm đạo chung. Hoặc vì tìm kiếm đến thật, nên lấy ý tứ làm nghiệp thứ tư, bởi ý tứ kia tương ưng với tuệ vô-lậu, khởi chung làm đối trị đoạn.

Trong đây đạo Vô-gián thân dứt hạt giống hoặc do công năng gây hao hụt “hoặc”của đạo gia-hạnh.”

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích: “Nếu dựa theo văn của quyển này thì một đạo Vô-gián và lìa dục dần trong Kiến đạo của nhị thừa, còn tám Vô gián tư trước chỉ diệt hết nghiệp hắc hắc. Đạo Vô-gián thứ chín diệt tận cả hai thuần hắc và với nghiệp xen lẫn, lìa bốn tĩnh lự và bốn Vô-sắc. Đạo Vô-gián thứ chín chỉ hết nghiệp bạch bạch. Đây là dựa vào sự lần lượt đắc quả mà nói. Nếu dựa theo định vị-trí ban đầu và sơ định, vượt qua nhập kiến đạo thì sẽ được một đạo Vô-gián tư của quả thứ ba, lìa thuần hắc và xen tạp. Nếu trước đã lìa nhiễm của địa trên, nương tựa bốn tĩnh lự, thì sẽ được một Vô-gián tư của quả thứ ba, lìa nghiệp thuần hắc và xen tạp, tùy từng đối tượng thích ứng. Và nghiệp bạch bạch.

Nếu từ sơ quả lấy quả thứ tư, thì tám Vô-gián tư trước chỉ lìa nghiệp hắc hắc. Vô-gián tư thứ chín đều lìa cả ba nghiệp. Một Vô-gián tư của các Bồ-tát kiến đạo thì chỉ lìa nghiệp hắc hắc. Một Vô gián tư của định Kim-cương Dụ, cả hai đoạn ba nghiệp. Tất cả nghiệp đạo ác sinh, thì đoạn tất cả nghiệp thiện.

Vì lìa duyên ràng buộc, nên phải xa lìa hết nhiễm của địa mình. Bấy giờ, vì hết nhiễm, nên tư của đạo Vô-gián thứ chín mới nói là hết nghiệp bạch.

Từ trên đến đây, đã nói về thuyết đoạn nghiệp tư của hạt giống hữu lậu. Nếu khuất phục hiện-hạnh, thì chỉ trừ kiến-đạo không có giahành vô lậu. Ngoài ra, tu-đạo và gia-hạnh đạo có khả năng chế phục hiện-hành. Trong đây, chỉ nói các nghiệp vô lậu là ba nghiệp trước, vì dứt đối-trị. Đạo giải thoát của Nhị thừa dù cũng có đoạn và các đối trị đoạn của sở tri chướng của Bồ-tát Thập địa, vì đều là phi nghiệp cho nên không nói. Vì thế, nên luận Đối-Pháp nói: “Các nghiệp vô lậu trong gia hạnh, Vô gián đạo vì đều dựa vào điểm vượt hơn để kiến lập, nên không lấy đạo khác. Đạo thắng-tấn, v.v… Dều dựa vào công hạnh riêng, cũng chẳng phải hoàn toàn khuất phục các phẩm nghiệp, cho nên không nói. Nếu theo Đối-Pháp nói là ba nghiệp trước, thì theo thứ lớp Nhị-thừa được quả, một Vô-gián tư của kiến-đạo và lần lược lìa dục. Tám Vô gián tư trước lìa nghiệp thuần hắc, lẫn lộn, vì lẫn lộn chung cho cả hai tánh. Vô gián tư thứ chín lìa thuần hắc và tạp nghiệp dứt hết, cùng với bạch nghiệp. Lìa bốn Sắc, bốn vô-sắc, Vô-gián tư thứ chín chỉ là nghiệp bạch bạch. Đây là dựa theo sự lần lượt đắc quả mà nói. Nếu dựa vào bốn tĩnh lự siêu việt nhập kiến đạo được quả thứ ba, thì một Vô-gián tư cũng lìa cả ba nghiệp. Nếu từ Sơ quả, vượt qua lấy quả thứ tư, thì tám Vô gián tư trước và Bồ-tát kiến-đạo chỉ lìa thuần hắc và nghiệp lẫn lộn. Vô gián tư thứ chín và Định Kim Cương dụ của Bồ-tát, cả ba nghiệp dều cùng lìa.

Đây là nói dứt hạt giống. Nếu chế phục hiện hành, thì chỉ trừ kiến-đạo, tất cả các địa vị khác đều thêm đạo gia-hạnh. Về nghĩa khác đồng với trước. Nói riêng về nghĩa đoạn, lìa ràng buộc cũng không nhất định. Nên như lý tư duy.

Nghiệp khúc, uế, trược. Có hai lần nêu ra thể:

1. Nghiệp thiện, bất thiện của ngoại đạo, gọi là khúc (tà vạy). Nghiệp tà vạy này và pháp phàm phu này thấy ngược ngạo đối với Thánh-giáo, nghĩa là kẻ bám trụ kiến-thủ.

Tà quyết định, nghĩa là giác do dự. Nghiệp thiện, bất thiện, gọi là uế, tức là hai nghiệp trên và pháp phàm phu này không quyết định đối với Thánh-giáo, nghĩa là nghiệp thiện, bất thiện, gọi là trược (vẩn đục).

2. Chỉ trong pháp ngoại đạo mới có ba nghiệp này, như văn.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hợp với trong đây có ba cách giải thích:

1. Có nghĩa rằng: “Nghiệp thiện,bất thiện của ngoại đạo gọi là khúc chướng (chướng cong vạy). Vì pháp Phật ngay thẳng, nên chín chướng cong vạy này, gọi là uế (nhơ nhớp). Vì ô (làm hoen ố) chánh pháp, vì thân tâm ô uế, nên khúc uế này gọi là trược (vẩn đục). Vì là căn bã của pháp ác, vì rối loạn thân tâm, nên đều có cả thiện, bất thiện.”

Luận này nói: “Rằng chính nghiệp cong vạy này cũng gọi là nghiệp nhơ bẩn, tức nghiệp cong vạy, nhơ bẩn cũng gọi là nghiệp vẩn đục.

2. Có nghĩa rằng, nghiệp cong vạy như trước. Nghiệp nhơ bẩn, nghĩa là phàm phu của pháp nội đạo đối với vô-minh, tham, sân, mạng, thân, biên kiến trong Phật giáo, gọi là chung là điên đảo kiến. Nghĩa là kiến giới thủ, gọi là chấp lấy kiến thủ của mình.

Tà kiến gọi là tà quyết định. Nghĩa là nghi gọi là giác do dự: Tùy đối tượng thích hợp với nghi kia, hoặc tương ưng; hoặc do nhân gần; hoặc do nhân xa, khởi lên ba nghiệp thiện, bất thiện gọi là uế nghiệp. Vì nhiễm ô chánh pháp, vì nhiễm uế, ác, nên phàm phu nội đạo, đều không quyết định đối với môn tà, chánh, đều do nghi là trước hết, gọi là người do dự đã có nghiệp thiện, bất thiện, gọi là nghiệp vẩn đục, vì nhân nghi mà khởi lắm cặn bã nhơ nhớp, nên là nghiệp ác thừa thải.

Nghi trong nhơ bẩn ở trước, là do tà định khởi. Nghi này vì nương tựa không nhất định, nên trở thành khác nhau, không phải vì che lấp chánh đạo Phật pháp mà là vì từ lâu được nhập, cho nên không nói. Phàm phu của nội đạo cũng có nghiệp cong vạy.

3. Nghĩa là ba nghiệp này đều do ngoại đạo khởi lên tà giải, phát ra hành động, gọi là cong vạy, tức nghiệp tà vạy này vì che lấp công đức hữu vi, nên gọi là nhơ nhớp. (uế); chướng ngại chứng công đức vôvi, nên gọi là trược (vẩn đục), đều chung cho cả ba nghiệp thiện, bất thiện.

Luận Dối-Pháp Quyển tám có hai lần “lại nữa”để giải thích về ba nghiệp trước:

1. Ba nghiệp che lấp tám đạo, gọi là cong vạy, có công năng làm nhiễm ô nói tiếp nhau, phát sinh chướng ngại, gọi là uế. Nếu kiến điên đảo của ngoại đạo nẩy sinh, thì gọi là trược, chỉ nghiệp trược này gọi là do ngoại đạo khởi, không nói hai thứ trước do người nào khởi?,Cho nên, biết về mặt lý, chung cho cả trong, ngoài sanh khởi. Đã không có nói riêng về tánh, mà vẩn biết rõ là chung cho cả thiện lẫn ác. Nhưng vì đồng với “lại nữa”này, nên không có lỗi.”

Luận Đối-Pháp lại giải thích: “Biên, tà kiến, Tát-ca-da-kiến (thân-kiến), đã phát các nghiệp như thứ lớp kia, gọi là khúc, uế,trược. Cứ theo đây, cũng chỉ là nghiệp mà ngoại đạo đã khởi.

Ba nghiệp như thế, tùy theo phiền não, về nghĩa khởi của nội, ngoại đạo, chẳng phải nói riêng, mà đều có thể nhất định. Do đó cho dù nghĩa có khác nhau, nhưng cũng không trái nhau. Không đồng với Tiểu-thừa nói về nghiệp khúc, uế, trược dựa vào siểm (dua nịnh), sân tham, mà nẩy sinh.

Trong nghiệp thanh tịnh chỉ lấy chánh định làm nghiệp thiện của phàm phu. Luận Tiểu-thừa lấy chung các nghiệp thân, ngữ, ý hữu lậu và vô-lậu của phàm Thánh, gọi là ba tịnh nghiệp. Tiếng Phạm là MâuNi, nghĩa tịch mặc, Hán dịch gọi là tịch tịnh, vì chứng lý tịch tịnh.

Nếu dựa vào dưới đây, trong địa văn tuệ, có hai nghiệp thân, ngữ trong thân của tất cả bậc Thánh và tâm là thể của ba tịnh nghiệp.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tâm, là ý nghiệp, không đồng với luận này. Kia nói nghiệp Mâu-ni của thân bậc thánh chỉ lấy nghiệp hữu-lậu, vô-lậu, gọi là ba tịnh nghiệp, không đối với phàm phu để phân tích sự khác nhau.

Nay, ở đây đối với phàm, thánh, nội, ngoại đạo khác nhau, cho nên nghiệp thanh tịnh chỉ có ở phàm phu. Ba nghiệp có trong thân bậc Thánh, đều gọi là nghiệp Mâu-ni. Vì quán đối khác nhau, nên cũng không trái nhau. Luận sư Bị nói hai giải thích của Tam Tạng Pháp sư:

2. Là tâm vương. Quyết Trạch nói: “Nghiệp vắng lặng là ý thân ngữ, ý tức là tâm vương. Chỉ lấy các nghiệp, vô-lậu, vì lìa não loạn, mà nói là ý, vì tướng xuất phát từ vì ngữ. Với năm môn này gom thành ba loại:

Ba nghiệp mà ngoại đạo khởi, gọi là cong vạy. Phàm phu pháp nội còn có ba nhóm:

– Tà định khởi nghiệp nhơ bẩn.

– Bất tịnh, khởi nghiệp vẩn đục.

– Chánh định khởi tịnh nghiệp.

Tất cả bậc Thánh đã có nghiệp thù thắng hữu-lậu, vô-lậu, gọi là nghiệp Mâu-ni.

Trong tai họa lỗi lầm của nghiệp thứ chín, sinh ra tội hiện-pháp, nghĩa là như hay vì hại mình, khởi gia-hạnh sát, nghiệp sát chưa trở thành hiện thực, bị người khác hại. Đương lai chưa hẳn thọ, vì chưa trở thành hiện bị người khác hại. Vị lai chưa hẳn thọ, chưa thành nghiệp năng.

Lại chẳng hạn như ở phàm phu, hành sát, v.v… trước kia, bị người khác hiện đang hại. Về sau được nhập Thánh, sẽ không thọ tội sau. Hoặc sẽ được thay đổi quả sau, ở hiện thân đang thọ, về sau lại không thọ. Như Ương Quật ma-la, v.v…, cũng gọi là tội hiện pháp, chỉ đồng như trước, hay vì hại mình, nên nói rằng: “Nghĩa là như.”

Thọ đối tượng sinh thân kia, thân trong lo khổ, sáu thứ lỗi lầm: Tức là hại mình, v.v… trước kia, dù là phương tiện, nhưng không thể thành “sinh thân”, tâm cảm thấy lo buồn, khổ sở.

Lại có mười lỗi lầm do phạm thi-la (giới) như kinh có nói rộng: “Như vì giữ giới, không có ăn năn. Vì không ăn năn, nên tâm an, tâm an, nên khinh an; vì khinh an nên vui; vì vui, nên định; vì định, nên được trí; vì trí nên thấy mười thứ công đức như thật, v.v… Trái lại, gọi là mười thứ lỗi lầm. Cũng có thể phạm mười giới Sa-di kia mà sinh lo khổ là mười tai họa lỗi lầm, vì từ lần đầu đã phạm, nên chỉ nói mười, vì không được thọ giới cụ túc.

Bốn thứ nghiệp đạo bất thiện: Tức bốn chi giới: Thân ba, ngữ một trong năm giới cận sự.

Tánh giới của nghiệp đạo: Uống rượu là vì ngăn ngừa nên ở đây nói riêng.

Xiển-Địa-Ca: Là tên cận sự. Danh từ này không dịch, vẫn giữ nguyên tiếng Phạm

3.Trong lìa nhiễm có hai:

a- Nêu bốn thứ. b- Tùy theo giải-thích riêng.

Ba mươi sáu xứ, cõi Dục, v.v… Như quyển thứ tư ở trước nói: Hắc thắng sinh, nghiệp họ ác, gọi là hắc; là vì cõi người; nên gọi là thắng. Hoặc vì cùng tột trong hắc nên gọi là hắc thắng.

Chiên-Đề-la: Là đồ tể. Bốc-Yết-Bà, cũng nói là Bổ-Yết-Bà, là người quét dọn phân nhơ.

Chẳng phải hắc, chẳng phải bạch thắng sinh. Tức là Phệ-xá, v.v…,

bậc thầy khuôn khép trong sinh bất định.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “A-già-lợi da, gọi là quỹ phạm sư.

Ô Ba-đà-da, gọi là thân giáo sư, tức là Hòa thượng, A-xà-lê.

Quảng bác Hiếp-sơn, xưa nói là Tỳ-phú-la sơn. Hình núi ấy trông như giống của phi thiên.

Trong sinh lưu chuyển có bốn: a. Hỏi. b, Đáp lược. c. Gạn lại. d. giải thích rộng.

Bài tụng đầu trong giải thích, nêu mười môn, sau, tùy theo giải thích riêng:

1- Thể. 2- Môn. 3- Nghĩa.4- Sai khác. 5- Thứ lớp. 6- Nạn. 7- Giải thích về lời. 8- Duyên tánh. 9- Phân biệt duyên. 10- Nhiếp các kinh.

Thể, là nói chung về duyên khởi. Phần vị sinh của ba đời, dẫn phát thể hoàn-diệt của nhân duyên lưu chuyển. Không phải là nói riêng mười hai duyên sinh, mà mỗi duyên đều có tự thể riêng. (Môn sai khác ở dưới, sẻ giải thích rộng) Văn chia làm ba:

  1. Nêu ba tướng.
  2. Tùy giải thích riêng.
  3. Tổng kết.

– Ba tướng:

  1. Từ mé trước, sinh mé giữa.
  2. Từ mé giữa, sinh mé sau.
  3. Từ mé giữa hoặc hướng đến lưu chuyển, hoặc hướng đến thanh tịnh rốt ráo.

Hai mé trước, gọi là lưu chuyển; một mé sau, gọi là hoàn diệt.

Thành Duy-Thức chép: “Mười nhân, hai quả, nhất định không đồng với thế gian.”

Nay, luận dựa theo nghĩa này. Vì thế, đối với hai đời, để nói về duyên sinh, tức Duy-Thức kia lại nói: “bảy thức trước trong nhân với ái, thủ, hữu, hoặc khác, hoặc đồng. Nếu hai, ba, bảy thứ, mỗi thứ đều nhất định đồng với đời. Như thế, tức chứng tỏ duyên sinh của ba đời.”

Nay, ở đây chỉ ngăn ngừa duyên-khởi của Tiểu-thừa nhất định lập ba đời, dựa vào hai đời để nói. Rằng không phái nhất định chỉ có thế. Quá khứ bảy, hiện tại ba, vị lai hai là nghiệp-báo sau, vì chiêu cảm Dị-thục.

Từ đây trở xuống, trong phần giải thích riêng chia làm ba:

  1. Giải thích tướng đầu tiên và tướng thứ ba.
  2. Thế nào là từ mé giữa trở xuống, là giải thích tướng thứ hai.
  3. “Lại có trước, là góp hợp tư lương”trở xuống, là phân biệt rộng về câu hướng đến thanh tịnh trong tướng thứ ba.

Trong phần trước lại có hai:

  1. Nói rộng về lưu chuyển.
  2. Thế nào là bất sinh”trở xuống, là chỉ báy sơ lược về hoàn diệt.

Trong phần trước lại có ba:

  1. Nói về thai sinh.
  2. Nói về ba sinh còn lại.
  3. Giải thích về chỗ sinh của ba nghiệp, trong phần đầu lại có ba:
  4. Hỏi.
  5. Đáp.
  6. Kết.

Không hiểu rõ vô-minh ở mé trước. Nghĩa là không hiểu rõ hai thứ thế tục, thắng nghĩa của mé trước, vì khổ mà khởi lên hai cái ngu.

Nổi khổ của thế tục. Nghĩa là ba đường ác, vì tất cả thế tục đều biết là khổ.

Khổ của thắng nghĩa. Nghĩa là trí thù thắng của các người, trời vì biết là khổ.

Luận Đối Pháp quyển bảy chép: “Mê nổi khổ của thế tục, gọi là Dị-thục; ngu khởi hạnh phi phước. Mê khổ của thắng nghĩa, gọi là nghĩa chân thật, ngu khởi phước, bất động hạnh. phần nhiều vì mê mé trước, hiện hai Dị-thục, nên nói là ngu này không rõ mé trước. Về mặt lý, thật ra cái ngu này cũng mê mé sau, vì phần nhiều mê hiện nhân, nên lược qua không nói.

Do đây, tùy nghiệp thức, cho đến qua đời, lưu chuyển không dứt.”

Hỏi: “Vì sao không nói bốn thứ như danh sắc, v.v…?” Bạt Pháp sư có ba thuyết:

1/ Nêu vượt hơn, thu nhiếp kém. Trong năm chi, thức là vượt hơn hết, cho nên lấy căn bản trước nhất, vì nếu không có chi thức thì các thứ khác sẽ không sinh.

2/ Ở đây nói về khổ của thức, không phải chỉ hạt giống, mà cũng có hiện thức. Thức chủ thể giữ vững hạt giống của bốn chi, nên nói về thức xong, cũng nói về bốn chi. Hạt giống của bốn chi không có tánh riêng với đối tượng mà thức nương tựa (sở y thức).

3/ Luận nói tùy nghiệp thức tức là chi thức. Vì vượt bỏ hẳn bốn chi, nên nói: Là “Cho đến”. Danh ngôn, hạt giống của thức, v.v… này được huân tập trước. Dù đã được huân tập, nhưng chưa biết được chỗ sinh. Do nghiệp chiêu tập, sẽ sinh ra quả của hai cõi thiện, ác. Thức chuyển biến theo nhân, gọi là thức tùy nghiệp. Đã bị huân tập cho đến thân trước chết đi, không dứt bặt, có khả năng làm nhân cho thức nối tiếp nhau trong hiện tại. Khi quả ở đời hiện tại sắp sinh, thì thức không thể tự khởi, phải nhờ vào yếu tố tham ái trong,ngoài của quá khứ hiện tiền, làm bạn giúp thắm nhuần, mới sinh.

Chi thọ trong thân ở trước có hai:

  1. Thọ Dị-thục, tiếp nhận duyên thân trong sinh.
  2. Thọ cảnh giới tiếp nhận “duyên”cảnh ngoài khởi. Nhân hai thọ này, sinh ra ái trong, ngoài, để làm công năng thấm nhuần.

