ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG
TẬP VI
Thiện Phúc
(Tổ Đình Minh Đăng Quang)

LỜI MỞ ĐẦU

Kính Thưa Chư Thiện Hữu Tri Thức,

Đạo Phật là con đường thực tiễn dẫn đến một cuộc sống hạnh phúc cho người tại gia và một cuộc tu giải thoát cho kẻ xuất gia. Tuy nhiên, Phật pháp thậm thâm vi diệu quá nên lắm khi đọc tụng hằng ngày mà vẫn chưa chắc đã hiểu hết được nghĩa lý của kinh điển để mà hành trì. Cho dù có hiểu những yếu lý của kinh đi nữa, nhưng khi đem những yếu lý nầy thực hành vào đời sống hằng ngày lại càng khó khăn hơn nữa. Chính vì vậy mà những người tu tại gia nên rất cần nương theo sự giảng dạy của chư Tôn Thiền Đức mới mong đạt được lẽ nhiệm mầu của giáo lý nhà Phật. Những lời tâm sự trên là kinh nghiệm của một người có duyên mai, được nghe những lời chỉ dạy của chư Tôn Thiền Đức trong những buổi thuyết giảng ở miền Nam California, đã đem những lời giảng dạy quý báu ấy áp dụng vào cuộc sống hằng ngày và đã thấy những lợi lạc không thể nghĩ bàn của Phật pháp, chẳng những cho bản thân, gia đình, mà còn cho những người quanh mình nữa. Chính vì thế mà cho dù văn kém tài hèn, tôi vẫn tiếp tục đem hết thân tâm nầy cúng dường lên ngôi Tam Bảo, bằng cách đêm ngày hành trì và biên soạn lại những điều lợi lạc nầy, mong cho những ai chưa có duyên mai đến chùa nghe giảng pháp, vẫn có cơ hội hiểu và hành trì Phật pháp vào đời sống hằng ngày được. Vẫn  biết rằng chân thường không thể được nói lên bằng lời, nhưng nếu không dùng văn tự ngôn ngữ để xẻ chia những lợi lạc nầy thì e rằng mình đã phụ lòng công ơn dạy dỗ sâu dày của quý thầy.

Kính Thưa Quý Vị,

Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng có một thời sống kiếp lăn trôi, hoặc giả đang lăn trôi cũng không chừng. Đang tự mình làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Đang mang tâm bịnh và đang giết chết lần mòn tâm linh của chính mình. Tại sao lại có trạng huống như vậy hở quý vị ? Một phần cũng tại vì thế giới văn minh vật chất ngày nay thay đổi nhanh quá nên con người phải hụt hẫng trong đó, nhưng đa phần là tại nơi chính cái phàm phu tánh của chúng ta quá nặng nề, đã trì kéo chúng ta từ hết kiếp lăn trôi nầy đến kiếp lăn trôi khác. Hơn nữa, con người thường thích nói hơn thích làm. Chính vì thế mà tâm nầy vốn dĩ đã rong ruổi và loạn động, trở nên rong ruổi và loạn động hơn. Tiếp tục ghi lại và chia xẻ những lời dạy dỗ của quý thầy, tôi không mong gì hơn là thấy ai nấy đều cũng được hưởng sự lợi lạc như mình, để chẳng những tự mình quẳng bớt đi chướng nghiệp, mà còn có thể góp phần làm vơi đi bể khổ của Ta Bà.

Kính Thưa Quý Vị,

Chúng ta đã ngày hai bữa bồi bổ cho thân nầy, mong cho ai cũng thấy được rằng tâm nầy cũng cần được bồi bổ lắm chứ! Nên lắm quý vị ạ, vì một cái tâm mà bịnh,  không chóng thì chầy thân nầy rồi cũng phải bịnh, không chừng còn bịnh nặng nữa là khác. Kính thưa quý vị, Đức Từ Phụ đã làm sẵn những món ăn tinh thần tuyệt diệu cho chúng ta và quý thầy đã dọn sẵn cũng như tha thiết kêu gọi chúng ta hãy đem những món ăn tinh thần Phật pháp nầy mà bồi bổ cho tâm linh khô cằn của chúng ta đi. Bồi bổ hay không bồi bổ là tự nơi chúng ta! Nhưng thưa quý vị, chính một bậc Tôn Giả như ngài Udàyi mà còn phải thốt lên : “Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đem lại nhiều thiện pháp cho chúng ta.” Như vậy chúng ta há có con đường nào khác sao quý vị ? Đức Từ Phụ đã vì thương xót chúng sanh muôn loài, nên Ngài đã thị hiện và ban bố cho chúng ta tám vạn bốn ngàn pháp lành, những mong ai trong chúng ta rồi cũng sẽ đáo bỉ ngạn như Ngài.

Thuyền Bát Nhã sẵn chờ, Ánh Đạo Vàng luôn sáng và sẵn sàng soi đường dẫn lối cho chúng ta ra khỏi bể khổ rừng mê. Ra hay không ra là hoàn toàn tùy ở chúng ta.

Nhưng xin chia xẻ với quý vị một câu Phật dạy: Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Được thân người, gặp Phật pháp, mà nỡ để cho thời gian luống trôi qua vô ích, quả là uổng cho một kiếp người.”

Cầu mong hồng ân Tam Bảo gia hộ cho người người đều có cơ duyên gặp được Phật pháp và thấy được đuốc sáng Từ Bi của Phật Tổ, để quyết tâm noi theo hạnh Phật  mà tu trì, tinh tấn xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, để một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh sẽ cùng nương nhau tìm về đất Phật.

Cuối cùng xin hồi hướng tất cả phước lành nầy cho pháp giới chúng sanh, nguyện khi trả báo thân nầy về cho tứ đại, Phật tử và pháp giới chúng sanh đều được đồng sanh về cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Viết tại California mùa Xuân năm 1998
Thiện Phúc

ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG
TẬP VI

352. Nẻo Bồ Đề
353. Đạo Phật: Một Chân Lý Vĩnh Cửu
354. Tu
355. Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh Những Phật Tử Trí Thức
356. Đối Trị Phiền Não
357. Đây Là Khổ, Kia Là Con Đường Thoát Khổ
358. Chúng Ta Nguyện Gì Trong Mùa Vu Lan Báo Hiếu
359. Chướng Duyên
360. Chơn Tu
361. Tu Giỡn Chơi Và Địa Ngục
362. Mùa Xuân Vĩnh Hằng Của Người Con Phật
363. Lý Tưởng Cao Cả
364. Người Phật Tử Và Mùa Vu Lan
365. Hãy Vì Tiền Đồ Đạo Giáo
366. Chấm Dứt Đau Khổ Kiến Tánh Thành Phật
367. Đạo Phật Và Hôn Nhân Dị Giáo

 

352. NẺO BỒ ĐỀ

Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo cho tăng già hay giáo đoàn của những người xuất gia, mà nó là con đường an lạc và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Con đường nầy không dành cho riêng con người, mà là cho chúng sanh muôn loài; tuy nhiên, theo Phật, con người là tối thượng vì con người cò lý trí và tình cảm. Con người có thể tạo ra địa ngục, mà cũng chính con người có thể tạo ra niết bàn. Con người đã từng gây khổ đau phiền não cho con người, nhưng con người lại có thể đem lại hạnh phúc cho mình và cho người bằng cách tránh ác hành thiện, hoặc chuyển hóa nghiệp chướng nếu con người đó biết đi theo con đường Phật dạy.

Con đường Phật dạy là con đường “Bồ Đề,” nghĩa là giác ngộ và tỉnh thức, con đường hướng về trí tuệ hoàn hảo. Người tu Phật không lơ thơ lẩn thẩn, mà ngược lại, càng tu theo Phật, con người càng linh mẫn, trí tuệ càng phát triển và khả năng hiểu biết càng thông suốt hơn. Đừng vào chùa để xin xăm cầu quẻ vì Thế Tôn sẽ chẳng bao giờ cho ai những thứ đó đâu. Đừng vào chùa để tìm kiếm thần linh, vì Phật không phải là một thần linh hay sứ giả của thần linh. Phật cũng từng là một con người như bao nhiêu người khác. Có điều con người nầy đã giác ngộ và tỉnh thức, đã có trí tuệ hoàn hảo. Con người nầy đã hoàn toàn giải thoát khỏi những khổ đau phiền não của cõi Ta Bà ô trược nầy.

Con đường “Bồ Đề” là con đường thực tiễn, ai cũng có thể đi được, nếu muốn. Ai muốn tu giải thoát, hãy gia nhập Bồ Đề Xuất Gia. Ai muốn có cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc, hãy gia nhập Bồ Đề Tại Gia. Con đường “Bồ Đề” luôn song song với con đường gập ghềnh của khổ đau phiền não. Hai con đường nầy gần nhau đến nỗi chồng chất lên nhau. Hễ mất chánh niệm là mất Bồ Đề, là thay vì bước trên con đường an lạc và tỉnh thức,  chúng ta sẽ giẫm ngay lên tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng.

Làm sao để chúng ta luôn bước trên nẻo “Bồ Đề”? Đến chùa sùng kính lễ bái Phật chăng ? Tụng kinh, niệm Phật, niệm chú chăng ? Tất cả chỉ là phương tiện và hình thức bên ngoài. Phật không là thần linh nên Phật sẽ không bao giờ nhận lễ vật của ai. Kinh điển do chính Phật nói ra, nên Ngài đâu cần nghe ai đọc tụng cho Ngài. Muốn thật sự bước trên nẻo “Bồ Đề,” người con Phật phải học và tu trì theo Phật. Nghĩa là Phật đã làm sao, thì mình cũng phải làm y như vậy. Người con Phật phải quay ngay trở về mà sùng bái và tụng đọc cho ông Phật nơi chính mình. Vào chùa chiêm ngưỡng Phật, thấy Phật ngồi trong tư thế an lạc, với nụ cười từ ái, chúng ta cũng quyết tâm tu trì cho được như Ngài. Chúng ta cũng cố gắng tu trì sao cho ngoại cảnh và nội tâm đều vắng lặng. Vào chùa nghe mùi hương trầm, lòng ta trong khoảnh khắc dịu lại, chúng ta cũng phát nguyện là lòng nầy không chỉ dịu lại ở chùa, mà sẽ mãi mãi dịu lại, dù là ở chợ, ở sở hay bất cứ ở đâu. Đi đâu đến đâu, thấy ai cần giúp đỡ là chúng ta xăn tay áo lên mà giúp, giúp rồi không khởi tâm khoe khoang hay mong cầu được sự đền đáp. Người đang đi trên nẻo “Bồ Đề” là người phát tâm làm tất cả mọi việc thiện lành, làm trong âm thầm lặng lẽ và không khởi lòng kiêu hãnh. Ngược lại, người ấy tự xem rằng những việc mà họ thực hiện chính là một trong những phương cách tu trì, một trong những phương cách thực hành giáo pháp nhà Phật. Người đi trên nẻo “Bồ Đề” không những chỉ biết và tin nơi Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Nghiệp, Luật Luân Hồi Nhân Quả, Lý Nhân duyên mà còn phải từng ngày từng giờ hành trì rốt ráo những giáo lý ấy. Phải thực chứng những giáo lý ấy qua kinh nghiệm bản thân.

Phải thấy rằng cuộc sống ta có chiều hướng thay đổi hướng thượng nhờ vào sự thực hành những giáo lý nầy. Thấy được bộ mặt thật của khổ đau  phiền não không thôi, chưa đủ, mà phải tự mình thực hành những thay đổi nơi chính bản thân mình để chấm dứt khổ đau. Thấy rằng chính vô minh đưa ta đến tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; chính ái dục đã xô đẩy ta vào khu rừng vô minh, nên ta phải tự mình tận diệt ái dục, tự thoát ra khỏi vô minh, để không giẫm lên tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Một khi chúng ta đã loại trừ được tham ái, vô minh là ta đã loại trừ được đau khổ. Làm được như thế là chúng ta đang bước trên nẻo Bồ Đề vậy. Tuy nhiên, điều mà Phật thường khuyên nhủ tứ chúng nên cẩn trọng là ranh giới giữa phiền não và bồ đề chỉ cách nhau một sợi chỉ, hoặc giả không có một ranh giới nào rõ ràng cả. Mới khi hôm đây quỳ sám hối dưới chân Phật thì sáng ra đã đâm đầu nầy, thọc đầu kia, đã đem chuyện đầu nầy lặp lại đầu nọ, gây chia rẽ, phiền não và khổ đau cho người. Ranh giới giữa phiền não và Bồ Đề không ở chỗ đảo điên lật bật hay ngồi xếp bằng tréo hai chân lên nhau như tư thế của người ngồi thiền. Ranh giới đó chính là sự chấp nhận hay không chấp nhận làm nô lệ cho tam độc tham, sân, si. Hễ chấp nhận làm nô lệ cho tham, sân, si là tiếp tục giẫm đạp lên đau khổ. Ngược lại chấp nhận bước trên nẻo “Bồ Đề” là chấp nhận giác ngộ, an lạc và tỉnh thức, là chấp nhận từ bỏ “hồng trần gia” và chối bỏ tham lam; là chấp nhận từ, bi, hỉ, xả và chối bỏ sân hân hận; là chấp nhận trí huệ và chối bỏ si mê.

Thế nào là từ bỏ “hồng trần gia”? Từ bỏ hồng trần gia có phải là xuất gia, hoặc đi vào chốn rừng sâu núi thẳm, hoặc từ bỏ hẳn cuộc đời thế tục hay không ? Không nhứt thiết phải như vậy.

Nếu xuất gia, nếu đi vào rừng hoặc từ bỏ cuộc đời thế tục trên hình thức sẽ không dính dấp gì tới việc từ bỏ hồng trần gia, vì lắm khi xuất gia mà vẫn tham, sân, si; đi vào rừng sâu núi thẳm mà vẫn tà kiến; hoặc giả nói từ bỏ cuộc đời thế tục mà vẫn ngã mạn cống cao. Với đạo Phật, người đang bước trên nẻo “Bồ Đề” vẫn an nhiên tự tại đi vào đời, mà không vướng mắc. Vẫn thấy  cuộc đời nầy với dẫy đầy những khổ đau phiền não, nhưng người ấy vẫn dõng mãnh đi vào đời, không trốn chạy. Ngược lại, người ấy sẽ tìm coi do đâu mà có khổ, rồi tìm cách tận diệt chúng để cuộc sống được an lạc hạnh phúc và cuộc tu được an nhiên, tự tại và giải thoát. Vì thấy cuộc đời đau khổ như vậy nên người đang bước trên nẻo “Bồ Đề” luôn phát tâm từ bi lân mẫn đến chúng sanh mọi loài. Thấy chúng sanh mọi loài đã giết hại lẫn nhau chỉ vì miếng cơm manh áo, nên chúng ta phát tâm thương xót mà không nỡ giết hại một chúng sanh nào nữa, không vu oan giá họa cho ai, không hiếp đáp ai, không khôn dại với ai. Thấy đời đau khổ vì sanh, già, bịnh, chết chỉ vì sự si mê của chúng sanh, nên người đang bước trên nẻo “Bồ Đề” quyết vững bước trên nẻo ấy, quyết tu trì theo Phật, quyết lìa bỏ dục lạc để tìm về chân lý vĩnh hằng, quyết trì trai giữ giới, quyết hành trì bố thí, nhẫn nhục, và thiền định cho tới lúc biển lặng gió êm, nước lắng cặn cho tới lúc nào có được trí huệ chân chánh và chối bỏ si mê. Người đang bước trên nẻo “Bồ Đề” vì thương chúng sanh, vì yêu đời mà dấn thân, chứ không vì thất vọng chán đời mà lánh xa trần tục. Người ấy luôn thấy rõ những cội rễ của khổ đau trần tục, thấy để nhổ bỏ, thấy để diệt trừ. Loại bỏ và diệt trừ tận gốc rễ những tham lam, sân hận và si mê của thế tục. Tuy nhiên, trên nẻo “Bồ Đề,” hạnh phúc vẫn tràn đầy, thứ hạnh phúc của thanh bần lạc đạo, chứ không phóng dật, ham mê lạc thú, lại càng không hành hạ xác thân một cách khổ hạnh thái quá. Người đang đi trên nẻo “Bồ Đề” sẽ luôn có một cuộc sống phẩm hạnh, khả dĩ dung hợp được với mọi người. Người ấy luôn tìm đủ mọi cách đem lại an lành và hạnh phúc cho tha nhân. Người ấy luôn nói lời thanh tao nhã nhặn, chân chánh, dễ mến và lịch sự. Sự buông lung phóng dật cho nóng nảy, hung tợn và sân hận tăng trưởng, chính là những nhân tố cho địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Không nhứt thiết phải đợi đến lúc rũ bỏ thân tứ đại nầy mới vào địa ngục,  ngạ quỷ và súc sanh, mà ngay trong đời nầy kiếp nầy, chính những thói hư tật xấu, những phóng dật buông lung tự chúng là những địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh của đời kiếp nầy. Ngược lại, người đang bước trên nẻo “Bồ Đề” sẽ dứt bỏ mọi thói hư tật xấu, mọi phóng dật buông lung, dứt bỏ ái dục, không còn lo âu phiền muộn, không bồn chồn ham muốn, không tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Người ấy luôn giúp đỡ mọi người, luôn thương người mến vật. Những thứ vừa kể, tự chúng là nhân tố chính cho trạng thái Niết Bàn.

Ngày ngày hành thiện không ngừng nghỉ, không đứt đoạn, ấy là trạng thái của Niết Bàn miên viễn, ấy là hạnh phúc tối thượng mà Đức Từ Phụ đã hằng dạy dỗ tứ chúng.

Đừng viển vông mơ mộng về một cái Niết Bàn xa xôi mờ ảo nào, hãy quay ngay trở về nơi nầy, chốn nầy, hãy quyết tâm bước vào nẻo “Bồ Đề” lấy chính cuộc đời của Đức Phật làm gương sống cho mình và lấy giáo pháp của Ngài làm kim chỉ nam cho nẻo “Bồ Đề” của mình. Hãy tự mình làm chủ lấy con đường mình đi trong tương lai, hãy chuyển hóa nghiệp chướng, hãy làm tất cả những gì mình có thể làm được ngay trong những giờ phút hiện tại nầy. Loài vật vì không có đủ lý trí để tiếp nhận những cái hay và loại bỏ những cái xấu, nên chúng chỉ kinh qua cuộc sống bằng hết cấu xé nầy đến những cấu xé khác. Con người chúng ta có đầy đủ lý trí và tình cảm, cuộc sống của chúng ta phải khác loài vật chứ! Không lẽ chúng ta lại để cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến thống trị chúng ta mãi như thế nầy sao? Không lẽ chúng ta lại tiếp tục cam tâm mang thân làm nạn nhân cho những thói hư tật xấu, những phóng dật buông lung?

Không lẽ chúng ta cam tâm đầu hàng khổ đau phiền não ? Không, chúng ta sẽ không để cho những cái “không lẽ” ấy đến với chúng ta một cách dễ dàng đâu. Chúng ta có Tam Bảo, có Phật, dù Ngài đã nhập diệt, nhưng gương sống gương tu của Ngài  vẫn còn đây. Pháp của Ngài là những chân lý không thể nghĩ bàn, tăng đoàn của Ngài là những vị dẫn đạo tuyệt vời. Có điều là chúng ta có chịu can đảm thẳng bước lên nẻo “Bồ Đề” hay không mà thôi. Hãy can đảm lên mà sữa đổi những thói quen bất thiện. Nếu cần, chỉ nói những cái đáng nói, hoặc giả không nói; chỉ làm những cái đáng làm, hoặc giả không làm; chỉ nghe những cái đáng nghe, hoặc giả không nghe; chỉ nghĩ những cái đáng nghĩ, hoặc giả không nghĩ gì cả. Hãy can đảm lên mà theo gương của Phật hoặc như những đại đệ tử của Ngài, chẳng hạn như Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Quyết nhẫn nhục nhu hòa như bùn, như nước. Dù ai phỉ nhổ mặc ai, bùn vẫn nhận chịu, nước vẫn nhận chịu, không một chút kháng cự. Hãy can đảm chuyển hóa, hãy tự biết mình với những khuyết điểm nào cần sữa đổi thì sữa. Đừng để cho tham lam, sân hận và si mê tiếp tục khống chế mình nữa. Hãy tự mình canh giữ đừng để cho giặc tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến nổi lên mà mình không hay biết.

Hãy mạnh dạn bước lên nẻo “Bồ Đề” để chẳng những khoan dung với mình, mà còn độ lượng với người nữa; để chẳng những từ bi hỉ xả với mình, mà còn từ bi hỉ xả với người nữa. Mong cho ai nấy đều can đảm và mạnh dạn bước trên nẻo “Bồ Đề” cùng nhau tu trì trong tinh thần từ, bi, hỉ, xả của nhà Phật, để một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật Quả.

353. ĐẠO PHẬT: MỘT CHÂN LÝ VĨNH CỮU

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã thị hiện ra nơi đời với một mục đích duy nhất là giúp chúng sanh giải thoát khỏi những đau khổ của cõi Ta Bà nầy. Tuy Ngài nói rất nhiều về Vũ trụ quan, nhưng Ngài cũng nói không ít về nhân sinh quan, cũng như từ, bi, hỉ, xả, tứ diệu đếbát chánh đạothập nhị nhơn duyên… Chung qui vẫn là nói về một chân lý vĩnh cữu : giúp chúng sanh giải thoát khỏi những đau khổ phiền não của cõi Ta BàĐức Phật không muốn chúng sanh nghe và tin theo đạo của Ngài một cách mù quáng. Ngược lại, Ngài muốn chúng ta hãy lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ cho chính chắn, rồi xem coi cái nào thích hợp thì theo, cái nào không thích hợp thì bỏ. Ngài không muốn chúng sanh xem Ngài như một ông thần, ông Thánh, hoặc Thượng đế; ngược lại, Ngài chỉ tự xem mình như một người dẫn đường, hoặc một ông thầy.

Đạo Phật: Một Chân Lý Vĩnh Cữu.

Tại sao gọi đạo Phật là một chân lý vĩnh cữu? Thái dương hệ và quả địa cầu mà chúng ta đang ở, cũng như vạn triệu thái dương hệ khác, có thể một ngày nào đó sẽ nổ tung và tan tành ra mây khói, chứ những lời Phật dạy lúc nào cũng là một chân lý bất hư, một chân lý vĩnh cữu. Nghĩa là đối với những thực tại trên đời nầy như thế nào thì nói đúng như thế ấy, không thêm, không bớt, không nhân, không nhụy. Với đạo Phật, hết thảy vạn sự vạn vật trên đời nầy đều biến chuyển vô thường và tùy theo nhân duyên mà sanh mà diệt. Ngài chẳng những nói đúng sự thật, mà Ngài còn chỉ cho chúng sanh phương pháp sống đúng với sự thậtPhương pháp đó là con đường duy nhất để diệt trừ những khổ đau phiền não để mọi người cùng hạnh phúc an vui. Tứ diệu đế của Ngài một khi đã được hiểu thấu và hành trì một cách rốt ráo thì con người sẽ sống một cách tự tại và thoát ly mọi đau khổ và phiền nãoChánh pháp của Ngài thanh sạch từ lúc ban sơ và sẽ mãi mãi thanh sạch.

Những lời dạy dỗ của Ngài sẽ là ngọn đuốc sáng cho chúng sanh trong đêm trường tăm tối. Thứ ánh sáng mà cho dù giông tố bão bùng cũng không thể nào làm tắt hoặc làm giảm ánh sáng đi được. Với đạo Phật, thân xác con người có thể tan rửa, nhưng sự giác ngộ không bao giờ hư hoại, vì sự giác ngộ chính là sự hòa nhập tự nhiên vào chân lý vĩnh cữu. Ánh sáng mặt trời sẽ theo thời gian mà lu dần, chứ Ngũ giớiThập thiệnBát chánh đạoLục hòaLục độ Ba La Mật… trong nhà Phật sẽ sáng mãi. Con đường giải thoát khỏi đau khổ và phiền não của đạo Phật sẽ mãi mãi rạng ngời. Những học thuyết khoa học có thể một ngày nào đó bị mai một và đào thải, chứ luật vô thườngvô ngã của nhà Phật vẫn là những chân lý rạng ngời và bất hư. Ai có thể đánh đổ được những lời chỉ dạy nầy? Chẳng sát sanh hại vật, chẳng lường gạt ai, chẳng ăn trộm ăn cướp của ai, chẳng quyến dụ vợ con người, chẳng gây gỗ tranh cãi với ai…Đối với chúng sanh mọi loài thì từ, bi, hỉ, xả, rộng lòng bố thíquảng đại khoan dung. Còn chân lý nào cao hơn chân lý nầy?

