ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG
TẬP VI
Thiện Phúc
(Tổ Đình Minh Đăng Quang)

368. Tại Sao Người Phật Tử Nên Ăn Chay ?
369. Chơn Giác Ngộ Và Giải Thoát
270. Chúng Ta Nguyện Gì Trong Ngày Phật Thành Đạo
371. Những Kẻ Nô Lệ
372. Ma Chướng
373. Tâm Tư Tình Cảm Của Người Con Phật
374. Tu Thiệt
375. Con Đường Hướng Thượng
376. Lòng Tham Và Kiếp Lăn Trôi
377. Tù Trong Lục Đạo
378. Người Phật Tử Phải Tu Như Thế Nào ?
379. Đạo Phật Tích Cực Hay Tiêu Cực ?

 

368. TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ NÊN ĂN CHAY?

Đạo Phật là đạo của tự nguyện, không một tín điều nào trong đạo Phật mang tính cách bắt buộc, từ tự quy y Phật Pháp Tăng, đến trì trai giữ giới, tất cả đều là tự nguyện. Ngay cả trong việc ăn chay của người Phật tử cũng là một sự tự nguyện. Phật chỉ khuyên mà không bắt ép. Phật chỉ xây dựng nên “con đường,” theo hay không theo là hoàn toàn tự nguyện. Tôn chỉ của đạo Phật là Từ Bi và Bình Đẳng, nghĩa là vừa cứu khổ ban vui, mà cũng vừa coi mọi loài là ngang nhau, không loài nào hơn loài nào. Như vậy người con Phật đúng nghĩa, sẽ không vì mạng sống của mình mà làm tổn hại đến sinh mạng của kẻ khác. Người không theo tín ngưỡng của đạo Phật, không tin nơi luật nhơn quả luân hồi thì tin rằng vật dưỡng nhơn, nên chuyện giết và ăn thịt loài vật là chuyện bình thường. Với Phật giáo thì khác, đa số Phật tử ăn chay đều vì lòng từ bi mẫn chúng, hoặc vì không muốn tước đoạt mạng sống của các loài sinh vật.

Kỳ thật, con người đã bắt đầu ăn chay từ trước thời kỳ Phật giáo được khai sáng. Ngay từ thời thượng cổ, tổ tiên ta đã không là những người ăn trường chay chứ là gì? Con người tối cổ chỉ biết ngày ngày hái quả trên cây, hoặc moi củ dưới đất mà ăn, chứ làm gì biết đến săn bắn? Thế rồi con người từ từ khám phá ra lửa và các dụng cụ săn bắn và bắt đầu ăn thịt từ đó. Kỳ thật bộ máy tiêu hóa, răng và trực tràng của con người là thứ ruột dài, nên chỉ thích hợp cho việc ăn rau đậu và hoa quả mà thôi. Tuy nhiên, con người một mặt bị vô minh che lấp mất đi lòng từ bi, mặt khác vì trải qua những tiến trình cũng như những khám phá về mùi vị của thịt các loài động vật, nên đã không còn biết, hoặc không còn nghĩ đến sự đau đớn của những loài khác nữa. Chỉ biết ngày ngày dồn hết mọi nổ lực để lo cho cái thân nầy. Đồng ý món ăn thức uống chính là nguồn mạch nuôi dưỡng sự sống. Tuy nhiên, những người Phật tử thuần thành phải nên vô cùng cẩn trọng, vì không khéo chính chúng ta bị cái ăn cái uống nó xô đẩy ta vào con đường tham dục tràn đầy. Người Phật tử phải luôn nhớ rằng chúng sanh loài nào cũng tham sống sợ chết. Hơn nữa mạng sống khó tìm, một khi đã chết đi thì bao giờ mới được tái tục lại cuộc sống nầy? Chính Đức Từ Phụ đã từng dạy rằng: Ai cũng tham sanh úy tử, vì vậy nên luôn lấy lòng mình mà suy lòng người. Chớ giết, chớ bảo người giết. Lời ân cần dạy dỗ nầy của Phật Tổ không là một thông điệp khuyến khích người đời nên ăn chay để tránh giết và tránh sự bảo giết hay sao?

Tại sao người Phật tử ăn chay?

Người tu theo Phật là người đã phát nguyện lên đường với hai mục đích duy nhất là thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh. Như vậy nhứt cử nhứt động của người con Phật đều không chạy ra ngoài hai mục đích cao cả trên. Người Phật tử ăn chay cũng vì thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Nếu nói cầu đạo vô thượng mà ngày ngày vẫn ăn thịt uống rượu, thì cầu cái gì? Nếu nói hóa độ chúng sanh mà ngày ngày cứ ăn tươi nuốt sống chúng sanh, thì hóa độ ai? Như vậy rõ ràng người Phật tử ăn chay không vì mong cho có sức khoẻ, hoặc không vì mong được ai khen ngợi. Cũng không sợ bịnh tim, ung thư hay tai biến mạch máu não mà ăn chay. Ăn chay ngoài việc giữ gìn giới hạnh không sát sanh, còn để biểu lộ hạnh từ bi bình đẳng với mọi loài. Ăn chay chẳng những mong cho lòng mình thanh tịnh, mà còn mong cho mọi loài đều được an lành và hạnh phúc. Ngoài ra, ăn chay còn là một cách chấm dứt lăn trôi tuyệt vời nhất. Chính vì tranh ăn nên chúng ta mới giết hại lẫn nhau, để rồi nay phải đội lốt nầy, mốt lại phải mang lốt khác. Rồi cứ thế mà chúng ta phải lên lên xuống xuống, hết đời nầy đến kiếp khác, để trả những nợ nần từ vô thỉ. Bây giờ đã quyết chí tu theo Phật, là quyết chí thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Sự phát tâm ấy phải luôn luôn đứng đầu trong muôn hạnh trên bước đường tu tập. Người Phật tử muốn tu học theo Như Lai, không thể một bước nào chậm trể trong việc phát tâm ăn chay. Vì dẫu cho có tu hành lao nhọc thế mấy, mà vẫn ngày ngày ăn thịt chúng sanh, thì lấy từ bi đâu để mà giải thoát? Nói như thế không có nghĩa là chỉ trích người chưa ăn chay được. Tuy nhiên, sự thực lúc nào cũng là sự thực. Nếu chúng ta cứ tiếp tục gây thù chuốc oán, thì cho dù có vạn kiếp ngồi thiền, triệu kiếp tụng kinh niệm Phật, tâm ấy vẫn là thứ tâm loạn động, chứ làm sao mà thanh tịnh cho được đây?

Có nhiều người cho rằng trong các kinh điển Phật, đâu có chỗ nào cấm ăn thịt động vật đâu? Đó chỉ là lối lý luận gàn bướng của những con ma trơi, chứ không phải là của những người Phật tử chân chính. Vào thời Đức Phật còn tại thế, lúc giáo đoàn còn ở trong giai đoạn phôi thai, lại nữa mùa màng thất bát, nên khó mà tìm ra rau đậu và hoa quả trong những núi đá miền bắc Ấn, thế nên Đức Phật đã cho phép đoàn khất sĩ của Ngài thọ dụng bất cứ thứ gì mà đàn na tín thí cúng dường. Tuy nhiên, trước khi nhập diệt, Ngài đã ân cần nhắn nhủ lại cho Anan trong kinh Niết Bàn rằng : “Ta với chúng sanh là một, chúng sanh khổ tức ta khổ, chúng sanh vui tức ta vui. Lòng từ bi của người tu giải thoát là đây. Ngày trước sở dĩ ta tạm cho phép mấy ông thọ dụng tam tịnh nhục của đàn na tín thí là vì chẳng những ở Ấn Độ có những vùng đất cày lên sỏi đá, lại thêm nạn hạn hán mất mùa, rau quả không đủ cho những người già yếu. Thêm nữa, ngay lúc mấy ông còn sơ cơ, từ bấy lâu nay chỉ một bề ăn thịt cá, mà ta bảo các ông dứt bỏ ngay chắc là khó lắm, mấy ông chả ai dám tu theo đâu. Vì thương xót các ông mà ta phải dùng phương tiện. Nay ta sắp nhập diệt, ta nói cho các ông biết rõ về đạo giải thoát vô thượng mà mấy ông đang tu với ta đây. Nếu mấy ông không chịu trưởng dưỡng lòng từ bi, không rãi tình thương yêu bao la đến chúng sanh mọi loài, mà cứ tiếp tục sống trên cái chết của kẻ khác, không bao giờ các ông tu được giải thoát đâu. Hơn nữa, trong vòng luân hồi sanh tử của cõi Ta Bà nầy, làm sao các ông biết chắc được những chúng sanh bị hạ thịt nầy không phải là cha mẹ hay con cháu nhiều đời nhiều kiếp của các ông?” Phật vì thương xót chúng sanh mà ngay trước giờ nhập diệt, Ngài cũng không quên để lại cho chúng đệ tử một bài học về những cái độc hại của việc ăn thịt chúng sanh. Thời pháp cuối cùng mà Phật đã để lại cho chúng sanh đời sau là làm sao để thấy cho được sự tác hại của trực tiếp và gián tiếp sát sanh qua việc ăn thịt cá. Thế nào là những độc hại của việc ăn thịt? Sát sanh là gây thù chuốc oán. Một con vật trước khi bị giết sẽ oán hận người giết nó đến cùng cực, nên trước khi chết nó sẽ tiết ra những chất độc, và những chất độc ấy sẽ lan đi khắp các cơ thịt. Người nào ăn phải thịt của nó, là ăn phải những độc chất cực kỳ nguy hiểm. Những độc chất nầy chẳng những làm cho tánh tình người ấy trở nên vô cùng hung hãn, mà còn có thể phá tan nát lòng từ bi cũng như gây rối loạn trong việc tăng trưởng các tế bào và gây ra ung hoại cho cơ thể một cách dễ dàng. Vì thế mà chính Đức Phật đã khẳng định với những đại đệ tử của Ngài là chính cái miệng mình là cánh cửa Niết Bàn, mà chính cái miệng mình cũng là cánh cửa địa ngục. Trước khi Phật nhập diệt, Ngài đã nói cho Tôn Giả Ca Diếp biết một cách cặn kẻ về sự đứt đoạn hạt giống từ bi ở những người ăn thịt. Ngài cũng giải thích vì sao ngày trước, lúc mọi đệ tử của Ngài hãy còn • trình độ sơ cơ, Ngài lại cho dùng tam tịnh nhục (tức là thịt của những con thú đã chết, chứ không do mình giết, hoặc không do mình kêu ai giết), mà bây giờ thì Ngài lại bảo nếu ai còn ăn thịt cá là phạm giới. Khỏi phải giải thích dông dài, chúng ta ai cũng biết là Phật đã dùng phương tiện thiện xảo để dẫn dắt những người hãy còn sơ cơ thấp kém. Đến khi đệ tử Ngài đã đạt được trình độ cao rồi thì Ngài thẳng thừng cho họ biết rằng ăn thịt chúng sanh, dù trực tiếp giết hay gián tiếp bảo giết, đều phạm giới như nhau. Người thời nay đã cố tình diễn dịch sai đi cái ý nghĩa của “tam tịnh nhục, hoặc ngũ tịnh nhục” mà Phật muốn nói. Thời Phật người ta còn được phép ăn những con vật hoặc già rũ xác, hoặc bỏ mạng vì tai nạn, chứ thời văn minh hỏa tiển nầy làm gì còn chuyện đó? Làm gì có tam tịnh nhục trong thế giới văn minh vật chất nầy nữa? Thời buổi nầy, người ta chăn nuôi có dụng ý rõ rệt là nhằm phục vụ người tiêu thụ. Thế nên mạng sống của những chúng sanh thú vật được tính bằng ngày tháng trên lịch trình của trại chăn nuôi và những nhu cầu bên ngoài của con người. Những con thú nầy muốn chết sớm hơn cũng không được, mà muốn chết trể hơn cũng không xong. Tam tịnh ở chỗ nào đâu hỡ quý vị? Ngoài ra, người tu theo Phật làm gì không nhớ lời Phật dạy : “Tất cả chúng sanh trong các đời, đều đã từng hoặc làm cha mẹ, hoặc làm con cái của nhau.” Như vậy, người con Phật chơn thuần, phải phát tâm từ bi mẫn chúng mà ăn chay, để chấm dứt ngay từ bây giờ cái việc ăn thịt cha mẹ con cái từ nhiều đời kiếp của mình.

Xin quý Phật tử chân chính, dù là tu theo bất cứ tông phái nào của đạo Phật, hãy giúp chư tăng ni vâng giữ lời Phật dạy, bằng cách hãy chấm dứt ngay phương cách cúng dường cho chư tăng ni với cái gọi là “tam tịnh nhục,” hoặc “ngũ tịnh nhục,” để chỉ thay vào đó bằng rau đậu hoa quả mà thôi. Kính thưa quý Tăng Ni! Dù tu theo bất cứ tông phái nào của Phật giáo, xin quý ngài hãy phát vô thượng tâm mà thương xót chúng sanh và nguyện không còn nữa những ngày “tam tịnh nhục.” Phật tử vì thương quý ngài nên sẽ chẳng bao giờ đem đến cúng dường quý vị bất cứ cái gì đã chết đã rữa đâu. Lấy cái gì để chứng minh rằng những chúng sanh đã bị giết tươi ấy không phải là vì lý do cúng dường cho quý vị? Nếu không chứng minh được, mà quý vị cứ dùng thì cái gì sẽ xãy đến với quý vị? Dù quý vị không tự mình sát sanh, không biểu ai sát sanh, hoặc không tùy hỉ với sự sát sanh, nhưng còn ăn thịt chúng sanh là một sự đồng lõa sát sanh khủng khiếp. Chính sự đồng lõa nầy sẽ phá tan quá trình tu tập ngàn đời ngàn kiếp của quý vị. Xin khẳng định lần nữa là trên mặt địa cầu hôm nay, chúng ta sẽ khó mà tìm được thứ “tam tịnh nhục” như trong thời Phật còn tại thế lắm quý vị ạ! Hãy vô cùng cẩn trọng!

Hãy can đảm giữ cho Bồ Đề tâm kiên cố, chứ không vì ngon miệng mình mà gây ra bao đau khổ và oán hận cho những chúng sanh khác. Hãy chấm dứt nạn gieo rắc hãi hùng cho chúng sanh chỉ vì muốn trưởng dưỡng cái thân tứ đại giả hợp nầy. Nếu nói rằng muốn tìm về chân như thực tánh, hoặc giả muốn kiến tánh thành Phật, mà không phát được lòng từ bi mẫn chúng, thì làm sao kiến tánh đây? Ngày xưa Lục tổ Huệ Năng, dù phải sống trong sự kềm kẹp của bọn thợ săn. Ngài chẳng những không có gì để ăn, mà còn bị bọn thợ săn cố tình bắt ép và dồn nén Ngài tới chỗ phải ăn thịt. Thế nhưng Bồ Đề tâm nơi Ngài vẫn không có gì lay chuyển được. Mỗi lần bọn thợ săn bắt Ngài canh lưới, Ngài đều chờ cho bọn họ đi khuất là giở lưới cho thú rừng thoát nạn. Trong bữa ăn, Ngài chỉ ăn rau cỏ luộc. Lục Tổ mà còn như thế đó, chúng ta há có con đường nào khác không quý vị? Thấy như vậy để cho dù có tan xương nát thịt, hoặc giả thân nầy có yếu đuối xanh xao thế mấy đi nữa, chúng ta vẫn cương quyết giữ vững niềm tin, không thối chuyển, không mỏi mệt. Cho dù thân nầy có sắp chết hôm nay và không còn cơ hội để tiến tu trong kiếp nầy đi nữa, chúng ta vẫn không lui bước. Nếu nói rằng chay mặn không thành vấn đề, vấn đề là làm sao thanh tịnh cho được thân khẩu ý, thoạt nghe qua cũng có lý. Nhưng suy cho cùng, nghĩ cho cạn, làm sao thân khẩu ý thanh tịnh, làm sao không vướng mắc khi miệng nầy vẫn ngày ngày ăn tươi nuốt sống chúng sanh? Hơn nữa, mạng sống của chúng sanh đâu phải cho không. Hễ mua đi là phải trả lại bằng một cái gì chứ? Tiền của vật chất mượn còn phải trả, huống là sanh mạng? Nợ của thế gian mượn còn phải trả, hà huống nợ luân hồi sanh tử?

Đức Từ Phụ đã đoán biết chắc chắn về sau nầy, càng xa thời Phật tại thế chừng nào, sẽ có rất nhiều loại ma Ba Tuần, len lỏi vào phá rối sự thanh tịnh của tứ chúng. Những con ma nầy cũng học tụng đôi câu kinh, niệm đôi câu chú, hoặc ngồi được vài ba cử thiền, rồi họ sẽ rảo bước đó đây để biện giải hí luận. Họ sẽ òn ỉ bên tai của những người con Phật, rằng thì là họ không còn chấp hay phân biệt nữa. Đối với họ, thịt hay không thịt, chay hay mặn, phân biệt làm gì cho thêm nặng gánh giải thoát? Ờ thì những điều họ nói sẽ được chứng minh là đúng khi nào họ cũng không còn phân biệt thịt và những đồ bài tiết thừa thải của súc vật. Đồng ý trên đời nầy còn nhiều thứ tệ hại khác như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, dâm dật, vân vân, nhưng ăn tươi nuốt sống chúng sanh vẫn là một thứ tệ hại hàng đầu. Người con Phật chân chính quyết không tiếp tục ngụy biện nữa. Nếu chưa ăn chay được thì cứ mạnh dạn chịu trách nhiệm về sự yếu đuối của mình, chứ không có căn cơ hoàn cảnh chi cả. Xin đừng tiếp tục ngụy biện nữa hỡi những người con Phật! Nếu nói rằng mình tốt mình thiện, mà không phát được cái tâm từ bi mẫn chúng, nghĩa là ngày ngày vẫn còn ăn tươi nuốt sống chúng sanh, thì tốt thiện ở chỗ nào? Khi ăn thịt là chúng ta đã phạm giới y như lời Phật dạy. Chúng ta không chối cãi vào đâu được khi ăn thịt là hoặc ta đã giết, hoặc xúi người giết, hoặc tùy hỉ khi thấy người giết. Dù cho ta không thấy người giết nó, cũng như không nghe được tiếng rên la của con vật lúc sắp chết, nhưng làm sao chúng ta không tưởng tượng ra được nỗi đau đớn của con thú trước khi chết cũng như trong khi chết. Những người con Phật có tưởng tượng ra cảnh một con bò đang rưng rưng nước mắt vì biết mình sắp bị những chúng sanh tự xưng là có tình cảm và lý trí, đập đầu, mổ bụng và lột da để ăn tươi nuốt sống không? Người con Phật có khi nào tưởng tượng ra được sự tàn ác của việc sát sanh một mạng sống để ăn thịt chưa? Quý vị ơi! Sinh vật nào trên địa cầu nầy cũng tham sống sợ chết lắm. Hãy quay ngay trở về mà suy gẫm lấy chính thân ta rồi quý vị sẽ thấy. Nếu lâm vào hoàn cảnh sắp bị người phanh thây mổ bụng để mà ăn thịt, thì chúng ta sẽ đau khổ đến dường nào? Thế mới biết, những người ăn thịt, dù bất cứ là loại thịt nào, tam tịnh, ngũ tịnh hay cữu tịnh, đều là ăn thịt, thì cho dù có tu đến đại định, cái định đó cũng chỉ là cái định của loài La Sát mà thôi. Hơn nữa, thật là mai mỉa cho những người con Phật ngày nào cũng tụng đọc và tuyên giảng từ bi mà miệng thì đầy thịt chúng sanh. Ngày ngày tuyên giảng về Phật tánh đồng đẳng trong mọi loài chúng sanh, nghĩa là chúng sanh nào cũng có Phật tánh như nhau, thế nhưng lại không chịu trân quý và bảo vệ mạng sống của chúng sanh, thật là nghịch lý vô cùng. Phải chi loài người sanh ra mà không có rau đậu và hoa quả, thì cái lập luận “vật dưỡng nhân” còn nghe được. Đàng nầy trên mặt địa cầu có thiếu chi là thực vật, những thứ mà dinh dưỡng và đạm tố cũng không thua gì động vật. Dẫu rằng cây cỏ cũng là những chúng sanh; tuy nhiên, ở những chúng sanh nầy hữu tình tính rất thấp, có thể nói là không có. Thế cho nên nếu có tạo nghiệp, chúng ta chỉ tạo ra ít nghiệp thôi. Hơn nữa, những người con Phật khi đã phát tâm ăn chay rồi, sẽ không nở sát hại ngay cả cả cây cỏ, không nở nhổ tận gốc, bứng tận rễ thực vật đâu. Những người nầy chỉ cắt lấy phần nào để ăn mà thôi, và làm như vậy vô tình ta phấn chấn và kích thích sự tăng trưởng nơi thực vật (đó là theo kinh nghiệm và chứng minh của những nhà canh tác nông trại).

Tóm lại, người con Phật ăn chay không phải vì muốn trau tria cho thân nầy khoẻ, thân nầy đẹp, thân nầy sống lâu… Chúng ta ăn chay là vì lòng từ bi mẫn chúng, không muốn lấy cái chết của bất cứ chúng sanh nào để nuôi cái sống của ta. Chúng ta chỉ ăn để nuôi dưỡng cơ thể để mà tiến tu và thành đạo giải thoát, chứ không phải sống để ăn. Nên chi những người con Phật chúng ta hãy cố đừng gây thêm oan gia nghiệp báo trong cái ăn. Người Phật tử phát tâm ăn chay cũng không phải để thành Phật hay được Phật rước về cõi Tây Phương Cực Lạc. Muốn đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng ta phải trải qua một quá trình tu tập bền bỉ, lâu dài và không ngừng nghỉ. Tuy nhiên muốn bước chân lên con đường tu tập đạo từ bi, mà không chứng tỏ được mình có lòng từ bi, thì quả là có cái gì trục trặc ngay từ bước đầu vậy. Nếu chúng ta không tỏ lòng từ bi với những người em nhỏ lạc loài (những thú vật), thì thử hỏi khi ta nói đến lòng từ bi với một con người, cái lưỡi không xương của ta có chắc thật lắm không? Xin những người con Phật hãy mạnh dạn lên! Hãy chối bỏ cuộc sống bằng những cái chết. Hãy chối bỏ lối sống vô hồn, sống trên những đau đớn rên la của những chúng sanh nhỏ bé và yếu đuối, hỡi những người con Phật! Hãy lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy hạnh Phật làm hạnh mình, lấy nguyện Phật Phật làm nguyện mình mà mở rộng tình thương bao la đến chúng sanh muôn loài. Hãy lấy lòng mình mà suy lòng người, để thấy rằng ai cũng tham sanh úy tử, để từ đó quyết tâm trì trai giữ giới, để từ đó quyết không vì ngon miệng mình mà não hại chúng sanh. Những người con Phật muốn hòa thân mình với chân như bản thể, hãy khởi lòng từ bi trong từng phút từng giờ. Hãy mở lòng từ bi bằng cách ăn chay, một ngày cũng tốt, hai ngày cũng tốt, càng nhiều ngày chừng nào càng tốt chừng nấy. Nếu ai trong chúng ta cũng làm được điều nầy thì xã hội loài người sẽ không còn cảnh tương sát tương tàn nữa. Ngược lại, đi đâu đến đâu chúng ta cũng chỉ thấy những nụ cười và những tâm hồn tương thân tương ái, lúc nào cũng tôn trọng và bảo vệ sự sống cho nhau. Mong cho ai nấy đều thấm nhuần lời Phật dạy để một sớm một chiều nào đó ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng, ta và chúng sanh là một, hễ chúng sanh khổ là ta khổ, hễ chúng sanh vui là ta vui. Một khi chúng ta đã sống được như vậy, đã tu được như vậy, thì thế giới nầy không còn mang tên Ta Bà nữa, mà phải là thế giới của giải thoát hay là Tây Phương Cực Lạc, nơi chỉ có tình thương bao la chân thật, nơi mà chúng sanh mọi loài sẽ chung sống bên nhau như huynh đệ một nhà. Mong lắm thay!