Ở trước nêu thức tùy nghiệp gồm thâu năm hạt giống như thức, v.v…. Nay, nêu ái trong ngoài cũng nhiếp chi Thủ. Hoặc ái nội, gọi là ái; ái ngoạn, nghĩa là thủ, nói lên đã thấm nhuần sáu chi hành, v.v… chuyển biến, gọi là hữu của mé trước. Ở quả đời hiện tại, thức tùy, chuyển danh sắc, v.v… còn lại theo thứ lớp được sinh ra quả nối tiếp nhau. Thức và danh sắc đều có cho đến già suy, v.v…”

Cơ Pháp sư nói: “Trước bảy ngày đầu, gọi là thức trước bốn mươi chín ngày, gọi là danh sắc.”

Nay, nói gốc, ngọn của các phần vị rộng, hẹp, vì nói là do nương tựa nhau gồm thâu sáu xứ, v.v…, chỉ nói hai phần vị này cho đến già suy, không phải không còn có phần vị khác. Lại, trong chi sinh, già, chết ở hiện tại, nhân thức, danh sắc sinh ra quả làm sáng tỏ nhau, nên nói tên của chi già chết kia, chứ không phải chi thức ở đời hiện tại.

Trong quyển chín mươi ba chép: “Thức là sở y (đối tượng nương tựa) là nói nghiệp thức và quả Dị-thục.”

Nay, vì nói chủ thể nương tựa (năng y), nên nói là nghiệp của danh sắc với quả Dị-thục. Dị-thục chung, riêng, chủ thể nương tựa, (năng y) đối tượng nuơng tựa (sở y) khác nhau.

Do phải nuơng gá sáu chuyển y: Tức sáu căn thuộc trong danh sắc, cho nên, kinh nói: “Danh sắc “duyên”thức”. Đây là dựa vào Bố-tát quán nghịch về khổ, tập, đến thức, danh sắc, lại làm duyên lẫn nhau. Quán đế đã khắp, làm duyên”dẫn dắt lẫn nhau. Cho nên quán khổ, tập đến thức mới thôi dứt. (Như quyển chín mươi ba có giải thích rộng). Tùy đối tượng thích hợp với pháp quán đó làm đối tượng nương tựa cho sáu thức, nghĩa là không phải chỉ nói chủng thức trong năm thứ đã sinh ra hiện thức. Thức đó chỉ cho thứ tám. Cho nên quyển chín mươi ba và thuyết dưới đây đều dựa vào tất cả nối tiếp nhau được gọi là sáu thức thân.

Với nghĩa rõ ràng, nói chung là vì thân thức một thời kỳ, nên danh sắc “duyên”thức. Do thức chấp trì, nên thức là sở y (đối tượng nương tựa). Thức “duyên”danh sắc, nhờ danh sắc kia làm chủ thể nương tựa, hoặc quán là cảnh.

Nếu đối với Đẳng trong nhóm hữu sắc hữu tình. Luận Thành DuyThức chép: “Hóa sinh có sắc, đầu tiên thọ phần vị sinh, dù đủ năm căn mà chưa có tác dụng. Bấy giờ, chưa gọi là chi sáu xứ. Cho nên đầu tiên sinh không lên vô sắc, dù nhất định có ý căn mà chưa sáng rõ, chưa gọi là ý xứ.

Trong đây, ý nói rõ các hóa sinh kia, sát na sinh đầu tiên gọi là chi Thức. Từ đây về sau, tùy thích ứng với năm căn, ý xứ chưa sáng rõ về sau, gọi là chi Danh sắc.

Kế là, sáu căn sáng rõ, gọi là sáu xứ. Về sau, chi xúc, thọ dần dần sinh trưởng. Cho nên, dù các căn quyết định viên mãn, vẫn khác với ở trước. Năm chi như thức, v.v… cũng có trước, sau.

Trong đây, vì thức trên duyên hạt giống của sắc, nên nói là nuơng tựa sắc mà khởi. Lại, do nghiệp phước sinh ở cõi người, trời, v.v… Ba thứ này đều y cứ vào dẫn nghiệp được quả, tức thuận với nghiệp sinh thọ, thuận với nghiệp hậu thọ chỉ chiêu cảm dẫn nghiệp, chung cho nghiệp dẫn, mãn, mới gọi là chi hành. Phát ra Vô-minh này, gọi là chi vô-minh. Nhuần thấm ái thủ ấy, gọi là chi ái, thủ. Nghiệp này được tập hợp, gọi là năm thứ như thức, v.v… Sáu thứ này được chuyển biến, mới gọi là chi hữu, hữu ấy sinh chiêu cảm, gọi là sinh, già chết, cho nên nói lên tất cả đều thuận với nghiệp hiện thọ; giúp đở riêng nghiệp tương lai, đều không phải là chi hành. Nếu không như vậy, thì nghiệp phước lẽ ra sinh trong năm đường.

Quyển này trước nói về nghiệp phước. Nghĩa là cảm Dị-thục của đường lành cõi Dục và thuận với Dị-thục, v.v… của năm đường. (Nghĩa này như Thành Duy-Thức có nói rộng ). Do đây, năng (chủ thể), sở (đối tượng) của nghiệp kia, phát ra năng sở nhóm họp; năng sở thấm nhuần; năng sinh, sở sinh, đều không thuôc về mười hai duyên khởi.

Giải thích trong tướng thứ hai. Nghiệp quả trước của hai thứ thọ:

  1. Quả Dị-thục bên trong.
  2. Quả tăng-thượng bên ngoài,

Hoặc có người nghe phi chánh pháp, là đời hiện tại; hoặc người do tập quán trước, là quá khứ hai người này đều là do phân biệt khởi ngu. Do mê nội, hiện tự thể và vì ngu hữu sau, nên phát nghiệp. Do mê ngoại, vì ngu nên nhuận sinh, đã chứng tỏ vì mê quả nội hiện, nên đối với khổ sau không biết đúng như thật.

Do nghiệp đã tạo mới này, nên nói thức ấy tên là tùy nghiệp thức. Nghĩa là hạt giống thức đuổi theo nghiệp, nên được tên. Vì hành, nên thức sinh, do chiêu tập mà sinh, chứ chẳng phải do phân biệt về thể sinh, vì là duyên tăng-thượng. Hoặc chi thức đầu chỉ có thức thứ tám, đều dựa vào một kỳ hạn. Tất cả thức, mà nói chung là cả sáu thức thân, tức tụ hội danh sắc của mé trước, có thể làm đối tượng nương tựa cho sáu thức cũng giống như thế. Bản-thức là dẫn quả, theo hạt giống của danh sắc. Danh sắc là chung sáu xứ chủng tùy. sáu xứ được dựa vào tùy hạt giống xúc. Xúc là chủ thể sinh tùy hạt giống của thọ. Duy-Thức, Đối-Pháp nói rằng: “Năm thứ như thức, v.v… này được gọi là đối tượng dẫn (sở dẫn), vì vô-minh, hành là chủ thể dẫn (năng dẫn). Chính sở dẫn và năn dẫn này đều là nhân dẫn, dẫn sinh ra già chết, tử, thế ở rất, xa. Dù đều gọi là nhân dẫn, nhưng năm thứ như thức, v.v… với sinh, già, chết là nhân dyên sinh. Quyển chín mươi ba và trong đây nói tên riêng là dẫn nhân.

Luận rằng vì thức năng dẫn này cho đến thọ là thân trong một thời kỳ. Không phải vô minh, hành, không phải thuộc về dẫn nhân. Hai dẫn năng, sở, các giáo đều nói khác nhau.

Thành Duy-Thức nói: “Du-già nói: “Duy-Thức là chủ thể dẫn vì nghiệp chủng trong thức, gọi là chi thức, nên hạt giống của thức Dị-thục thuộc về danh sắc.”

Kinh duyên khởi nói: “Chi thức chung cho cả năng dẫn, sở dẫn, vì hạt giống nghiệp, hạt giống thức đều gọi là Thức. Thức là dựa vào danh sắc, chứ không phải thộc về danh sắc. Về nghĩa thì rõ ràng ái, thủ, hữu, được gọi là chủ thể sinh (năng sinh); chi sinh, già, chết là đối tượng sinh (sở sinh).”

Luận Thành Duy-Thức chép: “Năm thứ như thức, v.v… Do nghiệp huân phát, dù là đồng thời, mà dựa vào chủ, bạn, chung, riêng, nên, nhân quả hơn, kém khác nhau. Đó là lý do các Thánh-giáo dả nói có trước, sau. Lại nữa, dựa vào phần-vị khởi ở tương lai, hiện tại, vì có thứ lớp, nên nói có trước, sau. Do đây, cũng hội ý các văn trước và sau để nói: “Do thức này, v.v… cũng nói là hiện hành, còn nhân, thời gian, nhất định không có nghĩa hiện hành.

Do ái này, nên đôi khi có người phát tâm mong cầu, cầu sinh cõi Dục. Hoặc có người phát tâm mong cầu, cầu sinh cõi Sắc, Vô-Sắc. Hai mong cầu này là thể chung, tức là ái.

Bốn thủ là sau, vì đầu tiên khởi hai mong cầu, nên về sau, sinh riêng ra hai thủ, tức “hữu”sau thuộc về nhân sinh.

Quả Dị-thục sau, nói về thể, nhân duyên, nghiệp, duyên-tăngthượng dều là chi hữu, gọi là riêng là sinh, chẳng phải chi ái, thủ, chẳng thuộc về sinh nhân.

Đối-Pháp, Duy-Thức nói: “ái, thủ, hữu vì tiếp cận sinh quả, nên hợp gọi là chủ thể sinh (năng sinh), không trái nhau”. Nhưng luận ĐốiPháp nói: “Rằng khi ở nhân, có chủ thể dẫn, đối tượng dẫn, rằng lúc ở quả có chủ thể sinh (năng sinh), dối tượng sinh (sở sinh), nghĩa là chưa thành thục, gọi là nhân, chứ chẳng phải không có nghĩa của nhân. Đã thành thục, gọi là quả, chứ chẳng phải không có nhân của quả, y theo nghĩa đều khác nhau, cũng không trái nhau.

Các hành này sinh, hoặc dần dần, hoặc sinh ngay: ba chi thai, noản, thấp, đều sinh dần, còn hóa thì khởi ngay, (đã nói như trước). Hoặc đối với chỗ sinh theo thứ lớp hiện tiền, hoặc hạt giống theo đuổi, v.v… Hoặc ở chỗ sanh, thứ lớp hiện tiền, hoặc hạt giống đeo đuổi, v.v… Cõi có cõi Sắc sinh theo thứ lớp hiện tiền; cõi Vô Sắc sinh hạt giống theo đuổi cõi sắc.

Giải thích tướng thứ ba, hướng về thanh tịnh, các hành, v.v… của hai quả trong hướng:

Luận sư Cảnh nói: “Quả Dị-thục nội đã nói ở trước, quả tăngthượng ngoại.

Đối với hai quả kia, lúc tìm kiếm bốn Đế lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thì chánh kiến được sinh.

Cơ-Pháp sư nói: “Hai quả, nghĩa là hai quả khổ đế: Già với chết. Nhân kia là Tập đế; Diệt kia là Diệt đế; hướng về diệt hành kia là Đạo đế.

Quyển chín mươi ba chép: “Xưa, lúc Đức Thế tôn còn làm Bồ-tát, xót thương hữu tình, quán các duyên khởi. Vì trải qua quán Đế, nên trước hết quán già, chết trong hiện tại làm đầu. Lấy như lý quán sát ba tướng :

  1. Quán nhân tế.
  2. Quán nhân thô.
  3. Quán chẳng phải bất định.”

Cảm sinh nhân duyên cũng gọi là sinh. Nghĩa là ái, thủ, hữu, tức nhân duyên tế. Thể của nhân sinh kia cũng gọi là lá sinh. Nghĩa là chi sinh này tức nhân duyên thô.

Quán do có tế sinh mà có già, chết; cũng quán do có thô sinh mà được có già chết. Già, chết tế ở đương lai làm nhân cho sinh, vì chưa khởi quả. Hiẹn pháp già, chết thô sinh, vì làm nhân hiện khởi quả, đây gọi là quán sát hai nhân duyên đầu.

Chẳng phải bất định. Nghĩa là tức trừ hai thứ thể sinh thuộc về chỗ sinh kia, pháp khác nhất định không có công năng cho quả già, chết.

Quán sát tập của Khổ đế như vậy, chưa được hỷ túc, tức lại quán sát Khổ đế hiện tại của nhân duyên tập sau. Nghĩa là quán nghịch khắp thọ, xúc, sáu xứ, danh sắc và thức.

Đã biết khổ đương lai, tập hiện tại làm nhân. tập hiện cũng do tập trước mà khởi, là hữu khổ của biện pháp bờ mé.

Quán chung như thế, Tập nhân khổ khởi, khổ của tập nhân sinh, không còn hiện quán nữa, khổ sẽ do đâu khởi? Vì chẳng khác với trước, cho nên, Bồ-tát ngang thức thối lui, không quán sát thuận cho đến già, chết.

Khổ đế, Tập đế này, quán sát xong, khắp vì quán sát Diệu Đế. Bắt đầu từ già, chết nghịch thứ lớp nhập, cho đến vô minh. Quán khổ Đế hiện tại, tất cả đều diệt tận. Nghĩa là không tạo tác vô minh, vì được duyên hành nghiệp mới.

Như thế, trải quán ba Thánh đế xong, kế là lại tìm kiếm thánh đế diệt này, đạo gì, hành gì mà có thể chứng đắc? Khởi túc niệm trụ, nhớ nghĩ lại xưa kia đã tu chánh kiến thế gian, để được hiện ở trước mặt, trải quán các đế, rồi do chánh kiến, được nhập hiện quán trong các đế, và lần lược chứng đắc vô thượng Bồ-đề, tức là quán hạnh, quán lý duyên khởi của bốn đế trong đây, được trí kiến thanh tịnh của bậc Học, Vô học.

Trong quyển mười dưới đây, cũng có lớp hỏi đáp này nhằm giải thích về lý do dài, ngắn không đồng nhau của phẩm hắc bạch.”

Lại, có giải thích: “Về các hành của hai quả. Nghĩa là các hành của hai chi sinh, già chết. Nhân thô và hai quả hợp nói, nên quán chung về khổ đế đã có trong hiện tại.”

Dù có các giải thích này, nhưng ở đây cho rằng, hai quả ấy lẽ ra là quả Dị thục bên trong và quả tăng thượng bên ngoài. Vì thế, nhận lấy cách giải thích của Pháp sư Cảnh là đúng.

Đối với đối tượng duyên (sở duyên) hành kia, không như thật biết vô minh, xúc đã sinh ra thọ, cũmg lại dứt hẳn, v.v…, nghĩa là xúc hữu lậu sinh các thọ. Lúc thọ hai quả, đối với cảnh sở duyên không như thật biết. Do thọ này làm duyên phát khởi phiền não, phát nghiệp nhuận sinh. Do đoạn thọ này vì không có đối tượng nương tựa (sở y), nên vô minh cũng diệt, sở duyên (đối tượng duyên) không tăng. Chứng tuệ vôlậu gọi là tuệ giải thoát. Do vì thọ đoạn, nên không sinh tham ái. Tâm tương ưng này là lìa tương ưng ràng buộc, chứng tâm giải thoát. Dù cho vô minh của mé giữa kia không diệt, thì các hành như thức, v.v… của mé sau, lẽ ra sinh. Điều này trái với sự giải thích, vì vô minh đã diệt, nên không còn khởi nữa, được pháp không có sinh, việc này thuận với giải thích.

Từ đây trở xuống là dẫn thuyết để chứng thành: “Theo thứ lớp cho đến Dị thục sinh, vì xúc diệt, nên thọ của Dị thục sinh diệt.

Từ đây trở lên, là văn nói: vì vô minh diệt, nên quả đương lai diệt. Vì vô minh trong hiện pháp diệt, nên xúc vô minh diệt, v.v…

Dưới đây nói do vô minh diệt, nên hiện tại thuận với vô minh, xúc thọ, v.v… Diệt. Sáu xứ, v.v… đã có, chẳng phải hiện vô minh mà có, không nói vì vô minh diệt, nên hiện sáu xứ, v.v… Diệt. Xúc, thọ, v.v… kia tùy theo vô minh sinh, nói là xúc tùy vô minh kia diệt. Do đối tượng nương tựa (sở y) này diệt, nên chủ thể nương tựa (năng y) thọ, v.v… Dều cũng diệt theo.

Thường thọ lìa trói buộc thọ, chẳng phải có thọ trói buộc. Nghĩa là các thọ hữu lậu lìa phiền não, thân trói buộc là thọ vô lậu, gọi là lìa thọ trói buộc, không phải nhất định tất cả đều là thọ vô lậu.

Phạm hạnh đã lập. Nghĩa là Đạo đế của trí diệt, đế đã mãn. Niếtbàn rốt ráo ở diệt đế đã mãn, đủ chứng tỏ rằng, người cầu Niết-bàn đầy đủ Diệt đế mà Phật đã được.

Trong môn thứ hai, môn nội thức sinh. Nghĩa là sắc làm duyên cho mắt, nhãn thức được sinh v.v…, Mạ bên ngoài thành thục. Nghĩa là vô minh làm “duyên”hay sinh ra hành, v.v… Khí thế gian thành, hoại. Nghĩa là sức cộng nghiệp tăng thượng của tất cả hữu tình làm duyên, đại địa, v.v… sinh. Thức ăn gìn giữ. Nghĩa là bốn cách ăn làm “duyên”. Vì hữu tình ba cõi nối tiếp nhau sống. Tư nghiệp đã tác động, thế lực tăng thượng, tủy nghiệp mà được quả ái, phi ái, nghĩa là diệu vi thiện hành, hành vi ác làm “duyên”sinh ra cõi thiện, ác.

Oai thế. Nghĩa là nội chứng làm “duyên”phát ra công đức tối thắng như thần thông, v.v…

Thanh tịnh nghĩa là thuận phần giải thoát, khéo làm duyên theo thứ lớp cho đến đắc quả A-la-hán, v.v… Nhưng thứ lớp của tám môn này có một ít bất đồng quyển hạ kinh Duyên Khởi và luận Đối-Pháp.

Nhân duyên khởi này là giải thích nói về “duyên”. Nay nêu rõ các môn này thuộc trong mười hai chi. (Quyển mười ở sau, lại sẽ nói rõ)

Trong nghĩa thứ ba, xét Đối-pháp và kinh Duyên Khởi, đều có mười một nghĩa để giải thích vấn đề này:

1. Nghĩa lìa hữu tình. Luận Đối-Pháp chép: “Vì không có ngã tự nhiên.”, là văn luận trở lên, ở đây phá “ngã”là tác giả của Thắng luận, Độc tử bộ, v.v…, vì lìa hữu tình lia.

2. Nghĩa vô thường. Nghĩa là vì chẳng phải hằng. Đây là phá tự tánh thường trú của Số Luận là gốc của muôn vật, vì làm duyên hình thành vật, nên chứng tỏ vô thường. Cũng phá quan điểm che lấp mười hai duyên sinh là pháp vô vi của Đại chúng-bộ, Hóa-địa-bộ, v.v…

3. Nghĩa tạm dừng: Nghĩa là thời gian sinh đã đi qua không có tạm dừng. Luận Đối-Pháp gọi là có nghĩa sát na.”

Ở đây phá mạng căn, v.v… của Chánh Lượng bộ: Các pháp duyên sinh, vì bốn tướng của một thời kỳ chẳng phải sát-na.

4. Nghĩa y tha khởi. Nghĩa là vì nhờ vào các duyên, nghĩa này phá pháp tự nhiên của ngoại đạo: Tự nhiên có không nhờ duyên sinh, cho nên phải dựa vào pháp khác để khởi.

5. Nghĩa lìa tác dụng: Vì tác dụng của các duyên là không, nghĩa này phá tác dụng có thật, làm: duyên sinh ra thể của Tát-bà-đa.

Nay làm rõ công năng không có tác dụng.

6. Nghĩa nhân quả nối tiếp nhau không dứt: Nghĩa là sát-na nhân diệt, quả sát-na sinh, vì phần-vị thời gian, v.v… nên nhân quả nối tiếp nhau. Nghĩa này phá nhân quả không nối tiếp của ngoại đạo đoạn kiến, cũng ngăn không có đời quá khứ, vị lai của sư kinh-bộ: Nhân quả của Dị-thục cũng không đồng thời; vì quả nhân gián đoạn.

7. Nghĩa nhân quả chuyển biến giống nhau: không từ tất cả, vì tất cả sinh, nên nhân quả giống nhau. Nghĩa này phá hai người vì chánh pháp, chấp giết dê, v.v… làm nhân, về sau được sinh lên cõi trời, tức các quả thiện lấy bất thiện làm nhân, vì nhân quả không nối tiếp nhau.

Nay, chỉ bày nhân thiện, sẽ được Dị-thục thiện; nhân ác, sẽ gặp phải quả ác, vì nhân quả giống nhau.

