ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG
TẬP IX
Thiện Phúc
(Tổ Đình Minh Đăng Quang)

453. Bóng Hạnh Phúc
454. Cùng Hướng Dẫn Nhau Tu
455. Đi Chùa Nào ?
456. Đạo Xử Thế Của Người Phật Tử
457. Những Mảnh Đời Địa Ngục
458. Tại Sao Người Phật Tử Phải Giữ Giới ?
459. Câm Và Tịnh Khẩu
460. Đạo Của Người Con Phật
461. Phản Quang Tự Kỷ
462. Thất Tình Lục Dục

 

453. BÓNG HẠNH PHÚC

Tư tưởng cách mạng nhân sinh của Phật Tổ Thích Ca chẳng những thích hợp và đáp ứng được nhu cầu xây dựng lại xã hội băng hoại ở Ấn Độ thời bấy giờ, mà nó sẽ còn thích hợp và thích hợp mãi mãi với mọi thời đại vì giáo lý nầy là chơn lý. Đã nói là chơn lý thì thời gian và không gian và không gian không còn ảnh hưởng. Giáo lý nầy sẽ vượt bức tường không gian và thời gian mà trường tồn. Sẽ không bao giờ có ai đánh đổ được tư tưởng bình đẳng khi máu của chúng sanh mọi loài cùng đỏ như nhau. Không ai đến cõi đời nầy với một giai cấp mang theo, cũng không ai đến cõi đời nầy với tiền của sẳn có. Duy chỉ có sự phát triển tri thức và đạo đức sẽ làm cho chúng sanh, đặc biệt là con người, có thấp có cao, hoặc có Thánh có phàm. Giáo lý ấy nếu được đem áp dụng vào cuộc sống cuộc tu hằng ngày thì cuộc sống ấy là an lạc, hạnh phúc, và cuộc tu ấy là tự tại giải thoát.

Là Phật tử, nếu chưa đủ cơ duyên xuất hồng trần gia để tu hành giải thoát, thì ít nhất cũng luôn hướng về mục đích tối thượng mà Phật Tổ đã đề ra cho những đứa con tại gia của Ngài: luôn áp dụng Phật pháp vào đời để cải thiện con người, gia đình và xã hội. Chúng ta đã bao kiếp lăn trôi trong tam đồ lục đạo cũng chỉ vì bị vô minh che lấp rồi cứ mãi chạy theo bắt bóng hạnh phúc, nhưng bóng hạnh phúc ở đâu để cho chúng ta bắt ? Chúng ta cứ rộn ràng lên vì sắc đẹp, nhưng hãy tự hỏi chúng ta sẽ nghĩ gì làm gì khi sắc ấy tàn phai, già nua cằn cỗi ? Thử hỏi ai trong chúng ta lại không muốn gom tất cả những cái ưa về mình và đùa cái ghét cho người ? Mà chúng ta đùa cho ai trong khi tất cả phàm phu chúng ta đều hành xử y như vậy ? Ai cũng ưa vui ghét khổ, ưa sang ghét hèn, ưa vinh ghét nhục, ưa thắng ghét bại, ưa được ghét thua… Tại sao lại có trạng huống nầy hỡ quý vị ? Ngày xưa đáng lý Thái Tử Tất Đạt Đa phải là vua, phải là chủ các cung vàng điện ngọc, phải là con người với đầy đủ quyền uy danh vọng trên cõi đời nầy.

Nhưng tại sao Ngài lại nhàm chán ngôi báu, giả từ cung điện và rũ bỏ danh vọng quyền uy ? Vì Ngài đã thấy quá rõ ràng chúng sanh lăn trôi do bởi tham dục và khát ái. Chính tham dục và khát ái là những nhân tố của tội lỗi và chướng nghiệp. Ngài đã thấy thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã… nên Ngài đã sớm đoạn trừ ân ái, rũ bỏ lợi danh, quyền uy chức tước, cũng như những hưởng thụ của giai cấp quí tộc ăn trên ngồi trước. Ngài cũng đã từng lăn trôi nhưng Ngài đã dám can đảm vươn lên từ một chúng sanh lên Phật. Thế còn chúng ta, tuy ngày nào cũng tự xưng là Phật tử Phật con, nhưng không chịu rời tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng; không khống chế được lòng tham muốn chấp trước nên tâm nầy cứ hỉ nộ ái ố, lúc thương lúc ghét, lúc vui lúc buồn.

Thử hỏi như vậy thì làm sao mà không sa đọa vào địa ngục, hoặc không trầm luân trong sanh tử luân hồi ? Phật dù đã liễu sanh thoát tử, nhưng trước giờ nhập diệt Ngài còn căn dặn tứ chúng không nên lấy oán trả oán vì như vậy chỉ gây thêm phiền trược cho nhau mà thôi. Chẳng những thế, Ngài còn khuyên tứ chúng nên học hạnh của Thánh Nhơn, lấy ân trả oán, chẳng những không thù ghét mà còn lấy tâm niệm từ bi hỉ xả mà thương xót những người đã bị ma tham sân si, mạn nghi tà kiến quấy nhiễu. Ngài đã nói rõ chỉ có con đường tu tâm dưỡng tánh, trì giới, bố thí, nhẫn nhục, thiền định… mới là hạnh phúc thật sự của nhân loại, chỉ có con đường “nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du” mới đưa con người đến miền hạnh phúc chơn thường bất biến, còn thì tất cả chỉ là bóng hạnh phúc mà thôi. Trên con đường ấy, chúng ta chẳng những không sát sanh hại vật, mà còn phóng sanh lợi vật và yêu mến mọi sinh vật cùng trú ngụ trên địa cầu nầy.

Đối với người con Phật, giàu sang danh vọng, quyền uy chỉ là những cái “bóng hạnh phúc” mà con người mãi đeo đuổi, nhưng không bao giờ nắm bắt được. Chỉ có nghe và hành trì chánh pháp cũng như thân cận với những bậc hiền nhân quân tử mới là hạnh phúc thật sự. Hạnh phúc thật sự là sống được một đời sống hạnh phúc là sáng được nghe đạo rồi chiều chết cũng cam. Hạnh phúc thật sự là chiến thắng được chính mình để không bao giờ làm những chuyện ám muội, không bao giờ trộm cướp, không bao giờ tà dâm, vọng ngữ. Hạnh phúc thật sự sự của người con Phật là dám xem lời nói nặng hơn cả gia tài sự sản và nặng hơn cả thân mạng nầy. Hạnh phúc thật sự là sống đời “thanh bần lạc đạo” chứ không bao giờ phạm những giới của Phật mà mình đã thọ.

Như vậy hạnh phúc thật sự mà Phật đã vạch ra và chỉ dạy cho tứ chúng năm xưa không phải là những gì xa xôi diệu vợi, mà chỉ là những gì rất đơn giản và thật gần gủi với chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, đạo Phật nói dễ khó làm, nói dễ đến độ đứa bé lên bảy cũng nói được, nhưng khó làm đến độ cụ già bảy tám mươi tuổi chưa chắc đã làm xong. Thói thường chúng ta vẫn biết làm người phải có đạo đức, phải lương hảo, thiện lành, vị tha, bác ái… nhưng chúng ta vẫn chạy theo những bóng dáng bất chánh, bất lương, vô đạo, vô nghĩa, vị kỷ, bỏn xẻn, xấu xa, độc ác… Phật dạy chúng ta cách tháo gỡ những ràng buộc làm con người mất tự do, nhưng đã hơn hai mươi lăm thế kỷ nay, chúng ta đã tháo gỡ được gì ? Phật dạy chúng ta nên luôn làm những việc khiến người vui thích và an ổn, thế nhưng chúng ta cứ làm những việc cho người buồn khổ và lo âu. Phật dạy chúng ta nên làm những việc vừa có lợi cho mình mà cũng có lợi cho người, thế nhưng chúng ta chỉ làm những việc lợi mình mà lắm khi tổn hại đến người khác.

Phật dạy chúng ta phải thấy đúng, suy nghĩ đúng, nói lời chân thật, sống chơn chính, làm ăn chơn chính… nhưng chúng ta chỉ thấy và suy nghĩ những điều tà vạy, chỉ nói lời ác độc vọng ngữ, sống tà vạy, làm ăn bất chánh…Hạnh phúc chân thật theo quan niệm của đạo Phật thật bình thường và đơn giản, thế nhưng chúng ta cứ chạy theo bóng dáng của hạnh phúc phàm tục, cứ suy nghĩ và tưởng tượng những chuyện phi thường, hoặc những chuyện đội đá vá trời, hoặc những chuyện không tưởng… Phật dạy mọi người nên hành xử theo chơn lý, chúng ta ngoài miệng cũng bi bô yêu chuộng sự thật, nhưng chưa một lần nào chúng ta dám đối diện với sự thật, chưa bao giờ dám nghe ai nói sự thật. Ngược lại, chỉ thích văn vẻ hoa hòe bề ngoài. Hễ ai khen thưởng tán tụng thì mặt mày sáng rực lên, nhỡ bị ai chê một tiếng là xụ mặt ủ rũ. Như vậy thử hỏi chúng ta chuộng chân lý ở chỗ nào ? Chúng ta vẫn biết gieo nhân Phật thì thành Phật, còn gieo nhân địa ngục là phải đi về địa ngục, nhưng chúng ta chỉ biết nói chứ chưa bao giờ biết làm.

Những đứa con tại gia hãy thử suy gẫm lại coi Phật đã dạy mình nên làm gì và nên tránh gì ? Ngài đã ân cần chỉ dạy rằng muốn làm một con người thật xứng đáng chỉ cần giữ lấy năm giới điều căn bản là đủ, thế nhưng có mấy ai trong chúng ta giữ được năm điều căn bản nầy ? Ai trong chúng ta lại không thấy và không biết hạnh phúc thật của con người đâu phải do nơi sang giàu, danh vọng, quyền uy… thế nhưng tại sao chúng ta lại mù quáng ôm chân những bóng dáng hạnh phúc nầy ? Những người con Phật chơn thuần hãy tỉnh dậy và hướng về chơn lý, hãy dẹp bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Hãy lắng nghe lời Phật dạy, hãy lấy tinh thần từ bi hỉ xả của Phật làm hạnh phúc chơn thật, làm kim chỉ nam mà đi thẳng vào đời làm cho tốt đạo đẹp đời hơn.

Thật vậy, chỉ có từ bi hỉ xả mới có công năng đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi loài. Chỉ có lòng từ bi mới cứu vớt được những nỗi khổ đau nhọc nhằn của nhơn loại, chỉ có niềm hỷ lạc mới mang lại an vui cho tha nhân, và chỉ có sự vị tha và xả bỏ mới là những đức tánh vô giá cao tuyệt của một tâm hồn đẹp. Dù biết rằng đời người như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay, một giấc chiêm bao, một trò huyễn ảo, có đó rồi không đó, thấy đó rồi mất đó, nhưng không vì thế mà những người con Phật chúng ta cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… cũng không vì thế mà những người con Phật chúng ta tiếp tục chạy theo những bóng dáng hạnh phúc giả tạm. Người con Phật chơn thuần phải nhận chân đâu là chơn hạnh phúc và đâu là bóng dáng hạnh phúc giả tạm.

Người con Phật phải thấy cho được và đem những bi trí dũng của Phật Tổ áp dụng vào cuộc sống cuộc tu hằng ngày của chính mình. Hạnh nguyện của Phật Tổ năm xưa là lấp cạn biển khổ Ta Bà, chúng ta nhỏ bé quá, không làm được như Phật Tổ, nhưng ít ra chúng ta phải ráng làm sao lấp cho được cái bể khổ ngay chính tâm mình. Tuy nhiên, điều quan trọng và vô cùng cấp thiết với những người con Phật hiện tại là mọi người phải quay về tự tu lấy thân tâm mình. Đạo Phật không phải là đạo “nói.” Ai muốn tu theo Phật xin nhớ lấy một chữ “hành.” Đừng nói thiện, đừng nói ác, mà hãy chí tâm hành thiện không hành ác và hành sao cho thân tâm nầy hoàn toàn thanh sạch, ấy là hạnh phúc thật sự của những người con Phật chúng ta.

Hạnh phúc thật sự của những người con Phật chúng ta là biết sống sao cho thật là người, hành cho thật sâu những lời chỉ dạy của Phật Tổ, biết vui cái vui của đồng loại và biết khổ cái khổ của muôn loài, biết thường nhớ ơn chớ không biết oán hận, biết tạo thiện nghiệp chớ không tạo thêm ác nghiệp, biết tự thắng lấy mình để tận diệt tham, sân, si, biết bình tâm mà sống với mình, với gia đình và xã hội, khi thắng không kiêu, lúc bại không nãn, biết hướng về nội tâm mà tu nhân tích đức. Làm được như vậy là chúng ta đang có hạnh phúc chơn thật trong từng phút giây ta sống. Mong cho ai nấy đều có đủ bi trí dũng chối bỏ những bóng dáng hạnh phúc giả tạm để quay về với niềm an lạc chơn thường bất tận.

454. CÙNG HƯỚNG DẪN NHAU TU

Đa phần chúng ta ai cũng muốn phá tà hiển chánh. Ai cũng muốn dẹp bỏ các nẻo tà để quay về con đường chánh. Thế nhưng tại sao chúng ta vẫn tiếp tục lăn trôi trong tam đồ lục đạo ? Tại sao chúng ta lại trăm đường lầm lạc ? Có lẽ tại chúng ta đã lâu đời lâu kiếp làm bạn với tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… nên phàm phu còn khó bỏ, huống là bỏ tà theo chánh, hay dẹp vọng về chơn ? Thế nên thay vì chúng ta vào chùa tụng kinh niệm Phật, hoặc ngồi thiền quán tưôũng thì chúng ta lại vào chùa hoặc tụm năm tụm bảy lạy để nhàn đàm hí luận, tranh cãi với nhau những chuyện không đâu. Như vậy mà biểu hoa giác ngộ nôũ là nôũ làm sao ? Thậm chí có người còn nói rằng đã từ bấy lâu nay tôi tu theo lý “bất nhị,” nghĩa là “không có,” mà cũng “không không,” nên không có gì để nói nữa.

Thật tình mà nói, từ ngày giáo lý nhà Thiền được phổ cập trong nhân gian, thì số người giác ngộ về thiền đâu chưa thấy, chỉ thấy nhan nhãn những kẻ điên vì thiền ôũ khắp nơi nơi. Quả là tội nghiệp cho chúng ta, những chúng sanh trong thời xa Phật nầy quá. Còn nói về lẽ “cứu độ” hay “hộ trì” từ chư Phật, không phải là không có. Tuy nhiên, xác phàm mắt thịt như chúng ta, lấy đâu làm chứng cớ cho sự cứu độ hay hộ trì nầy? Đã không liễu nghĩa kinh điển thì thôi, đàng nầy hễ môũ miệng ra là Thầy Tổ dạy: “tưôũng Phật A Di Đà, niệm Phật A Di Đà mươi tiếng trước lúc lâm chung, là chư thánh chúng cùng Đức A Di Đà sẽ rước ngay. Đó là pháp môn tu tắt tuyệt vời nhứt, đơn giản nhứt và dễ dàng nhứt.” Nếu chỉ cần mươi tiếng niệm Phật là được về cõi Tây Phương Cực Lạc, thì có lẽ giờ nầy địa cầu đã không có đến gần saùu tỉ con người. Đức Phật đã từng dạy dỗ rằng nếu ta đã gây ra chướng nghiệp từ vô thỉ thì không thể một sớm một chiều chúng ta có thể tẩy sạch hết những chướng nghiệp ấy, hay chỉ cần mươi tiếng niệm Phật mà có thể xong được đâu.

Đường tu không dễ, nhưng cũng không khó. Tuy nhiên, điều tối cần lúc tu tập là khi đọc kinh, luôn nên liễu nghĩa, chứ không phải chỉ một bề liễu ngữ, rồi sanh lòng chấp trước đủ thứ mà thêm tội. Khi Phật nhấn mạnh đến “trước lúc lâm chung mà niệm được mươi câu niệm Phật, chúng ta nên hiểu ý Phật muốn nói gì, chứ đừng để cho vướng mắc vào ngôn tự cứng nhắc. Nếu trước lúc lâm chung mà không chịu tu “thập hạnh Bồ Tát (bố thí, ái ngữ, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và từ, bi, hỉ, xả) thì cho dù có niệm Lục Tự Di Đà đến vạn triệu kiếp cũng bằng thừa. Phật đã nhắc đi nhắc lại cái câu: “Dù thượng căn hay hạ trí, mà tự tánh luôn tỏ ngộ, thì chúng sanh ấy là Phật.” Và Phật cũng đã từng khẳng quyết với tứ chúng đệ tử rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật đương thành và sẽ thành, với một điều kiện: mọi người phải thắp đuốc lên mà đi.” Như vậy chư Phật và chư Tổ đã dạy quá rõ ràng rồi còn gì? Một khi đã quyết tâm hạ thủ công phu tu niệm thì chả cần phải nói, mà chỉ cần “hạ thủ công phu” là được. Muôn pháp tại lòng, cũng như Phật tại tâm trung. Phật tức tâm, tâm tức Phật.

Tuy nhiên, đa số chúng ta vì phải sống trong một xã hội tranh đua từng giờ từng phút, nên ai cũng bị những thúc đẩy và bức bách của cuộc đời gây tạo ra những khó khăn quẩn trí. Từ đó, chúng ta ôm chấp đủ thứ lầm mê si dại. Không kể những nơi có nhiều chùa chiền và tịnh xá như tại Orange County thì khỏi nói, mỗi tuần sau những giờ làm việc mệt nhọc, chúng ta có thể đến chùa để nghe pháp, tụng kinh, hay ngồi thiền và quán niệm. Tuy nhiên, ôũ những nơi không có chùa, thì làm sao chúng ta thường xuyên được gặp Phật trong những ngày cuối tuần ? Chúng ta có thể họp một số bạn đạo lại với nhau và cùng nhau thành lập một “nhóm tu thiền,” hay một “nhóm tụng kinh.” Cùng họp lại để thảo ra một chương trình và thời khóa tu. Luân phiên họp tại nhà của từng vị.

Nếu không có thầy hướng dẫn, những cư sĩ có kinh nghiệm cũng có thể thay phiên nhau “dẫn chúng” trong các khoá tu. Rồi thỉnh thoảng nên thỉnh một vị sư đến hướng dẫn và chứng minh khóa tu. Trong thời không có Phật mà lại hiếm thấy Tăng tài, thiện hữu tri thức là tối ư cần thiết. Họ chính là những người bạn tốt mà ta có thể học hỏi và chia sẻ những điều hay trong lẽ đạo. Họ là những người có đời sống nội tâm thâm hậu và sẽ ảnh hưôũng rất lớn lao trong cuộc sống cuộc tu của chúng ta. Sau đây là một phương thức về nội quy và cách thức thiền tập, đề nghị cho những ai muốn cùng nhau tu tập.

TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP NHÓM TU THIỀN:

A. MỤC ĐÍCH
Mục đích chánh của nhóm Thiền (có thể đặt tên Giải Thoát hay An Lạc) là nhằm giúp cho hành giả tịnh tâm hầu có cơ hội nhìn lại chính mình, để có thể tiếp nhận nguồn sống an lạc từ sự tỉnh thức, và từ đó có thể giải thoát khỏi mọi bức bách và hệ lụy của cuộc sống hàng ngày.

B. THÀNH VIÊN TRONG KHÓA TU:
Tùy theo từng địa phương mà số thành viên có thể từ năm mười người, vài chục người hay nhiều hơn cũng được. Tuy nhiên nhiên, nếu con số lên hơn năm chục, chúng ta nên chia làm hai tiểu nhóm cho việc tu tập được dễ dàng hơn.

C. NỘI QUY:
1. Cố gắng đến Thiền Đường đúng giờ giấc đã quy định.
2. Khi nghe chuông hoặc khánh báo hiệu, phải vân tập về nơi đã được quy định, không chậm trễ.
3. Không ra khỏi Thiền Đường trong lúc đang ngồi thiền. Nếu có việc cần, có thể ra khỏi thiền đường trong khi đi kinh hành. Chấp tay xá rồi nhẹ nhàng bước ra. Lúc trở vào đi theo sau người cuối trong hàng kinh hành.
4. Đến giờ nghỉ, tuyệt đối giữ yên lặng.
5. Tuyệt đối giữ sạch sẽ trong thiền đường.
6. Tuyệt đối giữ sạch sẽ trong nhà vệ sinh.
7. Không tự tiện đi vào phòng riêng của gia chủ hay chư Tăng Ni.
8. Không hút thuốc, không dùng bia rượu trong suốt khóa tu.
9. Trong khóa tu, dù chưa vào thiền, nên tránh dùng điện thoại hay tiếp nhận điện thoại hầu tránh cho tinh thần khỏi bị chi phối bôũi ngoại duyên.
10. Không mang giày dép vào thiền đường.

D. ĐIỀU LỆ & CÁCH THỨC THIỀN

I. TRƯỚC THỜI GIAN TU TẬP THIỀN QUÁN:
1 Nói ít lại. Nói vừa đủ nghe. Nói những lời cần nói.
2. Không nói chuyện phiếm. Hoàn toàn gát bỏ chuyện đời.
3. Không nói lỗi lầm cũng như không chỉ trích người khác.
4. Không dùng lời lẽ hay cử chỉ khiếm nhã với nhau.
5. Giữ hòa khí trong suốt thời gian tu tập.
6. Giữ oai nghi và chánh niệm khi đi, đứng, ngồi.
7. Phải tuyệt đối tuân theo ý chỉ của vị Giám Thiền.
8. Mỗi khi nghe tiếng khánh báo hiệu, phải về ngay vị trí của mình.
9. Không ra khỏi nơi Thiền Đường lúc đang ngồi thiền. Nếu cảm thấy mỏi hay đau chân, thiền giả có thể tự động lên ghế ngồi.
10. Trong suốt thời gian tu tập thiền, không được gọi điện thoại, trừ trường hợp khẩn cấp. Phải tắt hết tất cả beeper/pager.
11. Thiền giả gặp nhau chỉ cần chấp tay chào, không cần nói gì thêm.

II. TẠI NƠI TỌA THIỀN:
1. Ai đến trước vào ngồi trước, ai đến sau ngồi sau, theo thứ lớp từ hàng một, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, không được tự ý lựa riêng chỗ cho mình.
2. Ngồi xếp thành hàng ngay ngắn, khoảng cách vừa đủ, không xa quá, không gần quá.
3. Nếu ai đến trễ, nên nhẹ nhàng môũ cửa bước vào, rồi tự sắp xếp chỗ ngồi trong yên lặng. Cố tránh làm não loạn đến người khác.

III. ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT TRƯỚC KHI VÀO THIỀN:

Chúng ta có thể đảnh lễ chư Phật và đọc lời quán nguyện theo nghi thức Thiền Tông hay Khất Sĩ (tùy theo sự đồng ý của từng nhóm).

A. THEO NGHI THỨC THIỀN TÔNG:
1. Chí Tâm Đảnh Lễ ! Nam Mô Tận Hư Không, Biến Pháp Giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.
2. Chí Tâm Đảnh Lễ ! Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đaỉi Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
3. Chí Tâm Đảnh Lễ ! Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
4. LỜI QUÁN NGUYỆN
Kính lạy mười phương ba đời chư Phật, đệ tử chúng con hôm nay vân tập về đây, chí tâm đảnh lễ chư Phật, cung kính chí thành tu tập thiền quán. Ngưỡng mong chư Phật thùy từ chứng minh và gia hộ cho chúng con luôn luôn giữ tâm ý cho thanh sạch. Nguyện cho chúng con luôn giữ tâm không thối chuyển, muôn đời làm bồ đề quyến thuộc, cùng dìu dắt nhau tu học cho đến khi chúng con và chúng sanh đạo quả được viên thành.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

B. NGHI THỨC KHẤT SĨ:

DÂNG HƯƠNG
Giới hương, Định hương, dữ Huệ hương
Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương
Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng dường Tam Bảo khắp mười phương.

LỄ PHẬT
Kính lạy Phật Từ Bi cứu thế
Đem đạo lành phổ tế chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ quang minh soi đường.

LỄ PHÁP
Kính lạy pháp là phương giải thoát
Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa
Pháp tu chứng đắc kịp giờ
Độ người qua đến bến bờ bên kia.

LỄ TĂNG
Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật
Hạnh Tăng vô nhứt vật thanh bần
Tự mình giác ngộ lý chân
Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu.

LỜI PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con hôm nay tề tựu
Tại thiền đường cùng nhau tu tập
Xin phát nguyện vâng giữ theo lời Phật dạy
Thương yêu hòa hợp cùng nhau tu học
Giữ y theo Tam Tụ Lục Hòa Đức Phật chỉ dạy:
Thân cùng nhau hòa hiệp ở chung
Miệng không tranh đua cãi lẫy
Ý ưa nhau không trái nghịch
Giới luật đồng cùng nhau tu theo
Kiến thức riêng chỉ giải cho nhau
Lợi quyền đồng chia với nhau
Thành tâm cố gắng tinh tấn cần tu
Ngưỡng mong Tam Bảo Thùy Từ
Gia Hộ Chứng Minh.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

IV. TRONG LÚC NGỒI THIỀN:
1. Tuyệt đối không nói chuyện.
2. Nếu có chuyện cần đi, cứ tự nhiên êm ái rời chỗ.
3. Cố tránh gây ra tiếng động có thể làm não loạn đến người khác.
4. Thiền giả muốn ngồi tư thế nào cũng được (kiết già, bán già, Thái Lan, Nhật, Miến Điện, hay ngồi trên ghế), nhưng phải ngồi thẳng, không chao động.
5. Ngưng suy tư và phân biệt. Cố xả bỏ mọi tạp niệm để đưa tâm về trạng thái vắng lặng.
6. Thiền giả có thể quán tưởng sự vật. Tuy nhiên, chỉ quán tưởng sự vật dưới ánh sáng của 3 đặc tính: vô thường, khổ và vô ngã.

V. HÀNH THIỀN (ĐI KINH HÀNH):
1. Chân bước thẳng mà nhẹ nhàng.
2. Đi từng bước chậm rãi và thảnh thơi.
3. Nhấc chân lên để chân xuống thật nhẹ.
4. Tâm không động. Vẫn biết có những chuyện xãy ra chung quanh mà không theo.
5. Trọn bàn chân ấn lên mặt đất (hay sàn nhà) như khi đặt con dấu lên trang giấy.
6. Vẫn tiếp tục theo dõi hơi thôũ và giữ chánh niệm.
7. Khi đi phải tuyệt đối giữ yên lặng như trong lúc ngồi.
8. Đi không vội vã, không mong đến và không mong cầu bất cứ thứ gì.

VI. TRÀ THIỀN:
1. Chỉ vào trà thiền khi có tiếng khánh thông báo của vị Giám Thiền.
2. Trong lúc trà thiền, càng ít nói càng tốt.
3. Nếu phải nói, nên nói nhẹ nhàng, gọn gàn.
4. Hoàn toàn gát bỏ ra ngoài những chuyện đời có thể làm cho tâm trí của mình và của người thêm loạn động.
5. Tất cả mọi tác động đều trong tỉnh thức.
6. Vị Thiền Giám sẽ tuyên bố bắt đầu buổi Trà Thiền. Bình trà sẽ được từ từ chuyền theo chiều kim đồng hồ, mạnh ai nấy rót. Người nhận phải chấp tay xá trước khi nhận.
7. Khi trà đã rót xong, vị Thiền Giám nâng tách trà lên ngang tầm mắt, mọi người cùng làm theo và bắt đầu uống trà trong chánh niệm.

VII. PHÁP ĐÀM
1. Đề tài Pháp Đàm phải là Phật pháp. Không có ngoại lệ.
2. Vị Thiền Giám sẽ tuyên bố đề tài pháp đàm cho buổi tu tập hôm đó và trình bày những nét đại cương của đề tài thảo luận.
3. Thiền giả có ý kiến, tự động đưa tay lên, chứ không cần phải nói “tôi có ý kiến.” Rồi từ từ phát biểu.
4. Ý kiến phải ngắn, gọn, mạch lạc, khiêm tốn.
5. Tuyệt đối không đi ra ngoài đề tài Phật pháp của buổi tu hôm đó.
6. Thiền giả luôn vui vẻ chấp nhận mọi ý kiến, dù có trái ngược với ý mình. Luôn lắng nghe người khác.
7. Luôn vui vẻ, hòa nhã, khiêm cung, từ tốn.
Bất cứ ai to tiếng trong buổi pháp đàm hay trong lúc tu tập, phải tự động mở cửa và bước ra sau hè, không cần đợi ai kêu. Nếu không tự nguyện, sẽ bị cả nhóm mời ra.

VIII. ĐỀ MỤC TỌA THIỀN:
1. Nên chọn hơi thở làm đề mục.
2. Khi thở vào, ta biết ta đang thở vào.
3. Khi thở ra, ta biết ta đang thở ra.
4. Cứ thế mà thở vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Hoặc thở vào đếm 1, thở ra đếm 2, thở vào đếm 3, thở ra đếm 4… Cứ đếm đến 10 thì trở lại đếm 1.
5. Cứ đếm được như thế thì tâm bạn chỉ còn nhứt tâm vào hơi thôũ và số đếm, chứ không còn một niệm nào khác, dù là niệm ác hay niệm thiện.
6. Nếu có vọng niệm (tạp niệm) chen vào, đừng sợ, vì hễ cái gì có sanh thì có diệt. Vọng niệm rồi cũng sẽ bị diệt. Sau đó tiếp tục trở về đếm hơi thở.

IX. VÀO THIỀN:
1. Lúc bắt đầu thiền, thở khoảng ba hơi dài; thở vào bằng mũi và thở ra bằng miệng.
2. Sau đó ngậm miệng lại cho môi răng kề nhau và bắt đầu chỉ thở bằng mũi. Thở không cho nghe tiếng càng tốt.
3. Cứ như thế mà hít vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Hoặc hít vào đếm 1, thở ra đếm 2, hít vào đếm 3, thở ra đếm 4, cứ thế mà đếm cho đến 10, rồi trô lại hít vào đếm 1, thở ra đếm 2, vân vân.
4. Cứ thở đều một cách tự nhiên, đừng nghĩ ngợi gì cả.

X. CHÁNH NIỆM:
1. Ý thức được gọi là chánh niệm hay tỉnh thức là ý thức được kiểm soát. Nghĩa là khi đang nghĩ gì, mình biết mình đang nghĩ cái đó.
2. Vọng niệm (tạp niệm) có khôũi lên, liền biết nhưng không theo, mà biết để trở về ngay với chánh niệm.
3. Từ từ đưa tâm trô về trạng thái vắng lặng và an tịnh.
4. Nếu muốn quán sát sự vật (như quán về chiếc lá rơi) phải luôn quán sát sự vật dưới ba đặc tính: vô thường, khổ và vô ngã.

XI. ĐIỀU HÒA HƠI THỞ:
1. Hơi thở luôn phải bình thường, không gượng ép.
2. Khi thở vào ráng tập cho tâm tỉnh lặng.
3. Khi thở ra miệng luôn mỉm cười.
4. Luôn an trú trong những giây phút tịnh lặng tuyệt vời của hiện tại.

XII. TỌA CỤ:
1. Thiền giả phải tự mang theo gối ngồi thiền cho chính mình.

XIII. ẨM THỰC
Tùy theo sự đồng ý của mọi thành viên trong nhóm và y cứ theo đó mà thi hành.
1. Mỗi thiền giả trong nhóm sẽ đóng mỗi tuần một vài Mỹ Kim vào quỹ ẩm thực (trà nước).
2. Thủ quỹ sẽ công khai hóa sổ sách về thu nhập và chi tiêu hằng tháng.

XIV. NHỮNG CÁCH TỌA THIỀN:
1. Ngồi Bán Già:
a.Kiết Tường: Bàn chân trái để lên đùi phải và bàn chân phải đặt dưới đùi trái. Lúc nào hai đầu gối cũng chạm sàn nhà.
b. Hàng Ma: Bàn chân phải để lên đùi trái và bàn chân trái để dưới đùi phải. Lúc nào hai đầu gối cũng chạm sàn nhà.
2. Ngồi Kiết Già: Bàn chân trái để trên đùi mặt và bàn chân mặt để trên đùi trái. Hoặc chân bàn chân mặt để trên đùi trái và bàn chân trái để trên đùi mặt. Nên kéo sát chân vào thân và cho hai đầu gối chạm sàn nhà.
3. Ngồi Kiểu Thái Lan: Hai chân không tréo lên nhau, mà chân nầy đặt trước chân kia. Cả hai đầu gối đều phải chạm sàn nhà.
4. Ngồi Kiểu Cổ Truyền Nhật Bổn: Hai đầu gối chạm sàn nhà, hai bàn chân đặt dưới tọa cụ. Ngồi tư thế nầy, tọa cụ ép giữa hai mông và hai bàn chân nên sức nặng toàn thân giảm đi rất nhiều.
5. Ngồi trên ghế thấp: Hai chân lòn dưới ghế. Thế ngồi nầy thích hợp cho những ai có thân hình nặng.
6 Ngồi trên ghế bình thường (ghế nào cũng được): Vẫn phải có tọa cụ, xương sống và đầu phải thẳng, hai chân nên buông thẳng.

XV. NỘI QUI VỀ TIẾNG KHÁNH VÀ TIẾNG CHUÔNG:
1 MỘT TRÀNG KHÁNH DÀI
Thiền giả tự động vân tập về chỗ của mình.
Không nói chuyện.
2 MỘT TIẾNG CHUÔNG:
Thiền giả chuẩn bị tư thế ngồi.
3 BA TIẾNG CHUÔNG ĐẦU:
Thiền giả bắt đầu hít vào và thở ra ba hơi dài
trước khi vào thiền.
4 BA TIẾNG CHUÔNG SAU:
Thiền giả bắt đầu xả thiền. Không gây tiếng động. Từ từ chà xát hai tay
vào nhau rồi áp vào mắt, vào tai và vào cổ sau. Dùng hai ngón tay cái
bấm nhẹ vào mắt cá non cho máu huyết chạy đều.
5 MỘT TIẾNG KHÁNH:
Thiền giả đứng dậy để chuẩn bị đi KINH HÀNH.
6 HAI TIẾNG KHÁNH:
Bắt đầu kinh hành. Chân trái bước tới trước,
bước đi thật chậm. Bàn chân phải áp sát vào
sàn nhà. Đi mà không cần đến.
7 BA TIẾNG KHÁNH:
Chấm dứt kinh hành. Thiền giả tiếp tục bước
về chỗ của mình.
8. BỐN TIẾNG KHÁNH:
Vào Trà Thiền.
9 NĂM TIẾNG KHÁNH:
Chấm dứt trà thiền.
** Đi kinh hành theo chiều kim đồng hồ.
** Trong khi đi kinh hành, đi thật chậm, thong
thả, giữ chánh niệm, im lặng. Toàn thể bàn
chân phải áp sát vào mặt sàn.
** Đi theo hàng một, không để khoảng cách quá
xa, cũng không quá gần. Nên giữ khoảng 1 feet
rưỡi.

XVI. THỜI KHÓA BIỂU TU TẬP:
Đây chỉ là thời khóa biểu đề nghị mà thôi.
Trước 10:00 giờ, thiền giả vân tập.
10:00. Giám Thiền thỉnh khánh bắt đầu đảnh lễ chư Phật và vào thiền.
10:30. Giám Thiền thỉnh chuông xả thiền và thỉnh khánh đi kinh hành.
10:45. Giám Thiền thỉnh khánh chấm dứt kinh hành.
10:45. Bắt đầu Trà Thiền.
11:00 Giám Thiền thỉnh khánh chấm dứt trà thiền.
11:00. Giám Thiền thỉnh khánh bắt đầu thời thiền thứ hai.
11:30. Giám Thiền thỉnh chuông xả thiền và thỉnh khánh kinh hành.
11:45. Giám Thiền thỉnh khánh chấm dứt kinh hành.
11:45. Giám Thiền thỉnh khánh bắt đầu trà thiền.
12:00. Giám Thiền thỉnh khánh chấm dứt trà thiền.
12:00. Bắt đầu Pháp Đàm.
1:00. Chấm dứt Pháp Đàm.

XVII. HỒI HƯỚNG CHẤM DỨT BUỔI TU TẬP:

Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo.

Vị “Giám Thiền” có nhiệm vụ dẫn chúng và đóng một vai trò rất là quan trọng trong suốt thời gian tu tập. Vị “Giám Thiền” chẳng những phải có sự hiểu biết về cách thức thiền tập, mà còn phải có kinh nghiệm thực chứng về hành thiền. Vị ấy phải dẫn chúng với hết tâm ý trọn lành cũng như lòng từ bi hỉ xả. Không được lo lắng, buồn phiền, khổ não, nóng giận, bực tức trong suốt thời gian thiền tập. Vì khóa tu có an lạc và tỉnh thức hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào lòng phát tâm cũng như sự độ lượng của vị “Giám Thiền.” Mong cho ai nấy đều phát tâm tu tập với lòng chí thành, để cùng dắt dìu nhau về quê hương Cực Lạc.

455. ĐI CHÙA NÀO?

Lúc Phật còn tại thế, Ngài đã khẳng định với tứ chúng rằng con đường giải thoát của đạo Phật là con đường của hành động vô cầu, chứ không vì ước muốn thành công hay đạt được một thành quả nào đó. Hành động nầy phải vì thiện chí hướng thượng với muôn người muôn loài và luôn tỉnh thức trong chánh niệm. Tâm niệm của bất cứ người con Phật nào cũng đều nhắm tới tạo dựng một cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc cho đời nầy, nếu chưa được giải thoát thì ít nhất đời sau sẽ được an lạc hơn, để rồi cuối cùng đi đến giải thoát rốt ráo. Chính vì thế mà trong lúc còn tại thế, Đức Từ Phụ đã hằng lo lắng cho cuộc sống cuộc tu của Phật tử bằng cách đi đâu đến đâu Ngài cũng khuyến tấn mọi người nên cùng nhau tu tập. Cũng chính vì thế mà trong thời có Phật, hễ Ngài đi đến đâu là tịnh xá mọc lên đến đó để đáp ứng nhu cầu tu tập cho Phật tử địa phương.

Và vào thời ấy, đa phần những người có cơ duyên được vào tịnh xá nghe Phật thuyết pháp và hành trì y như Phật đều được Thánh quả. Tuy nhiên, vào thời xa Phật nầy tịnh xá và chùa chiền vẫn mọc lên như nấm, có thể nói còn nhiều gấp trăm ngàn lần con số tịnh xá được lập lên vào thời có Phật, thế nhưng chúng ta ít được nghe ai nói về sự thành công trong tu tập. Quả là sự thiếu phước mỏng duyên của những chúng sanh của thời xa Phật ! Như vậy người con Phật thời nầy nên đi chùa nào để khả dĩ đạt được những mục tiêu vừa kể trên ? Trải qua bao thăng trầm của lịch sử thế giới, cũng như trải qua bao bức hiếp của giai tầng thượng lưu thống trị, chùa chiền đã bị tàn phá không nương tay bởi những kẻ chủ trương bành trướng những giáo điều huyền hoặc và không tưởng.

Tuy nhiên, trong hậu bán thế kỷ 20, nhân loại đã bừng tỉnh và thấy rằng chơn lý nầy cần được bảo tồn và phát huy, chính vì thế mà rất nhiều tự viện và tịnh xá đã và đang được xây dựng và tái thiết. Đến hôm nay thì Phật tử chúng ta đã có nơi có chốn để lui tới tu tập. Phật tử tha hồ lựa chọn chùa mình muốn đi, hay tịnh xá mình muốn tới. Tuy nhiên, trong thời Phật còn tại thế, nhân lúc tứ chúng hỏi về chuyện chàng lãng tử Citta cứ năm lần bảy lượt xuất gia rồi hoàn tục, hoàn tục rồi xuất gia, ra vào tịnh xá Kỳ Hoàn như đi chợ, thì Phật mới ân cần chỉ dạy rằng: “Đi chùa hay tịnh xá chỉ là một phương tiện thù thắng của bước đầu tu Phật, vì khi mê thì thầy độ, nhưng khi đã ngộ rồi thì phải tự độ rồi độ tha.” Phật cũng dạy thêm rằng không ai thay đổi được chúng ta ngoại trừ chính chúng ta. Các nhà tâm lý thời cận đại cũng công nhận như vậy. Đời sống con người có vui tươi hay khổ đau phiền não đều do con người tự quyết định và tự tạo dựng lấy.

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã không từng dạy như vậy hay sao ? “Dù tịnh xá có mọc lên như nấm, dù Tăng đoàn có vàng rợp khắp đường phố, nếu ngươi không là nơi nương tựa cho chính ngươi thì còn ai khác nữa có thể làm nơi nương tựa cho ngươi được?” Thật vậy, thiện ác, chính tà, vui buồn, thương ghét, từ bi hỉ xả, hay tham sân si, mạn nghi tà kiến, sát đạo dâm vọng đều do chính con người làm ra. Con người có thể làm ra thiên đường và con người cũng có thể làm ra địa ngục ngay bây giờ và ở đây chứ không phải đợi đến một kiếp nào xa xăm. Tự những lời dạy dỗ trên đây của Phật Tổ đã nói lên quá rõ là chúng ta nên đi chùa nào ? Có chùa nào hơn được chùa mình, chùa của hướng nội cần tu, chỉ làm những việc thiện, không làm những việc ác, chùa của tự tịnh kỳ ý.

Mặt hồ tỉnh lặng hay nổi sóng là hoàn toàn tùy thuộc vào chùa nầy. Nước Phật cũng nằm ngay trong chùa nầy, chứ không nằm trong A Hàm, Duy Thức, Bát Nhã, Pháp Hoa, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Phương Quảng, Lăng Nghiêm hay Niết Bàn… Nói như vậy không có nghĩa là cổ xúy chúng ta không nên đi chùa hay tịnh xá, nhưng nói để mọi người cùng nhau suy gẫm về một “ngôi chùa” của hạnh phúc miên viễn. Đồng ý ngôi chùa nơi có Phật pháp, có Tăng đoàn, là nơi có thể giúp cho chúng ta rất nhiều trong bước đầu tu Phật, hoặc những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày như kinh nghiệm 2000 Phật giáo và dân tộc: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông.” Nhưng xin khẳng định cõi nước Cực Lạc hay Niết Bàn ở ngay trong mỗi chúng ta, ở ngay trong tâm ta. Hễ thấy được lý trùng trùng duyên khởi là thấy Phật pháp, mà thấy Phật pháp và chịu hành trì y như Phật là thấy Phật, không thể nghĩ bàn !

Một lần nữa xác nhận, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận vai trò của tịnh xá và chùa chiền. Tịnh xá và chùa chiền lúc nào cũng cần cho chư Phật tử tu tập vì nơi chùa ta sẽ tìm thấy Phật qua hình ảnh các Tăng đoàn, nơi đó quý thầy lúc nào cũng y nương theo lời Phật dạy mà hướng dẫn tứ chúng tu tập. Chùa là xây dựng nền móng cho những ngôi chùa tâm linh của mỗi chúng ta. Không có những ngôi chùa vật chất, Phật tử chúng ta sẽ hụt hẫng, sẽ bối rối không biết phải bắt đầu từ đâu, không biết phải làm gì, không biết phải suy nghĩ ra sao, vân vân. Tuy nhiên, Phật tử nên luôn nhớ rằng: “Khi mê thầy độ, khi ngộ tự độ độ tha.” Phật tử nên luôn lấy việc phát huy đời sống tinh thần và đạo đức làm chủ yếu vì đó chính là ngôi chùa tinh thần của mỗi chúng ta.

Ngôi chùa bên ngoài có thể bị xoáy mòn và tàn phá bởi thời gian qua thăng trầm của các triều đại, tứ chúng của những ngôi chùa bên ngoài có thể theo từng địa phương mà phong cách và cách tu tập có khác nhau, chứ ngôi chùa tâm linh, nếu biết xây dựng, nếu thế hệ nầy dắt dìu thế hệ nọ phát huy và bảo tồn thì ngôi chùa nầy sẽ tồn tại mãi mãi. Ngôi chùa vật chất hữu tướng bên ngoài có thể khiến cho người ta chay theo tranh đua lợi danh vật chất, phải cất chùa cho to, phải làm chùa cho đẹp… làm cho tâm chúng ta càng loạn động thêm, nhưng một căn nhà lá, một mái thảo đường có thể là nơi xây dựng một ngôi nhà tâm linh lý tưởng, nơi đó có thể vừa giúp ta xa rời lợi danh vật chất, mà cũng vừa giúp ta luôn tìm được sự trong sáng cho tâm hồn.

Chùa hữu tướng có thể dạy chúng ta về giới định huệ, nhưng ngôi chùa tâm linh của chúng ta mới chính là nơi quyết định xem coi ta chịu hay không chịu tu theo giới định huệ. Quý Thầy có thể dạy chúng ta về từ bi hỉ xả, nhưng thể hiện hay không thể hiện từ bi hỉ xả là hoàn toàn tùy thuộc ở sự quyết định của ngôi chùa tâm linh nơi chính mình. Quý Thầy có thể chỉ cách cho chúng ta chinh phục ngoại cảnh và nội tâm, nhưng có chịu chinh phục hay không là ăn thua ngôi chùa tâm linh của chính mình.

