ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG
TẬP X
Thiện Phúc
(Tổ Đình Minh Đăng Quang)

496. Mười Pháp Giới Hay Lục Phàm Tứ Thánh
497. Tu Là Không Lầm Cái Giả Và Không Quên Cái Thật Trong Từng Sát Na
498. Sự Thành Công Của Người Con Phật
499. Những Lời Di Giáo Cuối Cùng Trước Khi Phật Nhập Niết Bàn
500. Hiếu Hạnh Của Người Phật Tử

 

496. MƯỜI PHÁP GIỚI HAY LỤC PHÀM TỨ  THÁNH

Từ vô lượng kiếp chư Phật chỉ dạy cho chúng ta có mỗi một bài kệ: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Bài kệ rất đơn giản, chỉ có bốn câu mà gói gọn hết ý chỉ của nhà Phật. Nếu ai chịu tu chịu hành như vậy thì thành Phật. Thế mà chúng ta vẫn cứ lăn trôi trong tam đồ lục đạo từ vô lượng kiếp. Tại sao lại có trạng huống nầy hở quý vị? Từ ngày Phật Tổ Như Lai thị hiện đến nay cũng đã gần hai mươi sáu thế kỷ, Ngài đã để lại cho chúng ta một kho tàng giáo điển vô giá cho những ai chịu học, chịu tu và chịu hành. Nhưng kho tàng giáo điển ấy chỉ là chất xúc tác loạn động cho những kẻ chỉ biết bơi lội trong đó với cái tâm nhàn đàm hý luận. Chính vì thế mà về sau nầy chư Tổ đã khuyên nhủ chúng ta nếu học kinh mà không chịu hành thì khoan hãy học vì làm như vậy chỉ lãng phí  đi thì giờ vốn dĩ đã không có của chúng ta mà thôi. Các Ngài đã khuyên chúng ta phải luôn tri hành hợp nhất thì mới mong tìm thấy được trí tuệ, giác ngộ và giải thoát nơi giáo lý nhà Phật. Chỉ có tri hành hợp nhất mới mong có cơ hội thong dong trong nẻo về “Tứ Thánh” và không bị đọa vào “Tam Đồ Lục Đạo.” Thế nào là Lục Phàm Tứ Thánh?

Lục phàm là sáu con đường trầm luân trong tam đồ gồm có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhơn và thiên. Trôi chuyển trong lục đạo, thân tâm thường bị khổ não bức hại. Thật vậy, trầm luân trong lục đạo thật không phải là điều lý tưởng chút nào. Trong sáu cõi nầy thân tâm thường phải chịu nhiều khổ nạn bức bách. Có lúc cũng được tạm yên ổn như những chúng sanh nơi cõi trời, nhưng yên ổn để chờ đón lấy khổ đau phiền não vì một khi những chúng sanh này đã hưởng hết phước thì lập tức phải theo nghiệp lực mà rơi vào những đường dữ khác. Như vậy, chúng sanh trong sáu nẻo nầy lúc nào cũng chịu khổ, từ khổ nhỏ đến khổ lớn. Nhất là chúng sanh trong tam ác thú hay ba nẻo địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Từ tam độc tham, sân, si dẫn đến rất nhiều hành vi tà ác, ác hạnh trở thành ác nghiệp, để rồi từ đó mới cảm chịu khổ báo nơi tam ác đạo. Những Phật tử chơn thuần, những người tin nơi luật nhân quả luân hồi, có thể đoan chắc rằng hễ chúng ta tạo nhân nào gì thì phải gặt quả nấy, không thể nghĩ bàn. Hễ sanh tiền chúng ta tạo nhân gì thì khi chết nghiệp lực dắt dẫn thần thức đến chỗ nó thọ báo không sai chạy. Nếu tạo nhân tốt thì luân hồi đến cảnh giới tốt, ví bằng tạo nhân xấu ác thì phải luân hồi vào ác đạo thế thôi.

1) Địa ngục tiếng Phạn kêu là “Naraka,” có nghĩa là nơi khổ sở, nơi chịu khổ cực. Địa ngục có nhiều loại từ tám địa ngục nóng đến tám địa ngục lạnh, cận biên địa ngục, cô độc địa ngục, vân vân. Tạo nhân sân hận, ác độc và làm nhiều điều tội lỗi, hại mình hại người, phải luân hồi vào địa ngục chịu nhiều nỗi khổ. Theo Phật giáo, những kẻ bị đọa vào địa ngục là những kẻ phạm tội cùng hung cực ác như tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết các bậc A La Hán, phá sự hòa hiệp của người khác nhất là sự hòa hiệp của chư Tăng Ni, và làm thân Phật chảy máu, không chỉ riêng thân Phật chảy máu mà tội phá hoại hay phỉ báng chánh pháp cũng bị xem như là làm thân Phật chảy máu); hay những kẻ phạm phải mười điều ác trong kiếp nhân sinh như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, ác ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, vọng ngữ, tham lam, sân hận và si mê. Địa ngục có rất nhiều thứ như ngục vô gián, ngục a tỳ, ngục lạnh, ngục nóng, vân vân. Có người cứ tưởng rằng phải đợi đến khi chết mới bị đọa vào địa ngục; kỳ thật, ngay khi phạm phải những tội cùng hung cực ác vừa kể trên thì tâm nầy liền bị đọa vào địa ngục chứ không phải đợi đến một kiếp nào khác. Cảnh giới địa ngục là những gì hiện ra trong tâm thức của những kẻ gây tạo nhân ác. Nếu ngày ngày chúng ta cứ chất chồng ác nghiệp thì khi lâm chung, hành trang duy nhất của chúng ta chỉ toàn là địa ngục. Ngoài ra, riêng với người tu theo Phật đã thọ giới mà lại phá giới, trây lười biếng nhác, để cho u mê ám độn khống chế thân tâm; hoặc trau tria cho tướng hảo bên ngoài mà bên trong thì tà trược cũng sẽ bị đọa vào địa ngục không tránh khỏi. Vì thế Đức Phật dạy: “Ngoài những tội ngũ nghịch và thập ác ra, Phật tử dù xuất gia hay tại gia, ở chùa hay ở nhà, một khi đến chùa hay tịnh xá để tu tập, không nên ỷ mình lanh lợi mà lấn hiếp người, không nên cố chấp lỗi phải từ lời nói đến việc làm, không nên ganh tỵ nhỏ nhen, không nên kết bè kết phái hay nói lời chia rẽ làm mất sự hòa hợp nơi người khác, cũng không nên dùng lời lẽ làm nản lòng người khác.”

2) Pháp giới thứ nhì là “Ngạ quỷ.” Ngạ là đói, ngạ quỷ là những con quỷ đói. Loại chúng sanh nầy thường phải chịu đói khát. Theo Phật giáo, những ai tạo nhân tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, không biết giúp đỡ người khác, từ tiền của đến giáo pháp, mà trái lại còn mưu sâu kế độc để cướp đoạt tài sản của người, những kẻ đó đương đời sống trong tâm trạng của một chúng sanh ngạ quỷ và khi chết đi phải luân hồi làm thân ngạ quỷ. Có ba loại ngạ quỷ: vô tài (loại không có tài sản); thiểu tài (loại có ít của cải); và đa tài (loại quỷ giàu có với nhiều của cải). Vô tài ngạ quỷ lại chia làm ba loại là cụ khẩu ngạ quỷ hay ngạ quỷ miệng lửa (với loại nầy thức ăn qua miệng đều biến thành lửa); châm khẩu ngạ quỷ hay loại ngạ quỷ có miệng như cây kim (cổ họng nhỏ như cây kim, thức ăn thức uống không có cách gì nuốt qua nổi); xú khẩu ngạ quỷ hay loại ngạ quỷ miệng thúi (loại quỷ mà miệng đầy thịt thúi, không ăn uống chi được). Loại thiểu tài ngạ quỷ, cũng ăn uống được đôi chút, nhưng thường thì thức ăn biến thành máu mủ hôi tanh khi vừa nuốt vào miệng, có loại thiểu tài ngạ quỷ chỉ tìm ăn uống những đờm dãi và nước tiểu mà thôi. Đa tài ngạ quỷ là loại quỷ hưởng thụ được khá nhiều, loại này được chia làm ba loại: khí giả ngạ quỷ, chuyên ăn những đồ lễ do người đời cúng; thất giả ngạ quỷ, dựa vào những thứ mà nhân gian mất mát để sinh sống; và đại thế ngạ quỷ như các quỷ vương, là loại có thế lực to lớn như Dạ Xoa, La Sát, vân vân. Tuy nhiên, đa số ngạ quỷ thuộc hai loài vô tài và thiểu tài và phải chịu đói khát khổ cực vô cùng. Do bản tánh tham lam, keo kiết, bỏn sẻn đến cực độ mà thành ra ngạ quỷ. Trong Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, Đức Phật dạy: “Những chúng sanh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, ham muốn ăn mặc xa hoa phung phí, lấy cắp của Tam Bảo để thọ dụng riêng cho mình và gia đình mình. Có người nghèo khó xin ăn, một đồng một cắc cũng chẳng cho mà lại còn mắng chưởi. Cứ lo cho mình ấm no, chứ không thương người đói lạnh. Những hạng nầy chẳng đợi đến lúc chết, mà đương đời đã là những con ngạ quỷ không hơn không kém. Đến khi chết quyết phải bị đọa vào đường ngạ quỷ, chịu đói khổ mãi mãi, cuống họng thì nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống, cái bụng thì to như cái trống chầu, còn cái đầu lớn như hòn núi; thoáng gặp đồ ăn thức uống, che mặt nuốt vào thì những đồ ấy lập tức biến thành sắt nóng đồng sôi, cứ như thế mà lê lết kiếp ngạ quỷ trả nghiệp cho đến khi hết nghiệp mới thôi.

3) Thứ ba là “Súc sanh.” Còn gọi là bàng sanh vì xương sống nó nằm ngang (đầu mình ngang nhau lúc đi). Theo Phật giáo, tạo nhân si mê sa đọa theo thất tình lục dục, tửu sắc, tài khí, không chịu suy xét hay dở, tốt xấu, đương đời mang tâm trạng của một chúng sanh súc sanh và khi chết rồi phải theo nghiệp lực dắt dẫn thần thức luân hồi làm súc sanh. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Chúng sanh do tội sát sanh và ăn nuốt lẫn nhau mà cứ phải trầm luân vay trả trả vay trong thân súc sanh để tiếp tục trả vay vay trả vì sát sanh là nhân và súc sanh là hậu quả tất yếu của nó. Dù trực tiếp hay gián tiếp sát hại chúng sanh để ăn thịt đều là sát sanh. Trong Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, Đức Phật dạy: “Những chúng sanh ham ăn thịt uống rượu, giết hại cầm thú để bày tiệc ăn nhậu. Kiếp nầy giết, không nhất thiết phải đợi đến kiếp sau mới thành súc sanh, mà ngay trong kiếp nầy từ cách ăn cách uống cách đi, đứng, nói năng, hành động đều là cách hành sử của loài súc sanh.” Chính thế thế mà Đức Phật dạy tiếp: “Chúng sanh không nên sát hại để ăn uống lẫn nhau vì ai cũng tham sống sợ chết, ai cũng biết đói ăn khát uống, biết sợ đau sợ khổ. Vạn vật đều đồng nhứt thể chân như, nghĩa là ai cũng có khả năng thành Phật. Vì thế mà mọi người mọi vật đều phải thương yêu bảo vệ lẫn nhau.” Thường tình thế tục mà còn phải “giết người đền mạng,” huống là luân hồi nhân quả! Chính vì thế mà trong Kinh Di Giáo, trước khi nhập diệt Đức Phật đã khuyên nhủ tứ chúng nên ăn chay để tỏ lòng từ bi đối với chúng sanh mọi loài. Ăn chay chẳng những tránh được nhân sát sanh, mà còn bày tỏ lòng nhân đến chúng sanh mọi loài, cũng như không tác hại đến những vị Phật tương lai (vì chúng sanh nào cũng đều có Phật tánh và đều có khả năng thành Phật). Khi ăn chay chúng ta ăn toàn là thực vật, những thứ mà theo giáo lý nhà Phật là tương đối thanh sạch. Trái lại, khi ăn mạng, cho dù chỉ là gián tiếp sát sanh đi nữa, khi thoạt nghĩ đến ăn miếng thịt của chúng sanh thì ý nầy đã nhiễm ô bất tịnh, huống là gắp miếng thịt bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến ngon lành. Mỗi lần ăn mạng như vậy là mỗi lần chúng ta mất dần đi nhơn tính nơi con người chúng ta, vì càng ăn mạng với đầy đủ những gia vị thấm ướp, chúng ta càng thấy thơm ngon và càng muốn ăn nhiều hơn nữa. Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ không còn cảm thấy động lòng thương xót khi thấy súc vật bị giết hại để làm thực phẩm cho chúng ta nữa.

4) A Tu La: Thần a-tu-la thường hay tranh đấu với trời Đế Thích. Theo Phật giáo thì a-tu-la là một loại thần nhưng bản chất hãy còn nóng nảy sân hận, gặp việc nhân nghĩa thì làm mà gặp việc sái quấy cũng không tránh. Bản chất của a-tu-la là vừa cương trực mà cũng vừa độc ác, nên mặc dù có làm những điều phước thiện nhưng tánh tình hung hăng nóng nảy lại thêm bị tà kiến si mê chế ngự nên thường hay tin theo tà giáo. Những chúng sanh nào tạo nhân như vậy thì đương đời sống trong tâm trạng của một chúng sanh a-tu-la và khi chết sẽ theo nghiệp lực dắt dẫn luân hồi làm a-tu-la. Có ba loại a-tu-la: bậc trên là a-tu-la vương, bậc giữa là a-tu-la chúng, và bậc dưới là a-tu-la nữ. Một khi phước khí tiêu hết thì phải tùy theo nghiệp lực mà luân hồi trả quả. Thần a-tu-la có hai loại: hiền thần a-tu-la là những vị tuy lòng còn sân hận nhưng bản tánh hay độ người tu hành. Ác thần a-tu-la, vừa sân hận vừa sát sanh, loại nầy ăn máu uống huyết chúng sanh. Chính vì thế mà Đức Phật dạy: “Do bởi tham, sân, si che mờ trí tuệ nên con người không học không hiểu và không thể tu hành pháp nhà Phật, chẳng những không tu tập nhẫn nhục được mà cũng không chế phục được tham lam trộm cắp, càng được càng tham, càng tham càng tham lớn, đến khi tham không được thì sanh tâm sân hận. Những con người nầy hiện đời đã là những con a-tu-la không hơn không kém. Chỉ có pháp nhẫn nhục trong lục độ Ba La Mật (sanh nhẫn, pháp nhẫn, và vô sanh pháp nhẫn) là những thần dược điều phục được sự sân hận mà thôi.”

5) Nhơn: Người là trung tâm của mười pháp giới. Cõi người có sướng có khổ, nhưng không khổ như các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nên con người có nhiều khả năng và cơ hội tiến tu thành Phật. Tuy nhiên, muốn làm một con người trọn vẹn, trước phải quy-y Tam Bảo, sau phải thọ trì ngũ giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống những chất cay độc). Là con người, ai ai cũng xem sinh mạng mình là tối hệ trọng, tài sản là huyết mạch và gia đình là tổ ấm, vì thế một con người hoàn toàn không bao giờ phạm tội sát sanh, trộm cắp và tà hạnh. Con người ấy luôn biết giữ gìn uy tín nên không bao giờ láo khoét, không uống rượu để giữ được sự linh mẫn của một con người và khỏi làm phiền hà người chung quanh. Hơn nữa, một con người thật xứng đáng phải là người trước phải lo giữ đạo làm người, lo tạo tác phước thiện và lập công bồi đức, sau đó phải tu hành theo Phật để dứt bỏ phàm tâm và trau tâm sửa tánh bằng cách trừ lục căn, diệt lục trần, hành lục độ, phát lục thông, mới mong siêu phàm nhập Thánh hay tìm lại được bổn tâm mà mình đã một lần dại dột xa rời.

6) Thiên: Những ai chịu từ bỏ những điều ác và tu hành thập thiện thì con người ấy đương đời sống trong tâm trạng của một chúng sanh nơi cõi trời và khi chết sẽ theo nghiệp lực dắt dẫn tiến lên cõi trời. Đức Phật dạy: “Thập thiện đạo phù hợp với đạo Phật, nên có thể áp dụng cho cả tại gia lẫn xuất gia. Thế nào là thập thiện nghiệp? Nơi thân không sát sanh mà thường hay phóng sanh, không ăn mạng mà thường hay trai lạt; không keo kiết bỏn sẻn mà thường hay bố thí; không tà hạnh tà dâm mà thường hay tiết dục. Nơi khẩu không ác ngữ mà thường hay nói lời ái ngôn dịu ngữ; không ỷ ngữ mà thường hay nói lời ngay thẳng; không vọng ngữ mà thường hay nói lời chân thật và phân minh; không lưỡng thiệt hay đâm thọc mà thường hay nói lời phân giải hòa hiệp. Nơi ý luôn thanh tịnh, không tham lam mà thường giải thoát ra ngoài vòng tham ái; không sân hận mà thường hay nhẫn nhục; không si mê mà thường suy nghĩ chánh lý. Tuy nói là thập thiện nghiệp, kỳ thật chỉ cần tận diệt si mê do thường suy nghĩ chánh lý là trí huệ phát sanh. Một khi đã có trí huệ là có tất cả, vì trí huệ là đèn sáng xua tan bóng tối vô minh. Từ trí huệ mà thân khẩu ý luôn thanh tịnh, do đó mà nghiệp nhẹ dần và cuối cùng được sanh lên cõi trời. Kinh luật tuy nhiều vô lượng, nhưng chỉ cần một câu “Tam Nghiệp Thanh Tịnh, đồng Phật vãng Tây phương.” Nghĩa là một khi ba nghiệp thân, khẩu, ý đã thanh tịnh thì chúng ta sẽ thong dong nắm tay chư Phật dạo chơi khắp nẻo Tây Phương Cực Lạc.

7) Thanh Văn: Chúng Thanh văn là những bậc nương theo Tứ Thánh Đế mà tu hành giải thoát, dù không tế độ chúng sanh nhưng những vị nầy có khả năng giải thoát trong một đời. Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Ngài đã đi đến vườn Lộc uyển để độ năm anh em ông Kiều Trần Như bằng bài pháp “Tứ Thánh Đế.” Tứ Thánh Đế gồm khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế (biết khổ, biết vì đâu có khổ, biết làm sao diệt khổ để tiến lên Thánh đạo). Các vị nầy nhờ nghe bài pháp nầy mà liễu ngộ vạn pháp và chứng quả A La Hán. A La Hán có hai bực: Đại A La Hán hay huệ tánh Thanh văn, những vị đã có huệ tánh phát tâm Bồ Đề để tiến lên quả vị Duyên giác và Bồ Tát. Loại thứ hai là A La Hán, hay định tánh Thanh văn, loại nầy chỉ mong an phận trong quả vị A La Hán mà thôi. Cổ đức dạy: “Thủy cảnh trần phong bất đáo thời, ứng hiện vô hà chiếu thiên địa.” Nghĩa là mặt nước mà không bị gió thì không có sóng, gương không bụi tất nhiên không mờ. Cũng như vậy, lòng người không sanh ác nghiệp tham, sân, si; không phân biệt nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, không si mê lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì tâm mình luôn trong sạch, luôn liễu ngộ vạn pháp. Con người như vậy là con người thật sự giải thoát.

8) Duyên Giác: Duyên là thập nhị nhơn duyên, giác là liễu ngộ. Duyên giác là quả vị tu chứng giáo pháp quán thập nhị nhơn duyên, hay những bậc tu hành quán chiếu và liễu ngộ thập nhị nhân duyên mà thành Phật Độc Giác (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử). Duyên giác còn gọi là Duyên Giác thừa, Bích Chi Phật hay Độc Giác Phật.

9) Bồ Tát: Chữ Bồ Tát nói theo tiếng Phạn là “Bồ Đề Tát Đỏa.” Bồ đề là giác, tát đỏa là chúng hữu tình. Bồ Tát là những chúng sanh hữu tình tu hành giác ngộ, là những bậc tu hành lục độ để diệt hết những thô thiển của thân và khẩu. Theo Phật thì đây là những hành giả đã vượt được qua sông mê bể khổ nhưng chưa chịu rời con thuyền “Lục Độ” vì hạnh nguyện cứu độ chúng sanh (lục độ gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ). Những vị Bồ Tát nầy luôn xông thẳng vào đời với bổn nguyện “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Nghĩa là trên thì cầu thành Phật đạo, còn dưới thì hóa độ chúng sanh. Cổ đức dạy: “Bồ giả phổ dã, tát giả tế dã, tế nhơn chi cấp, cứu nhơn chi nguy, nải thị Bồ Tát.” Nghĩa là chữ Bồ là chữ Phổ, chữ Tát là chữ tế, cứu người cơn gấp ngặt, độ kẻ buổi nghèo nàn. Thế nên những vị nầy trước hết tiêu trừ lục căn, diệt lục trần, hành lục độ và phát lục thông trước khi nhập vào dòng Thánh Bồ Tát đạo. Những vị nầy có khả năng đi thẳng vào đời để hóa độ chúng sanh. Ngoài chuyện tu hành Lục Độ ra, các vị Bồ Tát còn phải thuần thục “Tứ Nhiếp Pháp,” phải hy sinh tài vật và thân mạng khi chúng sanh cần và tùy duyên nói pháp cứu độ chúng sanh tu hành giác ngộ và giải thoát; phải nói lời ái ngữ để hướng thiện và cảm hóa người theo chánh pháp; thân khẩu ý phải luôn nghĩ, nói và làm việc lợi lạc cho người mà không phân biệt thân sơ bạn thù; luôn hòa hiệp với mọi người mọi loài trong tinh thần bình đẳng lợi tha.

10) Phật: Phật là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô thượng là giáo pháp tu chứng quả vị Phật là cao siêu thâm diệu, không còn giáo pháp nào cao hơn nữa; Chánh đẳng còn gọi là đồng đẳng Phật tánh, có nghĩa là Phật và chúng sanh đều có Phật tánh như nhau, không có ngã pháp chấp và tứ tướng; Chánh giác hành giả tu hành đoạn tận mọi mê lầm. Phật là tên gọi chung để chỉ các bậc Thánh đại giác ngộ. Ai chứng ngộ được chánh pháp một cách viên mãn người đó là Phật. Trong thế giới Ta Bà ngũ trược, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với đại nguyện từ bi cứu khổ chúng sanh muôn loài từ khi Ngài còn là một vị Bồ Tát. Ngài đã nguyện vì chúng sanh mà chịu khổ chịu nạn chứ không vãng sanh Tây phương cực lạc. Muốn đi từ tự độ, độ tha, tự giác, giác tha  đến giác hạnh viên mãn, một vị Phật thường phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu tập từ lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ), tứ hoằng thệ nguyện (tự tánh chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, tự tánh phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, tự tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học, tự tánh Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành), tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả).

