đâu suất thiên

Phật Quang Đại Từ Điển

(兜率天) Đâu suất, Phạm: Tuṣita, Pàli: Tusita, Tạng: Dgaḥ-ldan. Cũng gọi Đô suất thiên, Đâu thuật thiên, Đâu suất đà thiên, Đâu suất đa thiên, Đâu sư đà thiên, Đổ sử đa thiên, Đâu sử đa thiên. Hán dịch: Tri túc thiên, Diệu túc thiên, Hỉ túc thiên, Hỉ lạc thiên. Hợp chung với Dạ ma thiên gọi là Đâu dạ. Cõi trời thứ 4 trong sáu tầng trời cõi Dục, rộng 8 vạn do tuần, nằm ở khoảng giữa trời Dạ ma và trời Lạc biến hóa, cách trời Dạ ma 16 vạn do tuần. Về tên gọi của cõi trời này, cứ theo luận Lập thế a tì đàm quyển 6, thì chư Thiên ở cõi trời này rất vui sướng, đầy đủ mọi nhu cầu, tinh tiến tu tập Bát chính đạo, nên gọi là Đâu suất đà thiên. Thập địa kinh luận quyển 5 thì nói, hậu thân của Bồ tát giáo hóa cõi trời này, phần đông tu Hỉ túc, cho nên gọi là Hỉ túc thiên (cõi trời đầy đủ sự vui sướng). Cõi trời này có hai viện: 1. Đâu suất nội viện: Nơi ở của Bồ tát sắp thành Phật (Bồ tát Bổ xứ), nay là Tịnh độ của bồ tát Di lặc. Ngài Di lặc hiện là Bồ tát Bổ xứ, đang thuyết pháp ở cõi trời này, khi đủ 4 nghìn năm sẽ sinh xuống cõi người và thành Phật dưới gốc cây Long hoa. Đức Phật Thích ca trước khi giáng sinh xuốngnhân gian, cũng là một vị Bồ tát ở cõi trời này. Truyền thuyết phổ thông cho rằng Nội viện có 49 viện. Truyền thuyết này có lẽ đã căn cứ vào đoạn văn trong kinh Di lặc thướng sinh (Đại 14, 419 thượng): … Ánh sáng của ngọc Ma ni này xoay tròn trong hư không hóa làm 49 lớp cung điện vi diệu mà ra. 2. Đâu suất ngoại viện: Viện này thuộc cõi Dục, là chỗ ở của Thiên chúng, hưởng thụ nhiều dục lạc. Chư thiên ở cõi trời này sống lâu khoảng 4nghìn năm, một ngày một đêm ở đây bằng 400 năm ở nhân gian. Ngoài ra, chúng sinh ở cõi trời này, khi dục tình phát động thì chỉ cần nắm tay nhau là có thai, trẻ sơ sinh ở cõi trời này bằng đứa bé 8 tuổi ở nhân gian, 7 ngày thành người, thân cao bốn do tuần, nặng một lạng rưỡi. Ngoài ra, trong Mật giáo, vị Đâu suất thiên này được đặt ở phía tây bắc của viện Kim cương bộ ngoài trên Hiện đồ mạn đồ la Thai tạng giới. Hình tượng vị này thân mầu trắng, tay phải co lại để ở dưới ngực, 3 ngón giữa co lại, ngón út duỗi thẳng, cầm hoa sen búp; tay trái nắm lại (bắt Quyền ấn) chống vào cạnh sườn. Hai bên có thị nữ, thân cũng mầu trắng, tay phải đều cầm hoa sen búp. Chủng tử là (taô), hình tam muội da là hoa sen búp trên lá sen. [X. kinh Phổ diệu Q.1; Tuệ uyển âm nghĩa Q.thượng].