Người con Phật phải một lòng xây dựng ngôi chùa tâm linh cho chính mình. Đi chùa hữu tướng thì vẫn đi nhưng đừng bao giờ quên mang theo ngôi chùa tâm linh bên mình. Tiến trình tu tập và đường về xứ Phật không phải là chuyện của một ngày một bữa. Cuộc hành trình thúc liễm thân và thanh tịnh tâm theo như lời Phật dạy không phải là chuyện đơn giản. Soi mói lòng người xem ra có phần dễ hơn tự soi rọi lại chính mình. Cột thân tâm người khác không cho họ làm việc xằng bậy xem ra có phần dễ hơn cột chính thân tâm mình. Biểu người đừng nhảy nhót la lối xem ra có phần dễ hơn biểu mình đừng nhảy nhót la lối. Chiến thắng vạn quân xem ra cũng có phần dễ hơn tự chiến thắng lấy mình, vân vân và vân vân.

Thấy như vậy để mọi người chúng ta, dù vẫn đi chùa hữu tướng, nhưng đừng bao giờ xao lãng với ngôi chùa tâm linh vô tướng bên trong chính mình. Vì chính ngôi chùa ấy mới thật sự là nơi phát xuất ra phiền não hay Bồ Đề, thiện hay ác, tốt hay xấu, từ bi hỉ xả hay tham sân si, khiêm cung từ tốn hay mạn nghi tà kiến, chánh kiến hay tà kiến, chánh ngữ hay tà ngữ… Chính ngôi chùa ấy là nơi nuôi lớn Bồ Đề và tận diệt phiền não, chính ngôi chùa ấy giúp chúng ta đem sinh mạng nầy mà thực hành Bồ Tát đạo, cũng chính ngôi chùa ấy giúp chúng ta xả bỏ tất cả để nhẹ tâm thiền định và cuối cùng có được cơ hội thong dong nắm tay chư Phật đi về cõi Cực Lạc vĩnh hằng.

456. ĐẠO XỬ THẾ CỦA PHẬT TỬ

Chúng ta luân hồi sanh tử vì mớ nghiệp chướng sẳn có. Chúng ta sanh vào gia đình ông A bà B cũng vì mớ duyên nghiệp sẳn có ấy. Ngay cả lời ăn tiếng nói chúng ta trong hiện tại, thanh tao hay thô lỗ, cũng vì mớ duyên nghiệp ấy. Nếu nghiệp chướng sâu dầy nên phải sanh ra trong một gia đình nghèo khổ ở một khu xóm lao động tồi tàn, muốn ăn nói thanh tao không phải là chuyện dễ, muốn tâm trí thanh thản và vật chất đầy đủ để ăn học cho thành tài cũng không phải là chuyện dễ, muốn tu tâm dưỡng tánh và dấn thân giúp đỡ mọi người cũng không phải là chuyện dễ.

Đức Phật đã vạch rõ cho chúng ta thấy vì duyên nghiệp mà chúng sanh luân hồi, rồi cũng vì duyên nghiệp mà chúng sanh tiếp tục luân hồi, và cứ thế mà chúng sanh loanh quanh lẩn quẩn trong ba nẻo sáu đường, để mặc cho vô minh dẫn dắt. Mặc dù biết rằng ngôn ngữ văn tự không làm sao biểu lộ được chiều sâu chơn tâm thực tánh của một con người, nhưng không ai có thể chối cãi được phong cách của một con người được truyền đạt rất nhiều qua ngôn ngữ và văn tự của con người ấy. Qua cách ăn nói, người ta có thể biết con người có tâm chân thật hay chỉ là huyênh hoang khoác lác với cái võ rỗng kêu to. Người con Phật, xuất gia hay tại gia, mới tu hay tu lâu, già hay trẻ, sơ cơ hay nhuần đạo, thượng căn hay hạ trí… thì cung cách và đạo xử thế vẫn phải là cung cách của một Phật tử.

Đi đâu đến đâu, con người ấy cũng phải mang giáo lý từ bi hỉ xả vào đời, phải đối xử với mọi người trong tinh thần bình đẳng, vị tha và bác ái, phải tri hành hợp nhất bằng từ bi và trí tuệ nhà Phật. Đạo xử thế của một Phật tử phải là cứu khổ ban vui, và độ sanh mẫn chúng, phải khích lệ mọi người thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau từ cá nhân đến gia đình và ra ngoài xã hội. Mục đích tối thượng của đạo xử thế của một người con Phật là cùng giúp nhau thoát ly khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não, để cùng nhau chung sống trong an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Đạo xử thế của người con Phật thâm trầm chứ không vồn vả như thường tình thế tục. Nhưng đạo nầy luôn thâm thúy và bao dung trong tinh thần hỷ xả lợi tha, cùng nhau hướng thượng và cùng nhau làm mọi điều thiện, tránh mọi điều ác, giữ mối hòa hiếu từ trong gia đình ra đến xã hội và làng nước bên ngoài.

Mỗi lời nói ra của người con Phật phải là một thông điệp của tình thương yêu chân thật. Mỗi người con Phật phải là một sứ giả nối kết huynh đệ tứ hải lại với nhau trong tinh thần lục hòa của nhà Phật. Người con Phật luôn tự cảnh tỉnh rằng trong đạo xử thế hằng ngày, mỗi người đều đến với cõi Ta Bà nầy bằng một mớ nghiệp lực riêng của chính mình, và tất cả những biệt nghiệp nầy được bủa vây bởi vô số cọng nghiệp cũng như rất nhiều xúc tác của hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên, theo lời Phật dạy thì ngoài mình ra không còn ai khác có thể thay đổi được chính mình. Thế nên người con Phật luôn bình tỉnh chấp nhận những gì mình không thay đổi được từ bên ngoài, cũng như can đảm thay đổi những gì mình có thể thay đổi được từ chính bản thân mình.

Đạo xử thế của người con Phật là luôn can đảm chấp nhận sửa sai chính mình, chấp nhận chướng duyên nghịch cảnh. Con người ấy luôn hoan hỷ trước những tương đồng, nhưng cũng vui vẻ chấp nhận tha nhân và những dị biệt. Nói gì thì nói, đạo Phật vẫn là nói dễ khó làm. Ai trong chúng ta cũng phải công nhận rằng những điều vừa kể trên thật là dễ nói, nhưng không dễ làm. Chúng là dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ và luôn thách thức đạo xử thế của người con Phật. Thật vậy, chính Đức Từ Phụ đã từng khẳng định trong các kinh điển của Ngài là chấp nhận sửa sai chính mình là một chiến thắng oanh liệt nhứt trên đời. Chính vì thế mà trong Kinh Pháp Cú, Ngài đã khẳng định: “Trên đời nầy có hai hạng người cùng cao quý như nhau, đó là hạng người chưa bao giờ lầm lỗi và hạng có lầm lỗi nhưng biết chấp nhận sử sai.”

Bên cạnh dám chấp nhận sửa sai, thì chấp nhận chướng duyên nghịch cảnh và chấp nhận tha nhân cũng là lội ngược dòng đời của thường tình thế tục, mà không phải ai cũng làm được. Bất cứ người con Phật nào có đủ hùng lực hành xử được những điều vừa kể thì tự nhiên mọi hệ lụy khổ đau sẽ tan biến và con người ấy sẽ sống được một cuộc sống thật đáng sống và đầy ý nghĩa.

Người con Phật luôn nhìn người đối diện mình như một vị Phật tương lai nên đạo xử thế của Phật tử luôn là cung kính tha nhân như cung kính những vị Phật. Con người ấy luôn biết tự thẹn và biết hổ thẹn với người mỗi khi làm việc xằng bậy. Con người ấy luôn lấy tâm từ làm đạo xử thế nên cuộc sống cuộc tu luôn được nhẹ nhàng an lạc. Vì luôn lấy cái nhìn “như thật” để nhìn mọi sự mọi vật nên con người ấy không bị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến khống chế. Người con Phật luôn tự cảnh tỉnh rằng tam giới như nhà lửa, tất cả thế gian đang bốc cháy dữ dội. Vì vô minh mà con người đang nhìn nhau bằng những ánh mắt bốc lửa, nên bất cứ thứ gì chúng ta thấy hình như cũng đang bốc cháy. Vì mê muội mà lỗ tai chúng ta lúc nào cũng bốc khói, chính vì thế mà cái gì chúng ta đang nghe hình như cũng đang bốc lửa.

Cũng như vậy, những gì chúng ta đang nếm, đang ngữi, đang xúc chạm, đang suy tưởng, đang nói, vân vân hình như cũng đang bừng cháy vì thân chúng ta đang bốc lửa, tâm chúng ta đang bốc lửa, những thứ lửa vô cùng tàn độc, tàn độc hơn cả lửa trời: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Đúng ! Tham, sân, si… chính là những ngọn lửa vô hình vô tướng, nhưng vô cùng tàn độc, đang đốt cháy chính mình và thế giới quanh mình. Người con Phật phải luôn vô cùng cẩn trọng trong đạo xử thế của chính mình. Với thường tình thế tục, từ vua chúa, quan quyền đến thứ dân đều sống trong ngút ngàn hơn thua tranh đấu. Vua chúa hơn thua với vua chúa, quan quyền hơn thua với quan quyền, và thứ dân thì hơn thua với thứ dân. Với người con Phật, từ tỳ kheo đến tỳ kheo ni, từ ưu bà tắc đến ưu bà di, luôn lấy giáo pháp của Thế Tôn làm kim chỉ nam trong cuộc sống cuộc tu hằng ngày, nên cuộc sống luôn thuận hòa, không tranh cãi, luôn nhìn nhau bằng ánh mắt ái kính, luôn thương nhau bằng tình thương chân thật, luôn đối xử với nhau bằng sự bình đẳng giữa chúng sanh.

Con người ấy luôn xử thế với đức công bình bác ái, luôn đặt quyền lợi của toàn thể lên trên quyền lợi và sở thích của chính bản thân mình. Con người ấy chẳng những tự mình tận diệt mọi tật đố, dục vọng, kiêu căng… mà còn giúp cho người khác cũng diệt được những thói hư tật xấu nơi chính họ. Với người con Phật, đạo đức và trí tuệ được đặt lên trên mọi thứ trong đạo xử thế hằng ngày. Con người ấy luôn cảnh tỉnh rằng chỉ có tâm từ mới có công năng cải hóa tha nhân, chứ không phải là tâm tham sân si. Hơn thế nữa, người con Phật luôn cụ thể và thực tiển hóa đạo xử thế của chính mình bằng cách nói sao làm vậy, chứ không nói một đàng làm một nẻo. Con người ấy luôn sống với đầy đủ giới đức và đạo hạnh của một con người đúng nghĩa, chuyên tâm làm việc lành, tránh việc ác, vì thế trong suốt quá trình xử thế không có gì phải ray rức ân hận hay sợ sệt.

Chính đạo xử thế mà Thế Tôn trao truyền đã hun đúc những đứa con Phật hậu bối thành những con người thật là người, những con người đang chuẩn bị cho mình một cung cách Phật cho một tương lai rất gần. Những con người luôn biết an lập trong chân lý cũng như sẳn sàng bảo vệ chân lý dù phải mạng một. Hỡi những người con Phật ! Đời sống con người ngắn ngủi hơn ánh điển chớp hay sương mai trên đầu cỏ. Lắm khi chúng ta chỉ được tiếp xúc với tha nhân có một lần chứ không có lần thứ hai, hãy xử thế sao cho đúng đạo để không phải ân hận nuối tiếc về sau nầy. Hãy luôn biết kinh vì nhân quả. Hễ mình xử thế với người thế nào thì người sẽ đối lại với mình y như thế đó. Hành động và hậu quả theo nhau như bóng với hình. Người con Phật luôn biết sợ nhân để không gieo nhân xấu dù chỉ trong cuộc xử thế hằng ngày.

Ví dầu mình đã hết lòng hết mực xử thế với người mà người vẫn lấy sự đố kỵ ganh ghét đối lại với mình, người con Phật cũng không sanh tâm sân hận vì biết rằng ấy là những nợ nần năm cũ phải trả, nên trả một cách vui vẻ, chứ không chần chừ bớt một thêm hai, để gây thêm những oan trái mới. Sự xuất hồng trần gia trong đạo Phật khởi điểm không bằng đầu tròn áo vuông, hay màu áo sắc tóc, mà là ở ngay trong đạo xử thế hằng ngày của chính mình. Người con Phật không vì cái “ngã” bâng quơ, cũng không vì cái thân vô thường, vô hộ, vô chủ nầy mà xem thường đạo xử thế. Thân rồi sẽ già, sẽ bịnh, sẽ chết. Tất cả những gì mà mình cho là của mình rồi sẽ phải bỏ lại, chỉ có “đạo xử thế” dù vô hình vô tướng, sẽ theo chúng ta đi mãi trong vòng luân hồi vô tận.

Người con Phật luôn dùng trí tuệ để thấy rằng tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng luôn dâng tràn không vơi. Hễ ai cam tâm làm nô lệ cho chúng, người đó sẽ đánh mất đi cái “đạo xử thế” cao đẹp của một người con Phật. Hãy tự chọn cho mình một cuộc xử thế trong đó thiếu vắng tham, sân, si của thường tình thế tục. Hãy luôn vui cái vui của tha nhân và khổ cái khổ của tha nhân. Hãy luôn hướng về nội tâm, luôn sống tri túc và luôn bằng lòng với những gì mình đang có để không phải than thân trách phận và không oán trách ai. Trong đạo xử thế chỉ biết niệm “ơn,” chứ không niệm “oán.” Hãy cố gắng vâng giữ lời Phật dạy về đạo xử thế trong kinh Đại Tạng: “Hỡi các con ! Hãy tỉnh dậy ! Hãy hướng về lẽ phải, hãy dẹp bỏ lòng dục vọng. Muốn xứng đáng làm một con người đúng nghĩa của con người, hãy vâng giữ 5 điều cấm giới. Quyền thế và vật chất sẽ không bao giờ cảm hóa được con người, chỉ có đức độ và tư cách từ bi hỉ xả mới có thể làm tốt đạo đẹp đời mà thôi. Đừng biện giải hí luận xa xôi, chỉ cần có vậy thôi, cũng đủ làm cho các con sung sướng và đời con tươi đẹp hơn rồi.” Xin những người con Phật hãy tuân giữ lời Phật dạy trong đạo xử thế để cùng dắt dìu nhau đến nơi an lạc và hạnh phúc miên viễn.

457. NHỮNG MẢNH ĐỜI ĐỊA NGỤC

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã từng xác quyết trong các kinh điển của Ngài rằng: “Đời là biển khổ.” Vâng ! Hãy suy gẫm lại đi rồi sẽ thấy. Trên đời nầy có cái gì mà chúng ta có thể cả quyết là vui sướng đâu ? Sông sâu bên lở bên bồi, cũng như nỗi vui sướng, no đủ của người nầy được xây dựng trên sự đau khổ và ưu tư của kẻ khác. Bên cạnh đó, sanh trụ dị diệt là định luật tất nhiên của vũ trụ và vạn vật. Dù cho cao sang quyền quí thế mấy, dù vua chúa hay dân đen, dù lên non xuống biển hay lẩn lút vào thâm sơn cùng cốc… tất cả chúng ta đều chịu chung một số phận như nhau: sanh, trụ, dị, diệt. Vũ trụ và vạn vật đã sanh trụ dị diệt và sẽ còn tiếp tục sanh trụ dị diệt mãi mãi. Gần hai mươi sáu thế kỷ trước, Đức Thích Tôn Từ Phụ đã nhận thức được nguồn gốc của khổ đau phiền não.

Ngài đã thực chứng thế nào là đau khổ và Ngài đã tìm được con đường thoát khổ. Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, giàu sang phú quí, vợ đẹp con ngoan, quyền uy địa vị để chỉ khoát lên mình một tấm y bá nạp, được đùm víu lại bằng những mảnh vải cũ kỷ rách nát. Thông điệp ấy tưởng chừng như không thể nào bị lãng quên được. Thế mà mới chưa đầy hai mươi sáu thế kỷ về sau nầy, sự thể đã hoàn toàn khác hẳn. Chính những người mang thông điệp của Ngài đi vào đời, đã tự mình không nhớ không biết, hoặc không đếm xỉa gì đến những lời Phật dạy. Chính vì thế mà an lạc giải thoát đâu chưa thấy, chỉ thấy toàn là những mảnh đời địa ngục.

Phật đã nói gì có còn nhớ không hỡi những người con Phật ? Dù là ở bất cứ đâu, ở chùa, ở nhà, ở chợ, ở hang cùng ngỏ hẻm hay thâm sơn cùng cốc, ở phố thị phồn hoa hay đồng không mông quạnh… nếu như mình thực hiện đúng lời Phật dạy thì cũng như mình đang tỉnh tọa tại Niết bàn bên cạnh Phật không sai khác. Ví bằng làm sai ngược lời Ngài dạy dỗ, thì cho dù có được sinh ra trong thời Phật còn tại thế, vẫn phải sống với những mảnh đời địa ngục, không thể nghĩ bàn. Có nhớ không hỡi những người con Phật ? Phật dạy quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, vân vân. Đâu phải Ngài nói như vậy để mà nói chơi cho vui. Ngược lại, Ngài đã ân cần nhắc nhở mọi người rằng bọn tam độc tham sân si và bọn lục tặc (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) luôn rình rập quấy nhiễu chúng sanh. Rồi nào là thất tình, lục dục và mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Đúng như lời Phật dạy: “Đánh thắng vạn quân không bằng tự thắng lấy mình. Tự thắng lấy mình mới là chiến công oanh liệt nhứt.”

Phải thành thật mà nhận rằng đa phần chúng ta ai cũng như ai, lúc đầu luôn muốn cầu đạo vô thượng vì đã giác ngộ được nguyên nhân của bể khổ. Nào là sanh lão bệnh tử khổ, ngũ ấm thạnh suy khổ, sanh ly tử biệt khổ, không ưa nhau mà cứ mãi gặp nhau là khổ (oán tắng hội khổ), cầu bất đắc khổ, vân vân và vân vân. Chính vì vậy mà chúng ta phát nguyện ly dục. Chính vì vậy mà chúng ta phát nguyện thực hành phạm hạnh viên mãn cho đến trọn đời. Chính vì vậy mà chúng ta phát nguyện cùng sống cùng tu với nhau trong hòa thuận, không tranh cãi và luôn nhìn nhau bằng ánh mắt ái kính.

Tuy nhiên, bản chất cố hữu của đạo Phật là nói dễ khó làm. Bồ Đề tâm chỉ kiên cố được trong một thời gian ngắn của buổi ban đầu tu tập, rồi thì đâu cũng vào đấy, mà không chừng còn tồi tệ hơn hồi chưa biết tu nữa là khác. Kỳ lạ thật ! Càng tu ngã mạn cống cao càng lớn. Càng tu “cái ta” càng to. Càng tu sân giận càng nhiều. Càng tu càng “mục hạ vô nhân.” Càng tu càng đố kỵ, ganh ghét, tham lam, bỏn xẻn… Thật là tội nghiệp cho chúng ta những chúng sanh trong thời xa Phật ! Lúc chưa xuất gia thì chỉ mong sao cho có được cái am cái cốc vừa đủ tu; đến lúc có am có cốc thì bỗng nhiên lại thấy không gian chật hẹp, bèn nẩy ý muốn có chùa to chùa đẹp. Đến lúc có chùa to chùa đẹp, thì ô hô ! Tất cả thời gian bây giờ chỉ được dùng vào việc kinh doanh để trả tiền chùa, chứ còn thời gian nào nữa đâu để mà tu với hành. Đã thế còn tham lam lợi dưỡng của thế tục, mà phế bỏ sự tu hành để cho công đức tịnh hạnh ngàn đời nầy bị giặc não phiền cướp mất.

Quý vị ơi ! Hạt gạo của đàn na tín thí làm sao trả nổi đây ? Nói như vậy không có nghĩa là quơ đủa cả nắm, nhưng nói với tâm thành để cùng nhau “tương tức tương nhập,” để tăng tục cùng nương nhau hướng thượng. Tại gia lúc chưa tu thì hiền từ chất phác, lúc mới tu thì nhu hòa nhẫn nhục, khiêm cung từ tốn, nhưng tu được lâu một chút thì ngã mạn cống cao, đi đâu đến đâu cũng oang oác ong óng rằng ta đây là một bầu Phật pháp. Quý vị ơi hãy cẩn trọng ! Tu mà như vậy thà đừng tu còn hơn, vì nhân nào quả nấy. Gieo nhân địa ngục thì phải gặt lấy những mảnh đời địa ngục là chuyện tất nhiên, không cãi vào đâu được. Trong vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, từ địa ngục đến ngạ quỷ, từ ngạ quỷ đến súc sanh, từ súc sanh đến a-tu-la, đến người, đến trời , đến Phật… từ phàm đến thánh, từ sơ phát tâm đến khi nhập được Niết Bàn, nhứt thiết chúng sanh phải trải qua không biết bao a tăng kỳ tu hành thiện hạnh đến trí tuệ, từ lục Ba La Mật đến Giới Định Tuệ… Đã là chúng sanh thì không cách nào thoát được vòng nhân quả, ngay cả những chúng sanh sắp thành Phật.

Thế nên trước khi làm bất luận chuyện gì, chúng ta phải suy đi nghĩ lại cho chính chắn rồi hẳn làm. Nhứt là những vị đã phát tâm xuất hồng trần gia, phải quyết tâm từ chối sống những mảnh đời địa ngục. Công đức xuất hồng trần gia và công đức dìu dắt người người hướng thượng dẫu xây vạn triệu cảnh chùa cũng không sánh bằng. Vì theo Phật, dẫu xây vạn triệu cảnh chùa thì cảnh ấy chùa ấy còn có thể bị hoại diệt, chứ tự mình thanh tịnh và dẫn dắt người cùng thanh tịnh để thành tựu đạo quả Bồ Đề thì dẫu muôn triệu kiếp cũng không bao giờ hoại diệt. Tuy nhiên, công cuộc phản bổn hoàn nguyên, nghĩa là trở về với bản tâm thanh tịnh, không phải là chuyện dễ, không phải là chuyện của một ngày một bữa. Đức Phật đã từ bỏ tất cả để cầu đạo giải thoát, chúng ta há có con đường nào khác ? Thế mà lắm kẻ hôm nay vào chùa, tới chùa chỉ vì danh lợi, chỉ vì cái tiếng. Thay vì buông bỏ, thì kẻ ấy lại ôm hết.