369. CHƠN GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT

Đức Phật thị hiện ra nơi đời không nhằm mục đích sáng lập ra một tôn giáo, cũng không nhằm tạo ra một triết lý suông. Ngài thị hiện chỉ với một mục đích duy nhất là chỉ dạy cho chúng sanh làm thế nào để được giác ngộ và giải thoát khỏi mọi sự mê lầm đau khổ của thế gian. Ngài chỉ cho chúng sanh thấy một tấm gương điển hình nơi chính Ngài : cũng là một con người như bao con người khác, nhưng là một con người đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát khỏi mọi mê lầm đau khổ của thế gian. Đây cũng chính là hình ảnh tiêu biểu khẳng định rằng mọi chúng sanh đều có khả năng giác ngộ và giải thoát như Đức Phật vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, muốn thật sự đi được trên con đường giác ngộ và giải thoát nầy, thì tự mỗi người chúng ta chẳng những phải vâng giữ những lời Phật dạy, mà còn phải đem chúng áp dụng vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta phải tự chuyển hóa, phải tự đi con đường mà Phật đã chỉ bày, chứ không ai chuyển hóa dùm ai, hoặc không ai có khả năng đi dùm ai cả.

Ai có khả năng giác ngộ và giác ngộ cái gì?

Hai mươi lăm thế kỷ trước, chính Đức Thế Tôn Từ Phụ đã khẳng định : “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Ngài đã nói quá rõ ràng về khả năng giác ngộ và giải thoát của chúng sanh rồi còn gì. Với Ngài, không có ranh giới cho sự giác ngộ và giải thoát. Phật tử hay không Phật tử đều có thể giác ngộ và giải thoát được. Như vậy dù • trong Phật giáo, Cơ đốc giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Bà la môn hay Hồi giáo… Hoặc giả không ở trong tôn giáo nào, nếu sống tỉnh thức và tự thân thực nghiệm những chân lý trong sáng, những chân lý không thể nghĩ bàn, những chân lý vượt lên trên tất cả mọi suy tưởng hẹp hòi của tôn giáo, kẻ đó đang đi trên con đường giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ và giải thoát những mê lầm, đau khổ và phiền não của thế gian, chứ không là một thứ gì cao xa không nắm bắt được. Người thật sự giác ngộ sẽ không vì hạnh phúc tạm bợ của thế gian mà vui, cũng không vì đau khổ vô thường của thế gian mà buồn. Người ấy thấy rõ bản chất thật sự của cuộc sống; vật chất và sự tham ái là sự đau buốc tột cùng của sự sống, chứ không phải là một sự đau khổ trừu tượng nào cả. Chúng ta phải luôn phấn đấu để nhìn cho rõ mặt mũi thật của khổ đau: vật chất từ bên ngoài và tham ái từ bên trong. Trong hai kẻ thù nầy thì tham ái từ bên trong là kẻ thù nguy hiểm nhứt cho công cuộc giác ngộ của chúng ta. Chính tham ái che mờ tất cả những trong sáng hồn nhiên của chúng sanh. Chính tham ái đang gào thét nổi loạn trong mỗi chúng ta từng phút từng giờ. Chính tham ái bắt ta chạy theo vật chất bên ngoài và gây ra không biết bao nhiêu là khổ đau phiền não cho chúng sanh mọi loài. Chính tham ái bắt chúng ta phải chạy theo hơn thua, thành bại của cuộc đời. Vì tham ái mà ta lo toan mưu tìm hạnh phúc, có khi lại là hạnh phúc trên đau khổ của kẻ khác. Hãy lắng lòng nghe lời chỉ dạy của Đấng Từ Phụ : “Vạn pháp vô thường.” Tất cả đều giả tạm và vô thường. Hạnh phúc giả tạm của thế gian nầy cũng không chạy ra ngoài cái luật vô thường của vạn pháp. Hãy trả lại hạnh phúc và khổ đau cho thế gian, đừng bám víu vào bất cứ thứ gì trong cuộc đời nầy. Hãy sống như lời chỉ dạy của Thế Tôn, hãy dửng dưng với hạnh phúc phù du giả tạm. Hãy kham nhẫn với khổ đau vì chúng chỉ là những lữ khách vô thường, đến rồi đi không hẹn kỳ. Chúng không là gì cả để làm vướng mắc sự giác ngộ và giải thoát của ta. Hãy sẳn sàng chấp nhận tất cả những gì xãy đến với mình từ cuộc đời, những vui buồn của cuộc sống và ngay cả những nỗi lo sợ về sự chết. Đừng để vật chất bên ngoài khơi dậy lòng tham ái bên trong của chúng ta. Đừng cầu mong gì cả, có cái gì đâu để mà cầu với mong? Tất cả rồi sẽ qua đi, ngay cả những cái mà ta cho là hạnh phúc và khổ đau, rồi cũng sẽ tuần tự tan thành mây khói. Con người sống đời giác ngộ và giải thoát là con người biết sẳn sàng đón nhận mọi hạnh phúc hay đau khổ của cuộc đời một cách tự nhiên. Người ấy luôn hiểu rằng có nhiều khi những cái mà người đời gọi là tình thương, hạnh phúc, thỏa mãn, vui thích, an lành, ấm cúng, tiện nghi… nhiều khi chỉ là những cái bẫy giăng ra để khơi dậy lòng tham ái trong ta mà thôi. Lắm khi chúng chính là những kẻ thù mà ta cứ triền miên ôm ấp hoặc nhận làm bạn hữu. Với người biết tu, biết thật sự đi trên con đường giác ngộ và giải thoát, thì những vật chất tầm thường nầy không thể quật ngả họ được. Ngược lại, chúng chính là những nhân tố làm trổ hoa giác ngộ nhanh hơn và kiên quyết hơn.

Người đang đi trên đường giác ngộ thật sự luôn tỉnh thức rằng kẻ thù chính của họ không là những chúng sanh đáng thương, mà là những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, bất mãn, đói khát, ái dục, sợ hãi, phỉ báng, cố chấp, tiền tài, danh vọng, địa vị, quyền uy, thị phi, tranh chấp, thù hiềm, thành bại, chê khen, lợi lộc… Người ấy luôn tỉnh thức nhận rõ bộ mặt thật hư ngụy và vô thường của vạn pháp, dù mang tên gì hoặc núp dưới hình thức hoa mỹ gì, chúng cũng chỉ là hư ngụy và vô thường, không có gì để cho chúng ta phải lưu luyến vướng mắc. Nói như vậy không có nghĩa là những người đang đi trên con đường giác ngộ vô tình vô nghĩa. Kỳ thật, tình nghĩa của họ rất thâm sâu, thâm sâu như biển Thái sông Hằng. Chính vì giác ngộ nên họ xem tất cả mọi chúng sanh như cha mẹ mình, và vì thế mà họ không nỡ nhìn bất cứ ai đi vào con đường đau khổ của thế gian.

Với người giác ngộ, hoàn cảnh dù khó khăn cơ cực đến đâu, họ vẫn can đảm tiến tu. Hành trang duy nhất của những con người giác ngộ là chánh pháp; còn thì bịnh khổ, khó khăn và bất trắc đối với họ đều là diệu dược. Với họ, hoạn nạn là nghị lực giác ngộ; gai gốc của thế gian là con đường dẫn đến giải thoát; nội ma ngoại chướng là những bạn đồng tu đồng hành; khó khăn thế tục là những kỳ hoa dị thảo trên đường đi về đất Phật; những tệ bạc vong tình của nhân thế cùng những kẻ chống nghịch như những nợ nần phải trả. Con người giác ngộ luôn thi ân lợi tha mà không bao giờ phân biệt hay vướng mắc. Con người giác ngộ không tìm cầu những thứ ngoài tầm tay hoặc những thứ phi thường. Ngược lại, họ sống và tu một cách thật bình dị và đơn giản. Với họ, cho dù hạnh phúc và đau khổ đến đi, đi đến bao nhiêu lần đi nữa, họ vẫn vậy. Họ không bị vật chất và tham ái lôi cuốn; họ cũng không bị cuộc sống cuồng loạn cuốn trôi như một kẻ vong thân, buông mình cho định mệnh. Họ cũng không mơ ước được bay bỗng lên không trung, để thoát khỏi thực tại khổ đau phiền não. Với họ quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa tới, thế nên họ trực diện với thực tại, dù thực tại ấy có là hạnh phúc hay đau khổ. Nếu chúng ta có khả năng nhìn những hạnh phúc và đau khổ của trần thế nầy như nước chảy mây bay, nên quyết không bám víu lấy chúng, thì chúng ta sẽ có cuộc sống tự tại và an bình hơn. Có cơn gió nào rồi không ngừng, có cuộn sóng nào rồi không tan? Ngăn gió cản sóng chẳng những không làm gió lặng sóng êm, mà ngược lại chúng ta còn làm cho tình huống trở nên tệ hại thêm. Theo Đức Phật, đời chỉ là sự kết hợp của những cái vui, buồn, được, mất, hơn, thua, tốt, xấu, khen, chê, giàu, nghèo… mà con người nói riêng, chúng sanh nói chung, cứ mãi quay quần trong đó chỉ vì sự khống chế của vọng tưởng tham, sân, si. Chỉ vì tham, sân, si mà trùng trùng chướng nghiệp khai mở. Chỉ vì tham, sân, si mà chúng sanh luân hồi sanh tử không ngừng nghỉ. Chỉ vì tham, sân, si mà chúng sanh đội hết hình nầy đến lốt khác trong tam đồ lục đạo. Ngược lại, con người giác ngộ là con người biết một lần dứt khoát; dứt khoát buông bỏ tham, sân, si và tự trang bị cho mình bằng chánh pháp của Phật. Người ấy biết quay ngay trở về với chính mình để sống đời bình thường, với một cái tâm cũng bình thường y theo lời Phật dạy : “bình thường tâm thị đạo.” Nghĩa là đạo không phải là một cái gì cao xa, mà chỉ là những cái bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Hễ tâm bình là cảnh vật bình. Cuộc sống của con người giác ngộ nó bình thường đến nỗi vô tư, vô sự, vô cầu, vô ngại; đến nỗi dù sanh hay dù tử, dù vui hay dù buồn, dù hạnh phúc hay đau khổ… chúng chỉ như những hạt sương mai trên đầu cỏ. Những con người giác ngộ sống đời ung dung tự tại của hiện thực, với tâm tư cởi mở và không câu chấp trước mọi tình huống. Họ đi thẳng vào đời với cái tâm bình thường để giúp mình, giúp người và giúp đời; họ hy sinh và vị tha trong tinh thần từ, bi, hỉ, xả của nhà Phật.

Những con người giác ngộ không nhìn những đau khổ và phiền não của cuộc đời nầy bằng cái nhìn lạc quan. Đau khổ và phiền não muôn đời vẫn là đau khổ và phiền não; tuy nhiên, chúng chỉ tự đến và tự đi (tự phát sanh và tự hủy diệt), chứ ta không can chi phải tham dự vào bất cứ tiến trình chào đón hoặc ngăn che những thứ vô thường nầy. Như vậy con đường giác ngộ và giải thoát thật sự mà Thế Tôn đã một lần tìm được để trở về rất ư là bình thường và đơn giản : Hãy sống một cách bình thường trong hiện thực; hãy từ bỏ sát sanh, tránh xa tà hạnh, biết tàm quý mà không vọng ngữ vọng ngôn, tự sống thanh tịnh, không trộm, không cắp, không cướp; luôn biết từ bỏ dâm dục hèn hạ, từ bỏ nói láo. Hãy luôn nói lời chân thật, sống đời đáng sống, luôn thật thà ngay thẳng. Luôn nói điều ngay lẽ phải chứ không nói lưỡi hai chiều; chỉ nói lời ái ngữ, chứ không nói lời độc ác. Quyết xa lìa những thức uống cai độc. Sống như thế ấy thì cho dù có tám vạn bốn ngàn, hoặc triệu triệu thứ khổ não của Ta Bà đi nữa, chúng cũng không một mảy may chi phối được cuộc sống bình thường của con người giác ngộ. Cuộc sống ấy nó bình thường và đơn giản như lời Phật dạy:

Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.

Đó chính là chơn giác ngộ và giải thoát mà Đức Từ Phụ đã trao truyền lại cho chúng ta, những mong những đứa con của Ngài thấy và biết được ngay tại chỗ nầy mà sống mà tu, để một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh sẽ được cùng nắm tay Phật Tổ dạo khắp cùng các nẻo vô sanh.

370. CHÚNG TA NGUYỆN GÌ TRONG NGÀY KỸ NIỆM PHẬT THÀNH ĐẠO?

Phật tử chúng ta thường đón nhận ngày đại lễ kỹ niệm Phật Đản với tất cả lòng hân hoan và biết ơn của những người hậu bối. Tuy nhiên, mấy ai trong chúng ta hân hoan tổ chức ngày thành đạo của Thế Tôn, ngay cả các chùa chiền và tự viện, cũng chỉ tổ chức ngày nầy cho có lệ. Thật tình mà nói, nếu không có ngày thành đạo nầy, thì thiết tưởng giờ nầy chúng ta vẫn còn tiếp tục lăn trôi trong mê đồ tăm tối, chứ làm gì có ánh đạo vàng rạng rỡ để mà được sống đời hạnh phúc, chứ đừng nói chi là giác ngộ và giải thoát. Ngày Phật thành đạo chẳng những nói lên sự độc đáo của tôn giáo mà vị giáo chủ không phải là một nhân vật của huyền thoại, thần thoại hay hoang đường, mà nó còn đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong lịch sử giải phóng tâm linh vô tiền khoáng hậu của nhân loại.

Ngày mồng tám tháng chạp đúng như thời điểm của những ngày đánh dấu báo hiệu Đông sắp tàn và Xuân sắp đến. Những người con Phật chúng ta đón nhận ngày ấy chẳng những như đông tàn băng giá đón nhận xuân sang ấm áp; mà hơn thế nữa, chúng ta đón nhận ngày thành đạo của Phật như đêm tối đón chờ ánh bình minh tươi sáng. Cách nay 2622 năm, trong lúc nhân loại và chúng sanh mọi loài đang lăn trôi trong biển đời đau khổ và tối tăm mù mịt, không có đường nẽo nào thoát ra, thì một ánh sáng kỳ diệu xuất phát từ một nơi xa xôi của vùng  Bắc Ấn. Giữa lúc nhân loại đang nửa ngủ nửa mê với những tội lỗi chất chồng, thì Thế Tôn đã thị hiện. Ngài đã tu tập và đạt thành đạo quả giác ngộ tối thượng. Bắt đầu từ ngày mồng tám tháng chạp năm xưa, ánh đạo vàng của Ngài đã chiếu khắp muôn phương. Cách nay đã gần hai ngàn sáu trăm năm, mà ánh sáng ấy, chơn lý ấy vẫn chiếu tỏa rạng ngời. Hình ảnh Thế Tôn rạng rỡ dưới cội cây Bồ Đề trong ngày thành đạo, tưởng đã như xa mà kỳ thật vẫn gần, gần lắm với những người con Phật. Ngày thành đạo của Thế Tôn không những chỉ đánh dấu một sự nghiệp thành tựu vĩ đại của một con người đã hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, mà nó còn đánh dấu một bước ngoặc vô cùng quan trọng cho nhân loại. Ngài đã sanh ra giữa một khu rừng vô minh của nhân loại, thế nhưng Ngài đã không lạc bước lăn trôi trong khu rừng không có lối ra nầy. Ngược lại, Ngài đã quyết tâm chiến đấu chống lại ma quân, vô minh và phiền não, từ nội tâm đến ngoại cảnh.

Lời thệ nguyện năm xưa của Ngài cho tới bây giờ vẫn còn vang vọng : “Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy.” Chính nhờ sự lập nguyện mạnh mẽ ấy mà Ngài đã thành đạo và khai đường mở lối cho hậu thế biết đường nẽo mà lần về con đường hạnh phúc và tu giải thoát. Ngài đã sanh ra trong một gia đình hoàng tộc, cao sang tuyệt đỉnh, với đầy đủ mọi tiện nghi vật chất và sung sướng không ai bằng, muốn gì được nấy, nhưng Ngài đã không để cho những thứ ấy đưa Ngài ra bãi tha ma một cách oan uổng. Ngài đã sanh ra trong một xã hội đầy bất  công và áp bức của thần quyền và trong lúc cả thế giới Ta Bà đang quay cuồng trong điên đảo. Thế nhưng Ngài đã không bị quay cuồng trong điên đảo ấy. Ngược lại, Ngài đã gióng một tiếng chuông dài cảnh tỉnh mọi người, mọi giới từ quý tộc đến cùng đinh. Tiếng chuông ấy đã vang vọng trong suốt 26 thế kỷ nay, vẫn còn vang vọng cho đến bây giờ và sẽ còn vang vọng mãi mãi. Ngài đã đến với thế gian nầy một cách bình thường và tự nhiên như bao nhiêu chúng sanh khác, chỉ có điều khác là Ngài đã sớm nhận thức ra rằng cảnh đời là giả tạm và lắm nỗi bi ai, thời gian cứ trôi mãi và vạn vật cứ nối tiếp nay dời mai đổi không ngừng nghỉ. Ngài đã sớm giác ngộ rằng trên đời nầy có cái gì là thực đâu ? Tất cả chỉ là giả tạm và mộng tưởng. Ngay cả những suy tư hằng ngày  của chúng ta cũng chỉ là vọng tưởng, chứ chả là cái gì hết, chúng chỉ là trạng thái tâm thức ảo tưôũng. Những vọng tưôũng nầy chẳng những đưa chúng ta đến tham, sân, si, điên đảo và phiền não, mà chúng còn xô đẩy chúng ta vào cơn túy sanh mộng tử, hoặc giả trong cơn đại mộng của trần thế nữa. Ngài đã sớm nhận thức ra rằng nụ cười và hạnh phúc của trần thế thật là mong manh và ngắn ngủi, mà nỗi thống khổ pha lẫn tiếng khóc của não phiền đã bắt đầu ngay từ lúc chúng ta mới chào đời cho đến lúc tàn đời. Từ sau ngày thành đạo, Ngài đã để lại cho hậu thế một di sản tinh thần vô cùng quý báu. Ngài đã cho chúng ta thấy rõ ràng sự giác ngộ và giải thoát hoàn toàn nằm trong tầm tay của chính chúng ta, chứ không ở một quyền lực ngoại lai nào cả. Ngài đã vạch rõ cho chúng ta thấy rõ  sở dĩ có thực trạng lăn trôi trong tam đồ lục đạo là do bởi chúng sanh không chịu tiết giảm lòng tham dục, không chịu điều phục thân tâm, cứ để cho ngũ dục thế gian lôi cuốn, không chịu chọn cho mình hướng đi hướng thượng.

Ngược lại, chúng ta cứ buông lung cho ngũ dục thế gian lôi cuốn; cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến khống chế, hoặc giả chúng ta cứ quay cuồng trong dục lạc của thế gian. Chính vì vậy mà thay vì thương người mến vật, và giữ cho thân tâm trong sạch và thanh tịnh, thì chúng ta lại oán người hại vật và đắm chìm trong ngũ dục của trần gian. Chính vì thế mà thay vì sống đời từ, bi, hỉ, xả, chúng ta lại tham lam, sân hận, si mê; thay vì rộng lòng bố thí và giúp đỡ tha nhân thì chúng ta lại keo kiết bỏn xẻn. Cũng chính vì thế mà thay vì sống đời buông xả như Đức Phật, thay vì từ chối cung vàng điện ngọc, danh vọng quyền uy, để sống đời an lạc và tỉnh thức, chúng ta lại tranh danh đoạt lợi, hoặc giả suốt đời chỉ biết chạy theo những ảo tưởng của đuổi hình bắt bóng. Chính vì thế mà ngoài miệng chúng ta hô hào tận diệt tham, sân, si, nhưng trong thâm tâm chúng ta vẫn ngày ngày ôm ấp chúng, vẫn ngày ngày dong ruỗi tìm cầu và kết thân với cả nội ma lẫn ngoại chướng. Thật tình mà nói, nếu không có ngày thành đạo của Phật tổ, thiết tưởng giờ nầy con đường duy nhất cho chúng ta vẫn là mê đồ tăm tối. Đức Thích Tôn Từ Phụ đã không tự xưng mình là một đấng toàn năng vô hình vô tướng. Ngài xác định vì Ngài đã nhìn thấy rõ trên bước đường sanh tử luân hồi của chúng sanh, nó trùng trùng điệp điệp những mộng mị, mộng  đẹp đâu không thấy, chỉ thấy toàn ác mộng và khổ đau phiền não. Vì thương xót chúng sanh mà Ngài đã khai mở ra một quang lộ thênh thang của từ, bi, hỉ, xả, của hạnh phúc yêu thương, của khiêm cung từ tốn và an lạc tỉnh thức. Ngài chẳng những đã đạp đỗ mọi bất công của giai cấp xã hội và xua tan bóng tối của dục vọng bất công của thần quyền tàn bạo và vô lý, mà Ngài còn xé tan bức màn vô minh của ích kỷ, bỏn xẻn, kiêu căng, của cầu danh đoạt lợi, của khoái lạc mong manh mộng huyễn, và thay vào đó bằng sự tỉnh thức của lòng tu tâm dưỡng tánh, hành thiện không hành ác. Ngài là một bông sen duy nhất trên mặt địa cầu nầy, đã vươn lên từ trong bùn lầy, chẳng những không hôi tanh mùi bùn, mà còn tỏa ra hương thơm ngào ngạt khắp cùng năm châu bốn biển.

Ngài đã đưa nhân loại thời đó vượt qua từ những hố thẳm của phân ly, hận thù và ngăn cách, để đi đến chỗ đầy tình thương của an bình và hạnh phúc. Ngài đã làm một cuộc cách mạng giải thoát tâm linh vô tiền khoáng hậu. Ngài đã khai mở một kỷ nguyên của tự do và bình đẳng. Với Ngài, không có quý tộc hay cùng đinh khi máu của chúng sanh cùng đỏ như nhau. Với Ngài, không có giàu nghèo hay sang hèn, mà chỉ có tinh thần từ, bi, hỉ, xả và ánh sáng trí huệ. Với Ngài, không có ai khống chế hay gây thống khổ cho ai, chỉ có sự khống chế của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến mà thôi.

Nhân kỷ niệm ngày Thế Tôn thành đạo, mọi người trong chúng ta hãy tự xét lòng mình xem coi mình đã lập nguyện lần bước trên quang lộ của Thế Tôn, hay vẫn  loanh quanh lẩn quẩn trong công hầu khanh tướng, vật chất lợi danh; hoặc giả đang quay cuồng trong những vui buồn thương ghét của thường tình thế tục. Hãy tự xét lòng ta, xem coi chúng ta có lắng nghe những lời dạy dỗ của Thế Tôn hay không ? Có thiểu dục tri túc hay chưa?

Có tâm lượng bao dung với chan hòa từ, bi, hỉ, xả; hay vẫn tham, sân, si ? Hãy xem coi chính chúng ta đã có trọn đủ lòng tin nơi giáo lý tuyệt vời của Phật tổ và đã quyết chí tu trì theo những lời Phật dạy hay chưa ? Xin thưa, con đường mà năm xưa Thế Tôn đã đi và đã đến, là con đường độc đạo. Chúng ta dù muốn hay không muốn, cũng phải một lần lên đường. Nếu không bây giờ thì cũng vạn triệu kiếp về sau nầy. Rồi ai trong chúng ta cũng sẽ phải một lần nhàm chán sanh tử, để phát tâm Bồ Đề, phải bỏ vọng mà về với chơn, phải bỏ mê mà về với tỉnh thức và giác ngộ.