1. Nghĩa nghiệp mình tác động: Nghĩa là đối với sự nối tiếp nhau khác, vì không thọ quả nghiệp của mình, mình cam chịu. Nghĩa này phá không có nhân, quả, chẳng phải nghiệp này khởi các luận chấp không.

2. Cũng phá nghĩa người khác làm, ta thọ quả, nghĩa là các nhân luận chấp bất bình đẳng. (Đối-Pháp kinh Duyên Khởi đều có giải thích rộng), vì e rườm rà nên không nói.

3. Vì chỉ bày rõ về nghĩa thanh tịnh, nhiễm ô thuộc về nhân duyên. Nghĩa là quyển mười ở dưới nói: “Bốn trong mười hai chi chỉ tạp nhiễm, chi khác có cả thanh tịnh. Bốn chi tạp nhiễm kia phát thấm nhuần quả thiện, quyến thuộc thanh tịnh cũng gọi là thanh tịnh, ý nói là phẩm ái đạo duyên sinh, gọi là thanh tịnh, phẩm phi ái đạo duyên sinh gọi là nhiễm ô, nhiễm ô, chứng tỏ rằng. nhân duyên này vì “duyên”nhiễm, tịnh sinh, để lập duyên khởi. Đây là ý nói về duyên khởi.

4. Nhân giải thích nghĩa, nhằm phá trong tông người khác, với ý nói rõ về lý của mình.

Có giải thích: Trên, đã nói trong ba tướng của thể. Hai tướng lưu chuyển trước chỉ bày rõ về tạp nhiễm; nên một tướng sau, là hoàn diệt, biểu thị rõ về thanh tịnh.

Trong sai khác thứ tư, nói rộng mười hai chi, văn tức mười hai. Nhân giải thích pháp ấy của ngoại đạo, đại khái, giải thích trong một thời kỳ. Tất cả kia không phải pháp mà trong đây nói. Tất cả thể tánh đều là chi duyên khởi.

Giải thích trong vô minh có bốn. Nghĩa là mười chín thứ, bảy thứ, năm thứ và sáu thứ.

Trong mười chín thứ, gộp lại là bảy loại:

1/ đời; 2/ sự; 3/ nghiệp báo; 4/ Tam-bảo; 5/ Tứ-đế; 6/ nhân quả; 7/ đối tượng chứng.

– Ở trong nhân, hoặc chấp tự tại, thế tánh, sĩ phu; trung gian, v.v…

Tánh mờ tối của trời tự tại, thần ngã của Sĩ phu.Vì Phạm vương ở thiền trung gian, nên gọi là trung gian. Như thứ lớp phối hợp giải thích.

– Không có tội, có tội, nên tu, không nên tu. Giải thích tản mát về nhân.

Đen, trắng, lẫn lộn, là thể của thiện, ác. Giải thích về thể của quả. Vì quả có hai phần đen (hắc), trắng (bạch), nên gọi là “Có phần”. Trong mười chín môn này, “hữu”chung cho cả “Câu sinh”hoặc “phân biệt”khởi. Thế sự quả nghiệp, v.v… chung cho cả hai môn. Bảy vô tri gồm trong mười chín. Di chuyển thuộc vô tri của nghiệp Dị-thục. Nghĩa là nghiệp, chủ thể chiêu cảm quả, mê mà không biết, vì chấp nhân bất bình đẳng, nên gọi là di chuyển.

Kế là môn thứ sáu thuộc sáu vô tri. Nghĩa là nhân. Quả ở trước, ngu, gốc, ngọn, hợp thành sáu.

Ngọn là bốn: Sáu vô tri là:

  1. Thiện, bất thiện.
  2. Nên tu tập, chẳng nên tu tập.
  3. Có tội, không có tội.
  4. Có phần.
  5. Gồm thâu tám thuộc kiến ngu trong mười chín. Nghĩa là thế sự đều có ba và nhân quả. Tìm kiếm, so lường, gọi là thể của kiến, chẳng phải vô minh. Vì si và tuệ đều có, nên gọi là kiến ngu.
  6. Vô tri có hai:
  1. Chỉ rõ sáu vô tri và bảy tướng gồm thâu nhau.
  2. Dựa vào chủ thể trị (năng trị) và tự tánh để nói về sáu pháp khác nhau:

Dựa vào đối tượng trị (sở trị) khác nhau văn, tư, tu, để nói về ba pháp trước, nghĩa là do văn nên biết pháp, sở trị đó gọi là vô tri. Do tư, nên tìm kiếm, gọi là sở trị của tư đó là vô kiến. Vì dựa vào tu, nên minh chứng sở trị của tu đó gọi là không có hiện quán. Cho nên, nói rằng: “Đối tượng trị khác nhau. Vì thế, nên nói ba thứ này.

Vì ba tự tánh khác nhau của quyển trung, thượng. Nghĩa là ngu si đen tối, vô minh tối tăm. Trong dây, nói chung tất cả vô tri đều là thể của chi: Thành Duy-Thức chép: “Chỉ lấy khả năng (chủ thể) phát chánh, chiêu cảm nghiệp thiện, ác của đời sau.” Kinh Thắng-man chép: “Có năm trụ địa:

  1. Kiến nhất xứ trụ địa.
  2. Dục ái trụ địa.
  3. Sắc ái trụ địa.
  4. Hữu ái trụ địa.
  5. Vô minh trụ địa: Trước, bốn phiền não chướng; sau, là một sở tri chướng.”

Kinh ấy tự nói: “Vô minh tự địa là đối tượng mà hàng Thanh Văn, Bích-chi-Phật không thể dứt trừ, vì chỉ có trí Bồ-đề của Phật Như-lai mới dứt được. Do đó, quyết định biết là chướng sở tri.”

Thuyết của Duy-Thức quyển chín với kinh ấy đồng nhau.

Trong bốn chướng phiền não, đầu tiên là một kiến-đạo dứt trừ (đoạn); sau, ba tu đạo đoạn. Luận Đối-Pháp chép: “Phát nghiệp vô minh có hai:

  1. Nghĩa chân thật, ngu phát hạnh bất động của phước.
  2. Nghĩa Dị-thục, ngu phát phước hạnh của phi phước, cả hai đều do kiến-đạo mà dứt”.

Kinh Duyên Khởi nói: “Các bậc thánh Hữu Học vì đã dứt hẳn bất cộng vô minh,nên không tạo nghiệp mới.”

Duy-Thức cũng nói: “Người chính thức phát nghiệp, chỉ do kiến đạo mà dứt trừ. Người giúp đỡ không nhất định, vì cho nên chỉ lấy vô minh mà kiến nhất xứ trụ kia đã có, nhưng nghiệp vô minh này có ba:

  1. Chỉ phát nghiệp chung.
  2. Chỉ phát nghiệp riêng.
  3. Phát chung cả hai nghiệp.

Ở dây, lấy hai nghiệp vô minh dầu và sau.

Nói chỉ lấy chủ thể phát chánh, cảm nghiệp thiện, ác của đời sau, nhưng phát nghiệp này có bốn:

1. Tương ưng; 2. Bất cộng; 3. Triền; 4. Tùy miên, đều có công năng phát nghiệp.

Sự khác nhau giữa ngoại đạo, nội đạo là nẩy sinh buông lung, không buông lung, tùy đối tượng mà họ hợp thích.

Bốn vô minh phát nghiệp đều riêng. (như kinh Duyên Khởi có phân biệt rộng).

Ở đây nói hành chung cả thân, ngữ, ý, chỉ có hạt giống, hiện hành thiện, bất thiện mượn sắc và tư để làm tự tánh. Hành này cũng có ba, vì cảm ba quả, vì chi hành, cũng chỉ cảm nghiệp chung và đều có.

Thành Duy-Thức nói: “Chính đối tượng phát kia mới được gọi là chi hành. Do đó, tất cả nghiệp thuận hiện thọ, giúp riêng cho nghiệp tương lai, đều không phải chi hành, chính là hành mà võ minh đã phát trước kia, mói thành hành.

Sắc của nghiệp thân, ngữ gọi là giả sắc, vì phải dựa vào hiện hành, hạt giống của tư để lập. Ý nghiệp chỉ do tư thành thể của chi hành. Y theo thiện, ác mà năm thức này đã có, tức chẳng phải chi hành, nên biết rõ không thể chiêu cảm đến báo chung.

Trong đây nói đủ rằng, trong cõi Vô Sắc cũng có hai nghiệp của thân, ngữ biến hóa, mà văn luận này chỉ y cứ cõi Dục, Sắc nói nghiệp thân ngữ; y cứ ba cõi để nói ý nghiệp, ngĩa là y cứ vào sự thật là ngữ.

Nói về sáu thức trong chi thức. Trước nói về tự lãnh hội, đều dựa vào sáu thức thân trong một thời kỳ, nói chẳng phải chính là chi Thức.

Thành Duy-Thức chép: “Hạt giống thức trong đây vì là nhân của bản thức, nên chỉ lấy hành đã gom góp chủng tử của thức thứ tám ở tương lai, gọi là chi Thức.

Vì kiết sinh lần đấu tiên, vì Dị-thục chung, nên không nói thức khác là thể của chi thức. Ở đây chỉ hạt giống không lấy hiện hành.

Trong đây nói là quả do hạt giống đã sinh, thức là thể của chi. Và kinh Thập Địa chép: “Như vô minh lúc có hạt, có quả thì thức đều như vậy.”

Duy-Thức hội chép rằng: “Hoặc dựa vào đương lai, nói có hiện hành. Nhân thời gian nhất định, không có nghĩa hiện hành. Cho nên, nói thức, danh sắc mới vào thai mẹ, làm duyên, v.v… lẫn nhau. Nhưng nếu dựa vào sẽ khởi, thì không phải là hạt giống thích đáng.”

Luận sư Thái nói: “Theo luận Hiển-Dương quyển sáu thì “thức A-lai-da gồm thâu chung cả sáu thức, chứa đựng hạt giống của sáu thức đó. Vì thuộc về ghi nhận kín đáo, do đây mới nói: “Ở đây nói về sáu thức, gọi là chi thức. Về mặt lý, thật sự cũng thuộc về thức A-lại-da.

Vì thuộc sáu thức nên trong danh, sắc trước giải thích danh, sau giải thích sắc:

Ở cõi Dục đủ mười và giả sắc thuộc về pháp xứ (lĩnh vực sắc). Thật sắc của pháp xứ: nghĩa là quả của định vượt hơn. Vì ở cõi Dục không có định, nên nói là “không”. Vì phần nhiều là giả có, cho nên phân biệt.

Giả, thật trong cõi trên, có cả hữu. Nhưng không phải tất cả, nghĩa là vì đều là luật nghi và biệt giải thoát.

Vì gương soi hình tượng, nước, mặt trăng, những thứ đó cũng là “không”.

Trong giả của cõi dưới, dù không sắc của định, Đạo cộng giới, nhưng các loại nghiệp luật nghi, bất luật nghi đều có, cho nên không phân biệt. Cõi trên chỉ có luật nghi, chứng tỏ vì không có bất luật nghi, nên nói “Chẳng phải tất cả”.

Trong đây nói chung hạt giống, hiện hành, tương lai, hiện tại, bốn danh sắc, v.v… đều không phải là thể của chi thật.

Thành Duy-Thức chép: “Trừ ba nhân sau, nhân khác đều thuộc về hạt giống của danh sắc. Ba danh sau như gọi là theo thứ lớp, tức ba hạt giống sau.

Ở đây, nói Dị-thục, thể tánh không lẫn lộn của năm chi. Hạt giống của sáu căn, gọi là sáu xứ. Hạt giống của xúc, thọ của Dị-thục gọi là chi xúc thọ. Trừ hạt giống của bản thức và ba hạt giống sau này, hạt giống của Dị-thục các uẩn khác đều được gọi là chi sắc. Kinh nói: “Danh nghĩa là bốn uẩn phi Sắc, sắc nghĩa là yết-la-lam, v.v…, sắc này dựa vào thể lẫn lộn, không phải nói là thể riêng. Không như thế, thì làm sao được thành năm uẩn? Hoặc đều dựa chẳng phải Dị-thục, danh sắc năm uẩn mà nói.

Thức mới sinh, lại làm duyên lẫn nhau. Đệ thất thức, v.v…, vì mỗi thức đều ở giữa. Nếu thể lẫn lộn. Luận Duy-Thức nói: “Hoặc hạt giống của danh sắc đều gồm thâu năm nhân, trong đó tùy nhân nào vượt hơn, lập ra bốn hạt giống khác. Sáu xứ và thức, chung, riêng cũng thế. Những thứ này chỉ có hạt giống.

Nói hiện hành. Chiếu theo sự hội ngộ của chi thức, Đối-Pháp quyển thứ nhất chép: “Nhãn xứ, nghĩa là mắt đã từng hiện thấy sắc, không nói là sẽ thấy. Nay, ở đây y cứ ở thật xứ chung cho cả ba đời. Đối-Pháp dựa vào nghĩa xứ tăng, chỉ nói quá, hiện sinh, vì ba hành ở vị lai vượt hơn, nên cũng không trái nhau. Thọ, chỉ có xả thọ, gồm khổ vui. Nghĩa là một nghiệp chiêu cảm chung quả chung, riêng, cũng dựa vào một kỳ hạn mà có thọ để nói. Nếu không như thế, chỉ nên nói là chi xả thọ, vì chủ của báo chung, nên thuộc về thọ, nghĩa là hạt giống của thọ.

Lại giải thích: “Hạt giống của thọ này theo nhau, gồm nêu thuộc về thọ. Thọ nương tựa vào thân, không phải thể của chánh thọ

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 10

Giải thích bảy chi dẫn nhân trong phần khác nhau đã xong. từ đây trở xuống, là giải thích năm chi năng sinh (chủ thể sinh), sở sinh (đối tượng sinh):

– Thể của chi ái chỉ có tham trong các phiền não.

Ái này dù duyên chung cho quả trong, ngoài, phần nhiều các luận đều lấy “duyên” ái của cảnh ngoài. Nhân mê cảnh ngoài, ngu quả tăng thượng, “duyên”cảnh giới. Vì thọ đã phát sinh, nên chi thủ dùng chung cho tất cả phiền não để làm tự thể. (thể của bốn thủ, như trước đã nói)

Chi này chỉ lấy năng, sở thủ (chủ thể thủ, đối tượng thủ), hoàn toàn đối tượng làm phiền não tùy thuận trong thủ, không lấy pháp khác.

Quyển năm mươi chín chép: “Phải nói là tất cả phiền não trong toàn cõi đều có công năng kiết sinh nối tiếp nhau. Ái đã chỉ có tham, nên thủ gồm thâu chung các phiền não. Nhưng trong đây nói “duyên”tham của bốn thủ là chi thủ, đồng với kinh Thập -Địa. Kinh ấy nói: “Ái tăng thượng gọi là Thủ”.

Thành Duy Thức nói về sức ái thấm nhuần phần vị nghiệp tăng riêng, gọi là ái. Như nước vì thường hay thấm nhuần, nên phải thường tưới tiêu, thì mới nẩy mầm.

Nếu dựa vào hai ái thủ của phần vị trước, sau thì dù lấy các phiền não thuộc trong chi Thủ chăng nữa mà ái vẫn thấm nhuần vượt hơn, nên nói là ái tăng. Văn của quyển năm mươi chín và Duy-Thức không trái nhau.

Hai chi ái, thủ có cả hiện và chủng, vì đều có công năng thấm nhuần, vì ái đối với thủ trở thành nhân duyên.

Luận sư Cảnh nói: “Tà nguyện cầu, nghĩa là cầu thân ở cõi trên lấy làm Niết-bàn để thọ cấm giới, đây gọi là tà nguyện, đối với giới khởi tham, gọi là giới cấm thủ.

Văn này chính thức phát ra tham thành bốn thủ.”

Hỏi: “Hai cõi trên có giới cấm nào, “duyên”vào đó để khởi tham?”

Giải thích “ngoại đạo cũng chấp giới cấm đối với thân, ngữ cõi sắc. Ý tứ của cõi Vô Sắc giả lập thân, ngữ, cũng chấp là giới.

“Hữu lúc trước trong chi hữu. Nghĩa là sinh ở khoảng giữa hai sátna sinh sau, và sát-na tử trước.

Văn này đã nói ngoài “hữu”của năm đường, nói riêng về Trung hữu. Biết rõ Trung hữu không phải thuộc về đường, đồng với phái Tátbà-đa. Dù nêu mười hữu, y cứ nói nghiệp “hữu”là “hữu”của cõi Dục. Chi là chi hành. Vì ái thủ thấm nhuần, nên có thể có quả tương lai, gọi là “nghiệp hữu”. Đây, tức chỉ thể hữu (năng hữu), gọi là “hữu”, nghiệp khác đều là đối tượng hữu (sở hữu).”

Luận Thành Duy-Thức chép: “Bắt đầu từ Trung hữu, đến chưa suy yếu, thay đổi trong bản hữu, đếu thuộc về chi sinh, cho nên biết Trung hữu cũng gồm thâu trong đối tượng sở hữu.”

Hỏi: “Trung hữu, sinh hữu là một nghiệp hay là nghiệp khác chiêu cảm?”

Luận sư Cảnh giải thích: “Chưa thấy có văn nào nói, văn chỉ nói rằng: “Trung hữu có thể chuyển biến”

Y theo đây thì biết do nghiệp riêng của Trung hữu đã cảm. Dù có thuyết này, mà vẩn có thể nói là do một nghiệp đã dẫn phát.

Cõi Sắc có sáu hữu, vì trừ bốn đường. Cõi Vô Sắc có năm hữu, lại vì trừ trung hữu. Nay, chi hữu nói ở đây chỉ là chi Nghiệp.

Nói phiền não của hành tác động trước kia gồm cả thọ.

Thành Duy-Thức chép: “Ái, thủ kết hợp thấm nhuần, dắt dẫn hạt giống của nghiệp và nhân của đối tượng (sở dẫn) chuyển biến, gọi là “hữu”, đều có khả năng tiếp cận “Hữu”, vì quả “hữu”đời sau.”

Ý luận ấy nói: “Hành và năm thứ như thức, v.v… là ái, thủ, chuyển biến thấm nhuần, gọi là thể của chi hữu chỉ có chủng tử, là vì đã thấm nhuần, nên có công năng sinh quả.

Nay, ở đây nói chung mười hữu, gọi là hữu. “Năng hữu”(chủ thể có), sở hữu (đối tượng có) phối hợp gọi là “Hữu”.

Giải thích chung nghĩa “Hữu”, chẳng phải chỉ giải thích chi Hữu. Ở đây, chỉ nghiệp có một là chi Hữu.

Duy-Thức hội điều này rằng: “Có chỗ chỉ nói hạt giống nghiệp gọi là Hữu, vì hữu này có thể chính thức chiêu cảm quả Dị-thục.”

Duy-Thức kia lại hội rằng: “Lại có chỗ chỉ nói năm hạt giống gọi

là “Hữu”. Vì hạt giống của thức, v.v… trực tiếp sinh ra hạt giống trong thức ở tương lai. Bảy “hữu”kia. Nghĩa là thể của năm cõi kia có quả thọ dụng, vì trung gian của hai cõi: phương tiện, trung hữu (trong phương tiện có hai cõi trung gian?). Sáu thứ này là nghiệp đã có, là chủ thể hữu (năng hữu), vì khả năng dẫn các hữu, cho nên hợp thành bảy. Lúc trước có tử hữu, sinh hữu, tức “hữu”của năm cõi mà vì nêu riêng, nên không kiến lập.

Trong chi sinh, trước là giải thích riêng mười trường hợp sau, tóm tắt nghĩa, kết.

Bốn trường hợp đầu, nói về hai sinh thai, noãn; Một trường hợp kế, là hai sinh thấp, hóa. Đây là nêu chung một thân làm chi sinh.

Phần thân khởi ngay. Luận này quyển trước và kinh, luận khác đều nói là hóa sinh khởi ngay, các căn của ba sinh còn lại, thì hiện dần. Nay, nói thấp sinh cũng khởi ngay, thì biết các căn của hai sinh thai, noản khởi dần; hóa sinh khởi ngay, thấp sinh có cả dần, và ngay tức khắc.

Ngay tức khắc. Nghĩa là nhừ từ chất rữa, ẩm ướt chưa biến đổi khởi ẩm ướt sinh ra trùng, các căn đủ ngay. Năm trường hợp dưới có cả bốn sinh hữu:

Đắc của uẩn, là thể của uẩn khởi.

Đắc của giới, là hạt giống của uẩn, tánh nhân duyên của uẩn. Đắc của uẩn hiện hành thành thục, hạt giống của đắc giới thành thục.