Kỳ thật, người viết bài nầy không muốn nói nhiều, hoặc đánh bóng những gì vốn dĩ đã bóng láng. Không muốn làm cái chuyện mẹ hát con khen; tuy nhiênnếu không nói ra thì e rằng mình đã không làm trọn vẹn cái tâm nguyện xẻ chia những lợi lạc mà mình đã được hưởng. Đem kinh nghiệm và sự hiểu biết của một người chưa quá ngũ tuần mà kết luận rằng đạo Phật là một chân lý vĩnh cữu, thì e rằng có vẻ hàm hồ chăng? Tuy nhiên, không còn một ngôn từ nào khả dĩ có thể dùng được cho những chân lý bất hư nầy cả.

Ai có thể chối cãi hoặc đánh đổ những lời Phật dạy? Muốn sống đời thiện lành thì không nên sát sanh hại vật. Muốn không làm não hại người thì không nên trộm cướp. Muốn thân tâm mình và người được yên ổn thì không nên hành động xằng bậy. Muốn sống đời tín nghĩa thì không nên điêu ngoa xảo trá, hoặc nói ngược nói ngang. Chân lý vĩnh cữu nầy không phải chờ đến một kiếp nào, mà là ở đây, ở ngay trong đời nầy kiếp nầy. Chân lý ấy không phải đợi đến lúc Phật thị hiện mới có, mà có sẳn ở trong mỗi người chúng ta từ vô thỉ và nó sẽ trường tồn mãi mãi. Ta đi đâu, đến đâu, địa ngục hay Niết bànchân lý ấy vẫn theo ta như hình với bóng. Có điều chúng sanh cứ mãi lăn trôi trong luân hồi sanh tử, cứ đi trong vô minh tăm tối, mà không thấy được cái chân lý tuyệt diệu ấy mà thôi. Ngược lại, nơi Phật, Ngài đã diệt tận vô minh, nên chân lý ấy luôn hiển bày. Rồi vì thương xót chúng sanh mà Ngài đã hết lòng chỉ giáo những điều Ngài biết, những mong ai nấy đều hiển lộ được chân lý ấy như Ngài. Như vậy, người tin và tu theo Phật, chỉ cần thường hằng giác ngộ, thì tự nhiên Phật tánh hiển lộChân lý ấy không chủ trương sự tham lamsân hậnsi mêbỏn xẻn và ích kỷ của con người là do bởi quỷ Sa Tăng gây ra, hoặc giả gây ra do bởi sự yếu đuối của con người. Ngược lại, tất cả những xấu xa bỉ ổi nhứt của con người đều do bởi vô minh mà ra. Người con Phật muốn được hằng sống với chân lý vĩnh cữu ấy, chỉ cần thường hằng giác ngộ, chỉ cần thường hằng biết được đời là tập hợp của một chuổi vô thườngChân lý ấy không nằm ở ngoài hình tướng, vì những gì của hình tướng không phải là của đạo Phật. Ngay cả ngôn từ cũng không thể nào diển tả hết được về lý chân nầy. Chân lý ấy chỉ đến với chúng ta qua thực nghiệm tự thân. Nói thế nào thì làm thế ấy, đấy là chơn lý. Nói từ, bi, hỉ, xả là phải thực hành từ, bi, hỉ, xả. Nói không sát sanh, không trộm cướp, không vọng ngữ, không tà dâm, không rượu chè, là phải thực tâm hành trì những thứ ấy, thì chân lý vĩnh cữu mới có cơ hiển lộChân lý vĩnh cữu nầy quả là khó khăn cho những đứa con tại gia vô cùngVừa phải biết đạo lý làm người, mà cũng vừa phải tu hành theo đạo lý làm Phật. Nói khó không có nghĩa là không làm được. Người con Phật quyết mang chân lý ấy đi thẳng vào đời, lăn xả vào đời, vừa tu nhân tích đức, mà cũng vừa tu huệ để đi đến giải thoát rốt ráo. Người con Phật mang chân lý đó vào đời, hy sinh cho nhân quần xã hội, nhưng vẫn không quên lời nhắn nhủ của Thế Tôn: “thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh.”

Chính chân lý ấy đã giúp cho những người con Phật thấy được sự giả tưởng của chư pháp. Thấy để biết rằng chẳng có cái gì là TA, mà cũng chẳng có cái gì là CỦA TA cả. Chính chân lý ấy đã giúp cho những người con Phật thấy được nhân quả thiện ác, từ đó biết đường biết nẻo mà tìm về với thiện pháp, hầu dứt trừ hết thảy mọi khổ não trong đời. Chính chân lý ấy đã đưa những người con Phật đến gần với chúng sanh mọi loài mà tỏa rộng tâm từ ra để cứu khổ ban vui. Cũng chính chân lý ấy đã giúp cho những người con Phật đoạn tận mọi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiếnChân lý ấy không có hình sắc tướng mạo; nó bồng bềnh, không đến không đi. Nó luôn hiện hữu trong mỗi chúng tatuy nhiên, không chạy đông chạy tây mà cầu được, cũng không xin mà được. Mỗi người chúng ta, nếu quyết hành trì rốt ráo lời Phật dạy, quay ngay về tự thân mà thực nghiệm, thì chân lý ấy sẽ hiển lộ sáng ngờiLúc ấy cuộc sống cuộc tu của ta sẽ ung dung tự tại vô cùng.

Tuy nhiênchúng sanh với những kiếp lăn trôi trong luân hồi sanh tử, với những kiếp phù du ngắn ngủi, lại sanh vào cõi Ta Bà thiếu đạo lý, đầy dẫy sự bất chánh với những tham lamsân hậnsi mêthân tâm thì lúc nào cũng trầm mê trong trụy lạc, nên việc gặp, hiểu và tin theo Phật pháp quả là thiên nan vạn nan. Chính vì thế mà đa phần chúng sanh đều sống trong trùng trùng điệp điệp của khổ đau và phiền não. Thế rồi não phiền mẹ đẻ ra não phiền con, não phiền con đẻ ra não phiền cháu; cứ thế mà hành hạ và đày đọa chúng sanh. Chính vì thế mà cõi Ta Bà nầy ngày càng Ta Bà hơn. Chúng sanh bị ảo tư•ng khống chế, do đó cứ ngỡ những gì lóng lánh đều là ngọc ngà vàng bạc hay kim cương, rồi cứ thế mãi miết chạy theo đuổi hình bắt bóng, cuối cùng là ôm lấy khổ đau phiền nãoChúng ta nào hay rằng quanh ta bao nhiêu cái khổ đang rình chờ; nào là sanh, lão, bịnh, tử; nào là thương yêu mà phải xa lìa; nào là oán ghét mà cứ phải gặp nhau; nào là sanh ly tử biệt; nào là mong cầu mà không được toại nguyện… Hỡi những người con Phật! Hãy quay ngay trở về sống thực với những chân lý vĩnh cữu của nhà Phật, để thấy rằng tất cả mọi khổ đau phiền muộn đều bắt nguồn từ những ham muốn dục vọng. Tham sống nên sợ chết, vì thế mà khổ; ham quần là áo lụa để rồi không toại chí nên khổ; ham trẻ mãi nhưng thời gian cứ trôi và trôi mãi, mặt cứ nám, da cứ nhăn, răng cứ long, tóc cứ bạc… nên khổ. Ham mong khang kiện khỏe mạnh, mà bịnh hoạn cứ mãi dây dưa nên khổ. Những người Phật tử chân chính hãy quay ngay trở về với chân lý vĩnh cữu của nhà Phật mà buông bỏ tất cả những ham muốn dục vọng, thì tự nhiên hết khổ. Hãy hiểu đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, tinh tấn tấn đúng, nhớ đúng và chính tâm chính niệm như lời Phật dạy, thì cho dù có sống trong bể khổ đi nữa, cũng không bao giờ bị khổ đau khống chế. Như vậy chân lý vĩnh cữu nầy không bao giờ đi chung với tham lamsân hậnsi mê, trộm đạo, lừa đảongã mạn, xu nịnh, ghen ghét… Chân lý vĩnh cữu nầy chỉ đi với từ, bi, hỉ, xả và chỉ hiện hữu trong một cuộc sống an lạc và hạnh phúc mà thôi.

Mục tiêu tối thượng của đạo Phật là tu giải thoáttuy nhiên, không phải ai cũng có đủ cơ duyên để tu giải thoát hết đâu? Chính vì vậy mà Đức Từ Phụ cũng đã hằng khuyên nhủ tứ chúng là hãy sống thực với chân lý thì tự nhiên niềm vui rồi sẽ tới, nổi khổ rồi sẽ tan biến. Đừng dong ruổi tìm cầu, vì dong ruổi tìm cầu sẽ chẳng được gì, ngược lại chỉ gánh thêm khổ đau phiền muộn mà thôi. Tất cả mọi thứ trên đời nầy đều do duyên sanh, rồi cũng do duyên diệt, chứ không có một thứ gì ngẫu nhiên cả, đó là chân lý vĩnh cữu và không thay đổi. Hễ đủ duyên thì sanh, mà hết duyên thì diệt. Người con Phật phải nhìn thấu triệt như vậy để chỉ tạo thêm duyên cho những việc thiện lành, chứ quyết không tạo thêm duyên cho việc ác nổi lên. Chúng ta cũng nên luôn cảnh tỉnh, để nhỡ mà ý tưởng xấu ác có nổi lên trong ta, ta biết mà không tạo thêm duyên trưởng dưỡng chúng. Hơn nữa, với giáo lý tuyệt vời của nhà Phật, không có cái gì xấu, cái gì tốt, chỉ có sự phân biệt mê dại của chúng sanh. Đó là chân lý vĩnh cữu. Không có ai sai hay ai ngu, chỉ có sự chấp trước mê dại của chúng sanh mà thôi. Những ai không thông triệt chân lý nầy, sẽ vô cùng khốn khổ khi gặp những biến cố xãy đến trong đờiTuy nhiên, với những người biết vâng giữ lời Phật dạy, thông triệt chân lý vĩnh cữu, sẽ an nhiên tự tại trước mọi biến cố của cuộc đời.

Chân lý vĩnh cữu nầy cũng giống như ngọc trầm thủy thượng, hoặc giả bị chôn vùi trong đám cỏ dày đặc của não phiền đau khổ, mà con người không dễ dàng tìm thấy được. Mỗi người có một cách sốnglối sống khác nhau, nên phiền não của mỗi người cũng có khác, nên chi việc trở về tìm chân lý ấy cũng có phần khác nhau. Đức Từ Phụ đã vì thương xót chúng sanh, nên Ngài đã chỉ bày cặn kẻ làm sao để tìm được hương vị ngọt ngào của chân lý vĩnh cữu nầy. Ngài dạy rằng chính những ngọn lửa tham lamsân hận và si mê đã đốt cháy chơn tâmxui khiến ta làm điều tổn hại chúng sanh và sống xa rời chân lýNgoài ra những ngọn lửa lo âu sợ sệt cũng góp phần không nhỏ vào việc đốt mất trí huệ, khiến ta ngày càng xa lìa chân lý.

Muốn đạt được chân lý vĩnh cữu nầy, chúng ta phải làm gì? Trước hết chúng ta phải biết vâng giữ lời Phật dạy, đừng để cho nhen nhúm bất cứ đóm lửa tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến nào; phải luôn nuôi dưỡng từ tâmtừ ý nghĩ, lời nói đến việc làm đều phải đúng đắn, thanh sạch và vô tư. Phải thông triệt tứ diệu đế để thấy từ đâu có khổ, do đâu mà khổ phát triển, làm sao để diệt khổ và tiến về nẻo đạo. Phải luôn hành trì bát chánh đạo để lúc nào cũng hiểu đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, cố gắng đúng, chính tâm và chính niệm để luôn sống đời hướng thượng. Phải thu thúc lục căn để chỉ thấy những cái đáng thấy, nghe những cái đáng nghe, nếm ngữi những cái đáng nếm ngữi, suy nghĩ những cái đáng suy nghĩ mà thôi. Một khi lục căn đã bị thu thúc thì lục trần và lục thức cũng đành thúc thủ, do đó cả thân lẫn tâm ta sẽ thanh khiết vô cùng. Phải dẹp bỏ cái “Ngã” vì chính cái “ngã” nó xúi biểu ta ôm đồm tất cả mọi thứ, từ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Chính cái “ngã” nó xúi ta nhận lấy lời thị phi tranh cãi mà sanh ra đau khổ. Hãy lắng lòng nghe lời chỉ dạy của Đức Từ Phụ để thấy rằng không có cái gì là ta, mà cũng không có cái gì là của ta cả, chẳng qua chỉ là sự chấp trước mê dại của chúng sanh mà thôi. Phải luôn trì giới vì chính Đức Từ Phụ đã ân cần dạy dỗ là trong thời không có Phật tại thếchúng sanh phải lấy giới luật làm thầy. Giới luật chính là con thuyền Bát Nhã đưa ta về với chân lý vĩnh cữu; không giữ giới là tự mình đâm lủng thuyền, còn mong gì tìm ra chân lý? Hãy an bần lạc đạo trong giới luật của nhà Phật. Hãy mau xa lánh mọi vui thích tạm bợ của trần thế ta bà, mà tìm về với chân lý vĩnh cữu của nhà Phật. Phải luôn hành trì lục độ, từ trì giớinhẫn nhụctinh tấnthiền định… cho tới khi đạt được chân lý Phật đàBố thí một cách sâu rộng và bình đẳngbố thí không phân biệt thân sơ hay bạn thù; bố thí không tiếc rẻ nhiều ít; không bố thí rồi tự kiêu tự mãn; bố thí với tất lòng thànhbố thí mà lòng luôn kính trọng và nhớ ơn người đã cho chúng ta cơ hội làm bố thíNhẫn nhục những cái đáng nhẫn và ngay cả những cái không đáng nhẫn. Tinh tấn hành thiện, không hành ác. Thiền định để trở về sống thực với thực tại của chính tự thân mình. Ngoài ra, muốn tìm về với cái chân lý vĩnh cữu nầy, chúng ta còn phải hành trì từ, bi, hỉ, xả. Phải dứt bỏ lòng tham muốn; phải lân mẫn với tất cả mọi loài chúng sanh. Lúc nào cũng mong muốn mang lại hạnh phúc và an vui cho mọi người. Luôn tìm cách ban vui và chia sớt nỗi niềm đau khổ của tha nhân. Luôn vui với cái vui của người. Chính nhờ từ, bi, hỉ, xả mà mọi tham, sân, si, vui, buồn, thương, ghét sẽ bị loại bỏ.

Tóm lại, muốn đạt được chân lý của Phật Đàcon đường duy nhất của những người con Phật là phải vâng giữ và hành trì những lời Phật dạy. Phải vững tin rằng với đuốc sáng từ bi của Phật Tổ, cơn giông tố đêm đông rồi sẽ qua, mùa xuân rồi sẽ đến, mặt trời rồi sẽ mọc, để xóa tan đi bóng đen dày đặc của vô minh và phiền não. Những người con Phật, xuất gia hay tại gia, luôn cương quyết dứt bỏ tham, sân, si, hận thùganh ghétngã mạncống caotà kiến… Nên nhớ, không hẳn phải đầu tròn áo vuông mới là đương nhiên tìm được chân lý vĩnh cữu nầy đâu; cũng không phải ngân nga vài ba câu kinh tiếng kệ mà chân lý hiển bày; lại càng không quọt quẹt vài ba mớ thiền mà đạt được chân lý nầy. Đừng tiếp tục tô son trét phấn cho bề ngoài, mà hãy trở về ngay với chính mình, buông xả và dứt bỏ tất cả. Hãy giữ cho thân thẳng, cho tâm thanh tịnh. Hãy xa rời những tham, sân, si và loạn động. Hãy cố gắng nhu hòa, nhẫn nhụckhông chấp nê phân biệt. Hãy luôn cẩn trọng từ hành vicho đến lời nói và ý nghĩ. Hãy nguyện như lời Phật nguyện năm nào, cho dù tan xương nát thịt đi nữa, chúng ta vẫn quyết tâm tiến thẳng về đất Phật vì cơ hội hãn hữu nầy chưa chắc sẽ đến với chúng ta lần nữa.

354. TU 

Chữ “Tu” trong Phật giáo thật đơn giản và rõ ràng vô cùng. Tu là “sửa.” Sửa cái gì hư, cái gì xấu, cái gì không còn dùng được nữa, cho thành tốt và có thể dùng được. Ngay cả những kẻ cùng hung cực ác, nếu chịu buông bỏ con dao đồ tể, cũng sẽ có cơ may thành Phật được. Theo Đức Từ Phụ, tu là hành trì theo các pháp môn của nền đạo để diệt trừ các mối phiền não và được an lạc. Nghĩa là y cứ theo nghĩa lý những gì mà Phật đã giảng dạy trong các kinh điển của Ngài mà tu tập và giữ gìn đạo hạnh. Chính Đức Thế Tôn đã từng khẳng định : “Nước mắt của mọi người cùng mặn, máu của mọi người cùng đỏ, tâm của mọi người đều có tánh sáng suốt và tình thương như nhau.” Như vậy Phật Tổ đã khẳng định quá rõ ràng cho những ai muốn có cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát rồi còn gì. Tuy nhiêncon đường duy nhất đưa người con Phật đến những mục tiêu cao cả tuyệt vời phải bằng cách thực tiển hành trì từ, bi, hỉ, xả vào cuộc sống hằng ngày. Thế nhưng chúng sanh nói chung và con người nói riêng, vẫn tiếp tục lăn trôi trong tam đồ lục đạo. Tại sao lại như vậy?

Phật Tổ và mười phương tam thế chư Phật đã thành Phật vì các Ngài biết tiết chế lòng ham muốn và điều phục thân tâm, không để cho ngũ dục của thế gian lôi cuốn. Các Ngài đã không để cuộc đời mình luống qua trong vô ích, hoặc không bị dập vùi bởi những dục lạc của trần gian. Ngược lại, các Ngài rộng nguyện dứt bỏ phàm tình để sống đời vị tha bác ái, lân mẩn chúng sanh muôn loài. Chúng ta có thể làm được như chư Phật không? Phật Tổ đã không từng khẳng định : “Phật tánh ở Phật thế nào thì Phật tánh ở chúng sanh cũng thế ấy. Tuy nhiênchúng sanh do bởi vô minh che lấp mờ đi cái trí tuệ sáng suốt, nên đối cảnh hôn mê rồi khởi lòng chấp nhiễm, đưa thân khẩu dong ruổi đó đây tạo thêm nghiệp chướng và tội lỗi. Lại nữa, trong cuộc sống hằng ngàychúng sanh luôn bị lửa phiền não và tham sân luân phiên hành hạ, thân cận bạn bè xấu ác, buông thả cho dục vọng khống chế thân tâm, tự cao tự đại. Thế mà chả tin vào luật nhân quả và sanh tử luân hồi, làm sao mà không lăn trôi trong tam đồ lục đạo đây?”

Bây giờ chúng sanh nào muốn được cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát, phải nhận chân rõ ràng rằng từ vô thỉ vẩn đến ngày nay, chúng ta đã lăn trôi tạo nghiệp, hoặc do sáu căn, hoặc do thân khẩu ý, hoặc do nội tâm điên đảo bất chánh. Trong muôn nẻo luân hồi chúng ta đã từng gây ra vô vàn phiền não cho người và cho ta. Chúng ta đã nhắm mắt chạy theo tham vọng ích kỷ cũng như tiếng gọi của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiếnChúng ta đã từng vỗ tay tán thưởng nội ma ngoại chướng và tiếp tay cho chúng mặc tình thao túng thân tâm nầy cho rã rời tan nát. Trong xã hội văn minh vật chất hôm nay, con người có thể đưa nhau lên những tinh cầu xa xôi, nhưng hãy nhìn cho kỷ lại mà xem, nhân loại càng ngày càng trở nên đau khổ hơn, tình thương chân thật ngày càng khô cạn đi, con người ngày càng cuồng vọng và ngập chìm trong sa đọa hơn. Nói cho rõ ra, văn minh vật chất càng cao bao nhiêu, thì cuộc sống tâm linh và luân lý đạo đức càng khô cằn bấy nhiêu. Con người sống trên nhung lụa với đầy đủ phương tiện, nào là nhà cao cửa rộng, nào là xe mới xe đẹp, nhưng lúc nào cũng cảm thấy lo lắng và bất anCon người sống trong khoái lạc tạm bợ, vui ít buồn nhiều mà không biết. Ngược lại, cứ mãi dong ruổi tìm cầu và chạy theo nắm bắt những cái bong bóng nước. Trong xã hội loạn động hôm nay, lòng tham của con người chẳng những không giúp làm vơi được những trầm thống triền miên, mà còn góp phần gây thêm đau khổ cho những chúng sanh vốn dĩ đã đau khổQuả tình nhân loại đang sống trong căn nhà lửa khổng lồ; từ lửa tham, sân, si, đến lửa câu nệ chấp trước , ngã mạncống caoái dục… Thế mà đa phần chúng ta vẫn tỉnh bơ không chút kinh vì. Ngược lại còn vỗ tay tán thưởng nữa là khác. Những người con Phật có thấy lửa đang cháy lan và sắp sửa thiêu đốt cả thân lẫn tâm mình chưa? Chính những đám lửa ấy đã làm mắt ta mờ, tai ta điếc, nhưng lại mờ điếc trong một chiều hướng vô cùng bịnh hoạn. Lỗi mình thì mờ, còn lỗi người thì lại thấy rõ vô cùng. Chuyện mình thì không nghe, còn chuyện người thì lại cố tình lắng tai nghe rõ vô cùng. Thấy như vậy mới biết làm con người, ai mà chẳng có vô vàn phiền não, ai mà chẳng phạm phải những lỗi lầm? Nếu đã thấy rồi mà vẫn còn tỉnh bơ, không chút kinh vì, ví bằng chẳng thấy chẳng biết còn hơn.

Hỡi những người con Phật! Hãy chí tâm đảnh lễ chư Phật. Hãy lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy hạnh Phật làm hạnh mình, lấy nguyện Phật làm nguyện mình, hầu góp phần thanh tịnh lấy mình và chúng sanh mọi loài. Tuy nhiên, muốn làm được những điều nầy, trước nhất phải tự mình tu tâm sửa tánh. Muốn tu tâm sửa tánh, trước hết phải tìm về nương nơi Tam Bảo, vì Tam Bảo chẳng những là kim chỉ nam cho ta trên bước đường tu tập, là ruộng phước cho chúng sanh muôn loài, là người bạn đồng hành cùng đi với ta trên đường trở về đất Phật. Hãy chí tâm đảnh lễ hết thảy chư Phật vì nếu không có chư Phật, chúng ta sẽ không có con đường nào khác để lựa chọn ngoài mê đồ tăm tối và vô minh. Hãy chí tâm đảnh lễ chư pháp vì chư pháp chính là những ngọn hải đăng soi đường dẫn lối cho chúng sanh lạc loài trong đêm tối mịt mùng. Hãy chí tâm đảnh lễ chư tăng, những vị giáo đạo tuyệt vời, đã can đảm kiên trì cầm giữ những ngọn hải đăng của ánh đạo vàng trong những cơn mưa gió bão bùng.

