DIỄM LA VƯƠNG CÚNG HÀNH PHÁP THỨ ĐỆ

(THỨ TỰ PHÁP THỰC HÀNH CÚNG VUA DIỄM LA)

Hán văn: Tam Tạng A MÔ GIÀ (Amogha: Bất Không) soạn
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Hành Giả nếu muốn tu Pháp đó, trước tiên nên biết năm thân biến thành (biến thân) của vị vua đấy kèm với cung điện lớn (Mahā-pūra: đại cung) ấy, mỗi một Duyên Khởi.

Năm thân biến thành là:

1_ Diễm La Pháp Vương (Yāma-dharma-rāja): Đấy tức là Bản Hiệu

2_ Tử Vương (Mṛtyu-rāja)

3_ Hoàng Tuyền Quốc Thiện Hạ La Vương

4_ Liệu Tội Phẫn Nộ Vương

5_ Đàn Na Thiểu Phẫn Nộ Vương

Bản Cung ở ngay trong đất phía Bắc (bắc địa) của núi Thiết Vi (Cakravāḍaparvata), đấy tức là cung Minh Đạo, năm vạn quyến thuộc vây quanh, sân trước trong cung có cây phướng Đàn Noa (Daṇḍa-dhvaja), đầu cây phướng có một khuôn mặt hơi phẫn nộ.Vị vua thường nhìn khuôn mặt ấy, liền biết tội nặng nhẹ, thiện ác của nhân gian.

Nhân Gian có người gây tạo tội nặng thì từ cái miệng ấy tuôn ra ánh sáng lửa, trong ánh sáng phun ra sợi dây đen cảnh giác. Nhìn Mộc Trát (miếng gỗ) liền biết họ tên kẻ ấy đã được ghi lại.

Lại người có làm điều thiện thì hoa sen trắng nở ra từ cái miệng, mùi thơm của hoa ấy xông ướp khắp.

Đại Sơn Phủ Quân (Citra-gupta: Thái Sơn Phủ Quân), Ngũ Đạo Tướng Quân Vương thường vâng theo sự dạy bảo của vua, hay xác định thiện ác.

_ Phàm khi muốn tu Pháp đấy thời đặt bày vật cúng. Quốc vương, vương tử với trăm Quan, Tể Tướng, người dân…tùy theo người nên đặt bày vật cúng: dùng Hồ Ma (mè), dầu, năm loại lúa đậu (ngũ cốc), tiền giấy, nhóm thuốc của Bạch Hương.

Bơ, Mật, nhóm thuốc của An Thiện Na Hương hòa hợp với cháo rồi chưng nấu.

Tìm nơi nhàn tĩnh tại đất trống, thích hợp nên đặt bày. Người chẳng biết ý nhìn thấy cành dương dài năm thước (5/3 m) dùng cái đó chỉ bảo vị trí ấy

Pháp đó, khi bệnh dịch, bệnh khí, tất cả bệnh não thời thích hợp nên gồm chung để tu. Chính Báo dứt hết giao cho Tử Tịch (sổ sách ghi chép tên người phải chết), có thể xin Đức Vua tước bỏ Tử Tịch giao cho Sinh Tịch (sổ sách ghi chép tên người sinh ra).

Đến nhà có bệnh dịch, phần lớn tụng Đại Sơn Phủ Quân Chú (Thái Sơn Phủ Quân Chú)

_ Hành Giả ngồi tại tòa, dùng hương xoa bôi mà xoa bôi bàn tay, cánh tay Nam mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai, có thể tụng Ngự Danh bảy biến Dùng nước thơm rưới vảy trên mặt đất (dùng lá trúc).