Đắc của xứ có cả hiện, và chủng. Ba đắc còn lại, “duyên”thành thục.

Trong nghĩa lược có sáu trường hợp:

Tự tánh thuộc hai trường hợp sinh, và xuất hiện.

Phần vị xứ sinh bao gồm ba trường hợp: Sinh,thú, khởi. Đối tượng sinh (sở sinh) bao gồm một trường hợp của đắc uẩn. Thuộc về nhân duyên, gồm hai trường hợp đắc của giới, đắc của xứ.

Chịu trách nhiệm giữ gìn đối tượng dẫn, thuộc về một trường hợp sinh khởi của các uẩn.

Đều sinh (câu sinh), nương tựa, giữ gìn thuộc về một trường hợp mang căn xuất hiện.

Chi già chết có hai: Đầu tiên là giải thích già. Sau, giải thích chết.

Trong già, trước giải thích riêng mười bảy trường hợp. Sau, kết nghĩa sơ lược.

Kết, có mười trường hợp: Sáu trường hợp đầu, mỗi trường hợp thuộc về một trường hợp, bảy thuộc về oai nghi đổi thay, hư hoại, bao gồm năm trường hợp kế.

Thứ tám là ở vô sắc, các căn thay đổi, hư hoại, thuộc hai trường hợp mười hai, mười ba.

Thứ chín là có sắc các căn thay đổi, hư hoại thuộc hai trường hợp mười bốn, mười lăm.

Thứ mười, Thời gian đã đi qua, tuổi thọ sắp hết, thuộc về hai trường hợp mười sáu, mười bảy.

Trong tử trước, giải thích riêng mười một trường hợp. Sau là kết nghĩa sơ lược có bốn trường hợp.

“Nếu chết”, thuộc về hai trường hợp đầu, vì chính là thể của tử. Nếu là pháp chết, thì thuộc trường hợp thứ ba, thứ tư.

Giải thích chi, không giải thích chi. Quy tắc lúc chết của năm đường.

Nếu chết khác nhau, thuộc về trường hợp thứ năm, thứ sáu dưới. Nếu phần vị sau chết, thì thuộc về trường hợp thứ mười một.

Nghiệp của ma chết. Pháp sư Khuy Cơ giải thích. Tức chính là tác dụng của ma chết của thể tử. Đây củng thuộc về chết khác nhau. Hoặc chấp lấy sau khi chết, thức lìa thân rồi, gọi là ma chết, cũng gọi là thuộc về phần vị sau khi chết. Hai chi sinh tử này, tùy đối tượng thích hợp với chúng, lấy năm uẩn làm tánh, vì hiện hành khổ, nên chỉ lấy hiện hành mà “hữu”, nói chung, hoặc chung cả hạt giống.

Thành Duy Thức nói: “Bắt đầu từ Trung hữu, cho đến chưa suy yếu, thay đổi trong bản hữu trở lại, đều thuộc về chi sinh. Vì trước khi sắp chết, ái thủ, thấm nhuần “hữu”, có thể có Trung hữu và sinh tương lai.

Phần vị suy đồi, thay đổi, gọi là chung là già thân hoại, mạng chung, mới gọi là chết.

Trong thứ lớp của trường hợp thứ năm, có ba lần “lại nữa”

Trong lần “lại nữa”đầu, vì tà hạnh, nên làm cho tâm điên đảo, v.v… Nghĩa “hữu”, là năm chi như thức, v.v… đều dựa vào mé sau, phần vị sinh, già, chết. Ở tương lai sẽ hiện khởi. Nói nhân năm chi, không phải dựa vào năm chi, vì ở phần vị nhân mà nói.

Thành Duy-Thức nói: “Phần vị nhân khó biết, vì tướng của chúng khác nhau, nên dựa vào phần vị của quả tương lai, để lập riêng năm chi.

Nếu theo nghĩa này thì tâm điên đảo, nghĩa là thức hiện ra tư, gọi là hành, nghiệp chủng gọi là tạng, nói là chi sắc, kết sinh nối tiếp nhau.

Vì thế Đối-Pháp cũng nói: “Thức do danh sắc sinh, đã được số loại hữu tình chúng đồng phận.”

Luận ấy nói danh sắc vì mới thọ sinh. Duy-Thức Hội chép: “Nghiệp chủng trong thức (hạt giống của nghiệp trong Thức) gọi là chi Thức. Cho nên ngài Tam Tạng nói: “Tâm ở cuối Trung hữu gọi là điên đảo. Vì dẫn dắt chi điên đảo. Hạt giống của chi thức trong bản thức theo nhau, cũng gọi là tâm điên đảo. Vì tâm điên đảo, nên kết sinh tiếp nối nhau, v.v…, gọi là sắc.

Các căn viên mãn, nghĩa là chi sáu xứ. Cảnh của hai thọ dụng, là chi xúc, thọ. Xúc dẫn thọ sinh, đều có cảnh thọ dụng, nên Câu-xá gọi là tùy xúc thọ.”

Luận sư Cảnh lại giải thích: “sáu xứ “duyên”xúc, khi xúc khởi, dựa vào hai căn, thức và cảnh (đối tượng) thọ dụng, tức là ba hòa sinh xúc. Cho nên nói rằng “Cảnh của hai thọ dụng”

Chấp mắc. Nghĩa là “duyên”ái hiện tại. Mong cầu, nghĩa là duyên ái vị lai, gọi là chung lá chi ái. Phiền não càng thêm nhiều, là chi Thủ.

Trong đây chỉ nói nghiệp là chi hữu. Đã hội ý như trước, văn còn lại rất dễ hiểu.

Hợp với nghĩa “hữu”dựa vào ba tế để phân biệt thứ lớp:

Vô minh, hành, thức ở đời quá khứ. Tâm điên đảo, nghĩa là năm thứ như thức, v.v… đều gọi là tâm, vì không lìa thức, nên thức là chủ. Do tà hạnh huân phát, vì “hữu”tương lai hướng về sự sinh, nên tâm gọi là điên đảo. Vì lược qua, nên không nói chánh hạnh huân phát.

Y cứ theo ái, thủ ở sau, thấm nhuần nghiệp của “hữu”sau, biết được bờ mé trước cũng thấm nhuần tâm hành, cho nên lược qua không nói.

Ái thủ, hữu của bờ mé trước. Danh sắc kia kết sinh trở xuống bốn chi, là chi sinh, già, chết của đời quá khứ.

Thành Duy Thức chép: “Nhưng quả đã sinh, nếu ở vị lai, vì sinh nhàm chán, nên nói sinh già, chết. Nếu hiện tại vì muốn cho chúng sinh biết rõ tướng của phần vị sinh, nên nói năm thứ như thức, v.v… ”

Duy-Thức kia nói chi thức, đầu tiên vào thai mẹ. Ở đây vì nói danh sắc, nên chỉ bốn chi.

Do ái hiện tại, phát sinh tham ái, phiền não càng nhiều, thấm nhuần nghiệp hữu ở sau, cho đến sinh, già, chết của hữu ở tương lai.

Chỉ nói nghiệp thấm nhuần không nói phát. Nghĩa là vì y theo mé trước biết là phát nghiệp, đây là ảnh hiện quá khứ mà nói phát, không nói là nghiệp thấm nhuần. Hiện tại thì nói thấm nhuần, không nói phát nghiệp. Vị lai nói sinh, già chết, không nói danh sắc, v.v… Hiện tại nói danh sắc, v.v…, không nói sinh già, chết.

Vì muốn chỉ bày rõ nhân, quả ba đời, không đoạn thiện, thuận với Tiểu thừa, nên nói rằng:

“Lại nữa”thứ hai, chỉ dựa vào hai mé để lập.

Duyên bên trong thân. Nghĩa là môn phát nghiệp dẫn sinh.

Duyên cảnh giới. Nghĩa là môn nhuận sinh quả khởi, khởi chấp ngã, v.v… người ngu là tương ưng với si. Hoặc nhân si này, khởi chấp ngã kia là bất cộng si.

Đã phát nghiệp rồi, thì theo nghiệp kia, phần nhiều khởi tầm, từ, v.v…

Luận sư Cảnh nói: “Thức, có công năng phân biệt rõ. (chủ thể phân biệt), gọi là tầm, tư. Đây là chi hành dẫn phát chủng thức, gọi là khởi tầm, tư. Vì chi hành kia giúp hạt giống của thức, nên có công năng lần lượt dẫn phát, hạt giống của danh sắc, sáu xứ và xúc, để chiêu cảm quả khổ của ba đồng loại danh sắc, v.v… ở tương lai.”

Luận sư Bị nói: “Đã phát nghiệp thân ngữ, khởi ý nghiệp tầm, tư Hành làm bạn phát khởi cho chi thức, chi thức được sinh.

Từ đây trở về sau ba quả sinh dần. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Tức tùy nghiệp kia, phần nhiều khởi tầm, tư. Ở đây cho là thức hiện hành. Do nghiệp làm bạn giúp cho thức, nghĩa là thức chủng. Hạt giống được nghiệp huân tập, vì làm giúp đỡ. Hạt giống của danh sắc, v.v… kia, vì đây đều gọi là Thức, nên hay cảm ba khổ ở tương lai:

1. Căn đầu tiên khởi khổ, nghĩa là danh sắc, thân, ý, vì mỗi căn mới khởi.

2. Căn viên mãn khổ, nghĩa là sáu xứ.

3. Cảnh giới thọ dụng khổ, nghĩa là xúc, tức là hợp để gọi là Hữu, được chia làm hai thứ năng sinh (chủ thể sinh). Về mặt lý thật sự nên có hai quả của thức, thọ. Vì thức gọi là Chủng, nên trong quả không có, thọ gọi là thọ bên ngoài, trong quả bên trong không có, ái phải nhờ thọ mới được khởi nên mé trước của thọ không có mé sau, nói có.

Xúc ở mé trước, vì sau nói thọ tương lai (sẽ thọ), nên xúc thọ đều đối nhau có riêng. Dựa vào xúc “duyên”thọ, phát khởi ra ái, nghĩa là chi ái.

Do cảnh thọ dụng khởi rộng sự theo đuổi mong cầu, v.v…, đó là chi Thủ.

Do môn sự nghiệp. Cái gọi là các nghiệp tịnh hạnh, thờ vua.

Môn lợi dưỡng. Nghĩa là ngồi thu hoạch gieo trồng, cày ruộng, v.v… Ngoài hai nghiệp này, còn cảnh Dục khởi, gọi là Dục cầu.

Hoặc do môn giới cấm. Nghĩa là tà nguyện giới cấm thủ, do tà nguyện này khởi mong cầu thân bên trong, cầu mong thân sẽ được quả vui ở tương lai.

Hoặc do môn giải thoát. Nghĩa là kiến thủ, do kiến thủ này, khởi cầu tà giải thoát.

Môn hữu nghĩa sự nghiệp, nghĩa là Dục-thủ.

Môn lợi dưỡng, nghĩa là kiến thủ, vì được lợi dưỡng, chấp kiến đó vượt hơn.

Môn giới cấm, nghĩa là giới cấm thủ. Môn giải thoát, nghĩa là ngã ngữ-thủ. Vì Đế, vì trụ, nên chấp tự tánh của “ngã”là giải thoát. Nhân bốn thủ này mà phát khởi ba cầu:

  1. Cầu dục, cầu nhiều, năm dục.
  2. Cầu thân bên trong tức cầu hữu, cầu tự thể.
  3. Cầu tà giải thoát, tức cầu tà phạm hạnh vì cầu tà giải thoát.

Lúc cầu như thế, khiến cho trước, khởi phiền não và nghiệp, v.v…, nghĩa là nghiệp là chi “Hữu”, vô minh là duyên phát nghiệp, để cho quả tương lai sinh. Vô minh không phải chi “Hữu”.

Trong lần “lại nữa”thứ ba, do nhóm hữu tình. Nghĩa là hai lần “lại nữa” ở trước, nói riêng về thứ lớp lưu chuyển. Nay, ở đây vì dựa chung cả lưu chuyển, hoàn diệt, nên nói là ba nhóm.

Ưa thanh tịnh của thế gian. Nghĩa là không ưa xuất thế, mà vì ưa người trời, nên gọi là thanh tịnh. Nhưng vì ngu si, nên cũng tạo phi phước. Hoặc khởi theo đuổi ăn năn dẫn phát, hoặc không thối lui ăn năn, vui mừng đã dẫn tâm trụ, v.v… nối tiếp nhau. Luận sư Cảnh giải thích: “Đây là ở Trung hữu có sự ăn năn, không ăn năn. Thức nối tiếp nhau trụ từ hành đến thức.”

Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Theo đuổi ăn năn, nghĩa là vì ưa thanh tịnh, nên ăn năn nghiệp phi phước. Hoặc ăn năn vì si không hiểu. Nhân ba nghiệp này hoan hỷ đã dẫn tâm nối tiếp nhau trụ, nghĩa là tâm vui mừng đã huân tập (hun đúc) thành hạt giống nối tiếp nhau mà trụ, tức là chi thức lấy hạt giống này làm nhân.

Do phi phước, nghĩa là nghiệp phẩm hạ. Do phước, nghĩa là nghiệp phẩm trung. Do bất động, nghĩa là nghiệp phẩm thượng.

Ở chỗ sẽ sinh, cũng đều có thể cảm quả của ba khổ chủng, gọi là chi thức, hiện hành, gọi là danh sắc, v.v… Không nói nghĩa thọ, v.v…, (y theo giải thích ở trước)

Ưa chấp mắc cảnh giới. Nghĩa là ba thứ thọ, ái, thủ sinh, già, chết của “hữu”kia, nhân chấp mắc cảnh, hữu cũng được tên ấy (trong kinh Duyên Khởi đã giải thích đầy đủ theo thứ lớp, e phiền phức, nên không nói lại ở đây.)

Phần thứ sáu trong giải thích vấn nạn, có hai lược hỏi đáp: Đầu tiên, hỏi trong nghịch thứ lớp.

Đáp: “Dựa vào thứ lớp này, vì nói rộng về đạo lý Đế, nên nói là “đẳng”.

Quán già chết, v.v… là ba mươi bốn trí. Quán già, chết trước hết trong bốn Đế, vì là khổ, nên trước là quán già, chết.

Hạt giống của năm chi thức, v.v… Hiện tại từ vô thỉ đến nay, “hữu”gọi là thức cũ, danh sắc cũ, v.v…

Từ hạt giống này sinh ra sinh và già, chết ở vị lai, gọi là Thức, danh sắc, v.v… trong hai quả đều gọi là thức, danh sắc mới.

Từ trên đến đây, nói chung, danh sắc do kiết sinh. Thể của danh sắc rộng, gồm thâu chung chi khác, nên chỉ nói danh sắc.

Đã nói chi khác xong.

Do tâm giải thoát. Nghĩa là không khởi vô minh trong hiện pháp, vì chi hành là chủ thể dẫn hạt giống của năm chi cũng là thứ lớp bất sinh, vì do hiện nhân thứ lớp bất sinh.

Năm quả như thức, v.v… trong phần vị già chết, đều theo thứ lớp diệt, nên nói thức mới diệt là hàng đầu, cho đến thọ diệt là sau. Nhưng vì y cứ danh sắc kia là trước, nên nói là mới. Danh sắc diệt là đầu, cho đến thọ diệt là sau.

Cũng có thể trong bốn mươi bốn trí, trước là quán già chết, khởi bốn Đế quán: Quán sinh la tập già chết, là danh sắc cũ, vì khởi ở trước. Già, chết bắt đầu từ sinh khởi là danh sắc mới.

Nay, quán thể của già, chết diệt, tức là danh sắc mới diệt. Trong mười hai chi, trước quán già, chết diệt, để làm hàng đầu. Kinh Duyên Khởi nói: “Như bệnh, nhân bệnh, bệnh diệt thuốc hay, cho nên, trái với thứ lớp, sinh, già, chết là đầu.”

Hỏi: “Vì sao không nói các vô minh diệt là đầu ư? Đây là hỏi kế trước đã dẫn kinh nói danh sắc là diệt trước hết, vì sao kinh ấy không nói vô minh là diệt đầu tiên?”

Đáp: “Vì dựa vào tâm giải thoát mà lập, v.v… Ý này giải thích rằng: chua nhập thánh về trước, đầu tiên là địa vị tư lương, trước là quán thuận theo thứ lớp. Trong đạo gia-hạnh, quán nghịch thứ lớp, khởi bốn mươi bốn trí, v.v…, nhập kiến đạo, v.v… vì thuận với thứ lớp đoạn, nên vô minh diệt, tức hành diệt, v.v…

Y chỉ trong thân giải thoát của bậc Vô Học, danh sắc hiện tại là trước, thọ là sau. Hạt giống của bốn chi không thể làm nhân sinh quả của sinh, già, chết ở đời vị lai. Đây là nói nhân không thể sinh. Dưới đây, chỉ rõ do ái diệt, khổ tương lai không khởi. Nói giải thoát, nghĩa là lúc cảnh hiện thọ, ái và tùy miên, tức chi ái, thủ, do sức thánh đạo mà nhổ bỏ hẳn, không khởi, gọi là khả năng thấm nhuần phiền não, tập -đế diệt hẳn. Vì nhân này diệt hẳn, nên hạt giống của danh sắc, v.v… nhân đã dẫn trước kia sẽ không sinh quả, gọi là chi còn lại diệt. Ý nói ở đây là chỉ bày rõ hạt giống mà danh sắc hiện tại có được, không sinh ra quả tương lai. Vì trước quán khổ Đế, lấy danh sắc diệt đặt lên hàng đầu. Diệt này do cái gì? Do ái, thủ, v.v… Diệt, thuộc về Tập đế, khả năng thấm nhuần, cho nên, hạt giống của danh sắc, v.v… sẽ không sinh ra quả. Hạt giống của danh sắc, v.v… là nhân duyên của sinh, già, chết ở đời tương lai.

Vì nhân duyên gần, nên danh sắc này diệt trước; vô minh, v.v… là nhân duyên xa, nên về sau, mới bắt đầu quán sát, vì nhân của khả năng thấm nhuần, cho nên, không nói vô minh là diệt đầu tiên.

Cho nên khi được Vô học rồi, quán rằng: “Do cái gì là không, nên già, chết không, v.v… ”. Theo thứ lớp khác nhau, y cứ theo đây, nên biết.

Luận sư Cảnh nói: “Kể về văn kết này, nên đặt ở lập vấn nạn đã nói ở trước. Vì lập vấn nạn này trong môn thứ lớp, nên sau vấn nạn, là tổng kết thứ lớp của duyên khởi mà nói.

Trong giải thích danh từ thứ bảy có năm là “lại nữa”:

Dựa vào chữ, giải thích danh. Nghĩa là do phiền não ràng buộc làm duyên đi đến trong đường ác, vì thường thường sinh khởi, nên gọi là duyên khởi. Dựa vào chữ “Duyên”, nên gọi là dựa vào chữ.

Luận sư Cảnh bổ khuyết: “Do các phiền não ràng buộc đến trong đường. Là giải thích về chữ “Duyên”. Thường thường sinh khởi, nghĩa là giải thích chữ “Khởi”.

Dựa vào nghĩa sát-na để giải thích. Phân biệt “duyên khởi”của Đại chúng bộ; Hóa -địa bộ, v.v… là vô vi. Đồng thời, cũng ngăn ngừa về nghĩa bốn tướng về một thời kỳ của Chánh-Lượng-bộ.

Các duyên quá khứ mà không lìa, v.v…. Nghĩa là nếu dựa vào mười chi trước của phần vị “Duyên”; thì hai chi sau là “khởi”. Chi trước đủ bốn nhân duyên, v.v… Dù còn sát-na diệt, nhập quá khứ, vì hạt giống ở trong thân mà không lìa bỏ, nên sau khi dựa vào thân mình, thì quả sinh khởi, hoặc mười hai chi trước, mỗi chi là “duyên”, mỗi một chi là khởi.

Vì đây có nên kia có. Nghĩa là nói về nghĩa duyên sinh vô tác.

Vì đây sinh nên kia sinh. Nghĩa là chỉ bày nghĩa duyên sinh, vô thường chứ chẳng phải chi khác, chỉ do có duyên pháp quả, được có không phải “duyên”có tác dụng thật, có khả năng sinh pháp quả, cũng không phải vì pháp không có sinh là nhân, nên ít đối tượng sinh (sở sinh) mà vẫn được thành lập.

Hai thứ vô tác, vô thường là duyên, chẳng phải tác dụng khác và hai hạt giống pháp Vô sinh là nhân, cho nên nói chẳng phải chi khác. Đây là phân biệt trời tự tại, v.v… có tác dụng thật và chấp vô vi có thể làm duyên khởi để giải thích danh kia.