Đảnh lễ Phật Pháp Tăng không thôi cũng chưa gọi là tu, mà phải biết thành tâm sám hối nghiệp chướng, từ phiền nãoác nghiệp đến khổ báo. Chính những thứ nầy đã luân phiên xóa mờ trí huệ của chúng sanh và cuối cùng đưa chúng sanh quanh quẩn trong tam đồ lục đạo. Những người con Phật hãy can đảm lên! Hãy tự cảm thấy hổ thẹn với những tiền khiên hậu quá của chính mình. Hãy kinh vì khổ báo, chán bỏ ác nghiệp và phiền não. Hãy tinh tấn dũng mãnh phát tâm Bồ đề để đi ngược lại dòng đời sanh tử. Hãy cố mà quan sát xem coi những nghiệp chướngphiền não và khổ báo đã góp gì được vào cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát của ta, hay chúng chỉ đưa ta vào địa ngục A Tỳ, xứ địa của những loài quỷ dữ. Hãy bình tâm xem coi rồi ta sẽ được gì nếu ta cứ tiếp tục hơn thua trong phàm tình thế tục? Hãy nghĩ cho kỹ lại mà xem Thế Tôn cũng từng là một phàm phu như chúng ta, thế sao Ngài lại có khả năng vượt qua bể khổ sông mê, còn chúng ta vẫn đam mê trần tục, vẫn mãi lưu chuyển trong luân hồi sanh tử? Tại sao lại như vậy? Tại vì thân khẩu ý của Thế Tôn tinh sạch đến độ thanh thoát, Ngài đã nhàm chán sanh tử luân hồi, Ngài đã thấu rõ vạn pháp là không thật nên Ngài buông bỏ. Ngài đã thấy rõ trên đường sanh tử của chúng sanh, nó trùng trùng điệp điệp những mộng mị, mộng đẹp đâu không thấy, chỉ thấy toàn ác mộng. Ngài đã biết kinh vì sự ô uế và bất tịnh của thân tứ đại nầy, nó chỉ là trung tâm tập hợp của khổ đau và phiền não. Chính vì thấy được những thứ trên, nên ở Phật Ngài đã buông bỏ đến độ không còn gì nữa để mà vướng với mắc. Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, uy quyền cao tột, mà quay về với chỉ một chữ “Tu.” Ngài đã nhứt tâm tu và đã trở thành một bậc “Nhứt Thế Trí” trong cõi trời người.

Còn chúng sanh và con người chúng ta thì sao? Chúng ta cứ nay lần mai lựa, nay thân nầy mốt lốt nọ. Tuy được sanh ra làm con người ở kiếp nầy, nhưng có ai dám đoán chắc là mình sẽ không làm con trâu con ngựa ở kiếp lai sanh đâu? Chúng ta cứ vô tình hay cố ý đi vào cõi sanh diệt của thế gian, chứ nào có hay đâu mạng nầy vô thường còn thua ánh nến đang lung lay trước gió, không nhứt thiết phải hết sáp nến mới tắt, mà nó có thể tắt bất cứ lúc nào. Một hơi thở ra mà không trở vào là xong. Trong cuộc sống hằng ngày ta cứ oang oang tự đắc, tự cho mình là hay là tuyệt, mình không có gì để lỗi phải với thế gian, nên cần chi “tu hành.” Hãy suy nghĩ cho kỹ lại mà xem, một cái nhất chân động tay của ta là bao nhiêu sinh vật lạc loài bé nhỏ phải vong mạng vì ta. Đó là chưa nói đến những đời quá khứ ta đã lăn trôi tạo nghiệp, nghiệp ấy theo ta như bóng với hình, chứ nào có chịu rời ta. Những người con Phật đã thấy chưa, đã kinh vì chưa? Chính vô minh đã xô đẩy con người biến phiền não thành ác nghiệp, rồi vì mang những ác nghiệp mà con người phải bị những quả báo đau khổ cùng cực. Phải chi phiền nào là cái gì có thật thì cũng cam, đàng nầy nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Không lẽ chúng ta lại vin vào những sản phẩm giả tạo của tham sân si để tiếp tục lăn trôi hay sao? Không lẽ những người con Phật lại để cho tham sân si giết chết tuệ giác của mình hay sao? Không đâu! Những người con Phật quyết vận dụng thiện tâm, quyết học theo tâm, hạnh và nguyện của chư Phật và chư Bồ Tát mà thoát cho ra khỏi vòng kềm tỏa của sinh tử luân hồi ngay trong đời nầy kiếp nầy. Hãy bắt chước theo Ngài Quán Âm, tập lắng nghe và thông hiểu nhau cho đời bớt khổ. Hãy tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn, thay vì hàm hồ cho rằng mình đã hiểu và đã biết. Hãy tập ngồi nghe với tâm không thành kiến, không hàm hồ phán xét, không phản ứng. Hãy cố mà hiểu những gì đã được nói ra và ngay cả những gì chưa được nói ra. Hãy bắt chước theo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tập dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật, sự việc và lòng người. Hãy tập nhìn cái nhìn “Như Thị” để thấy và hiểu rõ những gốc rễ của khổ đau phiền não. Hãy “Tu” cho được cái gươm “Trí Huệ” của Ngài Văn Thù Sư Lợi, hầu góp phần giải thoát cho mình và cho đời. Hãy tu theo hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, đem trái tim và con mắt của một con người có nhơn có đạo đi vào cuộc sống hằng ngày. Hãy tập ban vui cứu khổ, xem hạnh phúc người như chính hạnh phúc mình. Hãy nhớ rằng đau khổ hay hạnh phúc trong thế gian nầy đều do chính ta tạo nên. Mỗi cử chỉlời nói, hành động và nụ cười của ta có thể làm cho người đau khổ, mà cũng có thể làm cho người hạnh phúc. Vậy chúng ta chọn con đường nào hỡi những người con Phật? Tiếp tục lăn trôi tạo nghiệp và gây đau khổ hay quay ngay trở về “tu ” lấy mình, để mình và người cùng có cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát?

Trong cuộc “tu” của người con Phật, chúng ta có thể từ từ tiến bước, nghĩa là trước nhất hãy cố tạo cho được một đời sống an bình hạnh phúc, rồi sau đó hẳn “tu” cho giải thoátTuy nhiên, một khi đã quyết chí tu trì thì người con Phật phải phát tâm Bồ đề mà tu, chứ không lần lựa chần chờ. Không vì quả vị Duyên giácThanh văn, Bích Chi, Bồ Tát mà tu; duy chỉ nguyện thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh, cho tới khi nào pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn mới thôi. Khi “tu” người con Phật phải nhứt tâm nguyện kim đắc quả thành Bảo Vươnghoàn độ như thị hằng sa chúng. Cho dù thịt nát xương tan, chúng ta luôn tâm nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Hỡi những người con Phật! Hãy thành thật mà cương quyết với chính mình, chỉ cần chúng ta quay tr• về mà tu với “Tứ hoằng thệ nguyện” thì một sớm một chiều nào đó. Pháp giới chúng sanh sẽ đồng thành Phật quả. Ngược lại, nếu nói “tu” mà không cương quyết phát nguyện, thì cho dù có lập bao nhiêu kiểng chùa, mặc bao áo cà sa đi nữa, vẫn phải lăn trôi và phí đi bao nhiêu công lao cho sự nặng phần trình diễn mà thôi. Thấy như vậy mới biết cho dù có hành trì vạn triệu thiện pháp cho những mục đích vị kỷ, ấy chỉ là cách hành trì của những loài ma trơi. Người con Phật quyết không tu hành theo kiểu đó. Ngược lại, người con Phật “tu” chỉ với hai mục đích rõ rệt: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Như vậy sự hành trì thiện lành của người con Phật không vì mong được bất cứ thứ gì ngoài việc thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Làm được như vậy, người tu Phật ắt phải xa tà mà quay về với chánh. Làm được như vậy, người con Phật sẽ không màng cầu cái gì cho tự mình, ngoài chuyện đưa mình và đưa người thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã khẳng định rõ ràng trong các kinh điển của Ngài rằng ai cũng có thể hướng thượng, ai cũng có thể làm Bồ Tát hoặc làm Phật được; có điều là chúng ta có chịu đem sự hiểu biết của mình ra mà tu và tự cải tạo thân tâm mình không thôi. Con đường nào nên đi thì Đức Từ Phụ đã chỉ rõ rồi, giờ là phiên của chúng ta phải tự mình thắp đuốc lên mà đi và tự mình phát triển những hạnh lành, không để cầu chứng đắc, mà để làm nơi an trú cho mình, cho người và cho đời. Hỡi những người con Phật! Hãy quay về để tự biết khả năng thánh thiện nơi chính mình. Hãy quay ngay về khai triển tuệ giác nơi chính mình cho Phật tánh hiển lộ. Đừng tiếp tục dễ duôi trây lười để cho cuộc đời mình cứ phải trôi theo và lụn bại dần với thời gian nữa hỡi những người con Phật! Luôn nhớ và tin tưởng rằng nếu nước có thể tẩy sạch những bẩn nhơ của thân thể, làm cho ta cảm thấy mát mẻ dễ chịu, thì giáo pháp của Đức Thích Tôn Từ Phụ cũng có thể giúp cho những người con Phật tẩy sạch tâm mình mà lần bước về nẻo giác ngộ bồ đề và giải thoát.

“Tu” của người con Phật là đơn giản và dễ hiểu như vậy đó: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanhTuy nhiên, muốn học làm Phật, trước hết phải học làm người; muốn hóa độ chúng sanh, trước hết phải tự hóa độ mình. “Tu” trong đạo Phật là thẳng một đường như vậy đó, chứ không lòng vòng biện giải hí luận. Trong đạo Phật, ăn no rồi lý thuyết biện giải, chỉ là giởn chơi với địa ngục, chớ không dính dấp gì đến chuyện “tu hành.” Trong đạo Phật, những ai càng đam mê hí luận biện giải, tâm họ càng loạn động, thân họ càng nhơ nhớp. Người “tu” Phật phải sáng suốt nhận ra cho được chân nghĩa của chữ “tu” để không quanh co trong hí luận biện giải, để thẳng một đường tu. Hỡi những người con Phật! Đời vốn dĩ đã dẫy đầy đau khổ và phiền não cũng chỉ vì cuồng vọng của chúng sanh. Không lẽ chúng chúng ta đến với cuộc đời bằng tiếng khóc, rồi cũng ra đi bằng tiếng khóc của vô vàn khổ đau phiền não hay sao? Không đâu! Những người con Phật quyết phát tâm “tu” với với chí nguyện “thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh.” Hãy phản quang tự kỷsám hối tội chướng và cầu hướng thượng. Hãy sống và tu trong tinh thần từ bi hỉ xả của nhà Phật. Hãy quên đi bản ngã thấp hèn nhỏ nhen của chính mình, để hướng về những ngọn Thái Sơn của Tứ Nhiếp Pháp và Bát Thánh Đạo. Hãy xả bỏ tự danh tự lợi, để hướng về những đại dương của Bác Ái và Lợi Tha. Hãy đem giáo pháp tuyệt vời của Đức Từ Phụ mà hành trì trong đời sống hằng ngày, để ban vui cứu khổ cho mình và cho đời. Hãy xả bỏ đi những tham danhlợi dưỡngsân hận, tị hiềm, ích kỷ mà quay về với thanh bần lạc đạotàm quý khiêm cung và tinh tấn thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Hãy ngưng ngay những say sưa đắm đuối, lặn ngụp trong vũng lầy sa đọa của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến và hãy hít thật sâu vào tâm trí ta những hơi thở tuyệt vời của chánh đạo. Hãy làm những điều nầy ngay bây giờ, ngay trong đời nầy kiếp nầy. Chúng ta sẽ không còn nhiều thì giờ nữa đâu hỡi những người con Phật!

355. TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG PHẬT TỬ TRÍ THỨC 

Đạo Phật, một triết lý sống hạnh phúc và tu giải thoát, một luân lý học hoàn hảo, một siêu hình học của không gian ba chiều, thời gian ba chiều… Đạo Phật là tất cả, hễ cái gì hợp với lẽ phải và chơn lý, cái đó là đạo PhậtTuy nhiênđạo Phật đã không và sẽ không bao giờ là một học thuyết suông. Nếu chỉ thị hiện ra nơi đời để khai sáng một học thuyết, chắc là Phật đã không thị hiệnMục đích của Phật là nhằm giúp chúng sanh mọi loài cũng thấy được cái thấy của Phật, để chuyển mê thành ngộ, chuyển đau khổ thành an lạc, chuyển trầm luân thành giải thoát, chuyển Ta Bà thành Tịnh Độ… Muốn chuyển mê thành ngộ, muốn được an lạc và giải thoátchúng ta phải qua một quá trình tu tập, chứ không phải bằng học suông.

Có nhiều người không thực sự thấu hiểu đạo Phật nên vội trách tại sao đạo Phật không tạo ra những hàng tăng sĩ có kiến thức và văn hóa cao như hàng giáo phẩm của các tôn giáo khác? Các tôn giáo khác là các tôn giáo khác, ở đây chúng ta xin miễn bàn về họ. Tuy nhiênchúng ta cần phải nhấn mạnh đến mục đích của việc tu hành theo Phật. Tu là đi ngược lại dòng đời, là buông bỏ tất cả những hư danh ảo vị của cuộc đời để đi vào cửa ngỏ của giác ngộ và giải thoátĐạo Phật không chống lại chuyện học hỏi kiến thức chuyên môn ngoài đời; tuy nhiênđạo Phật cảnh giác những trí thức phàm phucoi chừng nếu không khéo thì hết ngày dài rồi lại đêm thâu, ta chỉ loanh quanh lẩn quẩn với ba mớ kiến thức phàm tục mà thôi, chứ không tu hành được gì cả. Thậm chí, nhiều khi đã chứa quá đầy những kiến thức ngoài đời rồi, đâu còn chỗ nào dành cho Phật pháp nữa. Thấy như vậy, người Phật tử hãy vô cùng cẩn trọng về sự khác biệt rõ nét giữa kiến thức phàm phu và tu hành rốt ráoKiến thức phàm phu có thể giúp ta trong sinh kế hằng ngày, nhưng ít khi giúp gì được cho ta trong chuyện tu hành lắm. Ngược lại, chính kiến thức phàm phu là một cản trở lớn lao cho bước đường tu tập của ta. Lắm khi chính cái kiến thức phàm phu nầy nó dẫn dắt chúng ta đi vào con đường ngã mạncống cao, ta là trung tâm vũ trụ, ta là tất cả. Dưới mắt ta, thiên hạ là đồ bỏ. Chính vì thấy rõ những trục trặc nầy mà Đức Từ Phụ đã nói trong rất nhiều kinh điển của Ngài rằng trong thời Mạt Pháp sẽ có lắm ma nhiều quỷ, chúng không có ý định tu hành, mà chỉ tom góp ba mớ hiểu biết rồi đi đây đi đó biện giải hí luận. Không chịu tu hành cho bản thân mình thì thôi, đàng nầy chúng còn tìm cách đánh phá những người quyết chí và thực tâm tu hành. Là Phật tử, nên hiểu lời Phật dạy, hãy để lại ngoài cổng chùa tất cả những gì của phàm phu, hãy bước vào chùa với đạo tâm chân thật. Nên nhớ rằng đi tu là buông bỏ tất cả những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiếnbiên kiếnác kiến; đi tu là thực nghiệm tự thân bằng những lời Phật dạy, chứ không chỉ học như kéc mà chẳng thực hành gì cả. Nghiên cứu về đạo giáo là điều nên làm, nhưng phải làm trong khiêm cung từ tốn. Nên nhớ rằng tài ta chỉ là một hạt cát trong sa mạc mênh mông mà thôi. Ví bằng nghiên cứu mà đưa đến ngã mạn cống cao, nay chê sư nầy, mai chê tăng kia, thì xin đừng nghiên cứu chi cho thêm nặng nghiệp. Những người con Phật luôn nhớ như vậy để một khi đã quyết tâm tu là hãy tự dọn mình như một tờ giấy trắng, càng trắng chừng nào càng tốt chừng nấy. Hãy mang những cấp bằng cử nhântiến sĩthạc sĩ ra mà xài cho đúng chỗ; hãy mang chúng ra mà giúp mình, giúp người và giúp đời; đừng dùng chúng để hí luận thị phi mà phải đi về địa ngục một cách vô duyên.

Hãy nhìn lại hành trang lên đường của Đức Từ Phụ năm xưa để tự chuẩn bị hành trang cho mình: ba bộ y bá nạp, một bình bát và một cây gậy làm bằng nhánh cây khô. Tại sao một thái tử đương thời, nhứt hô bá ứng như Phật mà phải mặc đồ may bá nạp? Đây chẳng phải là một bài học quý giá vô cùng cho những đứa con của Ngài về sau nầy hay sao? Ngài đã buông bỏ tất cả những phù phiếm của cung vàng điện ngọc, địa vịquyền uycông danh phú quý, để sống đời thanh bạch và sống một cách khiêm cung từ tốn. Những người con Phật hãy nhìn theo đó mà sống mà tu. Đạo Phật sẽ không bao giờ là đạo của kinh sách, hay triết lý suông để kiến giải và hí luận. Ngược lại, ai muốn tu theo Phật, phải bỏ hết những văn tự, để trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật. Còn câu chấp vào kiến thức văn tự là còn mê lầm, còn đi trong vô minh của phàm tình thế tụcKiến thức phàm phu có thể đưa con người đến những tinh cầu xa xôi, nhưng không bao giờ mang lại cho ta sự thanh tịnh và an lạc.

Hãy nhìn vào Lục Tổ Huệ Năng để thấy rằng kiến thức phàm phu lắm khi chỉ là gánh nặng cho những kẻ tu hànhLục tổ không biết đọc, không biết viết, thế mà những lời chỉ dạy của Ngài, ngàn đời sau có lắm ông tiến sĩ phải nặng đầu bóp trán suy nghĩ và thán phục. Nói như vậy không có nghĩa là đạo Phật phản đối những đứa con Phật trí thức, mà nói như một tiếng chuông cảnh tỉnh những đứa con ấy ngay khi mới bước chân hành trình theo Phật. Tu là tự tìm trở về với cái chân tâm mà chúng ta đã một lần dại dột bỏ quên. Tu là hành, chứ không là nói. Nếu ai đó thấy rằng mình hãy còn mê nói mà chưa hành được thì khoan hẳn tu. Chừng nào thấy được mình có thể buông bỏ hết những thứ bùi nhùi của phàm tục, chừng đó hãy bước vào, mà bước vào trong trang nghiêm tịnh độ, trong khiêm cung từ tốn. Một khi đã bước vào là phải tự dọn mình như một tờ giấy trắng, rồi từ đó thầm thầm tiến tu trong tinh thần Bồ Tát đạohoặc giả trong tinh thần đại từđại biđại hỉđại xả của nhà Phật. Hãy lấy những cái mình hiểu biết đó ra mà phụng sự người và phụng sự đời y theo những lời chỉ dạy của Đức Thích Tôn Từ Phụ.

356. ĐỐI TRỊ PHIỀN NÃO 

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà hằng ngày những bất an và phiền não đang vây bủa chúng ta dưới mọi hình thức. Tại sao lại như vậy? Sanh ra làm con người ai cũng muốn được an cư lạc nghiệp, ai cũng muốn được sung sướng và hạnh phúctuy nhiên, vì những bức bách của cuộc sống thường nhựt mà con người sanh ra ham muốn, mong cầu, khao khát, bất mãnđố kỵ và xung đột… Từ những dục vọng muốn nghe, muốn thấy, muốn ngữi, muốn nếm, muốn tranh cãi, muốn xúc chạm, mà con người ta đã biến thế giới nầy với dẫy đầy những khổ đau phiền não. Từ những chấp nê mê dại trong cuộc sống, nên đi đâu đến đâu con người cũng chỉ gieo rắc phiền não và đau khổ không thôi. Phiền não và đau khổ là hai anh em song sanh, đã từ vô thỉ hành hạ không biết bao nhiêu chúng sanh mà kể. Chúng sanh mãi miết trong dục lạc, trong hơn thua tranh chấp, trong oán thù không dứt, để rồi cứ mãi lăn trôi trong sáu đường sanh tử.

Phiền não là gì? Thật tình mà nói, phiền não không là cái gì cả. Phiền não chỉ là sản phẩm tưởng tượng của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng mà thôi. Tâm lo buồn vọng động, thân lật đật bất an, ý dong ruổi vô định…, là những báo hiệu của phiền não. Mặc dù chỉ là sản phẩm tưởng tượng của tham, sân, si…, phiền não có thể làm ta mê mờ và khiến thân, khẩu, ý của chúng ta hành động quấy ác để tạo nghiệp và lãnh quả khổ về sau nầy. Do mê lầm thân nầy có thật, tâm nầy là ta, ý nầy là ta, khẩu nầy là ta, nên ta cứ dong ruổi tạo nghiệp. Nghiệp thiện thì ít, mà ác nghiệp thì nhiều. Tâm lo buồn vọng động, mà lo buồn vọng động cái gì nhiều khi chúng ta cũng chả biết; tuy nhiên, chính cái vọng tâm nầy nó thôi thúc ta chạy theo ngũ dục, nó che mờ lương tri, và nó làm cho chúng ta không còn biết đâu là đường chánh nẻo tà. Chính vì tưởng rằng thân nầy là ta vĩnh hằng, nên ta ham muốn, mong cầu, khao khát và tìm đủ mọi cách để duy trì thân nầy, bất chấp những thủ đoạn tàn nhẫn, xấu xa và phi lýThân tâm đã như vậy thì thử hỏi làm sao mà không phiền não và đau khổ đây?

Chính vì đời sống có quá nhiều bất anbiến động và đau khổ, nên Đức Từ Phụ đã thị hiện để hướng dẫn chúng sanh vượt thoát ra khỏi những thứ ấy. Ngài đã hé mở cửa giải thoát cho chúng ta; vào hay không là còn tùy ở mỗi người chúng ta. Đức Từ Phụ đã hướng dẫn và chỉ dạy rất rõ ràng làm sao để đối trị não phiền, có chịu và muốn đối trị hay không là tùy ở chúng taTuy nhiên, cuộc sống ta trôi qua nhanh như ánh điện chớp. Thoáng một cái mà tóc ta đã bạc, răng đã long, mắt đã mờ, tai đã điếc và chân tay đã run rẩy, không lẽ chúng ta cứ mãi sống trong lao tù của não phiền và đau khổ như thế nầy hay sao? Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Đức Từ Phụ đã khuyên nhủ rằng chính phiền não là giặc nghịch làm hại chúng sanh. Muốn tránh khỏi sự hại của nó, con đường duy nhất là phải tu thanh tịnh nghiệp. Tâm trí chúng ta bị chi phối bởi muôn ngàn sự việc hằng ngày. Khi vui, khi buồn, khi thương, khi ghét. Tất cả những thứ nầy là gì nếu không là sản phẩm của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến?

Đạo Phật luôn nói đến từ, bi, hỉ, xả, trí tuệ và còn nhiều thứ thậm thâm khác; tuy nhiên, cái cơ bản nhất của đạo Phật vẫn là cách đối trị phiền não nơi chính mỗi người chúng ta. Muốn có từ bi trí tuệ, muốn thâm nhập kinh tạng, muốn rãi lòng từ đến người khác, thì trước hết chúng ta phải không còn bị phiền não sai khiến nữa, trước hết chúng ta phải rãi lòng từ đến cho chính mình cái dã. Trước hết phải tự thương xót mình bằng cách tự giải thoát mình ra khỏi những khổ đau phiền não. Làm sao chấm dứt được phiền não khi mình chỉ thấy có mình, khi mình lúc nào cũng là trung tâm vũ trụ, khi tánh tự ái, lòng tham dục cho mình hãy còn quá nhiều? Làm sao chấm dứt phiền não khi lòng ta vẫn còn ganh ghétđố kỵ, hận thù? Phật tử ơi! Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng có khả năng biến hóa ra bát vạn tứ thiên trần lao. Từ vô thỉ chúng đã hành hạ chúng sanh từ thể xác đến tinh thần một cách liên tục. Từ tham bịnh, sân bịnh đến si bịnh, vân vân và vân vân. Trên đời nầy vốn dĩ đã có quá nhiều thứ vô duyên phiền não, từ nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, ốm đau … của thiên nhiên và con người. Xin đừng gây thêm những “cố ý” phiền não để hành hạ lẫn nhau chi nữa. Tự mình không cảm thấy an lạc khi ai đó dùng lời lẽ ác độc để chưởi rủa mình, thì xin đừng thốt ra chi những lời nguyền rủa độc ác, hoặc mạ nhục tồi tệ cho người khác. Đừng phí thì giờ đào xới những triết lý thậm thâm về duy thức, hoặc về thiền, hoặc về những bộ kinh đại tạng chi cho hoài công uổng sức, hãy quay về đối trị những phiền não ngay chính nơi mình cái đã. Đạo Phật không khuyến khích Phật tử về nhà nghiên cứu kinh điển, để rồi đến sở làm vẫn còn mong cầu danh vọng, quyền uy, tiền tài và địa vị. Ngược lại, đạo Phật chỉ thẳng cho chúng sanh thấy rằng con đường duy nhất để có một cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát, là phải tự mình trực diện và đối trị cho dứt hoàn toàn những phiền não nơi mình. Tự mình đối trị, chứ không một quyền năng nào có thể đối trị dùm mình được.