Ôm cho chính mình chưa thấy đủ, bèn ôm cho vợ con mình, hay bà con thân thuộc mình. Thay vì đối xử với nhau trong hòa khí để gây tạo duyên lành cho nhau cùng tu, thì chúng ta lại nóng giận sân si. Thay vì hành xử tác phong dân chủ, chúng ta lại dùng quyền lực mà áp đảo tha nhân. Đức Phật đã từng dạy dỗ tứ chúng trong các kinh điển của Ngài rằng: “Tứ chúng dù xuất gia hay tại gia, nếu một ngày mà lòng tham không trừ, lòng tranh hơn thua không dẹp bỏ, lòng cầu danh cầu lợi chưa đoạn tận, lòng ngã mạn cống cao chưa chấm dứt, thì ngày ấy vẫn còn sống với những mảnh đời địa ngục.”

Phật tử chơn thuần phải luôn nhớ rằng chiếc áo hoặc dáng vẻ bề ngoài không làm nên con người, cũng không làm nên nhà tu, mà chỉ có tâm thức nầy là quyết định tất cả. Hễ lúc sống thế nào thì lúc chết cũng thế ấy, không sai khác. Nếu sống không xứng đáng rồi thì cũng chết không xứng đáng. Muốn tu hành mà không chịu buông bỏ sự hưởng thụ sung sướng thì làm sao có thể xả bỏ trần lụy để trở về với an lạc và thanh tịnh được ? Đã muốn rời bỏ trần cấu mà vẫn để cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tự do làm mối lái cho giặc tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến thì làm sao dứt được trần cấu đây ?

Tu là mắt bớt thấy để miệng bớt thèm; tai bớt nghe để lòng bớt phiền não; ý bớt suy tưởng để thân nầy bớt long đong và tâm nầy bớt phiền trược… Thế nhưng đa phần người tu hôm nay mắt vẫn muốn nhìn, tai vẫn muốn nghe, miệng vẫn muốn nói, mũi vẫn muốn ngữi, lưỡi vẫn muốn nếm, thân vẫn vẫn muốn xúc chạm và ý vẫn muốn suy tưởng miên man. Khi nghe thấy lời khen tiếng hót thì lòng sanh vui thích, còn khi nghe những lời trái tai nghịch ý thì sanh lòng giận dữ. Đã nói là tu mà chỉ mưu cầu tư lợi cho mình và cho những người thân của mình, còn thì sống chết mặc ai. Quý vị ơi ! Tiền của đàn na tín thí khó lắm. Mặc dù người không biết, nhưng làm gì mình không biết. Luật nhân quả trong thuyết nhà Phật là không thể nghĩ bàn. Hễ có vay là có trả. Dùng của đàn na tín thí làm lợi cho riêng mình thì chính mình sẽ lãnh lấy những mảnh đời địa ngục quý vị ơi ! Chứ không được làm những chúng sanh “trùng” “dế” đâu.

Trong thời Phật còn tại thế, Tôn giả Mục Kiền Liên, một đại đệ tử của Phật, là một bậc thần thông nhứt thế thời ấy. Một hôm Mục Kiền Liên cùng đệ tử là Thi Lợi Bí Đề đang đi bách bộ tại một bờ biển vùng Tây Ấn. Thi Lợi Bí Đề nhơn thấy một thân cây to đang rên la vì bị các côn trùng bám chặt vào, ông bèn hỏi Mục Kiền Liên rằng vì cớ gì mà thân cây lại rên la ? Mục Kiền Liên bèn giải thích rằng thân cây đang rên la ấy chính là hậu thân của một vị tỳ kheo tên là Lại Lợi Cha, ngày trước thường hay lấy của thường trụ của đàn na tín thí và những đồ dùng khác của tự viện mà phân phát cho bà con dòng họ. Sau khi chết, vị tỳ kheo ấy đã biến thành thân cây sụm, còn những bà con dòng họ của ông tỳ kheo nọ, là những kẻ đã thụ hưởng của đàn na tín thí một cách mờ ám, sau khi chết cũng bị rớt vào súc sanh sâu trùng, tiếp tục bám vào thân cây.

Thế mới biết nếu nhiếp tâm tu Phật và cương quyết lìa bỏ những mảnh đời địa ngục thì cho dù bần tiện như ông Ưu Ba Ly, hốt phân như ông Ni Đề, sát nhân khủng khiếp như Ương Quật Ma La, hay thiên hạ đệ nhất ác như Đà Tắc Kỳ hay Angulimala… cũng có ngày chứng Thánh. Ví bằng mờ ám như Lại Lợi Cha, thì cho dù có xây được vạn triệu kiểng chùa, vẫn phải ôm lãnh những mảnh đời địa ngục cho kiếp lai sanh. Người con Phật phải cố thấy như vậy để tránh được những mảnh đời địa ngục ngay trong đời nầy kiếp nầy. Đã bước vào cửa Phật là phải sửa đổi thói hư tật xấu, dẹp bỏ vô minh, quét sạch phiền não và đoạn tận tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Cũng câu chuyện của trưởng lão Thi Lợi Bí Đề, trên 100 tuổi mới tìm Phật xuất gia, không may cho ông hôm lên thành Vương Xá thì Phật đang đi hoằng hóa phương xa. Bí Đề bèn tìm gặp Xá Lợi Phật, rồi Ca Diếp, Ưu Bà Ly, A Nậu Lâu Đà, cũng như các vị A La Hán khác… để xin xuất gia, nhưng đến đâu ông cũng bị từ chối.

Ông thất thểu ra ngồi khóc trước cổng Tịnh Xá Trúc Lâm, thì Đức Thế Tôn bỗng xuất hiện với dung nghi đoan nghiêm, Phật hỏi Bí Đề vì cớ gì mà ngồi khóc một mình ? Bí Đề bèn đem hết đầu đuôi câu chuyện kể lại cho Phật nghe rằng ông đã chán quá những mảnh đời địa ngục, nên nay nguyện theo Phật tu hành giải thoát, nhưng vì tuổi đã cao nên không được ai thu nhận. Thế Tôn thấy vậy bèn nhận cho ông xuất gia và giao cho Tôn Giả Mục Kiền Liên làm Y Chỉ Sư. Dù được Phật thu nhận, nhưng lúc nào ông cũng bị những ưu bà tắc, ưu bà di và những tỳ kheo trẻ đã lâu năm trong đạo khinh mạn. Họ thường hay trêu ông với câu “sơ cơ lẩm cẩm.” Họ cho rằng ông già trăm tuổi nầy làm gì có thể học thuộc kinh điển mà tu với hành. Tuy nhiên, với quyết tâm xa lìa những mảnh đời địa ngục, nên ông chẳng lấy đó làm buồn. Ông luôn tự nguyện rằng “đối với mọi người ông đều có lòng thương xót, và xin nguyện sao cho thân tâm họ được xa lìa những ngã mạn cống cao hầu có thể tránh được những mảnh đời địa ngục.”

Do quyết tâm tu hành để tránh những mảnh đời đia ngục nên chỉ sau một thời gian ngắn tinh cần tu tập, nghe rành hiểu rõ giáo pháp, và thầm thầm tiến tu, ông đã chứng quả A La Hán. Còn những người trẻ tuổi kia, có kẻ sớm phát lồ sám hối thì về sau nầy cũng tu hành rốt ráo; còn những kẻ chẳng những không phát lồ sám hối mà còn sanh tâm ghen ghét đố kỵ, đều bị sa vào ác đạo, làm trùng làm dế trong Tịnh Xá Trúc Lâm. Người con Phật phải học cho được bài học nầy. Kinh điển chỉ có nghĩa đối với những ai chịu tu chịu sửa. Ngược lại, kinh điển chẳng những là vô nghĩa, mà còn là kẻ thù của những ai không chịu tu sửa.

Mà thật vậy, nói rằng tu mà tới chùa để phá hoại sự thanh tịnh của Tăng Ni thì có kinh điển nào làm bạn được với mình ? Nói là tu mà còn gom tiền của Tam Bảo để làm lợi riêng cho mình, thì chừng nào mới thấy được ý nghĩa của kinh điển để mà phá tà hiển chánh đây ? Vì thế cho nên người tu phải lập nguyện với lòng thành khẩn ngay trong lòng mình, không cần hình thức bên ngoài, phải luôn phản quang tự kỷ xem coi mình có đủ tư cách làm một Phật tử hay không ? Người tu, muốn tránh những mảnh đời địa ngục lúc nào cũng phải từ bi hỉ xả, lúc nào cũng phải nhẫn nhịn những chuyện mà người khác khó nhẫn, lúc nào cũng phải dụng công hoàn thành những chuyện mà người khác không làm được. Người tu luôn học hạnh của chư Phật và chư Bồ Tát, phải luôn thiết tha sửa chữa những khuyết điểm, những sai lầm chứ không bao giờ che dấu, phải luôn đối diện với hiện thực và chấp nhận mọi thử thách, lúc nào cũng vận dụng trí huệ sáng suốt chứ không để cho ngã kiến, ngã tướng, ngã chấp tiếp tục hành hạ và khống chế.

Trong thời Phật còn tại thế, sau các thời pháp Ngài thường nhắc nhở tứ chúng rằng: “Không phải đem thân gửi vào tịnh xá là có thể tránh được những mảnh đời địa ngục. Người quyết tâm cắt ái ly gia hầu xa tránh những mảnh đời địa ngục phải sống phải tu bằng hết thảy các thiện căn mà mười phương ba đời chư Phật đã sống đã tu. Ngược lại, dù có cạnh kề Như Lai mà cứ đem vô thường, khổ và vô ngã mà cho rằng đây là thường kia là lạc và đó là ngã, thì ngàn đời tâm ấy vẫn đảo điên mộng tưởng. Mà tâm đã điên đảo thì tưởng cũng sẽ điên đảo, và kiến rồi cũng sẽ điên đảo. Một con người với tâm, tưởng, kiến đã điên đảo thì không còn thứ gì trên đời nầy được gọi là định tỉnh với con người ấy nữa. Con người ấy dù có lánh thân vào tịnh xá, tâm vẫn luôn bị đọa vào những mảnh đời địa ngục.”

Tóm lại, người con Phật muốn tránh những mảnh đời địa ngục phải biết tri túc chứ không tham. Khi còn ở ngoài đời thì cung vàng điện ngọc, nhà cao cửa rộng, xe đẹp, quyền cao chức trọng, chứ khi đã tu rồi thì một tấm y bá nạp, hay một bộ nâu sòng, ngày ngày canh rau đạm bạc, thế là đủ lắm rồi cho cái thân tứ đại nầy, miễn sao tâm không ưu sầu khổ não, chẳng lấy trắng làm đen, lấy đen làm trắng. Dù biết rằng Phật pháp nói dễ khó làm, dù biết rằng thực tế khó tránh tham sân si, khó tránh phiền não, nhưng người tu người biết tu phải cố tránh những bũa vây của vô minh cho thân tâm nầy được thanh thản tự tại hơn. Muốn tránh những mảnh đời địa ngục, người con Phật phải cương quyết không tranh hơn thiệt, không bàn đúng sai, không luận thị phi bỉ thử, không nói lỗi người.

Ngược lại phải luôn nhẫn, nhẫn, nhẫn cho đến khi nào oan gia tùng thử tận. Nhẫn những cái đáng nhẫn và nhẫn cả những cái khó nhẫn, phải dằn lòng dù gặp phải bất cứ tình huống nào, không để cho lục căn chi phối để xô đẩy chúng ta vào những mãnh đời địa ngục. Chư Phật chư Bồ Tát cũng như chư Hiền Thánh Tăng đều thoát khỏi những mảnh đời địa ngục bằng cách thu thúc lục căn và vận dụng chúng sao cho chánh niệm luôn có mặt, làm chuyện gì các Ngài cũng tự tại thanh thản. Thế nên những người con Phật phải luôn vô cùng cẩn trọng, đời nầy còn có cơ duyên mặc áo vàng, áo nâu, áo lam, nhưng nếu không khéo thì đời sau phải mang lông đội sừng, hoặc giả phải làm con trùng con dế, hay heo, ngựa, trâu, hay phải sống những mảnh đời địa ngục. Quý vị ơi ! Tháng ngày cứ trôi qua, mạng sống cứ giảm dần, như cá cạn nước, nếu không khéo tu tâm dưỡng tánh, không sớm phản tỉnh tự thân tự tâm, cứ mãi đùa giởn với tài, sắc, danh vọng, quyền uy, của cải; cứ mãi quen thói chấp người chấp ta của thường tình thế tục thì thân nầy vẫn ngàn đời làm nơi trú ẩn cho cái tâm loạn động của những mảnh đời địa ngục mà thôi. Hãy vô cùng cẩn trọng !

458. TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI GIỮ GIỚI ?

Ngay vào thời chánh pháp, lúc mà Đức Phật còn tại thế, lúc mà trăm người chịu tu đều giải thoát được trăm, thế mà trong kinh Pháp Cú, Đức Phật vẫn ân cần dạy dỗ: “Lửa nào bằng lửa tham ! Sân hận nào bằng sân hận chấp trước ! Vướng mắc nào bằng vướng mắc si mê ! Biển nào rộng bằng biển ái !” Thật vậy, bản chất của chúng sanh nói chung và con người nói riêng là như thế đó. Từ vô thỉ con người đã bị lục căn duyên với lục trần dẫn dắt gây tội tạo nghiệp. Gió động, phướn động, hay tâm nầy động, không ai thấy, cũng không ai biết, nhưng làm sao chính mình không biết ? Chúng sanh đã lặn ngụp trong biển đời đau khổ gần như không thể nào thoát ra được. Từ sáng sớm đến chiều tối, từ tháng nầy qua năm nọ, con người cứ loanh quanh lẩn quẩn trong tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Chúng ta cứ mãi vui, buồn, thương, ghét, tranh danh đoạt lợi, hơn thua, thành bại, khi trẻ, lúc già, khi khỏe, lúc đau, khi thuận duyên lúc nghịch cảnh, khi sống lúc chết…

Chư Phật đã thị hiện chỉ với một mục đích duy nhứt là khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật. Chư Phật đã vì lòng vị tha tế độ mà đem hết những gì các Ngài chứng ngộ ra để chỉ dạy cho chúng sanh. Tuy nhiên, ngộ nhập hay không ngộ nhập là hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng sanh. Lời Di Giáo cuối cùng của Phật Tổ Thích Ca đã nhắn nhủ mọi người rằng sau khi Ngài diệt độ, chúng sanh phải lấy “Tịnh Giới làm Thầy.” Ngài đã khẳng định với tứ chúng rằng “Giới” là cửa ngõ duy nhứt vào cung điện Như Lai. Lời Phật dạy thật ngắn gọn, đơn giản và thật dễ hiểu. Giữ Giới là cửa ngõ vào cung điện Như Lai. Thật tình mà nói, Giới tự trong tâm mà ra chứ không phải ngoài tâm mà tới. Thế nhưng Phật tử chơn thuần, đa phần chúng ta chỉ bước vào chùa chứ có mấy ai chịu bước vào cung điện Như Lai.

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã dạy rõ là ba cõi không an, ngược lại nó hừng hực như nhà lửa đang cháy. Chúng sanh đang lăn trôi trong giòng sanh tử như thuyền mành đang chong chênh ngoài biển cả, không biết phương hướng nào để đi được vào bờ vào bến. Đa phần Phật tử chúng ta hôm nay ai cũng muốn vâng giữ lời Phật dạy, ai cũng mang lý tưởng giải thoát thật đẹp. Tuy nhiên, biết, muốn và mang lý tưởng giải thoát không giúp ích gì cho ai nếu chúng ta không thực sự tu hành để biến lý tưởng thành hiện thực. Những hình thức bên ngoài như vào chùa, cạo tóc, ăn chay, tụng kinh, niệm Phật, chỉ thật sự giúp ích cho lý tưởng giải thoát nếu chúng ta thật sự muốn bước vào cung điện Như Lai. Ngược lại, nếu hãy còn vướng mắc si mê thì những hình thức chúng ta đang mang chỉ là những tấm mặt nạ không hơn không kém.

Hãy thành tâm suy gẫm thì chúng ta sẽ thấy ngay nhiều lúc chúng ta đến chùa nghe giảng kinh hoặc ngồi thiền, ngay lúc đó chúng ta thấy cuộc sống chúng ta thật tỉnh thức, thật an lạc, chúng ta thấy nghĩa lý của giáo lý nhà Phật thật là tuyệt diệu. Tuy nhiên, mỗi tuần chúng ta có được mấy lần được nghe kinh pháp, mấy lần chúng ta thực sự ngồi thiền ? Không được mấy lần đâu quý vị ơi ! Lại nữa, khi nghe kinh, lúc ngồi thiền thì lòng ta lắng xuống và ta muốn tu ngay cho thành Phật, nhưng khi xả thiền, lúc hết nghe kinh thì đâu lại vào đấy, kinh đi một đường còn người thì đi một nẻo. Phải chi tu hành là cái gì mới lạ mà mình phải nhọc công khám phá thì cũng đành; đằng nầy tu hành chỉ là đi theo lối mòn mà năm xưa Phật Tổ đã đi và đã đến.

Thế mà từ sau Phật, đã có mấy ai thực sự chịu bước theo lối mòn ấy để gặp lại Phật Tổ ? Không có mấy ai. Thật đáng buồn ! Phải chi tu hành là đi tìm một cái gì cao xa thì cũng đành, đằng nầy tu là tin nơi mình cũng có Phật tánh mà chúng ta đã một lần dại dột xa rời. Chỉ có bấy nhiêu và chỉ có thế. Thế mà đa phần chúng ta đến giờ nầy hãy còn lăn trôi. Tại sao lại có trạng huống nầy hỡi những người con Phật ? Những điều cần chỉ dạy, chư Phật đã đem hết kiến giải của các Ngài ra mà chỉ dạy, từ Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, đến Bát Chánh Đạo, Thất Bồ Đề Phần, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Diệu Đế, Mười Hai Nhân Duyên, vân vân. Người con Phật, nhứt là những đứa con tại gia, hãy tự hỏi lòng mình coi mình đã làm được gì cho mình ? Thật tình mà nói, đa phần chúng ta, năm giới chưa tròn, thế mà cứ ngày ngày dong ruỗi đó đây nhàn đàm hí luận về những giáo lý cao thâm. Phật dạy chúng ta giữ giới cũng như giữ con ngươi của chính mình, thì chúng ta đâm thủng con ngươi không nương tay.

Phật dạy chúng ta giữ tâm ý cho thanh sạch và cố hành trì sao cho biển tâm thức lắng đọng, chúng ta chẳng những không nghe lời Phật dạy mà còn tuôn đổ đủ thứ rác rưởi vào tâm thức, từ những vui buồn thương ghét, đến thù hận khổ đau. Phật dạy chúng ta từ bi hỉ xả thì chúng ta lại hung ác ích kỷ. Phật dạy chúng ta nói lời từ ái thì chúng ta lại nói lưỡi hai chiều, nói lời đâm thọc độc ác. Phật dạy chúng ta phóng xả lợi sanh thì chúng ta sát sanh hại vật. Phật dạy chúng ta bố thí lợi tha thì chúng ta lại tham lam bỏn xẻn. Phật dạy chúng ta đừng uống những chất cay độc, chúng ta lại ngụy biện rằng nếu chúng ta không vào bàn rượu thì lấy ai độ kẻ uống rượu, vân vân.

Phật dạy một đàng, chúng ta làm một nẻo. Chúng ta chẳng làm được toàn phần, chẳng làm được bán phần, cũng chẳng làm được một phần những điều Phật dạy, thì mong gì làm Phật tử, chứ đừng nói chi đến thiền sư thiền thầy? Phật dạy một khi đã nguyện làm Phật tử phải suốt đời giữ đạo thanh tịnh, dù gặp phải chướng duyên nghịch cảnh, thà mất mạng chứ không mất đạo, thế mà chúng ta cứ vin hết cái nầy tới cái khác để bỏ đạo. Phật dạy hành trình về xứ Phật hãy còn muôn trùng vạn dậm, dù phải trải qua ba a tăng kỳ quyết không lìa sơ tâm phát nguyện thành Phật. Thế nhưng chúng ta càng tu càng trở nên quá quắc. Phật tử tại gia thì tưởng như mình đã hay lắm, không cần đến thầy đến chùa nữa. Thậm chí có vị đến chùa không phải để tu mà để dạy đời quý sư. Thật là chúng sanh đa loại !

Đồng ý nếu tâm vẫn còn chấp trước, thân vẫn còn vướng mắc thì dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng chẳng bao giờ tự tại được. Trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới, Phật đã khẳng định với chư Phật tử rằng con đường duy nhất để tâm không chấp trước và thân không vướng mắc là con đường trì trai giữ giới. Đồng ý tu theo Phật là tu theo chơn lý, là biết rõ cái lý để thấu hiểu ngọn nguồn của sự vật, là kiến tánh thành Phật. Nhưng đó là nói về những bậc thượng căn thượng đẳng như Phật Tổ hay Tổ Huệ Năng. Tự thân các Ngài đã tỏa ra ngút ngàn “giới đức đạo hạnh,” thì các Ngài còn cần chi giữ hay không giữ giới ? Đối với Phật tử tại gia, Phật không bắt ép chúng ta phải làm gì khổ hạnh, Phật chỉ khuyến tấn chúng ta nương theo 5 giới mà giảm thiểu sự hưởng thụ xuất phát bởi lòng tham ái hay nhằm thỏa mãn những vọng cầu hư vinh của bản ngã.

Chính Lục Tổ Huệ Năng lúc đã là Tổ mà vẫn một mực giữ giới chứ không buông lung, mặc dù lúc đó Ngài đang bị đám thợ săn dòm ngó, Ngài vẫn quyết chỉ ăn rau để sống. Người tại gia nếu chưa giữ hạnh trường trai diệt dục được một cách tuyệt đối thì có thể chỉ ăn những loài mà tâm thức hãy còn ở bực thấp như cua, tôm, tép, cá… và cố gắng tránh ăn thịt những loài gia súc như trâu, bò, heo, ngựa… vì ở những loài nầy, tâm thức không thua loài người là mấy. Phật tử tại gia phải thấy như vậy để hiểu rõ rằng không giết hại con người, không giết hại những động vật cao cấp là để biểu lộ lòng từ bi mẫn chúng vì ở con người có đầy đủ sự sống, lý trí và tình cảm. Đạo Phật thật rõ ràng và đơn giản như vậy, thì lý do tại sao người Phật tử phải trì trai giữ giới lại cũng rõ ràng và đơn giản như vậy: từ bi mẫn chúng, cứu khổ ban vui.

Người con Phật trì trai giữ giới là để kết thiện duyên rộng rãi với muôn loài. Người Phật tử dù đang tu với bất cứ pháp môn nào, hãy thầm thầm tiến tu y theo lời Phật dạy. Phật đã nói “lấy giới luật làm Thầy” là Phật đã mở cho chúng ta một khung trời tu tập giải thoát. Chúng ta không cần phải biện giải nọ kia chi cho thêm mệt. Một bậc đại đệ tử Phật như Ngài A Nan mà nói về cái “Tâm” đến bảy lần đều bị Phật bác hết bảy lần, huống là chúng ta ? Những phàm nhân kém cõi quá xa so với Ngài A Nan, mà hí luận chuyện lấy tâm cầu ngộ, lấy tâm chờ ngộ… quả là hí luận sai lầm mê muội.