Thường lui diệt lại nối tiếp nhau khởi. Nghĩa là thường thường gặp duyên mà vì nối tiếp ngau khởi nên gọi là duyên khởi. Giác của đời quá khứ “Duyên” tánh xong, đều nối tiếp nhau khởi. Nghĩa là khi mới chứng Bồ-đề, giác ngộ tánh duyên xong, về sau, vì hữu tình, phát khởi ngữ ngôn để nói, nên gọi là duyên khởi. Tự lợi gọi là “duyên”; lợi tha gọi là khởi, tức là bánh xe pháp xoay vần nói nghĩa.

Phần thứ tám trong tánh duyên có hai:

  1. Bốn duyên.
  2. Hai nhân.

Thành Duy-Thức nói: “Tăng thượng của các chi đối nhau, nhất định là có, ba duyên còn lại chẳng có không nhất định.

Trong kinh Duyên Khởi, dựa vào quyết định có, chỉ nói là có một, nghỉa là duyên tăng thượng. Ái đối với thủ, hữu đối với sinh, có nghĩa nhân duyên.

Nến nói chi thức là hạt giống của nghiệp thì Hành đối với Thức, cũng làm nhân duyên. Các chi khác đối với nhau không có nghĩa nhân duyên, mà Tập luận nói là vô minh đối với hành có nhân duyên, đó là dựa vào nghiệp tập khí của vô minh mà nói. Vì vô minh đều có, nên giả thuyết vô minh thật sự là hạt giống của hành, hội ý văn này nói rằng: “Luận Du-già nói là các chi đối với nhau không có nhân duyên, ấy là dựa vào ái, thủ hiện tại chỉ có nghiệp.”

Có thuyết nói: “phân biệt khác rằng, vô minh đối với hành; ái đối với thủ; sinh đối với già, chết có Đẳng Vô gián và Sở duyên duyên.”

Ở đây lấy Vô Sắc để so sánh với chi Vô Sắc. Hữu đối với sinh, thọ đối với ái không có Đẳng vô gián, có sở duyên duyên (đối tượng duyên, chủ thể duyên).

Ở đây cũng lấy chi có sắc đối với chi vô sắc. Các chi khác đối với nhau, cả hai đều chẳng phải có.

Văn này nói chung, văn kia hiển bày riêng, nên như giải thích đó.

Không có sắc đối với có sắc. Nghĩa là sắc trong danh sắc đối với năm xứ nghiệp hữu đối với sắc sinh, sắc sinh đối với sắc già, chết.

Có sắc đối với có sắc. Nghĩa là vô minh đối với hành, gọi là đối với năm xứ, không có sắc sinh, đối với già chết. (trong đây không nói chẳng phải nghiệp có nên không nói).

Trong đây nếu dựa vào gần, thuận vói thứ lớp, không lẫn lộn với nhau, thì nói là duyên khởi thật, khác với sự đối nhau này là duyên bất định.

Các người thông minh, như lý trên suy nghĩ.

Đáp về nhân duyên, nghĩa là hạt giống của tự thể, vì duyên đã rõ ràng. Ý đáp này nói: “Nhân duyên, nghĩa là hạt giống của vô minh chỉ sinh ra vô minh, không sinh chi khác, v.v…. Tự tự đối nhau, đối với chi khác, tức là tự tánh duyên sinh. Nay nói là nghĩa ái, phi ái duyên sinh, vì mình, và người đối với nhau có duyên tăng thượng, không có nhân duyên, nên nói như thế.

– “Vì sao nói là dựa vào thể tánh của nhân quả, để lập ra duyên khởi? Trong đây, ý câu hỏi là nhân có mặt ở cả bốn duyên, vì sao không có nhân duyên ư?” Ý đáp trong đây nói dẫn dắt phát trong mười nhân, lôi kéo dẫn sinh khởi, nhất định sự đồng, khác, dù có nhân duyên, trong không trái nhau, nhưng nhân khác nhất định kia vẫn có sự sinh đồng của tánh riêng không trái nhau, nhưng nhân khác nhất định kia vẫn có sự sinh đồng của tánh riêng không trái nhau, bởi thể chung cả gần xa. (ở đây lược qua không nói.)

Dẫn phát kia dẫn dắt sinh khởi tầm, gọi là giải thích nghĩa, lẽ ra phải có nhân duyên, đàng này chỉ dựa vào hiện hành đối với nhau, gọi là nhân dẫn phát, dựa vào tập khí của nghiệp trong “hành”, “hữu”v.v… của phần vị thấm nhuần và chưa thấm nhuần mà nói, cho nên là tăng thượng chứ không phải nhân duyên.

Không ngăn ngừa hạt giống ái đối với thủ, hạt giống sinh đối với già chết làm nhân dẫn phát, có nghĩa nhân duyên. Cũng không ngăn ngừa năm thứ như thức, v.v… trong phần vị chưa thấm nhuần đối với sinh, già, chết làm nhân dắt dẫn.

Năm thứ như thức, v.v… trong hữu đã thấm nhuần, làm nhân sinh khởi cho sinh, già, chết mà có nghĩa nhân duyên, vì đối với nhau, riêng, nên cũng không trái nhau. Trong hai nhân.”

Hỏi: “Có mấy chi thuộc về hai nhân, quả sinh và dẫn?”

Đáp: “Thức, v.v… trong pháp sau của hiện pháp, cho đến thọ đối với các chi thuộc về phần vị sinh, già, chết. Ở đây nói kiết của chi thức sinh nối tiếp nhau, chủ thể dẫn (năng dẫn) đối tượng dẫn (sở dẫn) có trong cùng một thời gian, quả quá khứ xa nhau, đều gọi là nhân dẫn. Chủ thể sinh (năng sinh) và quả, vì hai đời khác nhau; gần gủi với chủ thể sinh, gọi là riêng là nhân sinh.”

Thành Duy-Thức chép: “Sinh gần với quả chánh gọi là nhân sinh; dẫn xa quả thừa thải, gọi là nhân dẫn. Ba tánh mười nhân, được chỉ rõ như chương riêng. vì ở đây nói về tạp nhiễm, nên không trái với giáo khác.

Phần thứ chín, trong duyên phân biệt, gồm có ba mươi môn để phân biệt.

Trong phần thứ nhất, mỗi chi đều có hỏi đáp để phân biệt. Vô minh có hai lượt hỏi đáp. Vô minh kia chỉ vì là nhân không đoạn, cho nên đồng. Không chánh tư duy có nhân không đoạn cho vô minh, nên không khả năng làm nhân tạp nhiễm, vì thể chẳng phải nhiễm. Vì sao không khởi tác ý phi lý mà có duyên khởi, nên gọi là nhân không dứt, chẳng phải nhân tạp nhiễm?”

Ở đây, Luận sư Cảnh có hai giải thích:

1/ “Không như lý tác ý. Nghĩa là y cứ hiện tại, vô minh tương ưng với bất chánh tư duy mà nói. Đây là vì vô minh nên nhiễm, vì không thể nhiễm vô minh, nên không nói là nhân của vô minh.”

2/ “Tác ý tương ưng với vô minh trong quá khứ”

Hỏi: “Nếu vậy, thì tác ý quá khứ đều có chung với vô minh, vì sao chỉ nói tác ý tác nhân không đoạn cho vô minh, mà không nói là vô minh quá khứ tác nhân không đoạn cho vô minh hiện tại ư?”

Đáp: “Dù có vô minh mà vì sức kém, cho nên không nói; vì sức tác ý mạnh, nên y cứ ở hỏi đáp kia. Vậy, lại, thể của tác ý này, Luận sư Bị nói lại hai giải thích:

1/ “Tác ý biến hành.”

2/ “Số tư biến hành. Lại sinh nghiệp tạp nhiễm, được năng lực phiền não huân phát, v.v… Nghĩa là sinh tạp nhiễm do nghiệp tạp nhiễm khởi. Nghiệp tạp nhiễm khởi do phiền não tạp nhiễm, cho nên nói là do phiền não kia đã huân phát.

Thể của nghiệp là “hành”nhân đầu tiên tức là lấy vô minh làm thể. Dù các phiền não đều là nhân ban đầu của nghiệp, nhưng vì vô minh có riêng mười một việc vượt hơn, nên nói riêng, cái gọi là sở duyên (đối tượng duyên), v.v… (rộng như kinh nói).

Luận Câu-xá chép: “Vô minh không nói là nhân, sinh, tử lẽ ra có bắt đầu. Già chết không nói là quả, sinh tử lẽ ra có cuối cùng. Từ “hoặc”sinh “hoặc”, nghiệp; từ nghiệp sinh ra sự; từ sử sự “hoặc”sinh. Lý của chi hữu chỉ ở đây, cho nên mười hai chi không có chỗ luân hồi bắt đầu.

Bổ thuyết rằng thể của sinh tạp nhiễm do hai duyên nghiệp phiền não đã nhiễm. Nghiệp nhân một duyên phiền não nhiễm, cho nên đối tượng sinh (sở sinh) là vô minh ban đầu. Vì vô minh không do tác ý mà bị nhiễm, cho nên khởi, vì thế không nói tác ý không đúng như lý là duyên khởi đầu tiên.”

Hỏi: “Vì sao không nói tự thể của vô minh là duyên của tự thể ư?”

Đáp: “Vì tự thể vô minh nếu không được duyên gì khác thì đối với tạp nhiễm của tự thể, sẽ không thể tăng, giảm vì thế, nên tự thể của vô minh chẳng phải duyên.

Hành có ba lượt hỏi đáp. Vì không thấu nhân khổ cùa thế tục là duyên khởi, phi phước hạnh, v.v… Nghĩa là về tướng trạng khổ của ba đường ác dễ biết, gọi là khổ thế tục.

Nổi khổ của người trời vì ẩn khó hiểu rõ, sở tri của Thánh trí gọi là khổ thắng nghĩa”

Hoặc có giải thích: “Trong tám khổ, luận Đối-Pháp nói: “Bảy khổ trước, gọi là khổ thế tục, khổ thứ tám, gọi là khổ thắng nghĩa”

– Nếu theo giải thích này thì hành khổ thứ tám đã chung cho cả năm đường, lẽ ra chỉ mê đường ác, mà cũng khởi phước nghiệp, bất động? Bảy khổ trước đã chung cả người, trời, lẽ ra chỉ mê cõi thiện, cũng tạo nghiệp phi phước? Khổ khổ; hoại khổ; hành khổ đều chung cho cả năm thứ? Do đó, nên biết rằng, cách giải thích trước là hay.

Nổi khổ của thế tục, thắng nghĩa kia dựa vào thô, tế riêng, dễ biết, khó biết mà nói. Nổi khổ của thế tục, thắng nghĩa này là dụa vào tướng chung của đường, cảnh của phàm, thánh mà nói, cũng không trái nhau.

Nhân gần, v.v… của phước, nghiệp bất động khởi, chỉ gần với tư thiện, xa với nhân đẳng khởi, do vô minh phát nêu mê quả tương lai, nói si là duyên, hoặc nhân gần của nghiệp phi phước cũng do vô minh làm duyên, vì mê quả tương lai phải không?

Đáp trong đây, nói chung, “duyên” nghiệp phước, phi phước, bất động. Nghĩa là ba bất thiện căn chỉ sinh phi phước; bất thiện căn si, chung cả phước, bất động. Cho nên, Duy-Thức nói: “Có vô minh phẩm hạ, có thể phát hành phẩm thượng. Nếu không như vậy, thì đấu tiên, chế phục nhiễm của địa dưới; mà khởi định của địa trên, lẽ ra không phài là chi hành? vì vô minh của địa kia cũng chưa khởi, cho nên bất thiện căn si phát chung cả ba nghiệp.”

Hỏi: “Phát nghiệp có phụ và chính. Nói chính thì không có pháp trợ. Vì duyên của sự nuôi dưỡng, vì phải cần số luợng, nên ch1nh, hỗ trợ đều tỏ bày.

Dựa vào phát tất cả hành, duyên mà nói là, v.v… Nghĩa là không những chỉ nói vì duyên hành của thân ngữ và dựa vào sinh thiện, nhiễm ô, duyên của tư mà nói. Nói vô minh là duyên, không nói là duyên của vô ký hành, vì hai hành thân ngữ chỉ vô ký, vì chỉ nói là vô minh phát các hành. Vì gần nên có thể phát khởi ba thiện, nhiễm ô của thân, ngữ, ý.

Bổ khuyết rằng: “Dù tư phát khởi hai hành thân, ngữ mà không phát tư. Vô minh phát chung tất cả các nghiệp, cho nên chỉ nói vô minh “duyên”hành. Hơn nữa, ba nghiệp lấy tư làm tánh. Vô minh “duyên”hánh thì sinh tư thiện, bất thiện. Vì thế, nên không nói tư “duyên”hành.”

Đáp: “Hành là duyên tạp nhiễm của thức, vì khả năng dẫn (chủ thể dẫn), khả năng sinh (chủ thể sinh) quả của hữu sau, cho nên bình đồng. Nghĩa là hành năng dẫn hạt giống của hiện thức, chủ thể sinh hữu sau, vì hiện hành của thức, không phải như danh sắc, chỉ là căn cảnh có thể sinh ra Thức.”

Đáp: “Vì thức có thể làm nhân cho sinh mới ấy cho nên đồng. Nghĩa là do thức vào thai làm nhân của sinh mới. Vì báo chung có thể làm duyên cho báo riêng. Hoặc do chủng thức là nhân gần của danh sắc, vì khiến sinh mới. Ở đây nói danh sắc, kiết đầu tiên sinh. Về nghĩa, cứ theo thức vào thai ở dưới, thuyết trước là hay.

Lại, dựa vào tất cả sinh, tất cả hữu lúc sinh, mà nói. Nghĩa là tất cả bốn sinh, tất cả ba hữu lúc thọ sinh, nhất định có thức, giới, nên nói riêng về thức. Năm thứ còn lại không nhất định, cho nên, không nói. Lại vì sáu xứ vượt hơn, do hai chủng. Nghĩa là chỉ nêu sáu xứ lúc sinh xúc, đây là giống như gồm thâu sáu xứ, sáu thức cũng sinh ra xúc. Vì xúc là nhân gần ấy. Nghĩa là Duy-Thức nói: “Nghĩa là tướng đáng yêu, v.v…, đối tượng xúc nhận lấy, với tướng thọ, v.v… thuộc đối tượng nhận lấy của thọ tướng gần, là gần gũi, vì dẫn phát vượt hơn. Do sức thọ, v.v…, đối với cảnh giống nhau, hoặc cầu hòa hợp, hoặc cầu trái lìa, v.v…, nghĩa là cảnh của thọ và cảnh của ái giống nhau. Đối với cảnh của thọ, thì yêu mong cầu hòa hợp. Đối với cảnh khổ thọ, thì thích mong muốn biệt ly, gọi là cảnh giống nhau. Cho nên nói là ái lấy chi thọ làm duyên. Vô minh chỉ đối với tướng sinh, diệt, v.v… trong, ngoài, không như thật biết, không thể chế ngự tâm, mà khởi hành tướng không rõ ràng. Ái không thân, thuận không nói là “duyên”. Nếu xa do mê mà khởi thọ, cũng có nghĩa “duyên”, chẳng phải như thọ. Vì gần, nên nói riêng thọ làm duyên cho ái.

Do vì hy vọng sinh, nên trong khi cầu tiến, có thể phát tùy miên, v.v… Nghĩa là do ái, mong cầu hòa hợp với cảnh vượt hơn, cách ly cảnh ác, mà hun đúc hạt giống phát lấy tùy miên, và dẫn pháp tùy thuận sinh thủ, cho nên Thủ được sinh. Đó là lý do nói riêng ái “duyên”thủ.”

Hỏi: “trước kia đã nói vô minh là “duyên”phát khởi nghiệp “hữu”v.v…, nghĩa là nghiệp thiện, bất thiện đã thấm nhuần, chưa thấm nhuần đều gọi là hữu, vì khả năng có quả. Nhưng dựa vào sự thấm nhuần rồi, có thể tiếp cận quả “hữu”, được tên là “Hữu”. Chưa thấm nhuần về trước, mới tạo không phải thêm, gọi là đó là Hành.

Dựa vào nghĩa vượt hơn, khác, đều được một tên.

Nay, vì theo nghĩa chung, nên nói vô minh, phát khởi nghiệp “hữu”, tức là hành chỉ đối với phần vị thấm nhuần, do năng lực của thủ, tức khiến cho nghiệp kia, đối với vô minh kia, chỗ hành kia sinh, có thể dẫn đến quả thức, danh sắc, v.v… cho nên, nói riêng thủ “duyên”hữu.

Phần thứ hai trong môn ba đạo, theo Thành Duy-Thức: “Vô minh ái thủ là đối tượng thuộc về “hoặc”, tức ba đạo này. Hành có một phần, là thuộc về nghiệp, tức hai đạo này. Duy-Thức kia hội ý rằng: “Có chỗ nói nghiệp là hoàn toàn gồm thâu hữu”, nên biết rằng, họ đã nương vào nghiệp hữu mà nói.”Hội Đối pháp v.v…: nói “thức thuậc về nghiệp”, họ nói chủng tử nghiệp là chi thức.”cho nên,thức khác là đạo khổ, nghĩa là ytheo đây là bảy chi còn lại, để nói chung “hữu”vì là nghiệp đạo.

Thành Duy-Thức nói: “Một phần của bảy hữu là đối tượng thuộc về khổ, vì năm thức chuyển thức, v.v… gọi là “hữu”.

Phần thứ ba, phân biệt trong nhân quả có hai lớp:

  1. Dựa vào thứ lớp của mười hai chi đối nhau làm nhân quả.
  2. Ba chỉ là nhân. Nghĩa là vô minh, ái, thủ là căn bản của phát nghiệp, thấm nhuần sinh.

Hai chỉ là quả. Nghĩa là sinh, già, chết là quả đã sinh của mười chi trước. Lớp này dựa vào ba tạp nhiễm và nhân quả đối nhau của hiện, chủng, vì là riêng. Tóm lại, duyên sinh là nhân quả, đại khái có năm lớp:

1. Môn đẳng khởi. Nghĩa là trước trước là nhân, sau sau là quả, tức ở đây, đầu tiên nói, một môn đầu chỉ nhân đẳng.

2. Nhân, quả gốc ngọn, văn thứ hai này, vì phiền não là gốc.

3. Chỉ là nhân đẳng.

Từ đây trở xuống, cũng nói rằng, sáu chi trước và ái, thủ, hữu là phần nhân; hai chi sau là phần quả. Thọ, chung cả hai thứ, cũng dựa vào gốc, ngọn để nói về nhân, quả.

Dị thục chẳng phải nhân quả của dị-thục quyển năm mươi sáu nói: “Lại, năm chi thuộc về quả hiện tại, và hai chi thuộc quả vị lai, gọi là chung là duyên khởi thuộc về quả. Phải biết rằng, chi khác là duyên khởi thuộc về nhân.”

Luận Trung Biên quyển thượng cũng nói: “Nhân tạp nhiễm, nghĩa là phần nghiệp phiền não. quả tạp nhiễm, nghĩa là phần khác.

4. Nhân quả thục, chưa thục. Luận Đối Pháp nói: “Lúc ở phần vị nhân, có chủ thể dẫn, đối tượng dẫn (năng dẫn, sở dẫn), tức bảy chi trước. Khi ở phần vị quả, có chủ thể sinh (năng sinh), đối tượng sinh (sở sinh), nghĩa là năm chi sau: do vô minh đã thành thục, vì ái, thủ làm tăng trưởng cho nó.

Sáu chi như hành, v.v… thành thục gọi là hữu. Hai chi sinh già là đối tượng đã thành thục.

5. Phần vị nhân, quả tức sinh trước dẫn trong hai nhân nói rằng, chủ thể dẫn và chủ thể sinh hợp với mười chi, gọi là nhân, hai chi sau là quả.

Duy-Thức cũng nói: “Mười nhân, hai quả, nhất định không đồng với thời gian. Dù các môn nói năm nghĩa không đồng, đối với nhau có khác, nhưng về mặt lý thì không trái.”

Phần thứ tư, nói về tướng riêng, lẫn lộn.

Ba là tướng riêng, v.v… Thành Duy-Thức nói: “Vô minh ái, thủ, được nói là tướng riêng, vì không xen lẫn nhau với chi khác.