Muốn đối trị phiền não, trước nhất chúng ta phải thấy phiền não từ đâu tới và ai làm cho chúng ta phiền não? Một tờ giấy trắng, nếu chúng ta không viết gì lên, thì muôn thuở tờ giấy vẫn trắng. Một ly nước, nếu chúng ta không khuấy lên những cặn cáu, thì lúc nào ly nước ấy cũng trong ngần. Tương tợ, nếu chúng ta không vì mê muội mà ham sắc, ham danh, ham tiếng, ham tiền tài vật chấtham thích mùi thơm tho, ham ăn ngon mặc đẹp, ham muốn những xúc chạm êm ái …, thì lấy gì chúng ta bị phiền não và đau khổ? Với đạo Phật, không gieo nhân, thì không gặt quả; không tạo nghiệp thì không chuốc lấy khổ đau phiền não. Thật là vô cùng rõ ràng và đơn giản. Sự đối trị phiền não và đau khổ của đạo Phật cũng rõ ràng và đơn giản như vậy thôi.

Người Phật tử thuần thành, không bao giờ than trời trách đất một cách thụ động. Trong đạo Phật, không có một thứ gì xãy ra một cách ngẫu nhiên cả. Hạnh phúc hay phiền não cũng vậy, không tự nhiên mà đến. Chúng chính là hậu quả của những nhơn, hoặc lành, hoặc không lành của chúng sanhPhiền não chính là năng lượng làm quay bánh xe luân hồi. Vì vô minhmê muội và chấp trước mà chúng sanh gây phiền chuốc não và tạo nghiệp, vì nghiệp mà chúng sanh luân hồi, rồi cứ thế mà luân luân chuyển chuyển trong tam đồ lục đạo. Cũng vì vô minh mê muội mà chúng sanh gây phiền chuốc não bằng những nói bậy, nghĩ sai, làm quấy, do đó mà thân tâm vốn dĩ đã vọng động, càng vọng động hơn. Phiền nào chính là bọn đạo tặc làm tổn hại huệ mạng và phá nát pháp thân của những bậc tu hànhPhiền não lại chính là củi lửa đốt cháy tất cả công đức và trí huệ của chúng ta.

Đã thấy rõ phiền não và những tác hại của nó, con đường duy nhứt của người con Phật là phải đối trị và dẫm nát phiền nãoĐối trị bằng cách nào? Như trên đã nói, tờ giấy trắng, nếu ta không viết gì lên thì giấy vẫn trắng. Ly nước, nếu chúng ta không khuấy lên những cặn cáu, thì cặn cáu sẽ từ từ lắng xuống và nước sẽ trong. Tương tự, trong cuộc sống hằng ngày, nếu ta không gieo nhân, thì ta không gặt quả. Hoặc nếu ta không tạo nghiệp thì ta không chuốc lấy khổ đau phiền não. Nếu ta vĩnh viễn đoạn tuyệt với tham dụcsân singã mạncống caonghi hoặc và tà kiến thì tất cả mọi não phiền đều dứt tuyệt. Nói thì dễ, nhưng làm có dễ hay không? Xin thưa, làm không dễ, nhưng không vì thế thế mà người con Phật chùn bước. Ngược lại, người con Phật thuần thành quyết làm cho bằng được.

Đoạn tuyệt tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến bằng cách nào? Tới chùa đọc kinhlạy Phậtcúng dường chư tăng ư? Chỉ là hình thức bên ngoài, chứ chưa chắc đã thực sự giúp chúng ta đoạn tuyệt những thứ tàn độc ấy. Người con Phật phải quyết tâm quay về với chính mình mà tu cho được chữ “nhẫn” một cách rốt ráo, thì tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến sẽ không còn đất dụng võ, do đó mà sản phẩm của chúng là phiền não và đau khổ sẽ không sanh. Đối với nghịch cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, ốm đau, vân vânchúng ta “nhẫn” chịu chứ không than trời trách đất. Đối với những lời sân hận, chưởi rủa ác độc của người, ta kham nhẫn chịu đựng, chứ không biện bạch tranh cãi, hoặc tranh luận hơn thua chi cho thêm thù thêm oán. Một khi “nhẫn” là phải nhẫn cả thân, khẩu, ý, chứ không được thân nhẫn mà khẩu và ý vẫn tham, sân, si là không thể được.

Tóm lạiphiền não chẳng những làm cho cuộc sống ta không an lạchạnh phúc, mà chúng còn thiêu đốt tất cả những gì quý báu trên cõi đời nầy. Chẳng hạn như vì một lời tranh cải hơn thua, mà anh em, vợ con, và bằng hữu ly tán. Cũng vậy, hai lân quốc vì tranh chấp gây não phiền cho nhau mà chiến tranh có thể bùng nổ và tiêu diệt tất cả. Đức Phật dạy trong tất cả những kinh điển của Ngài rằng chính phiền não làm cho con người mất hết nhân tính, làm cho gia đình ly tán, bằng hữu chia lìa, thầy trò đoạn tuyệtxã hội phân ly, quốc gia chinh chiến. Với kẻ không biết gì về đạo giáo mà ôm lòng phiền não thì còn châm chước được. Tuy nhiên, với những người con Phật, dù tại gia hay xuất gia, đã thấm nhuần giáo lý nhà Phật, mà vẫn còn ôm lòng phiền não, thì cũng giống như trời quang mây tạnh mà sấm chớp lại đùng đùng nổi lên, là đều không chấp nhận được. Thế cho nên cách đối trị phiền não tuyệt vời nhất là “nhẫn” những cái đáng nhẫn và “nhẫn” luôn cả những cái không đáng nhẫn. Chuyện thật khó làm trong đời, nhưng người con Phật quyết lội ngược dòng đời và làm cho bằng được.

357. ĐÂY LÀ KHỔ, KIA LÀ CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ 

Đạo Phật là con đường đưa con người đến một cuộc sống hạnh phúctỉnh thức và an lạc, một cuộc tu giác ngộ và giải thoátĐạo Phật thực tiển và đơn giản vô cùngđơn giản như những nụ cười luôn chợt nở trên môi những nhà sưđơn giản như hình ảnh khoan thai của các nhà sư trên bước đường cô thân vạn lý du. Trải qua vạn lý hành trình từ Ấn Độ sang Tàu, hoặc từ Ấn Độ sang Miến, Thái, Miên, rồi đến Việt Namđạo Phật đã mang quá nhiều sắc thái địa phương, hoặc đạo Phật đã bị hiểu lầm quá nhiều về nhân sinh quan. Đạo Phật cho tất cả mọi chúng sanh, từ yêu đời, chán đời, thương đời, ghét đời…, chứ không chỉ riêng cho những kẻ chán đời yếm thếthất tình, thất nghiệp, thất chí như nhiều người vẫn tưởng. Đạo Phật thực tiển ở chỗ nó khước từ tất cả những ý tưởng siêu hình, những hí luận không tưởng, những mong cầu tha lực vẩn vơ.

Ai cũng có thể là một tín đồ của đạo Phậtmiễn là người ấy nhứt tâm hướng thượng. Với đạo Phật, hễ ai chán đời yếm thế, thì Phật chỉ cách cho họ yêu đời và phấn chấn hơn. Ai đã yêu đời thì Phật chỉ cách cho họ yêu đời hơn. Phật là vị Tôn Sư dẫn đường hướng đạo cho cả những kẻ chán đời, lẫn những người yêu đời,để họ đạt được một cuộc sống hạnh phúcan lạc và tỉnh thức; một cuộc tu giác ngộ và giải thoát. Phật dạy rõ ràng rằng sự thống khổ ở cùng khắp nơi nơi. Vì sao mà có thống khổ? Làm sao để diệt cho bằng được những thống khổ nầy? Đạo Phật khẳng định rõ ràng rằng ngay cả Đức Phật cũng không diệt khổ cho ai được, mà mỗi người chúng ta, nếu muốn dứt khổ, phải nhứt tâm phụng hành những gì mà Đức Từ Phụ đã chỉ dạy. Đạo Phật không chủ trương mạt sát con người bằng những ngôn từ thậm tệ như con người tội lỗicon người yếu hèn… Đạo Phật lại càng không ru ngủ con người trong đau khổ chán chường, tuyệt vọng bằng những tín điều vô lý và không tưởng. Ngược lại, đạo Phật vạch rõ cho con người thấy rằng con người là nhân tố chính trong công cuộc vượt thoát khỏi những đau khổ triền miên nầy. Đức Từ Phụ đã chỉ rõ cho chúng sanh sự thống khổ ở cùng khắp nơi nơi. Sanh ra đã là khổ, bịnh hoạn là khổ, già nua với mắt mờ tai điếc và chân tay run rẩy là khổ, chết là khổ. Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày hôm nay, có rất nhiều cái khổ luôn chực chờ vây quấn lấy ta. Xa lìa những người thân thương cũng khổ, tử biệt sanh ly khổ, mong muốn mà không được toại nguyện cũng khổ, cầu danh cầu lợi mà không thỏa chí cũng khổ, không ưa nhau mà cứ mãi phải gặp nhau cũng khổ, vân vân và vân vânĐức Phật không phơi bày suông những nỗi thống khổ của con người, mà Ngài vạch rõ cho chúng ta thấy do đâu mà có khổ. Theo Ngài, nguyên nhân của mọi thống khổ trên đời nầy là do bởi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng mà ra cả. Rồi cũng chính Đức Phật, vì thương xót chúng sanh mà chỉ dạy cho cách làm sao để tận diệt những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến để tự mình giải thoát khỏi những thống khổ của cuộc đời. Như vậy con đường thoát khổ Đức Từ Phụ đã xây, đi hay không đi còn tùy ở mỗi người chúng ta. Nhưng xin nhắc lại, dù muốn hay không muốn, tất cả chúng ta rồi cũng sẽ phải một lần lên đường. Tại sao chúng ta lại không sớm khởi hành ngay từ bây giờ hởi quý bạn? Không lẽ chúng ta cứ mãi tự nhốt mình trong sanh, lão, bịnh, tử? Không lẽ chúng ta cứ mãi mong cầu bất toại để rồi khổ, thương thương xa lìa cho khổ, ghét ghét hội ngộ cho khổ, hoặc giả ôm giả làm chơn cho khổ? Không lẽ chúng ta cứ mãi trầm luân khổ hãi như thế nầy sao? Hãy nhìn cho rõ con đường của Đức Từ Phụ mà đi. Hãy cương quyết đập tan mọi nguyên nhân sanh ra đau khổdập tắt mọi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Tận diệt đau khổ có phải là đi tìm nguồn vui hay không? Chúng sanh vì mê muội nên cứ đi tìm những thú vui tạm bợ ở vũ trường, xi nê, tiệm rượu, phòng trà…, nhưng sau những thứ đó là cái gì? Sau những thú vui tạm bợ ấy thì khổ vẫn hườn khổ, mà không chừng lại khổ hơn vì có bao nhiêu tiền của đã vung vẫy trong những đêm trác tánghoặc giả trong những canh bạc, giờ thì mang thân làm kẻ không nhà, sống ở đầu đường xó chợ. Đức Phật không chủ trương khổ hạnh, mà cũng không ca ngợi sự xa hoa nhung lụa. Con đường Ngài vạch ra là con đường trung đạo. Người con Phật luôn sống hài hòa, sống cho mình và cho người. Những người con Phật thầm thầm lên đường diệt khổ, để đi thẳng vào cõi an lạc và giải thoát. Người con Phật luôn thấy biết chơn chánh, hành động chơn chánh, cố gắng chơn chánh, nhớ nghĩ chơn chánh và định tâm chơn chánh. Ngoài ra, người con Phật luôn mạnh mẽ làm việc lành, lánh việc dữ… Chỉ có như vậy thì những tham giận, kiêu căngsi mê lầm lạc của từ lâu đời lâu kiếp mới có cơ được tháo gỡ. Chỉ có như vậy chúng ta mới thấy rõ được đâu là khổ, kia là con đường thoát khổ.

Người Phật tử chân chánh nên luôn nhớ lời Phật dạy: “Những ai miệng thường đọc kinh Phật, nhưng không chịu đãi lọc tâm tánhba nghiệp thân, khẩu, ý thường buông lung; tham, sân, si không chừa bỏ, là những kẻ theo tà đạo.” Những kẻ ấy, chẳng những theo tà đạo, mà còn tự mình chuốc lấy thêm khổ đau phiền muộn cho đời nầy và đời sau nữa. Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy đây là khổ, kia là con đường thoát khổ. Nhưng kỳ thật, đây và kia là đâu? Nếu chúng ta biết sống và tu theo Phật thì đây và kia không hề sai khác. Đây và kia không là cái gì ngoài chúng tachúng ta không phải mất công tìm kiếm đâu đâu. Mong cầu chi những thứ giả tạm, hãy quay về để nhìn thấy sự an lạc ngay trong đời sống có chánh niệm của những giây phút hiện tại. Hãy luôn chợt nở một nụ cười trên môi rồi sẽ thấy công dụng của nó. Một khi mà nụ cười chơn thật nở ra, thì mọi thứ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến đều tháo lui. Nụ cười chẳng những mang lại an lạc cho ta, cho người, mà nụ cười còn giúp ta dẹp bỏ những suy nghĩ vô ích và thừa thải, Với đạo Phậtđời sống cuồng loạn tranh đua là khổ. Ngược lại, thầm thầm mà sống mà tu với những giây phút hiện tại là thật sự biết sống, là thật sự an lạc. Trên đời nầy đã có quá nhiều tập khí của khổ đau phiền não rồi, đừng tìm chi thêm phiền não cho mình. Đừng tự đồng hóa mình với tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Hãy bước lên đường Thánh Đạo mà đi để thấy đời là tươi mát và hạnh phúc vô cùng. Hãy buông bỏ tất cả mọi toan tính và hy vọng, vì toan tính và hy vọng để làm gì và để cho ai khi thân nầy còn không có thực? Hãy làm đi rồi sẽ thấy! Một khi ta buông bỏ sân hận, thì từ bi sẽ ngập tràn trong ta; buông bỏ tham lam bỏn xẻn thì lòng ta chỉ còn lại sự quảng đại bao la. Đã thấy được đây là khổ, xin hãy lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện Phật làm nguyện mình, và lấy hạnh Phật làm hạnh mình, thì tự nhiên con đường thoát khổ sẽ hiển lộ. Hãy tinh tấn dũng mãnh mà tiến lên dẹp bỏ tất cả những nghiệp chướng của mình. Hãy thẳn thắn nhận sai và sửa sai. Hãy mỉm cười, dù thuận hay dù nghịch. Hãy kham nhẫn, dù đáng hay dù không, ấy là thoát khổ, ấy là hạnh phúc, ấy là giải thoát vậy. Những người con Phật hãy lắng lòng nghe lời chỉ dạy của Đấng Từ Phụ : “Ba cõi không an, như nhà lửa đang cháy.” Thấy được biển khổ mênh mông như vậy để không còn lấy khổ làm vui nữa, để biết nhàm chán sanh tử luân hồi, ựeă nhieáp tâm diệt trừ tận gốc ngay từ trong trứng nước những mầm mống khổ đau, ngay trong đời nầy kiếp nầy.

358. CHÚNG TA NGUYỆN GÌ TRONG MÙA VU LAN BÁO HIẾU?

Lại một mùa Vu Lan nữa đến với chúng ta nơi đất khách quê người. Chúng ta, nhứt là những người con Phật, không ai bảo ai, muôn người như một, đồng tưởng về những đấng sanh thành với tất lòng thành. Ở Mỹ thì có ngày của Mẹ, hay ngày của Cha, nhưng xét ra ngày ấy đối với họ, hãy còn nặng phần trình diễn hoặc nặng phần hình thức. Riêng đối với chúng ta, Vu Lan không còn là ngày của Cha, hay ngày của Mẹ nữa, mà là mùa Vu Lan Báo Hiếu đến cho cả Cha lẫn Mẹ và cửu huyền thất tổ. Mùa Vu Lan đã trở thành thiêng liêng trong truyền thống Á Đông của chúng ta. Cho dù chúng ta cài lên ngực một bông hồng đỏ, hay bông hồng trắng, mọi người trong chúng ta chẳng những đều mong mỏi được báo hiếu cho các bậc cha mẹ, hoặc còn tại hiện tiền, hoặc đã quá vãng; mà còn là dịp cho chúng ta ban rải tình thương cũng như từ bi hỉ xả đến chúng sanh vạn loài.

Riêng đối với người con Phật, ngày Vu Lan còn mang một ý nghĩa thâm thúy hơn, vì không những chúng ta chỉ báo hiếu cho cha mẹ hiện tiền hoặc quá vãng, mà chúng ta còn tìm cách báo hiếu cho cửu huyền thất tổ nữa. Với người con Phật, hiếu hạnh là cách tu tuyệt vời và rốt ráo nhứt. Trong Kinh Phân Biệt, Đức Thích Tôn Từ Phụ đã từng khuyến tấn các đệ tử: “Người muốn học đạo giải thoát, không thể nào không hiếu thảo với cha mẹ được đâu.” Làm con cái, trước khi muốn nói đến cuộc sống hạnh phúc và cuộc tu giải thoát, chúng ta phải chí hiếu chí thảo với các bậc cha mẹ trước đã. Về mặt vật chất, chúng ta phải phụng dưỡng đầy đủ. Về mặt tinh thần, chúng ta phải giúp các ngài thân tâm an lạc lúc sống, và siêu thăng Tịnh Độ lúc qui tiên. Như vậy người con Phật phải luôn nhớ lời Phật dạy, phải luôn đặt hiếu hạnh làm đầu. Vì thân nầy có được là nhờ ai ? Nếu không  có cha mẹ sanh ta ra, nuôi dưỡng cho ta lớn lên từ thể chất đến tinh thần, dạy dỗ ta từ trí dục đến đức dục, chịu ngậm cay nuốt đắng, thì làm gì chúng ta có được ngày hôm nay ? Chính cha mẹ là dòng suối ngọt ngào, là bóng mát cho ta nương tựa, không riêng gì lúc ta còn nhỏ, mà là mãi mãi. Dù rằng có khi các ngài không còn nữa, nhưng những lời dạy dỗ, cũng như hình ảnh của các ngài sẽ còn và còn mãi.

Người con Phật đang sống trong lòng gia đình, xã hội và đất nước, ngoài ân đất nước, xã hội và gia đình cha mẹ ra, phải luôn nghĩ đến ân Tam Bảo, ân chúng sanh, cũng như ân của cha mẹ trong nhiều đời kiếp trước. Cho dù chúng ta đang sống tha hương, cho dù hoàn cảnh xã hội, văn hóa và kinh tế có khác, tình thân phụ mẫu vẫn là cái gì thiêng liêng và cao cả nhất đối với người Việt Nam chúng ta. Hình ảnh người cha, tuy có nghiêm khắc, nhưng tiếng cha vẫn là một cái gì thân thương và gần gũi.

Người xưa thường hay gọi cha bằng “nghiêm đường,” tuy nhiên, không vì thế mà tình cha con bị suy giảm. Ngược lại, người cha đóng một vai trò rất quan trọng trong gia đình. Cha là hình ảnh của chú kiến đi tha mồi về cho cả gia đình. Công cha quả là cao hơn núi Thái Sơn. Cha ít khi dịu ngọt với con cái như mẹ, nhưng phải có cái nghiêm khắc ấy của cha mới dung hòa được cái chiều chuộng thái quá của mẹ. Thường thường những gì cha dạy bảo đều có tác dụng rất sâu sắc trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Tuy lời ru của cha không ngọt ngào êm dịu như của mẹ, nhưng nó chứa đựng tất cả những nhắn nhủ và lo lắng cho tương lai con cái sau nầy. Thân thể cha khô cằn như cây thiếu nhựa, vì tất cả nhựa sống cha đã truyền cho các con hết rồi, và cũng vì sau những tháng năm dài lao tâm lao lực để nuôi nấng, che chở và bảo bọc cho đàng con dại. Thiếu tình thương của cha là một thiệt thòi to lớn, là thiếu mất cả một vùng tương lai, đúng như lời của một câu ca dao được truyền khẩu trong dân gian:

“Con không cha như nhà không nóc,” hoặc “Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.”

Còn riêng hình ảnh mẹ, quả là một cái gì thiêng liêng cao quí mà không một bút mực nào có thể diễn tả hết được. Tiếng mẹ không là tiếng mà chúng ta thốt ra đầu tiên mỗi khi gặp phải việc gì khó khăn rắc rối hay sao? Tiếng mẹ không là một biểu tượng tuyệt vời của cả dân tộc ta hay sao? Biết bao nhiêu thi sĩ, văn sĩ và nhạc sĩ đã viết ra không biết bao nhiêu lời lẽ để tán thán về mẹ, nhưng hình như vẫn chưa đủ. Mà kỳ thật, làm sao chúng ta có thể nói cho cùng, viết cho cạn được tấm lòng bao la vô bờ vô bến của hiền mẫu ? Mẹ là vũ trụ, mẹ là tất cả. Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình, tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền, đúng như lời của một bài hát về Lòng Mẹ. Đối với người con Phật, mẹ là Bồ Tát vì suốt cuộc đời mẹ chỉ biết hiến dâng mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì đền trả lại. Trong suốt cuộc đời, mẹ chỉ biết ban cho mà không đòi trả lại bất cứ thứ gì. Vì con mà thân thể mẹ hao mòn, mẹ cũng không màng. Vì con mà năm canh chầy thức đủ vừa năm, mẹ cũng không quản. Vì con mà chỗ ướt mẹ nằm, dành chỗ khô ráo cho con. Lắm khi vì con mà cả cha lẫn mẹ phải gây tội tạo nghiệp cũng không chừng. Còn nhiều thứ vì con mà mẹ phải hi sinh lắm. Vì con mà ngay cả sinh mạng mẹ, mẹ cũng không màng. Mẹ chính là Phật hóa thân vì có lúc nào mà mẹ không nghĩ đến sự an lạc và hạnh phúc của các con đâu ? Trái tim của mẹ là trái tim của Phật, chính nơi đó tuôn ra đủ thứ từ, bi, hỉ, xả, công bình, bác ái… Những bà mẹ già Việt Nam có thể thân thể gầy còm ốm yếu, có thể tóc bạc da nhăn, răng long gối mỏi, nhưng còn hình ảnh nào cao đẹp hơn hình ảnh thân cò lặn lội bờ sông, vừa nuôi con, có khi lại vừa phải nuôi chồng ? Lặn lội sướt da, rách chân, nhưng không một lời than thở phiền hà. Mẹ đã đem máu thịt mình tạo ra hình hài con, rồi mẹ cũng lại hao mòn chính máu thịt mẹ để nuôi nấng và  dạy dỗ cho con được lớn khôn nên người. Tình mẫu tử là cái gì thiêng liêng cao đẹp vô cùng vô tận, có nói cũng không hết, có viết cũng không cạn được đâu. Mẹ là tất cả, vì mẹ ban cho ta tất cả những gì mẹ có. Mẹ là một nhà giáo dục vĩ đại. Mẹ dạy con từ ăn, nói, đi, đứng, đến yêu thương. Chính nhờ mẹ mà chúng ta biết được thế nào là tình yêu gia đình, làng nước và đồng bào.