497. TU LÀ KHÔNG LẦM CÁI GIẢ VÀ KHÔNG QUÊN CÁI THẬT TRONG TỪNG SÁT NA      

Với xã hội văn minh vật chất, thời gian là tiền bạc. Thời gian là tất cả . Thời gian tạo ra của cải vật chất. Thời gian là thước đo sự phát triển. Trong xã hội ấy con người vất vả ngược xuôi, chạy đua với thời gian để giành lấy miếng cơm manh áo cũng như những phương tiện hưởng thụ trong cuộc sống hằng ngày. Đối với người con Phật chơn thuần, dù vẫn phải lo miếng cơm manh áo, nhưng không phải ngược xuôi để tìm những phương tiện hưởng thụ, không chạy đua với thời gian vì thế mà người con Phật chỉ sống và tu với những cái “đang là”, “đang hiện hữu.” Chính vì thế mà thời gian trở thành hoàn toàn vô nghĩa. Người con Phật không mong cầu một cuộc sống xa hoa vật chất, cũng không mong cầu tâm linh chứng đắc. Người con Phật chỉ biết sống công chính với lòng yêu mến tha nhân, và tu không chấp trước để bàu mòn bản ngã, để chuyển hóa chướng nghiệp và thăng hoa hướng thượng.

Chính vì hiểu được giá trị thực của cuộc sống cuộc tu nên người con Phật không chỉ dùng thời gian để riêng trau tria cho cuộc sống mà luống bỏ thời gian tu tập. Thật vậy, chúng ta không nên dể ngươi trong vấn đề tu tập. Một vị đại sư đang thao thao bất tuyệt trước đại chúng, chỉ vì một phút dể ngươi mà phải mang thân làm chồn năm trăm kiếp. Một quốc sư đức cao đạo trọng như ngài Ngộ Đạt, chỉ vì một phút mống tâm tự cao tự đại mà phải lang thang trả nghiệp trong suốt mấy năm liền. Thấy thế người con Phật phải luôn cẩn trọng và phải liễu ngộ rằng những ngọn gió độc hay những tai biến khổ lụy không tự nhiên tràn vào nếu ta không mở cửa đón chúng. Không có sự cố ngẫu nhiên trên trái đất nầy, lại càng không có định mệnh nào có thể xô đẩy được con người  và chúng sanh vào con đường trầm luân vô định. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dạy rằng: “Lục căn là gốc của luân hồi thì cũng chính lục căn là gốc của giải thoát.” Như vậy trầm luân hay an lạc, tỉnh thức, hạnh phúc và tự tại giải thoát đều do tự nơi mình. Phải chi mình không biết cách mở cửa để đi vào các đường thiện lành thì cũng đã đành, phải chi chúng ta không có con đường nào khác ngoài mê đồ tăm tối, phải chi chúng ta không có Phật, không có tấm gương giải thoát rốt ráo của Ngài thì cũng đành nên chịu. Đằng nầy, Phật đã tu và đã giải thoát, chuyện như mới hôm nào, thế mà chúng ta vẫn cam tâm khứng chịu lăn trôi. Phật đã khuyến tấn đại chúng rằng đừng tưởng thân nầy sẽ sống lâu mãi mãi mà chờ đợi cho đến ngày lậu tận. Ngày lậu tận ấy sẽ không bao giờ báo trước cho bất cứ ai. Người con Phật chơn thuần phải nên luôn nhớ rằng “được thân người đã là hãn hữu, nghe được Phật pháp lại càng hãn hữu hơn.” Đã được thân người và nghe được Phật pháp mà vẫn để phiền não che lấp tâm tánh quả là uổng cho một kiếp người! Người con Phật chơn thuần đừng mơ mộng viển vông nữa! Đừng luống phí thời giờ vốn dĩ đã không có của chúng ta nữa. Phật đã khẳng định trong các kinh điển của Ngài là con đường giải thoát duy nhứt cho chúng sanh mọi loài phải là con đường phá mê khai ngộ để được lìa khổ đặng vui; ngoài con đường nầy ra,  không có con đường nào khác. Phải cố mà vượt thoát và hướng thượng vì ngày nào còn lăn trôi trong ba nẻo sáu đường, ngày đó chúng ta hãy còn đắm chìm trong sự vọng động, vẫn còn tạo tác ác nghiệp, vẫn còn xa rời chân tâm thực tánh và quên mất đường đi lối về. Muốn không tiếp tục tạo tác ác nghiệp, ai trong chúng ta đều phải làm sao cho những mê lầm đã chất chứa từ vô lượng kiếp được phát khởi. Phát khởi và trực ngộ  mê lầm để xa lìa mê lầm, phát khởi mê lầm để phá mê khai ngộ và bỏ vọng về chân.

Làm được như vậy thì khổ não phải tự nhiên đoạn tận và an vui giải thoát sẽ hiển bày. Muốn được như vậy, những người con Phật không có con đường nào khác là phải tin rằng những lời Phật dạy là chân lý giải thoát, phải hiểu rõ Phật muốn dạy gì. Sau khi đã tin và đã hiểu những lời Phật dạy, chúng ta phải dụng công thực hành những lời dạy dỗ vàng ngọc ấy để trong một tương lai nào đó chúng ta cũng sẽ được như Ngài.

Người con Phật chơn thuần nên luôn cẩn trọng, chẳng những phải chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, mà còn phải tự tự tịnh thân khẩu ý trong từng sát na trong cuộc sống cuộc tu của chúng ta. Dẫu biết rằng trong cuộc sống bận rộn hôm nay thì khó lòng mà giữ được mãi chữ “tịnh,” nhưng dù muốn hay không muốn, chúng ta rồi sẽ phải một lần “tịnh,” vậy chúng ta không “tịnh” ngay từ bây giờ thì chúng ta còn đợi đến chừng nào? Phật đã khuyến tấn tứ chúng hãy cố gắng tự chiến thắng lấy mình, cố gắng tỉnh thức về mọi mống động của tâm ý, hầu giúp ta không sa chân vào những quyến rũ của nhiễm trược. Phật đã nhắn nhủ với tứ chúng rằng nếu cố gắng chiến thắng được một lần, chúng ta rồi sẽ thắng được nhiều lần, từ đó dần dần chúng ta sẽ có được sức mạnh nội tâm, sức mạnh ấy sẽ bàu mòn bản ngã tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng và đồng thời làm tăng trưởng bản ngã thanh tịnh. Ngoài ra,  sức mạnh  nội tâm của người tu theo Phật còn có công năng chuyển hóa thân tâm bao gồm từ  lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành động, đi, đứng, nằm, ngồi trong định tâm lắng ý. Sức mạnh nội tâm còn có khả năng giúp cho chúng ta tịnh thân, tịnh khẩu và tịnh ý.  Nhờ có sức mạnh nội tâm nầy mà miệng chúng ta luôn ăn nói điềm đạm, thân chúng ta luôn hành động theo từ bi hỷ xả, và ý chúng ta luôn xa lìa mọi chấp trước, tham đắm và sân hận. Sức mạnh nội tâm của người tu tập còn có khả năng nâng tâm hồn của chúng sanh lên ánh sáng cao tuyệt của chánh pháp, làm cho chúng sanh đến gần với Phật hơn. Tuy nhiên, sức mạnh nầy không mua hay xin mà được. Đây là sức mạnh mà năm xưa Đức Phật nhờ công phu tu tập và thiền định mà Ngài có được, những Thánh đệ tử của Ngài cũng vậy, chúng ta há có con đường nào khác sao quý vị? Ngày nay, để giác ngộ nghĩa là “không lầm cái giả và không quên cái thật” trong từng sát na, nghĩa là nhận rõ cảnh đời nhiều khổ đau phiền não và muốn thoát khỏi  những hệ lụy ấy ngay trong kiếp nầy, chúng ta không có con đường nào khác hơn là phải tu y như Phật. Phật tử chơn thuần nên nhớ rằng không có sự giác ngộ và giải thoát nào có thể có nếu chính chúng ta không chịu công phu tu tập và thiền định, nghĩa là không chịu thực hành, không chịu trở về quán sát nội tâm, theo dõi và ghi nhận tất cả những hoạt động và biến chuyển của chư pháp. Nếu chúng ta không tu tập theo giới và định thì đừng bao mong có được trí tuệ hay giác ngộ bản mặt thật của vạn hữu để từ đó vượt thoát được những hệ lụy của khổ đau phiền não. Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng triết lý đạo Phật rộng sâu vô cùng, nhưng Tứ Thánh Đế là quan trọng hơn cả. Khổ đế là quả của luân hồi sanh tử; tập đế là nhân của luân hồi sanh tử; diệt đế là quả của Niết Bàn và đạo đế là nhân của Niết Bàn. Ai trong chúng ta  chẳng những đã từng khổ, đã từng gây một số nhân khổ, mà còn gây tạo nhiều nhân khổ nữa là khác tất cả đã là quá khứ, cho dù chúng ta có ray rứt thế nào đi nữa, chúng ta cũng chẳng có thể làm gì thay đổi được quá khứ. Nói như vậy để cho mọi người chúng ta đừng hoài vọng về quá khứ trong vô vọng vô ích. Hoặc giả có người nói rằng trong quá khứ tôi đã từng gây tội tạo nghiệp nhiều quá, tôi hứa tương lai sẽ giảm thiểu tội ác, sẽ tu hiền, sẽ tịnh tâm, vân vân, để được vãng sanh Cực Lạc. Quý vị ơi! Hãy tỉnh cơn trường mộng đi, tương lai hãy còn mù mờ và chưa đến, đừng hoài công mơ tưởng mà lãng phí thì giờ vốn dĩ đã không có của chúng ta. Chỉ có những giây phút hiện tại là chúng ta có thể sung sướng hay khổ đau, là tốt hay xấu, là thiện hay ác, là tịnh hay động.   Trong quá khứ chúng ta đã từng tu tốt mà bây giờ phá giới phá đạo mới là đáng sợ. Niệm Phật được thì tốt, nhưng niệm sao cho mình cũng tu hành được giống y như Phật mới thật là tốt. Tụng kinh công đức thù thắng hạnh chỉ với một điều kiện là tụng làm sao cho liễu nghĩa kinh để y nương theo đó mà tu hành thành Phật, chứ tụng được năm bảy bộ kinh rồi đi đâu đến đâu cũng dương dương tự đắc rằng thì là tôi đã tụng vài chục biến kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, vân vân, rồi lấy đó làm hãnh diện cho rằng mình đã tu nhiều hơn người, nhưng thực chất tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến trong lòng mình ngày càng tăng theo số biến kinh mà mình đã tụng. Tu hành như vậy thì thà là đừng tu còn có ích cho mình và cho người hơn. Cũng như vậy, ngồi thiền là để định tỉnh quán sát nội tâm, để theo dõi và ghi nhận những hoạt động biến chuyển của chư pháp   để từ đó giác ngộ được bộ mặt thật của vạn hữu, và quan trọng hơn hết là thấy được chính mình, xem coi mình còn vướng gì và mắc gì để từ đó quyết tâm tu hành cho đến giác ngộ và giải thoát khỏi những hệ lụy của khổ đau phiền não. Người con Phật chơn thuần phải thiền làm sao cho không còn “lầm cái giả và không quên cái thật” trong từng sát na nữa mới đáng gọi là tu thật. Hành thiền và nói thiền là hai thứ hoàn toàn trái ngược nhau. Theo giáo lý Phật đà, hễ không có nhân là không có quả. Cũng như vậy, thân không thiền, tâm không không thiền thì không có quả “tịnh” được bao giờ. Ngày xưa Đức Phật có nói gì về thiền đâu, Ngài chỉ bảo các đệ tử ngồi xuống tréo chân trong tư thế kiết già hay bán già rồi theo dõi hơi thở, hoặc quán sát nội tâm.   Khi đi, Ngài đi thong thả, chậm chạp nhưng dáng vẻ ấy toát ra một phong thái giải thoát tuyệt vời. Nên nhớ tâm nguyện của chúng ta là tu hành để giải thoát chứ không phải để trở thành những học giả hay thuyết giả. Chúng ta cũng học kinh nghe pháp, nhưng học và nghe không phải để làm tăng kiến thức mà là để y nương theo đó tu hành, để biết sống thanh đạm, xa lìa ngũ dục và trở về được với nội tâm của chính mình. Đó là tất cả những gì mà Như Lai đã từng mong mỏi: “Ai biết sống theo ánh sáng cao tuyệt của Như Lai, không có không gian hay thời gian nào có thể ngăn cách người đó với Như Lai. Ngược lại, dù ai cạnh kề Như Lai mà không sống không tu theo chánh pháp của Như Lai, kẻ đó vẫn nghìn trùng xa cách Như Lai.” Thật vậy, cuộc sống chúng ta ngắn ngủi hơn ánh điển chớp nếu đem so với không gian vô tận và thời gian vô cùng, chúng ta sẽ không có thì giờ để chạy theo những ảo ảnh của đuổi hình bắt bóng đâu quý vị ơi! Người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ lời Phật dạy: “Thân nầy rồi sẽ già sẽ bệnh, xác nầy rồi sẽ hoại rữa mụt nát trong một thời gian hữu hạn nào đó. Tuy nhiên, tâm ý nầy vẫn cứ nương theo nghiệp lực mà đi lên hay đi xuống.” Chính vì thế mà người con Phật phải luôn cẩn trọng trong mọi tình huống vì ranh giới giữa ma và Phật mong manh như sợi chỉ. Đâu có ai dám đoan chắc  rằng trong hình tướng đầu đen áo trắng hôm nay cũng đã từng là đầu tròn áo vuông trong một kiếp quá khứ nào đó? Và đâu có ai dám đoan chắc rằng đầu tròn áo vuông hôm nay, nếu không cẩn trọng để cho tham sân si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng hoành hành, thì một kiếp nào đó trong tương lai  chẳng những không được đầu đen áo trắng, mà không chừng phải mang lông đội sừng làm thân trâu ngựa, chồn cáo hay côn trùng  để kéo cày, hoặc để nỉ non âu sầu cho một thời quá khứ tội lỗi? Kỳ thật, đạo Phật ngoài những tín điều cao tuyệt cho những ai  mong cầu giải thoát, còn là một cách sống tự tại và hài hòa. Theo đạo Phật, dù chỉ biết sống tự tại và hài hòa không thôi, cũng đã tránh được tai họa của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Những người con Phật chỉ cần sống được như vậy cũng đã vượt thoát được nanh vuốt của cái “tôi,” cái “của tôi,” và “cho tôi.” Lúc đó, thay vì đặt cái “ngã” vào trung tâm của vũ trụ, chúng ta sẽ không còn phân biệt đây là tôi, kia là anh, hay tôi đúng anh sai, hay tôi đẹp anh xấu, hay tôi hay anh dở, hay tôi sang anh hèn nữa. Ngược lại, chúng ta sẽ sẵn sàng ngồi lại với tha nhân để tìm xem cái gì đúng và cái gì sai, từ đó chúng ta cùng nhau theo đuổi những gì đúng và bỏ ra những gì sai trái. Làm được như vậy, con người chúng ta luôn sống với chơn lý, luôn sống thật với những gì mình đang có, chứ không còn tức tưởi với những giả danh giả nghĩa của những “mỹ từ,” “thể diện” và “tự ái” nữa. Làm được như vậy chúng ta sẽ không còn lầm lẫn giữa “vào cổng chùa,” và “tu thiệt” nữa. Lắm khi chúng ta đâu cần phải thấy chùa, thấy tượng Phật mà vẫn tu được trong thanh tịnh và an nhiên tự tại. Chỉ cần biết được chính mình, mình là ai và đang làm gì? Chỉ cần đừng chấp chặt vào cái thân huyễn giả nầy, vì biết rằng cùng lắm thân nầy chỉ có mặt trong cõi Ta Bà tám chín chục năm, hoặc một trăm năm, rồi cũng trở về với cát bụi. Người con Phật chơn thuần  phải nhận rõ điều nầy: tất cả rồi sẽ trở thành cát bụi, còn có chăng là chút tâm thức nầy. Biết được như vậy để từng bước chân ta đi là từng bước đi của giác ngộ, từng ý nghĩ của tâm thức là ý nghĩ của giác ngộ, từng việc làm nơi thân là việc làm giác ngộ. Biết được như vậy để dù cho từng sát na trôi qua, cho dù thân xác nầy có tiến gần đến nhà mồ, nhưng tâm thức nầy luôn tiến gần đến giác ngộ và chơn lý.

Người con Phật chơn thuần phải luôn tự hỏi lòng mình xem coi mình có từng sát na đang đi trên đường giác ngộ, hay vẫn sống theo thường tình thế tục với chất ngất những tư kiến của riêng mình? Đồng ý người say không bao giờ chấp nhận mình đang say. Cũng như vậy, không ai trong chúng ta lại chịu nhận rằng mình ngu si, mê muội bao giờ. Ngược lại, ai cũng tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, mình giỏi, mình hay, mình thông minh, mình sang cả phú quí. Tuy nhiên, những người con Phật hãy lắng nghe lời khẳng định của Phật: “Chúng sanh vì bởi vô minh mà lăn trôi trong tam đồ lục đạo.” Vậy có ai trong chúng ta dám ngẩng đầu lên nhìn Phật mà nói rằng “bạch Phật, dầu con là chúng sanh trong ba nẻo sáu đường, nhưng con không bị vô minh khống chế.” Có lẽ không ai trong chúng ta dám bạch Phật như vậy đâu quý vị ơi!  Vậy thì ngay từ bây giờ, ngay những lúc còn linh mẫn, chúng ta phải cố gắng dụng công tu tập sao cho tâm thức nầy không lầm cái giả và không quên cái thật. Cố gắng dụng công tu tập để thấy rằng bấy lâu nay vì lầm cái giả mà chúng ta tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng  vì lầm cái giả ma ta cho thân nầy là thật, là cao quí, rồi từ đó ra công bồi đắp nó bằng mọi cách. Cũng như vậy, bấy lâu nay vì quên cái thật mà chúng ta đánh mất chơn tâm Phật tánh của mình. Người con Phật chơn thuần phải cố gắng ghi nhớ cho được  cái thật mà Phật Tổ đã trao truyền, vì nhờ  cái thật đó mà chúng ta sẽ thấy đúng,  suy nghĩ đúng, nói đúng, nhận định đúng, hành động đúng, làm ăn chơn chánh. Phải làm được những điều nầy ngay nơi thân nầy, tâm nầy chúng ta mới có khả năng lìa mê xa khổ. Làm được như vậy dù chưa minh tâm kiến tánh đi nữa, thì cuộc sống nầy cũng đã tỉnh thức, an lạc và hạnh phúc; cuộc tu nầy cũng đã an nhiên và tự tại lắm rồi vậy. Mong lắm thay!!!

498. SỰ THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Chúng sanh đã lăn trôi từ vô lượng kiếp, nghiệp chướng ê chề, thế mà đa phần chúng ta nào biết kinh vì, đã chẳng lo ăn năn tu tập mà còn ngày đêm bươi móc và phỉ báng lỗi người, trong khi lỗi mình chất chồng mình vẫn tỉnh bơ. Đã thế, còn ngày đêm dong ruổi hướng ngoại cầu hình, nhàn đàm hý luận. Tự mình tu thân tề gia chưa xong, mà hễ nơi nào có trà có rượu, có nhàn đàm hý luận là có mình. Kỳ thật, ngày qua tháng lại, chúng ta chỉ quanh quẩn bên những vấn đề cũ rích như con người từ đâu tới? Con người rồi sẽ đi về đâu? Đời sống con người có nghĩa lý gì? Vân vân và vân vân. Nếu chúng ta là những người con Phật chơn thuần chúng ta sẽ không hỏi như thế, vì chúng ta phải dư biết lời Phật dạy: “Con người đến vì nghiệp lực, mà ra đi cũng vì nghiệp lực.” Như vậy người con Phật chơn thuần sẽ không phí thêm thời giờ vào những cuộc nhàn đàm hý luận nữa, mà phải sống làm sao cho có ý nghĩa, sống làm sao cho mình được hạnh phúc và những người quanh mình cũng được hạnh phúc, sống thế nào mà từng bước chân đi qua là từng bước giẫm đạp và vượt qua những khổ đau phiền não để đi về nẻo Bồ Đề. Người con Phật chơn thuần phải đi thẳng vào lòng Ta Bà uế trược, nhưng không bị Ta Bà uế trược làm ô nhiễm hay tha hóa. Con người ấy sống trong thế giới văn minh vật chất đảo điên, nhưng tự mình không điên đảo; sống trong tranh chấp hận thù và bạo lực, nhưng mình không bạo lực hận thù hay tranh chấp. Người con Phật chơn thuần đi thẳng vào những hoàn cảnh trớ trêu nhất trên đời và chỉ xem chúng như những thách đố giúp mình hướng thượng, thế là mình đã thành công. Trong cuộc sống hằng ngày làm sao cho lục căn không vướng mắc lục trần để cho lục thức tiếp tục dong ruổi, ấy là thành công. Trong cuộc sống khó khăn vật chất và đầy bon chen hôm nay mà chúng ta sống không bon chen, sống bằng tình thương đối với mọi người, thương mình thương người, ấy là thành công. Trong cuộc sống đầy hận thù tranh chấp mà chúng ta sống không hận thù tranh chấp, ấy là chúng ta thành công y như lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú.

Thật tình mà nói, muốn vừa làm một người con Phật, vừa xông thẳng vào đời mà không bị tha hóa quả là khó khăn vô cùng trong xã hội vật chất hôm nay, nơi mà sự thành công được tính bằng tiền. Trong xã hội hôm nay, mọi thứ đều được tính bằng tiền, nên thời giờ cũng cũng không chạy ra ngoài cây thước đo bằng tiền nầy. Cha mẹ thì bù đầu vào công việc làm ăn nên quên mất cả bổn phận dạy dỗ con cái, vì thế mà con cái phải chịu sự dạy dỗ của đám trẻ hàng xóm, hoặc của đám băng đảng đầu đường xó chợ. Chính vì không được dạy dỗ những truyền thống gia đình cao đẹp, nên khi cha mẹ bước vào tuổi lão niên, con cái sẵn sàng mang các người vào viện dưỡng lão không một chút phân vân hay thương tiếc. Người con Phật chơn thuần, nên vô cùng cẩn trọng trong đạo làm người với đầy đủ nghĩa tình nhân ái. Chúng ta phải tự chọn lấy cho chính mình một hướng đi, hoặc là bị cuốn xoáy vào xã hội, hoặc quay trở về sống trong cái nôi của con Hồng cháu Lạc mà vẫn không bị nghiền nát bởi xã hội nầy.