Gia Trì Hương Thủy Chân Ngôn là:

“Án, a mật lợi đế, hạ nẵng hạ nẵng, hồng, sa-phộc hạ” 

Oṃ_ Amṛte hana hana hūṃ svāhā

Thầy cúng (cúng sư) vận một niệm, lìa sự sai khác của Ta Người, cho nên nói là Tâm không có che giấu (vô già tâm), dứt hẳn niệm Oán Thân, ra hiệu lệnh bình đẳng. Hay thực hành Pháp đó là Nguyện rộng lớn của Bồ Tát Hạnh (Bodhisatva-caryā). Hay vận yêu thương giúp đỡ (Maitra: Từ) đó là sự yêu thương giúp đỡ của Như Lai (Như Lai Từ), là vua của các Phước.

Điều ở ngay trên ba Đàn, thật ra là sức gia trì của Vô Tận Uy Đức Tự Tại Quang Minh Thắng Diệu Chân Ngôn do Đức Phật nói. Hay khiến cho một thức ăn biến thành vô lượng thức ăn. Lại khiến cho một đồng tiền thành tiền của không cùng tận, mỗi một lượng của tiền với thức ăn ngang bằng Pháp Giới, ban cho khắp Hữu Tình thảy đều sung túc thức ăn của Pháp Cam Lộ.

Khi thức ăn của Pháp được no đủ thì tội diệt phước sinh, lìa thân trong nẻo ác, nhận lấy báo của người Trời. Hay khiến cho Thí Chủ tăng ích thọ mệnh, tiêu trừ nghiệp ác, liền được đầy đủ Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā: Bố Thí Ba La Mật), hiện chiêu vời quả thù thắng, sẽ chứng Bồ Đề (Bodhi). Sức màu nhiệm khó nghĩ tin, nhưng chẳng phải là sự mê hoặc

_ Ngày nay Thí Chủ (họ tên là…) phụng vị Hoàng Đế, Tể Phụ với Hữu Tình trong Pháp Giới, đặt bày khắp Vô Già Quảng Đại Cúng Dường

Trước tiên từ chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, hàng Trời cho đến loài Quỷ, Minh Đạo, các Quỷ đói, Tang, Ni, vong linh….đã ghi tên gọi trên sổ sách, mỗi mỗi đứng trên Đàn.

Đem vật cúng để trước cuốn sổ, nên tụng Cam Lộ Vương Chân Ngôn gia trì vật cúng, quán tưởng bên trong bàn tay phải có chữ (?圳: Vaṃ), chữ đó tuôn ra nước

Cam Lộ tràn đầy các vật cúng.

Sái Tịnh Thủy Chân Ngôn:

“Án, phộc nhật-la xá nễ, hồng, phán tra”

Oṃ_ vajraśani hūṃ phaṭ

Dùng nước thơm bên trên, lấy cành trúc rưới vảy. Nếu ở đất trống (lộ địa) tu Pháp đó thì đừng hướng về gốc Đào Liễu

_ Tiếp theo có thể thỉnh chư Phật Bồ Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

.) Một lòng phụng thỉnh Thế Gian Quảng Đại Uy Đức Tự Tại Minh Thần

.) Một lòng phụng thỉnh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật

.) Một lòng phụng thỉnh Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật

.) Một lòng phụng thỉnh tất cả chư Phật tận khắp cõi hư không

.) Một lòng phụng thỉnh Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Đại Thánh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Dược Vương, Dược Thượng Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

.) Một lòng phụng thỉnh Bồ Tát Ma Ha Tát tận khắp cõi hư không ở mười phương

.) Một lòng phụng thỉnh Thanh Văn (Śrāvaka), Duyên Giác (Pratyakebuddha), tất cả Hiền Thánh tận khắp cõi hư không ở mười phương

.) Một lòng phụng thỉnh tất cả Hộ Pháp (Dharma-pāla), Kim Cương Mật Tích

(Guhyapāda-vajra), các chúng Thiện Thần (Kuśala-devatā)

Nguyện xin Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai với tất cả chư Phật, các vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả chúng Hiền Thánh tận hư không khắp Pháp Giới ở mười phương. Hôm nay, lúc này chẳng buông bỏ Hoằng Nguyện, vì chúng sinh cho nên nhận sự thính cầu của chúng con, giáng lâm Đạo Tràng này, nhận sự cúng dường do Thí Chủ (họ tên…) hiến cúng.