Mẹ là người đã dạy chúng ta những bài học từ bi đầu đời. Ngày tôi còn bé, có lần đi với mẹ trên đường từ trường về nhà, tôi đã tinh nghịch giẫm đạp lên những chú kiến đang bò trên đường. Mẹ đã dịu dàng can ngăn tôi mà rằng :”Con ơi ! Con có phước, mỗi khi đi học về đều được mẹ rước. Còn mấy chú kiến kia, có lẽ mẹ mấy chú đang bận tha mồi, và cũng có lẽ giờ nầy mẹ mấy chú cũng đang ngóng trông mấy chú về. Sao con nỡ đạp mấy chú vậy, nhỡ mấy chú chết không về được với mẹ thì thật là tội nghiệp.” Dù lúc đó tôi còn rất nhỏ, nhưng tôi nhớ mãi lời mẹ dạy. Từ đó mãi đến về sau nầy, tôi chẳng những không còn cố ý giẫm đạp lên mấy chú kiến nữa, mà ngược lại lắm lúc thấy mấy chú kiến bị kẹt giữa vũng nước là tôi lấy nhánh cây làm cầu cho mấy chú bò ra khỏi vùng nước.

Các bạn thân mến, chúng ta đã vẫy vùng tuổi thơ ấu trong tình thương của mẹ của cha, thế mà chúng ta không chịu tận hưởng, chỉ mong sao cho thoát khỏi tầm tay của các người. Đến khi trưởng thành và phải va chạm với đời, chừng đó ta mới thấy thời ấu thơ được sống với cha mẹ là cả một vùng hạnh phúc, mà nay muốn tìm lại cũng không còn. Chúng ta đa phần là như vậy đó ! Lúc cha mẹ còn sanh tiền thì không biết tận hưởng những gì quý báu nhứt mà cha mẹ đã trao truyền, đến lúc cha mẹ mất đi rồi thì có tiếc nuối mấy cũng không còn. Lúc còn nhỏ dại, cha mẹ cho cái kẹo cái bánh cũng mừng; đến lúc lớn khôn, đủ lông đủ cánh để bay nhảy thì cho dù cha mẹ có cho cả cuộc đời mình cũng không chịu nhận.

Quý vị ơi ! Sống trên đời nầy ai mà không nhờ đến công ơn cha mẹ ? Nếu không có cha mẹ thì làm gì ta được như hôm nay ?

Chính vì thế mà Đức Thích Tôn Từ Phụ đã từng nhắn nhủ với tứ chúng đệ tử rằng : “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế.” Phụng dưỡng và cúng dường cha mẹ là cách cúng dường cao quý nhứt lên chư Phật. Trên đời nầy ai là người hy sinh nhiều nhứt cho chúng ta nếu không phải là cha me ? Cha mẹ hy sinh vô vụ lợi, dù con nên hay con hư, dù con đẹp hay con xấu. Tình thương mà cha mẹ dành cho con cái là vô bờ vô bến và vô phân biệt, dù con giỏi hay con dở, con giàu hay con nghèo, tình thương ấy vẫn vậy.

Cha mẹ lúc nào cũng mong cho con cái được trọn đời hạnh phúc, ăn ở có nhơn đức và đem lại danh thơm tiếng tốt cho gia tộc. Như vậy bổn phận làm con cái, chúng ta phải luôn hiếu thảo, chẳng những chỉ trong mùa Vu Lan báo hiếu, mà ngày ngày đều là ngày báo hiếu của những người con Phật. Người con Phật báo hiếu bằng cách đem tình thương yêu chân thật cũng như đạo đức và từ, bi, hỉ, xả của nhà Phật ra làm hạnh nguyện tu tập cho mình, cho người và cho đời, hầu cho ai nấy đều thoát khỏi tai ách của khổ đau phiền não từ thể xác đến tâm linh.

Mùa Vu Lan báo hiếu, không gì hơn là chúng ta hãy cố sống một cuộc sống lành mạnh. Hãy lấy đạo hiếu làm đầu. Hãy sống cho có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nếu cha mẹ còn hiện tiền, hãy hết lòng phụng dưỡng, từ vật chất đến tinh thần. Ở tuổi xế chiều, các ngài không cần nhà cao cửa rộng đâu. Cái mà các ngài cần là sự chăm nom han hỏi về tinh thần. Những người con Phật chúng ta nên luôn nhớ rằng dù sang hay hèn, giàu hay nghèo, dù vinh hiển hay cơ khổ, ngày nay chúng ta được nên người là nhờ ai dưỡng dục ? Chúng ta không làm sao sánh kịp với những Bồ Tát Địa Tạng hay Đại Hiếu Mục Kiền Liên, nhưng ai cấm chúng ta ngày ngày sống trong hiếu hạnh ? Để tỏ lòng hiếu hạnh, người con Phật phải luôn kính Phật trọng Tăng, phải luôn  sống với tâm Phật, và tu hành với hạnh Phật, để từ đó được gội nhuần Phật ân, Phật đức, Phật hạnh và Phật nguyện. Đó cũng là cách hồi hướng tuyệt vời nhất đến cửu huyền thất tổ, cha mẹ hiện tiền và thân bằng quyến thuộc. Chúng ta phải luôn nhớ rằng tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật.

Nhân mùa Vu Lan, cách báo hiếu tuyệt vời nhất với những người con Phật là hãy sống một cuộc sống thật xứng đáng, hãy tu một cuộc tu thật chân chánh. Hãy nương theo chánh pháp của Đức Thích Tôn Từ Phụ mà lần về nẻo giác ngộ Bồ Đề. Nhân mùa Vu Lan, chúng ta hãy cùng cài cho nhau những bông hồng, dù đỏ hay dù trắng, hãy cùng dắt dìu nhau lên núi Thái Sơn để nhìn thấy sự cao dầy của công cha, hãy dắt dìu nhau ra biển Thái Bình để thấy cho được sự bao la của nghĩa mẹ. Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại hình ảnh cao quí của Ngài Đại Hiếu Mục Kiền liên, để cùng nhau sống với gương hiếu hạnh tuyệt vời ấy. Cách báo hiếu tuyệt vời nhất không gì bằng sống và tu với lòng từ, bi, hỉ, xả của Phật. Luôn hành động thiết thực để cho cha mẹ còn hiện tiền thân tâm an lạc, cha mẹ đã quá vãng được xa lìa ác đạo mà về Tây phương. Cha mẹ chúng ta không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta đâu ! Những người con Phật hiếu hạnh, hãy can đảm lên, hãy bưng cho cha một tách trà, hãy dâng cho mẹ một bát cơm đượm tình con thương mẹ. Dù ở xa hay ở gần, mà còn có cha mẹ là cuộc sống vẫn như tiên.

Nếu ở gần thì nên ngày ngày hỏi han thăm nom cha mẹ. Nếu ở xa cũng nên thường xuyên gọi điện thoại thăm hỏi các ngài. Các ngài không cần tiền nhiều lắm đâu, mà các ngài chỉ cần tình cảm nồng thắm nơi các con, các cháu. Hãy cố làm những gì có thể làm được ngay từ bây giờ, để một mai những vì sao Mẹ sao Cha có khuất đi, chúng ta không còn gì để ân hận trong lòng. Hãy sống trong hiếu hạnh để bầu trời thương của mẹ luôn rạng ngời từ thế hệ nầy đến thế hệ khác. Ngoài ra, những người con Phật  chí hiếu chẳng những phụng dưỡng mẹ cha với đầy đủ vật chất bên ngoài, mà còn cần phải yểm trợ và tạo duyên cho cha mẹ được an trú trong chánh pháp. Chính Đức Từ Phụ đã từng dạy rằng : “Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu.” Nghĩa là người con chí hiếu muốn thành tựu đạo quả giải thoát, trước hết phải giúp làm sao cho cha mẹ được giải thoát cái đã. Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể giúp cha mẹ và cửu huyền thất tổ được siêu thoát đây ? Chúng ta thường nghe nói “nhứt nhơn giải thoát cửu huyền thăng.” Nghĩa là một người tu cho được giải thoát rốt ráo, thì cửu huyền thất tổ đều được siêu thoát. Như vậy muốn báo hiếu một cách thực tiễn và rốt ráo nhứt, chúng ta phải gắng công tu trì chánh pháp, thực hành thiền định để mở khai trí tuệ và lần thoát ra khỏi vũng lầy tối tăm của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Ân, Đức Phật có chỉ dạy rõ ràng các công việc mà người con Phật nên làm để báo hiếu:

**Làm lành lánh dữ là hiếu kính.

**Thương người, thương vật, thương chúng sanh là hiếu kính.

**Bố thí, trì giới, nhẫn nhục là hiếu kính.

**Khiêm cung từ tốn là hiếu kính.

**Săn sóc và giúp đỡ những người già cả, yếu đau, nghèo khổ là hiếu kính.

**Không sát sanh hại vật là hiếu kính.

**Không lấy của phi nghĩa là hiếu kính.

**Không đam mê sắc dục là hiếu kính.

**Không xảo trá, điêu ngoa, đâm thọc là hiếu kính.

**Không rượu chè cờ bạc là hiếu kính.

**Không sân hận oán thù là hiếu kính.

**Không ghét ganh đố kỵ là hiếu kính.

**Không ngã mạn cống cao là hiếu kính.

**Không ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ giàu hiếp nghèo, ỷ sang hiếp hèn là hiếu kính.

**Hòa hiếu an vui là hiếu kính.

**Không chỉ trích lăng mạ là hiếu kính.

**Học hiểu Phật pháp và tinh tấn tu hành là hiếu kính.

**Thiền định tinh cần là hiếu kính.

**Thấu suốt sự thật là hiếu kính.

**Tự lợi, lợi tha là hiếu kính.

**Đạt được quả vị Phật là hiếu kính.

Nhân mùa Vu Lan, hãy đến quỳ dưới chân Đức Thế Tôn, xin cúi đầu chí tâm đảnh lễ Tam Bảo mà nguyện rằng kể từ nay xin trọn đời sống và tu theo Phật. Dù không nguyện làm bùn được như Ngài Xá Lợi Phất, để chịu nhận tất cả những thị phi của phàm tình thế tục, ít nhất cũng nguyện sống và tu theo gương hiếu hạnh của Ngài Đại Hiếu Mục Kiền Liên. Hãy nguyện sống cho thật xứng đáng làm một con người, biết tàm quí khiêm cung, biết nhu hòa nhẫn nhục, biết điều phục tham, sân, si, biết đem tinh thần từ, bi, hỉ, xả của Đức Từ Phụ đi vào lòng đời và lòng người. Phật pháp nói dễ khó làm, chữ hiếu trong nhà Phật lại cũng như vậy, nói thì dễ mà làm được thì lại khó vô cùng. Tuy nhiên, những lời dạy dỗ của Đức Từ Phụ là một chân lý không thể nghĩ bàn. Muốn làm lành lánh dữ phải phát tâm đại từ đại bi mới làm được. Muốn thương vật, trước nhất phải thương người, mà người gần chúng ta nhứt chính là cha mẹ. Hãy phát đại từ đại bi tâm mà thương yêu các bậc ấy trước đã, rồi hẳn nói đến chuyện thương vật và thương chúng sanh muôn loài. Muốn bố thí và nhẫn nhục với chúng sanh, xin hãy bố thí và nhẫn nhục với những chúng sanh thân thương là cha mẹ trước đã, rồi hẳn nói đến chuyện cứu giúp người khác. Cũng như vậy, hãy khiêm cung từ tốn, săn sóc, giúp đỡ cha mẹ chúng ta trước khi săn sóc và giúp đỡ cho người ngoài.

Hơn nữa, cái dễ thương của chữ Hiếu trong đạo Phật là không chỉ “hiếu” hạn hẹp đối với cha mẹ hiện đời, mà còn mở rộng đến cha mẹ nhiều đời, và cả muôn người muôn loài nữa vì trong vòng luân hồi sanh tử từ vô lượng kiếp, do nghiệp lực và nhân duyên buộc ràng mà chúng ta cùng với chúng sanh muôn loài đã từng là cha mẹ con cái của nhau trong nhiều đời kiếp.

Hiểu được như vậy thì tình thương yêu đến muôn loài sẽ rạt rào trong ta. Hiểu được như vậy chẳng những ta có thể báo ân phụ mẫu hiện đời, mà còn có thể báo ân Tam Bảo, ân làng nước và ân chúng sanh muôn loài nữa.

Nhân mùa Vu Lan, chúng ta cũng nguyện thấm nhuần những đạo lý từ bi hầu đáp đền muôn một ân Phật và ân cha mẹ bằng cách sống không hận thù, dù người có hận thù, không khởi lòng oán hận trước cơn hung nộ xấu xa của kẻ khác. Ngược lại, lấy những gì tốt đẹp nhất mà đáp trả lại cho những xấu xa đê tiện, lấy từ bi và dung thứ mà đáp trả lại sự sân hận của tha nhân, lấy tình lân mẫn mà đáp lại sự tàn bạo, lấy tâm hoan hỉ mà trao cho kẻ có tâm ganh tị đê hèn. Từ đó nhất nhất từ ý nghĩ, đến lời nói và hành động của ta đều tràn đầy yêu thương hòa thuận và vị tha bác ái. Từ đó ta chỉ biết làm những điều có lợi cho bản thân, gia đình và xã hội qua sự cố gắng tu tâm dưỡng tánh. Từ đó chúng ta sẽ luôn chí nguyện giữ gìn từng lời ăn tiếng nói, luôn nói thiện làm thiện, và xoay đổi ác nghiệp trở thành thiện lành, xoay đổi tâm niệm hắc ám thành ra tươi sáng, để tự mình thoát khỏi cảnh giới của khổ đau phiền não, mà bước sang cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Bên cạnh đó, lúc nào chúng ta cũng cố gắng hồi hướng lại cho cha mẹ hiện tiền được an lạc hạnh phúc; cha mẹ đã quá vãng, cửu huyền thất tổ và chúng sanh muôn loài được siêu thăng siêu thoát. Chẳng những nguyện cho riêng mình hiếu hạnh, mà còn nguyện cho ai nấy đều phát lòng sống hiếu hạnh, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, để một ngày không  xa nào đó không còn danh từ “Bất Hiếu” trong ngôn ngữ của nhân loại nữa. Mong lắm thay !

359. CHƯỚNG DUYÊN

Chư Phật vì thương xót chúng sanh đang lăn trôi trong biển đời đau khổ, nên đã thị hiện ra nơi đời để thuyết pháp độ sanh.

Mục đích duy nhất của các Ngài là đưa chúng sanh ra khỏi sông mê biển khổ. Vậy thì ngày nay một khi chúng ta phát nguyện tu hành, cũng không ngoài cái mục đích ấy. Nếu đời nầy là một trường hạnh phúc, nơi mà tất cả mọi thứ đều là thuận duyên thuận cảnh, thì chắc cõi nầy không có đau khổ và chư Phật cũng đã chẳng phải thị hiện để làm gì. Ngược lại, hãy thử gẫm lại mà xem, từ sáng đến chiều tối mỗi ngày, chúng ta đã có mấy lần vui và bao lần khổ ? Thật tình mà nói, vui đâu chả thấy, chỉ thấy toàn khổ, chỉ thấy toàn là tham lam, hung dữ, ngu si, kiêu ngạo, hoặc giả dối trá, ác độc, ái dục, lo âu và sợ hãi. Tất cả những thứ ấy, chúng là gì nếu không là những nhơn gây ra phiền não và đau khổ cho con người ? Con người cứ mãi quay cuồng trong nghiệp chướng, trong phiền não, khổ đau và khổ báo, thế mà vẫn cứ vỗ tay tán trợ, không chút kinh vì.

Dòng đời đã lắm bể dâu cũng như nghịch cảnh và nghịch duyên như vậy, thì nói chi đến dòng tu. Tu là lội ngược lại dòng đời, tức là đi ngược lại với tất cả mọi thứ của phàm phu trên đời
nầy. Vậy thì khi tu, đừng đòi hỏi chỉ có thuận duyên thuận cảnh.

Xin thưa, với người tu chân chánh, thuận duyên thuận cảnh thì ít, mà nghịch duyên nghịch cảnh thì nhiều. Lúc chưa tu, làm khổ người khác ta không thấy xốn xang hay khổ tâm cho lắm. Ngược lại, lúc tu rồi, cho dù có vô tình làm khổ bất cứ một chúng sanh nào, chứ đừng nói chi đến con người, lương tâm chúng ta sẽ bị cắn rứt vô cùng. Chẳng hạn như lúc chưa tu, lái xe trên một con lộ vắng, có lỡ đụng nhằm một con sóc hay con cheo, nếu biết điều lắm ta chỉ nói lời tội nghiệp. Tuy nhiên, lắm khi lại còn đổ thừa cho chúng ngu si đâm đầu ra cho xe cán. Ngược lại, lúc tu  rồi, dù vô tình đụng phải bất cứ sinh vật nào, dù nhỏ bé thế mấy, chúng ta cũng biết rằng chúng ta đã gây tổn hại cho một chúng sanh, vì thế mà chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng ân hận.

Tại sao cuộc đời nầy có lắm nghịch duyên nghịch cảnh?

Thuở con người còn ăn lông ở lỗ, lòng người tuy còn man di mọi rợ, nhưng không đến nỗi bạc tình bạc nghĩa. Con người tuy chưa có ngôn ngữ thanh bai, nhưng không đến nỗi luôn sống và làm việc trong hối hả vội vàng, trong tranh đua hơn thiệt, hoặc ghìm nhau từ lời ăn tiếng nói. Con người thời nào cũng đều phải sanh già bịnh chết ấy chứ; tuy nhiên, đối với con người của buổi sơ khai, họ bình tâm trước sanh già bịnh chết, chứ không cố cưỡng lại luật vô thường như con người của thời cận đại. Nghịch duyên nghịch cảnh duy nhứt của con người thời ăn lông ở lỗ chỉ là thiên nhiên khắc nghiệt. Ngược lại, con người của thời cận đại, ngoài nghịch cảnh thiên nhiên ra, họ còn vướng phải vô vàn nghịch cảnh nghịch duyên khác bao lấy. Nào là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, đến địa vị cao thấp, quyền uy lớn nhỏ, giàu nghèo, sang hèn, vân vân. Tuy nhiên, nếu bình tâm mà suy nghĩ thì chúng ta sẽ thấy rằng những thứ mà ta cho là nghịch duyên nghịch cảnh nầy, thật sự chỉ là hậu quả của tánh chấp trước của chúng ta mà thôi. Nếu Phật pháp có bao nhiêu thì chúng sanh cũng có đủ bấy nhiêu pháp chấp ngược lại. Vì chấp trước mà thay vì quảng đại bao dung trước những lời chưởi rủa, chúng ta lại nắm chặt, rồi buồn, rồi phiền, rồi giận, rồi não, rồi cho rằng đây là nghịch cảnh nghịch duyên. Hãy bình tâm mà suy nghĩ lại cho kỹ, chứ đừng vội chấp, rồi vướng, rồi lãnh thêm phiền não, nghiệp chướng và khổ báo. Nếu chưa buông bỏ được thì khi gặp những nghịch duyên nghịch cảnh như vậy, tốt nhất là chúng ta nên tránh đi chỗ khác cũng được. Cổ nhân có câu : “Tránh voi không xấu mặt nào.” Vậy thì trước những cái không ưa ý, ta nên xa lánh, mà tìm đến những cái ưa ý hơn. Trước những nghịch duyên nghịch cảnh  mà chúng ta phản ứng mạnh thì chúng ta sẽ được gì, nếu không là tự chuốc lấy khổ đau phiền não ? Tương tự, nếu có lỡ gặp phải những ác tri thức mà chúng ta không đủ khả năng chịu đựng, tốt nhất là ta nên tránh đi mà tìm đến với những thiện hữu tri thức, những người có thể mang đến thuận duyên thuận cảnh cho cuộc sống và cuộc tu hằng ngày của ta. Nên nhớ rằng mục đích tối hậu của người tu Phật là giải thoát khỏi những khổ đau và phiền não của cõi Ta Bà nầy. Nếu cõi Ta Bà nầy không có phiền não khổ đau, thì thiết tưởng đâu có ai cần phải tu làm gì ? Mà cũng chẳng cần phải có đạo để làm chi ? Trên thực tế, cõi nước tạm bợ nầy, đi đâu đến đâu cũng chỉ thấy toàn là phiền não, khổ đau, chướng duyên và nghịch cảnh không thôi. Người con Phật phải giẫm lên đau khổ mà đi, giẫm lên chướng duyên nghịch cảnh mà tiến tới. Nếu tự biết mình chưa có đủ đại hùng và đại lực để giẫm đạp lên những thứ ấy, thì hãy cố tránh qua một bên mà đi.

Tuy nhiên, hãy nhìn cho kỹ lại mà xem coi nghịch duyên nghịch cảnh là ai ? Có lắm khi chính chúng ta là nghịch duyên nghịch cảnh cũng không chừng. Có khi người làm sai, mà lắm khi mình
cũng làm sai vậy. Có khi người khác gây đau khổ cho mình, nhưng lắm khi tự mình lại gây đau khổ cho mình, mà vẫn không hay biết, lại còn vỗ tay tán trợ nữa là khác.

Tóm lại, trên đời nầy làm gì có thuận duyên nghịch cảnh ?

Tất cả chỉ là do sự chấp trước mê dại của chúng sanh mà ra cả.

Vì không có cái nhìn đúng đắn mà ta chấp có “ta” và cái “của ta,” rồi hễ ai động đến cái “ta,” hoặc cái “của ta” là ta nhẩy đổng lên mà la rằng nghịch duyên nghịch cảnh. Vì dục vọng lấn áp mà ta mở cửa cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tự do thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc và suy tư để rồi cuối cùng phải ôm lấy khổ đau và phiền não. Cũng vì dục vọng mà ta ham ăn, ham uống, ham hưởng lạc, ham ngủ, ham nghỉ, ham quần là áo lụa.

Quần áo để che thân, hoặc để phòng chống cái nóng cái lạnh  của tiết trời. Ăn uống, ngủ nghỉ là để nuôi dưỡng cho cơ thể có đủ sức lực mà tiến tu, chiều chuộng chi dục vọng cho vướng sầu chuốc khổ. Hơn nữa, vì thiếu nhẫn nại, không chịu suy xét, mà ta không chịu đựng được tiếng nặng tiếng nhẹ của người, rồi ta để cho ngọn lửa phiền não thiêu đốt cả thân lẫn tâm. Nếu chúng ta chịu bình tâm mà suy nghĩ để không bị chấp trước hoặc dục vọng lôi kéo, thì đâu đâu cũng là thuận duyên thuận cảnh cho ta tu.

Lúc ấy chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc trong hiện tại và mãi mãi trong tương lai.

Xin hãy lắng lòng nghe và hành trì theo mười điều Phật dạy trong “Luận Bảo Vương Tam Muội” thì chúng ta sẽ thấy rằng những cái mà bấy lâu nay chúng ta cho là nghịch duyên nghịch cảnh lại là tiên đơn diệu dược, là hương vị giải thoát, hoặc giả là bạn đạo của Đức Thích Tôn Từ Phụ:

Lấy bịnh khổ làm thuốc thần.
Lấy hoạn nạn làm giải thoát.
Lấy khúc mắc làm thú vị.
Lấy ma quân làm bạn đạo.
Lấy khó khăn làm thích thú.
Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
Lấy người chống đối làm nơi giao du.
Coi thi ân như đôi dép bỏ.
Lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
Lấy oan ức làm cửa ngỏ đạo hạnh.

Thấy như những lời Phật dạy thì còn chỗ nào được gọi là nghịch duyên nghịch cảnh nữa đâu ? Như vậy người con Phật hãy vâng giữ lời Phật dạy mà thẳng một đường tu, không sợ nghịch cảnh nghịch duyên. Ngược lại, người con Phật nên luôn e dè trước những thuận duyên thuận cảnh, vì lắm khi thuận duyên thuận cảnh lại chính là những trở ngại cho chúng ta trên bước  đường tu hành. Chính Đức Thế Tôn đã ân cần khuyên nhủ rằng trên đời nầy nếu:

Không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
Không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy.
Không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
Không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường
Việc dễ thành thì lòng sanh kiêu ngạo.
Cầu lợi mình thì lắm khi mất đạo nghĩa.
Mọi việc đều thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
Thi ân cầu đền đáp là thi ân có mưu đồ.
Nhúng vào lợi thì si mê phải động.
Oan ức mà còn biện bạch thì nhân ngã chưa xả.

Xin hãy nắm cho vững những gì Phật dạy để tiến tu trong mọi hoàn cảnh. Đừng chần chừ nữa hỡi những người con Phật !