Đồng ý chúng ta sanh ra trên đời nầy, không ai có thể sống đơn độc một mình như thời thượng cổ. Chúng ta phải sống với tha nhân. Theo Phật, không phải ngẫu nhiên mà chúng ta gặp gỡ, bất cứ sự gặp gỡ nào cũng có nguyên nhân của nó. Chúng ta được sinh ra làm con trai hay con gái, trong gia đình giàu hay nghèo, sang hay hèn, đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần đều do bởi những nghiệp lực mà chúng ta đã tạo ra trong những đời quá khứ. Trong hiện đời, cũng do bởi duyên nghiệp và hoàn cảnh hiện tại, chúng ta lại dong ruổi tạo thêm nghiệp chướng cho kiếp lai sanh. Sự thành công của người con Phật không như sự thành công của thường tình thế tục, không được đo đếm bằng tiền của, vật chất, sản nghiệp, hay quyền uy địa vị. Ngược lại, sự thành công của người con Phật chơn thuần là một cuộc sống hướng thượng, tự cởi trói cho mình để tháo bỏ những chướng nghiệp tiền khiên và không tạo thêm chướng nghiệp hiện đời. Dẫu biết rằng cuộc sống hằng ngày sẽ không xuôi chèo mát máy, người con Phật chơn thuần luôn cố tránh gây ra những xích mích, hiểu lầm, đố kỵ và ganh ghét hận thù bằng cách lấy lòng “từ bi” làm nền tảng cho mọi tương quan giữa người và người. Người con Phật không bao giờ khinh chê, chà đạp, mục thị người khác. Sự thành công của người con Phật là chối bỏ được cuộc sống bỏn sẻn, ích kỷ, nhỏ nhen, thiển cận, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Sự thành công của người con Phật là sống một cuộc sống an lạc, tỉnh thức, là tạo ra hạnh phúc cho mình và cho người. Người con Phật thành công là người dám can đảm chối bỏ cái “ta” đáng ghét để hòa mình với tha nhân, thiên nhiên và vũ trụ. Con người ấy vẫn sống cho mình nhưng lúc nào cũng muốn trao ban và chia sẻ tình thương cho người. Con người ấy luôn nhẫn, nhẫn, nhẫn; nhẫn những cái đáng nhẫn và nhẫn cả những cái không đáng nhẫn, vì con người ấy luôn ý thức rằng trên đời nầy không có cái gì là không đáng nhẫn cả. Con người ấy luôn thấy khuyết điểm của mình, chứ không thấy khuyết điểm của người. Con người ấy vẫn đi thẳng vào đời, vẫn mưu sinh, vẫn tạo ra của cải vật chất cho mình và cho gia đình mình, nhưng không bao giờ vì tiền mà sát phạt một ai, cũng không bao chiếm đoạt hay tích lũy tài sản, không bao giờ vọng cầu quyền uy danh vọng. Sự thành công của người con Phật là cuộc sống trong chánh niệm và luôn ban rải cho tha nhân một nụ cười nhân ái. Con người ấy luôn đối xử với tha nhân bằng tình thân ái, và lòng quảng đại bao dung. Con người ấy luôn yêu thương tha nhân, luôn công bình, bác ái, luôn từ bi hỷ xả với tất cả mọi người. Vì biển pháp mênh mông khó hiểu nên đã gần hai mươi sáu thế kỷ qua mà chúng ta vẫn còn hiểu lầm về những lời dạy của Đức Phật về sự thành công của người con Phật, hay nói đúng hơn vì tầm hiểu biết của chúng ta quá hạn hẹp nên sự hiểu biết về giáo pháp chỉ thu hẹp lại vào sự tu hành trong tự viện của một vài cá nhân, chứ chúng ta không thấy được rằng Đức Phật muốn nhìn thấy sự thành công của cả xuất gia lẫn tại gia. Người con Phật nên luôn nhớ rằng sự thành công của người con Phật không chỉ hạn hẹp trong khuôn viên các tự viện, tịnh xá hay thiền viện, mà nó trải rộng khắp nơi nơi. Sự thành công của người con Phật là sự tu tập hành trì sao cho đạt được cái “trí” có khả năng phá bỏ sự u mê ám muội từ vô thỉ, là kết quả của sự vận dụng những tinh lực tuyệt đối trong sạch vào sự hiểu biết, là đi đến bước cuối cùng của Bát Thánh Đạo. Sự thành công của người con Phật còn là sự thấu triệt về thế gian vô thường, cõi nước mong manh, tứ đại khổ không, ngũ uẩn vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối và không có chủ thể, tâm là nguồn cội của việc ác, thân là rừng nghiệp tội. Người con Phật thành công là người đã thấy rõ ham muốn nhiều là khổ nhiều, bao sanh tử nhọc nhằn đều từ nơi tham dục mà ra, nên con người ấy luôn thiểu dục tri túc để thân tâm luôn được tự tại. Người con Phật thành công là người luôn tinh tấn tu hành để chế phục phiền não trong cuộc sống hằng ngày. Con người ấy luôn học rộng nghe nhiều, không phải để tích tụ kiến thức cho nhàn đàm hý luận mà để tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài từ đó đem những gì mình hiểu biết ra chia xẻ với mọi người. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người ấy cũng như như bất động chứ không trách trời oán người để kết thêm  chướng duyên. Con người ấy luôn bố thí một cách bình đẳng, không phân biệt thân sơ bạn thù. Con người ấy chỉ nhớ lỗi mình để hướng thượng chứ không nhớ lỗi người để câu móc. Con người ấy luôn thương xót mọi người chứ không thương người hiền mà ghét bỏ người ác. Tuy là người thế tục nhưng con người ấy luôn thấy rõ ngũ dục là tai họa nên không nhiễm dục lạc, luôn thanh bần lạc đạo ngay trong cuộc sống hằng ngày, luôn từ bi hỷ xả với chúng sanh mọi loài. Dù còn trong cuộc sống trần tục nhưng luôn thấy sanh tử đang thiêu đốt thân tâm và khổ não vô lượng vô biên nên luôn phát tâm tự lợi lợi tha, tự giác giác tha khiến cho ai nấy đều được an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc.

Người con Phật thành công là con người luôn sống trong tỉnh thức, luôn biết và luôn nhớ rằng tiền bạc của cải có thể qua đi, danh vọng quyền uy có thể mai một, nhan sắc có thể tàn phai, nhưng đức “từ bi hỷ xả” sẽ còn và còn mãi. Thân nầy có thể già, mắt có thể mờ, răng long, gối mỏi, da nhăn, má hóp, và tay chân gầy còm, nhưng những đường nét “từ bi hỷ xả” vẫn luôn rạng ngời và bất tử. Hãy quay lại đối diện với chính mình hỡi những người con Phật! Hãy trút bỏ mọi ràng buộc phi lý và vô nghĩa trong cuộc sống để sống với chơn tâm thật tánh tự thuở giờ mình vẫn có. Hãy cố cởi trói cho mình thoát khỏi gông cùm của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến để được sống trong an lạc và tự tại. Sự thành công của người con Phật là sống như vậy, tu như vậy để làm một cuộc hành trình trở về quê hương vạn đại mà mình đã một lần dại dột xa rời.

499. NHỮNG LỜI DI GIÁO CUỐI CÙNG TRƯỚC KHI PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Trong suốt 49 năm hoằng hóa, Đức Phật đã chu du đây đó và Ngài đã hết lòng tế độ những người hữu duyên có thể độ được, ngay cả những người cùng hung cực ác như Angulimala. Vì thương xót chúng sanh ngập chìm trong khổ đau phiền não mà Đức Từ Phụ đã không ngừng nghỉ rảo bước cùng nơi khắp chốn hóa độ. Ngài đã liên tục hoạt động đến những hơi thở cuối cùng mà Ngài vẫn không ngừng thuyết giảng răn dạy tứ chúng. Trong ba tháng cuối đời, dù thân tứ đại sắp tan hoại, nhưng tâm thức Ngài vẫn linh mẫn và chính trong ba tháng ấy, những lời di giáo cuối cùng đã được Ngài gói trọn trong Bộ Kinh mà hiện tại tứ chúng , nhứt là những vị xuất gia thoát trần, luôn trân trọng như viên ngọc trân châu cực quý cho cuộc đời tu hành của tự thân.          Vì biết trước ngày nhập diệt, nên trên đường từ thành Vương Xá đến Nalanda, rồi vượt qua sông Hằng đến Beluva, Bhoganagara và cuối cùng là Kusinara, Đức Phật đã không quản ngại đường sa xa xôi cũng như sức khỏe yếu kém, trong 90 ngày cuối đời, Ngài đã không ngừng nhắn nhủ tứ chúng mọi điều từ cách đối trị  tà nghiệp, lợi ích và công đức  trì giới, đối trị phiền não, thiểu dục tri túc, đến khuyên nhủ tứ chúng tu hành thiền  định. Trong thời Đức Phật còn tại thế, chính Ngài đã từng khẳng định với tứ chúng rằng thật ra đạo Phật là một lối sống tu giải thoát hơn là một tôn giáo. Ngài đã khẳng quyết đạo nầy không bao giờ có chỗ đứng cho những ai thờ phụng một cách u mê ám muội. Với đạo Phật, con đường đi đến tuyệt đỉnh cao thượng là con đường của tự thân tự tâm, là con đường hướng nội. Chính vì thế mà trước khi nhập diệt, Đức Phật đã gọi Ananda đến bên mình và truyền trao những lời di giáo cuối cùng: “Này Ananda, hãy tự mình đốt đuốc lên mà đi, hãy tự mình làm hải đăng, làm sao Bắc Đẩu, hãy tự mình nương tựa nơi chính mình, chớ nương tựa vào bất cứ thứ gì khác. Hãy mồi lấy ngọn đèn chánh pháp, dùng chánh pháp làm kim chỉ nam. Hãy tinh tấn nhiếp phục mọi tham ái, dục lạc, cũng như những mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng trên đời. Đối với thân tâm và vạn pháp phải luôn thấy rằng mọi thứ đều vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát.” Ôi còn vị đạo sư nào cao cả hơn Đức Từ Phụ? Trong những giây phút cuối đời mà Ngài còn bi mẫn vét hết những gì cô đọng của đạo nầy để trao lại cho tứ chúng. Người con Phật hậu bối chúng ta nếu không tự mình tinh tấn làm theo những lời Phật dạy sẽ cảm thấy tủi hổ vô cùng. Đức Phật đã dạy tứ chúng bằng những gương hạnh lành qua cuộc sống cuộc tu của chính Ngài. Ngài đã khẳng định bằng thực nghiệm ngay chính tự thân rằng dù tất cả mọi hiện tượng đều vô thường, thân nầy một khi đã được sanh ra là phải già, phải hoại diệt; ngay cả thế giới mà chúng ta đang sống rồi cũng có hồi hoại không. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết sống biết tu thì khi đi sâu vào thế giới vô thường sinh diệt, chúng ta có thể tiếp xúc với thế giới  hằng hữu bất sanh bất diệt, thế giới thể tánh của chư Như Lai. Thật vậy, nếu chúng ta chịu lắng lòng suy gẫm và hành trì chỉ những lời di giáo cuối cùng của Phật thì chìa khóa mở cửa Đại Giác để đi từ thế giới hiện tượng qua thế giới của pháp tánh nằm ngay trong những giây phút sống tu hiện tại của chính mình. Mặc dù Đức Phật bảo rằng những điều Ngài nói còn thua nắm lá trên tay, trong khi những điều Ngài liễu ngộ ví như hằng sa lá cây trên rừng, nhưng tam tạng kinh điển được truyền lại hôm nay cũng đủ ngộp cho những ai muốn đem thế trí biện thông của mình ra để nhàn đàm hý luận. Liễu nghĩa, bất liễu nghĩa, y kinh, bất y kinh, y ngữ, bất y ngữ, y nghĩa, bất y nghĩa, y nhơn, bất y nhơn, y trí, bất y trí, y thức, bất y

thức không bằng lấy một giờ một ngày hằng sống với những lời Phật dạy. Hãy cố hằng sống hằng tu với những lời Phật dạy rồi sẽ thấy ngay do đâu mà có tà nghiệp, não phiền cũng như lợi ích và công đức của trì giới từ đó chúng ta mới có can đảm thiểu dục tri túc để thong dong đi vào thế giới Hoa Nghiêm của chư Phật.          Tuy Phật dạy nhiều lắm trong những lời di giáo cuối cùng của Ngài, song chúng ta có thể tóm về một mối lớn nơi lợi ích và công đức trì giới. Trong phần nhắc nhở tứ chúng về cách đối trị tà nghiệp, khổ vọng và não phiền, Đức Từ Phụ đã nhắn nhủ với chúng tỳ kheo rằng: “Tỳ kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt, các ông muốn tu hành đối trị tà nghiệp, khổ vọng và não phiền, nhứt thiết phải tôn trọng quý kính Ba La Đề Mộc Xoa (giới luật) như đêm tối gặp ánh sáng, như người nghèo gặp của báu. Phải biết lấy giới luật làm Thầy của các ông. Chính nhờ an trụ trong pháp nầy mà các ông có thể kềm chế ngũ căn  không cho chúng buông lung theo ngũ dục. Cũng chính nhờ Pháp nầy mà mấy ông biết kềm chế tâm vào một chỗ chớ không buông thả cho nó phóng túng làm mất việc lành của mình và của người. Cũng chính nhờ pháp nầy mà mấy ông không buông thả cho lòng sân ngăn mất chánh đạo hay đốt mất công đức tu luyện ngàn đời của tự thân. Mấy ông hãy tự vò đầu mà suy gẫm lại xem! Phải chăng chính pháp nầy đã đưa đường dẫn lối cho mấy ông vượt thoát sự khống chế của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng nhờ đó mà mấy ông biết thế nào là thiểu dục tri túc, cũng nhờ đó mà tâm của mấy ông có cơ định tĩnh để thấy tánh thành Phật. Trước giờ ta nhập diệt, điều tối thượng cuối cùng mà ta muốn nhắn nhủ với mấy ông là phải luôn biết lấy Ba La Đề Mộc Xoa làm thầy, dù ta có trụ ở đời cũng không khác pháp nầy vậy.”

Bài pháp ngắn gọn nầy của Phật đã trở thành Bộ Kinh Di Giáo, một gia tài Pháp Bảo quí báu nhất trong kho tàng Pháp Bảo nhà Phật. Thật vậy! Giới luật là tối thượng trong đạo Phật. Những ai chủ trương tu thiền mà phá giới thì chắc chắn sẽ không bao giờ thấy tánh thành Phật; ngược lại, kẻ đó chỉ thấy địa ngục môn và thành địa ngục chúng sanh, không thể nghĩ bàn. Nếu suy rộng bài pháp di giáo của Phật, chúng ta sẽ thấy ngay những lợi ích và công đức trì giới ngay trong cuộc sống cuộc tu hằng ngày. Nhờ trì giới mà chúng ta không tà tâm loạn tưởng chạy theo tà sư ác hữu với chập chùng những mê tín dị đoan, xâm quẻ, bói toán, đồng bóng, bùa chú, thư tôm, trù ếm. Đức Phật nói rõ người xuất gia chẳng được coi tướng kiết hung, điều chế thuốc thang, trông xem tinh tú, tìm tòi thạnh suy, coi ngày đoán số, chẳng được mua bán đổi chác, chẳng được tạo ruộng cất nhà, chẳng được nuôi người mướn tớ, chẳng được chăn nuôi gia súc; chẳng được trồng trọt, đốn chặt cây cỏ, đào xới đất đai; phải xa lìa các thứ của báu như tránh xa hầm lửa, không được tham dự việc đời, không được đi sứ, thông tin, không được luyện thư tôm bùa chú, nấu tiên dược, không được giao hảo với người quyền quí. Phải luôn giữ tâm chánh niệm mong cầu giải thoát, chẳng được che dấu tội lỗi, khoe bày dị tướng, dối gạt mọi người, phải biết lượng vừa đủ với bốn món cúng dường (ăn, mặc, ở, bệnh) chứ không nên cất chứa. Nhờ giữ giới mà ta biết tiết chế nơi thân, biết ăn uống đúng giờ, biết tu niệm đúng khắc, biết ngủ nghỉ đúng giấc. Nhờ trì giới mà chúng ta biết phát lồ sám hối tội lỗi chứ không che dấu, biết giữ tâm chánh niệm, biết hành chánh đạo, biết thiểu dục tri túc. Ai biết tôn trọng giới luật, kẻ đó biết tôn trọng Như Lai, kẻ đó không bao giờ sanh tâm điên đảo vọng tưởng với chư pháp. Sở dĩ Đức Phật dạy chúng đệ tử phải tôn trọng giới luật là vì chính nhờ giới luật mà Ngài đạt được Đại Niết Bàn, vì thế mà Ngài muốn chúng đệ tử của Ngài phải hỏi cho kỹ về giới luật trước khi Ngài nhập diệt. Ngài dạy: “Sau khi ta nhập diệt, các ông phải tôn trọng giới luật và y đó hành trì sẽ được giải thoát. Tôn trọng giới luật chính là tôn trọng ta. Ta còn ở đời lãnh đạo các ông, sau khi ta nhập diệt người lãnh đạo các ông chính là giới luật, có giới luật chẳng khác nào đi trong đêm tối mà gặp được ngọn đèn sáng, quyết không bao giờ bị lạc đường. Các ông đã có giới luật phải nên vui mừng như được của báu. Phải biết rằng ‘giới luật là vị đạo sư sau nầy của các ông cũng như ta còn ở đời  không khác vậy.” Ngoài ra, ai biết lấy giới luật làm đạo sư trong cuộc sống cuộc tu, kẻ đó luôn có đủ khả năng định tĩnh và trí huệ để phá trừ ác nghiệp, từ đó luôn làm các việc lành, kẻ đó không bao giờ bị lầm đường lạc lối trên nẻo về đất Phật. Giới luật chính là nguyên lai của mọi công đức lành, là nơi an trụ yên ổn nhất cho mọi người. Từ giới sanh định và từ định mà phát huệ là tiến trình tất nhiên không thể nghĩ bàn của mọi người tu Phật. Chính nhờ giới luật làm rào cản mà chúng ta mới có khả năng ngăn chận không cho ngũ dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tự do giao duyên kết bè với ngũ căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) để đêm ngày khống chế và tiếp tục xô đẩy chúng ta vào bao nhiêu trạng huống tai hại thống khổ của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng để rồi cuối cùng thân tâm nầy tiếp tục trầm luân trong luân hồi sanh tử. Chính nhờ giới luật mà chúng ta không cho tâm nầy buông lung phóng dật; ngược lại luôn siêng năng tinh tấn điều phục cả thân lẫn tâm bằng cách khiến thân tâm trụ lại một chỗ, không cho chúng điên đảo vọng tưởng, không cho chúng chạy theo ngũ trần làm hại các công đức. Cũng chính nhờ giới luật mà chúng ta biết hổ thẹn, không làm những việc xằng bậy vì chính Đức Phật đã dạy: “Một con người có đầy đủ tình cảm và lý trí mà không biết kềm chế, để cho tình cảm hay bản tánh tự nhiên khống chế lý trí làm điều xằng bậy, không biết hổ thẹn thì con người ấy cùng với loài cầm thú không khác chút nào vậy.” Thật vậy, chính nhờ biết hổ thẹn mà khi làm việc gì chẳng bằng người, chúng ta mới cố gắng cải thiện; khi làm việc xấu xa đê tiện chúng ta mới biết xấu hổ chừa bỏ không dám tái phạm. Đối với người tu mà biết lấy giới luật làm thầy, người ấy luôn coi Pháp thân là huệ mạng trong đời tu tập. Dù không bỏ bê thân xác phàm phu, cũng không trau tria mà chỉ xem nó như là phương tiện tiến tu. Chính nhờ vậy mà con người ấy luôn trực tâm trực tánh chớ không dua nịnh vì những quyền lợi nhỏ nhen của phàm tình thế tục. Cũng chính nhờ thế mà con người ấy không ngã mạn  cống cao, không mục hạ vô nhân, không khinh người thấp kém, không ganh ghét với những người hơn mình. Thật vậy, trong những lời di giáo cuối cùng, Đức Phật đã nói rõ về bảy thứ ngã mạn cống cao và sự tai hại của chúng: Lúc nào cũng tự cho mình là hơn người, cho mình hơn những người thấp kém hơn mình, những người bằng mình, những người hơn mình, vân vân. Lại nữa, đối với mình và những gì mình đang có mà sanh tâm khinh thị mọi người; hoặc giả thấy người vượt trội hơn mình mà sanh tâm oán ghét tự cao tự đại; hoặc giả vin vào những thành công tạm bợ của thường tình thế tục mà sanh tâm kiêu mạn. Phật dạy ngay cả hàng bạch y tại gia cũng phải luôn nghĩ rằng vạn pháp vô thường, chứ có cái gì hơn cái gì đâu để mà sanh tâm kiêu mạn? Huống là hàng xuất gia thoát trần đã cạo tóc nhuộm áo, mặc áo hoại sắc, mang bình khất thực mà còn sanh tâm kiêu mạn là chuyện không tưởng. Bởi thế Phật đã ân cần nhắn nhủ rằng: “Tỳ kheo các ông! Phải biết người đời đa dục vì cầu lợi nhiều nên khổ não cũng nhiều. Chỉ có cách không mong cầu ham muốn là không khổ não.” Người xuất gia thoát trần có thể không ham muốn mong cầu, nhưng người tại gia mà làm được chuyện nầy quả là thiên nan vạn nan. Thế nên Phật mới khuyên hàng bạch y tại gia rằng: “Dù hãy còn xông thẳng vào đời để mưu cầu sự sống, nhưng ai cấm các con thiểu dục tri túc? Các con phải luôn lấy pháp thiểu dục tri túc làm người dẫn lộ trên bước hành trình về quê hương Phật, vì pháp nầy là chỗ vui vẻ và an ổn nhất cho mọi người. Người biết thiểu dục tri túc, tuy nằm dưới đất hay ăn cơm hẩm uống nước lã cũng thấy an vui. Ngược lại, kẻ không biết thiểu dục tri túc, dù ở thiên đường cũng không xứng ý.”  Riêng với người xuất gia, Ngài khuyên như sau: “Tỳ kheo các ông! Phải biết người đa dục vì cầu lợi nên khổ não cũng nhiều; người thiểu dục, không mong cầu, không ham muốn nên không khổ não. Tỳ kheo các ông! Nếu muốn khỏi các khổ não, phải quán tri túc, vì pháp tri túc tức là chỗ giàu có, vui vẻ và an ổn. Người tri túc tuy nằm dưới đất cũng được an vui; người không tri túc dầu ở thiên đường cũng không xứng ý. Người không tri túc tuy giàu mà vẫn cảm thấy nghèo; người biết tri túc tuy nghèo mà giàu. Người không tri túc thường bị ngũ dục sai khiến.” Chính vì thế mà công đức thiểu dục tri túc được xếp là hai công đức hàng đầu trong tám công đức của bậc Thánh nhân xuất thế (thiểu dục, tri túc, xả bỏ, siêng năng, không quên chánh niệm, thiền định, trí tuệ và không hý luận). Thật vậy, chính nhờ thiểu dục tri túc mà mọi công đức lành đều được sanh ra. Lòng tham của chúng sanh, nhứt là con người, là vô cùng vô tận. Nếu chúng ta không biết thiểu dục tri túc thì sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nào để cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta được yên? Thiểu dục và tri túc phải song hành với nhau như hình với bóng. Chúng ta không thể nào nói thiểu dục mà không tri túc, hoặc tu tập tri túc mà không kềm bớt dục vọng. Có thiểu dục tri túc chúng ta mới không ưu bi tự tận trong lúc thất thời hoạn nạn, cũng như không nghinh nghinh tự đắc trong hồi đắc thế. Ngay nơi hạnh thiểu dục bình thường còn phải tu tập huống là thiểu dục để sanh ra các công đức. Người thiểu dục thì không dua nịnh để làm vừa ý người khác, người ấy cũng không bị các căn dẫn dắt. Người tu hạnh thiểu dục tâm luôn thanh thản chứ không lo âu sợ hãi vì sự thiếu thốn vì lúc nào con người ấy cũng cảm thấy đủ. Rồi Đức Phật dạy tiếp: “Về công đức xả bỏ, Tỳ kheo các ông, muốn cầu quả vị tịch tịnh vô vi an lạc, phải xa lìa chỗ ồn náo mà riêng ở nơi vắng vẻ. Người ở nơi vắng vẻ được chư Thiên kính trọng. Thế nên người tu phải bỏ bà con bầu bạn mà một mình ở chốn rảnh rang, lo tu để diệt trừ gốc khổ. Nếu thích ở chỗ đông người sẽ bị các sự phiền nhiễu. Thí như cây lớn phải bị lũ chim lót ổ, sẽ có mối lo khổ não, còn dính líu với thế gian tất bị chìm trong các khổ, thí như voi yếu mắc lầy, không thể tự ra được. Ấy là công đức xả bỏ.” Thật vậy, nếu đủ duyên xuất trần tu hành giải thoát thì nên xả bỏ mọi việc thế gian, chùa to nhà lớn chẳng những không giúp ích gì cho việc tu hành mà có khi nó còn góp phần đưa chúng ta đi nhanh về địa ngục hay tiếp tục lăn trôi trong tam đồ ác đạo nữa là khác. Nếu chưa đủ duyên xuất trần tu hành giải thoát, nếu cần cũng phải buông bỏ càng nhiều càng tốt vì càng ôm giữ tâm ta càng loạn động. Người tại gia, nếu chưa đóng cửa ẩn mình hay chưa tránh xa được chỗ đông người thì chỉ nên mở cửa khi cần hay chỉ đến chỗ đông người khi chẳng đặng đừng vì công ăn việc làm. Trong thời pháp “xả bỏ” Đức Thế Tôn đã dạy: “Tịnh tu nơi chỗ vắng vẻ an nhàn không có nghĩa là trây lười biếng nhác mà chỉ vì không muốn bị nhiều người quấy nhiễu trong việc tu hành thế thôi.” Người tại gia hãy còn xông thẳng vào đời để mưu sinh và hộ trì Tam Bảo nên Đức Phật dạy: “Bạch y các con phải luôn lấy chánh mạng và chánh nghiệp làm kim chỉ nam trong cuộc mưu sinh.” Nếu tinh tấn siêng năng tu hành thì sự định tĩnh ắt phải có, từ đó nhơn định mà sanh huệ là chuyện không thể nghĩ bàn. Ví bằng cứ chán nản trây lười, thì dù việc nhỏ thế mấy cũng không thể nào thành tựu được. Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy: “Tỳ kheo các ông! Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì là khó, thế nên các ông phải chuyên cần tinh tấn. Thí như giọt nước chảy luôn có thể xoi thủng phiến đá. Nếu như tâm của hành giả thường thường biếng nhác bỏ bê chẳng khác nào kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng mà ngưng, tuy muốn được lửa, lửa cũng khó được. Ấy là công đức siêng năng.” Ngoài ra, trong Kinh Di Giáo, Đức Phật còn dạy về sự không quên chánh niệm như sau: “Tỳ kheo các ông! Cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trợ, không bằng không quên chánh niệm. Nếu có người không quên chánh niệm, các giặc phiền não sẽ không vào được. Thế nên các ông thường phải nhiếp niệm tại tâm, nếu để mất niệm sẽ mất hết các công đức. Nếu niệm lực được vững chắc, tuy vào trong giặc ngũ dục cũng không bị chúng làm hại. Thí như mặc giáp vào trận thì không còn phải lo sợ điều gì. Ấy là công đức không quên chánh niệm.”