Phật tử cũng nên luôn nhớ rằng dù đọc tụng thiên kinh vạn quyển, dù thiền cả ba a tăng kỳ mà giới không trọng giữ cũng chỉ là giởn chơi cho qua ngày tháng chứ chưa phải là tu, rốt rồi thì trạm dừng chân kế tiếp vẫn là tam đồ ác đạo. Xin khẳng định lại lời Phật dạy trước khi Ngài nhập diệt: “Trong thời không có Phật, muốn tu hành giải thoát, Phật tử hậu bối phải canh cánh bên lòng rằng giới luật là ông Thầy. Vì giới luật là nền tảng phát khởi mọi thiện căn và công đức. Giới luật chính là ngọn hải đăng đưa thuyền tu đáo bỉ ngạn. Giới luật là cửa ngỏ duy nhất đưa chúng sanh vào cung điện Như Lai và Niết Bàn.” Thật vậy, đừng nghĩ ngồi thiền, tụng kinh hay trì chú mới là tu.

Phật đã dạy quá rõ ràng rằng “Giới” là con đường duy nhứt giúp ta lắng lòng thanh tịnh để dùng chánh trí mà thấy được sự “như thật” của sự vật. Giới luật còn là những nguyên tắc căn bản giúp cho chúng ta thực hiện tình thương, sự hiểu biết và lòng từ ái. Từ hơn hai mươi lăm thế kỷ nay, những người Phật tử nhờ ở giới luật nhà Phật mà cuộc sống cuộc tu của họ ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. Giới luật là động cơ chính dẫn con người đi vào quang lộ của từ bi hỷ xả, khiêm cung từ tốn, và quảng đại bao dung. Nhờ tinh chuyên hành trì giới luật mà người Phật tử mới sống tu được với Bát Chánh Đạo, từ đó mà lời nào nói ra đều là chánh ngữ, chứ không nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời độc ác; mọi hành động của thân đều thanh cao hướng thượng, chứ không tham đắm, sân hận, sát hại, trộm cắp hay tà dâm.

Cũng chính từ đó mà sự làm ăn nuôi sống thân mạng cũng luôn chân chính, chứ không bất chính, lừa bịp, giựt giọc, lường gạt, hay cân non đong thiếu. Nhờ tu hành giới luật mà người Phật tử mới có cơ thanh lọc thân khẩu ý, từ đó dần đưa con người vào nẻo “Chánh Đạo.” Và cũng từ đó mà mọi cuồng tín vọng tin đều bị tan biến, mọi mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, cũng như những suy thoái đạo đức sẽ khó mà tồn tại trong lòng của những người con Phật chơn thuần. Giới luật chính là chìa khóa vào cửa đại giác với tất cả những người con Phật. Đức Phật không cấm chúng ta tìm hiểu những giáo điển thậm thâm vi diệu của đạo Phật; tuy nhiên, muốn vào cung điện Như Lai, muốn vào cửa Đại Giác, con đường trì trai giữ giới là con đường tất yếu không thể nghĩ bàn.

Cái trục trặc lớn của chúng ta ở đây thường là càng tu lâu càng ngã mạn cống cao, càng tu lâu càng phá giới hủy pháp. Trong Kinh Bách Dụ kể rằng thuở xưa có một người ở đô thành, muốn về làng quê theo đòi nông nghiệp để làm kế sinh nhai. Ngày nọ anh đến đồng ruộng xem xét, thấy một cánh đồng lúa thật tươi tốt khác thường, bèn hỏi anh nông dân ở đó dùng cách nào mà gieo lúa tốt như vậy ? Anh nông dân trả lời: Phương pháp rất giản dị, chỉ cần cày đất cho xốp, bang ra cho bằng phẳng, bỏ phân tốt, và tháo nước vô đầy đủ, thì lúa sẽ được như vậy thôi. Người thành đô nghe xong bèn y phương pháp cầy ruộng và gieo giống ấy mà làm. Anh đã cày đất cho xốp, bang bằng, bón phân, cho nước vào đâu vào đấy, chỉ cần đem hạt giống gieo lên là xong.

Nhưng anh suy nghĩ nếu ta dẫm chưn xuống ruộng để gieo thì e rằng đất sẽ giẽ đi, do đó lúa sẽ không thể nào tốt được. Sau một hồi suy đi nghĩ lại, cuối cùng anh nghĩ ra một cách. Anh bèn sắm một cái kiệu, rồi ngồi trên đó để cho bốn người kiệu xuống ruộng cho anh gieo lúa. Như vậy thay vì chỉ một mình anh với hai chưn dẫm đạp lên đất xốp, anh lại cho bốn người với tám chưn dẫm đạp, cộng với trọng lượng của chính anh và cái kiệu, làm thế nào mà đất không bị giẽ cứng ? Giới pháp của Phật lại cũng như vậy, Phật đã chế ra là phải có ý nghĩa và công dụng của nó. Người Phật tử hậu bối phải khéo giữ gìn, thì mới có cơ phát sanh được mầm pháp thiện lành. Tuy nhiên, càng về thời xa Phật, đa số người tu hành, ban đầu trì trai giữ giới rất cẩn trọng.

Một giới dù nhỏ thế mấy cũng quyết không hủy phạm, nhưng lần lần về sau, các giới thô trọng đều hủy phạm, không hề kiêng sợ giữ gìn. Hoặc giả có người chỉ mới vâng giữ được chút ít giới luật, tụng được vài biến kinh, ngồi được vài cử thiền, liền cho là mình đã đủ đầy giới hạnh, không chịu tinh tấn cầu học cầu tu với ai nữa. Người như vậy chẳng những không có lấy một chút xíu công đức nào, mà không chừng sẽ vĩnh viễn bị lăn trôi trong tam đồ ác đạo để trả giá cho cái tánh tự cao ngã mạn và khinh sư chê đạo của chính mình. Phật tử chơn thuần, nhứt là những Phật tử tại gia, phải vô cùng cẩn trọng !

Thật vậy, với người hãy còn tại gia, giới chính là chiếc bè đưa người qua biển khổ sông mê, giới là đèn sáng chiếu phá vô minh tăm tối. Thực tiễn trước mắt, giới là con đường đưa con người đến một cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Giới chính là con đường đưa chúng sanh đến chỗ bỏ ác làm lành để rồi cuối cùng đi đến chỗ thanh tịnh. Nhờ có giới mà người tại gia sẽ bớt sát sanh, bớt trộm cắp, bớt tà dâm, bớt vọng ngữ, cũng như bớt nói lưỡi hai chiều hay nói lời độc ác. Nhờ có giới mà người tại gia bớt tham lam bỏn xẻn, bớt sân hận oán thù, bớt tà kiến cố chấp. Nhờ giới mà chúng ta tránh được cảnh lấy tà làm chánh, lấy vui sướng tạm bợ của vật dục làm hạnh phúc đời người. Nhờ giới mà chúng ta biết giữ gìn lời ăn tiếng nói, không nói lời vô nghĩa, không nói lời dèm pha siểm nịnh. Giới là nền tảng của muôn pháp lành. Các bậc Hiền Thánh đều nhờ nơi giữ giới mà chứng đạo Bồ Đề.

Phật cũng do nơi giới mà thành đạo Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng ta là những phàm nhân, nếu muốn giải thoát như chư Phật, sẽ không có con đường nào khác đâu quý vị ơi! Trong Kinh Niết Bàn, Đức Thế Tôn đã dặn dò rất kỹ càng rằng: “Giới luật chẳng những là ngọn hải đăng, mà còn là chiếc bè đưa chúng sanh đáo bỉ ngạn. Về thời không có Phật, chúng sanh nào muốn tu hành giải thoát, phải lấy giới luật làm thầy, phải giữ gìn giới luật như giữ gìn con ngươi của chính đôi mắt mình. Không tinh chuyên trì giới thì đừng bao giờ nhắc đến Tịnh Độ hay Niết Bàn.”

Những người con Phật chơn thuần, dù hãy còn tại gia, dù chướng duyên ràng rịt hãy còn nhiều, dù phiền não hãy còn đầy. Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu lắng lòng nghe lời Phật dạy, mà cố gắng trì giới thì cuộc sống của chúng ta sẽ là một cuộc sống thật xứng đáng. Vì có trì trai giữ giới chúng ta mới tiết giảm được tham sân si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… nhứt là tham đắm sắc dục, từ đó chúng ta mới có cơ tránh được cảnh bị đọa đày và vùi lấp trong tam đồ ác đạo. Chính vì vậy mà trong một lần thuyết pháp tại thành Xá Vệ, Đức Thế Tôn đã làm một bài kệ để đời rằng:

“Học nhiều lại nghe nhiều
Hai đời được ngợi khen
Học ít lại nghe ít
Hai đời bị đau khổ
Phàm học nên nghe nhiều
Dầu gặp nhiều tai nạn
Trì giới chẳng tái phạm
Sở nguyện được thành tựu
Giữ giới không chu toàn
Sở nguyện bị tán mất
Xét lý nhận yếu nghĩa
Không gì đáng can ngại.”

Thật vậy, giới luật chẳng những là thầy của chúng sanh thời xa Phật, mà còn là thọ mạng của Phật pháp, vì nơi nào có giới luật, nơi đó có Phật pháp. Ngược lại, nơi nào không có giới luật, bất kể nơi đó là nơi nào, chùa nhỏ, chùa lớn, tiểu tự, đại tự… nơi đó không hề có Phật pháp. Cũng như vậy, người nào chịu trì trai giữ giới, dù thân tan thịt nát, vẫn cạnh kề Như Lai. Trong thời Phật còn tại thế, tại nước La Duyệt Kỳ có hai vị tỳ kheo muốn yết kiến Đức Thế Tôn. Tuy nhiên, đường xá xa xôi, lại thêm giữa hai nước Xá Vệ và La Duyệt Kỳ có một khoảng đồng rộng mênh mông, không có người ở, gặp lúc trời hạn hán nên tất cả suối hồ đều khô cạn. Hai người đi ngang qua khu ấy bị khát nước, chỉ gặp được một vũng nước nhỏ thì lại bị đầy những trùng, không thể uống được. Hai người mới bàn nhau rằng: “Chúng ta từ xa lại, cốt mong chiêm ngưỡng Đức Phật, không ngờ nay bị chết khát giữa đường.”

Một người nói rằng: “Thôi ta hãy tạm uống để khỏi chết khát, có vậy mới mong có ngày gặp được Phật, vả lại ta có uống cũng không ai biết cả.” Người kia đáp rằng: “Giới luật Đức Phật chế ra, lấy nhơn từ làm gốc. Nếu giết hại chúng sanh để tự vệ sự sống của chính mình, dù không ai biết, nhưng làm gì tự mình không biết ? Làm như vậy dù thấy được Phật cũng không ích gì. Thà rằng giữ giới chịu chết một cách thanh sạch và an lạc, chớ không phạm giới mà được sống một cách ô uế và nhiễm trược. Thế rồi hai người tự làm theo ý nguyện của mình. Người đầu uống nước đỡ khát và đi được đến chỗ Phật ở. Người thứ nhì không chịu uống nên phải chết khát dọc đường, nhưng lại được sanh lên cung trời Đao Lợi, cũng nhờ đó mà ngày ngày được đứng hầu cạnh Phật. Còn người “tham sanh úy tử,” uống nước để được sống vào yết kiến Phật, trình bày tự sự cho Thế Tôn rằng còn một người bạn cũng muốn đến yết kiến Phật, nhưng dọc đường đã mệnh chung vì không chịu uống nước có trùng.

Phật bèn phất tay chỉ một Tiên nhơn hầu cạnh mà rằng: “Tiên nhơn đây chính là người bạn của ngươi đó. Nhờ giữ trọn giới luật nên được sanh lên cõi Trời và được gặp ta trước ngươi.” Đức Phật bèn chỉ tay vào ngực người đến yết kiến Phật mà bảo rằng: “Ngươi tuy thấy hình ta mà không trọn giữ giới luật của ta, ngươi tuy thấy ta nhưng ta không hề thấy ngươi. Còn người chết khát dọc đường mà trọn gìn giới luật, dù cách xa ta ngàn dậm, người ấy vẫn luôn đứng trước mặt Như Lai.” Người con Phật, nhứt là những người tại gia phải luôn thấy được như vậy, để nếu không giữ được toàn phần Phật tử, thì ít ra cũng ráng làm một bán phần Phật tử hay ít ra cũng dính được một chút Phật tử trong thân tâm nầy. Làm được như vậy dù chưa siêu thoát trần lao, nhưng cuộc sống sống cuộc tu của chúng ta hẳn là tuyệt diệu lắm rồi vậy. Người con Phật nên luôn nhớ rằng đời người ngắn ngủi còn thua ánh điển chớp, thoáng một cái là đã xong một đời. Lại nữa tất cả những gì của trần lao uế trược ta đều phải bỏ lại, chỉ có giới đức và đạo hạnh mới giúp được ta mang hành trang thiện lành đi vào đời nối tiếp. Hãy cố gắng lên hỡi những người con Phật !!!

459. CÂM VÀ TỊNH KHẨU

Vào thời mạt pháp nầy, chúng sanh nhứt là con người, đa phần chỉ còn nghe và biết về Phật qua kinh điển và giáo lý của Ngài. Kinh điển thì quá nhiều, giáo lý lại thậm thâm, nên có quá nhiều người đang lạc bước lang thang trong rừng kinh biển giáo. Trong trạng huống nầy có quá nhiều người hiểu lầm hoặc ngộ nhận về Phật giáo. Ngay cả những người con Phật chơn thuần mà cũng chỉ nhìn về tương lai mờ ảo, chỉ dọn mình cho cuộc sống sau nầy chứ hiện tại ra sao cũng mặc kệ. Lại cũng có những người vì thấy rằng cuộc sống hiện tại quá bức bách, quá não phiền và khổ đau, nên muốn ruồng bỏ hết sự đời. Đã là con Phật mà còn bị vướng mắc vào những trạng huống nầy thì quả là tội nghiệp ! Trong Kinh “Người Biết Sống Một Mình,” Đức Từ Phụ đã không từng dạy dỗ chúng sanh là quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến, hãy trân trọng những giây phút hiện tại, chỉ có những giây phút hiện tại mới có thể quyết định phiền não, Bồ Đề, phàm hay Thánh, Chánh hay Tà, Chơn hay Ngụy… Dù biết rằng trong không gian vô cùng và vũ trụ vô tận nầy, quá khứ, hiện tại và vị lai của một kiếp người đều thoáng hiện thoáng qua, từ sanh ra, lớn lên, già cổi, rồi tử vong không là bao lâu, thế nhưng trong cái “không bao lâu” ấy, chúng sanh và con người đã và đang gánh chịu quá nhiều khổ đau và hệ lụy của cuộc đời.

Đã thế, con người chúng ta ít ai dám nhìn vào những thực tế của hiện tại. Ngược lại, chúng ta chỉ hẹn lại với những ước muốn cho tương lai, hoặc giả có nhiều người chỉ lưu luyến về quá khứ vàng son, hoặc mơ mộng về một tương lai mù mờ xa thẳm. Người con Phật phải thấy rõ như vậy để dồn hết thân, tâm, ý của mình cho những giây phút hiện tại quí báu, chứ đừng để một giây phút nào phí phạm mà lưu luyến về quá khứ hay thao thức cho tương lai. Kỳ thật, theo Đức Phật, những kẻ dành quá nhiều thì giờ lưu luyến về quá khứ hay thao thức cho tương lai chỉ là những kẻ nói xàm và lo quẩn, chỉ làm cho tâm viên ý mã vốn dĩ đã loạn động của chúng ta càng trở nên loạn động hơn. Càng lưu luyến về quá khứ, càng thao thức cho tương lai, chỉ càng làm cho tinh thần chúng ta thêm bất an và ám muội hơn.

Chúng ta càng dùng quá khứ để thổi phồng bề ngoài của mình bao nhiêu, càng làm cho chúng ta thêm ngã mạn cống cao bấy nhiêu. Dù biết rằng im lặng chưa chắc là tịnh tâm, nhưng dù sao đi nữa thì im lặng cũng là một phương tiện thù thắng đưa tới tịnh tâm. Tuy nhiên, người con Phật phải luôn sáng suốt để nhận biết rằng tịnh khẩu và câm là hai trạng thái hoàn toàn khác nhau. Câm là không nói được và đôi khi không nghe được. Người câm nhiều khi ngoài miệng không nói, tai không nghe, nhưng tâm ý thì cuồn cuộn như sóng trào gió cuộn. Ngược lại, tịnh khẩu đúng theo nghĩa của nhà Phật là miệng vẫn nói, tai vẫn nghe, ý vẫn suy nghĩ…Nhưng nói, nghe và suy nghĩ những gì thanh tịnh, chứ không nói, không nghe, và không suy nghĩ những bất tịnh uế trược.

Muốn được như vậy người con Phật phải luôn tỉnh thức những gì mình đang nói, đang nghe và đang suy nghĩ trong từng giây phút hiện tại. Muốn tỉnh thức để trực nhận lẹ làng những gì đang xãy ra trong hiện tại, không phải tự nhiên mà có. Mười phương ba đời chư Phật đều phải tỉnh thức bằng “Giới, Định, Tuệ.” Giới, định, tuệ không tìm đến bất cứ ai. Ngược lại, chúng ta phải cố gắng tìm đến với chúng bằng tất cả thời gian mà chúng ta có được vì thời gian không hề ngưng đọng để chờ đợi một ai. Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật đã dạy rằng: “Muốn tu hành rốt ráo, thì đạo nhẫn nhục kể cả sự nín lặng là phương tiện thù thắng. Tuy nhiên, bất cứ sự nhẫn nhục hay nín lặng nào mà không phát xuất từ trí huệ, chỉ là sự câm nín ươn hèn, không có trong triết lý sống tu của nhà Phật.”

Ngoài ra, tịnh khẩu đối với những người con Phật chơn thuần là trong suốt cuộc hành trình từ Người lên Phật, từ Phàm lên Thánh, từ Địa ngục lên Niết Bàn…chúng ta phải biết lùi lại và tự ngắm nhìn chính mình, phải xem coi mình có đang sống thực hay đang đóng kịch. Nếu chúng ta thực sự sống với mình và tha nhân thì cho dù hiện thực có là khổ đau phiền não hay hạnh phúc vui tươi, chúng ta vẫn như như tự tại. Ngược lại, chúng ta phải nên luôn coi chừng nếu chúng ta đang giở trò đóng kịch. Nếu chúng ta đang đóng kịch thì cho dù bề ngoài có tướng hảo quang minh hoặc miệng có câm như hến, thân có trang nghiêm, vẫn không che đậy được bão táp từ bên trong tâm ý. Nếu chúng ta đang đóng kịch thì cho dù miệng không nói tham, mà lòng nầy vẫn chất chứa dẫy đầy những tham, sân, si.

Nếu chúng ta đang đóng kịch thì cho dù cung cách có khiêm cung thế mấy, trong tâm chúng ta vẫn ngã mạn cống cao tràn đầy. Cũng như vậy, nếu chúng ta đang đóng kịch thì cho dù miệng nói không tà kiến, biên kiến, ác kiến, tâm ý nầy vẫn độc tài độc đoán với đủ thứ hung tàn ác độc. Kỳ thật đa phần chúng ta đều vướng mắc phải lỗi lầm nầy, nghĩa là thân có thể nhẫn, khẩu có thể nhẫn, nhưng ý chưa chắc đã nhẫn được. Lúc tụng kinh, hay khi niệm Phật, ngồi thiền… thì sân hận si mê tạm lắng xuống, thân khẩu ý tạm ngưng nhiễm trược trần cấu. Tuy nhiên, lúc ngưng tụng niệm hay ngồi thiền thì tham sân vẫn theo duyên mà đùng đùng nổi dậy. Lúc đó chúng ta quên mất lời Phật dạy: “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, oan gia tùng thử tận.” Nhẫn ở đây không có nghĩa là đè nén, mà nhẫn vì không muốn tranh hơn tranh được theo thói của thường tình thế tục. Theo giáo lý nhà Phật thì nhẫn là từ chối không chứa chấp tám ngọn gió độc của trần lao. Tịnh khẩu cũng vậy. Tịnh khẩu không có nghĩa là vì muốn đè nén mà không nói.

Nếu vì đè nén mà không nói thì đến lúc nào đó quá sức chịu đựng thì chính khẩu nầy sẽ bung ra toàn những lời cay nghiệt và độc ác. Những người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng tịnh khẩu, tịnh thân chỉ là những phương tiện thù thắng bề ngoài cho những ai mới bước chân vào đạo, nhưng đến một lúc nào đó ai trong chúng ta cũng nên thoát ra những phương tiện bề ngoài hạn hẹp và cục bộ nầy, để tự quay vào chính mình tự thanh tịnh cho được tâm ý nầy. Tại sao gọi tịnh khẩu “bề ngoài” là hạn hẹp và cục bộ ? Hạn hẹp ở chỗ chỉ có tự mình không nói, còn cục bộ ở chỗ trong khi mình không nói chỉ có một mình mình được tạm gọi là yên tịnh, còn những người quanh mình có thể cảm thấy rất khó chịu. Ví bằng chúng ta chịu tuân giữ lời Phật dạy, chỉ suy nghĩ và nói những lời thanh tịnh, thì cả ta lẫn người quanh ta đều được thanh tịnh.

Người con Phật phải luôn nhớ rằng chỉ có thật sự “tịnh khẩu” mới giúp cho tâm ý lắng đọng, chừng đó chúng ta mới mong vượt thoát được vòng lẩn quẩn của nhân quả nghiệp báo mà tâm ý nầy đã từng tạo tác. Người con Phật phải nên luôn nhớ rằng thân và khẩu chỉ là công cụ của ý mà thôi. Trong Kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật đã từng dạy: “Tịnh thân và tịnh khẩu không là cứu cánh của những người con Phật vì thân và khẩu chỉ là những tên ở đợ cho ý mà thôi. Chính vì thế mà Phật đã khẳng định với người sơ cơ nên cố gắng lắng lòng bằng cách tịnh thân tịnh khẩu. Còn những Phật tử thuần thành phải cố tịnh lự cho được ý nầy.” Qua những lời chỉ dạy của Phật, chúng ta thấy rằng tịnh thân và tịnh khẩu chỉ là những phương tiện thù thắng cho những ai muốn bước chân vào đạo.

