dị thục

Phật Quang Đại Từ Điển


(異熟) Phạm: Vipàka. Các nhà dịch cũ dịch là quả báo. Âm Hán: Tì bá ca. Gọi chung quả báo cảm được do nghiệp thiện, ác đã tạo ở đời trước; vì quả khi chín (thục) thì tính chất lại khác (dị) với nhân nên gọi là Dị thục. Vấn đề này có nhiều cách giải thích. Cứ theo luận Thành duy thức quyển 2, thì Dị thục là nhân biến làm quả, tính chất của quả này khác với tính chất của nhân. Nhân có thiện có ác, mà quả thì là tính vô kí không thiện không ác, cho nên từ nhân chín thành quả thì tính chất của nó đã biến đổi làm loại khác. Nhưng, cứ theo Thành duy thức luận thuật kí quyển 2, thì Dị thục có ba nghĩa: 1. Dị thời thục (chín khác thời), nghĩa là nhân và quả cách đời mới chín. 2. Biến dị thục (chín đổi khác), nghĩa là quả do nhân đổi khác mà chín. 3. Dị loại thục (chín khác loại), nghĩa là quả và nhân khác loại và do nhân chín mà thành quả. Trong ba nghĩa nêu trên, Thuyết nhất thiết hữu bộ chủ trương Dị loại thục, Kinh bộ chủ trương Biến dị thục, tông Duy thức cũng chủ trương Dị loại thục. Thuyết nhất thiết hữu bộ và tông Duy thức tuy cùng chủ trương nghĩa Dị loại thục, nhưng ý chỉ của hai tông thì không giống nhau. Thuyết nhất thiết hữu bộ cho rằng, sức của tính vô kí yếu ớt, hệt như hạt giống đã mục nát, hoàn toàn thiếu mất nghĩa nhân duyên, cho nên không chiêu cảm quả dị thục. Vì lẽ này, nên mối quan hệ giữa Dị thục nhân và Dị thục quả được phối hợp với Nhân duyên trong bốn duyên. Còn tông Duy thức thì cho rằng, nhân của đẳng lưu tập khí đều suốt cả ba tính thiện, ác, vô kí. Nghĩa là trong quả Dị thục có bao hàm nhân vô kí, cho nên tuy là nhân quả đẳng lưu, nhưng cần có sự giúp đỡ của hạt giống nghiệp (nghiệp chủng tử) mới có thể dẫn sinh quả báo vô kí. Chính vì quả báo vô kí và hạt giống nghiệp này mà gọi là Dị thục, và hạt giống nghiệp này tức là nhân dị thục, còn quả báo vô kí thì là quả dị thục. Theo đó, thì nhờ sức giúp đỡ của tăng thượng duyên mà nhân dị thục (hạt giống nghiệp) thành quả dị thục, và nhân dị thục này là hạt giống của Tư tâm sở thiện, ác tuơng ứng với thức thứ 6. Hạt giống Tư tâm sở nói trên đây có hai công năng: 1. Công năng tự sinh khởi hiện hành. 2. Công năng giúp đỡ các hạt giống vô kí dị thục khác khiến sinh ra. Nói theo nghĩa tự sinh khởi hiện hành, thì hạt giống này là nhân gần, cũng tức là nhân đẳng lưu, quả đẳng lưu. Còn nói theo nghĩa giúp đỡ các hạt giống vô kí dị thục khác, thì hạt giống này là duyên tăng thượng, cũng tức là nhân dị thục, quả dị thục.Ngoài ra, Dị thục nhân là một trong sáu nhân (Dị thục, Năng tác, Câu hữu, Đồng loại, Tương ứng, Biến hành), Dị thục quả là một trong năm quả (Dị thục, Tăng thượng, Sĩ dụng, Đẳng lưu, Li hệ). Năng lực sản sinh ra quả dị thục, gọi là Hữu dị thục; ngược lại thì gọi là Vô dị thục. Tông Duy thức chia Dị thục làm hai: 1. Chân dị thục (hoặc gọi tắt: Dị thục), là quả thể tổng báo của thức thứ 8. 2. Dị thục sinh, từ chân dị thục sinh ra, như thức A lại da là Chân dị thục, sáu thức là Dị thục sinh. Ngoài ra, chúng sinh ở những nơi như: địa ngục, quỉ đói, súc sinh, châu Bắc câu lô, cõi trời Vô tưởng v.v.., vì không được nghe pháp tu hành, cho nên thế giới của hạng chúng sinh này được gọi là Dị thục chướng. Đây là do nghiệp nhân đời trước của chúng sinh chiêu cảm quả báo ở đời này mà tái sinh vào các thế giới ấy, nên gọi là Dị thục chướng. [X. luận Đại tì bà sa Q.20, Q.25; luận Câu xá Q.2, Q.6; Câu xá luận quang kí Q.2; Câu xá luận bảo sớ Q.2; Huyền ứng âm nghĩa Q.23]. (xt. Quả Báo).