Qua những lời dạy của Thế Tôn trong những thời pháp trước khi Ngài nhập diệt, chúng ta thấy rằng tu hành tự thân là tối quan trọng, giáo pháp là kim chỉ nam, giới luật là đạo sư giúp chúng ta giữ chánh niệm cũng như dẫn dắt chúng ta về với chánh đạo. Người tu Phật không thể một phút một giây buông thả xa rời chánh niệm. Trên bước đường nầy nếu ta một phút buông lung không giữ giới là mất ngay chánh niệm. Một khi mất chánh niệm là tà niệm lập tức chen vào. Vì chánh niệm có thể đưa ta đi lên giải thoát và tà niệm có thể đẩy ta tiếp tục lăn trôi nên Đức Từ Phụ đã đặt nó lên trên thiện tri thức và thiện hộ trợ. Thật vậy, chúng ta có thể cầu thiện  tri thức hay thiện hộ trợ giúp đỡ cách thức tu hành, chứ thiện tri thức không thể nào giúp ta trong việc giữ gìn chánh niệm được. Cũng chính vì thế mà Nhị Tổ Huệ Khả đã dạy: “Ta điều phục được tự tâm thì đâu có can gì đến việc của kẻ khác.” Và cũng chính vì thế mà Đức Phật đã dạy: “Kẻ giữ gìn được chánh niệm chẳng khác nào mặc áo giáp ra trận, vì nhờ có giáp sắt che chở cho nên không còn sợ bị giặc dữ làm hại.” Trong cuộc sống hằng ngày, tâm của chúng ta không cách chi là không bị tán loạn, do bởi tâm tán loạn nầy mà chúng ta dong ruổi trong lục trần ngũ dục để chịu các nỗi khổ đau phiền não. Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy: “Tỳ kheo các ông! Nếu người nhiếp tâm thì tâm ở trong thiền định, vì tâm ở trong thiền định, nên có thể biết được pháp tướng sanh diệt trong thế gian. Thế nên các ông phải thường tinh tấn tu các thiền định, nếu được định rồi thì tâm không còn tán động. Thí như người giữ nước, khéo giữ đê điều. Cũng thế, hành giả vì nước trí huệ khéo tu thiền định khiến cho không bị chảy mất. Ấy là công đức thiền định.” Thật vậy, nếu không tu tập thiền định thì tâm viên ý mã nầy chắc chắn sẽ không để yên cho chúng ta thì làm sao mà trí huệ có thể phát sanh để cho chúng ta thấy được bộ mặt thật của vạn pháp mà phát tâm giải thoát? Thiền định và trí huệ là hai công đức gắng liền nhau trong tiến trình tu tập của các hành giả tu theo Phật, vì vậy mà trong Kinh Di Giáo, ngay sau nhắn nhủ về thiền định, Đức Phật đã liền dạy về trí huệ như sau: “Tỳ kheo các ông! Nếu người có trí huệ thì không có tham trước, thường tự tỉnh sát không để sanh ra tội lỗi. Thế là ở trong pháp của ta có thể được sự giải thoát. Nếu chẳng vậy, đã chẳng phải là bậc Đạo nhơn, lại cũng chẳng phải là kẻ bạch y, không biết gọi là gì! Người có trí huệ chân thật, ấy là chiếc thuyền chắc vượt qua biển ‘lão bệnh tử,’ cũng là ngọn đèn sáng chiếu phá cảnh tối tăm mờ ám, là món thuốc hay trị tất cả các chứng bệnh, là lưỡi búa chặt đứt cây nghiệp phiền não. Thế nên các ông phải dùng huệ ‘văn tư tu’ mà tự làm cho thêm phần lợi ích. Nếu người có trí huệ chiếu soi, dù cho nhục nhãn cũng là người thấy được rõ ràng. Ấy là công đức trí huệ.” Thật vậy, ngay cả phàm trí mà còn có thể giúp ta tránh được những chướng ngại cũng như tránh được những điều xấu ác, huống là trí huệ sanh ra từ việc tu tập thiền định. Người có trí huệ thiền định thường biết suy xét kỹ càng, thường tỉnh thức chứ không để cho sự việc xảy ra hằng ngày lôi kéo mình tiếp tục đi vào con đường gây tội tạo nghiệp. Chính vì vậy mà Đức Phật đã nhiều lần nhấn mạnh rằng trí huệ là chiếc bè quí báu đưa chúng sanh ra khỏi biển sanh tử tử sanh. Trong cuộc tu trì hằng ngày, nhờ có trí huệ mà chúng ta biết ‘văn tư tu’ và biết làm cái gì thiện biết buông bỏ cái gì ác. Nói gì thì nói, trong các kinh điển Phật giáo, Đức Phật luôn nhấn mạnh đến công đức không hý luận vì hý luận chẳng những không giúp gì cho chúng ta trong việc tu hành, mà còn góp phần làm cho tâm chúng ta thêm loạn động và đưa chúng ta đi nhanh về địa ngục. Chính vì thế mà trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy: “Tỳ kheo các ông! Các thứ hý luận làm cho tâm mình rối loạn dù đã xuất gia vẫn chưa được giải thoát. Thế nên tỳ kheo phải mau dứt bỏ loạn tâm hý luận. Nếu các ông muốn được quả vui tịch diệt, duy phải khéo diệt trừ mối hoạn hý luận. Ấy là công đức không hý luận.” Với các bậc xuất gia thanh tịnh mà Đức Phật còn nhắn nhủ như vậy, người tại gia phải tự biết mình vốn dĩ đã loạn động nên phải càng tự nhủ lòng không nên hý luận. Tự tánh của mỗi chúng ta xưa nay vẫn hằng thanh tịnh chỉ vì bị tánh hý luận khuấy nhiễu nên lần lần tự tánh thanh tịnh ấy bị lôi kéo đi trái với bổn tịnh. Tuy nhiên, sự quyết chí tu trì chấm dứt hý luận, dù hãy còn tại gia, vẫn giúp cho chúng ta lần lần tìm về cái “bổn tịnh” sẵn có xưa nay của mình.

Trong thời Phật còn tại thế, lúc ấy khắp vùng xứ Ấn đang lâm cảnh hạn hán, thực vật thật là hiếm hoi. Thấy vậy Phật bèn cho phép Tăng đoàn được phép dùng tịnh nhục, nghĩa là được phép ăn những loại thịt không do chính mình giết, không thấy người giết, không thấy sự đau đớn của con vật khi nó bị giết, cũng như không nghĩ rằng con vật bị giết để cúng dường cho mình. Tuy nhiên, vài năm trước khi Phật nhập diệt, lúc ấy sự tấn tu của Tăng đoàn đã cao, Phật kêu hai chúng xuất gia lại mà khẳng định rằng: “Mấy ông tu hành theo Phật, luôn lấy lòng từ bi mẫn chúng làm đầu. Bấy lâu nay phần mấy ông hãy còn sơ cơ, phần hạn hán không tìm đâu ra thực vật nên ta mới cho phép mấy ông dùng tịnh nhục. Từ đây về sau, ai muốn tu hành giải thoát rốt ráo phải rủ lòng bi mẫn, quyết không ăn bất cứ thứ thịt nào dù là tịnh nhục. Nếu bá tánh không biết vẫn cúng thịt cho mấy ông, mấy ông nên biết khéo chối từ, một vài lần sau, họ biết họ sẽ không cúng thịt nữa. Nếu không làm được như vậy thì bao nhiêu công đức tu hành ngàn đời của mấy ông sẽ trôi dần theo từng sớ thịt mà các ông nuốt vào bụng. Tỳ kheo các ông! Đối với các công đức thường phải nhất tâm bỏ các sự buông lung như tránh bọn giặc cướp. Những điều lợi ích, đức đại bi ta nói ra trước sau đã cạn, các ông phải siêng năng thực hành. Hoặc ở chốn núi non hoặc nơi đầm vắng, hoặc ở dưới gốc cây hay an dưỡng trong tịnh thất, đều phải ghi nhớ giáo pháp đã thọ chớ để quên mất, thường nên tự gắng, tinh tấn tu hành, không để cho chết uổng, sau đến nỗi có sự ăn năn. Ta cũng như vị lương y biết bệnh mách thuốc, uống hay không uống chẳng phải lỗi của y sư, lại cũng như kẻ hướng đạo giỏi chỉ cho người đường tốt, nghe mà chẳng đi thì lỗi chẳng phải tại người chỉ đường. Tỳ kheo các ông, chớ ôm lòng sầu não, dù ta có trụ ở đời lâu đến một kiếp nữa, rốt cuộc rồi cũng phải hoại diệt, hợp mà không tan không thể nào được. Những pháp tự lợi lợi tha ta đều nói đầy đủ, dù ta có trụ lâu ở đời cũng chẳng ích gì. Những người đủ duyên được độ, hoặc ở cõi trời hoặc ở cõi người ta đều độ hết; còn những ai chưa được độ, ta cũng đều đã gây cho nhân duyên được độ, từ đây về sau các đệ tử của ta sẽ lần lượt nối truyền. Thế là Pháp thân của Như Lai thường còn mà không hề nhập diệt. Các ông phải biết cảnh đời vô thường, có hợp có tan, chớ sanh lòng sầu khổ, tướng thế gian là vậy. Phải chuyên cần tinh tấn sớm cầu giải thoát, dùng ánh sáng trí huệ diệt các nghi ám. Cảnh đời hư giả không gì bền chắc, ta nay nhập diệt như trừ được bệnh dữ. Đây là xác nên bỏ, là vật tội ác, giả gọi là thân, nó chìm đắm trong biển ‘sanh lão bệnh tử.’ Có kẻ trí nào trừ diệt được nó như giết được bọn giặc cướp mà chẳng vui mừng? Tỳ kheo các ông thường phải nhất tâm siêng cầu đạo giải thoát. Tất cả thế gian dù cho Pháp động hay Pháp bất động đều là tướng bại hoại không an. Các ông hãy thôi! Không nên nói nữa. Thời giờ muốn hết rồi ta sắp diệt độ. Đây là lời dạy bảo cuối cùng của ta.” Lời dạy của Phật đã quá rõ ràng, không còn gì nữa để mà bàn với luận. Vấn đề ở đây là chúng ta có chịu y giáo phụng hành hay không mà thôi. Nếu ta thực tâm y giáo phụng hành thì chắc chắn thân chúng ta không tham đắm, khẩu không tranh biện và tâm ý sẽ luôn định tĩnh. Làm được như vậy, sự giải thoát sẽ đến ngay trong những giây phút hiện tại nầy. Ví bằng ngược lại, giới đã không giữ mà còn chủ tâm hý luận biện giải thì không chóng cũng chầy, thân rồi sẽ tham đắm, khẩu rồi sẽ vọng ngôn vạy ngữ, tâm ý rồi sẽ điên đảo loạn động. Trong những lời di giáo cuối cùng, Phật đã nhấn mạnh ở hai điểm: trì giới và không hý luận. Ngài đã khẳng định với tứ chúng là công đức trì giới và không hý luận là hai công đức thù thắng nhất trong đời tu tập. Thế mới biết những gì mà Thế Tôn đã tiên đoán 26 thế kỷ về trước đang tuần tự xảy ra ngay bây giờ. Trong xã hội văn minh loạn động hôm nay, quá nhiều người làu thông kinh sách, không phải để nhiếp tâm tu tập, mà là để nhàn đàm hý luận. Ngày xưa, tứ chúng vừa đủ đầy công đức trì giới và không hý luận thì con người hôm nay cũng đủ đầy hai thứ mà là hai thứ ngược lại với những gì Phật dạy: không trì giới mà hý luận. Xã hội hôm nay có những kẻ chưa hề giữ một giới, mà đi đâu  đến đâu cũng tự xưng là Thiền sư Thiền thầy. Quý vị ơi! Với Ngài A Nan mà Phật còn khuyên dạy như vầy: “Hý luận là những lời nói đùa vô nghĩa và phi lý. Đối với đạo pháp, hý luận chẳng những không mang lại ích lợi gì, mà nó còn dìm con người vào biển loạn động.” Thật tình mà nói, lời dạy dỗ trên phải dành cho chúng ta mới đúng. Thật vậy, mọi người chúng ta hãy bình tâm suy gẫm lại mà xem, tâm nầy đã bao lần loạn động vì hý luận? Tự tâm tự tánh của chúng ta xưa nay là thanh tịnh, nhưng vì vô minh xô đẩy chúng ta vào trò hý luận biện giải nên tâm tánh lần lần loạn động, nghĩa là xa lần bản thể chân như tự thuở giờ của mình. Người con Phật phải nhiếp tâm tinh cần  tu tập, phải trì giới theo luật và phải dứt khoát từ bỏ thói tánh nhàn đàm hý luận. Một ngày ta sống là một ngày thân ta hoại diệt, phải gấp rút cần tu như lửa đốt đầu, đừng để thân nầy nhởn nhơ luống qua một kiếp, dù có hối tiếc cũng đã quá muộn. Hãy cố gắng lên hỡi những người con Phật!!!

500. HIẾU HẠNH CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

Con người là một sinh vật cao tuyệt nhứt trong mọi loài, chính vì thế mà con người có khả năng chế ngự hầu hết các loài khác. Con người tồn tại, tiến hóa và thăng hoa hướng thượng, không chỉ bằng đầu óc thông minh sáng tạo ra khoa học kỹ thuật, mà còn bằng vào đạo đức đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Cũng chính vì thế mà những dân tộc Á Đông, nơi đặt truyền thống đạo đức lên trên tất cả với tôn ti trật tự gia đình và xã hội. Xã hội Việt Nam từ ngàn xưa đã mang nặng tính Khổng Nho, luôn nêu cao tam cương ngũ thường và người Việt Nam chúng ta may mắn cũng có được đủ đầy truyền thống đạo đức đó. Ngoài tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội ra, dân tộc ta còn xem trọng lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ nữa. Văn chương bác học cũng như ca dao truyền khẩu Việt Nam luôn ca tụng đến chữ “Hiếu.” Hiếu là trung tâm của mọi hành vi thiện ác của con người. Hiếu định rõ chân giá trị của con người và hiếu cũng chính là nền tảng của mọi hoạt động trong xã hội.

“Người tai mắt ở trong trời đất
Ai là không bác mẹ sinh thành
Gương treo đất nghĩa trời sinh
Ở sao cho xứng chút tình làm con.”

Hoặc: “Chữ Hiếu niệm cho tròn một tiết
Thì suy ra trăm nết đều nên
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền
Thảo Hai Mươi Bốn, thơm nghìn muôn thu.”

Thật vậy, không riêng gì ở Trung Quốc mà nước ta, dù đã trên ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ và ngót trăm năm bị giặc Tây dày xéo, dân ta cũng không quên nguồn gốc của tổ tiên ông bà để lại với truyền thống đạo đức từ ngàn xưa, lịch sử đã minh chứng không thiếu những tấm gương hiếu nghĩa của tiền nhân.

Từ đời các vị Vua Hùng dựng nước đến thời cận đại, trong văn chương bác học cũng như bình dân, qua những tác phẩm nổi tiếng như Nhị Thập Tứ Hiếu của Lý văn Phức, Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi, Phạm Công Cúc Hoa, truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm, đến ca dao tục ngữ cũng nói nhiều về mẹ cha và hiếu hạnh. Kịp lúc đạo Phật du nhập vào nước ta vào những năm đầu Tây lịch, dân tộc chúng ta lại được thừa hưởng thêm “hiếu hạnh của con nhà Phật.” Trong các kinh điển, Đức Phật luôn dạy cho chúng đệ tử của Ngài: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên.” Thật vậy, dù thuộc bất cứ tôn giáo nào chứ không riêng gì Phật giáo, dù sang dù hèn, dù giàu dù nghèo, đối với dân tộc Việt Nam, hiếu hạnh là gốc. Hiếu là trên hết, hiếu là tất cả. Làm con người, nhứt là người đã sanh ra và lớn lên trong cái nôi của văn hóa Việt Nam, thì phải tròn hiếu đạo, phải nhớ ơn nhớ nghĩa và phải đền trả những ơn nghĩa ấy. Trong Phật giáo có “tứ ân” (ân Tam Bảo, ân cha mẹ thầy tổ, ân thiện hữu tri thức và ân chúng sanh) thì ân cha mẹ thầy tổ chỉ đứng sau ân Phật. Trong Tứ Thư, Đức Khổng Tử cũng dạy: “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, hạo thiên võng cực.” Cha mẹ sanh dưỡng cực nhọc, muốn đáp đền dẫu có với lên tới trời cũng không cùng cực được. Công ơn cha mẹ thật cao dày, dầu chúng ta muốn đáp đền cũng không sao đền đáp được. Cho dù chúng ta đang là gì gì trong xã hội, không có hai bậc sanh thành này, há thân này, danh này, vị này có được hay sao? Chính vì thế mà Đức Phật đã dạy: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế.” Đức Phật là bậc đại giác, đã để lại cho nhân loại con đường giải thoát với cả một kho giáo điển mênh mông vô cùng vô tận, thế mà Ngài còn dạy như vậy. Hiếu kính với cha mẹ là đã hiếu kính với chư Phật. Sanh ra trong thời không có Phật, thì Phật dạy rằng chính cha mẹ hiện tiền của chúng ta là Phật. Thật vậy, không có mẹ cha thì không có ta. Từ khi thụ thai đến lúc chào đời, rồi lớn dần theo năm tháng, cha mẹ chúng ta đã bao lần lo âu hồi hộp, đã bao lần ngậm đắng nuốt cay, bao lần rơi lệ, bao lần buồn phiền, bao lần hy vọng thất vọng. Cha mẹ đã đổ dồn hết thân lực trí lực cho con và vì con. Mẹ cha đã đem hết quãng  đời thanh xuân để thương yêu bảo bọc con cái. Tình cha nghĩa mẹ nếu lấy biển Thái Bình hay núi Thái Sơn ra ví cũng không tầy nào sánh kịp. Mẹ cha là gió mát tinh anh, là tàng cây che mát cho chúng ta trong suốt cuộc đời. Mẹ là hoa, là hương, là nguồn cội của mọi yêu thương. Mẹ cha vì con cái mà quên cả thân mình, vì con cái mà gây tội tạo nghiệp, vì con cái mà ngay cả những nhục nhằn các người cũng không quản. Thật tình mà nói, không có bút mực nào có thể diễn tả hết được cái tình cha nghĩa mẹ sâu dầy ấy, không có ngôn từ lời nói nào có thể nói cho cùng sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái. Ơn cha như trời cao cùng tột, nghĩa mẹ như sông dài biển rộng. Khi con còn thơ dại thì chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn. Khi trái gió trở trời mẹ cha phải thay phiên nhau thức trông chừng con suốt đêm. Tiếng khóc của con là tiếng nấc của mẹ. Khi con bệnh hoạn thì chính tiếng rên khóc của con làm cho mẹ ruột thắt từng cơn, làm cho cha phải chạy ngược chạy xuôi lo tìm thang thuốc. Ngược lại, tiếng cười của con là tiếng  cười của mẹ, là niềm vui của cha, khiến cho cả cha lẫn mẹ đều quên hết những nỗi ưu phiền cực nhọc. Con dù lớn thế mấy thì con vẫn là con của cha của mẹ, từng bước chân con đi, từng tuổi đời con qua là từng nhịp thở con tim của cha của mẹ. Cha mẹ buồn vui theo con và sống cho con. Vì con mà lắm khi cha mẹ phải chịu tủi chịu nhục, phải chạy đôn chạy đáo, phải hạ mình van xin cầu khẩn, hay cúi luồn thiên hạ. Tình cha nghĩa mẹ là một thứ tình nghĩa bao la cao cả, một thứ tình mênh mông, dào dạt, rộng sâu, vô biên; một thứ tình mà trời có cao cũng không cao bằng, biển có sâu cũng không sâu bằng tình nghĩa mẹ cha cho con. Ngoài chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm của mẹ, và công ơn dưỡng dục cù lao của cha, hai đấng sanh thành còn cả đời lầm lũi nuôi con. Vì con mà mẹ thức cha canh, năm canh chầy có khi phải thức đủ vừa năm. Vì con mà chỗ ướt mẹ nằm, dành chỗ ráo con lăn. Vì con mà mẹ cha phải ngậm đắng nuốt cay… Còn nhiều thứ vì con mà mẹ cha phải hy sinh lắm. Khi con khỏe mạnh, ăn mau chóng lớn thì cha mẹ nhìn con mà lòng rộn lên niềm hân hoan hạnh phúc. Rủi khi con đau yếu bệnh hoạn thì lòng mẹ xót xa, lòng cha đau thắt. Trên đời nầy không có thứ tình nào bao la vô tận như tình cha nghĩa mẹ. Chính vì thế mà có câu ca dao ca tụng tình mẹ, mẹ dám hy sinh cả mạng sống chính mình để cứu con, như chuyện “Anh Phải Sống.” Lúc thập tử nhứt sanh mà người mẹ vẫn gào lên cho chồng nghe được: “Cái nhớn, cái Bé, thằng Bò… anh phải sống.” Còn sự hy sinh nào hơn sự hy sinh nầy hở quí vị? “Có gì ngon bằng cơm với cá, ai thương ta cho bằng má với con.” Thật vậy, mẹ cha sẵn sàng chấp nhận mọi hẩm hiu cay đắng để mang về chỉ một chất cam lồ dịu ngọt cho các con. Mẹ cha sẵn sàng dầm sương dãi nắng, mua tần bán tảo, nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn đi chơi, thậm chí bệnh hoạn mà cha mẹ cũng chẳng dám thuốc thang vì tất cả tiền kiếm được chỉ dành cho các con chứ không có khoản nào dành cho cha mẹ. Cha mẹ chẳng những dành trọn cho con tấm thân mà cả tâm hồn của các người vẫn luôn luôn nghĩ tưởng đến con. bất cứ đâu, bất cứ trường hợp nào, dù trong hoàn cảnh nào, dù sướng dù khổ, dù giàu dù nghèo, dù cận kề hay xa cách vạn dặm, lúc nào hình bóng các con cũng in sâu trong lòng mẹ cha, từng bước chân con đi, từng tuổi đời con qua là từng nhịp thở con tim của cha của mẹ. Tình cha nghĩa mẹ là một thứ tình nghĩa thiêng liêng cao cả, có nói cũng không cùng, có viết cũng không cạn. Chính vì thế mà người Tích Lan (xứ xem Phật giáo là quốc giáo) có một phong tục rất dễ thương. Mỗi tối sau khi đọc kinh xong, người con thường đến quỳ bên gối mẹ mà thưa rằng: “Thưa mẹ, mẹ là người không thể dùng ngôn ngữ của loài người để diễn đạt. Cũng như không thể lấy tiếng người để nói lên được bao nhiêu đau đớn khổ nhọc, bao nhiêu phiền muộn lo âu mà mẹ phải chịu ngay từ ngày mẹ mang con vào lòng. Thưa mẹ, con chắp hai tay lên trán, khấu đầu quỳ lạy dưới chân mẹ để tỏ lòng tôn kính và để cầu xin mẹ tha thứ những lỗi lầm của con. Nhớ lại khi con khóc tức tưởi thì mẹ ẩm, mẹ dỗ, mẹ ru con ngủ với tình thương vô hạn cho đến những vật dơ dái của con mà mẹ cũng không nhờm gớm và không ngần ngại lấy tay bốc lên quan sát   mỗi khi con ươn yếu. Thưa mẹ, đáp lại công ơn như trời cao và tình thương như biển cả của mẹ, con hết lòng cầu nguyện cho mẹ sớm thành Phật để mẹ bủa rộng lòng thương vô tận của mẹ đến khắp cả chúng sanh đang đau khổ.” Lễ mẹ xong rồi lễ cha, cũng cung kính bẩm cha những điều như trên. Sách sử Thánh Hiền cũng như ca dao bình dân thường tán thán ca tụng công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha. Tình cha nghĩa mẹ đối với con như suối nguồn tuôn chảy không ngừng. Cha mẹ đến với các con và trao hết tất cả những gì mình có, trao trọn vẹn không đòi hỏi, không đong đo tính toán:

“Một đời vốn liếng mẹ trao,
Mẹ cho tất cả, mẹ nào giữ riêng,
Mẹ hiền như một bà tiên,
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.”