Tuy nhiên, vấn đề ở đây là chừng nào chúng ta mới chịu lên đường ? Chừng nào chúng ta mới chịu từ bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến để quay về với từ bi hỉ xả, khiêm cung từ tốn, cũng như tin tưởng và hành trì theo chánh kiến đây ? Nhân ngày thành đạo của Thế Tôn, những người con Phật chúng ta còn chần chờ gì nữa, mà không phát đại nguyện mà quyết tâm lên đường ngay từ bây giờ ? Thế Tôn đã vì thương xót chúng sanh mọi loài, nên Ngài đã lập nên một quang lộ thênh thang cho cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát. Tuy nhiên, chính mỗi người trong chúng ta phải bước lên quang lộ của hạnh phúc yêu thương nầy mà đi, chứ không ai đi dùm ta được, ngay cả Phật. Con đường  nầy không ai mua được bằng tiền bằng bạc, bằng danh vọng quyền uy; cũng không mua được bằng tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Nếu những thứ ấy mà mua được hạnh phúc và giải thoát, thì Đức Phật đã không từ bỏ chúng khi Ngài đang là một thái tử với đầy đủ mọi thứ. Hãy tự xét lòng ta đi để thấy cho rõ rằng sang giàu mong manh hơn sương khói, công danh sự nghiệp như sương mai trên đầu cỏ, vui buồn thương ghét nào khác chi những lọn sóng triều. Đời vô thường và thế gian giả hợp, do bởi duyên hợp duyên tan. Trăm năm nào có hơn gì giấc mơ… Hãy lắng lòng nghe lời Phật dạy, hãy quay ngay về ông Phật nơi chính mình mà cúng dường cho vị Phật ấy từ giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, đến giải thoát tri kiến hương, để mang lại an lạc và hạnh phúc cho chính ta và những người quanh ta. Nhân ngày thành đạo của Đức Thích Tôn Từ Phụ, chúng ta hãy hẹn với lòng là quyết vâng giữ và hành trì những gì Ngài đã chỉ dạy. Nên nhớ rằng châu báu ngọc ngà của cõi nước tạm bợ nầy, cho dù có đem chất đầy tam thiên đại thiên thế giới, cũng không bằng vâng giữ và hành trì một câu Phật dạy. Thế mới biết Phật pháp quý đến dường nào; thế mới biết Phật ân cao tột đến dường nào; thế mới nguyện, Phật hạnh và Phật đức cao cả đến dường nào. Nhân ngày Thế Tôn thành đạo, xin ai nấy đều tự hứa với lòng mình là sẽ thanh lọc thân, khẩu, ý sao cho giảm thiểu tham, sân, si.

Để xứng đáng là một Phật tử thuần thành, hãy đến trước đài vô thượng giác mà bẫm với Đức Thế Tôn rằng : “Bẫm Thế Tôn, từ vô thỉ, con đã lăn trôi tạo nghiệp trong biển  đời sanh tử; đã si mê làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; đã tin theo thầy tà bạn ác; đã sát và đã hại không biết bao nhiêu sanh linh mà kể; đã dùng phàm tình sa đọa mà dẫn dụ chúng sanh đi vào con đường tà vạy.

Nay con đã thấy rồi quang lộ mà Ngài đã một lần lên đường, đã đi và đã đến chỗ giải thoát. Nay con đã biết rồi trong con cũng có Phật tánh như Ngài. Hễ con biết đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; biết buông bỏ thế sự; biết chế ngự phàm tâm, thì tự nhiên Phật tánh trong con sẽ hiển bày. Hễ con biết gỡ bỏ những xiềng xích của khổ đau phiền não, thì cuộc sống con là hạnh phúc tràn đầy và cuộc tu con là miên trường giải thoát.”

Kính lạy Đức Thế Tôn, nhân ngày thành đạo của Ngài, con nguyện ngày ngày hành trì giáo pháp mà Ngài đã ân cần giảng dạy, con nguyện đem giáo pháp của Ngài vào đời sống hằng ngày. Con nguyện sống cho thật xứng đáng làm một con người, biết tàm quí khiêm cung, biết nhu hòa nhẫn nhục, biết điều phục tham, sân, si, và biết trung thực sống với những lời Phật dạy. Con nguyện chí tâm đem tinh thần từ, bi, hỉ, xả và ánh sáng trí huệ, cũng như vạn triệu pháp môn tuyệt kỷ của Ngài đi vào đời. Con nguyện sẽ sống trong lạc đạo, dù thanh bần. Chỉ luôn thấy lỗi mình, chứ không thấy lỗi người. Con nguyện không còn nữa những ngày sống ích kỷ, bỏn xẻn và kiêu căng; không còn nữa những chuỗi ngày lăn trôi trong ngũ dục; không còn nữa những tham đắm truy cầu; không còn nữa những đố kỵ, ghen tương, giận hờn, ghét bỏ; không còn nữa những ngày rong chơi đào bới văn tự, hí  luận đa văn; không còn nữa những hơn thiệt thị phi của phàm tình thế tục. Con nguyện chẳng những tự mình đi trên quang lộ, mà còn giúp người khác biết đường biết nẽo mà quay về đi trên quang lộ của Ngài. Và con cũng nguyện sẽ làm những điều nầy ngay bây giờ, chứ không đợi đến lúc tóc bạc, da nhăn, răng long, gối mỏi rồi mới chịu quay về thì e rằng sẽ chẳng bao giờ thây được đâu là mê mờ tăm tối, đâu là quang lộ thênh thang.

Là Phật tử, đã hiểu và đã tin giáo lý thậm thâm mà Ngài đã ân cần trao truyền, chúng con xin nguyện noi theo dấu chân Ngài, chẳng những để học hỏi giáo lý cao thượng của Ngài, mà còn học hỏi và tu trì y theo như những gương hạnh lành ngay từ chính cuộc đời của Ngài.

Để xứng đáng là một Phật tử chơn thuần và để đáp đền muôn một ân đức sâu dầy của Ngài, nhân ngày Thế Tôn thành đạo, chúng nguyện sẽ kế tục Ngài mà thắp sáng ngọn hải đăng Chánh Pháp, để cho ai nấy đều được thấy mà về nương nơi Tam Bảo. Chúng con nguyện sẽ làm tất cả những gì có thể làm được từ xây chùa, dựng tháp, ăn chay, giữ giới,trì chú, niệm Phật, tụng kinh, tham thiền, nhập định, tu tâm dưỡng tánh, bố thí, nhẫn nhục, gieo trồng cội phước bất cứ ở đâu, kết tụ bồ đề quyến thuộc bất cứ lúc nào, hành thiện không hành ác, luôn giữ cho thân tâm thanh sạch. Làm được như vậy, chẳng những chúng con đã không phụ lòng chư Phật, mà chắc chắn trong đời nầy kiếp nầy, hoặc giả một ngày không xa nào đó, tất cả chúng con sẽ cùng được nắm tay Ngài, thong dong đi vào cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt.

371. NHỮNG KẺ NÔ LỆ

Hãy thử suy gẫm lại mà xem, cuộc đời chúng ta từ lúc chào đời đến nay, đã có mấy lần vui và có bao lần buồn khổ ? Nếu nhớ không lầm thì có lẽ trong chúng ta ai cũng sẽ đồng ý rằng cuộc đời chúng ta khổ nhiều hơn vui, tiếng thở dài nhiều hơn là những nụ cười hân hoan, nước mắt khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc an lạc… Tại sao lại như vậy? Tại sao không là hân hoan, hạnh phúc và an lạc; mà lại là khổ đau, thở dài và nước mắt?

Con người từ lúc mới lọt lòng mẹ là đã tham, từ cái tham bú, tham uống nó dẫn ta đến giận hờn tức tưởi. Rồi cứ thế mà những chủng tử tham, sân, si lớn dần theo thời gian. Con người có lý trí, nhưng bên cạnh đó, con người lại cũng có tình cảm; mà thường thì tình cảm lướt thắng lý trí. Vì thế mà những chủng tử bất thiện cứ được tình cảm nuôi nấng nuông chiều. Chỉ cần một chút xúc tác từ bên ngoài là những chủng tử nầy đâm chồi nẩy lộc ngay, và kết quả là đau khổ, thở dài và nước mắt, chứ có gì lạ đâu?

Theo đạo Phật, sở dĩ có sự thể như vậy là vì con người cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Vì tham, sân, si mà người ta tranh danh đoạt lợi, làm tổn hại chẳng những cho bản thân và gia đình, mà còn cho người khác nữa. Làm tổn hại chẳng những cho thế hệ nầy, mà còn cho nhiều thế hệ mai hậu nữa. Vì tham, sân, si mà con người suốt đời dong ruổi, đuổi hình bắt bóng theo danh vọng, ái tình, vinh hoa, phú quý và dục lạc của  trần gian. Vì tham, sân, si mà con người quên mất đi vạn vật vô thường, cuộc đời huyễn mộng, không khác chi một giấc chiêm bao. Thế nên thay vì dành thì giờ cho việc tu tỉnh, con người chỉ lo đi gom góp những vật chất phù hoa; thay vì trưởng dưỡng lòng từ bi hỉ xả, con người chỉ lo trưởng dưỡng lòng tham và tánh keo kiết bỏn xẻn. Vì tham, sân, si mà chúng ta quên mất rằng con người sanh ra với hai bàn tay trắng, và khi ra đi cũng với hai bàn tay trắng, chứ nào có mang theo được giàu sang, quyền uy, chức tước đâu ? Vì tham, sân, si mà chúng ta tị hiềm, ích kỷ, mạnh được yếu thua, khôn hiếp dại, cá lớn nuốt cá bé.

Vì tham, sân, si mà chúng ta quên mất những tiếng kêu rên bi ai thống khổ của chúng sanh vạn loài. Vì sân mà chúng ta đánh mất nhơn tính. Vì si mà chúng ta cam tâm làm nô lệ cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nào có ngờ đâu chúng chính là những tên thiên lôi cho loài thiên ma ba tuần, là những nhân tố chính gây ra phiền não, và là những chất keo gắn chặt những móc xích luân hồi sanh tử lại với nhau. Chính vì tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến mà chúng ta buông lung cho lục căn lăng xăng quay cuồng trong biển đời sanh tử, khiến cho thương yêu, ganh ghét, vui buồn, sướng hận, quyền uy, danh vọng, tiền tài, vật chất tự do khống chế thân tâm nầy. Hãy bình tâm suy nghĩ lại mà xem ! Bao nhiêu trục trặc, bất công, bạo loạn và khổ đau của cõi Ta Bà ô trược nầy, phải chăng đều do tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến mà ra cả ? Hãy bình tâm suy nghĩ lại mà xem ! Dục lạc thế gian tồn tại được bao lâu ? Hay là sau những phút giây dục lạc ngắn ngủi đó, chúng ta vẫn còn trơ lại với những rên la, đau khổ và não phiền của cõi nước đầy nhiễm trược nầy ? Xã hội con người, dù văn minh và tiến bộ vật chất đến đâu, chừng nào chúng ta còn cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, chừng ấy chúng ta vẫn còn sống trong chẳng những triền miên của luân hồi sanh tử, mà cuộc sống hằng ngày của chúng ta quả tình là một cuộc sống đầy bất trắc, đầy xao động lo âu và đầy trục trặc bất an.

Hãy mạnh dạn lên hỡi những người con Phật ! Hãy làm một cuộc cách mạng tự thân, giải phóng nô lệ, tự mình tháo gỡ ra khỏi những trói buộc của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Biết rằng công cuộc cỡi trói nầy không phải là chuyện dễ, vì đã bao đời bao kiếp làm nô lệ cho tham, sân, si. Chúng ta đã cung phụng cho thân phàm phu nầy nhiều thứ quá rồi từ ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao cửa rộng, đến quyền uy danh vọng, vợ đẹp, con ngoan…

Làm sao vất bỏ cho được những xích xiềng nhung lụa đây? Làm sao vất bỏ danh vọng, quyền uy, ân tình, ái dục đây ? Làm sao vất bỏ những thần quyền và mê tín dị đoan, những thứ một thời đã từng bao che cho những lo âu, sợ hãi của phàm phu nầy đây ? Làm sao vất bỏ những thói quen tình cảm và thị phi của phàm phu đây ? Làm sao ngoảnh mặt lại với văn minh vật chất và những quyến rũ không ngừng của tiến bộ hiện đại đây ? Công cuộc vứt bỏ nầy quả là thiên nan vạn nan, nhưng những người con Phật quyết làm và sẽ làm được. Dù sanh ra không cùng thời với Phật, nhưng những người con Phật đã có giáo pháp tuyệt vời của Phật, cũng như những trưởng tử  gương mẫu của Ngài. Người con Phật quyết không tiếp tục cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si nữa. Ngược lại, quyết phen nầy vâng giữ lời Phật dạy, quyết tự mình cởi trói cho mình, quyết sống đời an bần lạc đạo, quyết mang hành trang từ bi hỉ xả đi vào đời giúp mình, giúp người và giúp đời. Hãy lắng lòng nghe lời Phật dạy: “Tham dục, sân hận và si mê chỉ là những cạm bẫy xô đẩy con người vào vòng đau khổ.” Tham, sân, si chính là những móc xích luân hồi sanh tử, chúng đã xô đẩy và tiếp tục xô đẩy chúng sanh lăn trôi bồng bềnh trong vô lượng kiếp, với biết bao nhiêu là khổ đau phiền não. Nếu vật chất, quyền uy và danh vọng đem lại hạnh phúc thật cho con người, thì Đức Từ Phụ đã không từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan mà đi tu. Tiền bạc của cải, Ngài có thừa.

Vật chất, danh lợi và uy quyền, Ngài cũng có thừa. Cung vàng điện ngọc của Ngài là của bậc đế vương, thế mà Ngài còn bỏ. Chúng ta là cái gì so với Ngài ? Vậy thì chúng ta còn đợi cái gì đây? Hãy nhìn kỹ lại từ ngày con người xuất hiện trên địa cầu đến giờ, có ai trường sanh bất lão, hoặc bất tử để mà hưởng hoài những dục lạc của trần thế nầy đâu ? Tại sao chúng ta không sớm thức tỉnh, để thấy rằng thế gian nầy tạm bợ, vạn pháp vô thường, mạng người giả hợp và đoản yểu ? Tất cả những vinh hoa phú quý chỉ là phù phiếm tợ như giấc chiêm bao, giàu sang vinh hiển hay công hầu khanh tướng nào có khác chi hoa nổi hoa tàn, uy quyền thế lực như bọt bèo mây gió. Hãy nhìn cái gương Thành Cát Tư Hãn đó, một thời làm mưa làm gió ở Á, Âu và Phi châu, bây giờ một gò cũng không  có. Hãy nhìn Nã Phá Luân thì thấy, một thời chế ngự cả Âu châu và Nga La Tư, đến lúc lìa đời, phải ra đi lạnh lẽo trên một hoang đảo. Đó là những bài học phủ phàng của những kẻ cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si. Họ chẳng những không được gì, mà còn xô đẩy bao nhiêu người phải đi vào con đường của lầm than, rên xiết và đau khổ của chiến tranh chết chóc.

Hỡi những người con Phật ! Cuộc đời tạm bợ, vui ít buồn nhiều, có gì đâu cho ta vướng mắc ? Hãy tự cởi trói và chấm dứt kiếp nô lệ cho tham, sân, si ngay từ bây giờ.

Hãy tự cởi trói khỏi những tị hiềm, đố kỵ, ganh ghét, bỏn xẻn, oán hận, ích kỷ… Chúng chỉ là những nhân địa ngục, chúng là bạn đồng hành của vô minh và tội lỗi, chúng là cuồng phong bão tố cuốn trôi đi chơn tâm kiến tánh của chúng sanh. Còn luyến tiếc gì nữa hỡi những người con Phật ? Đành rằng chúng ta phải sống, phải ăn, phải uống, phải ở, phải hành xử, phải làm việc…, nhưng chúng ta có quyền lựa chọn cách sống, cách ăn, cách uống, cách ở, cách hành xử và cách làm việc. Chúng ta có quyền đoạn trừ tham, sân, si. Chúng ta có quyền sống trong từ, bi, hỉ, xả.

Chúng ta có quyền sửa chữa những lỗi lầm trong quá khứ, để cho cuộc sống của chúng ta trong hiện tại được tốt đẹp và tươi sáng hơn. Chúng ta có quyền sống đời vị tha và buông xả, để được an lạc, tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát. Chúng ta có quyền không làm buồn lòng người khác, mà ngược lại chỉ làm cho họ an vui và hạnh phúc.

Chúng ta có quyền làm chuyện thiện lành, không làm chuyện quấy ác. Chúng ta có quyền an nhiên tự tại, dù  được hay dù thua, dù vui hay dù buồn, dù sướng hay dù khổ, dù có tiền hay không có tiền, dù có xe mới nhà đẹp hay dù không. Chúng ta có quyền xem vinh hoa phú quý là bèo bọt, cuộc đời là huyễn mộng, tiền bạc của cải là hoa nở hoa tàn, công hầu khanh tướng là sương mai trên đầu cỏ, tình bằng quyến thuộc là tan họp họp tan. Chúng ta có quyền thấy rằng văn minh vật chất mà không đi kèm với đạo đức của từ, bi, hỉ, xả chỉ tạo thêm đau khổ và phiền não cho con người mà thôi. Chúng ta có quyền không tham hưởng dục lạc như cõi trời, không sân hận như cõi A Tu La, cũng không ngu si mê muội như loài súc sanh. Chúng ta là những người con Phật, được sự chỉ dạy ân cần của Phật, nên biết rằng con người là những chúng sanh có đầy đủ đặc thù tối thắng tạo nên tất cả các pháp lành. Phật đã từng dạy như vậy và Phật cũng đã từng khẳng định : “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành, nếu chịu nhiếp tâm tu tỉnh cho đến giác ngộ rốt ráo. Tuy nhiên, trong mọi loài, con người có đủ điều kiện hơn hết, vì con người có trí khôn. Lại nữa, hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục, không quá vui như cõi trời và cũng không ngu si mê muội như súc sanh.”

Hãy lắng nghe những lời Phật dạy ngay từ bây giờ, chứ đừng để cho khổ đau chồng chất trong lúc chùn chân mỏi gối, thì e rằng không còn kịp nữa, hoặc giả chúng ta còn quá ít thì giờ để tự mình côũi trói. Hãy thẳn thắn nhận lỗi và sửa lỗi. Hãy can đảm đứng lên nhận trách nhiệm ngay từ bây giờ, để chấm dứt những dục vọng thôi thúc, chấm dứt những tham đắm truy cầu, chấm dứt hẳn tánh  phàm phu, chấm dứt sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và tham, sân, si. Hãy cố mà khuất phục cho được lòng tham dục tình của chính mình, khước từ trần cảnh để tìm cho được niềm chơn lạc ngay trong đời nầy kiếp nầy. Tranh đua và hơn thua nhau chi cho thêm oán thù hiềm khích. Tham danh ái dục, suốt đời dong ruỗi, rồi thì thân nầy cũng có lúc sẽ tàn tạ theo luật sinh, trụ, dị diệt.

Hãy bắt chước theo gương sống gương tu của Phật. Hãy đem lòng từ, bi, hỉ, xả, bác ái vị tha đi vào cuộc sống hằng ngày, không phân biệt thân, sơ, bạn, thù. Nếu không làm cho người được an vui hạnh phúc thì thôi, chứ đừng gây thêm não phiền khổ đau cho ai. Nếu những bước chân vô tình không tránh được sự dẫm đạp lên những sinh vật đáng thương hại thì thôi, xin đừng cố ý giết hại thêm một chúng sanh nào. Hãy nhìn Phật đó, lòng từ bi của Ngài trùm khắp cả mọi loài chúng sanh, từ hữu tình đến vô tình, từ hữu hình đến vô hình. Hãy nhìn Phật đó, Ngài luôn thanh tịnh trong mọi hoàn cảnh. Ngài dửng dưng trước những thị phi của thế sự. Ngài chưa bao giờ khinh chê hay giận hờn ai, tâm Ngài luôn tỏa hương từ, bi, hỉ, xả. Ngài đã khởi đi từ một chúng sanh như bao nhiêu chúng sanh khác, duy có điều là Ngài quyết tâm xả bỏ tất cả để ra đi tu hành và trở thành một bậc toàn giác, toàn thiện và toàn mỹ. Ngài đã lột trần toàn bộ lớp sơn giả tạo của cuộc đời, để thay vào đó bằng chơn như thường hằng của từ bi, thanh tịnh, nhẫn nhục, từ tốn, vị tha và hỉ xả.

Ngài đã thay cái tâm viên ý mã bằng những thứ đoan chánh; đoan chánh từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Ngài đã  can đảm rũ bỏ những vui, buồn, thương, ghét, ích kỷ, bỏn xẻn, sân hận, tự cao tự đại, để sống đời thanh tịnh, hỉ xả và vị tha. Như vậy muốn chấm dứt kiếp sống nô lệ cho tham, sân, si, con đường duy nhất cho chúng sanh mọi loài phải là con đường tu Phật, là con đường của vị tha, bác ái và từ bi hỉ xả. Hãy mở rộng cõi lòng ra mà thương người, thương vật như thương chính thân ta. Hãy xả bỏ từ việc lớn đến việc nhỏ; chấp chặt làm chi cho thân tâm thêm vướng mắc bất an ? Chạy theo tài sắc, danh lợi, thực thùy quá độ làm chi cho thêm mỏi mòn tấm thân ? Ham mê ngũ dục chi cho thêm sa đọa ? Chạy theo văn minh vật chất làm gì cho thêm nợ nần khổ lụy vào thân ? Hãy chối bỏ kiếp nô lệ cho tham, sân, si. Hãy tự mình cởi trói cho mình ngay từ bây giờ, để chúng ta còn có đủ thì giờ tu tâm sửa tánh. Một khi ta đã nhứt quyết không làm nô lệ cho tham, sân, si nữa thì cho dù đời có là huyễn mộng, kiếp con người dù nhanh như gió thoảng, hoặc ánh điện chớp, hoặc giấc chiêm bao, chúng ta vẫn có thể nương theo làn gió nầy, ánh điện chớp đó, hoặc giấc chiêm bao kia mà đi đến an lạc chơn thường và hạnh phúc trường cữu. Đức Từ Phụ đã khai thị cho chúng ta rất rõ ràng những phương cách từ từ, bi, hỉ, xả, bác ái, vị tha đến bố thí, trì giới, nhẫn nhục và thiền định. Vấn đề là chúng ta có chịu tự mình vượt thoát khỏi cái thân phận làm nô lệ cho tham, sân, si hay không mà thôi. Tuy nhiên, muốn sống đời vị tha, bác ái và hướng thượng; muốn có bầu trời bao la hạnh phúc; muốn an lạc và tỉnh thức; muốn tự độ, độ tha và giác hạnh viên mãn, chúng ta không có con  đường nào khác để đi, ngoài con đường từ bỏ kiếp nô lệ cho tham, sân, si nầy.

Hãy can đảm cởi trói cho chính mình và vượt thoát ra khỏi kiếp nô lệ cho tham, sân, si. Hãy tập sống đời bình dị và đơn giản như cuộc đời của Đức Thích Tôn Từ Phụ, một bình bát, ba tấm y bá nạp và một cây gậy làm bằng nhánh cây khô. Hãy sống đời khiêm cung hòa nhã, danh vọng càng thấp càng tốt, nếu là tại gia; nếu đã xuất gia, lại càng không nên ôm lòng danh vọng, vì danh vọng càng cao đạo hạnh càng thấp đi. Hãy nhìn thế sự như tuồng ảo ảnh, chẳng vui khi được, mà cũng chẳng buồn khi thua; chẳng hân hoan khi gặp thuận duyên, mà cũng chẳng sợ hãi khi gặp nghịch cảnh. Hãy thong dong tự tại, như như bất động, chẳng tư lự lo âu hay ưu phiền đau khổ, cũng chẳng miệt mài chi trong cảnh vui vầy. Chẳng khen chê hay than trách. Hãy dửng dưng như thiền sư Vạn Hạnh, trước khi đi vào cõi tịnh tịch mà Ngài còn để lại cho chúng ta một bài kệ bất hủ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dù cho ta có cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, rồi thân nầy cũng suy tàn mau chóng như một ánh điện chớp. Hãy học theo Ngài Vạn Hạnh mà buông bỏ, buông bỏ và buông bỏ. Mong cho ai nấy đều phát tâm tu trì, tự cởi trói khỏi kiếp nô lệ cho tham, sân, si, để chẳng những mình an lạc, người an lạc mà đời cũng  được an lạc. Mong cho một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh đều thoát khỏi kiếp nô lệ cho tham, sân, si để sống đời an lạc, tỉnh thức và tự tại trong niềm hạnh phúc miên trường. Mong lắm thay !