Chi khác là tướng lẫn lộn, nghĩa là về nghĩa trước, sau nhất định không đổi thành chi khác, gọi là tướng riêng. Trái với tướng này là tướng lẫn lộn. Nói chủ thể dẫn quả ái, phiái. Nghĩa là thể tức chi hành. Vì chưa thấm nhuần về trước, gọi là nhân dẫn. Và sự khác nhau của chủ thể sinh thú, tức là chi hữu. Do hành bị chuyển thấm nhuần, gọi là hữu, vì khả năng sinh chi.

Thức và danh sắc, một phần của sáu xứ có tướng lẫn lộn, nghĩa là như lúc chi thức thông suốt qua năm uẩn “hữu”, chỉ nói thức là chi; cho nên là một phần. Đến thời gian danh sắc, thức chuyển thành danh, một phần trong danh. Đến thời gian sáu xứ, thức lại đổi tên là ý xứ không phải năm xứ khác, cũng là một phần. Chỉ một thức tánh đi thẳng tắt với ba chi trước sau, gọi là khác nhau, nghĩa ấy cũng khác, nên gọi là tướng lẫn lộn. Vì xúc, thọ chẳng phải thức, nên không đồng với lẫn lộn. Lúc dựa vào tạp nhiễm, đó là chi Thức, nghĩa là văn trước nói: “Vì tà hạnh, nên làm cho tâm điên đảo, hiện thức điên đảo đã hun đúc hạt giống, tức gọi là chi Thức.”

Dựa vào thời gian thấm nhuần: Tức hạt giống thức được ái, thủ thấm nhuần. Phần vị của kiết sinh đầu tiên, được gọi là chi danh sắc.

Dựa vào thời gian thay đổi. Nghĩa là tức sinh sắc này, lúc sáu căn khởi, gọi là chi sáu xứ, chứ không phải sáu xứ, v.v… Hoàn toàn chỉ là thức, vì đều có thức, cho nên, trở thành lẫn lộn.

Vì phân biệt rõ tướng khổ, nên nói là “Đẳng”. Nghĩa là thức, hiện tại, v.v… Hiện khởi năm chi, đáp lại nhân trước khởi tướng của năm chi rõ ràng, phân biệt rõ ràng về tướng khổ riêng. Nếu ở vị lai đồng với pháp Dị-thục, thì sẽ có chưa rõ ràng, gọi là chung là sinh tử.

Sinh, già, chết này, một là bảy nhân dẫn đã dẫn của vô minh, v.v… Hiện tại. Hai là ái, thủ có ba nhân sinh đã sinh. Cho nên nói “và vì chỉ rõ sự khác nhau của dẫn sinh. Sinh, già, chết này đối với sinh thân kế, lúc hiện tại khởi, thân vi tế có khác nhau, vì lìa là năm chi, nên nói vì bày tỏ riêng về tướng khổ. Phải biết tông này, năm chi như thức, v.v… ở hiện tại và hai chi ở vị lai, có tướng lẫn lộn, nghĩa là chi sinh, gồm thâu đủ năm chi như thức, v.v… Già, chết chỉ bao gồm phần sau của chi thọ, nên gọi là tướng lẫn lộn. Cũng có thể già, chết thấm nhuần sinh, đều có năm chi như thức, v.v…, gọi là có tướng lẫn lộn (tướng tạm của hữu).

Phần thứ năm là giải thích lại về danh nghĩa. Duyên khởi trong kinh.

Tiếng Phạn là Bát-thích-để, Hán dịch là Ưng hành, vì không trụ.

Tiếng Phạn nói là tham, Hán dịch dịch là hòa hợp, vì nhóm hợp chính đáng.

Tiếng Phạm nói ổ, nghĩa này được dịch là khởi, vì duyên khởi mới khởi.

Trong ba nghĩa đầu tiên, giải thích chung về duyên khởi, để phân biệt với vô vi. Kế đến giải thích về chữ “duyên”, nhằm chứng tỏ duyên không khác nhau. Sau chỉ giải thích chữ “khởi”, để phân biệt với pháp bất sinh. (rộng như chánh lý)

Duyên khởi, duyên sinh: Như Đối Pháp nói “nhân gọi là duyên khới; quả gọi là duyên sinh”

Phần thứ sáu trong thuộc về bốn Đế, ở đây nói bảy chi đầu đều là khổ-đế xong. Nói năm chi còn lại, chỉ Tập-đế xong. Vì muốn chỉ rõ thể của hai đế khác nhau, chẳng phải năm chi hoàn toàn là Tập-đế”

Thành Duy-Thức nói: “Đều thuộc về khổ đế, vì tánh của thủ uẩn. Năm cũng thuộc về Tập-đế, vì tánh của nghiệp phiền não.

Bức bách là nghĩa khổ. Tất cả đều là khổ, vì chiêu cảm dị-thục, vì là nghĩa tập. Năm, cũng là tập-đế.

Phần thứ bảy các chi đối nhau là ba duyên, giữa có mười sáu lượt hỏi đáp. Nghĩa là do vô tri đối với tùy thuận “đẳng”trong pháp của các hành.

Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Ý hành bất thiện, gọi là tùy thuận hành. Lúc vô minh cùng có, vì là sát-na đẳng khởi, gọi là đều cùng có che lấp. Do năm ác kiến nên tha hồ buông lung tương ưng với vô tri. Kiến duyên này khởi vì không phải thân duyên hành, nên làm duyên Vô gián cho hành thân, ngữ ác. Hoặc do thân kiến, biên kiến, v.v… tương ưng với vô tri, duyên Vô gián thân dẫn các hành. Nếu các hành thiện do vô minh dẫn là duyên lâu xa, do mê quả kia, khởi hai tư ban đầu, về sau, mới khởi có hành, nên trở thành duyên diệt lâu xa, kiến lập quả tương lai. Đây là nói quả phát khác nhau giữa hai hành, cũng được làm duyên “Câu hữu”cho hành vi thiện. Vì sát-na đẳng khởi, không phải chính thức phát nghiệp, nên ở đây không nói.

Các nghĩa như thế, tư duy so sánh nên biết.

Ở đây phương Tây (Thiên-trúc) nêu ra hai giải thích:

1/ “Vô lậu của Nhị thừa cũng đều có với vô minh, huống chi là thiện hữu lậu. Nếu dựa vào nghĩa này, thì nghiệp thiện, phước, v.v… sẽ được đều có chung với vô minh, cũng dùng vô minh làm duyên “Câu hữu”.

2/ “Vì nghiệp thiện, bất thiện đều có chung với vô minh.”

Văn này đều so sánh vô minh với hành, chia làm ba duyên, để nói riêng về thiện ác:

Ác có ba duyên, thiện không có “Câu duyên”(duyên cùng có), cho nên văn luận này là lời chung, mà ý riêng:

Hành với thức là ba duyên. Nghĩa là do hành đồng thời hun đúc, phát hạt giống thức là “duyên””câu hữu”, do thế lực của hành, làm cho hạt giống thức của niệm kế tiếp nối tiếp nhau tăng tưởng, là duyên của Vô gián diệt. Do hạt giống của hành kia, nên quả tương lai của thức mới được sinh khởi, là duyên của diệt lâu xa.

Thọ đối với ái là ba duyên. Nghĩa là do thọ hiện hành đồng thời

khởi ái là duyên “Câu hữu”v.v… Ái đối với thủ là cùng có rằng: “Vì do tham đều hiện hành, nên đối với dục lạc trong pháp tùy thuận thủ được an lập. Nghĩa là ái với chủ thể thủ thật ra không đồng thời, vì nhân duyên của thủ là đối tượng thủ, đối tượng làm với ái đều có. Ái đối với thủ trở thành duyên “Câu hữu”, thủ đối với hữu là ba duyên, lại, chủ thể vẫn phát công năng của giới kia là duyên lâu xa. Nghĩa là duyên này đối với sơ sinh, không phải là sự nối tiếp nhau về sau. Khi sắp chết, ngã ái đối với các cõi, lúc mới khởi, có một niệm cách biệt, chính là chết, cho nên là duyên lâu xa.

Hữu đối với sinh là ba duyên, hun đúc, phát hạt giống kia.

Luận sư Cảnh nói: “Chủng nghiệp của chi hữu đã được thấm nhuần rồi; hạt giống danh ngôn giúp phát thức, v.v… làm cho đời đời đều làm duyên câu hữu.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Do nghiệp xưa hun đúc hạt giống thức, v.v…, nên nay gọi là hữu, mà sinh ra quả hiện tại, nên trở thành “Câu hữu”(đều cùng có).

Dù diệt lâu xa, mà quả chuyển biến. Nghĩa là như thấm nhuần đầu tiên. Hữu đối với sơ sinh, vì quả thay đổi nên trở thành duyên dẫn phát của diệt lâu xa, vì cách ngăn chính khi chết.

Thứ tám, trong phần nói về phần vượt hơn, phần hoàn toàn của chi hữu, chi hữu có hai kiến lập:

  1. Phần vượt hơn.
  2. Phần hoàn toàn.

Đầu tiên chỉ cho nghiệp hữu. Về sau, sáu là hữu, do thủ thấm nhuần chuyển biến gọi là hữu, xưng là nhiếp thọ.

Trong môn nghiệp dụng thứ chín có hai:

1. Nói về nghiệp nhiều ít.

2. Làm duyên rộng, hẹp, tức nghiệp dụng này và trong cảnh sở hành đầu riêng, như đối tượng thích hợp với nghiệp đó mà có dụng, v.v… của nghiệp. Luận Đối-Pháp nói: “rằng chi vô minh có hai thứ nghiệp:

1. Làm cho các hữu tình ngu si đối với hữu.

2. Làm duyên cho hành, cho đến hai thứ nghiệp của sinh hữu:

1/ Khiến danhsắc, v.v… của các hữu tình khởi.

2/ Làm duyên cho già, chết.

Các chi như thế đều có hai nghiệp. Nghiệp thứ hai kia, ở đây nói là, tức nghiệp dụng này.

Ba thứ duyên đã nói ở văn trên và hai nghiệp sở hữu trong mỗi

cảnh riêng này, chính là nghiệp ban đầu kia.

Nói già, chết kia cũng có hai nghiệp:

1. Khiến cho hữu tình đổi khác trong từng thời gian, vì hư hoại thiếu, tráng.

2. Thường làm cho mạng sống lâu của hữu tình đổi khác, vì hư hoại tuổi thọ.

Trong đây, chỉ nói chi trước làm duyên cho chi sau, nên không có duyên của già chết, không trái nhau.

Trong biện biệt là duyên rộng, hẹp có ba:

  1. Nói về nghĩa duyên xa gần.
  2. Nói sau chẳng phải duyên trước.
  3. Kết về duyên.

Phần thứ mười giải thích kinh:

Câu: “Ở đây có, nên kia có, v.v… ”

1. Hiển bày rõ duyên sinh vô tác. Chỉ do hữu duyên quả pháp được “hữu”, chẳng phải duyên tác dụng thật của “hữu” năng sinh ra quả pháp.

Nói do chưa đoạn duyên, nên pháp còn lại được nghĩa sinh.

2. Hiển bày duyên sinh vô thường, chứ chẳng phải pháp vô sinh, làm nhân, vì thiếu pháp sở sanh mà được thành lập.

Hai phần sau, nói về thế dụng của nghĩa sinh. Nghĩa là thứ ba, “là các pháp vô tác.” Thứ tư, “là các pháp vô thường.”Nhưng vì không tùy thuộc vào một pháp làm duyên, nên tất cả quả sinh. Do công năng của các pháp khác nhau, nên nói rằng: “1- Phá tác dụng duyên sinh. 2- Phá duyên sinh thường trú. 3- Làm rõ thế dụng duyên sinh. – Phá sai lầm của duyên sinh bất bình đẳng: người khác làm, ta chịu quả.”

Phần thứ mười một. Trong phân biệt bốn trường hợp, v.v…, chẳng nhất định là chi. Vì đại khái nói là chi kia, câu thứ hai vô minh không nói là quả của nghiệp báo riêng hữu phú vô ký, vì lược qua.

Trường hợp thứ hai là hành, không nói thức vô phú hữu ký cũng thế. Hoặc có ái nầy không phải thọ làm duyên, nghĩa là mong cầu giải thoát và dựa vào ái thiện mà xả ái khác, nghĩa là loại Dục của pháp thiện, gọi là cầu ái giải thoát, và tất cả ái thiện, nhàm bỏ tham ái, nghĩa là vì không phải thuận với ái thọ là duyên, nên sinh phi ái, đều cùng lúc và trước kia không có thọ, vì không thuận với ái thọ, nên nói chẳng phải duyên, không trái nhau. Lý thật trong đây, nên thuận theo câu sau.

Các ái này, nghĩa là phải duyên thọ sinh, “Có” thọ làm duyên chẳng phải là ái, nghĩa là chi còn lại ở sau.

Trong mười hai chương tám chánh đạo, mười hai chi đều che lấp chánh kiến, chánh tư duy, v.v… Nay nói chướng vượt hơn, chỉ nói vô minh và ý hành nhiễm và ý hành hữu che lấp chánh kiến, v.v… Thân hành, ngữ hành; và một phần sắc hữu che lấp chánh ngữ, v.v… Trừ vô minh hành hoàn toàn có một phần, một phần ít chín chi khác che lấp chánh niệm, chánh định. Nói chi khác ở đây, nghĩa là hoàn toàn nói chín chi. Vấn đề này có hai giải thích:

1/ “Do ba chi trước, nói là che lấp thân tuệ và thân giới. Chín chi còn lại, theo nhau, gọi là chung là che lấp chánh định, v.v… Về lý, thật sự chỉ nên nói là hai chương ái, thủ lìa dục, đạo chánh niệm, định.”

2/ “Thân định, nghĩa là tâm học; chi thức là tâm. Danh sắc, sáu xứ, sinh và già chết, vì đều có thể của tâm, nên che lấp thân định. Hai chi xúc, thọ là sở hữu của tâm, đều gọi là sắc trong danh và năm xứ trước, từ thức, nói chung, che lấp thân chánh định. Hai chi ái, thủ che lấp đạo lìa dục, chính là che lấp thân chánh định. Ở đây nói chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn là tuệ học; chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là giới học; chánh niệm, chánh định là định học.”

Thành Duy-Thức chép: “Sáu độ và ba học nhiếp nhau.”

Hoặc nói rằng tinh tấn gồm thâu ba, vì chung cho cố gắng ba. Hoặc dựa vào Sơ học để nói, nên nói rằng: “Tinh tấn chỉ có giới, vì thủ hộgiới. Nay, dựa vào lâu thành, do tinh tấn giúp thành, vì kiến vượt hơn, nên chỉ có thân tuệ. Chánh niệm thuận với sinh, vì chi chánh định, nên thuộc về định học. Do niệm ghi nhận sáng suốt vì tâm chuyên chú.

Phần thứ mười ba. Trong môn nhiễm tịnh, bốn chỉ phẩm tạp nhiễm, đó là vô minh, ái, thủ và thức.’

Hỏi: “Ba phiền não là nhiễm có thể biết. Vì sao biết thức là nhiễm?”

Đáp: “Như trên đã nói, vì tà hạnh, nên khiến tâm điên đảo, nên là thức tạp nhiễm. Đây là y cứ tâm cuối của trung hữu, vì là chi, nên nói rằng bốn chỉ là tạp nhiễm. Hoặc thứ tư là chi già, chết. Vì không thể tu học trong phần vị già, chết nên tên là nhiễm. Năm chi như thức, v.v… y cứ theo chi sinh mà nói, thì sáu chi này thật sự không phải nhiễm, tịnh. Tùy theo nghiệp chung, riêng, mà quả được gọi là nhân.

Thành Duy-Thức nói: “Ba chi chỉ là nhiễm, vì tánh phiền não; bảy chi chỉ không nhiễm, vì quả Dị thục.”Hội ý văn này nói rằng: “Chấp nhận khởi nhiễm ô trong bảy phần vị, đã nói chung cho cả hai, vì phần vị khác chung cho hai thứ.

Ở đây, chỉ nhiễm nói là bốn chi. Hoặc thức, hoặc già chết, giả được tên nhiễm, Duy-Thức y cứ ở thật, cũng không trái nhau.

Phần thứ mười bốn, môn nhân mất, quả táng. Có ba thứ phát khởi triền, tùy miên vô minh, Pháp sư Bạt nói: “Triền là vô minh hiện khởi; tùy miên là hạt giống vô minh ; phát khởi tức là phát nghiệp, vô minh bất cộng chung cả ba thứ trước.”

Lại giải thích có ba thứ phát khởi triền, tùy miên,vô minh, tức là vô minh ba cõi chung cho triền và tùy miên đều có thể phát hành, do triền tùy miên này diệt, nên hành cũng diệt theo.

Giải thích trước thuận với kinh duyên khởi. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Phát khởi nghĩa là vô minh phát nghiệp. Vô minh này tương ưng chung với bất cộng triền, nghĩa là vô minh nhuận sinh, phần nhiều chỉ tương ưng. Hai thứ này đều hiện hành, được hun đúc thành hạt giống, gọi là vô minh tùy miên. Do phát hành vô minh lấy tất cả vô minh làm căn bản.”Trong đây, nói chung là vô minh nhuận sinh lại, hành ngay chi hữu; vô minh ngay ái, thủ, nên đây là nói chung.

Lại, ba thứ này phát khởi là chung. Trong đây có hai: Triền, và tùy miên. Vì chung, riêng hợp luận, nên gọi là ba thứ. Thể của phát khởi tương ưng với bất cộng, tức bốn là ba. Vì ba thứ này diệt chung, nên phát hành kia phân biệt vô minh diệt. Vì vô minh kia diệt, nên hành diệt.

Cách giải thích này nói chung, phát vô minh của tất cả hành. Không như vậy, thì vô minh nhuận sinh chưa diệt, vì sao phát hành liền diệt?

Lại có ba thứ phát khởi, vô minh tùy miên của triền:

  1. Chủ thể phát khởi triền.
  2. Tương ưng với chủ thể phát khởi.
  3. Chủ thể phát khởi bất cộng.

Ba thứ này đều là triền. Triền là chung, hai thứ sau là riêng.

Phát vô minh tùy miên của hiện hành này có ba, do ba vô minh tùy miên này diệt, nên vô minh hiện hành kia diệt. Vì vô minh hiện hành diệt nên hành diệt.

Trong hành, Luận sư Cảnh nói: “Các hành đối với tự nối tiếp nhau, đã làm, đã diệt và chưa khởi đối trị. Đây là nêu các hành đã làm chưa dứt trong thân mình. Vì hành này không có, nên thức không có.

Nói: “Lại do ý hành”, nghĩa là cố khởi thân, ngữ hành.

“Vì đây có, nên kia có”. Nghĩa là do ý tứ hành, khởi thân, ngữ hành. Do ý tứ có, nên thân, ngữ kia có. Đây là nêu riêng có để chỉ bày rõ không có.

Nói “Vì kia không có, nên thức duyên kia cũng không.” Nghĩa là thân hành, ngữ hành kia không, thức kia cũng không”. Đây mới là thuận giải thích luận.

Nói: “Đây nếu hoàn toàn diệt, phải biết thức cũng diệt theo”

Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Đã làm chưa diệt trong sự nối tiếp nhau của mình, nghĩa là ý hành. Lại do ý hành, nên khởi thân, ngữ hành, nghĩa là hai hành thân, ngữ. Vì do ba hành này, nên thức có. Vì hành không có, nên thức duyên kia cũng không có, v.v… Nghĩa là hạt giống thức lấy hành làm duyên. Vì hành không có, nên hạt giống thức không. Nếu hành hoàn toàn không có, thì thức kia cũng không có. Hoặc hạt giống thức này vì hoàn toàn không có, nên hiện thức cũng không có. Lý vô minh “duyên”hành. Như thế, đạo lý ái “duyên”thủ, thủ “duyên”hữu cũng như thế.”

Luận sư Cảnh giải thích: “Hỏi: “Lý vô minh duyên hành giống như thủ duyên hữu rất dễ hiểu. So với ái duyên thủ đâu có giống nhau ư?”

Giải thích: “Có một ít giống nhau chứ chẳng phải hoàn toàn. Như vô minh bất thiện trước, sinh vô minh bất thiện sau, tương ưng với tư hành. So với ái sinh thủ, thì nghĩa ấy đồng. Không y cứ vô minh sinh thân, ngữ, ý hành khác và sinh phước, bất động hành.

Những gì là vì thọ không có, nên ái không có và đến như lý hành “duyên”thức? – Luận sư Cảnh nói: “Duyên”vui giả dối sinh ái này, như nhân tà hạnh sinh thức điên đảo, cho nên đồng loại nhau.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hỏi “Thọ là quả, ái là phiền não; hành là nghiệp, thức là quả, đều hoàn toàn không giống nhau, sao lại là đồng loại?”