Đã gọi là phuơng tiện thì người con Phật có quyền tùy nghi xử dụng cho đúng để đừng phí phạm thời giờ vốn dĩ đã không có của mình. Khi còn mê thì muôn sai đều vọng, nên chấp nín chấp nói gì thì vọng tâm vẫn còn nguyên vọng tâm. Tịnh thân không có nghĩa là không làm; ngược lại, tịnh thân có nghĩa là chỉ làm những điều chân chính và thanh tịnh. Tịnh khẩu nói theo kiểu bình dân là nín không nói, nhưng theo Phật, tịnh khẩu có nghĩa là chỉ nói những điều thanh tịnh, chứ không nói những điều xằng bậy, nói mà không tức giận, không oán trách, cũng như không chứa chấp những điều ác. Tịnh khẩu không có nghĩa là không nói, mà chỉ nói và nghe những gì chân chánh và thanh tịnh. Tịnh tâm tịnh ý không có nghĩa là không suy nghĩ, mà chỉ suy nghĩ những điều chân chánh và thanh tịnh.

Chính Đức Phật đã từng khẳng định trong các kinh điển của Ngài: “Một khi đã khế hợp thì dù có im lặng hay nói bất cứ thứ gì cũng đều khế hợp.” Người con Phật phải thấy được như vậy để tự nhiên hòa điệu sống với chính tự thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên. Dù tịnh hay dù động, tất cả chỉ là phiến diện. Chính Lục Tổ Huệ Năng đã cảnh tỉnh mọi người rằng: “Chẳng phải phướn động, cũng chẳng phải gió động, mà chính tâm nầy động đó thôi.” Thật vậy, động hay tịnh là hoàn toàn tùy thuộc nơi mình. Có thể nào tịnh mà chẳng động, hay cứ động mà chẳng tịnh ? Vạn pháp vốn tự nhiên và đầy đủ, không phải chỉ có tịnh, mà cũng không phải chỉ có động; hoặc giả chỉ có hữu mà không có vô, hay chỉ có vô mà không có hữu; hoặc giả chỉ có tánh mà không có tướng, hay chỉ có tướng mà không có tánh; hoặc giả chỉ có thể mà không có dụng, hay chỉ có dụng mà không có thể, vân vân.

Chúng ta là những phàm nhân hãy còn đang lăn trôi nên lúc tịnh lúc động, lúc tánh lúc tướng, lúc thể lúc dụng… Bây giờ muốn tu theo Phật là phải tự mình thể nhập vào vạn pháp bằng cách để cho vạn pháp diễn tiến tự nhiên, chứ đừng bắt ép vạn pháp phải chìu theo ý mình. Hiểu được như vậy chúng ta sẽ không chấp “Dụng” để phải chấp vào “nín” hay “nói,” “tịnh” hay “động.” Hiểu được như vậy chúng ta sẽ không còn chấp tướng để rồi phân biệt xấu đẹp. Hiểu được như vậy chúng ta sẽ không còn chấp “thể” mà biện biệt chơn giả, chánh ngay… Hiểu được như vậy thì dù nói hay dù nín, thân tâm người con Phật lúc nào cũng tràn ngập từ, bi, hỉ, xả mà thôi. Người con Phật nên luôn nhớ rằng đạo Phật là đạo giải thoát cho những ai quyết tâm xuất trần; tuy nhiên, đạo ấy cũng sẽ mang lại vô vàn an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc cho những người tại gia biết sống biết tu theo Phật.

Nếu ai trong chúng ta cũng lắng lòng nghe theo Phật thì dưới mắt ta, mọi hiện tượng trong thế gian nầy đều sáng tỏ, từ đó chúng ta sẽ có khả năng đoạn tận mọi trói buộc của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Cũng từ đó ngọn đèn tâm nơi ta luôn rực sáng và thuyền tu của sẽ chỉ một bề “trực chỉ nhơn tâm.” Làm được như vậy thì chuyện hồi đầu thị ngạn, phản quang tự kỷ, hay phản bổn hoàn nguyên để được “kiến tánh” chỉ là chuyện của vấn đề thời gian mà thôi. Khi đã “kiến tánh” thì chắc chắn một ngày không xa nào đó chúng ta sẽ được cùng chư Phật thong dong đi vào cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt.

460. ĐẠO CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Có nhiều người cho rằng trong đạo Phật thiền là pháp tu thù thắng bậc nhất, rồi từ đó chỉ một bề chấp chặt vào thiền mà quên hẳn những lời Phật dạy: “Càng xa thời Phật, chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề nghiệp nặng, tâm tạp vọng tưởng, ngỗ nghịch, mê đắm dục vọng, không hiếu thuận mẹ cha, không biết cung kính thầy bạn, làm đủ mọi chuyện độc ác…. Đã thế, con người còn dùng phàm trí phỉ báng Thánh nhân, không biết kinh vì nhân quả.” Thật là khó cho chúng ta thoát được vòng lẩn quẩn của nhân quả nghiệp báo vì nhứt nhứt hành động nào của chúng ta đều xuất phát từ sự đảo điên mê dại của phàm trí.

Không có hành động nào của chúng ta mà không vì bản ngã, lợi danh, quyền thế… dù ai trong chúng ta cũng đều biết rằng những thứ ấy chỉ là bọt bèo trong biển cả luân hồi sanh tử, thế nhưng chúng ta vẫn tính toán cái gì có lợi mới làm, cái gì có danh có quyền có tước vị mới chịu tham gia. Người con Phật nên luôn nhớ rằng bản ngã, lợi danh, quyền thế… tất cả chỉ là những huyễn mộng, ảo tưởng, tất cả chỉ là một cơn trường mộng với khổ vui, thương ghét, mừng, lo, sợ, sướng, giận, khóc, cười, vân vân. Hãy tỉnh cơn túy sanh mộng tử để thấy rằng bản ngã chỉ là con đẻ của vô minh và tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Nói cho cùng ra bản ngã chỉ là sản phẩm của giả tưởng.

Theo Đức Phật, đạo của Ngài không nhằm giúp ai luyện thần thông để có thể bay trên không, lặn dưới nước hay đi vào lửa đỏ than hồng. Đạo của Ngài thật đơn giản dễ làm, đạo của Ngài là đạo của những người có cái tâm thật bình thường như đói ăn, khát uống. Tuy nhiên, có quá nhiều người, ngay cả những người tự xưng là Phật tử lâu năm vẫn không kham nổi cái tâm bình thường nầy. Chính vì thế mà hết ngày dài rồi lại đêm thâu họ chỉ bôn ba đi tìm những cái phi thường, để rồi cuối cùng rơi vào bẫy rập của tà ma ngoại đạo. Trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới, Đức Từ Phụ đã từng nhắn nhủ hai chúng tại gia rằng: “Đạo Phật là đạo để sống, chứ không phải để bồi bổ cho tri thức của thường tình thế tục. Những người Phật tử tại gia phải hiểu và thấy như vậy để luôn sống và hành trì đúng như giáo pháp của Như Lai: hữu hành vô ngôn.

Nghĩa là người theo đạo nầy chỉ cần làm chứ không cần nói.” Đức Phật nói pháp vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh… không phải để cho chúng ta tự vẽ bùa thường, lạc, ngã, tịnh ra đeo mà trốn chạy vô thường. Làm như vậy, không cần nói thuyết “Bất Nhị,” ai trong chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta đang chơi trò đối đáp của thường tình thế tục, chúng ta đang hành trình về cõi mộng. Tệ hại nhứt, làm như vậy là chúng ta tự xô đẩy và nhốt chúng ta vào ngục tù vô minh. Hỡi những người con Phật chơn thuần ! Chơn lý nhà Phật vẫn muôn đời ung dung tự tại trong tam thiên đại thiên thế giới. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật đã khẳng định quá rõ rằng trong vũ trụ, thường đoạn, có không, tăng giảm, trược thanh, dị nhất… tất cả đều giản dị. Tại sao Phật lại nói không tăng, không giảm, không cấu, không tịnh ??? Nhiều người không hiểu di ngôn của Phật rồi vội vã kết luận theo phàm trí, cuối cùng thì cũng như những anh mù rờ voi không hơn không kém.

Phải chăng Phật nói không có tăng mà cũng không có giảm ? Đúng vậy, cõi tịnh tịch của Ngài không còn gì nữa để nói; tăng giảm, cấu tịnh, trược thanh trong cõi Niết Bàn đều hòa hợp vào hư vô không sai khác. Tuy nhiên, những người con Phật còn lăn trôi, chưa hòa nhập được vào hư vô mà vội chấp chặt một chiều và toan nắm bắt chơn lý bằng phàm trí phiếm diện của mình thì e rằng chỉ phí phạm thì giờ một cách oan uổng mà thôi. Như vậy những ai còn ôm ấp thái độ bỏ đoạn lấy thường, bỏ tướng lấy tánh, bỏ hữu lấy vô, bỏ phi lấy thị… chẳng những không tu hành được mà còn tự mình dìm sâu vào trong biển luân hồi sanh tử nữa là khác. Người con Phật hãy để cho tâm (ý), sinh (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và vật lý (sắc, thinh, hương, vị, xúc) diễn tiến một cách tự nhiên.

Chúng ta chỉ cần làm được một người quan sát thật vô tư, chứ không làm cảnh sát can thiệp vào những tiến trình của sanh, lão, bịnh, tử thì cuộc sống cuộc tu nầy cũng là an lạc và tự tại lắm rồi vậy. Người con Phật phải hiểu rằng phàm là chúng sanh nói chung và con người nói riêng, có sanh là có già có bịnh và có tử. Cũng như vậy, có lạc có khổ. Đạo của người con Phật không phải là con đường chống lại sanh già bịnh chết, mà là con đường giúp ta lúc nào cũng an nhiên tự tại trước những khổ đau của sanh già bịnh chết, nghĩa là vượt thoát khỏi sanh lão bịnh tử của ngã kiến và vọng chấp. Đạo nầy không chống lại bản chất sanh lão bịnh tử tự nhiên của tâm, sinh và vật lý. Ngược lại, đạo nầy đi thẳng vào những thứ ấy mà hóa giải tất cả những ảo tưởng vọng thức của bản ngã.

Đạo nầy chủ trương trả lại cho tự nhiên những gì của tự nhiên, trả lại cho vũ trụ những gì của vũ trụ, trả lại cho sự thật những gì của sự thật để từ đó chúng sanh và con người có thể thấy được mặt mũi xưa nay của chính mình. Muốn đến với đạo nầy, người con Phật chỉ cần biết quay trở về sống tu với chính mình với cái tâm thật bình thường của mình, chứ không lang thang dong ruỗi tìm cầu nữa. Đạo nầy ở ngay trong cái tâm bình thường của mỗi người chứ không ở đâu xa. Ai mà mống tâm hướng ngoại cầu hình thì hãy tự biết rằng mình đã xa đạo vạn dậm rồi đó.

Những người con Phật hãy tự biết mà quay ngay trở về với thực tại, hãy phá tung căn cứ địa của bản ngã thì tự nhiên đạo nầy hiển lộ. Đạo của người con Phật ở ngay trong hiện thực chứ không mơ mộng viễn vông. Quy-y Tam Bảo và học thuộc giáo lý mà không chịu thực hành rốt ráo những lời Phật dạy vào cuộc sống cuộc tu hằng ngày không phải là đạo của người con Phật. Đạo của người con Phật nếu nói cao thâm huyền dịu thì nó cao tuyệt, nhưng nếu nói đơn giản bình thường thì nó cũng thật đơn giản bình thường như “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý.”

Với người con Phật tại gia, đạo nầy dạy rằng phải đêm ngày thực hành năm giới căn bản trong cuộc sống hằng ngày. Phải hiểu tại sao phải quy ngưỡng ngũ giới và phải tin rằng một khi đã quy ngưỡng và chí tâm hành trì ngũ giới thì cuộc sống của chúng ta là một vùng sáng rực rỡ của thiện lành và hạnh phúc. Đạo nầy không muốn những người con Phật làm các điều ác như sát sanh hại vật, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ hoặc uống những chất cay độc, vì những thứ nầy chẳng những hại mình hại người trong đời nầy kiếp nầy, mà lắm khi chúng còn di họa cho chúng ta đến đời đời kiếp kiếp. Đạo nầy không muốn những người con Phật tham giận kiêu căng vì tham sẽ gây khổ đau cho người và cho mình; giận sẽ đốt cháy hết công đức mà ta đã dày công tích tụ ngàn đời, và kiêu căng sẽ đưa ta gần với tà đạo hồi nào cũng không hay biết. Đạo nầy không muốn những người con Phật nghi hoặc, tà kiến vì chính nghi hoặc sẽ chặt đứt nguồn tâm đức nơi dự trữ vô lượng phước đức, còn tà kiến sẽ khiến ta ngày càng xa đạo.

Người con Phật nên luôn nhớ rằng tiền bạc và ngọc ngà châu báu của cõi nước tạm bợ nầy cho dù có đem chất đầy tam thiên đại thiên thế giới cũng không quý bằng vâng giữ và hành trì một câu Phật dạy. Thật vậy, đời thì cho rằng có tiền mua tiên cũng được, nhưng tiền có mua được đâu thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, và lợi hòa đồng quân ? Kỳ thật tiền bạc của cõi nước tạm bợ nầy chỉ khiến cho con người ta tăng trưởng tham sân si, chứ chưa bao giờ giúp ta có được từ bi hỉ xả. Lắm khi vì tiền bạc, ngọc ngà, danh vị mà con người manh tâm hảm hại lẫn nhau; lắm khi vì tiền mà người ta cam tâm nói dối, tà dâm, vọng ngữ. Chỉ có đạo nầy mới chẳng những giúp được người tôn trọng người mà còn luôn luôn tôn trọng và cứu sống sanh mạng của muôn loài.

Chỉ có đạo nầy mới thực sự giúp con người dứt bỏ tham lam bỏn xẻn mà quay về với bố thí vị tha. Xưa tại nước An Đà có vị tỳ kheo sai một sa di đến nhà một cư sĩ lấy đồ ăn. Lúc vị sa di đến nhà thì cả nhà đều đi vắng, chỉ trừ cô con gái út tuổi vừa đôi tám, xinh đẹp như trăng rằm. Vừa thấy vị sa di trẻ là nàng ta sanh tà tâm, cúi lạy vị sa di mà rằng: “Bạch Tôn Giả, nhà tôi tiền của rất nhiều, nếu ngài chìu theo ý muốn của tôi, thì tất cả của cải nầy đều thuộc về ngài. Nếu vị sa di trẻ nầy không có “đạo của người con Phật” thì chắc phải thất điên bát đảo với cô nàng. Sau khi cô gái đã đóng chặt cửa và hăm dọa bêu xấu đủ điều, nhưng vị sa di trẻ với tâm nguyện thoát trần kiên quyết, nên ngài tự nhủ: “Ta thà chịu uống nước đồng sôi cho thân nầy tan rữa, chứ quyết không phá đạo của người con Phật.”

Sau đó ông nguyện tiếp: “Dù tự tận không phải là con đường của người con Phật, nhưng trong tình thế nầy, để giữ cho tròn đạo của người con Phật, tôi nguyện tự tận chứ không bỏ Tam Bảo chánh giới, tôi nguyện sau nầy sanh vào nhà thanh tịnh và một đời dứt sạch mọi phiền não để thành đạt quả vị Bồ Đề.” Sau khi phát nguyện xong, ông bèn cắn đứt lưỡi mà chết. Người con Phật hôm nay phải luôn nguyện như vậy trong cuộc sống cuộc tu hằng ngày của chính mình. Vì đạo của Phật là đèn sáng cho tâm thức, là thuyền giác, là nước cam lồ tắm gội mọi não phiền. Mọi công đức lành đều từ đạo nầy mà ra. Ngày xưa chính Đức Từ Phụ đã từng nhắn nhủ tứ chúng rằng: “Họa hoạn lớn không gì hơn tham lam bỏn xẻn; phước báu lớn không gì hơn bố thí lợi tha.”

Thật vậy quý vị ơi ! Hãy lắng lòng nghe theo lời Phật dạy để không tà hạnh với ai, không nói những lời độc ác, không thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời man trá, hoặc có nói không, không nói có, vì tất cả những thứ nầy chỉ là nhân cho địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh trong kiếp lai sanh. Chỉ có đạo nầy mới giúp được những người con Phật tiếp tục bước đi những bước thật là người để rồi từ đó bước vào Thánh quả. Chỉ có đạo nầy mới có công năng giúp con người sống đời đoan chánh, nói lời ái ngữ chân thật, ngay thẳng và hiền hòa. Chỉ có đạo nầy mới giúp ta xa lìa những chất cay độc hầu giữ được sự trong sáng cho tâm hồn tu tập. Chỉ có đạo nầy mới có đủ công năng giúp ta sanh tâm hoan hỷ khi thấy người làm việc thiện lành. Chỉ có đạo nầy mới có đủ công năng giúp ta soi rọi lại chính mình trước khi hành động bất cứ việc gì.

Chỉ có đạo nầy mới giúp được ta lấy từ bi vượt thắng sân hận; lấy nhu thắng cương; lấy hiền thắng dữ; lấy rộng lượng, bao dung, bố thí mà vượt thắng tham lam bỏn xẻn; lấy chân thắng ngụy; lấy chính thắng tà…Chỉ có sự nhẫn nhục trong Lục Độ Ba La Mật của đạo nầy mới có đủ công năng giúp ta không sanh ác cảm khi bị bị kẻ khác làm nhục. Chỉ có đạo nầy mới có công năng giúp ta lấy ân báo oán, lấy trở ngại làm thuốc thần, lấy ma quân làm bạn đạo…Chỉ có đạo nầy mới giúp được ta không sanh tâm nóng giận trước những lời chê bai, cũng như không quá nỗi mừng vui trước những lời sáo ngữ khen tặng. Chỉ có đạo nầy mới giúp đuợc ta nhẫn những cái khó nhẫn và trì được những giới hạnh khó trì. Chỉ có đạo nầy mới giúp ta làm chủ được thân khẩu ý mà vượt thoát mọi khổ đau phiền não trên đời. Tóm lại, chỉ có đạo nầy mới giúp ta cái tri kiến biết kinh vì những nhân tố tạo ra quả dữ ngay khi chúng còn trong trứng nước. Chỉ có đạo nầy mới có khả năng làm phao làm bè giúp chúng ta vượt qua bể khổ sanh tử. Chỉ có đạo nầy mới giúp cho con người có đầy đủ tư cách và nhân phẩm đáng kính trong cuộc sống cuộc tu hằng ngày.

Người con Phật phải luôn thấy rằng đạo của người con Phật phải là con đường đưa mọi người đến chỗ diệu giác an lạc. Tuy nhiên, diệu giác không phải là lý tưởng để suy nghĩ, hoặc để học hỏi xong rồi đi nhàn đàm hí luận; còn an lạc không phải là mục tiêu đơn thuần chỉ để nắm bắt. Diệu giác ở đây là lòng tín thành tin và hiểu những lời Phật dạy, còn an lạc của đạo nầy là sự hành trì một cách rốt ráo, không ngừng nghỉ, không thối chuyển những kim ngôn ngọc ngữ của Đấng Cha Lành. Ngoài ra, đạo của người con Phật không phải do luận tánh, luận tướng, hoặc nói ngã nói pháp mà thành, vì y như lời Phật dạy: “Thường tình thế tục, càng được càng thấy thiếu. Cũng như vậy, những kẻ hí luận càng luận càng nói, thì càng muốn hí luận và càng muốn nói thêm nữa, do vậy mà tâm trí càng sanh điên đảo.”

Từ hai mươi sáu thế kỷ về trước, Đức Phật đã khuyên chúng sanh và con người hãy quay về với chính mình để thấy rõ diệu giác và an lạc trong từng phút giây ta sống, chứ đừng đợi đến lúc xụi bại rồi mới thấy sự diệu dụng hay thần thông của đôi tay đôi chân; đừng đợi đến lúc đôi mắt đã mù lòa rồi mới thấy sự diệu dụng của đôi mắt… Ngày xưa chính Đức Phật đã từng đập tan những luận cứ và tà kiến ngoại đạo khi có một vị Bà La Môn đến biểu diễn phép thần thông đi trên mặt nước. Đức Phật hỏi ông Bà La Môn là ông đã tu luyện bao lâu mới được phép nầy thì người Bà La Môn đáp rằng phải mất hơn 20 năm. Đức Phật liền nói với ông Bà La Môn rằng có người không cần tu luyện chi cả mà vẫn qua được sông, và liền theo đó Phật bèn chỉ tay về hướng một lão chèo đò.

Người Bà La Môn sau khi biết được những gì mình đã tu luyện trong 20 năm qua không giúp ích gì cho ai, bèn lạy tạ Đức Phật để xin làm đệ tử của Ngài. Đó ! Đạo của người con Phật là không thần quyền hay mê tín dị đoan, mà là tận dụng mọi phương tiện sẳn có, không vướng mắc hay ngăn ngại, cũng không nắm bắt cái nầy hay buông bỏ cái kia. Đời người ngắn ngủi, so với vũ trụ thì trăm năm ấy không bằng ánh điển chớp. Nếu cứ chạy theo nắm bắt cái nầy hay buông bỏ cái kia mãi thế nầy thì thử hỏi làm sao tìm được chút gì yên ổn cho tâm hồn ? Chính vì thế mà Đức Từ Phụ đã dạy rằng đạo của người con Phật là sống hài hòa với nhịp sống linh động và hồn nhiên, chứ không loay quay tìm cầu vì vừa vọng động tìm cầu là đã xa đạo vạn dậm rồi còn gì ? Đức Từ Phụ đã từng khẳng định trong các kinh điển của Ngài rằng: “Không có kẻ thù nào tai hại và nguy hiểm hơn những tư tưởng sân hận, si mê và tham ái của chúng sanh.”

Chính vì thế mà Ngài đã từ bỏ tất cả mà ra đi tầm đạo. Và cũng chính vì thế mà “Đạo của người con Phật” phải là diệu dược chữa bịnh tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Trong đó phải nói ngã mạn cống cao là căn bịnh trầm kha của chúng sanh. Vì ngã mạn cống cao mà chúng sanh, nhứt là con người phải chất chứa tham sân si để rồi phải mãi đắm chìm trong biển luân hồi. Vì ngã mạn cống cao mà con người phải chất chứa mạn nghi tà kiến. Vì ngã mạn cống cao mà con người sẳn sàng chất chứa sát đạo dâm vọng. Vì ngã mạn cống cao mà ta dong ruỗi đó đây vấn Thầy khảo bạn, nào có ngờ đâu ta chỉ là một hạt cát trong sa mạc hay giọt sương mai trên đầu cỏ. Hạt cát thì nhỏ, giọt sương thì thoạt hiện thoạt tan, chứ nào có đọng được lâu trên cành.