Hoặc:

“Cha mẹ cho con một cuộc đời
Mối tình sâu kín trong lời dạy khuyên
Lòng cha nghiêm nghị thiêng liêng
Cho con lẽ sống giữa miền trần gian.”

Hoặc:

“Ba giành hết những đắng cay
Cho con vị ngọt những ngày ấu thơ
Ba giành đỉnh núi mây mờ
Cho con đường rộng bây giờ con đi.”

Hoặc:

“Mẹ là dòng suối dịu hiền
Mẹ là bài hát thần tiên
Là bóng mát trên cao
Là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.”

Tình mẹ đối với con là thế, còn cha dù không có lời ru dịu ngọt như mẹ, nhưng cha đã giành hết những nghiệt ngã đắng cay của cuộc đời để nhường hết cho con những hương vị ngọt ngào trong cuộc sống. Cha là núi cao hùng vĩ che chắn hết những cơn giông tố bão bùng. Cha nhận hết những lằn roi rướm máu của đời cho thân con được tròn vẹn. Cha là ánh thái dương soi sáng tâm hồn con, không có cha tương lai con là đêm tối mịt mùng. Thật vậy, “còn cha gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con lấm bùn.” Tuy bề ngoài cha nghiêm khắc nhưng sâu thẳm trong nội tâm cha là cả một đại dương yêu thương dịu ngọt. Rất nhiều cảnh gà trống nuôi con của cha thật là thảm thiết, nhưng cha vẫn cố gắng đóng tròn vai vừa mẹ vừa cha:

“Đêm nằm nước mắt nỉ non
Con ơi đừng khóc, mẹ con khuất rồi
Cha bồng lại dỗ một hồi
Mà con không nín, khóc rồi lại la
Nghiêng mình cha bựt nút ra
Con ơi! Con bú vú cha đỡ lòng!”

Còn tình thương nào cao hơn tình cha nghĩa mẹ? Với tình yêu thương vô bờ vô bến của cha mẹ đó, không một bảo vật nào ở trên đời này có thể sánh được. Ân đức của cha mẹ cho con cao hơn Thái Sơn, rộng hơn Thái Bình. Cha mẹ luôn luôn mong muốn cho con mình rời khổ được vui. Cha mẹ luôn theo con từng bước, như bóng với hình. Cha mẹ luôn chấp nhận làm cái bóng của con dù chỉ là cái bóng mờ.

Ngày nay, mùa Vu Lan, mùa Báo Hiếu theo truyền thống Phật giáo, không còn nằm trong phạm vi thuần túy tôn giáo nữa, mà Vu Lan đã trở thành mùa của vạn triệu con tim Việt Nam, nó đã trở thành phổ cập trong mọi tầng lớp dân chúng, từ trong quốc nội cũng như nơi hải ngoại. Nói về truyền thống hiếu hạnh nhân ngày vinh danh tháng Di Sản Á Châu Thái Bình Dương, Tổng Thống George W. Bush cũng đã gửi thư vinh danh truyền thống cao đẹp ấy như sau: “Tại gia đình quí vị, mỗi thế hệ lớn lên đều được hướng dẫn bởi những giá trị đạo đức tốt lành, con cái hiếu kính ông bà cha mẹ. Nhân ngày Di Sản Á Châu Thái Bình Dương, tôi xin vinh danh truyền thống cao đẹp ấy.” Một vị Tổng Thống của một cường quốc bậc nhất về khoa học kỹ thuật mà còn phải vinh danh truyền thống hiếu hạnh cao đẹp ấy. Chúng ta, nhứt là những người con Phật, dù phải quay cuồng trong cuộc sống hôm nay thế mấy, dù phải lao tâm khổ trí thế mấy, dù không hoàn toàn giữ được những gì cao đẹp nhất của truyền thống hiếu hạnh, nhưng hãy tùy hoàn cảnh, tùy phương tiện sẵn có mà báo hiếu đễ một mai hai đấng sanh thành có khuất núi, chúng ta không phải một đời ân hận. Mùa Vu Lan vẫn là những giây phút chạnh lòng của những đứa con hiếu thảo. Ngay cả những người tuổi đã xế bóng vẫn phải chạnh lòng nhớ đến những điệu hát ru con dịu dàng năm xưa của mẹ. Dù lưu lạc giang hồ nơi đất khách quê người, nơi không có lấy một tiếng nói quen thuộc, lúc nào những câu ca dao bình dân về tình cha nghĩa mẹ vẫn văng vẳng bên tai.

“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”

Hoặc:

“Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.”

Hoặc:

“Còn cha còn mẹ như tiên,
Mất cha mất mẹ như chim lạc đàn.”

Hoặc:

“Mẹ là biển, mẹ là trời
Hy sinh tất cả một đời vì con
Sông dù cạn, đá dù mòn
Tấm lòng của mẹ vẫn còn mênh mông.”

Thói thường, chúng ta vẫn biết “còn cha còn mẹ như tiên, mất cha mất mẹ như chim lạc đàn,” nhưng có khát đến cùng cực, khi gặp nước mới thấy nước là quý hơn cả kim cương vàng bạc. Những ai đã từng vượt biên trên những con thuyền nhỏ mong manh đều đã kinh qua việc nầy. Cũng như vậy, khi cha mẹ còn đủ đầy, dù các người có lo lắng thương yêu chúng ta thế  mấy, chúng ta vẫn không trân quý. Đến khi mất cha mất mẹ, chúng ta mới cảm thấy mất cả bầu trời hạnh phúc. Chính một Đại Thiền Sư như sư ông Nhất Hạnh mà còn phải thốt lên một câu bất hủ trong tác phẩm “Bông Hồng Cài Áo” của Ngài: “Dù lớn thế mấy mà mất mẹ coi như không lớn, vẫn cảm thấy bơ vơ lạc lõng như một trẻ mồ côi.” Thật tình mà nói, bổn phận báo hiếu của chúng ta là bổn phận thiêng liêng cao cả và sự báo hiếu là liên tục chứ không phải một ngày một bữa, không phải đợi đến ngày mẹ, ngày cha hay đến mùa Vu Lan mới báo hiếu. Ai trong chúng ta cũng nên luôn nhớ:

“Ân cha nghĩa mẹ ơn đền
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu!”

Thật vậy, không cách chi mà chúng ta báo đáp cho vừa được tình cha nghĩa mẹ. Rất có thể lắm khi Cha mẹ đã vì chúng ta mà gây tội tạo nghiệp. Một khi đã tạo nghiệp thì không nhứt thiết phải đợi đến lúc chết mới bị đọa vào địa ngục, mà ngay trong đời nầy kiếp nầy vẫn chịu những dày vò cắn rứt của lương tâm, lắm khi phải điên loạn vì những cắn rứt nầy. Chính vì thế mà con người hiếu tử luôn canh cánh bên lòng nỗi khổ đau của cha mẹ, dù cha mẹ vẫn còn hay đã khuất núi. Trong Kinh Báo Ân Phụ Mẫu, Đức Phật đã dạy: “Nói về công lao chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và cả đời tận tụy lo cho con cái, ân ấy của mẹ cha, có nói cũng không cùng, có đáp cũng không cạn. Nếu hai vai cõng vác mẹ cha, đi giáp vòng hòn núi Tu Di trong vô lượng kiếp, ơn kia cũng khó đền.” Cổ nhân ta cũng dạy: “Cây có cội, nước có nguồn. Làm người ai cũng có tổ tiên cha mẹ.” Cây mà bị nhổ bật cội rễ thì cây sẽ chết, làm người mà quên công ơn tổ tiên cha mẹ thì con người ấy không còn là một con người trọn vẹn nữa. Công ân cha mẹ như biển hồ lai láng thế ấy, không biết lấy gì đền trả cho xiết, thế nhưng trong xã hội hôm nay, hãy nhìn lại mà xem, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày. Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, không cớ gì cứ phải ôm mãi những định kiến lỗi thời của thời phong kiến xa xưa như “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (nghĩa là bất hiếu có ba thứ mà không con nối dõi là một đại bất hiếu), hay tam cương ngũ thường (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, hãy lắng lòng nhìn lại để thấy công lao trời biển của cha mẹ không chỉ nơi một nắng hai sương và suốt đời tần tảo ngược xuôi, lo cho con từ manh quần tấm áo, thuốc men, vân vân mà cha mẹ luôn cả đời tận tụy hy sinh. Ngoài ra, cha mẹ nào cũng quyết tâm quyết chí dạy dỗ cho con cái được thành nhân chi mỹ. Lắm khi khi đã thành nhân chi mỹ thì con cái lại quay ra chê bai cha mẹ là quê mùa, thậm chí bỏ bê không ngó ngàng gì đến mẹ cha. Rất nhiều trạng huống như vậy đã xảy ra, nhưng cha mẹ vẫn thản nhiên, âm thầm chấp nhận hoàn cảnh phũ phàng chứ không một lời than trách, miễn sao nhìn thấy con mình an vui hạnh phúc là các người vui mừng. Trong những trạng huống quái quăm đó, cha mẹ phải ngậm cay nuốt đắng chứ không dám thố lộ cho ai biết về sự vô nghì bất hiếu của con mình. Trái lại, khi gặp người thân quen cha mẹ lúc nào cũng khen lấy khen để con mình, nào là con tôi giỏi, con tôi ngoan, con tôi hiếu thảo, vân vân. Thật là tội nghiệp cho cha mẹ mình quá hở quí vị! Quí vị có còn nhớ không hồi nhỏ những lúc làm việc trái quấy bị cha mẹ rầy la dạy dỗ thì chúng ta hay giận hờn các người, nhưng các người thì bao giờ cũng rộng lượng bao dung.

“Nâng niu con lúc dỗi hờn
Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào.”

Cũng chính nhờ sự hy sinh cao cả ấy của mẹ cha mà thế hệ nầy nối tiếp thế hệ kia phát triển và tồn tại trong truyền thống cao đẹp. Dĩ nhiên bổn phận làm con là phải luôn nghĩ đến sự dưỡng nuôi và hiếu kính khi các ngài ở tuổi xế chiều. Cho dù hoàn cảnh có như thế nào đi nữa, bổn phận làm con cũng không được một phút một giây xao lãng. Theo truyền thống Á Đông chúng ta thì quan hệ mẹ cha con cái gần như là mối quan hệ tự nhiên. Cha mẹ sanh con phải nuôi nấng dạy dỗ, khi con cái thành nhân chi mỹ phải hiếu kính đáp đền. Người xưa có nói, khi đã thành nhân chi mỹ mà còn có cha mẹ để phụng dưỡng hiếu kính là một đại hạnh. Tuy nhiên, trong xã hội bận rộn hôm nay, lắm khi con cái cho rằng “hiếu” với cha mẹ là có thể nuôi được các người, nuôi bằng cách mướn người chăm sóc, hoặc nuôi bằng cách đưa các người vào viện dưỡng lão, trả tiền mọi chi phí, rồi thỉnh thoảng ghé lại thăm với gói quà hay bó hoa. Như thế có đủ có tròn chữ hiếu chưa hở  quý vị ? Các bậc cha mẹ già yếu chắc không cần ở con cái nhiều tiền lắm bạc, hoặc cung phụng cao lương mỹ vị đâu. Cái mà các người cần là lòng hiếu kính, sự yêu thương an ủi. Thật tình mà nói, nếu chỉ nuôi mà không tỏ lòng kính trọng, thì khuyển mã cũng làm được quý vị ạ ! Có người đổ  thừa cho hoàn cảnh xã hội nên họ không có thì giờ chăm sóc mẹ cha. Đồng ý cuộc sống trong xã hội hôm nay thật là chật vật, con người chúng ta phải quần quật suốt ngày nên khó mà sống theo truyền thống cổ truyền của dân tộc, nhưng nói rằng vì cuộc sống chật vật hôm nay mà không phụng dưỡng cha mẹ được, theo thiển ý chỉ là một lối ngụy biện của những kẻ đang chạy theo cuộc sống vô hồn mất gốc. Trừ phi chúng ta sống lang bạt giang hồ, sống bụi đời vất vưởng, không nơi trú ngụ thì không nói, còn thì xin đừng tiếp tục ngụy biện nữa. Dù chúng ta đang sống ở đâu, quốc nội hay hải ngoại, dù phải đương đầu với cuộc sống chật vật, phải chạy đua với thời gian để theo kịp đà của xã hội tiên tiến hôm nay, nhưng không vì vậy mà chúng ta xao lãng tình cha nghĩa mẹ, không vì vậy mà chúng ta sống bất hiếu bất kính với ông bà cha mẹ. Hãy cùng nhau ôn lại những câu ca dao thật dễ thương được truyền khẩu trong dân gian Việt Nam chúng ta:

“Câu thơ ba chữ rành rành
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình
Chữ Trung là để phần Cha
Chữ Hiếu phần Mẹ, riêng ta chữ Tình.”

Hoặc:

“Ân Cha cao lớn rộng dài
Nghĩa Mẹ to tát khó lời tỏ phân
Hiếu là bổn phận phải cần
Phụng thờ Cha Mẹ vẹn phần đạo con.
Một lòng giữ dạ sắt son
Dù cho biển cạn non mòn chẳng phai.”

Hoặc:

“Ân Cha nghĩa Mẹ cao dầy
Ví như trời biển hàng ngày chớ quên
Dù ai có được tuổi tên
Nhờ ân Cha Mẹ mới nên phận mình
Hiếu Trung cần phải giữ gìn
Danh thơm tiếng tốt lưu nghìn đời sau.”

Hoặc:
“Ân Cha nghĩa Mẹ công đền
Làm sao đền trả ân này cho xong
Làm người phải biết tổ tông
Ân Cha nghĩa Mẹ và công ơn Thầy.”

Hãy tự ôn lại chính mình xem coi mình đã làm được gì cho cha mẹ mình rồi hẳn nói. Dĩ nhiên, khi mẹ cha già yếu thì các người chẳng những chân yếu, tay run, mắt mờ, tai điếc, mà lắm khi các người rất ư là lẩm cẩm. Lắm khi các người nói chuyện không đâu hay bàn chuyện không có, nhưng theo luật “vô thường” chúng ta rồi cũng sẽ như các người, không sai chạy. Thấy vậy để chúng ta có thể tiếp tục giữ được sự tôn kính các người dù các người có lú lẫn. Có những trường hợp cha mẹ lâm bệnh kinh niên và trở thành gánh nặng cho gia đình, nên các người bị đẩy vào nhà dưỡng lão hay bị bỏ nằm một xó trong nhà không ai ngó ngàng tới. Quí vị ơi! Hãy nhớ lại xem có phải những bàn tay run rẩy hôm nay đã từng nâng niu, dẫn dắt và tập cho chúng ta đi từ những bước đi đầu đời không quí vị? Chính đôi mắt mờ của các người ấy đã có một thời tinh anh để bao bọc cho chúng ta nên hình nên vóc, phải không quí vị? Chính đôi tay gầy guộc của mẹ hôm nay đã có lần dang rộng ra che chở hết cho các con của mẹ, phải không quí vị? Thân xác tàn tạ của các bậc sanh thành hôm nay không tự nhiên mà bị tàn phá dữ dội như thế, chính hình hài của chúng ta đã góp phần đẩy mạnh tiến trình tàn phá ấy quí vị ơi! Hãy thử suy gẫm lại xem, từ một bào thai, mẹ phải chín tháng cưu mang trong lòng, cha phải làm việc vất vả như thế nào chúng ta mới được chào đời. Đến khi chào đời, mẹ còn phải vất vả hơn với ba năm bú mớm, cha phải cật lực hơn với nhiều nhu cầu vật chất mà gia đình đòi hỏi. Ngay cả lúc ăn lúc nghỉ, hễ con la khóc là mẹ lập tức ngưng đũa hay tốc dậy chạy lại bên con. Khi con phóng uế trên người, mẹ chẳng những không cảm thấy khó chịu mà còn vui mừng khi thấy con mình tiểu tiện điều hòa. Ôi còn tình cảm nào cao tuyệt hơn tình cha mẹ cho con! Hoàn cảnh gia đình dù có cơ cực thế mấy, thì cha mẹ thà cam chịu, thà nhịn bớt phần ăn, nhịn bớt đi những thú tiêu khiển để đổ dồn hết lo cho các con được no ấm. Ăn thì các người chỉ ăn những gì thừa mứa, còn cái nguyên vẹn ngon hảo thì dành trọn cho các con. Nằm thì các người nằm khoảng chiếu rách hay nằm chỗ ướt, còn phần chiếu tốt khô vẫn luôn dành cho các con. Mỗi khi con cái đau ốm là các người phải năm canh chầy thức đủ vừa năm để chăm sóc mà không một chút phiền hà. Mẹ cha đã nuôi dưỡng con cái bằng chính sức lực của mình, bằng những đêm thức trắng của mẹ, bằng những giọt mồ hôi nhuễ nhại của cha. Chính vì vậy mà cổ nhân có nói: “Lên non mới biết non cao; nuôi con mới biết công lao mẫu từ.” Nhưng quí vị ơi! Đợi đến phiên mình nuôi con thì lắm khi cha mẹ đã không còn, như kinh nghiệm của cổ nhân đã để lại: “Tiếc thay cha mẹ không còn, để lo phụng dưỡng cho tròn đạo con.” Như vậy ngay trong những giây phút hiện tại chúng ta hãy vận dụng tất cả những thời gian có được để phụng dưỡng mẹ cha. Bổn phận làm con không chỉ phụng dưỡng mẹ cha bằng cơm áo tiền bạc là đủ, vì cơm áo tiền bạc chỉ là phần vật chất tầm thường. Người con hiếu thảo phải luôn tôn kính mẹ cha dù trong bất cứ trường hợp nào. Ngoài vấn đề phụng dưỡng vật chất, chúng ta còn phải khuyến tấn cha mẹ tin tưởng nhân quả và vun trồng cội phúc, và luôn cố gắng làm tinh thần các người được thanh thản trong lúc tuổi già bóng xế. Theo triết lý Khổng Mạnh, bất hiếu không chỉ là không phụng dưỡng mẹ cha không thôi. Những kẻ sống cuồng sống vội, sống vô đạo đức làm cho mẹ cha buồn phiền đau khổ, cũng là những kẻ vô nghì, bất hiếu, bất nghĩa. Theo Phật giáo, những kẻ biết cha mẹ không tin nhân quả mà không khuyến tấn các ngài tu tâm dưỡng tánh hay làm điều phước thiện cũng là những con người bất hiếu. Cũng theo truyền thống Phật giáo, mùa Vu Lan không chỉ để tưởng nhớ công ơn sâu dầy của mẹ của cha, mà còn để ôn lại công đức của các bậc tiền nhân đã có công dựng nước, giữ nước và duy trì nòi giống đến hôm nay, để phát lòng từ bi thương xót chúng sanh mọi loài, để san sẻ tình thương tình người đến với tất cả mọi người. Vu Lan còn là mùa “Xá tội vong nhân” theo Phật giáo, ngày mà mọi người nên lấy ân báo oán, láy tình thương xóa bỏ hận thù, lấy lòng quảng đại bao dung đối lại với những tỵ hiềm ganh ghét.