Nay sẽ nương nhờ, dùng Triệu Thỉnh Chân Ngôn triệu thỉnh Minh Đạo

Nguyện xin Tam Bảo thương xót, nhận lấy, hộ trì cho (họ tên…) tiêu trừ tai nạn.

Nếu Chính Báo của người đó đã hết, tuy giao cho Tử Tịch. Xin Đức vua rũ lòng Từ Bi, phương tiện tước lấy sổ chết (tử tịch). Nguyện như Đại Thệ, liền giao cho sổ sống (sinh tịch), thọ mệnh trăm năm thường thấy trăm mùa thu (v.v….)

_ Liền tụng Chư Phật Bồ Tát Nhiếp Chiêu Chân Ngôn là:

“Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam. A, tát phộc đát-la, bát-la để ha đá, đát tha nghiệt đảng của xả, mạo địa tả lý-dã, bả lý bố la ca, sa-phộc ha”

 

Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Aḥ_ sarvatrāpratihata tathāgatāṃkuśa bodhicaryā paripūraka svāhā

Ấn: Hai tay tác Nội Phộc, co hai phong (2 ngón trỏ) như móc câu. Thỉnh xong liền hiến vật cúng.

Trước tiên thỉnh Đức Thích Ca, tiếp đến Phổ Hiền (Samata-bhadra), Văn Thù

(Maṃjuśrī) (Nếu dùng Pháp của vua thỉnh Phật Bồ Tát, thứ tự có thể cúng)

Tiếp theo có thể thỉnh Phạm Thiên (Brahma-deva), Đế Thích (Indra) với bốn vị Trời (Caturmahārājakāyikās) [Ấn: Kim Cương Hợp Chưởng, xưng tên)

Mỗi Tòa của bốn vị Thiên Vương có một con Quỷ. Tên các vị ấy là: Kiện Đạt Bà Vương (Gandharva-rāja) ở phương Đông, Câu Bàn Trà Vương (Kuṃbhanḍarāja) ở phương Nam, các Rồng (Nāga) ở phương Tây, 28 vị Đại Dược Xoa (Mahāyakṣa) ở phương Bắc

Cúng xong, tiếp đến Ấn Chân Ngôn của Đại Phạm Thiên, Đế Thích, bốn vị vua (tứ vương)

_ Tứ Vương Thông Tâm Chú Ấn: Tay trái: ngón cái, ngón giữa, ngón út đều đứng đứng hướng lên trên, co ngón trỏ ngón vô danh thành quyền để trên lòng bàn tay, hướng lòng bàn tay về phía trước mặ, co khuỷu tay hướng lên trên.

Chú là:

“Án (1) tiệm bà la (2) tạ liễn đà la dạ (3) sa-phộc ha (4)” 

Oṃ _ Jaṃbhala jalendrāya svāhā

Phạm Thiên Ấn: Tay trái nắm quyền để ở eo lưng, cùng dựng đứng năm ngón tay phải dính nhau, hơi co lại cao hơn vai. Quán hoa sen bên trong lòng bàn tay phải.

Chân Ngôn là:

“Án, một-la ha-ma ninh, sa-phộc ha” 

Oṃ_ Brāhmaṇi svāhā

_ Tiếp đến Đế Thích Thiên Ấn: Tay phải giống như trước để ở eo lưng, dựng thẳng đứng năm ngón tay trái, tưởng dính hai ngón Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh), co lóng giữa xong, để Phong (ngón trỏ) dính lưng Hỏa (ngón giữa), co lóng giữa của Không (ngón cái).

Chân Ngôn là:

“Án, nhân nại-la dã, sa-phộc ha”

Oṃ_ Indrāya svāhā

_ Diễm Ma Đàn Na Hô Triệu Ấn Chân Ngôn: Hai tay đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út cùng cài chéo nhau, dựng hai ngón trỏ cùng trụ đầu ngón, hai ngón cái đều phụ bên cạnh hai ngón trỏ, mở lòng bàn tay như Pháp bụm nước, đưa ngón cái qua lại.