372. MA CHƯỚNG

Tự danh xưng Ta Bà cũng đủ cho chúng ta thấy rằng thế giới nầy là thế giới của khổ đau, phiền não, nghịch duyên, nghịch cảnh. Vậy thì tất cả chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy nếu muốn tu, đều phải tu từ trong ma chướng.

Đức Phật thường ví cõi Ta Bà nầy như một bể khổ mênh mông. Đại dương còn có bờ có bến, có bắt đầu và sẽ chấm dứt khi khô cạn, còn bể khổ của chúng sanh thì vô bờ vô bến, vô thỉ vô chung. Mà kỳ thật, hãy suy gẫm lại xem có ai trong chúng ta lại muốn khổ ? Thế mà từ lúc chào đời cho đến lúc tàn đời, chúng ta đã có mấy lần vui và bao lần khổ ? Sinh ra là bắt đầu khổ vì những nóng lạnh đói khát, rồi bịnh hoạn cũng khổ, rồi già cũng khổ, rồi những ám ảnh của cái chết cũng khổ. Có phải là nghịch cảnh trớ trêu hay không ? Ai trong chúng ta có muốn sanh làm con trai hay con gái mà được đâu ? Có muốn giàu sang phú quý mà được đâu ? Có muốn công hầu khanh tướng, hoặc địa vị quyền uy mà được đâu ?

Thế không là nghịch cảnh trớ trêu chứ là gì ? Cũng như đường đời, đường đạo sẽ không bằng phẳng và dễ dàng cho chúng ta đâu. Ngược lại, từ lúc bắt đầu vào đạo là ma quỷ cũng bắt đầu đến quấy phá, và chúng sẽ tiếp tục quấy phá cho đến khi nào chúng ta trôũ thành bùn, thành đất hoặc thành nước, để nhận lãnh hết những trớ trêu nghịch cảnh giáng lên đầu ta từ phía chúng, chưa chắc chúng đã chịu yên. Nếu mọi việc mọi sự đều dễ dàng, chắc thế giới nầy không còn mang tên Ta Bà nữa đâu.

Lại nữa theo luật cân bằng của vũ trụ, thì làm sao chúng ta tìm được cả hai bên bờ sông cùng bồi hoặc cùng lở một lượt ? Cũng như vậy, làm sao chỉ có thuận duyên mà không có nghịch cảnh ? Sông sâu hễ bồi bên nầy thì bên kia lở. Hễ có người được lợi, ắt có người bị thua thiệt; có người vinh, ắt có người nhục; có kẻ thắng, ắt có người thua; có vui, ắt có buồn; có khen tặng, ắt có mắng chửi, vân vân và vân vân. Người tu phải nhận ra cho rõ ràng như vậy, phải thấy từ khi có sự hiện diện của chúng sanh nói chung, và con người nói riêng, không ai giống ai, mỗi người chúng ta đều mang một cá tính riêng biệt. Vậy thì trước khi bước lên đường tu tập, đừng ai trong chúng ta mong cho được tu trong thuận duyên thuận cảnh, đừng mong cho ai cũng làm vừa bụng mình. Ngược lại, hãy mang đôi giày Phật pháp vào và lên đường mà đi thẳng vào nghịch duyên nghịch cảnh và ma chướng, dẫm đạp lên tất cả mọi chông gai thử thách để bước vào nẻo Bồ Đề.

Con người, từ cùng đinh nghèo hèn đến giàu sang tôn quý, đều cũng đã từng lăn trôi trong luân hồi sanh tử từ vô lượng kiếp. Cái gì đã đưa đẩy chúng ta hết sanh, rồi trụ, rồi dị, rồi diệt, và cứ thế mà chúng ta đi hết sanh già bịnh chết nầy đến sanh già bịnh chết khác ? Những người con Phật có nghe Phật nói gì không ? Ngài đã từng khẳng định rằng tất cả những nỗi buồn, vui, sướng, khổ… đều do tâm niệm tạo nên. Hễ tâm niệm ác thì phải đi đến tạo tác ác nghiệp và quả báo cũng phải là ác. Hễ tâm niệm thiện thì tạo tác phải thiện và kết quả phải là sự an vui.  Từ tâm niệm và tạo tác đi đến quả báo lắm khi không là hiện tiền, mà phải trải qua một đời hay nhiều đời. Tuy nhiên, quả báo là chuyện phải đến, dù sớm hay dù muộn. Hiểu được như vậy, thì chúng ta sẽ không còn phải đau khổ hay não phiền mỗi khi gặp những chướng duyên nghịch cảnh nữa. Ngược lại, ta biết rằng đây chính là những nợ nần năm cũ mà ta phải một lần trả. Nếu không bây giờ thì chừng nào đây ?

Theo đạo Phật, sở dĩ chúng sanh, nhứt là con người, cứ mãi lăn trôi trong biển khổ, là vì mãi câu chấp vào cái TA. Tưởng rằng ta thông minh tài trí nhứt thiên hạ, tưởng rằng ta là trung tâm vũ trụ. Kỳ thật TA chỉ là những con ếch ngồi đáy giếng, thấy bầu trời với vành giếng hẹp, mà cứ tưởng … Rồi từ đó chúng ta sanh ra đủ thứ từ mục hạ vô nhân, đến tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Thử hỏi mang những thứ tà vạy ấy vào trong cuộc sống sống hàng ngày, thì làm sao mà không khỏi khổ đau và phiền não cho được ? Từ vô lượng kiếp lăn trôi trước ngày có Phật, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, từ hai ngàn sáu trăm năm trở lại đây, ai trong chúng ta cũng đều có sự lựa chọn. Phật đã mở cho chúng ta sự lựa chọn rõ ràng, hoặc tham hoặc không tham, hoặc sân hoặc không sân, hoặc ngã mạn cống cao hoặc không ngã mạn, hoặc cứ mãi loanh quanh lẩn quẩn với phi pháp và vấn nan đạo pháp hoặc hãy cố mà nghe cho hiểu rồi thẳng một đường mà tu, hoặc tà kiến hoặc không tà kiến, vân vân. Là Phật tử, một khi đã thấy rõ những ma chướng và nghịch cảnh cũng như do đâu mà  có những thứ ấy, thì dù thuận hay dù nghịch, hãy cố mà vượt cho qua mới mong có ngày được an lạc hoàn toàn.

Như vậy, con đường duy nhất cho những ai muốn vượt thoát khỏi những khổ lụy của sanh tử luân hồi, phải là con đường dẫm đạp lên những chướng duyên nghịch cảnh, mà năm xưa Đức Từ Phụ đã một lần đi và đến.

Triết lý nhà Phật không phải là một thứ triết lý nói, mà là triết lý làm. Đức Phật chưa bao giờ dạy đệ tử của Ngài phải nói từ, bi, hỉ, xả, hoặc khiêm cung từ tốn.

Ngược lại, Ngài đã ân cần dạy dỗ tứ chúng, từ hàng xuất gia đến tại gia, rằng những ai nói từ, bi, hỉ, xả mà không làm từ, bi, hỉ, xả, chỉ là những cái túi chứa sách cho bọn tà ma ngoại đạo. Những ai nói khiêm cung từ tốn, mà không thực sự khiêm cung từ tốn, chỉ là trưởng dưỡng lòng ngã mạn cống cao. Những ai nói bố thí, trì giới, nhẫn nhục, mà không thật sự thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, chỉ là tự vong thân và hủy báng Phật pháp mà thôi.

Phật dạy rằng người tu theo đạo Phật, không chỉ làm lành lánh dữ là đủ, mà phải tự tịnh kỳ ý sao cho minh tâm kiến tánh. Nên nhớ rằng ba cõi cũng do tâm nầy tạo, vạn pháp cũng do thức nầy có. Vậy thì thuận duyên, nghịch cảnh hay ma chướng do đâu mà có ? Câu trả lời đã quá rõ ràng rồi còn gì ? Quả cái câu Phật dạy :”Nhứt thiết duy tâm tạo” không thể nghĩ bàn ở bất cứ không gian và thời gian nào. Tâm nầy đã tạo ra đủ thứ quay cuồng loạn động, cũng như những chướng duyên nghịch cảnh, thì cũng chính tâm nầy phải lắng nghe lời Phật dạy mà tự tịnh. Như vậy thì câu trả lời cho việc chấm dứt thế giới  quay cuồng loạn động đã quá rõ. Chúng ta, những người tu theo Phật, dù xuất gia hay tại gia, phải hiểu cho rõ những lời Phật dạy, phải quyết tâm thành Phật, phải biết kết tụ bồ đề quyến thuộc và cùng nhau tinh tấn tu hành.

Luôn nhớ rằng những lời dạy dỗ của chư Phật và chư tổ luôn là kim chỉ nam trên đường trở về quê hương chân như cho chúng sanh mọi loài. Chơn vọng hay Phật ma, coi chừng không ở đâu xa, mà là ở ngay trong mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta phải luôn tự nhớ rằng không có ai tham, ai sân, ai si, mà chỉ có sự tham, sân, si. Không có ai làm ai thống khổ, mà chỉ có sự khống chế của mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Lời khen hay lời chê, cũng như những thị phi của thường tình thế tục, chỉ gây đau khổ phiền não cho chúng ta, chứ chưa bao giờ góp được phần nào cho sự nghiệp giải thoát của chúng ta. Không phải được ai khen mà ta được lên Niết Bàn, cũng không vì bị ai chê mà ta phải đọa vào địa ngục.

Chính những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng ngay trong lòng ta là những nhân tố quyết định cho sự an lạc hay loạn động trong ta, ngay trong đời nầy kiếp nầy.

Trong chúng ta, ai lại không muốn tu theo Phật ? Tuy nhiên, tu theo Phật không phải là chuyện dễ. Thường thì chúng ta hay ưa thích những lời khen tiếng đẹp, chứ ít khi chịu nghe những lời chê trách, chứ đừng nói chi đến những lời vu khống hay mắng chưởi. Hãy bình tâm suy nghĩ lại mà xem, coi chúng ta đã bao lần lắng tai và nhứt tâm nghe những lời chê trách ? Nếu không lắng nghe  những lời chê trách, thì làm gì chúng ta có được cơ hội ôn lại tác phong, cử chỉ và cách hành xử của chính mình đối với người chung quanh. Lắm khi những chuyện xấu tệ xãy ra là do tự nơi mình, mà mình nào hay biết. Ngược lại, cứ khư khư đổ lỗi cho người. Lắm khi ngoài miệng mình nói xả bỏ, mà trong thâm tâm mình cứ ôm ấp từ tiền tài, quyền uy, danh vọng, địa vị, đến sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỹ. Lắm khi ngoài mặt thì tô son trét phấn với lớp vỏ khiêm cung từ tốn, mà bên trong chỉ toàn là ngã mạn cống cao. Lắm khi miệng thì nói từ bỏ tham, sân, si, chấp trước, mà thân tâm chỉ làm chỉ nghĩ toàn là những việc tham sân chấp trước. Thật tình mà nói, phàm phu khó bỏ lắm quý vị ạ ! Ai mà không muốn tu tâm dưỡng tánh ? Ai mà không muốn việc ác nên tránh, việc thiện nên làm ? Ai lại không muốn tự tịnh kỳ ý cho được minh tâm kiến tánh? Ngặt nỗi phàm phu khó bỏ, nên ta cứ hẹn lần hẹn lựa. Ta cứ hẹn ngày mai sẽ tu chỉnh đàng hoàng, ngày mai sẽ giúp đỡ người kia kẻ nọ, ngày mai sẽ không còn nữa những tham đắm truy cầu, sẽ quyết tâm tu hành tinh tấn, vân vân và vân vân. Nhưng “ngày mai” ấy chừng nào mới đến ? Hay ngày mai rồi cũng sẽ y như ngày hôm nay?

Hoặc giả ngày mai rồi cũng sẽ trùng trùng điệp điệp những mộng mị của ác nghiệp chất chồng ? Quý vị ơi ! Sẽ không có ngày mai nào hết, nếu chúng ta không bắt đầu bằng ngày hôm nay ! Một ngày ta sống là một ngày ta chết. Nói như vậy không có nghĩa là bi quan yếm thế.

Ngược lại, nói như vậy cho Bồ Đề tâm thêm kiên cố. Luôn nhớ một ngày trôi qua là một ngày ta đi gần đến nhà mồ.

Nếu ta cứ hẹn lần hẹn lựa, thì e rằng nghiệp cũ vẫn còn nguyên, mà nghiệp mới đã chất chồng. Quý vị ơi ! Chúng ta đã nhọc thân nhọc tâm bồi dưỡng vật chất cho thân tứ đại nầy nhiều quá rồi, chúng ta đã ngày ngày không ngừng trau chuốt nó. Tuy nhiên, hãy bình tâm mà nhìn nhận rằng đã bao lần chúng ta nuôi dưỡng phần tâm linh? Chắc là cũng có, nhưng có lấy lệ, hoặc giả ít lắm phải không quý vị ? Thân tứ đại giả hợp và tạm bợ nầy có cao lắm là trăm năm rồi cũng bỏ ta, còn tâm linh sẽ đi và đi mãi với ta vào vô lượng kiếp của luân hồi sanh tử. Tâm linh lại chính là phần tinh thần, là trung tâm điều khiển tất cả mọi thứ, từ khổ đau phiền não, đến vô não vô ưu của quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng ta chẳng những không chịu bồi dưỡng tâm linh, mà lắm khi còn đày đọa hành hạ nó với đủ thứ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng nữa là khác. Một câu nói trái tai bất ý có thể hành hạ tâm nầy hết ngày nầy qua năm khác, tội nghiệp quá hở quý vị ? Chúng ta thường tìm thấy lỗi người và bươi móc cho ra, chứ có khi nào chúng ta chịu bươi cho ra cái lỗi của chính mình đâu ? Làm như vậy không khác chi ta bươi chất độc của người ra để dồn hết vào thân tâm nầy. Cuối cùng tâm ta là cái gì, nếu không là cái thùng rác chứa tham sân si ? Thấy người sân si ta liền biết và chê trách, chứ có khi nào chúng ta soi được gương lòng để thấy sự sân hận và si mê ở ngay trong ta đâu ? Hãy bình tâm suy xét từng tâm niệm và hành động của chính mình, hầu có cơ cho ta sửa sai. Hãy chấm dứt ngay những hành động phê bình chỉ trích người khác,  cũng như dong ruổi đó đây để vấn nan đạo pháp. Hãy tự thấy lỗi mình, chứ chẳng nên thấy lỗi người. Nên nhớ rằng trên đời nầy có mấy ai toàn thiện toàn mỹ, ngoại trừ Phật? Vậy thì tốt nhất là ta phải khiêm cung từ tốn, phản quang tự kỷ để soi rọi bản tâm của chính mình, chứ không nên vạch lá tìm sâu nơi vườn người. Cuộc đời nầy vốn dĩ đã đau khổ nhiều rồi, chúng ta không nên làm cho ai đau khổ hay phiền não hơn. Dù có ai đó ác tâm vu khống và miệt thị, cũng như tìm đủ mọi cách mạ nhục chúng ta, chúng ta vẫn bình thản như như. Nếu chưa có khả năng bình thản như như được, chúng ta có thể bỏ đi nơi khác để tránh bớt phần nào phiền não. Ông bà chúng ta ngày xưa đã không từng tu như thế ấy hay sao, thế mới có câu “tránh voi không xấu mặt nào.” Hãy coi những sân si của người như những cơ duyên tốt cho ta tu tâm dưỡng tánh. Lời khen tiếng chê, lời tâng bốc hay câu chưởi rủa sân hận của người khác không làm cho ta giải thoát hay trầm luân. Giải thoát hay trầm luân là do bởi những hành vi thiện hay ác của ta mà thôi. Nghe người sân hận, la lối mắng chưởi, mà ta vẫn như như, hoặc tránh đi nơi khác, ấy là gì nếu không là giải thoát ? Ngược lại, người sân lên, ta sân lại, ấy là gì nếu là không bị người dìm sâu vào trầm luân khổ hãi ? Phật đã từng dạy : “Phiền não tức bồ đề.” Tuy nhiên, nếu chúng ta không nhận dạng được phiền não, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy được bồ đề. Cũng như vậy, nếu chúng ta không tự thấy lỗi mình, sẽ chẳng bao giờ chúng từ bỏ được tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng đâu quý vị ơi !

Biến một cái tâm tham sân si thành từ bi hỉ xả, hoặc biến cái tâm loạn động thành tâm Phật, không phải là chuyện dễ. Nhưng chúng ta tu để làm gì ? Để biến tâm chúng sanh thành tâm Phật, phải không quý vị ? Trong tâm Phật không có ngũ dục; lại không có sắc, thinh, hương, vị, xúc; lại cũng không có tiền tài, vật chất, tham đắm, truy cầu.

Tâm Phật không tưởng nhớ đến những chuyện đã qua, không lo chi việc chưa đến, cũng không đem lòng vương vấn với hiện tại. Phật đã từng dạy : “Bình thường tâm thị đạo.” Đừng tưởng thành Phật là thành cái gì đó huyền hoặc, mơ hồ, khó hiểu, khó nắm bắt. Phật là sự giác ngộ hoàn toàn, giác ngộ rốt ráo. Phật là một chúng sanh đã giác ngộ. Vậy thành Phật là thành một chúng sanh đã hoàn toàn giác ngộ, thế thôi.

Người tu theo Phật phải luôn luôn nhớ như vậy để bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên, mà theo về với chính, với chân, với đại, với viên. Làm được như vậy, chẳng những là một sự giác ngộ rốt ráo, mà tâm bồ đề của ta luôn được kiên định và phát huy. Chuyện nầy nói dễ làm khó, nhưng không phải là không thể làm được đối với những người con Phật. Người con Phật phải cương quyết buông bỏ tất cả những thị phi của thường tình thế tục, vì chúng chính là những cột kèo, vách ván, ngói của ngôi nhà lửa tam giới. Chính những thứ ấy đã biến chúng ta thành con ma Ba Tuần, có tội không biết sám hối, có lỗi lầm không chịu từ bỏ, lúc nào cũng bị danh lợi lôi cuốn, lúc nào cũng vì ngã mạn cống cao mà lê bước khắp nơi phá hoại sự thanh tịnh của người. Quý vị ơi ! Nếu chúng  ta thật sự muốn tu là chúng ta phải lội ngược, dòng đời, phải ba chân bốn cẳng chạy mau cho ra khỏi căn nhà lửa tam giới đang bừng bừng cháy. Người chưa biết tu vì không biết mà giỡn với lửa đã đành, không lý gì mà ta lại chui đầu vào rọ, không lý gì chúng ta lại tiếp tay chăm dầu vào hừng hực lửa của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm vọng… Người chưa tu như bầu trời vần vũ với những sấm chớp của tham, sân, si; người biết tu và biết tự thanh tịnh lấy mình, cũng giống như trời quang mây tạnh, không lý gì mà sấm chớp lại đùng đùng nổi lên ? Như vậy người con Phật hãy bình tâm trong mọi tình huống. Nếu người sân si với ta mà ta tự biết sức mình không chuyển hóa được người, thì hãy mau mau ba chân bốn cẳng mà bỏ đi, chứ không cớ gì mà ta sân si lại cho nghiệp chướng thêm sâu dầy. Hãy tự nhủ thầm rằng chúng sanh đa loại, họ luôn tìm đủ mọi cách để thỏa mãn tham vọng, cũng như thiên kiến, biên kiến, tà kiến hoặc sự ngã mạn cống cao của họ. Làm sao chúng ta có thể chạy theo tiếp tay cho những dục vọng ấy được ? Hãy nhìn cho kỹ để thấy rằng từ sau ngày Phật Tổ thành đạo, đã có mấy vị được công viên quả mãn ? Thấy để biết cái thế giới Ta Bà nầy nó dễ sợ lắm ! Thấy để tự cảnh tỉnh mình rằng đây là cái thế giới của tham, sân, si, hoặc của đủ thứ ma chướng và nghịch duyên nghịch cảnh. Thấy để mà tu được từ trong những ma chướng nầy, hoặc để đừng mong ai cũng thuận theo mình trong việc tu hành của mình, cũng đừng mong đường tu không gai gốc.

Không gai gốc làm sao được khi ma Ba Tuần ngày càng  nhiều trong cõi Ta Bà ? Đừng mong không bị ma chướng trong cuộc đời tu hành của mình. Nếu không ma chướng, nghịch duyên nghịch cảnh thì Phật đã không thốt ra cái câu: “Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng; đạo cao nhứt trượng, ma trịch đầu thượng.” Lại nữa, ma với đạo không bao giờ đội chung trời. Chính vì thế mà ma không bao giờ để yên cho những kẻ tu hành đâu, chúng luôn tìm đủ mọi cách phá hoại sự thanh tịnh của những kẻ tu hành chân chính, bất kỳ ở đâu và bất cứ lúc nào. Người con Phật luôn nhớ lời Phật dạy : “Không phải lúc nào người ta cũng trải chiếu bông cho ta đừng dẫm đạp lên gai gốc đâu. Ngược lại, họ còn bỏ thêm gai gốc trên đường ta đi nữa là khác.” Nhớ như vậy để đừng gặp thuận cảnh thuận duyên thì cười hỉ hả, còn gặp ma chướng, nghịch duyên hay nghịch cảnh thì vừa khóc vừa thối tâm tu trì. Hãy tự mình trang bị thân tâm bằng chánh pháp và quyết tâm tu hành không thối chuyển, thì không sợ chi gai gốc và ma chướng của Ta Bà.

Vẫn biết bản chất của phàm phu là thích thuận ghét nghịch. Trong giao tiếp hằng ngày ta chỉ ưa thích những ai vuốt ve chìu chuộng, hoặc nói theo ta, hoặc lúc nào cũng tung hô bợ đỡ ta, chứ ít khi kham nhẫn những giận hờn, bạc đãi, vu khống mắng chưởi, hoặc mạ lị… Nhưng người tu thì khác, người tu không có con đường nào để lựa chọn, ngoài việc đi ngược lại với những thứ vừa kể.

Hãy nhìn chư Phật và chư Bồ Tát, các ngài đã đi vào cõi Ta Bà và ngay cả địa ngục, mà các ngài vẫn như như tự tại. Nếu ta không xem được những tiếng chưởi rủa như  gió rít, những tị hiềm sân hận của chúng sanh như những hoa lá trên bước đường tu Phật, thì cũng không vì thế mà vướng mắc. Hãy tránh đi chỗ khác nếu ta tự biết mình không kham nhẫn nỗi những thứ ấy. Làm được như vậy thì nào có khác chi chúng ta đang thong dong tự tại đi vào cõi cực lạc vậy ! Hãy kiên trì và can đảm hơn lên hỡi những người con Phật ! Phật đã chỉ dạy rõ ràng cho chúng ta cách sống cách tu và cách buông bỏ. Bây giờ là đến phiên ta phải sống, phải tu và phải buông bỏ y như lời Phật dạy. Chỉ có tự chúng ta mới làm được những điều nầy mà thôi, chứ không ai có thể làm dùm ta được đâu, ngay cả Phật. Những người con Phật chơn thuần hãy luôn mang theo bên mình Mười Điều Bảo Vương Tam Muội của Phật mà đi thẳng vào đời, hãy sống và tu trong nghịch cảnh, không phải để tự an ủi, mà là để tự mình chuyển nghiệp một cách tích cực và không hẹn kỳ.