Đáp: “Nghiệp quả của hành và thức khác nhau, vì tánh khác nhau nên đối nhau. Nay, “hoặc”quả của thọ và ái dù, khác nhau, mà vì tánh cũng đồng, nên chỉ không khác nhau. Như từ nghiệp sinh Dị-thục, Dịthục sinh phiền não, vì là đồng loại, nên về nghĩa không trái nhau.”

Tông sư giải thích: “Như lấy vô minh làm duyên; hành làm duyên cho thức. Vì hành kia diệt, nên thức diệt. Cũng lấy vô minh, xúc làm duyên; thọ làm duyên cho ái. Vì thọ kia diệt, nên ái diệt. Vì nghĩa giống nhau, nên là loại.

Phần thứ mười lăm: Trong tám môn duyên khởi gồm thâu nhau. Ba môn là duyên khởi kia đã rõ ràng: đây là thuyết chung. Dưới đây, phân biệt riêng, nghĩa là hai, một phần là môn nội thức sinh; môn tự nghiệp sở tác. Một, là toàn phần đã rõ ràng, nghĩa là môn hữu tình thế gian chuyển. Luận sư Cảnh nói: “Môn nội thức sinh chỉ y cứ ở sáu căn sanh sau thức. Thức là chi thức, gồm thâu chi duyên khởi không cùng tận.

Môn tự nghiệp sở tác chỉ y cứ theo hành, hữu nghiệp, sinh ra sự khác nhau của năm đường, không gồm thâu ba phiền não và hạt giống của năm chi, cho nên không hoàn toàn thuộc về chi hữu. Vì sao năm môn khác không phải được hiển bày bởi mười hai chi ư? Nghĩa là mười hai chi duyên tông, nói về nhân, quả trong thân hữu tình; môn lúa mạ bên ngoài thành thục; môn khí thế gian thành, hoại chẳng phải là nhân quả của trong thân, nên chẳng phải mười hai chi.

Môn thức ăn gìn giữ, gánh vác chỉ lấy thức ăn bên ngoài để nuôi lớn chúng sinh, cũng chẳng phải thân trong, khả năng sinh khởi duyên.

Môn oai thế: Phân biệt dựa vào chi thiền. Năm thông dựa chung chín địa, vì phát nghĩa lậu tận thông, nên không phải mười hai duyên.

Môn thanh tịnh. Tức là phẩm đạo, vô lậu từ nghĩa duyên khởi, cũng không phải mười hai chi duyên.

Pháp sư Khuy Cơ nói; “Môn nội thức sinh, thức dựa vào căn khởi, nghĩa là các thức này làm môn thể. Môn tự nghiệp sở tác, nghiệp chiêu cảm Dị thục có báo chung, riêng. Chỉ vì báo chung, nên nói là một phần.

Duyên sinh có ba:

1. Tự tánh duyên sinh. Thức Dị-thục thứ tám duyên sinh tự tánh. 2. Thọ dụng duyên sinh. Cảnh thọ dụng của sáu thức thân 3. Duyên sinh của đạo ái, phi ái, tức mười hai chi.

Môn vô thứ sinh kia dựa vào căn “duyên”cảnh, chánh tợ thọ dụng duyên sinh.

Môn tự nghiệp sở tác, chánh tợ tự tánh duyên sinh: Một là hoàn toàn tức là đạo ái, phi ái. Dù lại là thiện, v.v… củ giải thoát phần, gọi là môn thanh tịnh, mà cùng với lưu chuyển làm môn trái hại. Lại vì chẳng phải thuận ích, nên cũng không gồm thâu.

Về nghĩa trái với lưu chuyển, như kinh Duyên Khởi nói.

Phần thứ mười sáu nói về tai hoạn lỗi lầm, thẳng lợi.

Năm tai họa lỗi lầm. Luận sư Cảnh nói:

“1/ Khởi ngã kiến.

2/ Khởi kiến mé trước.

3/ Khởi kiến mé sau.

4/ Khởi kiến mé trước sau.

5/ Với kiến mạnh mẽ, nhạy bén, chấp chặc có hữu, thủ, có sợ hãi không nhập Niết-bàn”.

Pháp sư Khuy Cơ nói; Một ngã kiến là gốc. Nhân ngã kiến này mà khởi lên ba mé đoạn, thường và tà kiến là ba. Tùy đối tượng thích hợp trong sáu mươi hai kiến, “duyên” nơi ba mé, khởi kiến đoạn, thường và tà kiến. Lỗi thứ năm, tức đối với kiến này, chấp thủ vững chắc, nhạy bén, mạnh mẽ là hơn. Sợ hãi Niết-bàn hiện tại không được, tức là kiến thủ. Hoặc là năm tà kiến nói về Niết-bàn hiện.

Năm tai họa lỗi lầm này, nghĩa là khởi bốn kiến, chỉ trừ giới thủ.

Phần thứ mười bảy. Môn giả, thật: chín thật, ba giả, nghĩa là ba môn sau. Thành Duy thức nói: “Vì sáu chi đã thấm nhuần hợp thành hữu, tức phần vị ba tướng của năm thức, v.v…, gọi là riêng là sinh, v.v…

Phẩm dưới gọi là ái; phẩm trên gọi là thủ, cho nên, đều là thật.

Phần mười tám nói về một sự, nhiều sự. Năm sự: Thành DuyThức nói: “Nghĩa là năm thứ vô minh, thức, xúc, thọ.

Thứ mười chín. Nhân của sở tri chướng. Nghĩa là một:

Trước, nói hoặc, nghiệp, khổ gồm thâu mười hai chi và phiền não chướng xong.

Luận Phật Địa nói: “Nếu một trăm hai mươi tám phiền não, v.v…, hoặc nghiệp đã phát; nếu quả đã được, đều là phiền não chướng, nên ở đây không luận, chỉ luận sở tri chướng, nghĩa là vô minh. Vô minh là nhân vô ký tuệ của pháp chấp, nên gọi là nhân sở tri chướng, làm nhân cho vô minh phiền não chướng.”

Duy-Thức nói: “Sở tri chướng kia, thật sự dùng vô minh phiền não chướng này làm chủ thể nương tựa.”

Nay, nói vô minh phát nghiệp, vì mê lý tăng, vì sở tri chướng kia đeu cùng có, nên là nhân của tri chướng, cũng không trái nhau. Lại vì do vô minh này phát nghiệp, chiêu cạm sinh. sở tri chướng sau sau, sẽ xoay vần sinh thêm. Vô minh là gốc, nên nói riêng làm nhân.

Thứ hai mươi. Khổ và nhân khổ. Năm khổ năng sinh. Nghĩa là vô minh, hành, ái, thủ, hữu. Năm khổ trong thai tạng, nghĩa là hạt giống như thức, v.v… Thể của khổ thức là sinh và già chết.

Thứ hai mươi mốt. Phần lẫn lộn của nhân quả. Nghĩa là chi khác được nói là phần hỗn tạp, nghĩa là Thọ. Dưới đây sẽ giải thích về tướng lẫn lộn:

Có hai thứ thọ gọi là phần lẫn lộn:

1/ Pháp sau, lấy xúc làm duyên, nhân thọ. Nghĩa là hạt giống của thọ lấy hạt giống của xúc làm nhân. Đối với quả của mé sau, là nhân thọ kia.

2/ Hiện pháp của ái làm duyên cho quả thọ. Nghĩa là báo hiện khởi, thọ làm “duyên”sinh ái, vì là quả của nhà mé trước, nên gọi là quả thọ. Cho nên, đây là một phần nhân quả của thọ lẫn lộn.

Hỏi: năm chi như thức, v.v… đều chung cả nhân quả, vì sao lại nói riêng nhân quả của thọ lẫn lộn, gọi là phần xen lẫn ư?”

Giải thích rằng: “Năm chi như thức, v.v… đối với vị lai kia, vì chỉ lấy hạt giống, nên chỉ nói về phần nhân của bốn chi trước, từ thọ sinh ái, phần nhiều là nhân quả thọ hiện khởi mà sinh, cho nên nói chung nhân quả trong thọ.

Thứ hai mươi hai. Hai quả của thể cảnh. Nghĩa là sáu chi trước, chủ thể sinh quả, v.v… trước: cảnh giới ái, phi ái, nghĩa là cảnh thuận cảnh trái. Thọ duyên cảnh này, gọi là quả. Do cảnh giới ái, phi ái là sở duyên duyên, sinh ra thọ “năng duyên”, cho nên thọ gọi là quả. Nghĩa là vì sáu chi trước. Nghĩa là hành làm nhân cho thọ. Vô minh, chủ thể phát ra nhân. Thức danh sắc, sáu xứ và thọ là nương tựa. Xúc năng sinh ra thọ, vì tùy đối tượng thích hợp với xúc kia, nên nói là “năng sinh”(chủ thể sinh).

Ái, thủ kia có ba chủ thể thấm nhuần (năng nhuận), đối tượng thấm nhuận (sở nhuận) là nhân, hay sinh quả tự thể của năm đường. Chỉ một chi thọ, hay sinh ra hai quả. Nghĩa là hạt giống hiện thọ đã bị thấm nhuần rồi, có thể sinh thọ hiện hành, gọi là sinh quả trước. Hành đã dẫn phát hạt giống sinh tự thể vị lai, gọi là sinh quả sau. Hoặc tự loại của sát na trước, sau, gọi là sinh quả đầu tiên. Đối với hạt giống chưa thấm nhuần, làm dẫn nhân xa, sinh ra sinh của đời vị lai và già chết, gọi là sinh quả sau.

Thứ hai mươi ba. Trong hai thọ đều có hành (câu hành), DuyThức nói: “Mười lạc xả câu. Vì thọ không tương ưng chung với thọ. Trong phần vị già chết, phần nhiều không có lạc, và khách xả. Mười một khổ câu, không phải vì thọ đều có (thọ câu). Vì già chết phần nhiều khổ, nên nói mười một.

Thể của hạt giống kia dựa vào phần vị tương lai đều cùng có, như chi hữu, v.v… Hạt giống và hạt giống đều cùng có, đều như lý tư duy. Câu, nghĩa là câu hữu, (đều cùng có).

Thứ hai mươi bốn. Trong môn ba khổ. Duy thức chép: “Phần ít của mười một thuộc về hoại khổ. Trong phần vị già chết, phần nhiều không có lạc thọ. Vì chỉ dựa vào niềm vui để lập hư hoại, cho nên không nói.

Trong đây cho rằng, không phải thọ đều có một phần kia của chi hành. Nghĩa là đều có với lạc thọ. Vì dựa vào lạc để lập hư hoại, nên nói một phần.

Phần ít của mười hai, thuộc về khổ khổ. Trong tất cả chi vì có khổ thọ, vì dựa vào khổ thọ lập khổ khổ nên nói một phần. Toàn phần của mười hai, thuộc về hành khổ, vì các pháp hữu lậu đều là hành khổ. Dựa vào xả thọ mà nói, phần ít của mười một, trừ chi già chết, bất khổ bất lạc, thọ trước kia đều có với hành, chỉ có mười. Nay thêm vào chi “phi thọ câu”, nên nói một phần mười một, nghĩa thật như trước đã nói.

Trong các thánh giáo như thế, tùy theo tướng của thọ kia tăng mà nói không nhất định.

Hai văn của kinh Duyên Khởi, kinh Thập Địa có khác nhau, vì e nhiều,nên không nói lại.

Thứ hai mươi lăm. Nhiều ít của chi đủ: Luận sư Thái nói: “Y cứ theo văn luận này, mạng chung, thọ sinh lên cõi trời vô tưởng không có sáu thức thân.”

Nay, giải thích: “Văn này nói đều là chi sắc, ở vào thời gian lâu dài, không phải cho rằng tất cả phần vị đều hoàn toàn không có sáu thức.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đây là dựa vào sáu thức mà nói đều là chi sắc, chuyển biến theo môn Tát-bà-đa lý, chẳng phải thật lý. Vì tông kia cũng nói “Vì thùy miên chẳng phải không có tâm, Cõi Vô Sắc cũng thế. Dựa vào nghĩa chân thật, các chi ở cõi có sắc đều hoàn toàn, chỉ trừ hiện sắc trong cõi Vô Sắc. Cho nên ở quyển trước đã nói: “ở cõi Vô Sắc, thức dựa vào hạt giống sắc.

Thứ hai mươi sáu. Dựa vào chi, lìa chi. Nghĩa là dựa vào chi của địa trên, lìa chi của địa dưới. Ở đây chỉ một phần chi. Duy-Thức nói: “Chi hành của địa trên năng khuất phục địa dưới, tức sáu thức hành tướng của khổ, v.v… thô, vì có cầu sinh lên địa trên, nên khởi chi hành kia. Chỉ địa trên mới khởi, chẳng phải địa khác. Cũng không phải vì hoàn toàn hành, nên nói một phần.

Thứ hai mươi bảy Nhiễm, bất nhiễm: Duy-Thức nói: “Vô minh, ái, thủ chỉ có bất thiện, hữu ký, vô ký. Ba nhiễm này tức bốn tạp nhiễm mà môn thứ tư ở trước đã nói. Nay, nói ba, nghĩa là ở đây là thật, ở trước giả, vì nghĩa khác nhau. Trong không nhiễm kia, chung cả thiện và vô phú, vô ký.”

Duy-Thức nói: “Hành chỉ có thiện, ác; hữu, có cả thiện, ác, vô phú, vô ký. Vì cũng khởi thiện, nhiễm trong bảy phần vị, nên gọi là chung cả hai vô ký thật này vì dựa vào năm sẽ sinh, nên không có lỗi.

Thứ hai mươi tám. Trong ba cõi hệ. Cõi Dục một phần đồng của

tất cả cõi trên: Duy-Thức nói: “Dù đều chung cả ba cõi mà có phần, có toàn phần. Cõi Dục có hai tánh, ba tánh, vô minh, hành, ái, thủ, có một nghiệp, bảy quả. Cõi trên chỉ một tánh. Vô minh, hành, ái, thu, một nghiệp, bảy quả, cho nên nói một phần.

Thứ hai mươi chín. Là hành ba học, tất cả đều chỉ có phi học, phi vô học đồng. Ở đây, cho là sau khi nhập thánh, mới thành Học. Các địa vị phàm phu vì đều là phi học, nên quyển chín ở trước nói là Nghiệp học, nghĩa là hoặc phàm phu; hoặc không phải phàm phu đã có nghiệp thiện trong học nối tiếp nhau.”

Đối-Pháp quyển tư chép: “Người cầu giải thoát đã có pháp lành là nghĩa hữu học.”Trong đây, dựa vào chứng học vượt hơn, cũng không trái nhau.”

Duy-Thức nói: “Nghiệp thiện mà bậc Thánh khởi, chứng tỏ là vì “duyên”, vì trái với chi hữu, nên không phải thuộc chi hữu. Do đó nên biết rằng, là bậc thánh tất nhiên không tạo nghiệp cảm hữu ở sau, vì đối với quả khổ đời sau, không có mê cầu, tu tịnh lự xen lẫn, vì giúp đỡ địa dưới, nên nghiệp sinh Tịnh cư, v.v… Về lý không trái; tức chứng tỏ rằng, phàm phu thuận giải thoát phần, thuận quyết trạch phần, có khả năng chiêu cảm quả, đều thuộc về chi Hữu.” kinh Duyên Khởi quyển hạ chép: “Bốn thứ vô minh của phàm phu thuộc pháp ngoại đạo là duyên sinh phước, phi phước và bất động hạnh. Phàm phu của pháp nội đạo, nếu là người buông lung, người đó chỉ trừ một thứ vô minh Bất cộng, còn vô minh khác, sẽ dẫn phát buông lung làm duyên sinh ra hành. Ngược lại, nếu phàm phu của pháp nội đạo không buông lung, siêng năng tu học và bậc thánh hữu học, thì ba thứ vô minh dẫn phát vọng niệm là duyên của phi phước. Nhưng duyên này không thể chiêu cảm ba đường ác.”

Chính vì thế, nên nói phi phước này, ta không nói là vô minh “duyên”hành.”

Ý nói là phàm phu không buông lung và bậc thánh phi phước, chỉ chiêu cảm quả Dị-thục của người trời, không chiêu cảm quả Dị-thục chung ở cõi ác. Vì đã chẳng phải chi hành, nên không nói là phi phước này lấy chi vô minh làm duyên.

Kinh ấy lại nói: “Đối với vô minh bất cộng, phàm phu của pháp nội dù người không buông lung mà tu học, cũng chưa dứt, các bậc thánh hữu học, nên biết đã dứt trừ hẳn. Lại phàm phu pháp nội không buông lung, nếu tạo phước hạnh và bất động hạnh, người đó đã tác ý đúng như lý của chánh pháp, tương ưng với tâm thiện, mà dẫn phát giải thoát, vì được dựa vào hồi hướng giải thoát mà dẫn phát. Dù cảm thù thắng sinh về cõi thiện, mà không phải khởi duyên tăng thượng của vô minh. Nhưng hay tác động dứt trừ duyên tăng thượng kia. Việc này cho thấy rõ rằng phàm phu kiến đạo trở xuống dù do ba vô minh và hạt giống bất cộng phát phước bất động, cảm quả Dị-thục chung của cõi người trời, vẫn không làm duyên khởi vượt hơn cho vô minh, vì rốt ráo diệt, không phải bị dẫn phát trực tiếp bởi ba vô minh, v.v… Do hạt giống kia tồn tại, hoặc vì trái với chủ thể phát. Cũng không ngăn vô minh “duyên”phước, bất động hạnh, chỉ ngăn ngừa phi phước kia vì lấy vô minh làm duyên, nên kinh Duyên Khởi kia chỉ nói bậc Thánh hữu học vì đã dứt hẳn vô minh Bất cộng, nên không tạo nghiệp mới, không nói phàm phu, vì đã không khởi vô minh bất cộng, nên không tạo nghiệp mới. Pháp thiện cõi Dục kia, với chi hữu lậu thiện của thân phàm phu sau, vì rơi vào lưu chuyển, nên đã chẳng phải Học, vì thế năng cảm thuộc về chi duyên khởi sinh.”

Thứ ba mươi Chi bốn quả đoạn: Duy-Thức chép: “Có nghĩa vô minh, chỉ do kiến dứt trừ, chủ yếu là mê đế lý vì năng phát hành. Bậc Thánh tất nhiên vì không tạo nghiệp của hữu sau, nên với hai chi ái, thủ, chỉ do tu dứt trừ, vì tham cầu hữu đương lai mà thấm nhuần sinh. Với chín thứ mạng chung, tâm đều cùng sinh, vì ái đều có. Chín thứ khác đều chung cho kiến, tu dứt trừ. Đây là nói tất cả Dự-lưu dứt trừ, nghĩa là nói theo phần nhiều, chứ không phải chi ái, thủ cũng do kiến dứt trừ. Sư này nói: “Vì thủ, tức là tăng thượng ái, nên chỉ tu dứt trừ.”

Có nghĩa: Là “tất cả đều chung cho cả hai dứt trừ, cho đến nói rộng ra, ba chi vô minh, ái, thủ cũng chung cho cả kiến tu dứt trừ. Nhưng chi vô minh chính là hành phát, chỉ do kiến dứt trừ. Giúp đở bất định. Hai chi ái, thủ chính là do nhuận sinh, thì chỉ tu dứt trừ, giúp đỡ bất định.

Lại, tự tánh của pháp nhiễm ô nên dứt trừ, hai nghĩa của pháp không phải nhiễm ô, nói là dứt trừ:

  1. Vì lìa ràng buộc.
  2. Vì bất sinh.

Nói là mười hai chi chung cả hai dứt trừ, như thích hợp nên biết. Đây là nói tất cả đi suốt qua mười hai chi. Nói một phần, nghĩa là nếu dựa vào tự tánh dứt trừ phiền não và nghiệp của ba đường ác. Và, nếu dựa vào bất sinh và các quả, v.v… kia, nói là Dự-lưu dứt trừ, thì gọi là một phần. Người chứng quả Bất-Hoàn đã dứt trừ tất cả bất định của sắc, Vô Sắc cõi Dục. Luận sư Cảnh bổ khuyết: “Người chứa quả BấtHoàn vì không khởi hiện trong cõi Dục, nên biết rằng, bậc thánh cũng có tương ưng, với vô minh phát phước, v.v… của ba thứ hiện triền, tùy miên.