Chân Ngôn là:

“Đá điệt tha (1) Án (2) diễm ma đàn đà gia (3) thi bằng ca lợi ni (4) bạt chiết lợi đỗ đê (5) độ hề, độ hề (6) sa-phộc hạ (7)”

_ Diêm La Vương Pháp Thân Ấn: Co ba ngón của tay trái, nhưng cần ló ngón trỏ ra khoảng ba phân, đem ngón cái nắm, phụ dính vạch lóng dưới của ngón trỏ, đưa ngón trỏ qua lại.

Chân Ngôn là:

“Án (1) diễm ma la xà (2) điểu yết la tỳ-lê gia (3) a yết xa (4) sa-phộc ha (5)”

Nếu dùng Ấn Chú của Pháp đó làm Đại Đàn cúng tất cả chư Phật, chư Thiên…liền kết Ấn đó bảy làn tụng Chú thì vua Diễm Ma La ấy liền đi đến nhận sự cúng đó, rất vui vẻ.

_ Tiếp theo thỉnh Ngũ Đạo Tướng Quân Vương: Kim Cương Hợp Chưởng, xưng tên nói rằng: Ngũ Đạo Tướng Quân Vương, Tả Ty Mệnh, Hữu Ty Mệnh

_ Tiếp theo thỉnh Thiên Tào Phủ Quân, tất cả Bách Ty, Quan Thuộc, Đô Quan, Sứ Giả với các Bộ loại của Thiên Tào giáng lâm Đàn Trường này, nhận sự cúng dường của tôi.

Địa Phủ Thần Quân, Bình Đẳng Đại Vương, tất cả Bách Ty, Quan Thuộc, Đô Quan, Sứ Giả với các Bộ loại của Địa Phủ giáng lâm Đàn Trường này, nhận sự cúng dường của tôi.

Điển Chủ Địa Ngục, 36 Chủ, La Sát đầu ngựa, La Sát đầu trâu, các quyến thuộc giáng lâm Đàn Trường này, nhận sự cúng dường của tôi.

Địa Chủ Minh Vương, tất cả chúng Thần: núi, sông, núi cao, ngòi lạch, Thành Hoàng, Xã Miếu đều cùng với quyến thuộc. Nguyện đến Đạo Trường nhận sự cúng dường của tôi.

Tăng, Ni hiện tại quá khứ chưa được giải thoát. Tiên Vong bảy đời lâu xa của Thí Chủ, tất cả Hồn Linh với Oan Gia Trái Chủ từ thời Vô Thủy đến nay…giáng lâm Đạo Trường này, nhận sự cúng dường của tôi.

Khoáng Dã Đại Lực, Thiêu Diện Quỷ Vương (?Tiêu Diện Quỷ Vương), vô lượng trăm ngàn Na Do Tha hằng hà sa các hàng Quỷ đói đều cùng với quyến thuộc giáng lâm Đạo Trường này, nhận sự cúng dường của tôi, quy mệnh Tam Bảo.

_ Tiếp theo Triệu Chư Ngạ Quỷ Chân Ngôn (Tay phải đem ngón cái vịn đầu ngón giữa, hơi co ba ngón còn lại, liền thành. Búng ngón tay ra tiếng) Chân Ngôn là:

“Án, bộ bố lý ca lý đát lý, đát đa yết đa dạ”

Oṃ_ Bhūpurikaritari tathāgatāya

_ Tiếp theo tụng Khai Yết Hầu Ấn Chân Ngôn (Ấn: chẳng bung tán Ấn trước).