1) Khi nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh hoạn, vì không bịnh hoạn thì dục vọng dễ sanh.

2) Ờ đời thì đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy.

3) Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không gút mắc, vì không gút mắc thì sở học không thấu đáo.

4) Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.

5) Việc làm thì đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng hay khinh thường kiêu ngạo.

6) Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

7) Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.

8) Thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu đồ.

9) Thấy lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.

10) Oan ức không cần biện bạch, vì còn biện bạch là nhân ngã chưa xả.

373. TÂM TƯ TÌNH CẢM CỦA NGƯỞI CON PHẬT

Có nhiều người cho rằng đạo Phật bi quan, yếm thế và tiêu cực trong cuộc sống hằng ngày, nên tâm tư tình cảm của những người con Phật cũng là thứ tình cảm bi quan yếm thế và tiêu cực. Họ cho rằng người tu chỉ lo việc diệt dục, diệt tham, diệt sân, diệt si… Người tu chỉ kêu gọi sự nhẫn nhục… Nói theo họ, người tu không thể can dự vào cuộc sống hiện tại, vì nếu can dự sẽ đi ngược lại với giáo lý nhà Phật. Ờ đây chúng ta không dám nói ai sai ai đúng; tuy nhiên, chúng ta chỉ muốn nói cho mọi người hiểu rõ hơn về đạo Phật. Trước hết, đạo Phật không là đạo của bi quan, yếm thế và tiêu cực. Ngược lại, đạo Phật là một chân lý cao tột mà con người hướng thượng luôn muốn vươn tới để đạt được trọn vẹn chân lý ấy.

Đồng ý đạo Phật chủ trương diệt dục, mà là diệt những tham dục tà vạy; những dục vọng sanh ra bởi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Chứ Phật nào có biểu chúng ta diệt đi những mong muốn cao thượng?

Chính Phật Tổ đã từng khẳng định trong các kinh điển: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Từ câu dạy đơn giản mà đầy đủ ý nghĩa đó, cho chúng ta thấy rõ đạo Phật lạc quan và tích cực vô cùng. Đạo Phật là đạo của từ, bi, hỉ, xả, của trí tuệ và sự định tỉnh. Chính vì thế mà tâm tư tình cảm của người con Phật có khả năng dung hòa và chuyển hóa mọi dị biệt của con người trong mọi thời đại. Tình cảm của người con Phật là thứ tình cảm mà trong đó chỉ có chỗ  đứng cho lòng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, đại trí huệ và đại định tỉnh. Hãy suy gẫm mà xem, với tình cảm nầy, có chỗ nào người con Phật dành cho bi quan, yếm thế và tiêu cực đâu ? Kỳ thật, tình cảm người con Phật không phải là thứ tình cảm lãng mạn, vị kỷ và bề ngoài.

Ngược lại, người con Phật đi thẳng vào đời, đem lại hạnh phúc, an lạc và thanh thản, chẳng những cho chính mình, mà còn cho nhân quần xã hội nữa. Người con Phật không sống với thứ tình cảm giả dối bên ngoài; mà ngược lại, tâm tư tình cảm của người con Phật cũng chân thật như chính giáo lý của Đức Thích Tôn Từ Phụ. Tình cảm ấy tràn đầy lòng từ ái đến chúng sanh mọi loài, chứ không riêng gì loài người. Chính tình cảm ấy đã giúp người con Phật thoát khỏi mọi hận thù, bịnh tật và khổ đau phiền muộn của cuộc đời nầy. Chính tình cảm ấy cũng đã giúp người con Phật không vướng mắc vào thân thể bất tịnh và sự luyến ái bất thiện mà đa phần chúng sanh đều mắc phải. Người con Phật luôn biết dung hòa trí huệ Bát Nhã vào tình cảm của cuộc sống thường nhựt, để có một cuộc sống luôn an lạc và tỉnh thức. Vì nhận biết rằng cuộc sống nầy tạm bợ, bấp bênh; cái chết là điều chắc chắn không thể nào tránh né được, chết là mục tiêu cuối cùng của cuộc đời;sanh, già, bịnh, khổ và chết là chuyện hiển nhiên… nên người con Phật không để cho tình cảm phàm phu lấn lướt trí huệ Bát Nhã. Vì thế cho nên dù cuộc sống hiện tại có bị quay cuồng trước văn minh vật chất, người con Phật luôn biết vận dụng những lời Phật dạy vào cuộc sống một cách tài tình và tuyệt diệu. Dù khoa học kỹ  thuật có tiến bộ đến đâu, cuộc sống người con Phật vẫn vậy, vẫn hài hòa, vẫn nhịp nhàng với mọi chuyển đổi của thời cuộc. Hài hòa mà vẫn luôn giữ được những đạo đức luân lý căn bản. Cho dù thế gian với bao vật đổi sao dời, người con Phật vẫn đi thẳng vào đời bằng tấm lòng và tình cảm đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả; bằng trí huệ Bát Nhã và bằng tâm nguyện Bồ Tát. Tình cảm của người con Phật tuy không lãng mạn, rạt rào như phàm phu, nhưng nó xúc tích và sống động vô cùng. Đó chính là thứ tình cảm trong trí huệ, mà đã từ gần ba ngàn năm nay, giúp cho nhiều tổ thầy minh tâm kiến tánh và giải thoát trước gông cùm của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Người con Phật đi vào đời với đầy đủ từ, bi, hỉ, xả, trí huệ, sự định tỉnh và sự nhẫn nhục. Cũng như giáo lý Phật đà, tâm tư tình cảm người con Phật tùy duyên mà bất biến, chứ không bị lọt vào những phương thức cứng nhắc, hoặc bị chi phối bởi những giáo điều mù quáng, không hợp lý. Do sự hài hòa tài tình nầy của những người con Phật, mà cho dù có rời rạt và thiếu phương tiện, cũng như thiếu tổ chức, Phật giáo vẫn là một tôn giáo lớn đối với dân tộc Việt Nam.

Chính nhờ thứ tình cảm của trí huệ nầy, mà những người con Phật của biết bao thế hệ, đã thầm thầm tiến lên, vượt qua mọi nghịch cảnh của đời sống từ chính trị, văn hóa, đến kinh tế và xã hội; từ vật chất đến tâm linh.

Ngoài ra, tình cảm của người con Phật nó chân thật, chân thật như chính giáo lý mà Đức Từ Phụ đã giảng dạy ngót gần ba ngàn năm nay. Người con Phật luôn dùng cái
nhìn “như thị” mà nhìn mình, nhìn người và nhìn đời.

Chính vì thế mà tâm tư tình cảm của người con Phật nó cũng ngay thẳng và như thực, chứ không quanh co ngụy giả. Người con Phật không tự dối mình, dối người và dối đời. Người con Phật bộc trực những tâm tư tình cảm nầy một cách can đảm và thẳn thắn, chứ không e lệ rụt rè.

Như vậy chúng ta đã thấy quá rõ ràng khi nói đạo Phật là đạo của trí huệ, không có nghĩa là những người con Phật không có tình cảm. Kỳ thật, tâm tư tình cảm của người con Phật là tâm tư tình cảm của những Bồ Tát với đầy đủ từ, bi, hỉ, xả và kham nhẫn. Những thứ nầy luôn đi với trí huệ, chứ không ngu muội si mê như của thường tình thế tục. Thí dụ như người con Phật vì lòng từ bi mẫn chúng mà bố thí, chứ không bố thí vì phân biệt hình tướng của phàm phu. Chính vì vậy mà người con Phật chân chánh luôn thoát được móng vuốt của ngục tù tham, sân, si, thành kiến, tà kiến, biên kiến và ngã mạn cống cao.

Tóm lại, những người con Phật đi vào đời bằng tâm tư tình cảm của từ, bi, hỉ, xả trong trí huệ Bát Nhã, vì thế mà chẳng những luôn có sự quân bình giữa lý trí và tình cảm, mà còn phá tan mọi hiểu lầm về Phật giáo từ mọi phía về những cái mê mờ, dị đoan, đồng bóng, bói toán, dẫn đến thưởng phạt của thần quyền mù quáng. Chính cái tâm tư tình cảm của trí huệ Bồ Tát ấy sẽ đưa chúng ta vào nhà Như Lai, chứ không còn thứ nào khác hơn được.

Lấy trí huệ mà hành xử từ, bi, hỉ, xả và kham nhẫn là tự thanh tịnh tâm mình, là đang ở cõi nước thanh tịnh của chư Phật vậy ! Người con Phật luôn quân bình tình cảm và lý trí để chuyển hóa những ác thành thiện, những tà  thành chánh, những mê thành ngộ… Người con Phật luôn đi vào đời bằng từ, bi, hỉ, xả, trí huệ và kham nhẫn; luôn phát triển lòng thương rộng lớn đến với chúng sanh mọi loài; luôn rộng lượng khoan dung trước những lỗi lầm của người; luôn xả bỏ những biên kiến, thiên kiến, cũng như những cố chấp mê dại; luôn kham nhẫn mà sáng suốt.

Đó, tâm tư tình cảm của người con Phật chân chánh là như vậy đó. Thử hỏi làm sao mà người con Phật không an lạc, gia đình không hạnh phúc và xã hội quốc gia không hài hoà?

374. TU THIỆT

Phật giáo, một triết lý sống hạnh phúc và tu giải thoát, hơn là một tôn giáo thuần lý tín ngưỡng. Nếu chịu hằng sống với giáo lý nhà Phật, chúng ta sẽ thấy rõ ràng, Phật giáo không chủ trương trí thức, duy lý hay chỉ thiên về lễ bái tụng niệm. Ngược lại, Phật giáo chủ trương thân giáo song hành, nghĩa là lý thuyết phải đi đôi với thực hành. Đức Thích Tôn Từ Phụ đã không là một tấm gương rạng ngời cho mọi người con Phật về sau nầy hay sau ?

Suốt bốn mươi chín năm hoằng hóa khắp đó đây, mà trước giờ nhập diệt, Ngài đã khẳng định: “Ta chưa từng nói một lời nào.” Kỳ thật, Ngài chỉ sống và tu một cách thực tiển và trọn vẹn. Ngài cũng muốn cho những người con Phật về sau nầy đừng nói, đừng rằng, mà hãy sống hãy tu một cách thực tiển và trọn vẹn như Ngài. Thái độ của Đức Phật đối với cuộc sống rất rõ rệt: đời là bể khổ, không nói suông để cho cái bể khổ ấy tan đi được, mà phải đêm ngày hành trì để tận diệt cái bể khổ ấy. Như vậy ngay từ những ngày đầu lập quốc Phật, Đức Từ Phụ đã khẳng định rằng đạo Phật không nói suông, biết suông, tin suông, mà đạo Phật là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành. Nói, biết và tin mà không chịu tu trì, chẳng bằng đừng nói, đừng biết và đừng tin. Trong Phật giáo, không thể tách rời thực hành ra khỏi lý thuyết. Biết tham ái, sân hận và si mê là những nhân tố chính của luân hồi sanh tử, không làm cho chúng ta thoát được sanh tử luân hồi, mà chính chúng ta phải hành trì đêm  ngày sao cho dứt hẳn si mê, sân hận và tham ái, thì mới mong xa rời được cái vòng lẩn quẩn nầy.

Nếu thực lòng mình mà suy nghiệm thì chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã tốn quá nhiều thì giờ cũng như tiền bạc để trau tria cho cái vỏ bề của chúng ta. Chúng ta cố làm cho cái vỏ ấy trang nghiêm với dáng vẻ của một kẻ tu hành tinh tấn, nhưng kỳ thật bên trong thì rơm rác đầy nhà. Hãy suy nghĩ cho kỹ lại mà xem coi có đúng như vậy không ? Dối người thì dễ, chứ làm sao tự dối mình đây ?

Đó là chưa nói đến những kẻ buông lung phóng túng, ăn nói quàng xiên, dong ruổi phá phách, nhưng luôn tự cao tự đại rằng : “Bề ngoài coi vậy chứ bên trong tốt lắm.”

Thật là không tưởng và vô lý hết sức. Chúng ta có thể che dấu người khác, chứ tâm địa ác độc của chúng ta, không sớm thì muộn, sẽ phải hiện nguyên hình lên thân tướng chúng ta, không thô thiển thì vi tế. Rồi thì ai cũng biết cái gì đã tàng ẩn bên trong thân tướng ấy. Người thiệt tình tu phải thân giáo song hành, nghĩa là phải biết cho tường tận giáo lý nhà Phật, để thấy đâu là chánh đâu là tà, đâu là thanh tịnh đâu là loạn động, đâu là phiền não đâu là Bồ đề. Biết Phật pháp không thôi chưa đủ, phải tin và phải thực hành rốt ráo những lời Phật dạy vào cuộc sống cuộc tu hằng ngày, ấy mới là những người tu thiệt.

Trên đời nầy không thiếu chi những hạng tu giả tạo, họ cũng đến chùa, cũng tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền…, nhưng tất cả đều giả, tất cả đều là tô son trét phấn cho cái mặt nạ đời trơ trẻn của họ, tất cả chỉ là cái mốt thời thượng. Kỳ thật mặt họ vẫn đầy sắc, tai họ vẫn  đầy thanh, mũi họ vẫn đầy hương, lưỡi họ vần đầy vị và thân họ hãy còn dính đầy những xúc chạm êm ái. Người tu thiệt là người dám buông bỏ tất cả, chẳng những sắc thinh hương vị xúc pháp, mà buông cả tham ái, sân hận, si mê và chấp trước. Nói cho cùng ra, tất cả những thứ vừa kể, không có thứ nào có thể làm hại được ta, chỉ tại ta không chịu thật tâm tu hành, không chịu lắng nghe lời Phật dạy để đi theo con đường chánh đạo. Trái lại, chỉ ngày ngày dong ruổi đó đây phá phách cho thêm nặng nghiệp. Chẳng những thế, chúng ta còn chấp thân, chấp tâm, chấp pháp và chấp đủ thứ hết. Chính vì vậy mà lòng ta cứ mãi rai rức và tâm ta cứ mãi loạn động rối bời.

Người tu thiệt sẽ thầm thầm tiến tu, chứ không nói không rằng. Sắc thinh hương vị xúc pháp muôn đời vẫn là sắc thinh hương vị xúc pháp, nếu không có mắt, rai, mũi, lưỡi, thân và ý nầy cõng rắn cắn gà nhà, thì thân nầy không yên ổn và tâm nầy không tịnh lự lắm sao ?

Như vậy người tu thiệt không phân biệt tu phước, tu huệ, tu thiền hay tu mật. Tu theo cách nào cũng được, miễn là phải tu thiệt, nghĩa là phải hành trì cho thật rốt ráo cái pháp mà mình đang tu. Cuộc đời nầy sôũ dĩ có quá nhiều đau khổ phiền não, không chỉ do hoàn cảnh bên ngoài, mà còn do chính chúng ta tích cực góp phần nữa.

Thà đừng tu còn hơn là tu giôũn chơi, hay tu giả hiệu. Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, không phải là chuyện đùa cho chúng ta giôũn chơi. Thấy lỗi người, che dấu lỗi mình, khoe khoang cái hay của mình, đố kỵ và trù ém cái hay của người, cũng không phải  là chuyện đùa cho chúng ta giôũn chơi, chúng là những căn bịnh trầm kha và khó trị của thường tình thế tục.

Người tu thiệt phải thấy rõ như vậy để khỏi vướng mắc bất cứ thứ gì trong cõi nước tạm bợ nầy. Người tu thiệt sẽ luôn tự phản quang tự kỷ, tự kiểm điểm từ ý tưôũng, lời nói cũng như hành động của chính mình. Luôn chân thật với chính mình từ việc lớn đến việc nhỏ. Cho dù có tụng thiên kinh vạn quyển, niệm Phật cả đời, ngồi thiền cả kiếp, vẫn còn dong ruổi đó đây, không chịu xoay trở về ngay bản tâm của chính mình, không chịu lấy Phật pháp làm kim chỉ nam cho ý nghĩ, lời nói và việc làm của mình, thì cũng chỉ là tu giỡn chơi hay tu giả cho vui mà thôi, địa ngục vẫn cạnh kề, chứ không có chỗ nào cho giác ngộ và giải thoát đâu.

Chuyện tu nó cũng khoa học như những môn khoa học thực nghiệm khác vậy, chứ không mờ mờ ảo ảo đánh lận con đen, hoặc giả huyền bí khó tin. Muốn có cây trái phải trồng, muốn chuyển hóa khổ đau phiền não thành thanh tịnh bồ đề, phải tu, mà phải tu thiệt. Trồng cây giả không bao giờ có chuyện đơm hoa kết trái, thì tu giả còn tệ hơn thế nữa, chẳng những không được an lạc, mà còn loanh quanh lẩn quẩn với não phiền chất ngất nữa là khác. Chuyện tu thiệt nó rõ ràng, đơn giản và dễ nói như vậy đó, nhưng khó làm vô cùng.

Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo. Lời Phật dạy quả là dễ nói vô cùng, dễ đến độ đứa trẻ ba tuổi cũng nói được, nhưng những lời ấy lại khó thực hành vô cùng, khó đến độ ông cụ tám  mươi có khi vẫn chưa làm nỗi. Chính ở chỗ nầy mà lắm kẻ khinh khỉnh đó đầy vấn nan đạo pháp, không biết và không nhớ rằng một ngày ta sống là một ngày ta chết, một ngày qua đi là một ngày ta đang tiến gần đến nhà mồ. Người tu thiệt phải nhận chân rõ như vậy, để quyết chí tinh tấn thực hành Phật pháp vào cuộc sống cuộc tu hằng ngày, chứ không để cho ngày nào trôi qua trong vô ích cả. Người tu thiệt luôn tin vào kim chỉ nam Phật pháp, luôn áp dụng và thực hành Phật pháp vào cuộc sống hằng ngày, luôn cố mà nhận biết những tiềm ẩn mãnh liệt của ngũ dục ngay chính mình, không phải biết để giỡn chơi, mà biết để tinh tấn tu thiệt, biết để cải đổi những niệm xấu ác trở thành thiện lành. Người tu thiệt luôn vận dụng hết sức mình để tu trì trong mọi hoàn cảnh và tình huống, lúc nào cũng nhứt tâm tu niệm, chứ không lúc tụng kinh ngồi thiền thì tỉnh lặng, còn lúc bình thường thì thân như con lật đật và tâm vẫn ôm giữ những niệm bất thiện. Với những người tại gia, hãy còn nhiều luyến ái và mưu sinh, nên khổ đau phiền não khó mà đoạn tận cho được. Tuy nhiên, hãy cố tu làm sao để giảm thiểu, chứ đừng chất chồng thêm đau khổ, ấy cũng là được lắm rồi vậy. Hãy ráng mà tu thiệt, dù chỉ một giờ một ngày, hãy suy nghĩ cho chơn chánh, sinh sống và làm việc cho chơn chánh. Hãy luôn luôn khiêm cung từ tốn, lđộ với người trên, hoà nhã với kẻ dưới. Hãy thật lòng từ bi hỉ xả, chứ đừng nói bằng lời. Hãy yêu thương vạn loài như yêu thương chính gia đình mình, chứ đừng ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ giàu hiếp nghèo, ỷ sang hiếp hèn, ỷ khôn hiếp  dại. Hãy kính trọng tất cả mọi người vì họ đều là những vị Phật tương lai. Hãy học theo gương hạnh của Phật Tổ, phụng sự Phật pháp và chúng sanh không hề mệt mỏi.

Cho dù sống trong xã hội hôm nay thì khó mà sống được như Phật năm xưa, một bát, ba y và một cây gậy làm bằng nhánh cây khô. Không làm được như vật không có nghĩa là chúng ta mù quáng chạy theo cuộc sống suy đồi trụy lạc của hôm nay. Không ai có thể bắt chúng ta phải tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng; không ai bắt chúng ta phải tham tiền tài, vật chất của cải, danh vọng, giàu sang, phú quý. Hãy lấy chánh pháp làm hải đăng, làm chỗ tựa nương, rồi tự mình phải đi về phía ánh sáng của an lạc, giác ngộ và giải thoát. Con đường nầy, không ai đi dùm mình được, ngay cả Phật. Thời gian coi vậy mà không còn nhiều nữa đâu. Thoáng một cái là ta đã già, không còn kịp để hồi đầu tu thiệt, nếu chúng ta cứ tiếp tục dong ruổi đó đây, đùa giỡn với luân hồi sanh tử.

Nếu chúng ta cứ tiếp tục sống trong tham đắm truy cầu, thỏa mãn bản ngã và những đòi hỏi của dục vọng, hẹp hòi ích kỷ, không vị tha bác ái … thì phiền não sẽ cứ chất chồng, đến một lúc nào đó muốn tu thiệt cũng không còn kịp nữa.

Những người con Phật hãy nhìn lại chính mình xem, chúng ta có đang sống một cuộc sống xứng đáng hay không ? Chúng ta có đang thực tâm tu hành hay không, hay chỉ là giỡn chơi cho qua bữa ? Nếu không phát tâm tu theo Bồ Tát đạo, không tích cực đóng góp cho quốc gia, xã hội, nhân quần, thì ít ra chúng ta cũng ráng mà giúp  mình và giúp gia đình mình vượt thoát cơn bão lửa của tham, sân, si. Nếu những người tại gia không làm được những việc đại sự như hoằng hóa chúng sanh và phát triển đạo pháp, thì ít ra cũng phải sống phải tu như thế nào cho xứng danh là một trong tứ chúng đệ tử của Phật.

Đạo Phật không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta đâu quý vị ạ ! Ước mong duy nhất năm nào của Đấng Từ Phụ là : “Nhất thiết chúng sanh giai cọng thành Phật đạo.” Như vậy dù trong bất cứ tình huống nào, người thật tâm tu, quyết không xa rời chánh pháp. Ngược lại, quyết đem chánh pháp vào cuộc sống hằng ngày, quyết xem hạnh phúc của tha nhân là hạnh phúc của chính mình, quyết chẳng những tự mình dứt sạch mọi nghiệp chướng não phiền, mà còn giúp cho người khác biết đường nẻo mà lần về giác ngộ bồ đề. Quyết và nguyện không chưa đủ, mà hãy hành trì những hạnh lành và dẹp bỏ những điều quấy ác.

Hễ nói không sát sanh thì phải tự mình quán sát lấy mình, xem coi mình có sát hại sinh vật, xúi ai sát hại dù chỉ vô tình, hoặc thấy ai giết mình không cản mà còn sanh tâm hoan hỉ. Mỗi ngày hãy cố dành ra vài ba phút ôn lại những việc mình làm hôm đó, xem coi có đúng theo lời Phật dạy là thương yêu và bảo vệ sự sống của vạn loài hay không ? Đối với người tu thiệt, không trộm cắp thôi chưa đủ, mà còn phải xem coi mình có rộng lòng bố thí và cứu giúp những người đang cần sự cứu giúp hay chưa ? Không tà dâm để bảo vệ hạnh phúc của riêng gia đình mình thôi chưa đủ, mình còn phải khuyên lơn và giúp đỡ sao cho mọi người đều giữ được chánh hạnh.

Người tu thiệt, cải hóa đời mình ngay trong đời nầy kiếp nầy, do đó mà sự an lạc, tự tại và giải thoát cũng đến ngay trong đời sống hiện tại, chứ không đợi đến một kiếp xa xôi nào cả. Hãy cố lấy bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự mà đối với người cho dù người có đối với mình như thế nào đi nữa. Hãy gieo vào đầu của tha nhân những lời nói êm ả, rồi một ngày nào đó chính tha nhân sẽ đem những lời ái ngữ nầy ra trao lại cho nhiều người khác nữa. Hãy làm lợi cho người dù người cứ muốn làm hại ta, hãy lắng nghe người dù người không lắng nghe ta. Hãy từng giờ từng ngày sống tu như vậy, thì không lo gì chúng ta không có đủ đại hùng, đại lực, đại từ bi của nhà Phật để vượt qua bể khổ sông mê của cõi Ta Bà uế trược nầy.