Đức Từ Phụ đã dạy rằng : “Sanh được làm người đã là khó, gặp được diệu đạo lại càng khó hơn.” Chúng ta đã được sanh làm người, đã gặp được diệu đạo, không lẽ chúng ta cứ mãi ngồi đây mà ta thán nghịch duyên nghịch cảnh rồi chùn bước cho thời gian luống qua vô ích hay sao ? Không lẽ chúng ta cứ mãi lăn trôi trong luân hồi sanh tử với chập chùng những sanh lão bịnh tử như thế nầy hay sao ? Không đâu ! Những người con Phật chúng ta quyết vâng giữ lời Phật dạy, quyết phen nầy gạn lọc châu báu từ trong đất đá ví như tu trong nghịch duyên nghịch cảnh vậy.

Quyết nắm bắt Bồ đề ngay trong phiền não. Có được như vậy, cuộc sống ta quả là một cuộc sống vô cùng hạnh phúc với toàn là kỳ hoa dị thảo của đạo đức và thiện lành, và cuộc tu của ta sẽ là cuộc tu giải thoát rốt ráo không thể nghĩ bàn. Hãy cố gắng thêm lên hỡi những người con Phật !

360. CHƠN TU

Đạo Phật là con đường sống hạnh phúc và đường tu giải thoát. Tuy nhiên, giáo lý của Đấng Từ Phụ chỉ là nguồn suối từ bi hỉ xả và giác ngộ giải thoát cho những ai chịu đón nhận, chỉ là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai chịu nghe, chỉ là con thuyền Bát Nhã cho những ai chịu từ bỏ danh lợi trong bể ái sông mê để bước lên thuyền. Nghĩa là giáo lý nầy chỉ có công hiệu cho những ai thực sự muốn tìm lại cái chơn tâm mà mình đã một lần dại dột bỏ quên, hoặc trở về quê hương chân như mà mình đã một lần đã xa lìa. Giáo lý nầy chỉ có công năng với những ai thật sự muốn thoát ly nẻo đọa đày của luân hồi sanh tử, hoặc những bậc chân tu mà thôi.

Thế nào là chơn tu ? Trong kinh Di Giáo, Đức Từ Phụ đã căn dặn tứ chúng : “Khi ta thị tịch rồi, các ông phải tôn trọng giới luật vì giới luật chẳng những là ánh sáng phá tan bóng tối, mà còn là của báu cho những kẻ nghèo khổ.” Ngài đã ám chỉ là mọi người phải lấy giới luật làm thầy trong thời không có Phật. Ngài cũng đã dạy rằng : “Thân người khó được, và thân người quý giá hơn hết thảy mọi thứ châu báu. Phật pháp lại càng khó gặp hơn.

Được thân người, gặp Phật pháp mà ta lại không chịu tu, quả là uổng cho một kiếp người.” Khi ta đang sống trong thành công và toại nguyện, xuất gia cũng như tại gia, chúng ta thường ít nghĩ, hoặc không chịu nghĩ tới cái khổ phải tái sanh vào những cảnh giới thấp. Chính vì thế mà chúng ta hay dể duôi xem thường giớ luật và không chịu thực hành các pháp tu. Ngược lại, chúng ta chỉ làm cho có lệ, hoặc trả bài cho qua bữa. Tụng kinh ngày ba bữa cho đủ lệ, tụng chứ không hành. Phật và các tổ thầy đã từng dạy chúng ta nên : “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,” thế mà chúng ta cứ ưng chẳng những vào nhà cao cửa rộng, mà thậm chí còn lại ưng vào chùa to, chùa đẹp nữa là khác. Đã đến chùa cầu Phật  pháp để tu, thế mà còn ưng vào chuyện phải cúng dường nhiều ít, thì quả là rắc rối vô cùng. Hãy tự thành thật với chính mình trước khi bước chân vào chùa. Hãy tự mình soi gương mỗi bữa, gương đây là gương lòng chứ không phải gương soi mặt của phàm phu. Soi để thấy mình đã thực sự tu chưa ? Chứ không soi để coi da nầy còn trắng, mài nầy còn ngài, mắt nầy còn đẹp, tóc nầy hãy còn xanh, vân vân và vân vân. Soi để biết ta đã tu đến đâu, hoặc ta đang tìm kiếm những gì trong cửa Phật? Thà là khoan hẳn tu, chứ một khi đã thệ nguyện làm con Phật, nhứt là thệ nguyện xuất gia, tức là đã thệ nguyện làm một trong Tam Bảo cho chúng sanh về nương, không thể nào dể ngươi được đâu.

Hướng dẫn người khác làm bậy là một mình mình lãnh đủ hết những tội tình do chính mình xúi biểu. Tuy nhiên, trong thời mạt pháp nầy, có mấy bậc chơn tu ? Chơn tu có phải là đầu tròn áo vuông không ? Có khi có, mà lắm khi không. Nói rằng đầu tròn áo vuông là xuất gia, nhưng lắm khi chỉ là xuất nhà thế tục để tìm một cái gì đó, chứ chưa hẳn là đã xuất hồng trần gia. Từ sau Phật, đã có vạn triệu người xuất gia, nhưng mấy ai đã thành Phật? Có mấy ai thực sự dẹp bỏ được tất cả lòng ích kỷ, tham lam và mê muội để trở về với suối nguồn của từ bi, hỉ xả, khiêm cung từ tốn ? Có mấy ai đã thực sự chịu tu trì theo giáo lý tuyệt vời của nhà Phật ? Có mấy ai đã thật sự đốt lên ngọn đuốc từ bi mà Phật Tổ đã đốt lên tự năm nào, để đi và đến bến bờ giải thoát ? Kỳ thật, đa phần trong chúng ta đã quên mất đi ý nghĩa và mục đích tối hậu của bậc chân tu. Người chân tu đâu phải chỉ khác với phàm phu ở chỗ đến chùa nghe kinh pháp, hoặc ngày
ngày tụng kinh niệm Phật, hoặc đầu tròn áo vuông, mà là khác ở trong TÂM. Tâm thế tục là tâm chúng sanh, tâm của luôn chực xé rào bẻ lưới, của tham lam, ích kỷ, sân hận, tị hiềm ganh ghét, là tâm của si mê, ngạo mạn và tà vạy, là tâm của triền miên loạn động… Còn tâm của bậc chơn tu là tâm của hướng thượng.

Hướng thượng cả thân, khẩu và ý; hướng thượng bằng tất lòng thành, chứ không phải bị ép buộc hay gượng gạo. Tâm của bậc chơn tu còn là cái tâm của từ bi hỉ xả, nhu hòa nhẫn nhục, khiêm cung từ tốn, làm thiện không làm ác, là tâm của sự thanh tịnh tuyệt vời.

Nói rằng tu là muốn bỏ đi chúng sanh tánh để tìm về chơn tâm Phật tánh, bỏ đi đau khổ để tìm về an vui, là buông bỏ tất cả để được an nhiên tự tại. Thế mà chúng ta không chịu buông bỏ, có nhà nhỏ thì lại muốn có nhà to, có nhà cũ thì lại mong được nhà mới, có nhà rồi lại muốn có nhà đẹp hơn, có chùa nhỏ lại muốn gom tiền của bá tánh để cất chùa to hơn. Chùa lớn chùa nhỏ không ăn nhằm gì đến chuyện chơn chánh tu hành cả. Chùalớn rồi tối ngày chỉ biết lo tìm phương thế tạo ra tài chánh để trả nợ chùa, không còn thì giờ đâu nữa mà tu, hoặc không chịu tu, không chịu hoằng dương chánh pháp và phát huy đạo cả thì chùa lớn để làm gì, nếu không phải là để ôm lấy hết phiền não nầy đến phiền não khác ? Hãy nhìn Đức Từ Phụ đấy mà xem, một bình bát niền sáu lằn nứt, một tấm y bá nạp và một cây gậy làm bằng nhánh cây khô. Đó mới chính là hình ảnh của một bậc chân tu, đó mới chính là hình ảnh của một con người thực sự buông bỏ.

Ngài đã buông bỏ tất cả từ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đến uy quyền tột đỉnh và vật chất xa hoa để làm một bậc chân tu, thế là Ngài giải thoát. Ngài đã buông bỏ tất cả những trùng trùng chướng nghiệp của thế gian, thế là Ngài nhẹ nhàng đi vào cõi tịnh tịch. Còn chúng ta ? U mê lầm lạc không dứt, tội lỗi đã chất chồng mà vẫn không hay biết, còn vỗ tay tán thưởng nữa là khác. Tự mình vớt mình chưa nỗi thì mong gì vớt được ai ?

Tự mình chưa thông giáo lý thì mong gì thông cho ai ? Tự mình phiền não còn đầy thì mong gì làm vơi phiền não cho ai ? Tự mình còn đi trong vô minh thì mong gì đưa được ai vào nẻo giác ngộ ? Tự mình còn sát sanh thì mong gì dạy được người không  sát sanh ? Tự mình còn vọng ngôn vọng ngữ thì mong gì kêu ai nói lời ngay thẳng ? Tự mình còn phát tâm đi nói xấu người thì mong gì kêu người nói tốt cho ai ? Tự mình còn ngu muội thì mong gì khai thị cho ai ?

Đức Phật đã nhìn thấy tiền của vật chất của cõi nước tạm bợ nầy nó mong manh hơn sương khói, và tiền của vật chất của đàn na tín thí nó nặng vô cùng nên Ngài đã không ôm, không gánh lấy một thứ gì. Ngược lại, chỉ ngày ngày khất thực và hoằng pháp độ sanh. Trên đường khất thực, Ngài đã đem giáo pháp mà hoằng dương. Ngài đã thực sự vun bồi thiện căn nơi bá tánh bá gia bằng cách tập tành cho họ buông bỏ tất cả, tập tành cho họ biết đâu là chánh, đâu là tà, đâu là tham sân si, đâu là từ bi hỉ xả, đâu là ngã mạn cống cao, đâu là khiêm cung từ tốn. Một bóng cây, một bờ ruộng, ven rừng, vân vân, đều có thể là đạo tràng cho Ngài hoằng pháp lợi sanh. Ngài chính là hình ảnh của một bậc chân tu và chân giải thoát, không thể nghĩ bàn. Chúng ta, những người con Phật, có bao giờ chúng chịu để ý để thấy cho được điều nầy hay không ? Nếu chúng ta đã thấy thì chúng ta sẽ hoằng pháp thay vì đi hoằng chùa, nếu chúng ta đã thấy chúng ta đã giữ cho thân tâm thanh sạch thay vì vướng mắc vào tham đắm và dục vọng, nếu chúng ta đã thấy thì chúng ta đã nhẫn nhục thay vì tranh cãi hơn thua… Nếu chúng ta thấy hình ảnh của bậc chân tu qua Đức Từ Phụ thì từ lời nói, việc làm đến ý tứ của chúng ta chỉ thuần một vị từ bi hỉ xả mà thôi. Lòng từ mà Đức Phật đã dạy chúng ta ở đây có nghĩa là thương mà không ái nhiễm, không phân biệt. Đừng bao giờ đem thói ái nhiễm của phàm phu mà gieo rắc vào cổng chùa; cũng đừng bao giờ học thói phàm phu mà cõng tất cả các thứ vào chùa. Xin hãy bỏ lại tất cả ngoài cổng chùa, để bước vào trong với một cái tâm vô cầu và vô vị lợi. Đừng đem chuyện giàu nghèo vào chùa để biện biệt. Đừng học thói phàm phu mà thương trọng người giàu và  khinh khi kẻ nghèo. Giàu nghèo còn là cái gì nữa đối với nhà chùa ? Tất cả chỉ là những lầm chấp mê dại của phàm phu mà thôi. Bậc chân tu như Đức Từ Phụ thì ngược lại, thương tất cả chúng sanh mọi loài, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, thương mà không vướng mắc bởi thương hại hoặc trọng khinh.

Phật tử nên quyết chí học theo Đức Thế Tôn, một khi đã quyết chí tu hành, nhứt là khi đã bước chân vào chùa rồi, đừng để cho tiền tài và vật chất tiếp tục cám dỗ và làm khổ ta nữa. Ngược lại, con đường trước mặt duy nhất là phải thực tâm tu hành, chứ đừng vướng mắc bất cứ thứ gì, ngay cả cái chùa. Đức Từ Phụ đã không từng chỉ dạy rằng đối với bậc chân tu thì đâu đâu cũng có thể là đạo tràng được. Đừng vướng bận chấp nê bất cứ thứ gì để phải chất chồng thêm chướng nghiệp.

Hãy lắng nghe lời chỉ dạy của Đấng Từ Phụ để đừng tiếp tục bị vô minh che lấp mất đi trí huệ để cho thân khẩu ý cứ xoay vần tạo nghiệp. Hãy noi theo dấu chân của Đức Từ Phụ mà làm một bậc chân tu, ví bằng chưa theo dấu Ngài được thì khoan hẳn tu, chứ đừng đem thói phàm phu mà gieo rắc vào phá tan sự trang nghiêm của tự viện. Đừng xem những tự viện là nơi để ta trốn tránh cuộc đời nầy, hoặc giả là nơi dung thân cho qua ngày qua bữa. Ngược lại, hãy bước vào tự viện với tất lòng thành. Hãy xem tự viện là nơi nuôi dưỡng và đem ta trở về với cuộc sống thật sự. Đừng vì sự thất bại ngoài đời mà lánh thân vào cổng chùa. Hạt gạo của đàn na tín thí nó còn nặng hơn cả núi Tu Di nữa Phật tử ơi ! Chúng ta không thể nào thọ dụng chúng một cách hời hợt được đâu. Hãy thật sự xuất hồng trần gia một khi đã bước vào cổng chùa. Hãy chẳng những thoát ly gia đình vợ chồng, con cái, mà còn vượt thoát cho khỏi ách nạn của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến và khổ đau phiền não, để không còn phải trở lên lộn xuống trong luân hồi sanh tử nữa. Thật sự tu hành không phải là chuyện dễ, vì đó là việc làm của một bậc đại  trượng phu, chứ không phải ai cũng làm được đâu ? Vậy xin đừng vào chùa để được yên thân, hoặc bất cứ gì gì khác hơn là “chơn tu” vì hạt gạo của đàn na tín thí có thể dễ dàng đẩy chúng ta đi vào địa ngục vô gián không có ngày ra, nếu chúng ta không thực tâm tu hành, hoặc lạm dụng hạt gạo nầy. Nếu thấy mình chưa có đủ yếu tố làm một bậc chơn tu, xin cứ từ từ, tu tại gia cũng được.

Tu tại gia mà hết lòng tinh tấn hành trì những lời Phật dạy và hết lòng làm Phật sự giúp mình, giúp đời thì con đường đi về đất Phật, dù chưa đến, cũng không phải còn xa mấy. Hãy cẩn trọng và cố gắng thêm lên hỡi những người con Phật!

361. TU GIỠN CHƠI VÀ ĐỊA NGỤC

Một ngày đầu đông năm 1996, tôi và một vài bạn hữu đến thăm Hòa Thượng Thích Đức Niệm, viện chủ Phật Học Viện Quốc Tế ở North Hills, California. Lúc đến chùa thì trời đã quá trưa, các khóa lễ đã mãn. Cảnh chùa yên tĩnh vắng lặng với những bóng cây râm mát, khiến tôi quên mất là tôi đang ở nơi xứ lạ quê người. Tôi đã xa quê trên mười hai năm nay, nhưng hôm nay nhìn cảnh Phật Học Viện làm tôi chạnh lòng nhớ lại những cảnh chùa Long Viễn hay Viên Giác của quê tôi vô cùng. Quả thật lòng tôi chùng lại vì nơi nghìn trùng xa cách quê hương nầy, mà tôi vẫn còn tìm lại cảnh tịch liêu và không khí êm đềm tịch mịch của một ngôi chùa miền quê nước Việt. Tôi đã đứng dưới chân các tượng Phật Di Lặc, Quán Âm và A Di Đà không biết là bao lâu. Lúc ấy hình như tôi đã lắng nghe chư Phật mà trút bỏ hết mọi phiền lụy của cuộc đời nầy vào hư không. Từ ngày biết tu và biết thiền, có lẽ tôi chưa từng có những bước chân hành thiền nào êm ả hơn những bước nhàn du trước sân Phật Học Viện như hôm nay.

Thú thật, cuộc viếng thăm không đầy ba tiếng đồng hồ, nhưng với tôi, nó quả là vô cùng quý báu cho cuộc sống và cuộc tu của mình. Chúng tôi đến chào vấn an Hòa Thượng và được thầy ân cần đàm đạo. Lời thầy ngắn gọn, đơn giản, nhưng từ hòa, nhơn hậu và đáng kính làm sao ấy. Thầy nhắn nhủ là trên bước đường tu hành của thầy, thầy đã chứng kiến không biết là bao nhiêu cuộc bể dâu, cũng như không biết bao nhiêu thăng trầm và khổ lụy của con người. Tháng năm chồng chất lên thầy với những vật đổi sao dời, với những phân ly nghiệt ngã, nhưng lòng thầy vẫn chan hòa niềm vui rộng lớn, vượt lên trên tất cả những thế sự thường tình. Giọng thầy trầm trầm nhưng lại có một mãnh lực lạ thường với tôi. Tôi xin được chia xẻ với những đạo hữu tôi  quen cũng như chưa quen về những lời ân cần dạy dỗ của thầy về đề tài “Tu Giỡn Chơi và Địa Ngục”.

Thầy nói rằng cái bịnh trầm kha của con người từ muôn thuở là thích tìm tòi những gì cao siêu để thỏa mãn óc hiếu kỳ; tuy nhiên, lại không có lợi ích thực tiễn với cuộc sống cuộc tu chút nào cả. Con người của xã hội cận đại, đa phần chỉ mải mê trong huyền đàm phiến luận, chứ ít khi thiết tha gì đến đời sống đạo đức. Chỉ năng thuyết chứ không năng hành. Tri hành không hợp nhất thì đức làm sao mà tương ưng cho được ? Những người mang danh Phật tử, mà trây lười với những giáo lý căn bản.

Ngược lại, họ chỉ muốn tìm đến những kinh điển cao siêu như Kim Cang, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, hoặc Duy Thức. Đi đâu đến đâu, họ cũng đều mang những chứng đắc mà họ đã đọc được trong sách vở ra, để hí luận biện giải, trong khi chính bản thân họ chưa từng giữ được một giới nào trong ngũ giới căn bản của nhà Phật. Ngày ngày họ vẫn tham sân si, vẫn dâm dục, vẫn ăn gian nói dối, vẫn uống rượu và ăn thịt chúng sanh đều đều. Thế mà nói đến thiền thì họ oang oang đã đạt đến tuệ thứ mười một hay mười hai gì đó trong thiền Minh Sát. Những người nầy, theo Hòa Thượng Đức Niệm, chỉ là những kẻ đang giỡn chơi thôi, chứ đâu có tu hành gì. Theo thầy thì ngay cả những Phật tử tu đã lâu, cũng chưa chắc đã hiểu biết về Phật pháp hơn những hạng giỡn chơi nầy đâu. Vì chủ tâm của họ là nắm bắt cho kỳ được một số vấn đề, để rảo bước hí luận, nên họ học thuộc lòng, họ nói thao thao bất tuyệt về đủ thứ vấn đề từ Vô Ngã, Vô Pháp, Bất Nhị, Tánh Không, đến những tầng chứng đắc trong thiền. Họ có khả năng phân định đủ thứ từ danh sắc, nhân duyên, vân vân. Họ cũng có khả năng thuyết tràng giang đại hải về vô thường, khổ và vô ngã. Họ chỉ nói, chứ chưa bao giờ hành trì. Theo thầy, tất cả chỉ là giỡn chơi và chuẩn bị đi vào địa ngục mà thôi. Phật tử chân chánh, không hí luận biện giải, không theo chân những  hạng giỡn chơi với địa ngục nầy. Biết Phật pháp càng nhiều càng tốt, biết để mà tiến tu, chứ không biết để mà hí luận biện giải. Thầy khẳng định rằng bất cứ ai dù có nói giỏi thế mấy mà không giữ Tam Quy Ngũ Giới, không phát Bồ đề tâm vì thương xót chúng sanh mọi loài mà ăn chay, không chịu hành thiện, vân vân, đều chỉ là giỡn chơi, chứ không phải là tu. Họ chỉ là những kẻ phóng tâm truy cầu những triết thuyết cao siêu, để hoặc thỏa mãn óc hiếu kỳ, hoặc hù thiên hạ chơi cho vui vậy thôi, chứ kỳ thật họ rất sợ tu. Thầy cũng chia xẻ rằng trên con đường hành đạo, thầy đã gặp không biết bao nhiêu người đến khoa trương với thầy rằng thì là họ chuyên trì kinh Kim Cang, họ đã tự thân chứng đắc tất cả các tầng thiền, thể nhập lý Bát Nhã, thấu suốt Hoa Nghiêm, vững vàng lý Bất Nhị của kinh Duy Ma, thông triệt lý vạn pháp duy thức của pháp tướng. Đôi lúc họ còn phô trương chỗ sở đắc kiến tánh của họ đã đồng với Lục Tổ Huệ Năng. Nghĩa là đối với họ, ngày ngày chỉ còn là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Tuy nhiên, đến khi thầy hỏi ra thì mới biết ăn chay họ cũng không, mà giữ giới họ cũng chẳng, tham sân si họ luôn có thừa, cờ bạc rượu chè chẳng có ai hơn được họ, Las Vegas thì họ vẫn vãng lai thường xuyên. Đã giỡn chơi như vậy thì thôi, đàng nầy họ còn bạo nói “tâm tức Phật, Phật tức tâm” thì chấp làm gì ăn chay, giữ giới, trì kinh, bái sám, niệm Phật, bố thí, cúng dường… Họ cho rằng những ai còn chấp vào những việc nầy là hãy còn chấp vào hình tướng, cái đó chỉ dành cho những kẻ sơ cơ, hoặc độn căn độn trí mà thôi. Với họ, thiền đã mấy chục năm rồi, còn tầng thiền nào mà họ chưa chứng đâu ? Chấp chi những thứ ấy.

Kính bạch thầy ! Chẳng những thầy chóng mặt, mà con đây là người sơ cơ, cũng phát chóng mặt, thương xót cho những con ma Ba Tuần của thời Mạt Pháp, nhưng biết làm sao bây giờ hở thầy ? Phật còn chưa độ tận được chúng sanh. Thôi thì con xin  mượn những lời chỉ giáo của thầy để làm tiếng chuông cảnh tỉnh những ai còn lăn trôi trong mê muội. Hỡi những người con Phật !

Hãy can đảm lên nếu thấy mình đang ngày đêm rong ruổi là ma Ba Tuần. Cho dù có đa văn biện giải và thế trí biện thông như thế nào rồi cũng có ngày phải ngừng phải dứt. Đừng đợi cho đến lúc thân thể rã rời rồi mới ngưng thì e rằng không còn kịp nữa.

Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng nếu Phật hiện ra nơi đời để chỉ sáng khởi một triết lý cho con người biện biệt, thì chắc chắn là Phật đã không thị hiện. Phật chỉ muốn chúng sanh thầm thầm tiến tu và thực hành một cách rốt ráo những gì Ngài đã chỉ dạy, để rũ sạch mọi phiền não, để cũng giác ngộ và giải thoát như Ngài, hoặc giả ít nhất đời nầy sẽ có được một cuộc sống hạnh phúc và an lạc.