Vì ngã mạn cống cao mà con người chỉ một bề thấy ta đúng người sai, ta hay người dở, ta sang người hèn, ta phú quý người bần tiện, ta tu cao người tu thấp, ta tịnh người động, ta tu đúng người tu sai, vân vân và vân vân. Người Phật tử phải cương quyết không để cho ngã mạn cống cao cướp mất đi chơn tâm thực tánh của mình, quyết không để cho ngã mạn cống cao biến thân tâm nầy thành tướng mê tưởng vọng và tiếp tục làm thân lữ khách lăn trôi trong luân hồi sanh tử. Đạo của người con Phật là lấy tín, tấn, niệm, định, huệ, từ bi hỉ xả cũng như các thiện pháp để đối trị lại với tham sân si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến, sát, đạo, dâm, vọng cũng như tất cả các ác pháp. Người con Phật phải luôn thấy rằng không có ác nào bằng ác sân si, không có lửa nào bằng lửa tham dục. Một khi đã vướng phải chúng là khổ lụy ngập tràn không ngừng nghỉ.

Người con Phật phải luôn nhớ rằng khi một bất thiện pháp khởi dậy trong thân tâm, tức là có một chúng sanh đang khổ đau phiền não, đang đắm chìm trong bể luân hồi, đang bị đốt cháy bởi nhà lửa tam giới, đang bị trói buộc bởi Ta Bà ngũ trược ác thế. Đạo của người con Phật là cố dìu dắt những chúng sanh nơi chính mình (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) về với chánh niệm tỉnh thức. Ngoài ra, đạo của người con Phật còn có công năng đưa những chúng sanh vướng mắc ngôn ngữ của nhàn đàm hí luận, tôn vinh phàm trí, chấp pháp mê tông với thấp cao bỉ thử, tiểu đại đây kia, tiệm đốn hơn thua… trở về với cái nhìn như thực của thực tại để có được cái khả năng tuệ giác mà soi sáng thực tướng của vạn pháp. Dẫu biết những điều Phật dạy trong kinh Hoa Nghiêm: “Chư pháp tự chúng vốn đầy đủ, không phải chỉ có tịnh mà không động, vô mà không hữu, tánh mà không tướng, thể mà không dụng…” Nghĩa là vạn pháp không sai biệt.

Tuy nhiên, những chúng sanh nặng nghiệp như chúng ta làm gì không sợ động, làm gì không sợ giả, làm gì không sợ dơ, sợ xấu, sợ ác, vân vân ? Chính thế mà những người sơ cơ như chúng ta vì phước kém duyên mỏng nên phải đi vào cửa đạo bằng con đường “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.” Hãy chấm dứt ngay lối ngụy biện không thiện không ác đi hỡi những người con Phật ! Chư Phật và chư Tổ có thể nói như vậy vì nơi quý ngài gạo đã trắng, nước đã trong thì cần chi nữa đến thiện ác ! Còn chúng ta ? Nào ai biết mình đã lăn trôi tự kiếp nào trong luân hồi sanh tử ? Nào ai dám vỗ ngực nói rằng mình đã biết đường đi lối về ? Nào ai dám đoan chắc rằng mình không đang chạy theo vọng tưởng ảo ảnh do bản ngã vẽ ra ? Nào ai dám nói rằng những điều mình đang làm đây không nhằm phục vụ và thỏa mãn tham vọng của chính mình.

Có thể ngoài miệng chúng ta vẫn nói tất cả những gì mình làm đều với một mục đích thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, nhưng trong thâm tâm, chúng ta vẫn tìm cầu ma đạo và đi ngược lại với lợi ích của mọi người. Những người con Phật chơn thuần phải tự thành thật với chính mình để thấy rằng có bao giờ chúng ta tự tại với hiện tại mà chúng ta đang có đâu ? Kỳ thật đa phần chúng ta đang nuối tiếc dĩ vãng, đang bất mãn hiện tại, để rồi hết ngày dài rồi lại đêm thâu chúng ta dong ruỗi cho ảo vọng của tương lai. Như vậy thử hỏi làm sao chúng ta không đau khổ đây ? Nếu chúng ta chịu bình tâm suy gẫm và quán chiếu vạn pháp thì chúng ta sẽ thấy các pháp đến đi, sinh diệt một cách tự nhiên và bình thản, chúng ta không có cách chi ngăn ngại được sự đến đi và sinh diệt của vạn pháp, vậy thì tại sao chúng ta lại vướng mắc cho thêm khổ đau phiền não ? Nhạn bay qua hồ, nhạn không buồn lưu ảnh lại, và hồ cũng không có cách gì lưu ảnh nhạn, thử hỏi chúng ta làm gì được để níu kéo vạn pháp ? Người con Phật phải luôn cẩn trọng vì khi tu là phải tự mình thể nhập vào vạn pháp, chứ không bắt ép vạn pháp thể nhập vào mình.

Trước thời có Phật, chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề chúng ta không có con đường nào khác để lựa chọn ngoài mê đồ tăm tối với ngập tràn tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Tuy nhiên, sau khi ánh đạo vàng của Phật Tổ tỏa sáng nơi nơi, mọi u mê tăm tối đều bị quét sạch. Ánh đạo ấy tuyệt diệu như ánh bình minh xua tan bóng đêm dầy đặt của vô minh. Chính ánh đạo ấy đã soi rọi thẳng vào lòng người, biến lòng ích kỷ bỏn xẻn thành bao dung quảng đại. Nhờ ánh đạo đó mà người con Phật hậu bối mới có cơ sống tu trong sự trống vắng của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Nhờ ánh đạo ấy mà mắt người con Phật không còn tham đắm tài sắc danh thực của thế gian, mũi không nhiễm mùi hương ngây ngất, lưỡi không còn ưa thích vị ngọt ngon, tai không say đắm âm thanh du dương và thân không tham nhiễm gấm vóc lụa là, cũng như những cảm giác êm dịu.

Nhờ sống tu với giáo lý tuyệt vời nầy nên “đạo của người con Phật” luôn hướng thượng mà đơn giản. Người con Phật luôn hiếu kính với mẹ cha, luôn thuận thảo với anh em bằng hữu, luôn lắng nghe thầy bạn, luôn lấy lời ái ngữ dịu dàng mà đối đáp với tha nhân. Đạo của người con Phật là đạo bỏ dữ làm lành, lấy chánh pháp cải hóa tà đạo, đem lời trung thực mà cảm hóa tha nhân. Đạo ấy là đạo của “hành trì.” Thế nên lắm khi có làm được, người Phật tử cũng không bô lô ba loa hay oang oác ong óng, huống là chỉ nói suông mà không làm được.

Người con Phật quyết không vọng ngữ tà ngôn, nói điều quàng xiêng không thật. Đạo của người con Phật là con đường thâu nhiếp không cho tâm ý kiêu mạn theo bản ngã. Người con Phật luôn vững tin nơi “nhơn quả luân hồi” nên con đường trước mặt của Phật tử là con đường không tham gian bạo ngược, không oán người trách trời, không làm việc bất chánh… Ngược lại, cung cách cư xử hằng ngày của người con Phật là luôn nhu hòa nhẫn nhục, khiêm cung từ tốn, từ bi hỉ xả, nói thế nào là làm cũng thế ấy (tri hành hợp nhất)… Chính vì thế mà con người ấy đi đâu đến đâu cũng được người người thương mến quý kính.

Tóm lại, điều tối quan trọng trong đạo của người con Phật là phải tu hành làm sao cho giảm thiểu ác pháp và tăng trưởng thiện pháp, nghĩa là tu như thế nào cũng được chứ không chấp chặt vào thiền, tịnh, mật…Thiền, tịnh, mật chỉ là những phương tiện, chứ không là cứu cánh. Cứu cánh của chúng ta là vượt thoát mọi khổ đau phiền não của cõi trần lao Ta Bà ngũ trược ác thế nầy. Muốn được như vậy thì người con Phật phải luôn tỉnh thức rằng vui buồn thương ghét là tâm địa của chúng sanh trong vòng trói buộc của bản ngã, mình là con Phật nên phải đi theo Phật, phải từ bi hỉ xả. Người con Phật phải luôn thấy rằng tham sân si chỉ là những sản phẩm của vô minh và ái dục và là nhân của luân hồi sanh tử, cũng như tất cả những khổ đau phiền trược trên cõi đời nầy.

Con đường duy nhứt để vượt thoát những thứ nầy là phải quay trở về lắng nghe những lời tuyên thuyết dạy dỗ của Như Lai thì chúng ta mới mong ly tham đoạn dục, xả mê, bỏ chấp… để nếu phải còn đi trong cõi Diêm Phù Đề, vẫn đi trong thong dong tự tại và từng bước ta đi là từng bước ta tiến gần đến chân như tự tánh và bản lai diện mục của chính mình. Mong cho ai nấy đều sống tu được với đạo của người con Phật để cùng nhau diệt khổ và cùng nhau biến cõi Diêm Phù Đề nầy thành Tây Phương Cực Lạc ngay trong đời nầy kiếp nầy. Mong lắm thay!!!

461. PHẢN QUANG TỰ KỶ

Nền văn minh khoa học kỹ thuật hôm hôm nay có khả năng mang lại những phương tiện hưởng dụng cho nhân loại, cũng như con người đến những tinh cầu xa xôi, nhưng nền văn minh ấy chưa bao giờ đưa được con người đến gần với nhau và chưa bao giờ mang lại sự bình an cho xã hội. Tại sao lại như vậy ? Tại vì nền văn minh ấy chỉ mang lại vật chất và chỉ khuyến tấn thúc dục con người chạy đua theo vật chất mà thôi. Trong suốt quá trình phát triển, nền văn minh ấy chưa bao giờ giúp chúng ta phát triển giá trị tâm linh, nền văn minh ấy chưa bao giờ phổ biến nếp sống từ bi hỉ xả, bác ái vị tha, để con người có thể cùng nhau sống hòa hợp và cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Kỳ thật chính nền văn minh vật chất nầy đã xô đẩy con người xa rời chính mình, cũng như tự làm khổ mình và làm khổ người.

Chính nền văn minh nầy đã trưởng dưỡng lòng tham sân si, chấp chứa mạn nghi tà kiến, và dễ dãi với sát đạo dâm vọng. Trong xã hội hôm nay thay vì chấp nhận những dị biệt để cùng nhau sống hài hòa với tha nhân và vạn hữu, con người lại độc tôn độc đoán, chỉ có “ta” là đúng, còn tất cả đều sai trái, thế nên ai không làm được theo “ta,” sẽ bị ta triệt hạ. Cũng may cho nhân loại là chúng ta có đạo Phật, một tôn giáo không hữu thần, mà cũng chẳng vô thần, cốt lõi của đạo Phật là phá mê giải chấp cho con người bằng cách nương theo giáo lý mà tự tu tự chứng cho chính mình. Thật vậy, từ ngày Đức Từ Phụ khai sáng đạo Phật đến nay, chúng ta đã thấy đạo Phật luôn là khuôn thước hóa giải những nghịch lý và khổ đau phiền não của con người.

Tuy nhiên, những người con Phật hóa giải nghịch lý và khổ đau phiền não bằng cách nào ? Từ một thần linh hay quyền năng tối thượng nào ? Hay bằng cách đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, ăn chay, ngồi thiền, vân vân ? Có lẽ không có câu trả lời nào thích hợp bằng những gương sống tu rạng ngời của chính Đức Phật. Ngài không hề tự xưng là gì khác hơn là một con người, nhưng con người ấy biết quay ngay về “phản quang tự kỷ” nơi chính mình, con người ấy biết làm nơi nương tựa của chính mình. Chính vì thế mà con người ấy thành Phật, thật đơn giản vô cùng !

Như trên đã nói, có lẽ chúng ta sẽ không có câu trả lời nào thích hợp cho chữ “Tu” bằng những gương sống tu rạng ngời của chính Đức Phật. Thế nhưng người ta cứ mãi hoài công đi tìm một định nghĩa xác thực cho chữ tu. Còn định nghĩa nào xác thực hơn sự “phản quang tự kỷ” nơi thân nơi tâm mà năm xưa Đức Từ Phụ đã làm ? Dù già, dù trẻ, dù tại gia hay xuất gia, dù ép xác khổ hạnh hay trung dung tu đạo, dù thành thị hay sơn lâm cùng cốc, dù niệm Phật, trì chú, tụng kinh hay ngồi thiền… Phật tử hậu bối muốn thoát khỏi trầm luân trong biển khổ mênh mông, con đường tất yếu mà ai cũng phải kinh qua là “phản quang tự kỷ.” Tất cả mọi pháp môn đều có công năng như nhau là giúp ta lắng lòng nhìn lại chính ta, từ đó cố tận diệt những thói hư tật xấu, đồng thời cố phát huy những ưu điểm thiện lành làm cho đời trở nên đẹp hơn và đạo trở nên tốt hơn.

Người con Phật có thấy không tấm gương sống tu hãy còn rạng ngời của Đức Thích Tôn Từ Phụ ? Ngài đã sớm nhận ra lẽ vô thường của vạn sự vạn vật cũng như những phước báo trói buộc của thế gian, nên Ngài đã rũ bỏ chúng như rũ bỏ một đôi dép rách. Ngôi báu cung điện, dù có cao sang quyền thế và đẹp đẽ bao nhiêu, cũng chỉ là giả tạm, cũng chỉ là có để chờ không, còn để chờ mất, chứ không thường bền. Đức Từ Phụ đã thấy rằng chính tham ái và vô minh nơi tâm thức đã xô đẩy con người đi vào cuộc lăn trôi vô định. Chính dục vọng của con người, chứ không phải bất cứ một ngoại cảnh kích động nào đã biến con người thành những kẻ nô lệ cho tham sân si, mạn nghi tà kiến, sát đạo dâm vọng. Chính vì thế mà Ngài đã phát đại nguyện dưới cội Bồ Đề năm xưa: “Nếu không thành đạo, ta thà nát thịt xương tan, quyết không đứng dậy rời khỏi chốn nầy.”

Phật mà còn phải lập nguyện như vậy, thử hỏi chúng ta có con đường nào khác ? Trong ba nẻo sáu đường, chúng ta đã lên kia xuống đây, đã qua qua lại lại không dứt, có khi làm người, có khi làm A-tu-la, cũng có khi làm ngạ quỷ hay súc sanh… Chúng ta liên tục thay hình đổi dạng trong từng sát na, chứ không đợi chi đến hết kiếp người mới là thay hình đổi dạng. Từng phút, từng giây, từng sát na, chúng ta không ngừng bị đốt cháy bởi lửa tham sân si, nghĩ là từng giây phút trong hiện tại chúng ta bị lửa tham sân si hóa kiếp làm ngạ quỷ, A-tu-la, hay súc sanh chứ không đợi đến rồi một kiếp. Thật tình mà nói, đa phần chúng ta đang “túy sanh mộng tử,” nghĩa là đang sống say chết mộng, không biết mình đang làm gì, không biết mình đang ăn gì, nói gì, cũng không biết mình đang đi đâu và sẽ đến đâu ? Đã hơn hai mươi lăm thế kỷ nay, lời Phật dạy vẫn còn vang vọng, gương Phật tu, đời Phật sống vẫn còn in đậm trong tâm khảm mọi người.

Ai trong chúng ta lại không biết mục đích của người tu là “giải thoát,” ai lại không biết vì vô minh mà tâm thức ta chất chứa não phiền và lầm nhận lao tù lục đạo là sướng vui hạnh phúc, thế nhưng chúng ta vẫn cứ cam tâm hành trình trong vô minh mù mịt. Tại sao Phật đã giác ngộ và giải thoát từ hơn hai mươi lăm thế kỷ nay, mà chúng ta thì ngày càng sa đọa ? Tại sao Phật đã chỉ dạy quá rõ ràng những phương pháp diệt khổ, mà chúng ta vẫn miên man khổ đau vì tham cầu, ham muốn và lúc nào cũng mong được thỏa mãn dục lạc của trần tục ? Tại sao chúng ta biết điều Phật dạy là đơn giản và thực tế mà chúng ta không chịu làm ? Tại sao chúng ta biết dục lạc chỉ mang lại khổ đau phiền não và lo âu thế nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chạy theo dục lạc ? Phật dạy chúng ta buông bỏ để cuộc sống được an lạc, thì chúng ta lại bám víu hết vướng mắc nầy đến vướng mắc khác.

Phật dạy chúng ta từ bỏ dục lạc, thì chúng ta lại đam mê không dứt… Phật đã hé mở cửa giải thóat từ 26 thế kỷ trước, thế mà mãi đến hôm nay gần sáu tỷ con người không có mấy ai chịu bước vào, hoặc chỉ bước vào bằng hình thức. Ai trong chúng ta lại không biết “sắc” chính là mồi của bịnh hoạn và khổ đau phiền não, khi “sắc” không hợp với ý muốn của chúng ta thì chúng ta sẽ sân hận và phiền muộn, thế nhưng chúng cứ mãi mê theo đuổi “sắc.” Ai trong chúng ta lại không biết “thọ, tưởng, hành, thức” đều là không thật, thế nhưng chúng ta luôn tự đồng hóa mình với những cái không thật nầy, để rồi tự mình hạ mình bởi chính sự hiểu biết sai lầm của mình. Tự mình chất chứa những thói hư tật xấu hay những sản phẩm của tham sân si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Từ những sai lầm nầy khiến chúng ta suy nghĩ, phản ứng và cảm giác vui buồn thương ghét theo sự chấp giữ của bản ngã, nào là tôi vui, tôi buồn, tôi thương, tôi ghét, tôi biết, tôi cảm xúc, tôi là, tôi suy nghĩ, tôi phản ứng, vân vân và vân vân.

Những người con Phật hơn ai hết phải luôn cẩn trọng, vì nếu không khéo chúng ta sẽ chối bỏ cái bản ngã thật sự trong sáng của mình để chỉ chạy theo đuổi hình bắt bóng, không khéo chúng ta sẽ chối bỏ Phật tánh như như chân thật của chúng ta để chạy theo một nhân dáng phàm tục, hễ được ca ngợi thì vui sướng, ngược lại khi bị chê bai thì khổ đau phiền não, khi thắng thì hớn hở tươi cười khi bại thì tìm cách tự tận, khi hơn thì hí hửng khi thua thì mặt mày ủ dột…Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã đưa ra hình ảnh một “Chàng Cùng Tử,” một “Đứa Con Lãng Tử” đã bỏ nhà trốn theo gánh xiết trong sự thương nhớ của người cha. Dù con đã biệt vô âm tín, nhưng người cha vẫn luôn trông ngóng kiếm tìm. Sau mười mấy năm kiên nhẫn làm ăn, bây giờ người cha đã trở thành một ông trưởng giả giàu có nổi tiếng nhứt vùng. Tuy nhiên, không một phút giây nào mà ông không thương tưởng đến đứa con lưu lạc.

Ngày ngày ông vẫn cho người dò la tin tức của con mình, những mong có ngày cha con được đoàn tụ sum vầy. Riêng phần người con, sau bao năm lang thang phiêu bạt gió sương, đến một ngày sinh lộ khó khăn, mang thân tàn ma dại quay trở về quê xưa tìm lại cha mình. Khi về tới chốn cũ quê xưa thì anh ta không còn nhận ra được cảnh nhà của cha anh nữa, vì ngôi nhà bây giờ lộng lẫy quá. Trong thâm tâm anh liên tưởng chắc cha mình đã qua đời, nên anh vội vã bỏ đi. Vã lại, anh cũng không dám đứng nhìn lâu vì sợ bị nghi là có gian ý. Ngay khi đó thì có người quen nhận ra anh, liền báo cho ông trưởng giả biết. Ông trưởng giả bèn cho người ra khuyên dụ anh về làm công và hốt phân hốt rác trong trang trại cho ông ta, nhưng không nói gì về chuyện cha con.

Dù bề ngoài như vậy, nhưng trong lòng ông trưởng giả luôn tìm cơ hội nói cho anh ta biết rằng anh ta chính là con ruột của ông. Về phần chàng cùng tử, từ khi được về làm công cho ông trưởng lão, tâm tánh anh ngày càng thay đổi theo chiều hướng thượng nên ngày càng được mọi người yêu mến. Đến một hôm, khi ông trưởng lão tự biết mình sẽ phải ra đi, ông bèn cho người mời anh lại cùng với bà con thân tộc và kể rõ ngọn nguồn về việc con ông bỏ nhà ra đi ngày trước, rồi ông tuyên bố với mọi người rằng: Đây chính là con ruột của ta. Chừng đó thì anh chàng cùng tử mới nhận ra ông trưởng lão thật chính là cha ruột của mình. Sau khi ông trưởng giả qua đời thì chàng cùng tử ngày xưa bây giờ được hưởng trọn gia tài mà cha anh để lại. Qua thí dụ trên, Đức Từ Phụ đã chỉ rõ cho chúng ta thấy rằng trong mỗi người chúng ta, ai cũng có kho tàng giác ngộ và khả năng giải thoát.

Tuy nhiên, vì không chịu quay về với chính mình, không chịu phản quang tự kỷ, nên chúng ta cứ mãi lang thang làm khách phong trần. Chúng ta cứ mãi dong ruỗi đi tìm, lắm khi tìm chưa được cái nầy thì đã mất cái kia, lắm khi cả đời chúng ta chỉ dong ruỗi đó đây đuổi hình bắt bóng như anh chàng cùng tử vậy. Thay vì tận hưởng châu báu sẳn có nhà mình, thì chàng ta lại lang thang làm trò xiết, hoặc đóng tuồng cho thiên hạ giải khuây, đến lúc thân tàn ma dại, không còn sinh lộ thì phải đi hốt phân hốt rác nhà ông trưởng giả. Chúng ta lại cũng như vậy, Phật pháp thậm thâm vi diệu như vậy đó mà chúng ta không chịu y cứ phụng hành, lại chỉ một bề dong ruỗi đó đây, đem phàm trí luận Thánh đạo, đem tâm loạn động của phàm phu nhàn đàm hý luận những chuyện vô bổ không đâu.

Người con Phật phải luôn can đảm nhìn lại chính mình cho thật kỹ, can đảm phản quang tự kỷ, để nhìn thấy và nhận biết tham sân si; phải luôn tự soi rọi chính mình để thấy được bộ mặt thật của mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Không phải thấy và biết để mà chơi, ngược lại thấy và biết để mà can đảm vẹt bỏ bức màn vô minh mê muội, thấy biết để cương quyết chối bỏ cuộc sống si mê trong dục vọng trần lao, và can đảm bước ra khỏi cảnh tù trong lục đạo. Phản quang tự kỷ là luôn quay về tự soi rọi lấy mình để thấy rằng thân phận nhỏ bé nầy “phước mỏng “đức” cạn, thế mà cứ ngày ngày dong ruỗi đó đây nhàn đàm hí luận thì biết chừng nào “đạo” nầy mới thành ? Phản quang tự kỷ là luôn cẩn trọng lấy chính mình, không để trần cảnh tiếp tục lừa gạt, không để luyến ái và tham đắm đè nặng lên thân tâm nâày, không để những hình tướng gượng ép giả tạo bên ngoài phá nát công phu ngàn đời bên trong.