Hãy cố mà tu thiệt hỡi những người con Phật !

375. CON ĐƯỜNG HƯỚNG THƯỢNG

Phật giáo có phải là một tôn giáo chỉ chú trọng đến tham thiền nhập định hay không? Thưa, tham thiền nhập định là một phương tiện thù thắng mà Đức Thế Tôn đã trao truyền lại cho hậu thế. Tuy nhiên, bên cạnh tham thiền nhập định, còn nhiều thứ mà những người con Phật phải vâng giữ và hành trì mới mong bước lên đường hướng thượng, mới mong biến Ta Bà thành Tịnh Độ, biến khổ đau thành an lạc tự tại, và phiền não thành Bồ Đề hoặc Niết Bàn. Đạo Phật sở dĩ được tồn tại đến ngày nay, chẳng phải chỉ đơn thuần nhờ vào tham thiền nhập định, mà đa phần nhờ vào những luật nghiêm giới cấm mà Đức Từ Phụ đã chỉ đạo. Cuộc sống quay cuồng vọng động của văn minh vật chất có thể mang con người lên cung trăng, hoặc những tinh cầu xa xăm, nhưng nền văn minh nầy chưa bao giờ mang lại an lạc và hạnh phúc thật sự cho con người. Ngược lại, nó càng làm cho con người, vốn dĩ đã vọng động quay cuồng, thêm quay cuồng vọng động hơn. Trong xã hội nầy, con người phải tất tả ngược xuôi vì miếng cơm manh áo cho những nhu cầu cấp thiết của cuộc sống hằng ngày. Rồi con người đi từ hết vọng động nầy đến vọng động khác. Lúc hoan hỷ reo hò trong thuận cảnh, đến khi gặp phải nghịch cảnh thì tức giận và phẩn nộ. Với cái đà luân lý đạo đức suy vi của xã hội hiện đại, có lẽ không bao lâu nữa trên mặt đất nầy không còn bóng dáng của những con người hướng thượng nữa đâu. Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, thì cám dỗ vật chất càng nhiều. Chính những hào nhoáng vật chất đã trưởng dưỡng lòng tham dục của con người. Lòng tham của con người, vốn dĩ đã vô cùng vô tận, vốn dĩ đã không có bờ bến, thế mà lại được sự hổ trợ của văn minh vật chất, lòng tham ấy tự biến thành gió cuồng sóng cuộn và cuối cùng nó biến thành những giông tố bão bùng cho xã hội nầy. Chính do bởi lòng tham dục vô cùng vô tận nầy mà con người chỉ biết chạy theo hưởng thụ, bất chấp mọi khổ đau phiền não của người khác. Kỳ thật có nhiều khi chạy theo cái gì chính mình cũng chả biết. Có nhiều khi chưa bắt được cái nầy thì đã mất cái kia, thế mà mình cũng hí hửng chạy theo. Xã hội văn minh hiện đại trục trặc như thế đấy, những người con Phật có thấy không?

Nếu những ai đã thấy, xin hãy tiếp tục bước đi trên con đường hướng thượng, mà lần về nẻo “Bồ Đề.” Những ai chưa thấy, xin hãy bình tâm suy gẫm, đừng nghĩ ngợi đâu xa, hãy quay ngay về chính mình mà suy gẫm, thì chúng ta sẽ thấy ngay sự trục trặc nầy. Không lẽ chúng ta cứ mãi quay cuồng vọng động như thế nầy sao? Không lẽ chúng ta cứ tiếp tục đào hố chôn mình sao? Không lẽ chúng ta cứ mãi lăn trôi trong tam đồ lục đạo để làm thiên lôi cho lũ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến hay sao? Không lẽ chúng ta cứ mãi làm thân nô lệ cho những bọt bèo công danh phú quí, tình ái lợi danh hay sao? Không đâu, người con Phật quyết không để cho những cái “không lẽ” ấy nó khống chế đâu. Người con Phật quyết bước lên con đường “hướng thượng” để lần về nẻo “Bồ Đề” của chư Phật.

Làm sao để bước lên con đường “hướng thượng”? Ngày xưa Đức Thích Tôn Từ Phụ đã rũ bỏ mọi thứ từ cung vàng, điện ngọc, vinh hoa, phú quí, vợ đẹp, con xinh. Ngài đã từ bỏ cả ngôi vị chúa tể giang sơn, để bước lên con đường “hướng thượng.” Ngài đã vượt thoát ra ngoài vòng thị phi phiền não, rồi từ hướng thượng, Ngài đã đi về nẻo Bồ Đề. Chính Ngài đã khai mở cho hậu thế chúng ta, chẳng những con đường sống hạnh phúc và an lạc, mà còn là con đường hướng thượng của nẻo Bồ Đề. Tấm gương rạng ngời ấy có đủ sức cho chúng ta hồi đầu không? Đủ quá chứ còn gì. Hãy vâng giữ lời Phật dạy để sống và hành động bằng tình thương và trí tuệ; để từ đầu đến chân chỉ toàn là từ, bi, hỉ, xả. Hãy nhìn vào sự vô thường của vạn pháp để buông bỏ. Hãy trực diện với khổ đau để thấy rõ bản chất thực sự của chúng. Hãy sống trong tỉnh thức để thấy rằng hễ có cái nầy, ắt có cái kia; hễ đây không có thì kia cũng không. Hãy thực tâm bước lên con đường “Hướng Thượng” mà đi, chứ đừng tranh luận viễn vông chi cho hoài công vô ích. Hãy nuôi dưỡng tâm linh mình bằng những lờI dạy dỗ ân cần của Đức Từ Phụ, để cuộc sống cuộc tu của ta luôn an lạc và tỉnh thức. Hãy rũ bỏ những dục lạc vật chất tầm thường để bước lên con đường “Hướng Thượng.” Con đường “Hướng Thượng” dù thanh bần mà lạc đạo, dù kém cõi về vật chất mà tràn đầy an lạc và thanh tịnh của đạo hạnh. Hãy can đảm bước lên hỡi những người con Phật! Chúng ta đã lâu đời lâu kiếp lăn trôi vì mê muội. Chúng ta ai rồi cũng phải tu, phải bước lên con đường “Hướng Thượng,” phải bước về nẻo “Bồ Đề.” Vậy thì chúng ta còn chờ đợi cái gì nữa đây? Hãy lắng lòng sám hối rồi mau mau lên đường. Hãy thấy rằng:

Chúng ta từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Nghiệp chướng nặng nề
Do bởi tham giận kiêu căng
Mạn nghi lầm lạc
Nay thấy ánh Từ Quang Phật Tổ
Quyết bước ngay trên con đường
“Hướng Thượng.”
Thành tâm sám hối
Tránh dữ làm lành
Nẻo về giác ngộ Bồ Đề không xa.

Hãy tránh xa ngay đường nẻo lầm than với dẫy đầy tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, cống cao. Hãy cất mình bước khỏi vũng bùn của khoắc khoải lo âu và khổ đau phiền não. Hãy tự mình hướng thượng, sửa chữa lỗi lầm trong quá khứ, làm lành lánh ác. Hãy nhìn đời bằng ánh mắt từ bi, tấm lòng hỉ xả và nụ cười khoan dung an lạc. Hãy bước theo ánh đuốc sáng ngời của Phật Tổ để đưa mình và đưa người vượt qua sông mê, bể khổ. Hãy bước thẳng lên con đường “Hướng Thượng” hầu chuyển hóa toàn bộ nghiệp chướng từ vô thỉ, để đi thẳng về nẻo Bồ Đề ngay trong đời nầy kiếp nầy. Được như vậy, cho dù chúng ta đang ở cõi dục giới Ta Bà, với những sanh, trụ, dị, diệt của vô thường, thân nầy, tâm nầy cũng đã vượt thoát bờ mé của tử sanh phiền não rồi vậy.

Con đường “Hướng Thượng” mà năm xưa Đức Từ Phụ đã xây đắp, luôn rộng mở cho những ai quyết tâm chí thành, cho những ai quan tâm đến nẻo ra vào lên xuống của luân hồi sanh tử. Người con Phật phải mạnh dạn lên để thấy nhà lửa đang cháy hừng hực; chúng sanh đang tranh giành giết chóc lẫn nhau; đang làm lính viễn chinh cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; đang oằn oại trong khổ đau mà cứ cười vui hớn hở, đang đi gần về cõi a-tỳ địa ngục mà cứ vỗ tay tán thưởng. Hãy bước ngay lên đường “Hướng Thượng,” trực diện với đời sống đầy kham nhẫn và khổ đau của cõi Ta Bà để tạo hướng đi cho tương lai của chính mình. Đừng chờ, đừng đợi, đừng ỷ lại hoặc van xin; mà hãy tự mình làm chủ lấy mình, tự mình nổ lực tu tập để thân tâm thanh tịnh theo hướng đi của chư Phật. Hãy luôn nhớ rằng tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, bỏn xẻn và ích kỷ chẳng những là những bánh xe luân hồi cho mình; mà còn gây ra bao đau khổ phiền não, thống hận cho người và cho đời nữa.

Hãy bước ngay lên đường “Hướng Thượng” cho dù phải chịu đựng thiệt thòi, vẫn cứ vui vẻ khoan dung; cho dù người có bỏn xẻn và ích kỷ, ta vẫn xả thân vì đạo, vì người, và vì đời, một cách bất vụ lợi. Hãy luôn tuân giữ các giới điều như giữ gìn con ngươi của chính mình. Hãy tự chế thân tâm, bảo vệ thân khẩu ý, đừng cho chúng tiếp tục dong ruổi nữa. Việc thiện dù nhỏ cũng quyết làm cho được. Việc ác dù nhỏ cũng biết khiếp sợ. Hãy nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, cố gắng đúng, tâm niệm đúng, nhìn đúng… thì tất nhiên tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến phải chào thua. Ngoài ra, người hướng thượng luôn thấy thân nầy nhầy nhụa, nhơ nhớp nên không câu chấp, luôn thấy mọi sự xúc chạm dù là êm ái, đều là những nhân gây ra đau khổ… Thấy như vậy để luôn an trú trong chánh niệm, luôn cố gắng tu trì, luôn tuân thủ lời Phật dạy mà hành trì bố thí, trì giới, nhẫn nhục và luôn chuyển hóa những chướng nghiệp thành thiện nghiệp, để sớm vượt qua bờ mê bến muội. Làm được như vậy thì ngay trong đời nầy kiếp nầy, đừng nói chi đến thiên đàng hay Niết Bàn, cuộc sống ta là an lành, tịnh lạc và hạnh phúc; cuộc tu ta, dù chưa đến cõi vô sanh, chưa giải thoát khỏi sự sống chết một cách triệt để, chúng ta cũng đang ở một nơi, một cõi mà nơi đó chỉ toàn là vô ưu, vô não, vô nhiễm và vô lượng từ, bi, hỉ, xả.

376. LÒNG THAM VÀ KIẾP LĂN TRÔI

Đời sống con người sở dĩ dữ nhiều lành ít; bỏn xẻn nhiều, bố thí ít; sân hận nhiều, từ bi ít; vướng mắc nhiều, hỉ xả ít; ngã mạn cống cao nhiều, khiêm cung từ tốn ít; tà kiến nhiều, chánh kiến ít… là do bởi lòng tham không cùng không tận của con người. Vì lòng tham mà con người nói riêng, và chúng sanh nói chung, cứ mãi lăn trôi tạo nghiệp. Vì lòng tham mà bướm chết vì sắc, ong chết vì mật. Vì lòng tham mà con người phải chết vì tài, sắc, danh, thực, thùy. Lòng tham là một thứ nước biển mặn, càng uống vào, con người càng cảm thấy khát, càng muốn uống thêm nữa, và cứ thế mà con người mãi miết dong ruổi đi tìm. Tìm cái gì có khi chính mình cũng chả biết, tìm chưa được cái nầy thì đã mất cái kia. Chúng ta nào biết đâu cuộc đời vô thường nầy nó qua nhanh như ánh điện chớp, hoặc giả như bóng câu qua cửa sổ. Không lẽ chúng ta được sanh làm kiếp con người mà cứ luống phí với những ác nghiệp chất chồng, để một ngày kia lăn đùng ra chết và tái sanh làm kiếp trâu, chó, hoặc sâu bọ côn trùng hay sao? Không đâu, những người con Phật không cam tâm như vậy đâu. Tại sao chúng ta lại cam tâm như vậy khi chúng ta có Phật, có Pháp, có Tăng? Với Phật pháp, nếu chúng ta biết nương theo đó mà tu trì cho rốt ráo, thì dù chưa được giải thoát, cuộc sống chúng ta cũng là an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc lắm rồi. Với những người con Phật tại gia, đâu cần đi đâu chi cho xa, chỉ cần quay ngay về với chính mình mà tu trì ngũ giới, thực hành thập thiện và những giáo pháp mà Đức Từ Phụ đã ân cần chỉ dạy, thì chính bản thân ta đã lợi lạc vô cùng rồi.

Đừng nói chi đến cái Niết Bàn xa xôi trừu tượng nào, mà hãy hằng sống hằng tu với Phật pháp, thì chúng ta sẽ thấy rằng Niết Bàn là đây, ở tại chỗ nầy và ngay trong đời nầy kiếp nầy. Chính ngũ giới và những điều thiện lành là con đường đưa tới cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc cho những đứa con tại gia của Phật. Chính ngũ giới và mười điều thiện lành là những đức hạnh tuyệt vời đoạn trừ lòng tham dục và những điều quấy ác. Như vậy nếu muốn xứng đáng là một Phật tử thuần thành, chúng ta không thể nào thiếu ngũ giới và thập thiện nghiệp: “Phi ngũ giới, phi thập thiện, bất thành Phật tử.”

Lòng tham đã đưa con người lăn trôi vô định. Ngược lại, ngũ giới và thập thiện kéo thân tâm con người quay về với đạo đức và chơn thật. Chơn thật từ thân, khẩu, đến ý. Hãy lắng lòng mà nghe theo lời dạy dỗ của Đức Từ Phụ: “Ta là một chúng sanh như muôn ngàn chúng sanh. Chỉ nhờ gắng công tu hành, gắng công đoạn diệt lòng tham, mà thành Phật. Chúng sanh mọi loài cũng là Phật sẽ thành, nếu biết cố gắng tu tỉnh và đoạn trừ lòng tham.” Đức Từ Phụ đã thấy rõ con người ra đời với hai bàn tay trắng, thân nầy giả hợp bởi tứ đại, tâm nầy cũng huyễn giả… Tham để làm cái gì? Tham cho ai? Chẳng lẽ tham cho tứ đại? Chẳng lẽ tham cho cái tâm huyễn giả? Chẳng lẽ tham cho kiếp luân hồi sanh tử? Chúng ta đã đến với kiếp con người với hai bàn tay trắng, rồi lại sẽ ra đi cũng với hai bàn tay trắng. Nếu không khéo, chẳng những ra đi với hai tay trắng, mà hai vai còn phải cỏng một gánh nghiệp báo chất chồng nữa là khác. Những người con Phật phải mau thấy như vậy, đừng tiếp tục đeo đuổi theo lòng tham và kiếp lăn trôi nữa. Tuy nhiên, thật tình mà nói, cho dù chúng ta có thấy rõ sự thể của lòng tham và kiếp lăn trôi, mấy ai trong chúng ta có khả năng quay lưng ngoảnh mặt với những cám dỗ của lòng tham? Tại sao lại như vậy? Vì lòng tham là một con ma lớn nhứt trong ba con ma tham, sân, si. Nếu không tham thì không mắc mớ gì chúng ta phải sân hận, ngã mạn, cống cao, sát, đạo, dâm, vọng… Nếu không tham thì chúng ta đã không ngu si, mê dại dong ruổi theo những dục lạc trần thế. Đã bao đời bao kiếp chúng ta mang thân làm ma tham, bây giờ biểu ta hồi đầu ngoảnh mặt, tên đại ma nầy đâu có để cho chúng ta được yên. Bởi lẽ khi ta giác ngộ rồi thì ma biết làm bạn với ai? Bởi lẽ ánh sáng chơn lý lan tới chỗ nào thì ma quân tan nát rã rời đến đó. Vì thế cho nên ma tham sẽ tìm đủ mọi cách trì kéo, quyết không cho chúng ta hồi đầu nghoảnh mặt lại với chúng. Như vậy chuyện quay lưng ngoảnh mặt với lòng tham quả là thiên nan vạn nan, nhưng không lẽ vì thiên nan vạn nan mà chúng ta cam tâm tiếp tục lăn trôi trong luân hồi sanh tử hay sao? Hãy bình tâm suy nghĩ để thấy rằng trong những thứ tài, sắc, danh, lợi, thực, thùy, thứ nào là nhu yếu phẩm và thứ nào là xa xỉ phẩm? Tài chăng? Sắc chăng? Danh chăng? Lợi chăng? Chúng chỉ là những nhu yếu phẩm cho kiếp lăn trôi mà thôi. Còn thực và thùy thì sao? Ăn và ngủ quả là cần thiết cho cuộc sống hằng ngày, nhưng trong suốt cuộc đời, chúng ta đã có đến hơn một phần ba thời gian cho ngủ nghỉ rồi còn gì? Còn ăn cho ai? Đồng ý thân tứ đại cần được nuôi dưỡng cho mạnh khoẻ thì chúng ta mới nương vào đó mà tiến tu được; tuy nhiên, ăn để sống, để tu, chứ không phải sống để ăn, để hưởng thụ khoái lạc. Phật tử chúng ta phải thấy cho rõ như vậy để không bị lòng tham tiếp tục xô đẩy ta cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, để rồi cuối cùng phải nhận lãnh quả khổ đau phiền não. Nếu chúng ta xem việc lăn trôi là dĩ nhiên và không quan trọng thì không còn gì để bàn với nói nữa. Ví bằng ta thấy tiếp tục lăn trôi là trục trặc, tiếp tục tham đắm tài, sắc, danh, lợi, thực, thùy là tiếp tục xô đẩy mình vào khổ đau phiền não, chẳng những cho mình mà còn cho người và cho đời nữa. Xin hãy hồi đầu ngay từ bây giờ, chứ đừng chờ đừng đợi. Mưa vô thường vẫn rơi, gió vô thường vẫn thổi, chứ chúng có chờ có đợi ai đâu mà chúng ta chần chừ? Hãy suy nghĩ cho kỹ lại xem cái gì sẽ đi theo ta như hình với bóng trong kiếp luân hồi sanh tử của ta? Thân tứ đại hay tâm linh tánh tình? Ai trong chúng ta cũng đều biết rõ ràng câu trả lời, thế mà chúng ta vẫn ngày ngày trau tria cho thân nầy, ngày ngày vẫn cứ tham. Tham cho mình không chưa đủ, bèn tham cho anh em, cha mẹ, vợ chồng con cái, thân bằng quyến thuộc. Hơn thế nữa, vì tham mà con người phải vào sanh ra tử trong vũng lầy ngũ dục. Hết chụp cái nầy đến bắt cái kia, lặn hụp theo sự thôi thúc của lòng tham không cùng không tận. Vì tham mà con người cứ đuổi bắt những thứ vật dục tầm thường của trần thế, để rồi chẳng những phải mang họa vào thân, mà còn mãi mãi lăn trôi trong vòng sanh tử. Nào có biết đâu rằng lòng tham chính là ma chướng ngăn chận chân tâm, là mây mù ngăn che kiến tánh. Đừng tiếp tục ngơ ngác trên bước đường sanh tử nữa hỡi những người con Phật! Hãy thấy cho rõ rằng đời vô thường, vạn vật vô thường, thân tứ đại giả hợp, tâm huyễn giả, vậy thì chúng ta tham cho ai? Cho cái gì đây? Đời người vốn dĩ như giấc chiêm bao, như làn điển chớp, như gió thoảng mây bay, như hoa nở hoa tàn. Từng tuổi nầy chắc ai trong chúng ta cũng đều dư biết rằng trên đời nầy tiếng khóc nhiều hơn tiếng cười, khổ nhiều hơn vui, thất vọng nhiều hơn thỏa mãn… Không lẽ chúng ta đợi cho đến lúc lom khom, lụm khụm, chân mỏi, gối chùn rồi chúng ta mới chịu tu? Tới lúc đó e rằng dã quá trể quá muộn rồi. Thân gầy còm còn lo chưa xong, hơi sức đâu, trí óc đâu, linh mẫn đâu nữa mà tu với hành?

Những người con Phật, nếu muốn vượt thoát khỏi lòng tham và kiếp lăn trôi, để có được cuộc sống an lạc, tỉnh thức, hạnh phúc và cuộc tu giải thoát, ngay từ bây giờ hãy quay ngay trở về tự hỏi nơi chính mình xem coi mình có lấy tâm, hạnh, nguyện và đức Phật làm tâm, hạnh, nguyện và đức của chính mình hay chưa? Phật Tổ và mười phương tam tế chư Phật đã từng phá vỡ bức tường thành kiên cố tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng bằng với tâm, hạnh, nguyện và đức ấy, chúng ta há có con đường nào khác? Hãy tự hỏi chính mình xem coi thay vì tham, sân, si, chúng ta có thể thay vào đó bằng từ, bi, hỉ, xả hay không? Thay vì ích kỷ, bỏn xẻn, chúng ta có thể vị tha bác ái và quảng đại với chúng sanh mọi loài hay không? Thay vì sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, rượu chè be bét, chúng ta có thể phóng sanh, bố thí, đoan trang chánh trực, nói lời ái ngừ, chơn thật và sống đời gương mẫu được hay không? Lòng tham và văn minh vật chất có thể đưa con người tới những tinh cầu xa xôi, chứ không và sẽ không bao giờ mang lại cho chúng ta sự an ổn trong tâm hồn. Chỉ có những giáo pháp của Đức Từ Phụ mới có thể rưới mát và tẩy sạch những loạn động và những cặn cáu đã tích tụ từ vô thỉ của chúng sanh mà thôi. Mong cho ai nấy đều cùng về nương nơi ánh đạo vàng của Phật Tổ, tự tìm cho mình một ánh bình minh của an lạc và hạnh phúc, trong tinh thần đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả của nhà Phật.

377. TÙ TRONG LỤC ĐẠO

Kiếp con người nếu đem so sánh với thời gian của vũ trụ thì nào có khác chi ánh điển chớp, hoặc sương mai trên đầu cỏ, hoặc gió thoảnh mây bay, hoặc hoa nở hoa tàn. Tuy nhiên, chư Phật và chư Tổ đã tận dụng được ánh điển chớp ấy, các Ngài đã không để cho thời gian luống qua vô ích. Ngược lại, các Ngài đã từng sát na, từng giây, từng phút, từng giờ… phát triển khả năng thăng hoa đạo đức cho cuộc tu hành giải thoát. Chúng ta là những người hậu bối, thừa hưởng cả một gia tài pháp bảo, chẳng lẽ cam tâm để cho thời gian luống qua vô bổ, như vậy chúng ta nào có khác chi những chúng sanh vô tri vô giác? Chẳng lẽ chúng ta cam tâm để mặc cho mưa sa nắng táp cho đến hết đời? Chẳng lẽ chúng ta cứ loanh quanh lẩn quẩn trong lao tù lục đạo?