Phật và các thầy tổ đã nói hết những gì cần nói, đã làm hết những gì cần làm. Bây giờ sự quyết định về việc nghe hay không nghe, tin hay không tin, tu hay không tu là ở mỗi chúng ta. Nhưng xin đừng phí thêm thời giờ hí luận biện giải, hoặc tu giởn chơi nữa mà phải đi về địa ngục một cách oan uổng. Hãy mạnh dạn lên hỡi những đứa con Phật ! Hãy cầm ngay đuốc sáng của Phật tổ mà đi lần ra khỏi khu rừng vô minh tăm tối nầy ! Những người con Phật hãy thấy cho được cái bịnh trầm kha của chính mình để tìm đến minh sư chữa trị. Hãy luôn nhớ rằng, trong đạo Phật, phần hành trì chiếm một vị trí tối thượng. Đừng nói đến thiền, khi chưa nhiếp tâm hành thiện lánh ác. Đừng nói bố thí suông bằng lời, mà hãy làm bố thí bằng hành động cụ thể. Lúc đói, ai cho gạo, hãy tự mình nấu cơm, chứ đừng hí luận huyền đàm, phân chất xem coi gạo nầy xuất phát từ đâu ? Hãy chấm dứt ngay việc làm đẹp cho kiến thức. Chỉ tom góp kiến thức mà không chịu tu hành, thì chẳng những mình không an lành, mà người cũng không được mình để yên cho an lành. Đừng nói thiền nầy thiền nọ, cũng đừng nói Kim Cang, Bát Nhã, Lăng Già, Hoa  Nghiêm hay Pháp Hoa khi ngày ngày ta vẫn còn mang cái nghĩa địa lưu động đi diễu hành và hí luận khắp nơi. Làm như vậy chỉ là một sự giỡn chơi của những kẻ cuồng tâm loạn tưởng và ngã mạn cống cao mà thôi. Đừng tiếp tục tin vào phàm trí vô minh của mình, mà cho rằng ta đây đã từng tu từng chứng không cần thầy. Phật tử chân chánh hãy quay về với cội nguồn căn bản Phật pháp. Hãy thật sự quy y Tam Bảo; hãy trì trai giữ giới và phát tâm bố thí. Hãy nhẫn nhục, tinh tấn. Hãy hành thiện, không hành ác. Hãy thân cận minh sư và thiện hữu tri thức. Hãy cố gắng xa lìa bọn ác tri thức. Hãy cố giảm thiểu tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến.

Hãy chấm dứt ngay mọi hí luận biện giải. Thân tâm mình, chưa chắc mình đã lo xong, vậy đừng tiếp tục chạy đôn chạy đáo đi đốn ngộ cho ai. Tư cách làm một con người lương thiện chưa xong thì hãy khoan bàn đến làm Phật. Hãy đi từ từ, ráng mà loại trừ những thú tánh tàn độc trong ta để được tiến lên ngang hàng với một con người có nhân cách, sau đó hẳn nói đến Phật cách.

Hãy chấm dứt ngay cái kiểu biện giải của loài ma Ba Tuần. Còn bị rượu lôi cuốn quyến rũ, cứ thành tâm chấp nhận để mà sửa, chứ đừng ngụy biện một cách trâng tráo và trơ trẽn, rằng thì là : “nếu ta không vào bàn rượu thì lấy ai cứu những kẻ uống rượu ?”

Phật tử chơn thuần, hãy chấm dứt ngay kiểu giỡn chơi ngu muội nầy. Hãy lắng lòng nghe lời Phật dạy để thấy cho rõ đâu là chánh, đâu là tà, đâu là chơn, đâu là vọng, đâu là hướng thượng,  âu là địa ngục ? Hãy trở về xây nền cho vững chắc trước khi cất nhà, hoặc lên lầu. Hãy nắm ngay lời khuyên nhủ đơn giản của Phật tổ năm xưa: “hành thiện, không hành ác.” Đừng xem thường  lời nói đơn giản nầy, vì nó đơn giản đến độ trẻ nít cũng nói được, nhưng ông già tám mươi chưa chắc đã làm được. Dễ nói hiền hòa, dễ nói thanh tịnh, dễ nói từ bi hỉ xả, nhưng hành động cụ thể  thể hiện hiền hòa, thanh tịnh và từ bi hỉ xả quả là thiên nan vạn nan.

Chúng sanh từ vô thỉ vì vô minh mê muội mà cứ lăn trôi tạo nghiệp, tội lỗi sâu như biển và chồng chất cao như núi. Thế mà vẫn tỉnh bơ không chút kinh vì, vẫn ngày ngày ung dung xe đẹp nhà cao cửa rộng, quần là áo lụa, đi rảo hết chùa nầy đến chùa khác, không phải để tu, mà là để giỡn chơi hí luận, thì quả là tôi nghiệp quá. Hãy về nhà, đóng cửa lại, dẹp hết những sách vở hí luận, chỉ chừa lại một câu “trước hết phải hành thiện không hành ác, rồi thanh tịnh tâm ý” mà tu rồi sẽ thấy. Mười phương tam thế chư Phật đã thành Phật với câu nầy, chúng ta há có con đường tu tắt nào khác được sao ? Tâm nầy đã lăn trôi tạo tác ác nghiệp từ vô thỉ, thì sự tu hành cải thiện nó cũng phải kiên trì, phải thành tâm, chứ không phải thành khẩu mà có thể tiến đến chân thiện mỹ được.

Tóm lại, còn đắm chìm ngũ dục mà nói tu Phật, chỉ là giỡn chơi. Còn thị phi điên đảo mà nói tu thiền cũng là giỡn chơi.

Không cố làm lành lánh ác, mà nói tu giải thoát, cũng là đang giỡn chơi. Không phụng hành Phật pháp căn bản mà đi bàn luận những kinh điển cao siêu như Kim Cang, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, cũng là giỡn chơi. Tâm hãy còn đầy dẫy tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, mà miệng nói tu hành, cũng là giỡn chơi. Trạm dừng chân kế tiếp của những kẻ đang giỡn chơi hí luận, chắc chắn phải là địa ngục, không thể nghĩ bàn. Người con Phật, đừng sợ những lỗi lầm trong quá khứ, hãy chí tâm đảnh lễ chư Phật, mà nguyện từ nay sám hối ba nghiệp; từ nay quyết thoát cho ra khỏi màng lưới tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Từ nay quyết chí không tiếp tục làm những con người túy sanh mộng tử, không theo bọn tà ma ngoại đạo nữa, mà quyết chí quay về nhổ sạch gốc rễ của sanh tử trầm luân. Từ nay quyết không tiếp tục chơi vơi lặn ngụp trong bể rừng kinh điển mênh mông nữa. Không  buông lung thân tâm trong giỡn chơi hí luận nữa, không tiếp tục vói tay nắm bắt những cái ngoài tầm chi nữa cho thêm phí đi thời giờ vốn dĩ đã không có của chúng ta. Ngược lại, người con Phật quyết quay trở lại mà tu từ những cái đơn giản nhứt “hành thiện không hành ác,” cho đến lúc nào dứt hẳn nghiệp chướng tiền khiên và không còn một nghiệp bất thiện nào ở đời nầy. Làm được như vậy, đâu cần nói chi đến hai chữ “giải thoát” vô nghĩacủa thế gian nầy !

362. MÙA XUÂN VĨNH HẰNG CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Tiết trời của thiên nhiên và vạn vật có đổi thay theo thời gian từ xuân, hạ rồi đến thu đông. Xuân thì ấm áp và dễ chịu với cỏ cây hoa lá xanh tươi, hạ thì oi bức khó chịu, thu thì ảm đạm thê lương, còn đông thì lạnh lẽo. Chính vì sự ấm áp của mùa xuân mà người ta ai cũng thích, rồi từ đó khi xuân đến, không chịu tận hưởng hết hương vị của mùa xuân, mà cứ lo âu sợ sệt sự qua mau của mùa xuân. Con người cứ mãi chạy theo và lệ thuộc vào trần cảnh, nên phải kinh qua đủ thứ từ vui, buồn, thương, ghét, nóng, lạnh, nắng mưa, giông bão, vân vân. Nắng mưa, nóng lạnh, giông bão là chuyện của thiên nhiên, nói theo kiểu bình dân là chuyện của trời, chúng ta có khả năng nào thay đổi được chúng không ? Nếu không thì tại sao chúng ta lại để phí thì giờ cho những chuyện ngoài tầm tay ấy ? Với đạo Phật, dù biết rằng ngay cả thân tứ đại của Phật cũng phải chịu sự chi phối của những nóng nóng lạnh lạnh của thiên nhiên, nhưng Đức Từ Phụ đã khẳng định rằng những ai sớm biết quay về với chính mình mà tu tâm dưỡng tánh, thì chúng ta sẽ thấy duy nhất một mùa xuân: mùa xuân của thanh tịnh và an lạc.

Nói gì thì nói, hoàn cảnh xã hội mà chúng ta đang sống bây giờ có khác hoàn cảnh của các thế hệ cha anh. Xa quê hương với những nhục nhằn của mất mát và phân ly, chúng ta đâu còn tìm thấy những phút giây đoàn tụ. Làm thân khách trú, chúng ta đâu còn được sống theo những tập tục cổ truyền của ông bà tổ tiên. Thậm chí ngay cả những ngày tết, là những ngày thiêng liêng nhứt của dân tộc, chúng ta cũng phải đi làm, nếu những ngày ấy không rơi vào những ngày cuối tuần. Đa số chúng ta ai cũng sống trong tâm trạng của kẻ ra đi mà một nửa hồn vẫn còn bỏ lại sau lưng, sau những lũy tre xanh êm đềm của quê hương, sau những con đê bờ ruộng chạy dài thơ mộng, sau những  dòng sông uốn khúc lượn quanh đình làng, hoặc sau những phố thị nhỏ nhắn xinh xinh. Chúng ta đã mất mát nhiều quá phải không các bạn ? Nhưng các bạn ơi ! Có cái gì trường tồn mãi đâu? Đông rồi cũng phải tàn, tuyết rồi cũng phải tan để nhường chỗ cho xuân sang ấm áp. Thời gian tự nó không thể phân đo.

Đâu có ai đo được ngày nào của vũ trụ, tháng nào của mặt trời, hoặc năm nào của trái đất nầy đâu ? Thế nhưng con người cứ phân định những mốc thời gian và bắt ép mình phải khép mình vào trong những cái mốc ấy. Thật tình mà nói, nếu chúng ta cứ loanh quanh lẩn quẩn trong những cái “quá khứ đã qua rồi, hoặc tương lai thì chưa tới ấy,” thì chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu hết quý bạn ạ ! Không phải chỉ có ở quê nhà chúng ta mới có được những ngày tết đượm nét cổ truyền dân tộc, ngày tết của hạnh phúc và an lạc. Mà kỳ thật, quê hương chúng ta ở đâu ? Trên mảnh đất hình cong như chữ S, hay ở bên Tàu, hay ở tận cao nguyên Tây Tạng ? Có thể cha anh chúng ta phát nguồn từ những nơi đó, nhưng đích thực quê hương của những người con Phật chúng ta phải là đất Phật, phải là quê hương của chân như diệu hữu, phải là quê hương của an lạc vĩnh hằng. Những người con Phật hãy cố mà học cho được cách sống và cách tu của những bậc tiền bối, để thấy rằng thời gian chả là cái gì nếu ta hằng sống và hằng tu với giáo lý Phật Đà. Thấy để không vướng mắc và hiểu rằng có xuân nào còn hoài, có hạ nào ở mãi, có thu nào không tàn, có đông nào không qua. Vạn pháp là vô thường như vậy đó. Xuân, hạ, thu, đông có làm cho tiết trời ấm áp hay nghiệt ngã hơn, có mang đến hơi ấm, luồng gió mát, sự tươi tỉnh hoặc héo khô của vạn vật, có nghiền nát tất cả những thành hoại của trần gian, nhưng người con Phật vẫn bước những bước dịu dàng, tỉnh thức và an lạc trong dòng đời sanh diệt. Người con Phật hiểu rằng vạn vật đều bị chi phối bởi vô thường, nên xuân đến xuân đi, lòng người con Phật vẫn tươi tỉnh với chỉ một mùa:  mùa hạnh phúc và an lạc. Hãy lắng lòng nghe lời chỉ dạy về mùa Xuân và sự giác ngộ của Thiền Sư Mãn Giác, cho dù những lời đó đã được Ngài nói ra từ mười thế kỷ về trước, nhưng lúc nào nó đáng cho chúng ta suy gẫm:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa nở, những việc trước mắt cứ trôi và trôi mãi, đầu ta thì cứ già và già mãi. Tuy nhiên, chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước vẫn còn một cành mai, cành mai ấy sẽ không bao giờ rơi rụng với thời gian. Ngài Mãn Giác đã chỉ cho hậu bối chúng ta quá rõ ràng rằng trong cái đêm tối mờ mịt ấy, ánh sáng bình minh vẫn chực chờ ló dạng. Trong cuộc sống đầy khổ đau và phiền não nầy, hạnh phúc thanh tịnh và an lạc vẫn phảng phất đó đây.

Trong cõi Ta Bà uế trược nầy, Niết Bàn vẫn có cơ hiển lộ. Trong vô lượng kiếp lăn trôi đi về với luân hồi sanh tử, ta vẫn còn một cành mai, cành mai của giác ngộ và giải thoát.

Những người con Phật, nếu có yêu quý mùa Xuân, xin hãy lắng lòng nhìn lại những lỗi lầm năm cũ, thấy để mà học hỏi, thấy để mà tiến tu, chứ không thấy để mà nuối tiếc. Chúng ta đã giẫm lên tuổi thanh xuân của chúng ta một cách uổng phí, bây giờ nếu thấy được vẫn chưa muộn. Thấy để biết rằng chúng ta đã để cho tuổi thanh xuân của chúng ta mất mát nhiều quá rồi, giờ thì quyết chí không để cho thời gian luống qua một cách vô bổ nữa. Thấy để nhứt tâm rằng kể từ bây giờ và vẩn đến hết cuộc đời, ngày nào của chúng ta cũng là ngày xuân, mùa nào của chúng ta cũng là mùa xuân, mùa xuân của hạnh phúc tỉnh thức  và an lạc. Hãy bắt đầu mùa xuân lại ngay từ bây giờ vẫn còn kịp các bạn ạ ! Hãy sống một ngày như mọi ngày, sống trong tỉnh thức và tình yêu thương bao la của một người con Phật. Hãy mang mùa xuân của từ bi hỉ xả trong nhà Phật ra mà ban phát cho hết thảy mọi người và mọi loài. Nếu chúng ta sống được như vậy thì cho dù xuân, dù hạ, dù thu, dù đông, ngày ngày của chúng ta luôn vẫn là những ngày xuân bất tận.

Những người con Phật yêu quý mùa xuân của mình, hãy cố mà sống một cuộc sống hiện tại hết sức bình thường từ ăn, uống, ngủ, nghỉ, chứ đừng sinh tâm vọng cầu những thứ ảo huyền đâu đâu. Tất cả những vọng cầu chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng mê dại của con người mà thôi. Mùa xuân của mình đang có đây lại không chịu tận hưởng, chỉ ôm tâm lo sợ mùa xuân qua mau, mùa xuân mất mát. Để rồi mùa xuân vẫn qua, thất vọng và đau khổ vẫn ngập tràn trên thân phận nhỏ bé của con người. Hãy lắng lòng mà suy gẫm luật vô thường của nhà Phật. Cái gì có đến, ắt có đi; có sanh, ắt có diệt. Thời gian cũng thế, thời gian đã lẳng lặng trôi đi không màng để lại một chút âm hưởng gì cho chúng ta, tại sao chúng ta lại cứ mãi phải đa sầu đa khổ vì thời gian ? Tại sao thời gian cứ hững hờ trôi và trôi mãi, còn chúng ta lại ngớ ngẩn đứng lại bên đường cho thời gian nghiền nát lấy ta ?

Thời gian có mơ ước gì đến ta đâu, tại sao ta lại mơ mơ mộng mộng với thời gian, để rồi cuối cùng phải ôm sầu chuốc khổ ?

Những người con Phật là những người đã quyết chí tu hành theo Phật, chứ không phải là những kẻ đọc sách Phật, để rồi ngày ngày vẫn tiếp tục lây lất sống trong tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, hoặc giả vẫn ngày ngày lang thang trong vui, buồn, thương, ghét của phàm phu tục tử. Đọc sách Phật mà chẳng chịu tu hành theo Phật, chẳng khác nào như ta đang ngồi trong căn nhà lửa tam giới mà miệng thì luôn lải nhải cái câu : “Ồ Phật đã giải thoát rồi, hay quá nhỉ !” Chỉ nói bằng mồm chứ không chịu tự  mình bước ra khỏi căn nhà lửa Tam Giới, thật là buồn cười.

Những người con Phật hãy tỉnh đi cơn đại mộng của “túy sanh mộng tử.” Hãy thấy cho rõ rằng trong cõi Ta Bà nầy, hạnh phúc thì tạm bợ, chợt đến chợt đi; còn khổ đau phiền não thì cứ mãi bám riết lấy ta như bóng với hình. Hãy thấy cho rõ ràng rằng cho dù hạnh phúc có đến, nhưng bên trong cái vỏ bọc đường ấy lại là thuốc đắng, bên trong niềm hạnh phúc tạm bợ ấy là khổ đau, lo sợ và phiền não. Không phải thấy để mà bi quan yếm thế, nhưng thấy để không nắm bắt một thứ gì. Cứ để cho thời gian và xuân, hạ, thu, đông của thiên nhiên nầy, của vạn vật nầy trôi qua, mà lòng ta không chút rộn ràng, bồi hồi hay luyến tiếc. Nói như vậy không có nghĩa là người con Phật sống ơ hờ hay vô hồn với nhân thế. Không đâu ! Những người con Phật chân chánh luôn yêu mình, yêu người và yêu đời. Người con Phật luôn trân trọng cống hiến tất cả thân tâm chân thật của chính mình cho nhân thế. Tuy nhiên, người con Phật còn màng chi đến xuân, hạ, thu, đông khi trong lòng đã có một mùa xuân bất tận của thanh tịnh và an lạc.

Với người con Phật, ngày ngày là những ngày an lạc, mùa mùa là những mùa thường lạc. Người con Phật bình thản trước sự xoay vần của thời gian, để chỉ biết rằng mỗi ngày mình phải sống phải tu theo lời Phật dạy, cho đến lúc đi về cõi miên trường giải thoát, cõi của vô ưu vô sanh và vô diệt.

363. LÝ TƯỞNG CAO CẢ

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã thị hiện trên hai mươi sáu thế kỷ về trước, với duy nhứt một lý tưởng: khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật. Nói cho rõ nghĩa là giúp cho chúng
sanh thấy được cái mà Ngài đã thấy. Lý tưởng cao cả ấy không ngoài mục đích cứu khổ ban vui, không ngoài mục đích giúp cho chúng sanh thấy được thế nào là khổ, do đâu mà có khổ, làm sao diệt khổ để tìm về với nguồn sống hạnh phúc và nguồn tu giải thoát ? Trong các kinh điển Phật, chính Đức Từ Phụ đã từng khẳng định: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật.” Nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng thành Phật. Tuy nhiên, Đức Phật cũng đã khẳng định rằng muốn tu cho Phật tánh hiển lộ, muốn tu cho thành Phật, những người con Phật trước tiên phải tâm nguyện mang lý tưởng cao cả của Phật mà trao cho mình, cho người và cho đời. Nói như vậy là quá rõ ý của Thế Tôn rồi còn gì. Thế nhưng cũng còn quá nhiều ngộ nhận về lý tưởng cao cả của nhà Phật. Không riêng gì những người ngoại đạo, mà ngay cả những Phật tử đã tương đối thuần thành, vẫn còn những thành kiến và định kiến không đúng đắn về đạo Phật.

Trong các kinh điển Phật, Đức Từ Phụ đã nói quá rõ, Ngài không phải là đấng toàn năng, Ngài không sáng thế cũng không sáng tạo ra được bất cứ thứ gì. Tuy nhiên, nhờ chí tâm tu trì qua nhiều đời nhiều kiếp, nên Ngài đã trở thành một bậc toàn giác. Ngài thấy rõ về tuần hoàn máy tạo chuyển xoay. Vạn vật trong thiên nhiên, đến và đi theo luật thành, trụ, hoại, không. Ngài đã thấy quá rõ rồi những bất công ức hiếp giữa người với người, những tàn bạo dã man giữa người với vật. Ngài đã thấy cảnh cá lớn nuốt cá bé, rồi người nuốt cá lớn; thú lớn ăn thú nhỏ, rồi người ăn thú lớn, vân vân. Theo Ngài, tất cả những khổ đau  phiền não trong cõi Ta Bà nầy đều do vô minh mà ra. Thế nên con đường tu hành của đạo Phật, là con đường sáng, vạch rõ cho chúng sanh thấy đường hầm của vô minh để mà tránh, để mà bước ngược về phía của cuộc sống hài hòa và cuộc tu từ bi hỉ xả.

Như vậy lý tưởng cao cả, nói cho rõ hơn, đại nguyện cao cả của Đức Từ Phụ là làm vơi đi những nỗi thống khổ của chúng sanh, và đem lại hạnh phúc chân thật vĩnh hằng cho mọi loài mọi người. Ngài đã chỉ rõ cho con người về một đời sống hạnh phúc của những con người có đạo đức. Hạnh phúc và đạo đức mà Đức Từ Phụ nói ở đây, không phải là tiền bạc nhung lụa, cũng không phải là quyền cao chức trọng hay công hầu khanh tướng, lại càng không phải là cuộc sống phóng dật buông lung, chạy theo những dục vọng thấp hèn để gây nên tổn hại cho người khác. Ngược lại, hạnh phúc vĩnh hằng và đạo đức chân thật của cuộc sống đầy ý nghĩa, phải là biết nâng cao những giá trị cao quý, phải biết trải tâm từ bi bác ái đến với muôn người muôn loài. Lý tưởng cao cả mà Đức Từ Phụ muốn truyền trao đến mọi người mọi loài là sự tu hành chân chánh, để thấy cho rõ chân tướng của sự vật, thấy cho rõ thế nào là khổ, do đâu mà có khổ, làm sao tận diệt khổ đau phiền não để quay về với cái chơn tâm sáng suốt của mình, mà bước lên sinh lộ của giác ngộ và giải thoát. Ngài chỉ thị hiện để trao truyền lý tưởng cao cả nầy, chứ Ngài không mong và không bao giờ cứu rỗi được ai. Ngay cả La Hầu La là đứa con trai duy nhất của Ngài, Ngài cũng không cứu rỗi được. Tuy nhiên, ai chịu nhận sống và tu theo lý tưởng cao cả mà Ngài đã truyền trao, thì người ấy cũng sẽ giác ngộ và giải thoát như Ngài.

Lý tưởng ấy không cao xa như nhiều người ngộ nhận. Ngược lại, nó đơn giản và dễ làm nếu mình thực tâm tu hành. Thay vì sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, thì chúng ta thương người mến vật, bố thí lợi sanh, không tà dâm, không vọng ngữ vạy ngôn. Lý tưởng cao cả ấy là dứt trừ vô minh, để từ đó xa lìa vọng tưởng và  quay trở về với cái “minh tâm” mà tự thuở giờ mình vẫn có. Lý tưởng cao cả ấy là bốn sự thật cao cả do chính Đức Từ Phụ, đã vì thương xót chúng sanh mà nói ra: Tứ Diệu Đế. Chính nhờ Tứ Diệu Đế mà những kẻ u muội tối tăm đã lần về với chánh đạo, để từ đó biết được thế nào là khổ, do đâu mà có khổ, làm sao tận diệt cái khổ để lần bước về nẻo đường giác ngộ. Theo Đức Phật, đời là một bể khổ, vì sanh ra đã khổ, rồi già yếu bịnh hoạn lại càng khổ hơn. Thế nhưng chúng sanh chẳng chút kinh vì, mà lại còn vỗ tay tán thưởng nữa là khác. Phật vì thương xót chúng sanh muôn loài, nên Ngài đã chỉ vạch cho chúng sanh thấy rõ do đâu mà có khổ và làm sao tận diệt cái khổ để cuộc sống được an lạc hạnh phúc và cuộc tu được miên trường giải thoát. Theo Đức Từ Phụ, cái thảm cảnh hiện tại của cõi đời, nó nằm ngay trước mắt chúng ta, ngay bên tai ta. Chúng là những cái mắt thấy tai nghe, chứ không phải là những cái gì cao xa huyền hoặc khó tin. Hãy suy gẫm lại những nỗi khổ của sự già yếu và bịnh hoạn ở ngay chính thân ta, thì chúng ta sẽ thấy yếu nghĩa của những lời Phật dạy. Đã có thân, tất phải khổ, không chối cãi vào đâu được. Tuy nhiên, cái khổ không đến với ta một cách tình cờ hoặc ngẫu nhiên. Ngược lại, Phật đã chỉ dạy rất rõ ràng là tất cả sự việc xảy ra trên cõi đời nầy đều có lý do của nó. Không gieo mà gặt là chuyện không tưởng trong thuyết nhà Phật. Với Phật, nguồn gốc của mọi đau khổ, không còn một tác nhân nào khác ngoài ta.