Chân Ngôn là:

« Án, bộ bố đế lý ca đá lý, đát tha yết đa dạ »

Oṃ_ Bhūputerikatari tathāgatāya

_ Thỉnh xong kết Câu Sách Tỏa Linh Ấn

_ Tiếp đến Quang Trạch Chư Cúng Vật Ấn (dùng Tam Cổ Ấn)

Chân Ngôn là:

“Án, nhập-phộc la dã, mãn độ lý, sa-phộc hạ” 

Oṃ_ Jvalāya bandhuri svāhā

_ Tiếp theo dùng lá trúc rưới vẩy nước thơm trong sạch.

_ Tiếp theo tụng Cam Lộ Chân Ngôn là:

Giương bàn tay phải ở trên vai phải kèm mọi ngón tay mở khoảng giữa, niệm 21 biến

“Nam mô tô lô bà dã (1) đát tha yết đa dã (2) đát nễ dã tha (3) Án (4) tô lô tô lô, bát la tô lô, bát la tô lô, sa-phộc ha”

 

Namo Surūpaya tathāgatāya

Tadyathā: Oṃ_ suru suru _ prasuru prasuru _ svāhā

_ Tiếp theo niệm Tỳ Lô Xá Na Tâm Chuyển Quán Nhũ Hải Chân Ngôn: Giương năm ngón của bàn tay phải hướng xuống bên dưới, đến bên trong vật khí chứa thức ăn, liền thành. Tưởng chữ Tông (Vaṃ) ở ngay trong lòng bàn tay. “Na mô tam mãn đa một đà nam. Tông”

Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Vaṃ

Tiếp đến Chân Ngôn của nhóm đó, khiến cho vật cúng biến thành mùi vị màu nhiệm.

_ Tiếp theo có thể thỉnh Thái Sơn Phủ Quân. Vị vua đó trụ ở nhà phía sau núi, có Dũng Mãnh Quỷ Vương trong khoảng sát na du hành Thế Giới hành bệnh của Mộc Trát (Mộc Trát là tên gọi khác của bệnh dịch). Dùng Kim Cương Hợp Chưởng có thể tụng Chân Ngôn:

“Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Chỉ đát-la, ngu bát-đa dã, sa-phộc hạ” 

Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Citra-guptāya svāhā

_ Tiếp theo có thể cúng các Minh Đạo.

_ Tiếp theo chí Tâm xướng niệm Hiệu của năm Đức Như Lai

.) “Nẵng mô bà nga phộc đế, bát-la bảo đà la đát-nẵng gia, đát xá nga đá gia”

(Namo bhagavate Prabhūta-ratnāya-tathāgatāya)

Nam mô Bảo Thắng Như Lai trừ nghiệp tham lam keo kiệt, viên mãn Phước Đức

.) “Nẵng mô bà nga phộc đế, tô lỗ bà gia, đát xá nga đá gia”

(Namo bhagavate Surūpaya-tathāgatāya)

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai phá hình tướng xấu xí, viên mãn tướng tốt

.) “Nẵng mô bà nga phộc đế, a mật-lật đế la xà gia, đát xá nga đá gia”

(Namo bhagavate Amṛta-rajāya-tathāgatāya)

Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai rưới rót Pháp khiến cho Thân Tâm nhận sự khoái lạc

.) “Nẵng mô bà nga phộc đế, vĩ bổ la nga đát-la gia, đát xá nga đá gia” (Namo bhagavate Vipula-gatrāya-tathāgatāya)

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai mở cổ họng rộng lớn, thọ nhận mùi vị màu nhiệm

.) “Nẵng mô bà nga phộc đế, A bà diên ca la gia, đát xá nga đá gia”

(Namo bhagavate Abhayaṃ-karāya-tathāgatāya) Nam mô Ly Bố Úy Như Lai đều trừ bỏ, xa lìa nẻo Quỷ đói

_ Tiếp kết Kim Cương Hợp Chưởng nên phụng thịnh Địa Tạng Bồ Tát. Nguyện dùng Từ Bi khiến cho tất cả Minh Đạo theo thứ tự không để mất chỗ nào.