Tại sao lại gọi cuộc sống nầy là lao tù lục đạo? Chữ lao tù có nghĩa là bị giam hãm, không được tự do. Lao tù lục đạo có nghĩa là bị giam hãm trong ba cõi sáu đường. Hãy bình tâm suy nghĩ lại mà xem thì chúng ta sẽ thấy tất cả những gì thuộc về thường tình thế tục đều giả tạm. Có cuộc vui nào không tàn, có vật chất nào còn mãi, có nhan sắc nào không phai..? Thế nhưng chúng ta vô tình hay cố ý không chịu quán sát. Ngược lại, chúng ta cúi đầu cam tâm tự mình làm nô lệ cho những thứ giả tạm ấy, tự mình nhốt mình trong lao tù lục đạo. Hãy bình tâm quán sát đi rồi sẽ thấy thân nầy rồi sẽ tàn phai. Cho dù ta có đem lụa là gấm vóc bao che, nó vẫn là một đống tứ đại bất tịnh và nhơ nhớp. Cho dù ta có đem sơn hào hải vị chu cấp cho nó, nó vẫn là một khối xương thịt nhầy nhụa. Cho dù chúng ta có tô son trét phấn thế mấy đi nữa, nó vẫn không hơn gì một cái túi da đựng xương, thịt, phân, nước tiểu, ghèn, mũi dãi và vô số những vi trùng tai hại… Thực vật để bên ngoài hay bên trong tủ lạnh còn được vài hôm mới bất tịnh, chứ đưa vào tứ đại hôm trước, đến hôm sau thải ra là không ai chịu được. Nói như vậy không có nghĩa là biểu chúng ta bỏ mặc đừng lo lắng chăm sóc thân nầy. Những người con Phật chơn thuần cũng ăn, cũng mặc, cũng chăm lo cho thân tứ đại, nhưng ăn, mặc, ngủ, nghỉ để mà sống, sống để mà tu, chứ không cam tâm làm nô lệ cho ăn uống ngủ nghỉ, để rồi tự nhốt mình trong lao tù lục đạo. Mục tiêu tối hậu của người tu Phật là giải thoát và mục tiêu trước mắt là được sống trong an lành hạnh phúc với đạo lý từ bi hỉ xả, vị tha, bác ái, nhu hòa nhẫn nhục… Hãy nhìn vào tấm gương rạng ngời của Phật, vì muốn thoát ra khỏi lao tù lục đạo mà Ngài đã từ bỏ tất cả phú quý vinh hoa, quyền uy và danh vọng của vương triều để sống đời du tăng khất sĩ. Đâu phải Ngài không biết hưởng thụ, nhưng Ngài đã thấy rồi tất cả chỉ là giả tạm phù du. Ngài đã thấy rồi thân nầy uế trược, tâm nầy dong ruổi, nhưng dong ruổi trong lao tù lục đạo. Lúc vui, khi buồn, lúc thương, khi ghét. Thấy cái gì đẹp thì sanh tâm ưa thích, thấy cái gì xấu thì sanh tâm ghét bỏ. Hễ ưa thích cái gì là muốn gom góp hết về phần mình, hễ chán ghét cái gì thì muốn đùa hết qua cho người. Nhưng trần lao của thường tình thế tục nào có chìu lòng phàm phu. Cái ưa khó đến, cái ghét khó đi. Chính vì thế mà chúng ta cứ đi hết khổ đau nầy đến phiền não kia. Hãy ráng mà thấy cho được hỡi những người con Phật! Tất cả vũ trụ vạn vật chỉ do duyên hợp duyên tan, thân tứ đại và tâm viên ý mã nầy cũng không chạy ra ngoài cái định luật duyên hợp duyên tan nầy đâu.

Nhưng duyên do đâu mà hợp và từ đâu mà tan? Nếu chúng ta cam tâm tự nguyện nhốt mình trong lao tù lục đạo thì còn gì để nói, cứ tự nhiên phân biệt, chấp trước, cống cao, ngã mạn, tham, sân, si, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng; cứ tự nhiên dong ruổi đó đây gây phiền chuốc não, làm loạn động đồng đạo, hoặc cứ tự nhiên phá chùa phá đạo. Ví bằng muốn thoát ra cho khỏi lao tù lục đạo như Thế Tôn đã thoát ra năm xưa, xin hãy y nương và hành trì những giáo pháp của Ngài. Xin đừng vì cái thân bất tịnh, cái tâm vô thường mà tiếp tục làm nô lệ cho tham, sân, si nữa. Xin hãy thầm thầm loại trừ những thú tánh tham dục si mê mà tiến dần về chỗ hướng thượng. Tuy nhiên, chúng ta từ bao kiếp đã ưng lăn trôi trong lao tù lục đạo, nay biểu thoát ra ngay không phải là chuyện dễ. Không dễ không có nghĩa là không làm được, vì Đức Thích Tôn Từ Phụ và chư Tổ đã làm được, chúng ta là hậu bối của quý Ngài, cũng phải cố gắng chứ! Nếu không loại trừ được những thứ độc hại ấy ngay, thì ít nhứt chúng ta phải cố gắng giảm thiểu chứ. Phật Tổ đã từng là một hoàng tử với đủ thứ vật chất quyền uy, cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, thế mà Ngài còn can đảm rũ bỏ tất cả. Ngài đã chế ngự được toàn bộ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng nơi chính thân tâm Ngài, thế nên Ngài đã vươn lên thành Phật ngay trong cõi Ta Bà nầy. Ngài đã vươn lên như một bông sen vươn lên từ trong đầm lầy nhơ nhớp. Còn chúng ta là cái gì so với Ngài? Thế mà chúng lại cam tâm để cho tham, sân, si… khống chế và tự lao mình vào trong lao tù lục đạo. Cuộc đời Đức Phật không đủ chứng minh cho chúng ta về một cuộc sống chơn thường an lạc và cuộc tu vĩnh hằng giải thoát hay sao? Nếu không có khả năng và công đức thoát ra khỏi lao tù lục đạo, thì ít nhất những người con Phật phải lắng nghe lời dạy dỗ của Ngài: “Hỡi các con! Hãy tỉnh dậy! Hãy hướng về lẽ phải, dẹp bỏ dục vọng, giữ gìn ngũ giới thập thiện. Đừng nói chi đến Niết Bàn xa xôi, chỉ cần có vậy thôi, là cũng đủ cho cuộc sống các con an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc lắm rồi vậỵ.”

378. NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI TU NHƯ THẾ NÀO?

Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Từ Phụ đã khẳng định: “Nhơn thị tối thắng, năng sanh nhứt thiết chư thiện pháp.” Nghĩa là con người là hơn hết trong muôn loài vì con người có khả năng tạo nên tất cả những pháp lành. Tuy nhiên, từ vô thỉ con người đã lăn trôi tạo nghiệp, thiện nghiệp thì ít mà ác nghiệp thì nhiều. Do bởi vô minh che mờ nên thay vì tạo những pháp lành, thì chúng ta lại tạo toàn là ác pháp. Thay vì sống một cuộc sống có định hướng, thì chúng ta cứ để cho đời mình trôi lều bều như những khóm lục bình, hoặc những đám mây trôi lang thang vô định. Chúng ta là những chúng sanh hữu tình, nghĩa là chúng ta có đầy đủ tình cảm và lý trí, thế thì tại sao chúng ta lại cam tâm làm kiếp lăn trôi như loài vô tình? Tại sao lại như vậy? Phật đã không từng là một chúng sanh hay sao? Thế sao Ngài được thành Phật? Nói cho cùng ra, Phật và chúng sanh chỉ khác nhau ở chỗ ngộ và mê. Thái tử Tất Đạt Ta thành Phật vì Ngài đã ngộ. Ngài đã thấy rồi thế gian vạn vật vô thường, nên Ngài không vong thân làm nô lệ cho dục lạc trần gian. Ngài thấy chúng sanh muôn loài vốn dĩ đã khổ phải khổ thêm vì sự khống chế của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, nên Ngài đã dứt khoát dứt bỏ phàm tình và nguyện sống đời từ bi hỉ xả với tràn đầy vị tha bác ái. Vì không muốn trôi lều bều như những khóm lục bình, hoặc những đám mây lang thang vô định, nên Ngài quyết định hướng đi hướng thượng cho đời mình, quyết điều phục thân tâm sao cho những ham muốn của thế gian không lôi kéo được Ngài. Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, cũng như uy quyền tột đỉnh, để làm thân “khất sĩ cô đơn vạn lý du.” Cuối cùng Ngài đã vượt thắng cả nội ma lẫn ngoại chướng và đã thành Phật. Ngài với nhiều kiếp đời trước đã tu và kiếp sau cùng cũng đã tu như thế ấy, thử hỏi người con Phật hậu bối chúng ta phải tu như thế nào?

Phật tử hậu bối chúng ta, Phải nhận thức ra rằng những tham vọng ích kỷ, cũng như những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… chính là những nhân tố gây nên khổ đau phiền não cho nhân loại tự thuở giờ. Bây giờ nếu muốn vượt thoát khỏi khổ đau não phiền, con đường duy nhất của chúng ta là con đường bước theo dấu chân Đấng Từ Phụ, phải buông bỏ tất cả những gì của thường tình thế tục, phải tu tâm dưỡng tánh, phải đoạn trừ dục tình của phàm tâm và cởi bỏ tất cả những xiềng xích của ngã mạn cống cao … thì tự nhiên bóng tối của vô minh sẽ từ từ tan biến, để nhường chỗ lại cho ánh sáng của nguồn sống an lạc với lòng từ bi bao la vô hạn.

Làm sao để bước theo dấu chân của Đấng Từ Phụ? Thói quen của chúng ta là hành xử theo phàm trí của chính mình. Mà phàm trí của mình là gì nếu không là thị phi hơn thiệt, là danh vọng dục tình, là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Phàm trí có bao giờ chịu học hỏi những điều hay lẽ phải để phân định chơn vọng, chánh tà, thiện ác đâu? Phàm trí chỉ biết độc đoán, chê bai, chỉ biết ta là trung tâm vũ trụ, còn thì mục hạ vô nhân. Phàm trí chỉ biết gom góp tiền của danh vị cho thật nhiều, bất chấp những rên xiết khổ đau của người. Phàm trí chỉ biết chinh phục kẻ khác mà chẳng bao giờ dám tự chinh phục lấy mình. Phàm trí chỉ thấy lỗi người, chứ chẳng bao giờ thấy được lỗi mình. Phàm trí chỉ biết học cho thật nhiều để phô trương loè mắt thiên hạ, chớ không bao giờ biết tu. Không bút mực nào có thể diễn tả hết được về phàm trí đâu quý vị ơi! Nói tựu trung lại, phàm trí có khả năng đưa con người vốn dĩ đã u mê, đi vào mê lộ của khổ đau phiền não. Nghĩa là phàm trí có khả năng trang bị cho con người tham dục và xô đẩy con người vào vòng luân hồi sanh tử bất tận. Bây giờ những Phật tử hậu bối như chúng ta, muốn buông bỏ thường tình thế tục, để lần bước theo Phật Tổ Gotama, con đường duy nhất là phải về nương nơi Tam Bảo. Về nương ở đây không có nghĩa là lệ thuộc hoặc mù quáng tin theo những giáo điều lỗi thời không hợp lý. Về nương Tam Bảo ở đây nghĩa là hãy quay ngay về với Phật, Pháp, Tăng để có cơ nghe những gì một thời đã được nói ra từ chính bậc đã giải thoát, nghe xong rồi tự mình suy nhĩ xem coi trong những chân lý ấy, thứ nào thích hợp nhất với chúng ta, rồi từ đó y nương theo mà tu hành. Thiền, Tịnh, Mật gì cũng được, miễn là thích hợp với mình. Đừng thấy ai sao tôi vậy, cũng đừng nên bắt ép mình phải theo một pháp nào mà mình không thực hành nỗi. Chẳng những nương theo giáo lý của Phật Tổ qua kinh điển, mà hàng Phật tử hậu bối chúng ta cũng cần phải nương theo tu trì với một minh sư, vì ngoại trừ Phật ra, có lẽ ai trong chúng ta cũng đều phải nhờ đến thầy tổ mới mong tu đúng hướng, hành đúng đường được. Như vậy quy y Tam Bảo là không thể thiếu được với bất cứ người con Phật nào. Tuy nhiên, quy-y Tam Bảo không nhứt thiết phải là xuất gia. Đức Từ Phụ đã khẳng định rõ ràng trong các kinh điển của Ngài về tứ chúng: “Tăng, Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di.” Trong hàng tín đồ Phật giáo, đa phần là tại gia, chưa được một phần ngàn xuất gia. Xuất gia là thực hành phẩm hạnh cúng dường cao tột nhứt lên chư Phật và chúng sanh; đem cả thân tâm hành trì chánh pháp không mỏi mệt, không thối chuyển, để trước nhất cầu học cầu tu Phật đạo và sau đó là hóa độ chúng sanh mọi loài. Xuất gia là xả bỏ hết mọi lợi danh, vật dục ở đời để sống và tu đời thanh bần lạc đạo. Người con Phật xuất gia là một bông sen quyết vươn lên khỏi bùn lầy nhơ nhớp và nở tỏa ra những hương thơm ngạt ngào. Người xuất gia vì đã thấy rõ rồi thế gian giả hợp vô thường, nên quyết lấy lời Phật làm lời mình, lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy hạnh Phật làm hạnh mình và lấy nguyện Phật làm nguyện mình, những mong nối gót Phật Tổ mà lần về nẻo giác ngô giải thoát. Ngoài ra, tăng ni còn là những bậc thầy giáo đạo về tinh thần cho chúng ta. Các ngài sẽ luôn có mặt để khuyên răn chúng ta những gì nên làm và những gì nên tránh. Các ngài đã thấy cuộc sống bất an cũng như những khổ đau phiền não là do bởi tham ái và dục vọng của con người mà ra. Các ngài đã thấy cuộc đời vui ít buồn nhiều, chỉ có cuộc tu mới là miên trường an lạc. Chúng ta, những đứa con tại gia, cho dù chưa tập tành được những hạnh nguyện của người xuất gia, nhưng ít ra cũng phải giữ được Tam Quy Ngũ Giới. Hoặc giả nếu không giữ được ngũ giới, ít nhất chúng ta phải ráng giữ càng nhiều giới càng tốt, chúng ta cũng phải nêu cao được lẽ sống tình thương giữa người và người, cũng như giữa con người và chúng sanh mọi loài. Nghĩa là ít nhứt phải ráng giữ cho được giới không cố ý sát sanh hại vật. Mỗi chúng sanh đều có một sinh mạng như nhau, dù là mạng người hay mạng thú, cũng đều tham sanh úy tử như nhau. Không lý gì vì mạng người mà chúng ta lại đi giết hại mạng thú hay sao? Ngoài ra, chính Phật đã nói trong Kinh Nhân Quả: “Sát sanh thì chịu quả báo. Giết người phải đền mạng.” Như vậy nếu cứ giết rồi phải đền mạng, rồi giết rồi đền mạng, thì biết đến bao giờ cái vòng lẩn quẩn ấy mới dứt cho được? Thấy như vậy người con Phật quyết không sát sanh, không xúi biểu ai sát sanh, hoặc không thấy ai sát sanh mà vui theo. Ngược lại, người con Phật phải phóng sanh nếu có điều kiện và cơ duyên. Trong Kinh Bồ Tát Giới, Đức Từ Phụ đã dạy : “Hãy lấy từ bi mà thương xót mọi loài chúng sanh, chẳng những không sát sanh, mà còn phóng sanh nữa, vì tất cả đàn ông đã từng là cha ta và tất cả đàn bà cũng đã từng là mẹ ta.” Người tu theo Phật mà làm được cả hai việc: không sát sanh mà ngược lại chỉ một bề phóng sanh, là đã làm được hai trong ba đại pháp của nhà Phật, nghĩa là không hành ác, mà hành thiện.

Chúng ta đã rảo khắp các nẻo đường trần thế từ trong vô lượng kiếp, nhưng khó mà tìm được tình đời chân thật, thế thì tại sao chúng ta lại góp phần làm cho thế giới Ta Bà gian trá nầy gian trá thêm? Vẫn biết vì lòng tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn mà chúng ta ăn dối nói trá, lường gạt trộm cướp, không nghĩ gì đến sự đau khổ của kẻ khác. Đó là thường tình thế tục, còn những đứa con Phật hậu bối chúng ta phải tu như thế nào chứ? Dẫu biết rằng văn minh vật chất càng cao thì nhu cầu thiết yếu hằng ngày của con người càng nhiều. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta phải gạt lường hay trộm đạo để có đủ vật chất cung phụng cho thân nầy. Phật đã không từng dạy trong các thứ độc, tham đứng đầu. Trộm cướp, lường gạt, buôn bán gian xảo, cân bảy ra mười… cũng chỉ là những tạo tác từ ý nghĩ tham mà ra. Nhưng làm sao để những đứa con tại gia không tham lam, trộm cướp và lường gạt đây? Lấy của người mà không được người đồng ý, hoặc dùng mưu chước mà lấy, hoặc dùng vũ lực mà lấy, tất cả đều là trộm cướp. Tài sản của cải của người là do công sức cũng như mồ hôi nước mắt của người làm ra, mọi sự mất mát đều gây đau khổ cho người. Ngay cả chuyện mua đồ với giá cắt cổ, khi về nghĩ lại cũng thấy buồn thấy tiếc, hoặc khổ đau phiền não, huống là bị mất trộm, mất cướp, mất lường gạt… Làm người con Phật, không phải không được quyền buôn bán kiếm lời; tuy nhiên, lời làm sao cho hữu lý. Dùng lời ngon tiếng ngọt để dụ dỗ lường gạt người là một sự trộm cắp tệ hại nhứt. Cũng như vậy, Phật dạy những người làm những công việc lấy công làm lời như mua bán vàng bạc hay quý kim, chỉ nên lấy công làm lời, chớ không nên đánh tráo hay pha chế đồ xấu vào. Hãy lấy đạo đức và niềm tin cậy mà làm ăn lâu dài, chứ đừng gian tham trộm cắp. Trộm cắp như vậy có thể người không biết, nhưng làm sao mình không biết? Làm sao mình sống cho yên ổn được với cái lương tâm luôn dày vò cắn rứt? Người con Phật chẳng những không trộm cắp, không lường gạt, không kiếm tiền do tham lam…, mà còn dùng tiền của chân chánh mình kiếm được cho việc phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ bạn bè thân hữu, cúng dường Tam Bảo, và bố thí cho những kẻ cơ hàn. Nên nhớ rằng cho dù có đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền hết cả một đời, mà vẫn còn trộm cắp, dù bất cứ dưới hình thức nào (mua gian bán lận, khai gian khai man để vừa lãnh trợ cấp vừa kinh doanh business, ăn trên sự còng lưng đóng thuế của người khác, hay lường gạt trộm cướp vẫn đồng một thể), vẫn là những con ma trơi không hơn không kém. Người con Phật quyết không làm những con ma trơi ấy. Ngược lại, người con Phật còn chia sẻ những gì mình có với người chung quanh. Có tiền thì chia sẻ tiền với người nghèo. Có thức ăn thì chia sẻ thức ăn với những người đói khát. Có áo quần thì chia sẻ áo quần với những kẻ cơ hàn. Có hiểu biết thì đem sự hiểu biết của mình ra mà chia sẻ với mọi người, làm cho ai nấy đều được sự lợi lạc. Những người con Phật chơn thuần luôn thầm thầm theo dõi tâm tánh mình, từ thô thiển đến vi tế, xem coi hạt giống tham lam bỏn xẻn còn tiềm ẩn đâu đó trong ta hay không? Thấy để mà cương quyết diệt trừ, vì dù muốn hay không muốn, chúng ta rồi cũng sẽ phải một lần diệt trừ cái tật đố tham lam, bỏn xẻn nầy. Vậy thì chúng ta còn chần chờ gì nữa hỡi những người con Phật?

Đức Phật đã từng dạy chúng đệ tử là thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Nay đã được mang thân người đã là một điều quý báu, lại được gặp Phật pháp, nếu chưa có đầy đủ cơ duyên xuất gia tu giải thoát, thì ít ra cũng phải cố gắng sống và tu cho tròn nhân đạo. Cuộc đời của cõi Ta Bà huyễn mộng nầy vui ít khổ nhiều đa phần cũng do bởi vô minh che lấp, nên thói thường thiên hạ chỉ trau chuốc những lời nói hoặc oai nghi bề ngoài, mà quên mất đi những ý tưởng và tâm niệm từ bên trong. Chính ý tưởng và tâm niệm bên trong nầy mới nắm phần chủ động trên tất cả. Nếu chúng ta chưa tập tành được những đức tánh của người xuất gia, thì ít nhứt cũng phải ráng làm sao giảm thiểu tà niệm. Nếu mình không giúp được chúng sanh mọi loài hướng thượng, thì ít nhứt tự mình cũng phải tập tành hướng thượng. Nếu mình chưa tu đạo giải thoát được như các bậc xuất gia, thì ít nhất cũng phải cố mà gieo nhân giải thoát. Nếu tự thân chưa làm được ngọn hải đăng soi bước cho quần sanh, thì ít nhất chúng ta cũng phải cố lần theo ánh đạo vàng của Phật Tổ năm xưa. Năm xưa Đức Thế Tôn đã bao lần nhắc nhở chúng đệ tử rằng : “Những đứa con Phật chưa đủ duyên xuất gia tu đạo giải thoát thì vẫn có thể tu hành tại gia được; tuy nhiên, muốn làm tròn nhân cách của một người Phật tử, trước hết phải sống sao cho tròn đầy nhân cách của một con người, nghĩa là phải sống làm sao cho tròn đầy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Một khi nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đã tròn đầy rồi, thì phải ráng trì giữ cho được Tam Quy Ngũ Giới, mà phải giữ cho tròn đầy, nghĩa là tự mình không hành động tà vạy, không bảo người hành động tà vạy, không thấy người hành động tà vạy mà sanh tâm hoan hỉ. Làm được như vậy là chúng ta đã làm tròn được nhân cách của một con người. Nói là nhân cách của một con người, nhưng kỳ thật những thứ nầy cũng là những nhân giải thoát trong mai hậu của chúng ta. Quý vị ơi! Dù xuất gia hay tại gia, cuộc sống cuộc tu của chúng ta phải trải qua quá nhiều não loạn. Chỉ trong một giờ đồng hồ trôi qua, tâm ta đã chất chồng với biết bao nhiêu vui, buồn, thương, ghét, giận hờn, lo toan, mưu tính… Thử hỏi từ vô lượng kiếp đã trôi qua, vậy thì chúng ta đã có đến bao nhiêu đau khổ phiền não chất chồng? Như vậy con đường thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não để đạt đến sự giác ngộ và giải thoát không phải là chuyện dễ, cũng không phải là chuyện của một ngày một bữa. Thật tình mà nói, nếu không có kim ngôn ngọc ngữ của Đức Từ Phụ, thiết tưởng giờ nầy chúng ta không có con đường nào khác để mà lựa chọn ngoài mê đồ tăm tối. Đức Từ Phụ đã lập đi lập lại quá nhiều lần về khả năng tu tập và giải thoát của mọi người, tu hay không tu là tùy ở chính chúng ta, chứ đừng dong dài văn tự nữa. Đạo Phật không dành riêng cho chư tăng ni, chứ không dành riêng cho những kẻ chán đời, cũng không dành riêng cho ông già bà cả. Đạo Phật là đạo của tất cả mọi chúng sanh với cùng tâm niệm: hướng thượng, giác ngộ và giải thoát. Phật đã từng khẳng định Ngài chỉ là một đạo sư hướng đạo, chứ không phải là thần quyền ban phước giáng họa. Vậy thì người con Phật chơn thuần, đừng cầu đừng mong gì ở Ngài. Người con Phật có thể hứa với Phật và tự hứa với mình là mình sẽ tu trì một cách chơn chánh, hầu vượt thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não và chạy ra cho khỏi căn nhà lửa tam giới đang bừng cháy. Chạy bằng cách nào cũng được, thiền, tịnh, mật, phước, huệ… đều được, miễn là tu hành cho chân chánh với lòng chí tâm chí thành. Tu với người con Phật là đơn giản như vậy đó, tu là từ bỏ mộng tưởng điên đảo để trở về với hiện thực. Hiện thực thế nào ta chấp nhận thế ấy, không mời, không thỉnh, cũng không chối bỏ hay xô đuổi. Tuy nhiên, phải luôn tỉnh thức để nhận biết rằng phàm làm việc gì, phải luôn nhớ tới hậu quả của nó vì giáo lý căn bản của nhà Phật là “nhân nào quả nấy, không sai khác.” Đã có nhơn, tức có quả. Trong Kinh Kim Cang, Đức Từ Phụ đã dạy rằng : “Muốn biết nhơn mình đã gieo trong quá khứ, cứ xem cái quả hiện tại mình đang đón nhận. Tương tự như vậy, muốn biết cái quả trong tương lai ra sao, cứ nhìn cái nhơn mình đang gieo trong hiện tại.” Nếu chúng ta chịu bình tâm suy nghĩ cho kỹ những lời Phật dạy thì chắc ai trong chúng ta cũng đều biết kinh vì nhơn quả, do đó mà muốn gây nhơn tạo nghiệp cũng phải kiêng dè, cũng do đó mà tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… không đuổi vẫn đi. Nếu chúng ta nghĩ và làm được như vậy, thân khẩu ý không điều phục vẫn luôn an trú trong chánh niệm. Như vậy không là an lạc và hạnh phúc cho mình và cho người lắm sao?