Những tấm gương hiếu thảo của người  xưa hãy còn rạng ngời trong truyền thống Á Đông chúng ta. Ngày xưa, Thầy Tử Lộ lúc còn hàn vi đã đội gạo đường xa để nuôi mẹ già. Thế nhưng đến khi công thành danh toại thì mẹ cha đã đều quá vãng. Thầy đã phải ngậm ngùi than thở: “Mộc dục tịnh nhi phong bất đình! Tử dục dưỡng nhi thân bất tại.” Sự đời thường trớ trêu như vậy đó quý vị ơi ! Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Người hiếu tử muốn nuôi cha mẹ, nhưng không còn đâu nữa cha mẹ để mà nuôi! Trong Nhị Thập Tứ Hiếu có chuyện Thầy Mẫn Tử Khiên lúc thiếu thời, mẹ mất sớm, bị người dì ghẻ đối xử ác nghiệt tàn nhẫn. Mùa đông bên miền bắc Trung Hoa lạnh rét căm căm, trong khi cho hai con ruột mặc áo bông đắp mền dầy, thì bà chỉ cho Mẫn Tử Khiên một manh áo mỏng. Khi Mẫn Tử đẩy xe cho cha đi dạo, vì rét run nên té quỵ. Người cha hỏi ra mới biết Mẫn Tử bị dì ghẻ đối xử tàn độc nên cha ông định đuổi bà dì ghẻ đi. Mẫn Tử vội thưa: “Thưa cha, nếu cho dì con ở lại thì chỉ một mình con chịu rét buốt, chứ dì con bị đuổi đi rồi thì cả ba anh em chúng con đều phải chịu rét buốt.” Bà dì ghẻ nghe vậy biết lỗi, từ đó về sau ăn năn và đối xử với Mẫn Tử như con ruột. Lòng hiếu thảo của Mẫn Tử đã cảm hóa được người mẹ ghẻ ác độc. Thời Chiến Quốc bên Trung Quốc có đệ tử của Đức Khổng Tử là Thầy Tăng Sâm, người nước Lỗ, nhà rất nghèo. Thuở thiếu thời ông thường đốn củi, cày ruộng để phụng dưỡng cha mẹ. Mặc dù khó nhọc nhưng lúc nào ông cũng vui vẻ  và luôn làm tròn bổn phận hiếu hạnh với song thân. Vua nước Lỗ nghe danh ông nên muốn ban cho bổng lộc, nhưng Tăng Sâm tuyệt nhiên từ chối. Ông nguyện sống bình thường, làm những công việc bình thường, tự tay tạo ra vật chất để nuôi dưỡng song thân. Chúng ta hãy suy gẫm chuyện Thầy Tăng Sâm để thấy rằng không cần phải đợi đến khi giàu có hoặc có quyền thế rồi mới làm tròn hiếu hạnh. Thấy như vậy để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tùy duyên tùy cảnh mà làm tròn bổn phận một con người hiếu hạnh. Chính vì thế mà Lữ Vọng, một gương hiếu hạnh cao tuyệt khác không kém gì Thầy Tăng Sâm, đã dạy: “Có hiếu với cha mẹ thì con cái có hiếu với mình không sai khác.” Đây cũng chính là tinh thần “Nhân Quả” trong đạo Phật. Nếu chúng ta không làm tròn bổn phận với mẹ cha thì hậu quả là con cái của mình sẽ làm khổ mình, bởi tự mình đã vô nghì bất hiếu thì làm sao biểu con cái có hiếu đây? Chuyện “Người hiếu thuận sanh con hiếu thuận; người ngỗ nghịch sanh con ngỗ nghịch” là chuyện tất nhiên không ai chối cãi được. Hãy nhìn những giọt nước mưa từ trên mái nhà rơi xuống thềm, từng giọt từng giọt, giọt sau chẳng sai khác giọt trước. Cũng như vậy, hễ cha mẹ thế nào thì sanh con thế ấy. Không nói đâu xa, trong lịch sử thế giới cận đại, ai trong chúng ta cũng đã từng nghe nói đến ông U Thant, cựu Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc vào thập niên 1960s. Ông là một nhà chính trị tài ba lỗi lạc, đã cứu thế giới thoát khỏi nhiều cuộc chiến tranh tương sát. Tuy nhiên, bên cạnh con người với vai trò quan trọng nhất trên chính trường quốc tế và được nhân loại tôn trọng nể vì, ông U Thant còn là một người con hiếu thảo khó ai sánh bằng. Dù bận rộn thế mấy, ngày ngày ông cũng tự tay chăm sóc miếng cơm, tách trà và tự mình sớm thăm tối viếng để hầu hạ me. Có thể chúng ta sẽ bảo rằng chữ hiếu này của ông U Thant là giản đơn. Vâng giản đơn thật, nhưng không phải ai trong chúng ta cũng làm được chuyện này đâu, vì nó phản ảnh một tấm lòng hiếu thảo chơn thật từ bên trong chứ không phải là hình tướng bên ngoài. Trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, dù khó tính thế mấy, dù có đủ lý do để kết tội Thúy Kiều đủ thứ lăng nhăng, nào là bi ai, oán hận, sầu khổ, dâm ô, vật dục, trộm đạo, vân vân và vân vân, nhưng không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được tấm lòng hiếu thảo của nàng Thúy Kiều. Đại thi hào Nguyễn Du qua truyện Kiều đã dựng nên một nhân vật Thúy Kiều với tài sắc vẹn toàn. Trước tấm chân tình tha thiết của Kim Trọng, có lẽ đa phần các thiếu nữ sẽ chấp mối tình ấy để sống hạnh phúc cho riêng mình, và cho rằng những gì xảy ra cho cha và em trai là một tai biến rủi ro cho gia đình, rồi thỉnh thoảng đến ngục đường thăm cha thăm em, đã là tốt lắm rồi. Nhưng đằng này Thúy Kiều trong Nguyễn Du thì hoàn toàn ngược lại, giữa hiếu va tình nàng đã không ngần ngại chọn chữ “hiếu” dù biết rằng cuộc đời trước mặt nàng sẽ là một cuộc phong trần dâu bể. Nàng đã cương quyết với Kim Trọng như vầy:

“Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.”

Thế rồi nàng tự bán mình chuộc cha và em, để phải 15 năm lưu lạc chốn phong trần. Còn gương hiếu hạnh nào cao hơn gương hiếu hạnh của nàng Thúy Kiều? Còn sự hy sinh nào bằng sự hy sinh cả một khoảng đời thanh xuân để trả hiếu? Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại những gương hạnh hiếu thảo của các bậc hiền nhân để tùy theo hoàn cảnh mà phụng dưỡng và hiếu kính mẹ cha. Cha mẹ đã sanh dưỡng chúng ta thì lúc các ngài xế bóng về chiều, chuyện hiếu kính nuôi dưỡng là chuyện tất nhiên, mức độ dưỡng nuôi và hiếu kính dù có khác nhau theo truyền thống, nhưng chủ ý không một truyền thống nào dạy chúng ta bất hiếu bất kính với ông bà cha mẹ. Người Việt Nam chúng ta, dù khi lớn lên, dù đã bận rộn với gia đình riêng của mình, nhưng vẫn cố gắng hết sức mình vừa thực hiện đủ đầy bổn phận và vừa giữ tròn chữ hiếu với mẹ cha. Ngoài chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà, người con hiếu thảo còn báo đáp hiếu nghĩa bằng cách dâng lên cha lên mẹ cuộc sống đạo đức của chính mình nữa. Chính Đức Phật đã dạy “phụng sự cha mẹ là một điều hạnh phúc cao thượng,” và chính Ngài đã tu đã sống với niềm hạnh phúc cao thượng ấy khi Ngài còn tại thế. Ngài đã độ cho vua cha trở thành một bậc thánh nhân trước khi vua cha lìa đời. Theo Ngài, cung phụng vật chất cho cha mẹ không thôi chưa đủ, mà bổn phận của một đứa con hiếu thảo còn phải cố gắng làm sao để hướng dẫn được cha mẹ sống đúng theo chánh đạo. Trong một tiền kiếp của Đức Phật là Tu Xà Đề, dù sống trong cung vàng điện ngọc với đủ đầy tôi tớ, nhưng Ngài vẫn luôn luôn lo lắng từ miếng ăn đến giác ngủ của cha mẹ và Ngài đã lập mười nguyện cho cha mẹ như sau:

  1. Nguyện cho cha mẹ khi ngủ luôn đặng an vui.
  2. Nguyện cho cha mẹ khi ngủ không thấy ác mộng.
  3. Nguyện cho cha mẹ khi thức cũng luôn đặng an vui.
  4. Nguyện cho cha mẹ thường được chư Thiên hộ trì.
  5. Nguyên cho cha mẹ luôn được người người ái kính.
  6. Nguyện cho cha mẹ không bị nạn đạo tặc.
  7. Nguyện cho cha mẹ không bị nạn giặc giã.
  8. Nguyện cho cha mẹ không bị ai mưu hại.
  9. Nguyện cho cha mẹ không bị yêu nghiệt.
  10. Nguyện cho cha mẹ luôn vạn sự cát tường.

Trong Kinh Thi Ca La Việt, Đức Phật dạy kẻ làm con có năm bổn phận đối với cha mẹ: Thứ nhất là phải phụng dưỡng cha mẹ. Thứ nhì là phải gánh vác công việc cho cha mẹ, nghĩa là lúc nhỏ phải phụ giúp cha mẹ trong công việc nhà, đến lúc trưởng thành phải tìm hiểu công việc làm ăn của cha mẹ để thay thế cha mẹ hoàn tất mỹ mãn; phải tạo cho cha mẹ một cuộc sống an nhàn thanh thản về cả vật chất lẫn tinh thần lúc các ngài tuổi già bóng xế. Luôn khéo léo khuyên giải cha mẹ sống đời đạo đức với lòng quảng đại bao dung. Thứ ba là phải tự mình sống đời đạo đức để giữ tiếng tốt cho cha mẹ, phải biết giữ gìn truyền thống và gai sản của cha mẹ, phải nối chí cha mẹ tiếp tục làm những hạnh lành của các người. Thứ tư phải tỏ ra xứng đáng nhận lãnh di sản của cha mẹ, không làm điều hoen ố thanh danh của cha mẹ. Cuối cùng là phải cố gắng tạo phước lành để hồi hướng cho cha mẹ quá vãng. Nói về hiếu hạnh thì Đại Đức Narada cũng dạy: “Hỡi các con! Cha mẹ là cõi phúc duy nhất trên đời của các con. Các con hãy tôn trọng ý muốn của cha mẹ. Trong lời nói, việc làm, trong cách đi đứng, các con hãy làm thế nào để giữ  tròn tiếng tốt cho gia đình, nhất là khi vắng mặt cha mẹ. Dầu cha mẹ đã khuất bóng, các con hãy tôn trọng thanh danh của gia tộc như bảo vật thiêng liêng cao cả. Đạo làm con chẳng những phải phụng dưỡng cha mẹ bằng những thức ngon vật lạ, cửa rộng nhà cao; mà phải còn kính cẩn dâng lên cho cha mẹ những món ăn tinh thần, tạo những cảnh nhàn lạc thích thú cho cha mẹ vui sống một nếp sống thanh cao đạo đức. Bổn phận làm con chẳng những phải bảo tồn danh giá cha mẹ mà lại còn phải tránh những điều có thể làm nhục nhã tông môn nữa.”

Mọi người chúng ta, nhất là những người con Phật, hãy lắng nghe lời Phật dạy về sự hiếu kính với cha mẹ, sư trưởng, thầy tổ, tôn kính các bậc đạo đức, thuận hòa chồng vợ, giúp đỡ anh chị em, cũng như thương mến những người giúp việc cho mình. Chúng ta phải học nhiều gương hiếu hạnh của chư  Hiền Thánh, để ít nhứt hiện đời được làm một người con hiếu thảo, người cha biết lo lắng cho con cái, người mẹ biết hy sinh cho gia đình theo truyền thống cao đẹp của dân tộc, người chồng biết thương vợ thương con, người vợ biết tận tụy  chăm sóc chồng con. Chúng ta phải cố gắng học cho được gương hiếu hạnh từ các bậc Hiền Thánh, để nếu một mai cha mẹ có qua đời, chúng ta cũng không ân hận vì đã đối xử quá tệ bạc với những bậc sanh thành, những người đã từng bồng ẩm, tưng tiu, lo lắng từng li từng tí, mớm cho chúng ta từng giọt sữa đầu đời. Để rồi đến lúc tuổi già sức yếu, tay chân run rẩy, mắt mờ tai điếc, lại bị đưa vào những viện dưỡng lão, sống những  ngày tháng vô vị cho đến hết cuộc đời. Cũng chính vì thế mà Đức Phật đã nói đến “Hiếu Đạo” như nói đến huyết mạch của châu thân, một pháp tu cho Phật tử và một phương pháp sống cho cả nhân loại. Con người với tròn đầy hiếu đạo thì con người ấy có thể thành tựu bất cứ thứ gì. Ngược lại, kẻ bất hiếu bất nhân là kẻ có thể gây tạo bất cứ nghiệp tội gì trong trần thế này. Trong Kinh Báo Ân, Đức Phật dạy: “Hiếu hạnh vi vạn hạnh vi tiên.” Hiếu hạnh đứng đầu trong vạn hạnh. Người không làm được hiếu đạo là người mất hết nhân cách đạo đức. Cho dầu có cố gượng ép đối xử với ai thanh tao nhã nhặn thế mấy thì đó cũng chỉ là sự gượng ép giả tạo. Chính cha mẹ mình mà mình còn đối xử tệ bạc, huống là người ngoài? Con người ấy, cho dù có sang giàu tột bực, tài giỏi vô song, danh vị tuyệt đỉnh… cũng chỉ là kẻ nguy hiểm cho đời. Cha mẹ mang nặng đẻ đau, dưỡng nuôi khó nhọc, lòng hy sinh vô tận như biển trời mênh mông, chăm sóc dạy dỗ chúng ta từng li từng tí, mà mình không đoái hoài thương tưởng, thử hỏi mình còn thương tưởng đoái hoài được ai? Chính vì thế mà Đức Phật đã nhấn mạnh với chúng đệ tử của Ngài là con người dù tài giỏi, dù làu thông thiên kinh vạn quyển mà chẳng biết hiếu đạo, cũng bỏ đi vì con người ấy chẳng những ngay trước mắt là một tấm gương xấu cho thế hệ kế tiếp mà còn  làm cho xã hội bại hoại về sau này. Thật vậy, cha mẹ là người đã sanh dưỡng mà chúng ta không thể hiếu kính thì thử hỏi chúng ta có thể hiếu kính được với ai? Tình mẹ tình cha là một thứ tình bao la cao cả, nếu  chúng ta có thể ngoảnh mặt quay lưng thì thử hỏi chúng ta còn có thể đến với bất cứ thứ tình nào được nữa? Công cha nghĩa mẹ sâu dầy như thế ấy, thử hỏi bổn phận làm con chúng ta có đền đáp được phần nào chưa? Vì lúc cha mẹ còn khỏe mạnh thì chúng ta hãy còn bé bỏng dại khờ, chưa hiểu đủ để nói được một câu gì an ủi các người, nói chi đến việc báo đáp hiếu nghĩa. Đến khi chúng ta khôn lớn, nên danh nên phận, may mắn lắm còn mẹ còn cha thì các ngài cũng đã da mồi, tóc bạc, tay yếu chân run, má hóp răng long, mắt mờ tai điếc, lưng chùng gối mỏi rồi còn gì. Hãy suy gẫm câu ca dao: “Mẹ già như trái chín cây, gió đưa mẹ rụng biết ngày nào đây.” Lúc đó thì chúng ta đã có bổn phận với gia đình riêng của chúng ta, bận rộn với vợ chồng con cái. Lúc đó chúng ta mới thấm  thía với tình cha nghĩa mẹ cao hơn Thái Sơn, rộng hơn Thái Bình Dương. Chừng chúng ta nhớ lại câu “Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công ơn mẫu từ” thì rất có thể cả cha lẫn mẹ đã không còn. Nếu may mắn còn đủ cha đủ mẹ thì bổn phận làm con chúng ta không thể nào bỏ quên hiếu đạo, vì nếu không có hiếu đạo thì con người ấy so với khuyến mã cũng không bằng. Hãy tùy khả năng và hoàn cảnh mà phụng dưỡng hiếu kính các ngài, chứ đừng chờ đừng đợi vì thời gian không chờ không đợi một ai đâu quí vị ơi! Ông bà cha mẹ là những đấng sanh thành, đã dày công sanh dưỡng. Dù hôm nay các người có già yếu lú lẫn, nhưng các người vẫn là các đấng sanh thành dưỡng dục ra mình. Cổ nhân có dạy: “Mưa trên trời mưa xuống.” Thật vậy, con dù lớn thế mấy thì con vẫn là con của mẹ, từng bước chân con đi, từng tuổi đời con qua, thì mẹ cha vẫn đến với các con. Dù con bảy tám chục tuổi mà còn mẹ, dù mẹ có lú lẫn ngẩng ngơ thế nào đi nữa, thì mẹ vẫn luôn lo lắng cho con. Người hiếu tử luôn canh cánh bên lòng như vậy để phụng dưỡng mẹ cha, nhỡ một mai các người có khuất núi thì chúng ta cũng chả có gì để ân hận nuối tiếc vì chúng ta đã tận tâm tận lực cung kính phụng dưỡng các người.

Hãy tự suy gẫm lại thì chúng ta sẽ thấy chúng ta đã thọ ân quá nhiều nơi cha mẹ. Chính vì thế mà trong Kinh Báo Hiếu, đức Phật dạy: “Ví có người ơn sâu dốc trả, cõng mẹ cha trên hai vai đi giáp vòng núi Tu Di (có thể hiểu được đây là vũ trụ) đến trăm ngàn kiếp, ơn kia cũng chưa đền.” Núi Tu Di mà Đức Phật nói ở đây là chỉ cả trung tâm vũ trụ. Thế gian này có chỗ nào có thể ví được với núi Tu Di? Thế mà dù cho chúng ta có cõng mẹ cõng cha trên hai vai đi giáp núi vẫn chưa đền trả được công ơn thâm sâu của cha mẹ. Hoặc “Ví có người vì cơn đói rét, nuôi song thân bằng cách dâng hết thân này, xương nghiền thịt nát phân thây, trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng.”  Hoặc “Ví có người vì công ơn sanh dưỡng, tự tay khoét thủng đôi mắt, chịu thân mù tối như vậy đến trăm ngàn vô lượng kiếp, ơn này thấm đâu.” Hoặc “Ví có người cầm dao thật bén, mổ bụng ra rút hết tâm can làm dược liệu trị bệnh cho cha mẹ trong trăm ngàn vô lượng kiếp, thâm ơn này cũng chưa trả được tròn đầy.” Hoặc giả “Ví có người vì ơn dưỡng dục, tự treo mình làm đèn cúng Phật trong trăm ngàn vô lượng kiếp, vẫn chưa gọi là đền trả thâm ơn cha mẹ tròn đầy.” Ở đây thí dụ về những tình huống cấp thiết khi mẹ cha bị bệnh hoạn ngặt nghèo phải dùng đến những thứ đó làm thuốc trị bệnh của cha mẹ, thử hỏi ai có gan dám móc mắt trị bệnh cho cha mẹ mình? Nhưng Đức Phật nói dù chúng ta có gan dám làm đi nữa, thì trong vô lượng kiếp công ơn này vẫn chưa gọi là đền trả tròn đầy. Bởi công ơn cha mẹ to lớn vô cùng vô tận, nào là cưu mang, sinh dưỡng, đùm bọc… không bút mực nào tả xiết. Mà thực vậy, dù có nói có viết lên công ơn này trong trăm ngàn vô lượng kiếp cũng nói viết cũng không cùng không hết được. Nghĩa là dù cho chúng ta có phụng dưỡng như thế nào đi  nữa trong hiện đời cũng không cách chi gọi là đền trả được công ơn cha mẹ.

Chính Đức Phật đã từng dạy trong các kinh điển của Ngài rằng: “Cha mẹ tại tiền, như Phật tại thế, phụng dưỡng và cúng dường cha mẹ, tức là cúng dường Như Lai không sai khác.” Ngay từ thời Phật còn tại thế, chính Bồ Tát Mục Kiền       Liên đã nghĩ đến ân sâu sinh thành dưỡng dục của mẫu thân mà tìm cách cứu mẹ thoát khỏi cảnh a tỳ địa ngục. Ngài đã thị hiện thần thông mang bát cơm đầy mong dâng cho mẹ đỡ lòng:

“Đây bát cơm đầy nặng ước mong
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng,
Đây tình còn đọng trong tâm huyết
Ân nghĩa sinh thành chưa trả xong!”

Một bậc Đại Thánh như ngài Mục Kiền Liên mà còn canh cánh chữ hiếu bên lòng như vậy, huống là chúng ta? Hơn thế nữa,  những người con Phật nên luôn nhớ rằng đạo Phật tán thán tất cả những phương thức báo ân theo truyền thống cao đẹp của dân tộc như vâng lời và không làm buồn lòng cha mẹ lúc còn nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ lúc các ngài ở tuổi xế chiều, khi các ngài qua đời thì tưởng nhớ với giỗ kỵ để cùng nhau ôn lại những gương hạnh lành của các ngài chứ không phải họp mặt lại chỉ để chè chén. Tuy nhiên, điểm tối quan trọng trong người hiếu hạnh nên luôn canh cánh bên lòng là làm sao cho cha mẹ bỏ ác làm lành, bỏ tà theo chánh và biết sống với  chánh đạo. Đó là cách duy nhứt làm cho các ngài thoát ra khỏi các đường khổ. Hãy cùng nhau ôn lại những câu ca dao dễ thương, đầy tình tự gia tộc, mà cũng đủ đầy hiếu hạnh như: “Uống nước nhớ nguồn,” “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây,” “Mẹ già như trái chín cây, gió đưa mẹ rụng biết ngày nào đây.” Hãy cùng nhau về nguồn với truyền thống sống cao đẹp của cha anh, biết hy sinh lợi ích cá nhân để đặt nền tảng gia đình và tình gia tộc lên trên tất cả, trong đó con cái hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ biết thương yêu chăm lo và hy sinh cho con cái.       Trong trạng huống hiện tại tại các quốc gia tiên tiến về khoa học kỹ thuật, khuynh hướng sống cuồng vội theo vật dục, đã gây ra cơn khủng hoảng đạo đức trầm trọng, mà nạn nhân không ai khác hơn là chính chúng ta. Trong khung cảnh đổ vở đó, chúng ta phải bằng mọi cách góp phần giữ lại gia tài  đạo đức còn lại của dân tộc, để chống đỡ không cho truyền thống cao đẹp nầy bị đánh bậc gốc rễ và bị cuốn trôi theo những cơn bão táp của thời đại. Muốn được như vậy, trước tiên chúng ta phải làm gương cho đàn hậu bối của chúng ta, hãy sống hiếu thảo để các em thấy được những điều hay lẽ đẹp của dân tộc. Theo các nhà giáo dục Việt Nam nơi hải ngoại thì tiếng Việt còn là văn hóa dân tộc còn. Cũng như vậy, hiếu hạnh còn thì tình gia tộc và truyền thống văn hóa của  dân tộc còn. Hãy cho con em mình đến chùa, tham dự vào những buổi thuyết giảng về Hiếu Hạnh để một mai nơi đất khách quê người, thế hệ chúng ta có qua đi, các em cũng biết mang lòng từ bi và hiếu đạo trong tinh thần tôn trọng tôn ti trật tự của gia tộc để đi vào đời, và cũng để chẳng những cùng nhắc nhở nhau về sự báo đáp công ơn sâu dầy của cha mẹ, mà còn là cơ hội cho các bậc cha mẹ ở đây cảm thông với những khó khăn mà con em mình đang phải đương đầu trong xã hội hôm nay. Hãy tạo cơ hội cho con em chúng ta để ngay trong những giây phút tuyệt vời của hiện tại, các em có thể nhìn cha mẹ với đôi mắt yêu thương hơn, các em có thể ôm vai cha mẹ và nói được những lời âu yếm hơn như: “Con thương cha, con thương mẹ.”