_ Tiếp kết Kim Cương Hợp Chưởng có thể tụng:

“Chúng con (họ tên….) kính cẩn dùng thức ăn uống tinh khiết thơm tho với tiền tài, tơ lụa…Trước tiên phụng hiến trăm ngàn vạn ức na do tha chẳng thể nói chẳng thể nói cõi nước nhiều như bụi nhỏ của chư Phật ở mười phương. Tất cả Minh Hoạn, Minh Đạo, Tăng, Ni, năm trăm chúng Quỷ đói cu3a Linh Giới, nửa ngàn các chúng Quỷ đói của Bà La Môn…mỗi mỗi đều được 60 hộc thức ăn của nước Ma Già Đà (Maghadha), hay khiến cho thức ăn này thảy đều biến làm Pháp Hỷ, Thiền Duyệt, Cam Lồ, Đề Hồ, biển sữa trong sạch…tràn đầy khắp Pháp Giới (Dharma-dhātu) rộng lớn vô lượng, không có ai chẳng no đủ, thảy đều chứng đắc Bồ Đề giải thoát, quy mệnh Thường Trụ Tam Bảo

_ Tiếp kết Kim Cương Hợp Chưởng, tán tụng rằng:

“A diễn đổ, nê phộc, tả nga tố la (1) khẩn na la, na la khất thước ca la na dã (2) bát-la phộc-la, đạt ma nghiệt-lý đa, địa già-la (3) vĩ đạt ma tả, bát la xả ma, tao xí-dã (4) nễ-minh đa, bộ đa minh đa, bà la ca xả dạ (5) đát nễ hạ thất-la, ma na dã, đà hàm”

 

Ayaṃtu deva, sagasrakaṃ, narendra, sakaradayā_ pravara dharma-kṛtadhikara, vidharma ca prasama saukhyai nimeta bhūtameta, prakaṣaya tadihaśra mathāya dhamaṃ

_ Tiếp theo xướng Sám Hối Kệ là:

“Hôm nay, con (họ trên là…) đã bặt bày vật cúng, phần lớn chẳng như Pháp, chó thể cười chê là thô xấu, não loạn tất cả Minh Hoạn, Minh Đạo, chúng Đàn Cát Nhĩ (Ḍākiṇī). Nguyện xin Minh Đạo hứa cho. Nguyện xin Từ Bi ban cho vui vẻ”

_ Tiếp theo nếu muốn tiêu trừ bệnh dịch, bệnh khí, bệnh sốt rét thì có thể cúng Đại Sơn Phủ Quân (?Thái Sơn Phủ Quân)

_ Nếu muốn giải thoát người ác, oan gia, chú trớ. Lại có thể cúng riêng Đại Phạm Thiên Vương, bốn vị Thiên Vương liền được giải thoát.

_ Nếu muốn được Phước Đức thì có thể cúng 28 vị Đại Dược Xoa (quyến thuộc của Tỳ Sa Môn)

_ Nếu muốn nhổ bứt cứu giúp Mệnh của Chính Báo thì có thể cúng riêng Diễm La Vương, Ngũ Đạo Tướng Quân liền được tước bỏ sổ chết, giao cho sổ sống.

Gom chung tất cả Ý của Hành Giả, chỉ cần tiền, tơ lụa… thì chẳng nên cúng dường

A Xà Lê (ācārye) triệu thỉnh Rồng, Thần, tất cả Linh Đẳng ngay chỗ ở (đương sở) thì có thể cúng dường (tòa riêng) tất cả tùy ý.

Thường dùng áo mới, trong Đàn đào một cái hố để áo mới, mỗi mỗi Thời dùng Diễm Ma Chân Ngôn từ Đàn lấy ra. Bánh mới, năm loại lúa đậu, cháo gia thêm hương, hoa hòa chung trong vật khí chứa nước sạch, dùng Tâm vui vẻ rải tán bốn phương. Mới đầu từ bốn Quỷ, tất cả hàng Quỷ vui vẻ nhận lấy, rồi sau đó có thể đọc Kinh Đại Thừa.

 

THỨ TỰ CÚNG DIỄM MA

_Hết_

07/05/2012