diễn bản

Phật Quang Đại Từ Điển


(演本) (1873 – 1958) Người Vô tích, Giang tô, họ Vưu, tên Tuyết hành, hiệu Tích âm, Vô tướng sơn nhân, Bát nhất sơn nhân. Thủa nhỏ sư nghiên cứu các sách rất sâu rộng, đã từng cùng với Lí thúc đồng (luật sư Hoằng nhất) dạy môn Quốc văn ở Đại học Thánh ước hàn tại Thượng hải, nổi tiếng trong học giới. Sau nhân nghiên cứu Phật pháp lòng sinh vui mừng, nên qui y Tam bảo ở chùa Hổ bào tại Hàng châu, hiệu là Hoằng như cư sĩ. Không bao lâu, làm chủ biên báo Thế giới Phật giáo cư sĩ lâm ở Thượng hải và biên soạn Đàm nhân pháp vị, An sĩ toàn thư để phát huy giáo nghĩa Đại thừa, sư nổi tiếng ngang với Vô tích Đinh phúc bảo. Sư từng đi các nước vùng Đông nam á như: Thái lan, Việt nam v.v… để hoằng pháp. Năm Dân quốc 21 (1932), sư đến Tân gia ba và Mã lai giảng diễn Phật pháp, gặp pháp sư Đức ngọc ở chùa Pháp nguyên từ Bắc bình đến, sư bèn lễ ngài Đức ngọc xin xuống tóc. Sau sư đến Miến điện thụ giới Cụ túc rồi sang Ấn độ chiêm bái các Phật tích. Khi trở về Mã lai, sư ẩn tu ở Penang tu tập theo Mật tông và đề xướng thuyết Hiển Mật viên tu tri hành hợp nhất. Sư từng làm trụ trì chùa Tam bảo ở Kim mã luân, Đạo sư của Tổng hội Phật giáo và Cư sĩ lâm ở Tân gia ba. Năm dân quốc 47 sư tịch, thọ 86 tuổi. Sư có các tác phẩm: kinh Phật thuyết thập nhị đầu đà, kinh Kim quang minh, Kim cương kinh diệu giải, Bất dạ thành, Cưu ma la thập tôn giả truyện, Phật pháp yếu lĩnh, Tuyển chú bất li thế gian tam muội thành tựu thế gian tam muội v.v…