Đừng ai tưởng rằng tu theo Phật là phải quỳ mọp trước mọi hoàn cảnh. Chúng ta quỳ mọp để tu trì những hạnh lành như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, ái ngữ, lợi hành, đồng sự…, nhưng chúng ta sẽ thẳng thừng tiêu diệt tận sào huyệt những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Người con Phật sẽ lấy trí huệ mà quỳ mọp để hành trì những hạnh lành, và cũng sẽ dùng trí huệ mà vượt thoát khỏi những độc hại của trần thế. Hãy lấy trí huệ của một người con Phật mà đè bẹp tất cả những tam độc ngũ dục. Hãy tin nơi đuốc sáng Từ Bi của Phật Tổ và hãy tự tin nơi chính mình hỡi những người con Phật! Hãy nhìn kìa hướng đi trước mặt với toàn những kỳ hoa dị thảo. Tuy nhiên, muốn thực sự được nhìn thấy những kỳ hoa dị thảo trên đường về quê hương Phật, chúng ta phải biết buông bỏ, buông bỏ và buông bỏ tất cả những gì của thường tình thế tục. Hãy buông bỏ như Phật đã buông bỏ năm nào. Cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, quyền uy danh vọng, và ngay cả ngai vàng của vua cha để lại mà Ngài còn buông bỏ, hà huống gì những cái chúng ta đang có. So với những cái Phật có thì đã thấm vào đâu? Thế mà Ngài còn buông bỏ được, tại sao chúng ta lại không buông được?

Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta buông bỏ tất cả để lánh vào rừng sâu núi thẳm, hoặc sơn lâm cùng cốc để lánh tục và tu cho được giải thoát một mình. Đức Từ Phụ đã không từng dạy tứ chúng trong các kinh điển của Ngài là “Phật pháp bất ly thế gian pháp” hay sao? Như vậy tìm vào sơn lâm cùng cốc để tự mình giải thoát, chẳng những tự mình đi ngược lại những lời Phật dạy, mà còn là một lối tu ích kỷ, không chấp nhận được với một người con Phật chơn chánh. Hơn nữa, chạy vào rừng sâu núi thẳm thì còn đối tượng đâu nữa mà tu với luyện? Còn thử thách đâu nữa mà vượt qua? Lúc đó mình chỉ còn làm bạn với cỏ cây hoa lá, hoặc muông thú, chứ đâu có ai để cho ta tự xét lòng mình. Lúc đó còn đâu những thử thách của vui, buồn, thương, ghét, tốt, xấu, thiện, ác, hơn, thua, khoan dung, cố chấp, ngã mạn, cống cao, khiêm cung, từ tốn, bỏn xẻn, bố thí… Những người con Phật chơn thuần, quyết làm những cánh sen vươn lên từ những hôi tanh của bùn lầy, mà vẫn tỏa hương thơm ngát, quyết đi thẳng vào trần tục với đầy đủ giới đức, đạo hạnh cũng như bản lãnh của một người con Phật, để sống và tu một cách hướng thượng. Đó là cách buông bỏ có trí huệ của một người con Phật.

Tuy nhiên, trong thời xa Phật, có lắm thứ tà ma ngoại đạo chen vào hàng ngũ tứ chúng, làm cho Phật giáo phải mang tai mang tiếng. Họ chỉ đọc ba mớ về thiền rồi tự cho mình là thiền sư. Thiền sư gì mà giới không giữ? Thiền sư gì mà ngày ngày vẫn ăn thịt uống rượu? Đừng ai dùng bất cứ ngôn từ nào để biện luận cho những con ma trơi nhà thiền nầy, vì hễ có ai nói cho họ biết tu theo Phật là phải trì trai giữ giới thì họ sẽ lớn lối mà rằng : “Mấy ông sao mà chấp quá! Tu tâm tu thiền chứ đâu phải tu trai tu giới mà mấy ông câu nệ?” Thật không còn ngôn từ nào khả dĩ có thể gọi họ được, nên tạm gọi những loại nầy là “những con ma trơi nhà thiền.” Họ mượn tiếng đạo, tiếng chùa để lập bè lập nhóm, dong ruổi hết chùa nầy đến chùa khác để phá hoại Tam Bảo. Đi đâu đến đâu họ cũng rêu rao là vấn đạo thử thầy. Kỳ thật họ chưa bao giờ tự hỏi và tự thử lòng mình lấy được một lần. Thấy ai đến chùa làm công quả thì họ cho đó là sơ cơ tu phước mà họ đã làm mươi năm về trước, nay trình độ họ đã cao nên không cần phải làm những việc đó nữa. Họ luôn tự cho mình tu cao tu nhiều, tu lâu năm, nên đi đâu đến đâu họ cũng rêu rao khoác lác, coi thường những thiện nam tín nữ khác, đôi khi họ còn dám khinh dễ cả chư Tăng Ni nữa là khác. Kỳ thật phước ai nấy bòn, công ai nấy vun, nghiệp ai nấy tạo…, nói chi, nghĩ chi, tạo tác chi cho thêm nặng nghiệp. Người tu theo Phật chơn chánh hãy coi chừng những con ma trơi nhà thiền nầy, nếu không khéo chúng ta sẽ phải chui đầu vào rọ để cùng đi vào địa ngục với họ. Những người con Phật hãy tự xét lại lòng ta xem coi ta có đang làm những con ma trơi nầy hay không? Nếu xét thấy mình hãy còn tranh danh đoạt lợi, xin hãy tự thẳn thắn với lòng mình là mình hãy còn tham. Nếu thấy mình hãy còn đem lòng sân hận ghét bỏ hay thù ghét những ai không thuận theo ý mình, thì hãy coi chừng cái “sân” nhà mình vẫn còn chứa đầy rác rến của Ta Bà. Nếu lòng mình luôn khư khư cho rằng ta đúng người sai, thì hãy coi chừng, tâm nầy thân nầy si mê vẫn còn đầy. Nếu còn ý nghĩ anh tu thấp, tôi tu cao, anh tu phước, tôi tu huệ, thì cũng phải coi chừng, vì mình đang mắc phải bịnh ngã mạn cống cao nặng lắm đấy. Nếu tự thấy mình hãy còn những thứ ấy, xin đừng sợ, chư Phật lúc chưa thành đạo vô thượng, cũng đã từng vướng vào những thứ đó, hà huống là chúng ta, những con người của phàm tình thế tục? Tuy nhiên, cái quan trọng ở đây là chúng ta phải thấy cho rõ những lỗi lầm của chính mình. Thấy để mà sám hối và sửa chữa, để tự mở cho mình một con đường hướng thượng.

Con đường giải thoát của những người Phật tử, nhứt là những đứa con tại gia, thật là thiên nan vạn nan. Nó đòi hỏi rất nhiều ý chí và nghị lực của tự mình. Nói là thiên nan vạn nan, nhưng không phải là không làm được. Không làm được tại sao mười phương tam thế chư Phật đã thành tựu? Muốn tránh không ướt vì mưa phải che dù, mặc áo mưa hoặc vào nhà. Cũng như vậy, muốn tránh khỏi những phiền lụy khổ não và đau khổ của Ta Bà, chúng ta phải bước vào nhà Phật Pháp, dù muốn hay không muốn. Tuy nhiên, người tu Phật chân chánh không đơn phương với ngôn ngữ văn tự, mà ngược lại, phải hằng ngày tu trì những lời Phật dạy, phải dùng Phật pháp để gột rửa tất cả những ô uế não phiền, phải từng giây từng phút sống với những lời Phật dạy. Ngoài ra, bổn phận của những người con Phật chơn thuần, còn phải chia xẻ những lời Phật dạy với mọi người nếu mình xét thấy những lời dạy ấy có lợi lạc thiết thực cho mình. Chúng ta phải tu thế nào cho ác thành thiện, xấu thành tốt, bỏn xẻn thành bố thí lợi tha, nghịch ngôn ác ngữ thành ái ngữ trung ngôn, câu chấp thành buông xả, phiền não thành bồ đề… Nên nhớ rằng tất cả chuyện lành chuyện dữ gì cũng đều do bởi con người mà ra cả. Con người có khả năng biến Ta Bà thành Địa Ngục, thì cũng chính con người lại có khả năng biến nó thành Niết Bàn hoặc Tây Phương Cực Lạc. Từ vô lượng kiếp sở dĩ trí huệ của chúng ta cứ mãi mê mờ chướng ngại cũng vì tham ái và si mê. Từ thời chưa có Phật thì không nói làm gì, nhưng kể từ sau Phật, chúng ta ai cũng đều có sự lựa chọn, hoặc hướng thượng, an lạc, tỉnh thức và giải thoát trong hạnh phúc miên trường, hoặc đọa lạc trong loạn động của a-tỳ địa ngục. Hãy tu như Đức Từ Phụ đã tu năm nào. Hãy chủ động lấy mọi tạo tác của chính mình để vượt thoát mọi tham lam, sân hận, si mê, ích kỷ, bỏn xẻn của thường tình thế tục. Hãy hành trình về đất Phật với những từ bi hỉ xả, lợi tha, bác ái và bình đẳng, thì đường về đất Phật của chúng ta sẽ toàn là những kỳ hoa dị thảo. Làm được như vậy, tu được như vậy, cho dù vườn tâm ta đang ở chốn Ta Bà, cỏ dại tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến sẽ khó mà mọc lan và phát triển được.

Đức Phật đã vì thương xót chúng sanh mà thị hiện. Trong kinh Pháp Hoa, Ngài đã nói rõ : “Ta thị hiện ra nơi đời vì một đại sự nhơn duyên : khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Phật đã vì chúng sanh mọi loài mà khai thị, bây giờ đến lượt chúng ta phải cố công tu cách nào cho được ngộ nhập cái tri kiến tuyệt vời ấy. Như vậy ngộ nhập hay không ngộ nhập hoàn toàn là chuyện của chúng ta. Nói gì thì nói, Phật tử hay không Phật tử, con đường mà một lần rồi ai cũng phải lên đường, dù muốn hay không muốn: trở về chơn tâm tự tánh của chính mình. Con đường ấy không xa xôi diệu vợi, cũng không mờ ảo như nhiều người vẫn tưởng. Nó ở đây và trong hiện tại của đời nầy kiếp nầy. Coi vậy mà chúng ta không còn nhiều thì giờ nữa đâu! Hãy quay trở về với chính mình mà thầm thầm tiến tu. Đừng lang thang vấn nan đạo pháp, cũng đừng dong ruổi thử thầy thách bạn nữa. Người con Phật chơn thuần, nếu chưa làm được đạo hạnh của một vị Bồ Tát độ đời, thì quyết không làm những con ma trơi nhà Thiền, dong ruổi đó đây thử thách người bằng những lộng ngôn vạy ngữ để nhử cho người sân si chưởi rủa lại, để chẳng những làm người thối tâm Bồ Đề, mà còn cùng đi vào địa ngục với mình nữa là khác. Là con Phật, cố mà học theo giới đức và đạo hạnh của chư Phật, quyết không tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, quyết không chấp trước, không cầu danh cầu lợi, không đem lòng ganh tị oán hận ai… Ngược lại, hãy cố mà tu tâm dưỡng tánh, tinh tấn hành thiện không hành ác, sống đời vị tha bác ái, từ bi hỉ xả, và khiêm cung từ tốn. Người con Phật chơn thuần quyết yêu thương và tôn trọng tất cả chúng sanh mọi loài, quyết không bao giờ khuấy nhiễu sự thanh tịnh của người, chứ đừng nói chi là gây cho người đau khổ và phiền não. Nên luôn nhớ rằng mình muốn thanh tịnh, thì người cũng muốn thanh tịnh. Như vậy trước khi muốn tu thành Phật, hãy tu sao cho tròn “nhơn đạo.” Những gì mình không muốn ai gây ra cho mình, xin đừng gây ra cho người. Muốn thân mình thoải mái, xin đừng phá hoại sự thoải mái của người. Muốn cho tâm mình không loạn động, xin đừng làm loạn động tâm người.

379. ĐẠO PHẬT TÍCH CỰC HAY TIÊU CỰC?

Đáng lý không cần phải giải thích đạo Phật tích cực hay tiêu cực vì tự những giáo lý sống động tuyệt vời của Đức Thế Tôn đã nói lên quá rõ rồi còn gì? Tuy nhiên, có quá nhiều người đã hiểu lầm về đạo Phật, ngay cả Phật tử. Lắm khi một câu nói vô tình “Chán đời quá! Muốn cạo đầu vô chùa tu cho rồi.” Chính câu nói đã chứng tỏ mình không hiểu gì về Phật pháp. Những người bàng quang không hiểu không biết gì về đạo Phật đã đành, đàng nầy đã là Phật tử mà không am tường những yếu lý căn bản của Phật Tổ, quả là đáng tiếc lắm vậy.

Chúng ta là những chúng sanh lăn trôi lạc lối trong khu rừng vô minh, không biết đường nẻo nào để thoát ra. Từ ngày Phật Tổ đản sinh và thành đạo, chính nhờ ánh sáng tuyệt vời của Ngài nên đã có lắm thầy tổ được giác ngộ và giải thoát. Làm sao chúng ta có thể nói rằng đạo Phật là đạo bi quan yếm thế, hư vô tịch diệt, hoặc ích kỷ tiêu cực khi những người con Phật dám can đảm nhìn thẳng vào sự vật theo đúng như chân tướng của nó. Hãy nhìn tấm gương sống tu tích cực và rạng ngời của Thế Tôn năm xưa, thì chúng ta sẽ thấy đạo Phật tích cực hay tiêu cực. Ngài đã chiến đấu không ngừng nghỉ với cả nội ma lẫn ngoại chướng để được giải thoát và cứu độ chúng sanh. Dù trên đường đời đường tu, Ngài đã gặp không biết cơ man trở ngại, thế nhưng không bao giờ Ngài nản chí thối tâm. Ngài đã dũng cảm chiến đấu chống lại những tư tưởng bất thiện lúc nào cũng chợt muốn ăn tươi nuốt sống con người. Ngài đã chiến đấu và đã thắng, cho dù chiến đấu chống lại những cay nghiệt của thời tiết và thiên nhiên không khó bằng chiến đấu chống lại tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng ở ngay trong lòng ta. Những người con Phật, muốn được giải thoát như Phật, cũng phải tích cực chiến đấu như Ngài thì mới mong có ngày công viên quả mãn được. Người con Phật thấy trên đường đi đầy chông gai hiểm trở nên không dẫm đạp lên những thứ độc hại ấy, mà từ từ nhổ bỏ chúng rồi bước lên. Người con Phật thấy đời là một biển khổ bao la, nhưng không chủ trương lẩn trốn cái biển khổ ấy. Ngược lại, người con Phật quyết trực diện với biển khổ để tìm ra căn cơ nguồn cội của khổ đau phiền não, để rồi tận diệt chúng. Người con Phật không bao giờ chán đời, mà chỉ chán ngán cái lũ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo dâm, vọng.

Phật Tổ chỉ cung cấp dầu, đèn, và diêm, còn thì người con Phật phải chịu khó bật diêm lên đốt đèn, để tự mình soi đường mà đi. Trong khi đó có lắm người chủ trương nhờ vả đèn của người khác. Vậy thì ai tích cực hơn ai? Thậm chí có người tự nguyện lệ thuộc. Có người tự nguyện làm trăng quay theo trái đất, tự nguyện làm trái đất quay chung quanh thái dương, hoặc giả tự nguyện làm mây bay theo gió… Còn với người con Phật, phải tự quay về với chính mình, tự nổ lực hành trì những giáo lý của Phật Tổ, để đoạn diệt tham, sân, si hầu chấm dứt khổ đau phiền não. Người con Phật phải tự mình phấn đấu hướng thượng hầu cải đổi tâm tánh tà vạy, biến những cái xấu thành cái tốt, dữ thành hiền, tối tăm thành sáng sủa, mê thành ngộ… Thử hỏi những điều trên có thể nào hiện thực được bởi những con người tiêu cực, hoặc bởi những giáo lý tiêu cực hay sao? Chỉ có sự mù quáng tin theo và chạy theo mới được gọi là tiêu cực mà thôi. Ngay cả sự tin theo, chính Đức Thế Tôn đã từng nhắc nhở chúng đệ tử rằng đừng tin vào bất cứ thứ gì mà mình chưa biết hoặc chưa hiểu, đừng tin những gì đã được nhiều người tin, đừng tin những gì đã được lưu truyền lại từ nhiều thế hệ, cũng đừng tin những gì đã được đồn đại. Ngay cả những lời Phật nói, cũng khoan hẳn tin. Phật tử phải cân nhắc xem coi cái nào hợp cho thời đại, cái nào không. Chỉ tin những cái nào hợp với chân lý và lẽ phải, chỉ theo những cái nào có thể đem lại lợi lạc cho mình và cho người. Thấy như vậy mới biết đạo Phật tích cực từ trong trứng nước tư tưởng, đến lời nói, việc làm và cách tu hành. Thêm nữa, người con Phật phải tích cực tu tâm dưỡng tánh, chứ không ai tu dưỡng dùm mình được. Trong đạo Phật không có chuyện “xá tội,” mà chỉ có chuyện tự mình sám kỳ tiền khiên, hối kỳ hậu quá. Chính Đức Phật đã ân cần dạy dỗ chúng đệ tử: “Các con hãy tự mình tinh tấn tu hành giải thoát, tự mình cố gắng thêm lên. Chư Phật chỉ là những đạo sư dẫn đường, các con phải tự đi con đường của chính các con.” Ai dám bảo những người phải tự đi trên đường giải thoát là những người tiêu cực? Ai dám bảo những lý thuyết giác ngộ giải thoát vô cùng sống động của đạo Phật là tiêu cực? Con đường đi về cõi giác ngộ rốt ráo và giải thoát miên viễn của người con Phật phải là con đường của tích cực hành trì, chứ không là con đường tin tưởng mù quáng tiêu cực. Như vậy ai dám bảo Phật giáo là tiêu cực? Thế mà cũng có người nghịch lý, đem giả làm chơn, đem ngụy làm thực, đem một mớ giáo điều cũ rích cứng nhắc ra sơn son thếp vàng, hầu đánh lận con đen. Nhưng sự thực lúc nào cũng vẫn là sự thực: đạo Phật là một lối sống tích cực và sống động. Người con Phật phải dùng cả thân lẫn tâm để tu dưỡng từ bi hỉ xả, phải tu tập giới đức và đạo hạnh, phải tự mình lắng đọng tất cả những uế trược để tiến tới giác ngộ và giải thoát. Sống trong trần lao ô trược mà người con Phật phải đạo đức, quảng đại, bao dung, khiêm tốn, nhẫn nhục… Một giáo lý tiêu cực có thể dạy được những thứ nầy ư? Đừng làm những điều ác, hãy làm những điều lành, tự làm cho thân khẩu ý thanh sạch. Một con người tiêu cực có thể làm nỗi những điều nầy ư?

Triết lý đạo Phật còn khác nhiều triết lý tôn giáo khác ở chỗ triết lý đạo Phật không phải để học, mà để vừa học vừa hành. Nếu học mà không hành thì không hơn chi những con két biết nói tiếng người. Nếu chỉ hành mà không học thì hành cái gì đây? Nếu ai đó bảo rằng đạo Phật tiêu cực, thì hãy thử mà xem. Hãy trở về làm một cuộc chiến thắng bản thân bản tâm rồi sẽ thấy đạo Phật tích cực hay tiêu cực. Những chiến đấu đua chen ngoài đời cho dù có cơ khổ và khó khăn thế mấy cũng không thể nào sánh bằng cuộc chiến đấu nội tâm. Buông lung phóng túng thì dễ, chứ khép mình vào cuộc sống kỷ cương đạo hạnh quả là thiên nan vạn nan, cần phải có một tinh thần dũng mãnh và tích cực lắm mới kham nỗi. Lăn trôi theo dục lạc ái tình và để mặc cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến khống chế bắt ép ta gieo nhân ác thì dễ, chứ sống tu theo giới đức đạo hạnh, khiêm cung từ tốn, nhu hòa nhẫn nhục phải cần đến một ý chí sắt đá và tinh tấn lắm mới làm nỗi. Ăn gian nói dối, lường gạt, đụng đầu nầy chôm, đụng đầu kia chỉa thì dễ, chứ ăn ngay nói thẳng và sống đời lương thiện, phải tích cực phấn đấu lắm mới làm nỗi. Nói không tham lam trộm cắp thì dễ, chứ thực hành không tham lam trộm cắp đòi hỏi sự phấn đấu tích cực không ngừng nghỉ. Nói khiêm cung từ tốn thì dễ, chứ thật sự khiêm cung từ tốn, không phải là chuyện dễ đâu. Những người con Phật thấy đời là biển khổ, nhưng không chán đời. Ngược lại, phải sống và phải tu với những tinh thần tích cực như thế ấy. Nếp sống an lạc, tỉnh thức và giác ngộ giải thoát của những người con Phật phải là nếp sống của “Vô Ngã.” Tuy nhiên, “vô ngã” không có nghĩa là tiêu cực. Ngược lại, vô ngã bao trùm cả một trời vị tha bác ái, từ, bi, hỉ, xả với pháp giới chúng sanh. Vô ngã lại càng không có nghĩa là rũ bỏ tất cả. Vô ngã ở đây là hãy tự quay về với chính mình, dẹp bỏ hoàn toàn cái TA nhỏ hẹp, vị kỷ để từ đó hòa nhập vào tất cả chúng sanh. Vô ngã ở đây còn có nghĩa là một sự hòa đồng tuyệt diệu của từ bi hỉ xả, của lòng khoan dung quảng đại vô bờ vô bến. Cõi Ta Bà nầy đã quá thiếu vắng nụ cười. Nếu có chăng chỉ là những nụ cười tạm bợ của trần thế. Người con Phật tích cực đi vào đời, mang vào đời những nụ cười bất tận trước mọi cảnh huống đau thương của cuộc sống. Dù trên đời nầy đã có lắm người đã đi tu vì thất vọng hoặc tuyệt vọng, nhưng đi tu là để tìm lại hi vọng và yêu đời, tìm lại nguồn sống hỉ lạc cho chính mình và những người quanh mình. Dù đời nầy có lắm cố chấp, nghi kỵ và thành kiến đến thế mấy, đi tu là tìm cách xóa bỏ tất cả để tự trở về trạng thái buông bỏ, hồn nhiên và cởi mở để chấp nhận mọi người. Tinh thần tiêu cực và lệ thuộc không bao giờ thực hành nỗi những thứ nầy đâu quý vị ạ! Xin hãy thử đi rồi sẽ thấy đạo Phật tích cực hay tiêu cực?

Pages: 1 2 3