Cây có cội, nước có nguồn. Làm con người, nếu không có cha mẹ thì làm sao chúng ta có thể đứng được trong Trời Đất ? Chính vì thế mà giáo điển của hầu hết các tôn giáo đều nhấn mạnh về hiếu hạnh. Riêng trong kho tàng giáo lý uyên thâm của nhà Phật, chúng ta thấy bàng bạc những lời Phật dạy về mối tương quan vô cùng cao quý thiêng liêng giữa con cái và cha mẹ trong các Kinh Vu Lan, Tâm Địa Quán, Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân, Kinh Từ Bi, Kinh Địa Tạng, Kinh Nhẫn Nhục, vân vân. Trong các kinh nầy, Đức Phật dạy rất rõ ràng về tình cha nghĩa mẹ. Với Phật, cha mẹ hiện tiền, là Phật trụ thế. “Tâm hiếu kính cha mẹ, chính là tâm hạnh Phật,” hoặc “Hiếu thảo là điều thiện to lớn nhứt. Bất hiếu là điều ác to lớn nhứt.” Hãy cùng nhau thắp sáng giá trị cao quý của tình gia tộc và đạo nghĩa hiếu hạnh của dân tộc, và chất liệu trọng yếu của tình thương cha mẹ trong đời sống hằng ngày, để biết trân quý tình cha nghĩa mẹ vì như Phật đã nói. Từ ân của cha và Bi ân của mẹ, dù Phật có trụ thế suốt kiếp cũng nói không hết. Nói về sự nghèo giàu trong Kinh Tâm Địa Quán: “Trên đời nầy, ai là người giàu, ai là người nghèo ? Còn mẹ hiền là người giàu, mẹ hiền mất rồi là người nghèo. Còn mẹ hiền là mặt trời trưa, mẹ hiền qua đời là mặt trời lặn. Còn mẹ hiền là đêm trăng sáng, mẹ hiền qua đời là đêm không trăng.”

Truyền thống “Tiết Tháng Bảy Vong Nhân Mừng Xá Tội” đã ăn sâu vào tâm khảm của người Việt tự bao giờ. Dù thuộc bất cứ tôn giáo nào, chứ không riêng gì Phật giáo, hễ đến rằm tháng Bảy là những người con thảo cháu hiền cũng đều cảm thấy chạnh lòng se thắt một nỗi niềm thương mến đến ông bà cha mẹ, hiện tiền hay quá vãng.  Hãy cùng nhau ôn lại những gương hạnh hiếu thảo của Mục Kiền Liên với những lời xót xa thống thiết  khi mang bát cơm đến cho mẹ nơi a tỳ địa ngục. Hãy cùng nhau tìm lại truyền thống cổ  truyền cao đẹp vẫn còn bàng bạc qua những câu ca dao dễ thương:

“Đêm Vu Lan trăng tròn vằng vặc
Nhớ mẹ cha canh cánh bên lòng
Cha còn như ngọn đèn trong
Mẹ còn như ánh trăng rằm Trung Thu.”
Phải rồi ! “Còn cha còn mẹ như tiên,
Mất cha mất mẹ như chim lạc đàn.”

Thật đúng vậy ! Núi Thái Sơn có cao, cũng không cao hơn công cha; biển Thái Bình có rộng, cũng không rộng hơn nghĩa mẹ. Chính vì thế mà sự báo hiếu với người Việt Nam chúng       ta, chẳng những là một bổn phận, một nhiệm vụ, mà nó đã trở thành một truyền thống cao đẹp, một giá trị đạo đức  và luân lý cao quý, hơn thế nữa báo hiếu là sợi dây thiêng liêng nối kết tôn ti trật tự gia đình theo truyền thống Á Đông mà Tây phương thiếu vắng.

Mùa Vu Lan Báo Hiếu, bốn tiếng tuy đơn sơ quen thuộc, nhưng chứa đựng một âm vang thiết tha trìu mến cho vạn triệu con tim Việt Nam, nhứt là những đứa con đang tha hương nơi đất khách quê người. Trải qua bao thế hệ, Vu Lan không còn gói gọn trong truyền thống Phật giáo nữa, Vu Lan được nhiều người mở rộng vòng tay đón chào. Nếu là Vu Lan ở Việt Nam thì văng vẳng tiếng ve sầu vẫn phát ra giữa trời hạ ấm nồng. Riêng tại California mặc dầu hãy còn là những ngày hè oi ả. Tuy nhiên, những chiếc lá xanh tươi cũng bắt đầu phai nhạt ngả màu và cũng bắt đầu rơi lả tả theo từng cơn gió đầu thu. Nhìn những chiếc lá vàng rơi, quý vị có chạnh lòng nhớ lại hoàn cảnh của các đấng sanh thành ra mình, cũng như những chiếc lá vàng kia, cũng bắt đầu vàng úa và rụng rơi. Diễn cảnh của vũ trụ từ xuân qua, hạ đến, thu vãng, đông về… có khác chi diễn cảnh nơi con người với sanh, lão, bệnh, tử đâu. Trăm năm một kiếp con người so với vũ trụ nào khác chi một khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi. Mới có đó rồi không đó, vừa xuân xanh đó mà thoáng một cái là đã già. Thời gian trôi nhanh như ánh chớp. Cây lá vô tình, nhưng con người hữu cảm. Chính cha mẹ là những người đã san sẻ một phần máu thịt để tạo nên hình hài của chúng ta. Không những các bậc cha mẹ chỉ tạo cho chúng ta nên vóc nên hình, mà tình thương của các ngài dành cho chúng ta là thứ tình thương cao thượng tuyệt  vời và bao la vô bờ vô bến. Ý niệm về cha mẹ thường không thể tách rời khỏi ý niệm của tình thương và sự hy sinh. Làm con hiếu thảo, không biết đền đáp thế nào cho vừa cho đủ với thâm ân sâu dày ấy. Chính vì thế mà Đức Phật đã dạy rằng: “Tâm hiếu là tâm Phật, đạo hiếu là đạo Phật.” Ngay trong ca dao truyền khẩu Việt Nam cũng đã có những ca ngợi không thể nghĩ bàn về công ơn cha mẹ:

“Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ hiền.”

Tại sao công lao cha mẹ lại sâu nặng đến nỗi nhiều như  lá rừng và sao trời  mà vẫn chưa sánh kịp? Trên thế giới, mọi chủng tộc, mọi tôn giáo đều trân trọng hiếu hạnh. Trong cả văn chương bác học lẫn ca dao bình dân, đã thuyết minh quá rõ về tình mẫu tử phụ tử, về ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của mẹ cha. Đạo làm con dù lòng hiếu kính có viết thành thiên kinh vạn quyển cũng chưa gọi là đủ. Chính vì thế mà bàng bạc đó đây trong văn chương, ngoài dân gian, đi đâu đến đâu chúng ta cũng đều nghe những lời tán thán về cha mẹ. Mặc dù lời lẽ ngôn ngữ cho mẹ và lòng hiếu thảo của con cái hết sức đơn giản, nhẹ nhàng như áng mây trôi, như bức tranh thủy mạc, như bóng trăng non, như làn gió lay nhẹ cành trúc, nhưng nó chứa đựng cả một truyền thống cao đẹp mà không một bút mực nào có thể tả xiết. Tình cha nghĩa mẹ là suối nguồn hạnh phúc của con cái, là nước cam lồ tưới mát lẽ sống đời con, là ánh mặt trời đem lại mầm sống cho nhân loại. Mặt trời và không khí cần thiết cho sự sống thế nào thì tình cha nghĩa mẹ  cũng cần thiết cho sự trưởng thành của các con như thế ấy. Chính vì thế mà cổ nhân có dạy:

“Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian
Tiếng ru mẹ ấm vô vàn
Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương
Ngày con cắp sách đến trường
Chắt chiu cặp sách khăn choàng mẹ lo.”

Thật vậy, mẹ cha đã dùng hết nang lực của mình để lo cho các con. Lòng hy sinh của mẹ cha không biển trời nào sánh kịp, không có con đường nào trên cõi đời này in dấu chân con mà không có bước chân của cha của mẹ, không có chân trời góc bể nào mà mẹ cha không trông ngóng bóng hình của con:

“Mẹ hy sinh tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu, là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu
Bây giờ bóng mẹ còn đâu
Chỉ còn non nước một màu xanh xanh.”

Người hiếu hạnh không khỏi ngậm ngùi xót xa khi nghĩ đến ơn nghĩa sâu dầy của cha của mẹ:

“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa.”

Hoặc:

“Công cha đức mẹ cao dầy
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.”

Hãy cùng nhắc nhở cho nhau về một truyền thống Báo Hiếu cao đẹp đã tạo ra mối dây liên hệ gia tộc bền vững, một trật tự gia đình hòa thuận mà chưa có quốc gia kỹ thuật tiên tiến nào có thể bì kịp! Trong Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân, Đức Phật đã dạy rằng: “Người biết chọn con đường đạo đức, thì lúc nào cũng lấy hạnh từ bi làm đầu. Với chúng sanh mọi loài còn đem lòng thương xót, huống hồ là cha mẹ, người đã sanh thành dưỡng dục ra ta. Trong bất cứ tình huống nào, người con Phật không được quyền bất hiếu.” Thật đúng như lời chỉ giáo của Đức Phật, kẻ nào cam tâm bất hiếu với cha mẹ thì kẻ đó sẽ dám làm bất cứ chuyện gì, ngay cả chuyện bất nhân, bất nghĩa. Mùa Vu Lan chẳng những là cơ hội cho những người con Phật chúng ta tìm cách báo hiếu, mà còn là cơ hội cho chúng ta lắng lòng suy gẫm lại cung cách mình cư xử với cha mẹ trong cuộc sống hằng ngày, từ hành động, ngôn ngữ, đến cữ chỉ và lối cư xử của mình đối với mẹ cha. Đừng tiếp tục đổ thừa cho hoàn cảnh nữa quí vị ơi! Hiếu hạnh là cái gì thực tiễn và dễ làm chứ không phải là những thứ xa vời khó năm bắt. Khi cha mẹ già tay run chân yếu, bước đi không còn vững vàng nữa thì ta dẫn cha mẹ đi bằng tất cả sự kính yêu hiếu thuận, đó cũng là hiếu hạnh. Cha mẹ bực bội, chúng ta nói một lời gì an ủi làm cho cha mẹ vui, đó là hiếu. Tất cả những gì chúng ta có thể làm cho cha mẹ ngay từ bây giờ thì ta làm, đó là hiếu. Dù thuộc bất cứ tôn giáo nào, đối với người Việt Nam chúng ta việc nhớ ơn cha mẹ và báo hiếu cha mẹ là cảm giác, là những suy tư, hay những việc làm đã in sâu trong tâm khảm mọi người Việt Nam. Hãy cùng nhau ôn lại những câu ca dao truyền khẩu dễ thương về hiếu hạnh của dân tộc Việt Nam chúng ta:

“Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.”

Hoặc:

“Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.”

Hoặc:

“Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.”

Hoặc:

“Đêm khuya trăng rụng xuống cầu
Cảm thương cha mẹ, dãi dầu ruột đau.”

Hãy còn nhiều nhiều lắm những câu ca dao bình dân nhưng tràn đầy ý nghĩa hiếu hạnh. Biển đông còn lúc đầy vơi, chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng. Chính vì thế mà trong Kinh Báo Hiếu, Đức Phật đã khẳng định rằng: “Người bất hiếu vô nghì, đồng hạng với kẻ vô ơn bạc nghĩa, kẻ đó dù có đứng hầu cạnh Như Lai, vẫn muôn trùng xa cách Như Lai.” Như vậy theo truyền thống Phật giáo thì chữ Hiếu thật là thâm thúy. Dù phụng dưỡng cha mẹ bằng cam lồ trăm vị, dùng thiên nhạc làm vui tai các người, sắm y phục hảo hạng, vai cõng mẹ cha đi khắp bốn phương trong vô lượng kiếp, vẫn chưa gọi là đủ. Người hiếu hạnh theo đạo Phật phải vừa phụng dưỡng mẹ cha, vừa biết khéo léo khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ Tam Qui, gìn ngũ giới.

Chắc ai trong chúng ta cũng đều biết rằng cha mẹ đã một đời hy sinh cho con cái. Cha mẹ buồn vui theo từng bước chân con đi, từng nẻo đường con qua. Vì con mà cha mẹ phải bôn ba xuôi ngược, vì con mà lắm khi cha mẹ phải đem thân làm tôi mọi cho người cũng không chừng. Đúng vậy:

“Một đời vốn liếng mẹ trao,
Mẹ cho tất cả, mẹ nào giữ riêng,
Mẹ hiền như một bà tiên,
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.”

Hãy cùng nhau sống lại truyền thống hiếu hạnh cao đẹp của cha anh. Với người con Phật, cảnh vật có thể theo dòng thời gian mà thay đổi, hoàn cảnh xã hội cũng có thể theo đà tiến bộ mà thay đổi, nhưng hiếu hạnh không bao giờ thay đổi vì chính Phật đã dạy: “Tâm Hiếu là tâm Phật, đạo Hiếu là đạo Phật.” Mà tâm Phật và đạo Phật là bất di bất dịch, nên tâm hiếu và đạo        hiếu cũng phải bất di bất dịch. Hãy giữ vững niềm tin vào Hiếu Hạnh, dù chúng ta đang phải vật lộn với đời trong một xã hội văn minh vật chất, trong đó “hiếu hạnh” bị phủ nhận, nếu không
nói là bị chối bỏ.  Dù đảo điên điên đảo thế mấy, những con người hiếu hạnh cũng luôn nhớ “Biển đông còn lúc đầy vơi, chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.” Nhớ để mà sống  và trao truyền cho đàn hậu bối của chúng ta những gì cao đẹp nhất của truyền thống hiếu hạnh. Thật dễ thương làm sao những câu ca dao bình dân nói lên lòng hiếu kính của con cái đối với cha mẹ:

“Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy
Ai về tôi gửi đôi giầy
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.”

Hoặc:

“Ai rằng công mẹ như non
Thật ra công mẹ lại càng lớn hơn.”

Hoặc:

“Trải bao gian khổ không sờn
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền.”

Hoặc:

“Cha tôi tuy đã già rồi
Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà
Sớm hôm vừa gáy tiếng gà
Cha tôi đã dậy để ra đi làm.”

Chính sư ông Nhất Hạnh, một đại Thiền Sư nổi tiếng của thời cận đại mà còn phải thốt ra câu tán thán tuyệt vời về mẹ, dù mẹ Ngài đã khuất bóng khi Ngài còn rất trẻ:

“Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là hết khổ đi rồi
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa lạnh rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.”

Chúng ta đã bước qua ngưỡng cửa thiên niên thứ ba, có lẽ cung cách “Phu xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” không còn thích hợp nữa. Tuy nhiên, người con Phật phải luôn nhớ rằng:

“Người tai mắt ở trong trời đất
Ai là không cha mẹ sinh thành
Gương treo đất nghĩa trời sinh
Ở sao cho xứng chút tình làm con.”

Hãy tự mình vừa ôn lại cung cách mình đã đối xử với mẹ cha, từ cử chỉ, ngôn ngữ đến hành động, vừa phản quang tự kỷ xem coi chúng ta có ăn ở sao cho xứng với chút tình làm con hay chưa? Hãy ôn lại về “Ngày rằm tháng Bảy xá tội vong nhân” không nhứt thiết chỉ có nghĩa là cầu nguyện một cách tiêu cực, mà phải hiện thực cho bằng được những lời Phật dạy về làm người phải có tâm từ, làm con phải hiếu, làm dân phải nghĩ đến tiền đồ của dân tộc. Người con Phật đón mừng Vu Lan là dâng trọn lòng thành lên ngôi Tam Bảo, thề trọn đời giữ đạo, theo tự tánh làm lành. Muốn giữ đạo Phật cho tròn, theo lời chỉ dạy của Thế Tôn, chúng ta không có con đường nào khác hơn là phải trước hết vâng giữ đạo làm người, đạo làm con. Dù địa vị có lớn thế mấy trong xã hội, mà không tròn đạo làm người và đạo làm con, thì con người ấy vẫn là con người nguy hiểm cho xã hội. Nếu làm vua mà vô đạo và vô nghì bất hiếu thì xã tắc nguy vong; nếu làm quan mà không tròn đạo hiếu với cha mẹ thì chuyện gì cũng dám làm, ngay cả chuyện thích khách vua để soán đoạt ngôi báu. Nếu làm dân mà không tròn hiếu đạo, thì không còn biết sợ bất cứ việc gì. Mà thật vậy, cầm thú còn biết mang ơn và trả ơn, huống là con người! Một người con mà vô ân bạc nghĩa với cha mẹ, thì con người ấy không bao giờ có thể là một người bạn tốt, một người chồng biết chăm sóc và bảo bọc vợ con, một người vợ hiền, một nàng dâu thảo. Chính vì vậy mà cổ nhân có dạy: “Làm một con người mà bội ơn cha mẹ thì không xứng đáng là một con người.” Cũng như vậy, một người Phật tử mà bất hiếu với chính cha mẹ mình thì không thể nào có đủ tư cách nói chuyện tu làm Phật. Hãy ôn cố tri tân để thấy đạo làm người và đạo làm Phật. “Chữ hiếu” là gốc của con người. Hãy suy nghĩ kỹ thì chúng ta sẽ thấy rằng dù chúng ta có cố gắng thế mấy đi nữa, lắm lúc chúng ta vẫn cảm thấy mình thiếu sót. Ai trong chúng ta cũng phải công nhận rằng cha mẹ luôn nuôi con trong tinh thần hy sinh, dù phải nuôi năm bảy đứa, hoặc lắm khi nuôi luôn cả dâu rể cũng không màng, thế mà khi con phải nuôi lại cha mẹ nếu có thì cũng trong sự dè sẻn và tính toán.

Thật tình mà nói, không có hạnh phúc nào lớn hơn là còn được đủ đầy cha mẹ. Thân thể cha là nơi ban phát mọi hy sinh, tấm lòng mẹ là nơi dung chứa tình yêu thương chân Thật, làm vơi đi nỗi thống khổ của cuộc đời. Thế mà khi        chúng ta lớn lên, khi chúng ta đã đủ lông đủ cánh để bay nhảy thì chúng ta lại vội quên đi thuở nằm nôi, thuở được cha mẹ tưng tiu bồng ẩm. Chúng ta quên hẳn vùng trời hạnh phúc mà cha mẹ đã đùm bọc yêu thương mình lúc thiếu thời. Nếu chúng ta chưa có khả năng tròn đầy hiếu hạnh như Mục Kiền Liên, Thầy Tử Lộ, Lão Lai, Mẫn Tử Khiên, Lã Vọng, hay ông U Thant của thời cận đại, thì ít nhứt chúng ta cũng tránh được cái cảnh bỏ bê cha mẹ, hay bắt cha mẹ phục dịch như người ăn kẻ ở. Các người đã dọn cơm nấu canh cho chúng ta nhiều quá rồi, giờ các người ở tuổi xế chiều, bổn phận người con chí thành chí hiếu là hết lòng phụng dưỡng và khuyến tấn các ngài sống những ngày còn lại trong chánh đạo. Hãy lắng lòng nghe lời kinh Phật dạy về hiếu hạnh để thấy rằng “Báo Hiếu” không đơn thuần là một triết lý sống, mà lời kinh nầy còn mang một tư tưởng cách mạng, tư tưởng tự cởi trói và giải phóng tự thân thoát khỏi gông cùm của “tự kỷ.”  Thật vậy, xin quý vị hãy  lắng nghe lời dạy của Thế Tôn trong Kinh Phạm Võng: “Chúng sanh muốn tu hành rốt ráo, phải luôn xem nam nhân trên đời là cha ta, và phải xem nữ nhân trên đời là mẹ ta.” Muốn làm được như vậy, trước hết chúng ta phải xem cha mẹ của chính mình là những người đáng được kính trọng và phụng dưỡng bằng tất cả tấm lòng thành.

Truyền thống hiếu hạnh của dân Việt Nam chẳng những được đề cao trong văn chương văn học, mà hiếu hạnh còn được truyền tụng từ đời nầy qua kiếp nọ với kho tàng ca dao truyền khẩu như:

“Uống nước nhớ nguồn
Làm con phải hiếu.”

“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây.”

Bên cạnh truyền thống “hiếu hạnh,” ca dao truyền khẩu  cũng có rất nhiều câu ca tụng về tình cha nghĩa mẹ, cũng như công ơn sâu dầy của những đấng sinh thành:

“Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha chết gót con lấm bùn.”

Hoặc:

“Còn cha nhiều kẻ yêu vì,
Đến khi cha chết ai thì yêu con.”

Hoặc:

“Con không cha như nhà không nóc.”

Nhà không nóc thì làm sao chống chỏi được với nắng mưa bão tố ? Con không cha thì lấy ai che chở bảo bọc ? Còn nói về mẹ thì ca dao truyền khẩu đã nói quá nhiều. Nghĩa mẹ hay tình mẹ được ví như biển Thái Bình hay suối nguồn vô tận.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình.”

Hoặc:

“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Nếu hãy còn cha còn mẹ, xin quý vị  hãy nói với cha mẹ một câu: “Ba ơi ! Mẹ ơi ! Ba Mẹ có biết là con thương ba mẹ lắm không ?” ngay từ bây giờ chứ đừng chờ đừng đợi đến khi các ngài khuất núi rồi mới luyến tiếc không nguôi. Các bậc cha mẹ đã một đời đến với con cái, thế còn những người con như chúng ta, đã có ngày nào chúng ta đến được với cha mẹ chưa ? Hãy lắng lòng nghe lời Phật dạy về cách làm sao con cái có thể đến với cha mẹ, chẳng những bằng vật chất mà cả về tinh thần nữa. Hãy nghe, hiểu và thực hành hiếu hạnh ngay từ bây giờ, hầu tránh được trạng huống ân hận một ngày nào khi cha mẹ không còn nữa. Thật tình mà nói, bản thân những bà mẹ Việt Nam không bao giờ muốn được tôn vinh. Muôn đời các bà mẹ Việt Nam lúc nào yên phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi nơi góc vườn khuôn bếp, hay với gánh hàng rong lầm lũi nuôi con. Tuy nhiên, những người con hiếu thảo và sống có đạo đức, không thể nào quên được những tháng ngày thơ dại, ai đã nằm chỗ ướt để nhường chỗ ráo cho mình ? Ai đã nhịn ăn nhịn mặc để mua sắm cái ngon cái tốt cho mình? Thời gian không chờ không đợi một ai, mẹ cha không sống đời được với chúng ta đâu, rồi cũng sẽ có một ngày, bóng mẹ bóng cha sẽ khuất. Trong thế giới vô thường giả tạm nầy, thậm chí chỉ một thoáng trôi qua là mẹ cha đã trở thành ký ức rồi.

Công cha như núi Thái Sơn, núi ấy cao sừng sững che chắn đời con, không có núi ấy chúng ta khó lòng vượt qua những phong ba bão táp của trường đời. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, trừ phi mẹ vĩnh viễn ra đi chứ nước từ mạch nguồn chảy ra thì có bao giờ khô cạn đâu? Không có nước nguồn bao la cũng như tình thương của mẹ, chắc hẳn chúng ta khó có được ngày hôm nay. Thân xác mẹ cha có thể héo mòn theo thời gian, chứ tình cha nghĩa mẹ không bao giờ mòn héo.  Hãy cùng nhau ôn lại công ơn vô cùng vô tận của mẹ cha. Hãy thấy rằng nhiều lúc chúng ta tưởng mình đã báo ân, nhưng kỳ thật chúng ta chưa mãi mai đền đáp chút nào. Đúng như lời truyền khẩu trong những câu ca dao:

“Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng.
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.”