Phản quang tự kỷ là tự mình dụng công xa lìa chư duyên hư vọng, chứ không lấy vải thưa che mắt Thánh bằng những ngôn từ hữu hạn của thường tình thế tục. Phản quang tự kỷ là tự mình quay về với cái bản thể chân như của chính mình, chứ không rong chơi đào bới văn tự, lại cũng không nhàn đàm hí luận quanh co. Phản quang tự kỷ là tự cảnh tỉnh rằng thiên kinh vạn quyển không bằng từng giây từng phút thực sống với cái “hiện là.” Phản quang tự kỷ còn có nghĩa là bình thản quan sát và theo dõi những hoạt động của cái “ta.” Phản quang tự kỷ để biết rằng lời chê tiếng khen không làm cho chúng ta sa đọa hay thăng hoa hướng thượng. Sa đọa hay thay thăng hoa thực sự tác động bởi những ý nghĩ, lời nói và việc làm của chính mình, chứ không từ một tác nhân nào khác.

Phản quang tự kỷ để thấy cho được cái bịnh trầm kha của chúng sanh vẫn là “nói dễ khó làm,” hoặc chỉ kham nổi những cái dễ kham, chỉ làm nổi những cái dễ làm, chỉ nhẫn nhịn những cái dễ nhẫn, chỉ một bề ưa thích những lời khen chứ không kham được những lời phê bình chê trách hay chửi rủa. Phản quang tự kỷ để thấy cho được danh, tài, sắc, thực, thùy, thành bại, phú quý, bần hèn… chỉ là những hành trang của những ai đang mua vé về địa ngục. Người con Phật, nếu chưa mua được vé về Niết Bàn thì ít nhất cũng ráng xếp hàng mua cho được vé về An Lạc Địa, nên hành trang của người con Phật chỉ là một chữ “không,” không tham, không sân, không si, không mạn, không nghi, không tà kiến hay sát, đạo, dâm, vọng.

Phản quang tự kỷ theo Phật là tự định tỉnh các suy nghĩ viễn vông cũng như những tư lự mê mờ, nghĩa là cố tìm cách định tỉnh tâm thức, từ đó chúng ta mới có khả năng thấu suốt được các mê mờ vọng tưởng đang khởi dậy trong tâm thức, từ đó chúng ta mới có được khả năng suy nghiệm nẻo chánh đường tà. Từ chỗ phản quang tự kỷ rốt ráo nầy, chúng ta mới có khả năng nhìn rõ bản mặt thật của vô minh mê hoặc, thất tình lục dục, cũng như những ngọn gió độc của trần thế. Phản quang tự kỷ là để tự mình nhìn lại chính mình, tự mình tịnh lự lấy chính chính mình, nghĩa là tự mình trau dồi tâm tánh để dẹp trừ phiền não và tiến tới mục đích cuối cùng là giải thoát. Người con Phật chơn thuần không phản quang tự kỷ để mơ mộng về cõi trên cõi dưới, vì ngay khi mống tâm vọng cầu cõi trên hay nhàm chán cõi dưới, thì tâm thức nầy đã trở nên điên đảo loạn động rồi. Mục đích của phản quang tự kỷ là để gạt bỏ những vướng mắc trần tục, hầu trở về chơn tánh vốn thanh tịnh xưa nay, chứ không để đeo thêm bất cứ thứ gì của trần thế.

Ngoài ra, phản quang tự kỷ để thấy rằng đời người như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay. Thật vậy, trăm năm một đời người nếu đem so với vũ trụ vô cùng vô tận thì đời người nào có khác chi ánh điển chớp hay giọt sương mai trên đầu cỏ ? Người con Phật luôn phản quang tự kỷ để chẳng còn vấn đáp lôi thôi. Thể tánh chân thật của mình mà có thể lấy mắt trần để thấy thì không còn được gọi là thể tánh như như nữa. Thức tình sanh diệt há có thể đem ra để đong đếm đo lường chơn thể được hay sao ? Ngôn tự không bao giờ diễn đạt được bản thể chơn như, chỉ có hằng sống và hằng tu bằng cuộc sống thực của chính mình mới có cơ tìm lại được cái chơn như bản thể ấy mà thôi. Người con Phật phải luôn thấy như vậy để luôn phản quang tự kỷ và luôn tự nhủ rằng chúng ta sẽ không bao giờ có được ngày mai, nếu chúng ta không thực sự sống với cuộc sống của chúng ta hôm nay.

Phản quang tự kỷ còn là nhìn lại chính mình xem coi mình có thấy như thực, nghe như thực, và hiểu biết như thực đúng theo lời Phật dạy hay chưa ? Người biết phản quang tự kỷ là người luôn biết quay về tự tâm với niệm niệm tỉnh thức. Tức tâm tức Phật ngoài phản quang tự kỷ ra, không còn gì nữa để nói. Thế Tôn thuở nọ cũng do nơi phản quang tự kỷ mà phản bổn hoàn nguyên để thành chánh giác. Như vậy tự biết mình là điểm then chốt trong cuộc sống cuộc tu giải thoát nầy. Chúng sanh khi mê lúc lúc tỉnh, khi dựng địa ngục, lúc tạo thiên đường cũng chỉ vì không đủ can đảm quay về phản quang tự kỷ với chính mình trong từng sát na của cuộc sống. Người biết phản quang tự kỷ sẽ không bao giờ trốn chạy khổ đau phiền não. Ngược lại, con người ấy luôn sống tỉnh thức để nhìn sự vật đúng như bộ mặt thực của nó.

Phản quang tự kỷ là tìm cách quay vào bên trong để sống và tu với nội tâm, sống và tu với ông Phật của chính mình. Người con Phật phải luôn nhớ rằng nước Phật không nằm ở Duy Thức, Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, Duy Ma hay Niết Bàn… Nước Phật nằm ngay trong mỗi người chúng ta. Muốn về nước Phật, phải giữ cho thân thanh sạch và tâm thanh tịnh. Như vậy chuyện “về nước Phật” không phải là chuyện đi sau cái chết, mà là chuyện của bây giờ và ở đây. Nước Phật là nước của những người biết phản quang tự kỷ, biết trở về với chính mình, chứ không hướng ngoại cầu hình. Nước Phật không chấp chứa những người “sống say chết mộng,” những người cả đời bị lôi kéo về quá khứ hay mơ màng về tương lai, để rồi không còn biết gì đến những giây phút tỉnh táo của hiện tại.

Những người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ lời Phật dạy: “Tánh chân thật kia, chẳng phải do mắt thịt mà thấy, không do tai nầy nghe, cũng không do phàm trí mà nhận. Có thấy, có nghe hay có nhận hay không là chuyện của mắt, tai và trí, chứ tánh nầy từ trước thế nào thì nay cũng thế ấy, chưa bao giờ gián đoạn hay ngăn ngại.” Người con Phật nên luôn nhớ rằng cốt lõi của Phật giáo là hướng nội, như vậy một mống tâm hướng ngoại sẽ xô đẩy chúng ta xa rời Như Lai ngàn dậm. Tuy nhiên, mọi người chúng ta nên hiểu rằng hướng nội ở đây không phải là hướng nội cầu “ngã” vì hướng nội cầu ngã, cũng không khác chi với “hướng ngoại cầu hình.” Người con Phật chơn thuần phải nhớ rằng hướng nội là phản quang tự kỷ, là luôn giữ cho “mặt hồ tỉnh lặng.”

Đức Phật đã từng dạy trong kinh Pháp Cú rằng: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự thắng lấy mình, thắng được mình mới là chiến công oanh liệt nhứt.” Và con đường duy nhứt để tự chiến thắng lấy mình là con đường quay về nội tâm để phản quang tự kỷ, từ đó chúng ta mới có thể đóng bớt lục căn không cho lục trần tự do khống chế, từ đó chúng ta mới có khả năng nhẫn được những cái khó nhẫn, kham được những cái khó kham. Thật tình mà nói, ai trong chúng ta cũng muốn thăng hoa hướng thượng, ai cũng muốn quay lại với chính mình mà phản quang tự kỷ… chứ không ai muốn bị lục trần xâm nhập để khống chế lục căn, thế nhưng hết ngày dài rồi lại đêm thâu, hết kiếp nầy qua kiếp khác, chúng ta cứ mãi ôm thân làm khách phong trần, sống mà không biết mình sống để làm gì, nói mà không biết mình đang nói những gì, thậm chí ăn uống cũng không biết mình đang ăn uống những gì nữa ! Người con Phật phải luôn nhớ rằng đạo Phật không phải là đạo “nói.”

Ai muốn thành ma thành quỷ thì cứ theo đạo “nói.” Đạo Phật là đạo “hành,” mà hành cái gì ? Chúng sanh bị nghiệp sai khiến điều động, chi phối và khống chế từ tâm ý đến hành vi, cử chỉ và ngôn ngữ của chúng ta. Hành là đem ý chí dũng mãnh để chuyển hóa những ác nghiệp thành thanh tịnh nghiệp. Đức Từ Phụ đã nhiều lần khẳng định rằng người biết hướng về nội tâm để phản quang tự kỷ sẽ có khả năng vượt thoát khỏi những trói buộc của ma vương ma quân, từ ma thèm thuồng, ma ác tâm, ác ý, đến ma tự cao tự đại, ngã mạn, cống cao, lừa lọc, dối trá, độc tài, ngoan cố, hám danh hám lợi, keo kiết, bỏn xẻn, tỵ hiềm, ganh ghét, thủ đoạn xảo trá, cuồng bạo, sân si… Con người ấy không còn nương tựa vào ngũ dục cũng như không còn coi đó là tối hậu của lẽ sống.

Ngược lại, con người ấy luôn biết dựa vào năng lực của chính mình mà tiến lên, luôn lấy giáo pháp của Đức Từ Phụ làm đèn soi sáng tự tâm, làm kim chỉ nam cho cuộc hành trình về xứ Phật. Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng từ vô lượng kiếp chúng ta xây đắp đại lộ “Luân Hồi Sanh Tử” bằng quá nhiều những chủng tử ái dục, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Tuy nhiên, xin lắng lòng suy nghĩ xem coi ai trong chúng ta có thể thoát cảnh sanh, lão, bịnh, tử ? Thế mà chúng ta cứ ưởn ngực vin tay trên bước đường trầm luân khổ hãi nầy. Lúc trẻ lúc mạnh thì hiếp đáp người cô thế, để đến khi già yếu lại bị người hiếp đáp; lúc được thời thì xây dựng hạnh phúc của mình trên sự khổ đau của kẻ khác, đến lúc suy thời liền bị người xây đắp hạnh phúc trên sự đau khổ của chính mình, và cứ thế mà cái vòng lẩn quẩn này cứ tiếp tục và tiếp tục mãi mãi.

Đã từ hai mươi lăm thế kỷ nay, từ ngày Đức Từ Phụ khai sáng đạo Phật đến nay, thời gian ấy cũng đủ cho chúng ta thấy được tấm gương rạng ngời của Phật Tổ. Ngài đã xả bỏ tất cả những danh lợi quyền uy để sống đời tự tại giải thoát, Ngài đã đi từ những bước đầu của phản quang tự kỷ trước khi thẳng tiến vào tòa Như Lai. Phật Tổ mà còn khởi đầu bằng “phản quang tự kỷ,” chúng ta há có con đường nào khác sao quý vị ?

462. THẤT TÌNH LỤC DỤC

Trong Kinh Pháp Hoa Đức Phật nói: “Ta thị hiện ra nơi đời vì một đại sự nhơn duyên: khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Ngài đã khẳng định chúng sanh nào cũng có Phật tánh và cũng có khả năng thành Phật nếu chịu khó hạ thủ công phu tu trì. Tuy nhiên, vì bị vô minh che lấp nên mãi cam tâm làm nô lệ cho thất tình lục dục, không thấy được vạn vật vạn sự vô thường, cảnh đời như bóng phù du, như bọt biển lúc có lúc không… Chính vì vậy mà chúng sanh, nhứt là con người cứ ngày ngày sống trong phân biệt, chấp có chấp không, chấp thủ những hư vọng, để rồi khi được thì vui, khi mất thì buồn khổ đến tự tận. Thế giới của thế kỷ 21 hiện tại là một thế giới của tuyệt đỉnh văn minh vật chất. Tuy nhiên, đạo đức lại suy đồi một cách thảm hại.

Truớc viễn ảnh thất tình lục dục đang gây phá sản về đạo đức của nhân loại hiện tại, chỉ có giáo lý nhà Phật mới mong dẫn dắt chúng sanh thoát cơn khổ nạn nầy. Tuy nhiên, giáo lý nhà Phật thì thậm thâm và rừng kinh biển Thánh Phật Đà quả là vô lượng vô biên, chúng ta biết phải bắt đầu từ đâu ? Trong Kinh Xà Dụ, Đức Từ Phụ đã khẳng định rõ ràng rằng muốn thoát ly “Thất Tình Lục Dục,” đối tượng cần phải quán xét là ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Bất cứ lúc nào thời nào, năm uẩn nầy cũng đều là nguyên nhân chánh xô đẩy chúng sanh vào lục dục thất tình.

Người con Phật phải luôn nhiếp tâm quán niệm và phản quang tự kỷ để luôn nhìn thấy nanh vuốt của lục dục thất tình đã từ vô thỉ xé nát thiện căn chơn tánh của muôn loài chúng sanh. Đã từ muôn kiếp chúng ta chạy theo thất tình lục dục như người ăn mặn khát nước mà cứ uống nước muối, nên càng uống càng khát. Thế nào là lục dục thất tình ? Lục dục là sáu sự ham muốn của con người phàm tục từ sắc tướng, hình mạo, oai nghi, đến âm thanh, ngôn ngữ, say đắm những cái mịn màng, và nhơn tướng dục. Bản chất cố hữu của thường tình thế tục là ham thích những sắc màu vàng, xanh, trắng, đỏ… cũng như sắc đẹp nam nữ. Hễ thấy hình tướng tốt đẹp là đem lòng ưa thích. Thấy bộ tịch đi đứng oai nghi của người nam, hoặc ẻo lã của người nữ là say đắm ham mê.

Thấy ai ăn nói ngọt ngào thanh nhã là ham muốn đắm say. Thấy sự mịn màng của da thịt hoặc tướng trạng yêu kiều của kẻ nam người nữ là lòng ham muốn cuồn cuộn nổi lên, không kềm hãm nổi. Chúng ta đã từ vô thỉ lăn trôi vì mãi mê chạy theo đuổi hình bắt bóng với lục dục thất tình. Thêm vào đó, cuộc sống văn minh vật chất hôm nay quá cao, nhu cầu cuộc sống hằng ngày càng nhiều, làm cho chúng ta ngày càng mất thăng bằng trong cuộc sống. Lục dục chính là sáu con ma dữ luôn vây quấn chúng sanh không rời. Bên cạnh lục dục, thất tình là những vui, buồn, thương, ghét, giận hờn, ham muốn, lo âu và sợ hãi… cũng là nguồn cội của bao nhiêu tội lỗi trên đời nầy. Nói như vậy không có nghĩa là người con Phật không còn vui, buồn, thương, ghét nữa. Khi Phật dạy về từ bi hỉ xả, lắm người lầm hiểu đạo Phật là yếm thế bi quan và buông trôi cho thế sự.

Kỳ thật, đạo Phật là đạo lạc quan yêu đời một cách hợp tình hợp lý. Thất tình lục dục mà Phật nói ở trên là những con ma dữ luôn sẳn sàng phá nát cuộc tu hành của Phật tử nếu chúng ta cam tâm làm nô lệ cho tham sân si và lái những tình cảm ấy về hướng “hữu ngã.” Nghĩa là nếu ta vui, buồn, thương… vì cái “bản ngã” nầy thì lập tức chúng ta sẽ bị những con ma dữ ấy hoành hành. Ngược lại, nếu chúng ta chịu đem tâm “vô ngã” mà vui những cái vui của mọi người, khổ những cái khổ của mọi người, cũng như thương hết chúng sanh mọi loài thì lập tức những thứ nầy sẽ tự biến thành chất nước cam lồ rưới mát lòng ta và lòng người. Tuy nhiên, bản chất cố hữu của đạo Phật vẫn là nói dễ khó làm. Trong cuộc sống hằng ngày, thất tình đeo đẳng chúng ta như hình với bóng, nhứt là những người con Phật tại gia, hãy còn sống trong gia đình, hãy còn bị vướng víu bởi tình thương quyến thuộc nên khó mà tránh được nanh vuốt của bảy con ma dữ nầy.

Tuy nhiên, đã nguyện làm con Phật thì trong cảnh nào cũng phải cố gắng. Nếu như trong gia đình vướng víu bởi tình thân quyến thuộc và phải ngày ngày vật lộn với cuộc sống vật chất xa hoa đua đòi theo ngũ dục mà chúng ta có thể tu được, đó mới là đáng trân quý ! Như vậy người biết tu theo Phật phải thấy rõ rằng dù hãy còn tại gia, dù hãy còn vướng víu đủ thứ, nhưng ai cấm chúng ta đem lòng từ bi của nhà Phật ra mà thương yêu cha mẹ, vợ con, bằng hữu, xóm giềng một cách vô điều kiện ? Ai cấm chúng ta vui theo cái vui của người ? Ai cấm chúng ta lấy tình thương vô ngã, vô phân ra mà ban rãi cho mọi người ? Làm được như vây thì cho dù thân nầy hãy còn trong đời, nhưng tâm nầy đã vượt thoát được nanh vuốt của thất tình lục dục rồi vậy ! Người con Phật không phải là những kẻ vô tình vô hồn.

Phật dạy chúng ta vứt bỏ tình cảm hữu ngã, và Phật cũng dạy chúng ta phải lấy trí tuệ sáng suốt mà hướng dẫn mọi thứ tình cảm một cách thích đáng, để tất cả đều trở thành một biển tình “vô ngã” bao la vô tận. Đồng ý đã có thân thì phải lăn xả vào đời để mưu cầu sự sống cho mình và gia đình mình, nhưng ai cấm chúng ta đừng chạy theo lục dục thất tình, hoặc ai có thể bắt chúng ta chạy theo danh lợi, tài sắc, tư kỷ, hư vọng, tật đố??? Theo Đức Phật, chúng ta chính là chủ nhơn ông của thân nầy, chúng ta có quyền chạy theo những hỷ, nộ, ái, ố, ham muốn, bi ai hay rầu buồn lo sợ. Lục dục thất tình chính là những thắt gút của khổ đau phiền não. Chúng ta vốn dĩ đã có quá nhiều nỗi khổ, nào là khổ vì thân xác già nua bịnh hoạn, khổ vì không ưa mà cứ ngày ngày gặp nhau, khổ vì cầu bất đắc, khổ vì thương yêu mà phải xa lìa, khổ vì ngũ ấm thạnh suy, khổ vì sanh lão bịnh tử, vân vân và vân vân. Có thấy không hỡi những người con Phật ? Còn chạy theo chi đám thất tình lục dục cho dài thêm một kiếp lăn trôi.

Người con Phật, muốn tu theo Phật, phải luôn tâm niệm và tranh thủ tu tập trong mọi hoàn cảnh. Dù vẫn phải xông thẳng vào đời, dù phải vướng víu với tình thân quyến thuộc, chúng ta vẫn cương quyết không chạy theo ôm chân đám lục dục thất tình, quyết không cam tâm làm nô lệ cho những con ma dữ nầy. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, chúng ta cũng cương quyết vượt qua mọi chướng ngại của trần thế, phải luôn tỉnh thức để có cuộc sống vô tham, vô sân, vô si trong mọi tình huống. Ý ta luôn nghĩ điều thiện, miệng ta luôn nói điều thiện và thân ta luôn làm việc thiện. Chúng ta vẫn tu trì bố thí, từ bi và trí tuệ mà không bị sắc tướng, oai nghi, hình mạo, âm thanh… lôi kéo. Người con Phật phải luôn nhớ rằng nhân tố chính dẫn dắt chúng sanh lăn trôi trong tam đồ lục đạo chính là lục dục thất tình.

Vì không cưỡng được lục dục thất tình nên con người cứ mãi lên lên xuống xuống. Vì bị lục dục thất tình lôi kéo mà chúng ta lần lựa nay tu mai nghỉ để rồi cuối cùng rơi vào vòng tà đạo. Trong cuộc sống hằng ngày người con Phật vẫn đi thẳng vào đời, vẫn sinh hoạt bình thường, nhưng cương quyết từ chối không chạy theo hỷ, nộ, ái, ố, ham muốn, lo âu… Muốn làm được như vậy người con Phật phải lắng nghe lời Phật dạy và phải làm y theo Phật. Trong thời buổi hôm nay, in ấn dễ dàng, kinh điển tràn lan, con người cứ tưởng rằng học kinh cho thuộc là được. Hoặc giả có người học được dăm ba câu nói của chư Tổ ngày xưa rồi từ đó cứ mãi mê hý luận biện giải, nào là “cái gì cũng tại tâm” rồi quên mất đi thân khẩu bên ngoài, muốn nói sao thì nói, muốn oang oát thế nào tùy tiện, thân muốn hành xử thế nào cũng được.

Quý vị ơi ! Chư Tổ là những bậc đại giác đã cạnh kề chư Phật, còn chúng ta là những phàm nhân tục tử, một giới giữ chưa xong, thế mà đòi chỉ một bề “tu tâm,” còn thì mặc kệ cho thân khẩu, thì thành được con gì nếu không là con trùng con dế ? Người Phật tử quyết cầu tu đạo giải thoát, phải lắng nghe lời Phật dạy, phải đi từng bước vào nhà Như Lai, chứ không u mê học thói đằng vân theo kiểu của tà sư ngoại đạo. Muốn thanh sạch ba nghiệp thì trước nhất phải cố thanh sạch cho được thân khẩu, nghĩa là làm gì nói gì cũng phải cố làm và nói đúng lẽ đạo, lâu dần thì ý cũng nương theo đó mà về với chánh đạo. Người con Phật cương quyết từ chối sự cuốn hút của thất tình lục dục để quay về với chơn tâm thực tánh, nơi đó hoàn toàn trống vắng những vui, buồn, thương, ghét, giận, ham, lo; nơi đó không có sự ham muốn phàm tục. Ngược lại, nơi thường trụ duy nhứt của chơn tâm người con Phật là sự bao dung rộng lượng trong cuộc sống giữa mình và người, sống chung và hòa đồng cùng toàn thể chúng sanh, thiên nhiên và vũ trụ.

Pages: 1 2 3 4