Chi hữu, vô minh, không được dứt riêng khổ, vì mười nhân không có. Hai quả ở hai cõi trên hoặc “Có” trước, sau thường khởi. Mười nhân của nhiều địa, như người thượng lưu, v.v… Hoặc “hữu”chỉ khởi mười nhân của một địa, như ba thứ Bất-Hoàn hành, vô hành, v.v… Hoặc “hữu”hoàn toàn không có, như hiện Bát Niết-bàn, v.v… Người A-lahán, sinh của ba cõi hết, tất cả đều không, chỉ có báo thừa của hiện thân, là quả của mé trước tùy thuộc vào thế lực của nhân hết, nhậm vận (tự nhiên) tự diệt.

Nên, kế là văn dưới nói: “Hạt giống văn của năm thứ như thức, v.v… gọi là mầm khổ; ái, thủ, hữu, gọi là dưỡng nuôi mầm khổ; sinh, già, chết gọi là cây khổ”, không đồng với thuyết của Tiểu thừa nói: “Bảy chi trước là duyên khởi trước; năm chi sau là duyên khởi sau.”

Bà-sa chép: “mười hai chi duyên như cây có gốc, có thể, có hoa, có quả. Vô minh hành là gốc; năm chi như thức, v.v… là thể; ái, thủ, hữu là hoa; sinh, già, chết là quả. mười hai chi này hoặc có hoa, có quả, nghĩa là người học phàm phu; hoặc không có hoa, không có quả, nghĩa là A-la-hán.

Từ trên đến đây, phần thứ chín, phân biệt duyên xong. Phần thứ mười, gồm có mười tám môn trong các kinh:

1/ Sáu thứ ngôn thuyết theo thứ lớp thuận, nghịch. Nghĩa là hữu lậu, vô lậu đều có thuận nghịch.

Một phần đủ phần. Nghĩa là như kinh Niết-bàn chép: “Hoặc vì chúng sinh nói một nhân duyên, đều gọi là tất cả pháp hữu vi, cho đến hoặc nói mười một, như vì Tát-già-Ni-kiền-tử nói một pháp trừ sinh. Hoặc có lúc nói có đủ mười hai nhân duyên, như vì ngài Ca-diếp, v.v…, nói đủ ở thành Vương xá. Đây là một phần, đủ phần.

Nay, ở đây nói, nghĩa là phẩm Quán-Hắc, ngang thức, thối lui trở lại, chỉ quán mười chi. Hoặc danh sắc nhập thai, chỉ quán chín chi, gọi là một phần chi. Nếu quán phẩm bạch thì mười hai, và quán diệt đủ thì mười hai và Tu-diệt, Đạo kia, gọi là chi phần đủ, tức một phần này gọi là phẩm Hắc. Vì quán khổ, Tập, tức phần đủ này gọi là phẩm bạch. Vì quán Diệt, Đạo, tức là tạp nhiễm, thanh tịnh, đó là vì quán tâm, nên ở đây không nói.

2/ Do mười thứ tướng, phải biết rằng, nghĩa duyên khởi rất sâu. Nghĩa là về nghĩa vô ngã vô thường có sáu. Nghĩa khổ thứ bảy; nghĩa không thứ tám; nghĩa vô ngã thứ chín.

Dựa vào Thắng nghĩa đế, tự tánh các pháp dù không thể nói, mà nói tự tánh của các pháp có thể nói, là thứ mười. Chín thứ trước dựa vào thế tục đế an lập môn sai khác; một thứ sau là thắng nghĩa đế, miễn cưỡng giả đặt môn ngôn thuyết.

Nghĩa vô thường có sáu:

1. Dù sức tự chủng mạnh hơn, cũng phải chờ đợi duyên khác, chứ không phải tự ngã tác động.

2. Dù sức duyên khác vượt hơn, cũng phải đợi hạt giống của mình, chứ không phải do Phạm Vương, v.v… tạo tác.

3. Dù hạt giống và duyên sinh, mà chủng và duyên lại không có tác dụng đối với sự sinh này, cũng không có vận chuyển, chẳng phải như Thắng luận: cho rằng, “ngã”có thể tạo tác do pháp và phi pháp trong đức, cú và nghiệp, cú, nghĩa giúp cho có dụng thật, khiến pháp quả vận chuyển. Cũng không phải như Tát-bà-đa cho có tác dụng thật, làm cho pháp quả được chuyển biến.

Nay, không có chủ thể tạo tác, cũng không có tác dụng của nghiệp, thì dù cho quả sinh sau, mà vẫn không thật vận chuyển, cho nên “song phi”

4. Có công năng sinh “phi”là chẳng phải không có nhân.

5. Sát-na, sát-na mới, mới sinh khởi, không phải như Số Luận chuyển biến quả “hữu”.

6. Nhưng, giống như dừng trụ, tướng vận động biểu hiện, không phải như một kỳ hạn sinh, diệt của chánh lượng bộ, v.v…

Dựa vào nghĩa khổ. Nghĩa là tánh của các pháp hữu lậu thường là một vị hành khổ không có khác nhau, dường như khi có khổ, có vui, v.v… Thật ra không có vui, không có khổ, vì gián đoạn, v.v…

Dựa vào nghĩa không. Nghĩa là tánh của nhân lìa “ngã tác”của Thắng luận; tánh quả lìa ngã thọ các khổ của Số Luận, nhưng dường như không lìa.

Dựa vào nghĩa vô ngã, tướng “ngã lìa thể, không” lìa dụng của “ngã”, là hai khác nhau.

Kinh Duyên Khởi quyển hạ nói: “Rằng, lìa tánh thật ngã đối với khổ đế, gọi là “không”, nghĩa là tánh tướng phi ngã đối với khổ đế gọi là vô ngã”.

Đối-Pháp quyển sáu cũng đồng với kinh, vì đối tượng so sánh có khác, nên không trái nhau. Lại, nghĩa không này lìa tác thọ. Thể của “ngã”không có nghĩa của “ngã”. Thể của pháp không phải tướng của “ngã”, cũng đồng với kinh kia.

Ở đây nói không có tướng của “ngã”. Nói không có vì “Chẳng phải”. Dựa vào thắng nghĩa đế, tự tánh của duyên khởi không thể nói năng. Nay, vì nói duyên khởi, nên thành thứ mười.

Dựa vào luận Đối-Pháp có năm thứ rất sâu, nghĩa là nhân rất sâu, v.v…, không đồng với luận này.

Kinh Duyên Khởi quyển hạ chép: Mười lăm thứ rất sâu: Năm thứ đầu đồng với đối pháp, mười thứ sau hơi khác nhau. Như kinh, luận kia nói: “Ba pháp trụ trí là văn tue; trí chân thật là tư, tu. Phàm phu như học mà quán nghĩa sâu. Hoặc pháp trụ trí là văn tuệ của phàm phu; trí chân thật của bậc Thánh là ba tuệ. Hoặc pháp trụ trí là trí thân của phàm phu. Trí Chân thật là trí thân của bậc Thánh, vì pháp trụ giáo, v.v…, vì như thật nghĩa mà biết, là hai khác nhau.

Bốn trụ nghĩa là lấy văn cú không điên đảo, để nói pháp tánh này. Câu văn của chủ thể biện luận gọi là Pháp trụ. Vì cho nên pháp trụ này, lấy pháp tánh làm nhân. Cho nen, pháp tánh này gọi là pháp giới; giới là nghĩa nhân”, hoặc lấy ý văn và kinh Bát-nhã, v.v… nói về chân như kia, gọi là pháp trụ chẳng hạn. Đối tượng được giảng nói rộng từ giáo, gọi là pháp trụ, vì thể của pháp trụ phải có pháp tánh mới làm giáo y, lấy thể làm nhân; lấy nghĩa gọi là giới.

Năm sinh nếu không có. Nghĩa là hạt giống sinh ra năm chi như thức, v.v… Không có xứ, không có trụ mà sinh, có thể là “hữu”. Nghĩa là hiện hành sinh.

Sáu hỏi: “Từ trên đến đây, phân biệt trong mười hai chi. Mười chi hữu còn lại, không phải lại làm “duyên”lẫn nhau. Vì sao lập riêng danh sắc với thức làm duyên lẫn nhau ư?”

Đáp: “Vì thức dùng danh sắc làm duyên ở trong hiện pháp, nghĩa là ở phần vị sinh, vì thức đã mượn danh sắc để khởi, nên dùng làm “duyên”. Hơn nữa trong pháp sau, vì dùng thức làm “duyên”, nêu danh sắc sinh ở đương lai, tất nhiên phải dựa vào thức khởi. Đây là nói đương lai, hiện tại làm duyên lẫn nhau, ảnh hiển danh sắc hiện tại nương tựa thức khởi. Thức đương lai khởi, cũng dựa vào danh sắc.”

“Vì sao trở xuống”, là cố tự gạn giải thích lại làm duyên lẫn nhau:

Bảy phẩm quán Hắc chỉ ngang đến chi Thức. Nghĩa là hai Đế khổ, tập, gọi là phẩm hắc. Hai đế Diệt, Đạo gọi là phẩm Bạch. Vì phẩm hoàn diệt, thức kia với danh sắc làm duyên lẫn nhau. Quán tâm đến thức thì bỏ, trở lại quán đến già chết, nên gọi là chuyển hoàn. (sự chuyển trở lại đó, như quyển chín mươi ba và quyển trước đã giải thích)

Danh sắc trong phẩm hoàn diệt không phải là nhân tố hoàn diệt của thức, vì không do danh sắc diệt, chi thức cũng diệt, chỉ do thức diệt thì danh sắc sẽ phải diệt. Nên khi quán đến thức không trở lại,lại tiến đến quán về hành, cho đến vô minh: Vì vô minh diệt, nên hành diệt theo. Cho nên trí, 77 trí quán kia được thành lập. Vô minh về trước, không có chi nhân, nên cũng không nói bốn mươi bốn trí, v.v… ”

Tỳ-bà-sa quyển 0 chép: “Bồ-tát thêm ác, khởi phần tác, chỉ quán đến thức, vì phần ái, lạc đã vắng lặng, nên quán đủ mười hai chi.

Tám sinh, vì chẳng phải có, nghĩa là chẳng phải tự tác, tha tác. Nếu có tự ngã, tác tha, tác Đại-phạm, v.v… thì tức là vì lẽ có sinh, vì duyên cớ không có tác dụng, nghĩa là không phải đều có tác.

Vì sức duyên mà sinh: Nghĩa là cũng chẳng phải không có nhân sinh.”

Luận Đối-Pháp chép: “Các pháp không tự sinh; cũng không từ tha sinh; cũng không từ “Cộng sinh”; chẳng phải không từ cả hai sinh.”

Dù không có tác dụng duyên, mà có công năng “duyên”, có thể được, chẳng phải tự sinh, phá ngã tác. Chẳng phải tha sinh, là bác bỏ nhân bất bình đẳng sinh của trời Đại-tự-tại, v.v…. Chẳng phải cộng sinh là nhằm phá nghĩa tác dụng của phái Tát-bà-đa, v.v… Không phải không có nhân (vô nhân) sinh, nghĩa là bác bỏ vô nhân luận, họ nói rằng: “Nếu lý duyên khởi chẳng phải tự, chẳng phải tha, loại trừ cả hai quan điểm, cũng là rất sâu sắc rồi, huống chi (phủ nhận) mất cả bốn quan điểm. Cho nên, “duyên khởi”, thật sâu sắc vô cùng!”

Trung luận chép: “Các pháp không tự sinh, cũng không từ tha sinh, không cộng sinh, chẳng phải không có nhân.”

Luận Đối-Pháp kia giải thích: “Vì tự tánh là không, nên không tự sinh; vì “duyên tánh là không, nên chẳng phải cái khác sinh (tha sinh). Vì tự, tha là không, nên không cộng sinh.

– Nếu pháp có tự thể thể thì nói là có nhân, vô nhân. Pháp tánh đã không, đâu được nói là có “Có nhân”, không nhân.”

Ba câu trước, phá có nhân duyên; câu thứ tư ở sau, phá không có nhân duyên.

Chín “Hữu”là đối tượng giữ gìn, nuôi nấng khổ, v.v… Nghĩa là vì nghiệp có công năng nuôi nấng.

Mười chi “hữu”, như thuốc cao. Nghĩa là nếu nói nghiệp “hữu”.

Mười một tăng thêm có hai nghĩa:

  1. Tăng thêm khổ ở đương lai.
  2. tăng ở chi sau.

Diệt có hai nghĩa trái với ở đây, là nói tất cả chi hữu thuần là đấng khổ lớn, vì là quả sau. Nghĩa là đấng khổ lớn sinh già, chết.

Mười hai, Bảy chi trước gọi là pháp có nhân; năm chi còn lại gọi là khổ có nhân, nghĩa là chủ thể dẫn (năng dẫn) đối tượng dẫn (sở dẫn), đều là nhân dẫn. Sinh già, chết gọi là khổ có nhân, vì có nhân trước. Ba ái, thủ, hữu gần gủi hai nhân này. Tướng theo gọi là khổ, vì pháp của nhân có trước.

Luận Đối-Pháp chép: “Ở vào thời gian nhân, có chủ thể dẫn, đối tượng dẫn; đối với thời điễm quả, có chủ thể sinh (năng sinh), đối tượng sinh (sở sinh); thành thục, thay đổi gọi là quả, cho nên ái thủ, hữu cũng đặt tên quả. Quả sắp thành thục, thay đổi, chủ thể sinh kia mới khởi. sinh, già, chết ở đây cũng như thế.

Mười ba ba chi lậu tận đã rỏ ràng. Nghĩa là vô minh, ái,thủ là pháp hữu lậu. Cho nên, dứt trừ phần vị tận này, gọi là lậu tận rõ ràng, tức do diệt ba duyên này, chi còn lại cũng tận. Cho nên, nói duyên tận đã rõ ràng.

Do phiền não xúc diệt, nên tất cả thọ diệt. Vì thế, chỉ một chi thọ gọi là thọ tận đã được rõ ràng.

Mười bốn trong bảy mươi bảy trí. Luận sư Cảnh giải thích: “Vì phân biệt rõ trí tạp nhiễm của nhân hữu. Nghĩa là nói trường hợp “duyên sinh, hữu, già, chết.”Lại nữa, vì nói về tự nối tiếp nhau, chính mình đã tạo nên trí tạp nhiễm. Nghĩa là vì bày tỏ tự thân, tự mình đã tác động sinh làm duyên cho hữu, già chết, tức là trường hợp chẳng phải không duyên sinh hữu, già, chết.

Lại nữa, vì biểu thị rõ ràng về các chi của mé trước đã có từ vô thỉ.

Trong dây, nói chung, “duyên”sinh quá khứ có già chết, chứ chẳng phải hai quan điểm: Không duyên sinh quá khứ, có già, chết.

Lại, vì chứng tỏ các chi của mé sau ngang đồng (đẳng) nghĩa là nói chung hai trường hợp vị lai. Lại nữa, vì chỉ bày rõ không thuộc về chi, v.v…

Vì chỉ rõ biết khắp cả thượng trung hạ của ba đời quả trụ trong nhân, gọi là pháp trụ trí.”

Cơ -Pháp sư giải thích: Đáp “Văn có ba:

  1. Đáp chung, lập sở do của trí.
  2. Hiển bày riêng sở do của các trí.
  3. Kết thành số.

Vì hiển bày rõ về trí tạp nhiễm của nhân hữu. Đây là đáp chung. Nghĩa là quán các chi có pháp của nhân kia: như già, chết lấy sinh làm nhân, cho đến chi hành lấy vô minh làm nhân. Vô minh lại không có nhân đó, cho nên thành bảy mươi bảy duyên. Trí đã khởi lên thành sự tạp nhiễm này, gọi là trí tạp nhiễm. Hoặc trí “năng duyên”(chủ thể duyên) tức là tạp nhiễm.

Lại nữa, vì hiển bày rõ chữ “Đẳng”: Có bốn chữ lại (hựu):

Chữ “lại”đầu, là nói “duyên”hiện tại có hai trí, nghĩa là “duyên”sinh hiện tại mà có già, chết. Chẳng phải không duyên theo sanh hiện tại mà có già chết. Tự thân hiện tại, vì tự mình làm.

Chữ “lại”thứ hai, nói về “duyên”già, chết quá khứ có hai trí, nghĩa là “duyên”sinh quá khứ, mà có già chết, chẳng phải không duyên sinh quá khứ mà có già, chết.

Quán về mé trước, từ vô thỉ đến nay, già, chết đều lấy sinh làm “duyên”.

Chữ “lại”thứ ba, nhân phân biệt rõ về duyên già, chết ở vị lai, có hai trí. Nghĩa là “duyên”sinh vị lai mà có già chết, chẳng phải không duyên sinh vị lai mà có già, chết. Dù vị lai chưa khởi chấp nhận có nghĩa tạp nhiễm, hoàn diệt.

Nay, vì quán tạp nhiễm, nên thành hai trí, trí đầu tiên trong ba tế này, quán quả có nhân nhằm nói lên nguyên do kia. Trí thứ hai này quán quả có nhân, chẳng phải không quyết định, đả phá chấp giả dối của ngoại đạo, chẳng phải bất bình đẳng, không có nhân mà sinh.

Chữ “lại”thứ tư, là nói quán chi là pháp không gồm thâu. Vì nghĩa biết khắp của các tuệ hữu lậu, tức pháp trụ trí biết khắp giáo pháp duyên khởi của ba đời, gọi là không thuộc về chi, để làm trí thứ bảy.

Sáu trí chân thật trước, hợp với trí pháp trụ nhất chân thật thành bảy trí.

– Nếu dựa vào nghĩa này, thì trong thân bậc Thánh cũng có pháp trụ trí; trong thân phàm phu cũng có chân thật trí, đều khởi bảy trí quán. Ngoài ra mười chi trước cũng thế cho nên thành bảy mươi bảy trí.”

Pháp sư Khuy Cơ đã phân tích văn, phối hợp giải thích, rất đồng với Luận sư Bị.

Pháp sư Thới lại giải thích: “Trí biết khắp thứ bảy duyên khởi không thuộc về chi hữu, bởi vì trí hữu lậu chấp pháp có tự thể, nên gọi là trí pháp trụ.”

Hỏi: “Đã nói sinh “duyên” “Có” già chết, v.v…, vì sao lại nói “Chẳng phải không sinh “duyên”có, già chết, v.v… ư?”

Đáp: “Luận có hai thứ:

  1. Lập tông mình.
  2. Ngăn tông người khác. Nếu chỉ nói sinh “duyên”già chết, v.v…, thì đôi khi có người sinh nghi vì khởi sự nói bàn, nên nói như thế, về lý, chưa hẳn là như vậy.

Để giải quyết sự nghi ngờ của họ, nên nói lý này là nhất định. Cho nên lại nói: “Chẳng phải không “duyên”sinh, có, già chết, v.v…

Mười lăm bốn mươi bốn trí. Trong mười một chi, mỗi chi đều lập bốn trí, trừ chi vô minh, vì không từ chi khởi.

Hỏi: “Bảy mươi bảy trí có khác nhau gì với trí?”

Đáp: “Y theo tướng chung, thì ba thừa đồng khởi. Nếu theo ở tướng riêng, thì đều là thanh văn quán. Người độn căn trong Thanh văn quán, khởi trí, quán quả do nhân, vì quán dễ thành. Người lợi căn khởi 77 trí, quán nhân sinh ra quả, vì quán khó thành.

Lại, tập thiện thứ hai trong bảy xứ thiện thuộc 77 trí và ba nghĩa quán. trí có ở khắp bốn xứ thiện. Vì không có pháp trụ, nên chẳng phải là ba nghĩa quán.

Môn hai trí này là chung cho cả hậu trí, mà chính đáng là pháp quán gia-hạnh, vì là phương tiện đạo mới sinh.

Mười sáu nói về thức khởi chung riêng. Nếu sinh cõi Sắc, Vô Sắc, trừ tất cả hiện tiền như người ở cõi Dục. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Môn tùy thuận lý này ở hai cõi trên, không khởi tất cả các thứ của địa dưới. Như ở cõi Dục, khởi giống nhau với ý thức trên, tất cả không có ngăn ngại, đọc dài về đạo nghĩa của thế văn cũng thông suốt. Về môn chân thật lý. Trừ thức có riêng ở địa dưới trong hai cõi trên, ý thức của ba cõi khác đều được hiện tiền, vì nhuần thấm sinh khởi.

Đã thừa nhận hai định trở lên, khởi ba thức thân của Sơ thiền, cũng nên thừa nhận Bồ-tát ở trong cõi Sắc khởi tỷ, thiệt, thức của cõi Dục.

Từ đây trở xuống, phần văn chính thứ hai, nói về việc dứt ba tạp nhiễm, tu sáu hiện quán (giải thích rộng như Quyết trạch, và Duy-Thức quyển 9; Đối-Pháp quyển 13 luận Hiển-Dương quyển mười sáu