Hãy cùng nhắc nhở nhau soi xét lại hành động, cử chỉ, ngôn ngữ của chính mình đối với các bậc sinh thành. Hãy nhìn lại hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên với bát cơm chí hiếu. Hiếu hạnh của một Đại Tăng đã chứng đạo như Ngài đã để lại cho hậu thế chúng ta một tấm gương sáng ngời về gương báo hiếu và lòng biết ơn hai đấng sanh thành. Chính Đức Thích Tôn Từ Phụ, một Đại Đạo Sư của Trời Người đã dẫn đường chỉ dạy cho chúng ta rất nhiều về chân lý sống vui sống đẹp trên thế gian nầy. Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta con đường đi đến an vui trọn vẹn. Ngài vẫn thường hay nhắc nhở tứ chúng trong các kinh điển của Ngài rằng: “Đạo Phật không rời thế gian. Không thể nào thành Phật nếu đạo đức thế gian chưa tròn.” Hãy lắng nghe lời Phật dạy để thấy rằng đạo đức thế gian không ở đâu xa, đạo đức ấy rất đơn giản trong từng cung cách cá nhân đối xử với gia đình và xã hội. Hễ cá nhân hiếu đễ với cha mẹ anh em, thì cũng sẽ đem cung cách ấy mà sống hòa hợp với xã hội và làng nước. Hãy cùng nhắc nhở cho nhau về “Đường sống đạo đức chính là con đường dẫn đến hạnh phúc miên viễn.” Trong con đường “Đạo Đức” ấy, hiếu đạo luôn đứng đầu. Chính Đại Văn Hào Victor Hugo của Pháp vào giữa thế kỷ 19 đã phải thốt lên: “Ôi ! Tình thương của Mẹ, một thứ tình khó quên, một thứ bánh nhiệm mầu, vì càng cho các con, bánh ấy càng tăng, chứ không bao giờ giảm.”      Đã trên hai mươi lăm thế kỷ với những thăng trầm của nhân loại với biết bao cuộc bể dâu đổi đời và biết bao điêu tàn đổ nát, thế nhưng gương hiếu hạnh của Đại Hiếu Mục Kiền Liên vẫn còn đó và sẽ còn đó mãi mãi. Trên hai mươi lăm thế kỷ trước, một đại đệ tử của Đức Phật đã khai mở một kỷ nguyên “Hiếu Hạnh” cho loài người. Cha mẹ dù có làm bao điều quấy ác, cũng như chẳng biết gì đến thiện ác của luân hồi nhơn quả, cũng vẫn là những bậc sanh thành ra chúng ta, không có các người, sẽ không có sự hiện hữu của chúng ta. Cha Mẹ dù bỏn sẻn, ích kỷ và keo kiết với kẻ khác thế mấy, thì núi Thái Sơn của cha vẫn sẵn sàng bảo bọc con và suối nguồn nơi mẹ vẫn luôn tuôn ra chất nước Cam Lồ vô tận cho con. Bổn phận người con hiếu thảo là phải tìm phương cách làm thế nào khéo léo hướng dẫn mẹ cha xa lìa ác đạo.

Đạo lý báo hiếu trong đạo Phật không xa cách đạo lý cổ truyền của dân tộc. Kỳ thật, đạo lý ấy dạy cho con người biết thương yêu nhau hơn, biết gần gũi nhau hơn. Chính vì thế mà tự bao giờ, đạo lý ấy đã thâm nhập tận gốc rễ vào truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Hãy cùng nhau nhắc nhở về hiểm họa khô cằn tình cảm của xã hội văn minh khoa học kỹ thuật. Hãy cùng nhau lắng nghe  lời Chúa lời Phật Phật dạy, hầu tránh được tình trạng vô hồn của trái tim không còn biết xúc cảm quặn đau khi nhìn thấy chúng sanh lăn lóc khổ lụy trong biển đời sanh tử. Xin hãy dắt dìu con em chúng ta cùng nhau sống trong hiếu hạnh để thế hệ nầy dắt dìu thế hệ nọ, cùng tiếp nối truyền thống báo hiếu cao đẹp của dân tộc.

Chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm của viễn ảnh một ngày không có báo hiếu, không có xá tội vong nhân, không có đạo hiếu hay đạo đức gì cả trên cõi đời nầy. Nhứt là nơi hải        ngoại nầy, nếu chúng ta không khéo thì ngay trong đời con của chúng ta, các em sẽ xa lạ với truyền thống báo hiếu. Hãy nhắc nhở con em về hiếu hạnh và công ân phụ mẫu, để các em hồi tưởng Lại công ân chín tháng cưu mang  và xẻ da rách thịt khi mẹ phải lâm bồn sanh nở. Hãy hồi tưởng lại công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ, miếng ngon miếng ngọt cho con, miếng cay miếng đắng dành phần cho cha; chỗ hôi chỗ ướt mẹ nằm, chỗ khô chỗ ráo mẹ dành cho con. Ai đã khổ nhọc nuôi dưỡng cho chúng ta nên hình nên vóc. Ngoài ba năm bú mớm nơi mẹ, mẹ còn chịu cực chịu khổ, giặt quần giặt áo và lo cho con từ cái ăn cái uống, từ tấm bé cho đến khi con khôn lớn trưởng thành. Mỗi khi con đi
đâu là lòng mẹ không yên, đứng ngồi không ổn. Cha mẹ có thể vì con mà  gây tội tạo nghiệp, dù con đã lớn khôn, không lúc nào mà cha mẹ không nhớ nghĩ, thương yêu và lo lắng cho con.

Trong Kinh “Bất Tư Nghì.” Đức Phật dạy:

“Nếu cha mẹ không tin,
Khuyên phát khởi lòng tin;
Nếu cha mẹ chưa có giới pháp,
Khuyên thọ trì giới pháp;
Nếu cha mẹ tánh tình bủn xỉn,
Khuyên tu hạnh bố thí;
Nếu cha mẹ không có trí huệ,
Khiến kia tu trí huệ;
Làm con được như thế,
Mới gọi là trả ơn.”

Chữ “hiếu” không chỉ là một biển tình, tình cha con, tình mẹ con; mà chữ hiếu còn là một đạo đức cao tột của truyền thống dân tộc. Theo thuyết nhà Phật, sự báo hiếu là vô cùng vô tận, không có giới hạn của thời gian. Dân tộc ta ta vốn dĩ là một dân tộc hiếu hòa, nhưng chính nhờ thừa hưởng thêm giáo thuyết “Hiếu Hạnh” của đạo Phật, từ khi đạo nầy du nhập vào Việt Nam đến nay, đã khiến dân tộc ta thành một dân tộc hiếu hòa hơn. Nhụy vàng của những đóa hoa giải thoát trong đạo Phật chính là chữ “Hiếu.” Từ trong đầm lầy của Ta Bà Ngũ Trược Ác Thế, nhụy vàng của những cánh sen nẩy lên tình yêu thương và báo hiếu với cha mẹ, tình yêu thương và nhớ ơn chúng sanh. Hãy đón nhận những cánh sen “Hiếu Hạnh” ngay khi hãy còn chưa quá muộn màng. Hãy cùng nhau nhắc nhở về tình cảm “Báo Ân Báo Hiếu” trong giáo lý dễ thương của đạo Phật. Theo Phật, “Báo Ân Báo Hiếu” không dừng lại trong phạm vi gia đình, người con Phật phải luôn nuôi dưỡng và phát triển cho sự báo ân lòng báo hiếu với cha mẹ trở thành một  thứ “từ bi, thương yêu và thông cảm” với mọi khổ đau của chúng sanh trong cuộc sống hằng ngày. Trong đạo Phật, Đức Phật đã nâng chữ “Hiếu” lên ngang hàng với chữ “Đạo,” một thứ đạo thiêng liêng và cao cả: “Đạo Hiếu.” Ngày vẫn thường dạy dỗ tứ chúng: “Hiếu đạo là Phật đạo, hiếu hạnh là hạnh Phật.”

Trong quá trình lịch sử dân tộc, nhứt là lịch sử cận đại, đã có biết bao anh hùng vị quốc vong thân, gần đây nhứt là cuộc vượt thoát ngoài biển Đông, đã có biết bao oan hồn uổng tử vùi thây nơi biển cả. Hơn thế nữa, trong thập loại chúng        sanh, có rất nhiều âm linh vất vưởng không nơi nương tựa. Hãy cùng trang trải tình thương đến cho nhau. Hãy cùng nhau tri ân những người đã nằm xuống cho sự sống của chính chúng ta.

Ông Pasteur, một nhà Vi Trùng Học nổi tiếng của Pháp, một bác học lỗi lạc đã khám phá ra vi trùng để cứu thoát hàng vạn triệu  nhân loại, khi được chính phủ Pháp vinh danh tại Quốc Hội, ông chỉ xin một yêu cầu nhỏ là cho ông trở về        ngôi nhà nơi ông chào đời để đọc một bài diễn văn rất ngắn nhưng đầy ý nghĩa: “Hỡi Cha và hỡi Mẹ! Những người thân yêu đã khuất, đã sống một cách khiêm tốn trong căn nhà nhỏ bé nầy ! Con nợ Cha Mẹ tất cả !” Thật đúng vậy, tất cả những gì ông có được là nhờ ai ? Nếu không có những bậc sinh thành ra ông, nhân loại hôm nay sẽ ra sao với bịnh tật ?

Dù chúng ta đang hân hoan vui sướng khi cha mẹ còn đủ đầy hay ngậm ngùi thương nhớ song thân đã nghìn thu vĩnh biệt, chúng ta vẫn nhứt tâm cầu nguyện cho bảy đời phụ mẫu và hiện tại phụ mẫu đều được ân triêm công đức của chư Phật và chư Thánh Hiền Tăng mà luôn sống an vui và chết siêu thoát.

Mỗi ngày chúng ta hít thở không khí và dùng nước trong mọi sinh hoạt hằng ngày, nhưng thử hỏi có mấy ai quan tâm đến môi trường trong sạch của nước và không khí ? Cũng như vậy, tình thương của cha mẹ cũng cần cho đời sống chúng ta như  sự cần thiết của không khí và nước vậy. Tuy nhiên, ít ai trong chúng ta chịu trân quý cũng như quan tâm đến sự trọng yếu của chất liệu tình thương của cha mẹ. Hãy cùng nhau thắp sáng giá trị cao quý của tình cha nghĩa mẹ bằng cách thể hiện cuộc sống hiếu hạnh ngay từ bây giờ. Trong Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân, Đức Phật đã khẳng định: “Ân đức sanh thành và dưỡng dục con cái của các bậc cha mẹ ngang bằng với ân đức giáo hóa của chư Phật, chư Bồ Tát và chư Thánh Tăng.” Chính vì vậy mà Phật luôn dạy tứ chúng rằng sự báo hiếu đối với cha mẹ hiện tiền cũng như phước lạc được theo hầu cạnh Như Lai không sai khác.” Trong Tứ Thư, Đức Khổng Phu Tử có nói: “Hiếu hạnh vi  bách hạnh chi tiên.” Theo truyền thống Đông phương cổ truyền của dân tộc, thì hiếu hạnh đứng đầu trong trăm hạnh. Hãy luôn nhớ rằng chữ “Hiếu” là gốc của đạo làm người, nhờ đó chúng ta có thể cắt đứt được vòng sanh tử luân hồi mà chúng ta đã lẩn quẩn bấy lâu nay. Thói thường chúng ta ít chịu phản quang tự kỷ xem coi mình đã ăn ở với cha mẹ như thấy nào, thế nhưng đến khi có con lại muốn con mình hiếu hạnh. Làm sao có lẻ ấy  ?

“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Thì con cũng hiếu với ta khác gì
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu là gì uổng công !”

Ca dao truyền khẩu từ ngàn xưa đã hết lời ca tụng chữ “hiếu” rằng:

“Năm tiền một khúc cá buôi,
Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già.”

Hoặc:

“Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.”

Hãy nhìn lại gương hiếu người xưa. Một khúc cá buôi dù năm hay mười tiền, người con hiếu thảo vẫn cố mua cho đặng mà nuôi mẹ già. Đừng nói đâu xa, Tổ Từ Hiếu ở Huế, dù đã xuất gia và đã là một vị hòa thượng, nhưng vì hiếu đạo nên đã đem mẹ về chùa để sớm hôm vừa phụng dưỡng, vừa khuyến tấn mẹ theo đường chánh đạo. Một hôm mẹ muốn ăn cháo cá, Hòa Thượng vẫn ung dung xách giỏ đi chợ mua cá về, rồi tự tay ngài nấu cháo dâng mẹ. Một vị Hòa Thượng mà còn báo hiếu mẹ cha như thế đó, há là chúng ta ? Hãy học hỏi những gương hạnh lành của những người con hiếu thảo. Hột chà là dù cứng như đá nhưng cũng không cứng bằng lòng con hiếu thảo. Dù cứng nhưng con vẫn ráng nhai, để dành cơm nuôi mẹ già yếu răng. Hãy cùng nhau suy gẫm những câu nói đầy ý nghĩa của người xưa:

“Sống già thì chẳng cho ăn
Để chết giỗ kỵ cho ruồi nó xơi.”

Thật vậy, khi cha mẹ đã khuất bóng rồi thì mâm cao cổ đầy còn có nghĩa lý gì? Lúc cha mẹ còn sanh tiền, dù chỉ dâng lên các ngài những thứ rất bình thường như củ khoai, bát gạo, chén nước, tách trà, vân vân, nhưng dâng lên bằng tất lòng thành, dâng lên một vui cung kính vui vẻ, cũng được xem là hiếu hạnh tròn đầy. Ngược lại, mặc dù đem của cải chất đầy nhà, địa vị cao sang mà không làm được những điều bình thường ấy, cũng không được xem là hiếu hạnh. Mặc dù xã hội phương Tây không mấy đề cao “đạo hiếu;” tuy nhiên, hằng năm họ vẫn có hai ngày để nhớ ơn Cha Mẹ (Mother’s Day và Father’s Day). Chúng ta tuy đã làm thân viễn khách trên 29 năm qua, tuy chúng ta không còn được nghe tiếng chuông siêu độ ngân nga vào những bình minh hay hoàng hôn trên đất người, nhưng chúng ta vẫn còn đây hình ảnh những vị Tăng thân yêu, đang cố gắng hết sức của các Ngài để trùng tuyên những lời Phật dạy. Hãy cùng nhau nhắc nhở về những lời kinh tha thiết trong “Vu Lan Bồn”

“Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên.”

Hãy cùng nhau đốt hương đảnh lễ, hoặc dự lễ cầu siêu nhờ ở đức chúng như hải của chư Tôn Đức, mà hương hồn của ông bà cha mẹ quá vãng sớm được siêu thăng Cực Lạc Quốc. Vu Lan rằm tháng Bảy, chẳng những là mùa tri ân cha mẹ, mùa xá tội vong nhân cho những oan hồn uổng tử, mà còn là mùa Chư Tăng và Phật tử thiết lập đàn tràng cầu siêu độ cho cửu huyền thất tổ. Hãy cùng nhắc nhở nhau về hạnh phúc tuyệt vời khi còn đủ đầy cha mẹ. Thấy được hạnh phúc ấy để biết trân quý những giây phút được cạnh kề các bậc sinh thành. Thấy để toan liệu nên làm những gì có thể làm được ngay từ bây giờ, chứ đừng chờ đừng đợi. Người xưa thường nói:

“Mẹ già hết gạo treo niêu
Mà anh khăn đỏ khăn điều vắt vai.”

Hoặc:

“Mẹ già ở túp lều tranh
Đói no không biết, rách lành không hay.”

Nếu chúng ta không biết trân quý những gì mình đang có ngay trong những giờ phút hiện tại, sẽ có ngày chúng ta vô vàn ân hận mỗi khi nghe ai nhắc đến hai câu ca dao:

“Lúc sống thì chẳng cho ăn
Chết rồi xôi thịt, làm văn tế ruồi.”

Hãy cùng nhau ôn lại công ơn sanh thành dưỡng dục của song thân qua những câu ca dao:

“Gió mùa Thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm.”

Hoặc:

“Nuôi con chẳng quản chi thân
Chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn.”

Hoặc:

“Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn.”

Hãy cùng nhau nhắc nhở về hai kỳ quan tuyệt vời cũng như hai đại dương tình thương mênh mông của mẹ và của cha. Không có hai đại dương tình thương mênh mông nầy, chúng ta sẽ không cách gì lớn khôn và trưởng thành được. Tháng Bảy nơi đây trời oi ả chứ không lất phất nhẹ mưa như tháng Bảy năm xưa. Hãy cùng nhau nói với mẹ cha những lời chưa kịp nói, để một mai bất ngờ hai kỳ quan nầy có đổ nát và để lại một khoảng trống trong đời, dù thường tình vẫn chạnh lòng thương nhớ, nhưng chúng ta cũng không ân hận, dù phải cài lên áo một bông hồng trắng.

Đa phần hoàn cảnh tha hương của chúng ta đều tương tự. Chúng ta đã cắt ruột mà xa lìa quê cha đất tổ để đến đây, một xứ văn minh vật chất dư thừa, nhưng tình người và tinh thần thì thiếu thốn, nếu không muốn nói là hầu như không có. Ngày trước ở Việt Nam, tại các chùa chiền tự viện, lễ Vu Lan thật là rộn rịp, khách thập phương tới lui tấp nập, vì ngày Vu Lan chẳng những trọng đại cho bá tánh, mà còn trọng đại cho chư Tăng Ni nữa. Ngày đó chư Tăng Ni đổi y thay áo và tự tứ sám hối cũng như tăng thêm hạ lạp. Bây giờ làm thân viễn khách nơi xứ lạ quê người, chùa chiền cũng nhiều, Vu Lan cũng rộn rịp, nhưng hình như có một cái gì trống vắng, có một cái gì ngăn cách giữa cha mẹ và con cái. Quả thật chính ta đang đứng trước ngã ba đường lựa chọn giữa xã hội văn minh vật chất và truyền thống hiếu hạnh cổ truyền. Xã hội hôm nay có thể bắt ép chúng ta phải vật lộn vô cùng chật vật để có được sống tiện nghi thoải mái, nhưng không một ai có quyền bắt chúng ta phải bất hiếu vô nghì đối với cha mẹ chúng ta.  Hãy tìm hiểu một chút, chúng ta sẽ thấy rằng ngay cả loài vật mà còn biết sống hiếu hạnh. Loài két kia khi cha mẹ già trụi lông trụi cánh, không còn bay xa được để kiếm mồi, thì đám két con đã tìm mồi về nuôi cha mẹ. Loài dê rừng, khi cha mẹ già răng cỏ rụng hết, không còn nhai được cỏ nữa, thì chúng đã nuôi cha mẹ bằng sữa của chính mình. Loài voi kia còn biết an táng mẹ cha  đàng hoàng. Loài cầm thú mà còn biết hiếu thảo với mẹ với cha chúng như thế ấy, làm người há để thẹn lòng với chúng hay sao quý vị? Không đâu, chúng ta quyết đem đạo hiếu ra sống với mẹ cha mẹ ngay từ những giây phút các người còn sanh tiền linh mẫn, chứ không cam tâm làm mâm làm cỗ tế ruồi với những ân hận chất ngất. Chúng ta quyết sống hiếu hạnh và trao truyền hiếu hạnh lại cho đàn hậu bối mai sau, chứ không để một mai phải ân hận ray rứt suốt đời như bia miệng thế gian thường nói:

“Phận làm con lòng chớ vội phai mờ
Dù giàu sanh hay trĩu nặng đôi vai
Ân đức ấy nhờ ghi lòng tạc dạ.”

Hoặc:

“Đừng vội quên để miệng thế chê cười
Rồi hận lòng khi nhắm mắt xuôi tay
Tội bất hiếu đời đời lòng ray rứt.”

Hoặc:

“Cha mẹ thương con tợ biển trời
Làm sao đền trả được người ơi
Nếu không có hiếu, đừng bất hiếu
Bất hiếu làm ta khổ muôn đời!”

Ôi rõ ràng không sai chạy, bất hiếu là nhân mà quả phải trả là ray rứt, là khổ sở đến muôn đời. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam có câu:

“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công!”

Thật vậy, ở đời không có chuyện gì ngẫu nhiên mà đến, không có việc gì mà không có nhân duyên của nó. Nếu mình đối với mẹ cha hiếu thảo thì con cái mình sẽ hiếu thảo với mình không sai khác. Nếu mình bất hiếu tệ bạc với cha mẹ thì con cái cũng sẽ bất hiếu và tệ bạc với mình không sai khác.

“Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận
Ngỗ nghịch con nào có khác chi!
Xem thử trước thềm mưa nhỏ nước
Giọt sau giọt trước chẳng sai gì!”

Chuyện kể ngày xửa ngày xưa có một người trung niên hãy còn một cha già tay yếu chân run, nên mỗi lần ăn cơm hay làm đổ bể chén bát. Vì sợ tốn kém nên anh ta lấy một cái gáo dừa mài cho nhẵn nhụi, định dùng làm bát cho cha ăn, nhỡ cha tay run rẩy làm rớt cũng không bể để đỡ hao tốn. Đứa con thấy cha ngồi gọt gáo dừa, bèn tò mò hỏi cha gọt gáo dừa để làm gì? Người cha bèn giải thích là gọt gáo dừa để làm bát cho ông nội ăn cơm, để lở ông nội có run tay làm rớt cũng không bị bể. Nghe xong, đứa trẻ bỗng reo lên thích chí! Ba ơi, ôn nội dùng mà không bể, vậy khi ông nội qua đời ba nhớ đừng bỏ, mà để lại đó cho con. Người cha lấy làm lạ hỏi: “Để cho con để làm gì?” Đứa con tự nhiên đáp: “Để khi ba già như ông nội, tay chân run rẩy thì con lấy ra làm chén cho ba ăn cơm, khỏi mất công con làm cái gáo dừa khác.” Người cha chợt tỉnh ngộ. Từ đó về sau anh ta đối xử với cha mình hết mực hiếu thảo. Nếu bình tâm suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy trái tim của cha của mẹ là một kho tàng chất chứa từ, bi, hỷ, xả và lòng yêu thương vô tận. Thế nhưng chúng ta đã bao lần hất hủi hoặc ruồng bỏ cái kho tàng yêu thương ấy, đã bao lần chúng ta làm cho trái tim của mẹ của cha đau xót và chết dần theo năm tháng. Đến khi ta biết được  thì lắm khi sự thể đã quá muộn màng. Chừng đó chúng ta phải ray rứt đến trọn đời hết kiếp với hai chữ “bất hiếu.” Chính vì vậy mà các bậc Thánh Hiền luôn đề cao chữ “Hiếu.” Đức Khổng Tử thì dạy: “Hiếu hạnh vi bách hạnh chi tiên.” Còn Đức Phật thì dạy trong Kinh Nhẫn Nhục: “Cùng tột điều thiện, không gì hơn hiếu; điều ác cùng tột, không gì hơn bất hiếu.” Thật vậy, muốn bủa rộng đạo đức đến tha nhân, trước phải hiếu nghĩa với cha mẹ. Người hiếu hạnh với cha mẹ, sẽ biết yêu thương anh em bà con, biết tôn kính thầy tổ và sẽ có mối tương quan tốt đẹp với thân bằng quyến thuộc và làng nước.

Hạnh phúc không phải là một cõi xa xăm huyền hoặc hay không tưởng. Hạnh phúc ở ngay trong mỗi người chúng ta, hạnh phúc ấy bắt nguồn ngay trong cung cách hiếu đạo của mình với cha mẹ ông bà, vì hiếu là cội gốc của mọi yêu thương, hiếu hạnh đời này được truyền trao cho hiếu hạnh  đời kế tiếp, cứ thế mà chúng ta cùng nhau dắt dìu và gìn giữ truyền thống hiếu hạnh ngàn đời của dân tộc. Mong lắm thay!!!

HẾT TẬP 10

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật quả.

Pages: 1 2 3 4 5 6