di lặc hạ sinh kinh

Phật Quang Đại Từ Điển


(彌勒下生經) Có một quyển. Là một trong ba bộ kinh về Di lặc, một trong sáu bộ kinh. Cũng gọi Quán di lặc bồ tát hạ sinh kinh, Di lặc thành Phật kinh, Di lặc đương lai hạ sinh kinh, Hạ sinh kinh, do ngài Trúc pháp hộ dịch vào đời Tây Tấn, thu vào Đại chính tạng tập 14. Trước nay, trong các kinh nói về bồ tát Di lặc giáng sinh, kinh này được coi trọng hơn cả. Nội dung trình bày trong đời vị lai, vào thời vua Chuyển luân thánh vương Nhương khư, ngài Di lặc từ cung trời Đâu suất sinh xuống, thân phụ là Tu phạm ma, thân mẫu là Phạm ma việt. Sau khi thành đạo Ngài giáo hóa Thiện tài, thân phụ thân mẫu và tám vạn bốn nghìn đại chúng. Cũng giống như đức Phật Thích ca đời này, Ngài nói giáo pháp ba thừa để độ chúng sinh. Ngài Đại ca diếp ở thời chư Phật quá khứ đã khéo tu Phạm hạnh, cho nên trong vị lai cũng sẽ giúp ngài Di lặc trong việc giáo hóa. Người đứng ra thưa hỏi trong kinh này là tôn giả A nan, đây là một đặc sắc lớn của kinh này; trong các bản kinh khác người thưa hỏi là tôn giả Xá lợi phất. Về những bản dịch khác của kinh này thì có: Di lặc hạ sinh thành Phật kinh 1 quyển do ngài Cưu ma la thập dịch vào đời Diêu Tần và ngài Nghĩa tịnh dịch vào đời Đường. Về sách chú sớ thì có: Di lặc hạ sinh kinh sớ 1 quyển của ngài Cảnh hưng, Di lặc hạ sinh kinh nghĩa sớ 1 quyển của ngài Thiện châu, và Di lặc hạ sinh kinh thuật tán 1 quyển, không rõ tác giả. Ngoài ra, theo sự khảo chứng thì kinh này là kinh Biệt sinh trong kinh Tăng nhất a hàm quyển 44 do ngài Tăng già đề bà dịch mà đời lầm cho rằng người dịch là ngài Trúc pháp hộ. Còn kinh Hạ sinh gồm 17 tờ (giấy bản) do ngài Trúc pháp hộ dịch thì đã bị thất lạc từ lâu. [X. Xuất tam tạng kí tập Q.2 đến Q.4; Lịch đại tam bảo kỉ Q.1; Tĩnh thái lục Q.2; Khai nguyên thích giáo lục Q.2, Q.14].