Kỳ thật, trong cõi đời ô trược nầy, một đôi khi, chúng ta cũng thấy len lén một hai niềm vui nho nhỏ. Tuy nhiên, hãy nhìn kỹ lại mà xem, chúng chỉ là tạm bợ. Nó tạm bợ như cái hoa sớm nở tối tàn vậy. Hãy nhìn kỳ lại mà xem thì chúng ta sẽ thấy ngay những vật đổi sao dời, những tang điền thương hải. Mới công hầu khanh tướng đây, thì vất vưởng tha hương đó với bao nỗi nhục nhằn của cuộc cờ thay đổi. Mới lên xe xuống ngựa đây, thì tứ cố vô thân đó. Mới khỏe đây rồi bịnh đấy. Mới ngày nào ăn uống  no say, mà bây giờ lang thang đói khát đó. Mới vui vui mừng mừng đây, thì lo lo sợ sợ liền theo đấy. Thân thể nầy chỉ là một bầu da bọc lấy thịt xương dơ bẩn, nếu một hai bữa mà ta không tắm rửa thì nó sẽ thối tha không ai chịu được. Thế mà do vô minh vọng chấp, ta lại đem tâm đội đá vá trời, cố cưỡng lại luật vô thường, bằng mọi cách làm cho thân nầy trẻ mãi không già, để rồi phải khổ sở vì cái thân nó vẫn cứ già cứ bịnh và cứ hoại diệt theo thời gian. Có thấy không hỡi những người con Phật! Tất cả nguồn gốc gây ra đau khổ là do bởi vô minh xúi giục mà ta sanh ra tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, để rồi cứ mãi lăn trôi tạo nghiệp. Người con Phật thấy biết như vậy, không phải để chán ngán, hoặc khóc lóc rên xiết, vì nếu làm như vậy thì còn gì bi quan và tiêu cực cho bằng ? Người con Phật đâu thể nào ngộ nhận lý tưởng cao cả của Đức Từ Phụ đến như vậy ? Ngược lại, dù thấy rằng cuộc đời là xấu xa, đen tối và dẫy đầy những khổ đau phiền não, nhưng người con Phật chân chánh sẽ xông thẳng vào đời, để tận diệt tất cả những gốc rễ của đau khổ. Với người con Phật, hạnh phúc không đâu xa, hạnh phúc ở đây, ở ngay trong đời nầy kiếp nầy với một cuộc sống trống vắng phiền não.

Sống trên đời nầy, có ai không bịnh, không già, không khổ, không chết đâu ? Tuy nhiên, những người con Phật luôn tỉnh thức, để thấy rằng những thứ đó chỉ là những thông điệp khuyến tu không hơn không kém.

Những người con Phật chơn thuần, quyết vâng giữ và hành trì lý tưởng cao cả mà Thế Tôn đã ân cần truyền trao tự năm nào. Quyết biến lý tưởng cao cả ấy thành hiện thực, chứ không
phải là những lời thuyết pháp suông vô bổ. Chính vì hậu bối chúng ta về sau nầy không thấy biết và không chịu hành trì lý tưởng cao cả của nhà Phật mà chúng ta cứ mãi luân chuyển hết kiếp nầy qua kiếp khác trong sanh tử. Hãy quay về với tự thân, tự làm một cuộc cúng dường cao tột nhứt đến chư Phật, bằng  cách đem thân tâm ra hành trì những lý tưởng cao cả của nhà Phật. Mong rằng pháp giới chúng sanh đều thấy biết và làm được như vậy, để một sớm một chiều nào đó, không còn một quốc độ nào phải mang tên Ta Bà nữa.

364. NGƯỜI PHẬT TỬ VÀ MÙA VU LAN 

Vu Lan đã du nhập vào truyền thống dân gian cổ truyền từ thời đạo Phật mới được truyền sang Việt Nam, ngay vào những năm đầu Công Nguyên, nghĩa là cách đây gần hai ngàn năm. Trước thời có Vu Lan, dân ta đã có truyền thống sống hiếu hạnh trong suốt từ lập quốc, nhưng sự bày tỏ về tình cha nghĩa mẹ không được mọi người nhắc đến một cách công khai trong hội hè đình đám, mà chỉ qua những câu ca dao truyền khẩu nói lên thế nào là tình cha nghĩa mẹ và thế nào là chữ hiếu hạnh của của con cái như ỘCông cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.Ợ Hoặc ỘMẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một, như đường mía lau.Ợ Hoặc ỘCòn cha còn mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây. Đờn đứt dây cũng còn chỗ nối, cha mẹ chết rồi con phải mồ côi.Ợ Đến khi đạo Phật được du nhập vào Việt Nam, bao nhiêu giá trị chân lý của Phật pháp đã được áp dụng bên cạnh những truyền thống cổ truyền cao cả, khiến cho chữ hiếu của người con Việt trở nên thâm thúy vô cùng. Lúc đó chữ “hiếu” trong dân gian được dịp hòa nhập vào chữ “hiếu” cao tuyệt trong đạo Phật để trở thành một chữ “hiếu” đặc thù của dân tộc. Theo cách hiểu bình dân thì cây có cội, nước có nguồn, con người có tông tổVậy thì bổn phận làm con làm cháu là phải hiếu thảo với cha mẹ ông bà, phải nhớ công ân sanh thành dưỡng dục. Kẻ lỡ đường được cho uống một ngụm nước còn biết nhớ ơn, huống là công ơn cha mẹ sâu dầy, làm người sao nỡ quên cho đành? Chữ “hiếu” hiểu theo Phật pháp còn cao tuyệt hơn thế nữa. Trong một chuỗi dài lăn trôi, có ai biết được cội đâu, nguồn đâu, tông tổ đâu? Chính vì thế mà Đức Thích Tôn Từ Phụ đã luôn nhắc nhở rằng tất cả chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy đều đã từng là ông bà, cha mẹ, con cháu của nhau ở một kiếp nào đó trong quá khứ. Cũng chính vì thế mà Ngài đã đặt chữ “hiếu” lên trên tất cả. Ngài đã khẳng định với chúng đệ tử là trong thời không có Phật tại thếphụng sự và cúng dường cha mẹ, tức là phụng sự và cúng dường chư Phật rồi vậy.

Người Việt Nam, nhứt là những người con Phật, lúc nào cũng muốn có một cuộc sống an lành hạnh phúc và một cuộc tu giải thoát rốt ráo. Nhưng làm sao để có được cuộc sống an lành hạnh phúc? Làm sao để có một cuộc tu giải thoát? Trong Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, Đức Từ Phụ đã dạy rằng : ỘHiếu là pháp cao tuyệt, là mẹ của chư Phật.Ợ Đức Từ Phụ đã cụ thể hóa những gì Ngài nói qua việc hóa độ Vua Cha Tịnh Phạn và nhiều lần thuyết pháp độ cho hiền mẫu nơi cung trời Đao Lợi. Ngài đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp sống hạnh phúc và tu giải thoát bằng cách lấy hiếu hạnh làm đầu. Thông điệp của Ngài rất đơn giản, nhưng rõ ràng và dễ hiểu vô cùng. Hễ hiếu hạnh không tròn là chưa tròn đạo làm người, khoan hẳn nói đến chuyện tu giải thoát. Ngài đã tô đậm nét chữ “hiếu” cũng như chữ bất hiếu. Kẻ bất hiếu sẽ là kẻ bất trung, bất nhân, bất nghĩa, bất liêm, bất sĩ, bất tín, bất lễ. Kẻ mà đan tâm bội phản ngay cả công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, kẻ đó sẳn sàng bội phản bất cứ ai trong xã hội nầy. Kẻ nhẫn tâm bội bạc cha mẹ là những người đã trọn đời dưỡng nuôi dạy dỗ mình, kẻ đó sẽ vô tình bạc nghĩa với bất kỳ ai trong cõi đời nầy. Kẻ nào dám chê mắng cha mẹ, sẽ không hổ ngươi khi chê mắng bất kỳ ai. Theo như những lời Phật dạy thì bất hiếu không chỉ hạn hẹp ở việc không phụng dưỡng mẹ cha, mà nó còn bao gồm nhiều phương diện khác như cách mình xữ thế ở đời, cách mình xữ thế, vâng giữ những lời nói của thánh hiền, và ngay cả chuyện không giúp đỡ cha mẹ thực hành chánh pháp, hay những chuyện thiện lành cũng là bất hiếu. Như vậy chỉ một chữ “hiếu” trong đạo Phật đã là một pháp môn tu hành cao tuyệt cho những người con Phật rồi còn gì? Và những kẻ bất hiếu sẽ không có một chỗ đứng nào trong hàng tín đồ của Đức Phật. Ngài đã chỉ rõ trong các kinh điển của Ngài là phụ mẫu tại đường như Phật tại thế, nghĩa là cha mẹ hiện tiền như Phật trụ thế. Phụng dưỡng cúng dường cha mẹ là cúng dường chư Phật, là thứ cúng dường cao tột nhất.

Trong Kinh Báo Hiếu, Đức Từ Phụ đã nói rất rõ ràng trong mười điều về công ơn cha mẹ:

ỘNhớ ơn chín tháng cưu mang nặng nhọc của mẹ.

Nhớ ơn mẹ đã chịu đan đớn, rách da xẻ thịt khi sanh ta.

Nhớ ơn mẹ khi sanh ta quên cả lo âu.

Nhớ ơn mẹ khi nuôi dưỡng ta, miếng cay đắng mẹ nhận, nhường miếng ngọt ngon cho ta.

Nhớ ơn mẹ nằm chỗ ẩm ướt hôi thối do ta gây ra, nhường chỗ khô ấm cho ta.

Nhớ ơn ba năm chịu đau đớn hao mòn thân thể cho ta bú, săn sóc thuốc thang cho ta.

Nhớ ơn mẹ chịu dơ dáy lo cho áo quần ta được khô ráo sạch sẽ.

Nhớ ơn mẹ lo lắng nhớ nhung khi ta đi xa, làm lòng mẹ không được an ổn.

Nhớ ơn mẹ đã vì ta mà có thể tạo ra các ác nghiệp.

Nhớ ơn mẹ đã suốt đời, dù cho con đã lớn khôn, không lúc nào không nghĩ nhớ, thương yêu ta.Ợ

Nếu chúng ta bình tâm suy nghĩ thì chúng ta sẽ thấy ân đức sanh thành dưỡng dục của cha mẹ thật là cao hơn núi Thái Sơn, rộng hơn biển Thái Bình, không thể nào suốt cuộc đời chúng ta có thể đền đáp cho hết được. Ngày xưa Tôn Giả Mục Kiền Liên đã nhờ giác ngộ những lời Phật dạy, xin quy y Tam Bảochuyên tâm tu hành và chứng thành đạo quả. Nhờ đó mà sau nầy cùng với sự hộ niệm của chư Phật đã đưa thân mẫu thoát vòng địa ngục. Gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên vẫn còn rạng ngời và sẽ còn rạng ngời mãi mãi. Chính Đức Từ Phụ đã khuyến khích các hàng đệ tử về sau nầy của Ngài nên noi theo đó mà sống mà tu, thì cuộc sống sẽ là hạnh phúc, cuộc tu sẽ là giải thoát. Những người con Phật chúng ta về sau nầy, há có con đường nào khác hay sao?

Hãy suy nghĩ lại mà coi thân nầy, tâm nầy, hồn nầy có được là nhờ ai? Cha mẹ chẳng những ban cho ta tấm thân, mà còn ban cho ta tất cả những gì các ngài đang có. Ngay từ lúc biết mẹ mang thai, cha đã lo làm đầu tắt mặt tối, những mong có đủ tiền để lo cho con sau nầy. Trong lúc thai nghén, mẹ đã phải chịu trăm nỗi đau đớn để cưu mang ta cho đến ngày sanh nở. Khi sanh ta racha mẹ đã dầy công nuôi dưỡng chúng ta chẳng những về thể chất, mà còn về tinh thần và đạo đức nữa. Lắm lúc vì tương lai, vì công danh sự nghiệp của con cái mà cha mẹ phải nhịn cay nuốt đắng, quên ăn mất ngủhy sinh tất cả, kể cả thân mạng và danh dự, cũng chỉ vì con. Sự hy sinh ấy là vô biên vô lượng và không ngằn mé, nó bao trùm cả không gian và vũ trụ, có nói cũng không cạn, có viết cũng không cùng. Cha mẹ là gì nếu không là nguồn suối ngọt, là bầu sửa thơm lành, là bóng mát, là nơi nương tựa an toàn nhất cho chúng ta? Thế mà suốt đời chỉ thấy cha mẹ đến với chúng ta, chứ có khi nào ta đến với cha mẹ với tất lòng thành đâu? Thế mới biết cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày. Những người con Phật nếu muốn tránh được cái cảnh ân hận về sau nầy, xin hãy lắng lòng nghe lời dạy dỗ của Đức Thích Tôn Từ Phụ: “Phụ mẫu tại tiền như Phật tại thế.” Cha mẹ còn là niềm vui, niềm hạnh phúc của con cháu to lớn và tràn ngập như niềm vui của người tu đạo giải thoát đang được sống cùng thời với Đức Phật vậy. Trong thời Đức Phật còn tại thế, chính Ngài vẫn thường luôn nhắc tới chữ “hiếu” cao tuyệt của người con Phật. Chữ hiếu ấy chẳng những vượt lên trên khuôn khổ của mọi nền luân lý, mà còn vượt hẳn lên trên cả không gian và thời gian. Nghĩa là bất kỳ ở đâu, vào bất cứ lúc nào, chữ hiếu trong đạo Phật là không thể nghĩ bàn. Gần ba ngàn năm nay, chưa một ai có thể đánh đổ được tánh chất cao tuyệt của “hạnh hiếu” trong đạo Phật. Mà kỳ thật, làm sao có thể nghĩ bàn khi Phật dạy hiếu kính là làm lành, lánh dữ, thương người, thương vật, bố thítrì giớikính trọng người già, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm vọng ngữ, không rượu chè cờ bạc, không sân hận oán thù, không ganh ghét đố kỵ, không tự cao ngã mạn, không ỷ mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, không chỉ trích hay lăng mạ ai. Hiếu kính là biết sống kết hợp hòa vui, là tu trì Phật pháp, là tinh cần thiền định, là thấu suốt sự thật, là tự lợi lợi tha. Và điểm cao tuyệt nhứt của hiếu kính trong nhà Phật là đạt thành quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Trong kinh Tâm Địa Quán, Đức Từ Phụ đã dạy rằng: ỘTrên đời nầy, ai là người giàu, ai là người nghèo? Còn mẹ hiền là người giàu, mẹ hiền mất rồi là người nghèo. Còn mẹ hiền là mặt trời trưa, mẹ hiền qua đời là mặt trời lặn. Còn mẹ hiền là đêm trăng sáng, mẹ hiền qua đời là đêm không trăng.Ợ Ôi thắm thía làm sao lời dạy ân cần của Thế Tôn! Từ ân của cha, bi ân của mẹ, lời nào nói cho hết, bút nào viết cho cạn? Cha mẹ đã vì con cái mà chịu trăm đắng ngàn cay đến phải hao mòn thân xác, lắm khi phạm tội cũng chỉ vì con. Thế nhưng đã có bao giờ chúng ta nói với cha mẹ chúng ta một lời ngọt ngào tha thiết nào chưa? Chúng ta đã có bao giờ biểu lộ lòng biết ơnquý mến và kính yêu cha mẹ chúng ta chưa? Dù có hay dù chưa, bây giờ vẫn chưa gọi là muộn. Dù được cài một bông hồng đỏ, hay phải cài một bông hồng trắng, với chúng ta vẫn chưa là muộn để tu hành hiếu hạnh. Nói thì dễ, ai cũng nghe được và hiểu được; tuy nhiênbản chất cố hữu của Phật pháp vẫn là “nói dễ khó làm.” Những người con Phật hãy bình tââm suy gẫm lại coi Phật muốn nhắn nhủ gì với chúng ta khi Ngài dạy chúng ta về hiếu kính? Hãy làm tất cả những gì thiện lành cho cha mẹ, hãy thương yêu kính trọngsăn sócnuôi dưỡng cha mẹ cả về vật chất lẫn tinh thần, hãy sống cho thật xứng đáng làm một con người biết khiêm cung từ tốn, không sát sanhtrộm cắptà dâmvọng ngữ, rượu chè be bét, làm buồn lòng cha mẹ. Hãy tự lợi và lợi tha trong tinh thần tu hành giải thoát rốt ráo của nhà Phật, để thành Phật và hồi hướng tất cả công đức nầy đến cha mẹ và cửu huyền thất tổ.

Những người con Phật hãy cố mà học theo hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên. Ngay từ bây giờ và mỗi ngày, chứ không đợi đến Vu Lan. Nếu cha mẹ còn hiện tiền, hãy đến bên cha mẹ mà nói rằng con thương cha yêu mẹ. Hãy dâng cho cha một tách trà, hãy trao cho mẹ một bát cơm với tất lòng yêu kính và phụng dưỡng. Hãy đem đến trao cho các ngài những nụ cười ân cần và tuyệt đẹp nhứt trần gian. Chúng ta vốn dĩ đã không may, sanh ra đời không thấy Phật. Tuy nhiên, Phật đã không từng dặn dò chúng ta là nếu sanh ra đời không có Phật, mà biết phụng dưỡng cha mẹ, thì cũng như phụng thờ chư Phật không khác. Người con thật sự hiếu thảo, ngoài việc hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, còn phải khuyên cha mẹ tu tâm dưỡng tánh, làm lành lánh dữ bằng cách quy y Tam BảoTuy nhiên, cách báo hiếu thực tiển nhất vẫn là tự mình tu tâm dưỡng tánh, để không làm điều gì nhơ nhuốc đến tông đường. Tự mình phải sống một cuộc sống thật xứng đáng, một cuộc sống từ, bi, hỉ, xả, bố thílợi tha và vì tha nhân mà sống. Sống như mẹ Việt Nam đã từng sống với tình thươngche chởhi sinhtha thứ và chịu đựng. Đến khi cha mẹ quá vãngchúng ta phải hết lòng tinh tấn tu trì giải thoátnếu không mong được nhất nhơn giải thoát, cửu huyền thăng, thì ít ra chúng ta cũng giúp làm nhẹ bớt đi những nghiệp chướng mà các bậc cha mẹ đã vì ta mà gây ra.

Hơn nữa, trong kinh Báo Hiếu, Đức Từ Phụ đã dạy: ỘChúng sanh đã từng lăn trôi vạn kiếp trong luân hồi sanh tử, từng là những cha mẹ của ta trong nhiều đời kiếp.Ợ Chính vì thế mà Đức Thế Tôn đã dạy phải xem nam nhân trong đời là cha của ta, phải xem nữ nhân trong đời là mẹ của ta. Trong cuộc xử thế hằng ngày, phải cố gắng làm lành lánh dữ, phải tạo phước điền bố thí, phải đem lòng từ bi hỉ xả mà đối với tha nhân, phải vì lợi ích của tha nhân mà hành xử, ấy cũng là một cách báo hiếu rốt ráo nhất đối với những người con Phật. Đạo Phật là đạo của hiếu hạnh, Đức Thích Tôn Từ Phụ là một thí dụ hiển hình. Sự báo hiếu của người con Phật không những là một truyền thống cổ truyền cao đẹp, mà còn là một nhiệm vụ thiêng liêng, một giá trị đạo đức và luân lý đã tạo ra một mối liên hệ gia tộc từ đời nầy sang đời khác đã giúp giữ vững dân tộc và đất nước. Trong mùa Vu Lan, chúng ta không chỉ đơn thuần nghĩ đến công ơn cao dầy của cha mẹ, mà còn nghĩ đến tiền nhân và những chiến sĩ, hữu danh cũng như vô danh, những người đã có công xây dựng và giữ vững một dãy non sông gấm vóc mến yêu, những người đã hun đúc cho thế hệ chúng ta được tươi đẹp như ngày nay. Hãy tự xét lại chính chúng ta từ lời ăn tiếng nói, đến cử chỉ hành động và lối cư xử với nhân quần xã hội. Hãy rãi tâm từ và mang tâm bi đến với mọi người. Hãy luôn bao dung hỉ xả trong mọi tình huống của cuộc đời. Hãy tự phản tỉnh để tránh không làm việc ác, mà chỉ chuyên làm các điều lành, hãy để cho tâm ý luôn thanh tịnh, đó là ý nghĩa đúng nhất của người Phật tử và mùa Vu Lan Báo Hiếu. Là người con Phật, chúng ta không chỉ thương cha yêu mẹ trong mùa Vu Lan Báo Hiếu không thôi. Ngược lại, với người con Phật mỗi ngày là một ngày Vu Lan, mỗi mùa là một mùa Vu Lan, Vu Lan bất tận, Vu Lan cho đến khi nào địa ngục vị không, hoặc nhứt thiết chúng sanh đều được về cõi vô sanhvô ưu và vô diệt.

365. HÃY VÌ TIỀN ĐỒ ĐẠO GIÁO MÀ CÙNG XIẾT TAY NHAU HỠI NHỮNG NGƯỜI CON PHẬT 

Nhiều người, trong đó có những Phật tử thuần thành, đã ngộ nhận về sức mạnh tổ chức của Phật giáo. Họ cho rằng người tu theo Phật là phải buông bỏ tất cả. Họ cho rằng chính Phật đã dạy như thế : “Đời vô thườngvạn vật vô thường. Xuân sang thì cảnh vật tươi đẹp, nhưng đến hạ, đến thu, đến đông thì sao? Có phải là héo tàn úa rũ hay không?” Đúng! Y cứ theo lời Phật dạy thì “chánh pháp thượng xả, hà huống phi pháp.” Tuy nhiên, ý Phật muốn nói gì khi dạy chúng ta câu nầy? Không lẽ Phật lại kêu chúng ta hãy bỏ đi những lời Ngài đã dạy? Vâng, quả đúng Phật muốn chúng ta buông bỏ tất cả khi đã đến được bến bờ giác ngộ và giải thoát, chứ đừng câu chấp chi cho thêm nặng nghiệpTuy nhiên, hãy xét lại cho kỹ mà xem, coi chúng ta đã giác ngộ và giải thoát chưa? Lúc mà chúng ta hãy còn lặn ngụp trong biển đời sanh tử của thế giới Ta Bà nầy, nếu không y cứ theo chánh pháp, thì biết y cứ theo cái gì đây? Thế mà vì câu chấp nên một số người đã gán cho Phật giáo một bộ mặt bi quan yếm thế. Họ muốn đi riêng về lẻ và luôn lên giọng đả kích những ai muốn ngồi lại, cùng xiết tay nhau, hầu củng cố tiềm năng và sức mạnh sẳn có của Phật giáo. Họ cho rằng nhân sinh quan và vũ trụ quan của đạo Phật là không thể nghĩ bàn, ai muốn tu theo Phật, cứ y cứ theo đó mà tu, chứ đạo Phật không cần phải được tổ chức theo một khuôn thước nào cả. Quả là lý luận ngông cuồng của những con người không tưởng.

Hãy nhìn lại thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện tại thì những con người có tâm huyết với tiền đồ đạo pháp sẽ nghĩ thế nào? Khoan hẳn nói chi đến việc tổ chức, hãy nói đến một việc nhỏ thôi: Kinh Nhựt Tụng. Có phải chúng ta là những người Việt Nam, cùng nói một thứ tiếng, cùng viết một thứ chữ hay không? Nếu câu trả lời là “phải” thì tại sao chúng ta lại không có cùng một bộ kinh nhựt tụng như trường hợp của Tàu, Nhựt, Đại Hàn, Thái, Miên, Ấn, vân vân. Ở đây không chủ trương bài ngoại, tuy nhiên kinh chữ Phạn và chữ Hán, chỉ có thể dùng làm tư liệu nghiên cứu, chứ không thể nào còn có thể được dùng trong việc đọc tụng nữa rồi, vì đa số quần chúng Phật tử, có mấy ai thông hiểu được những ngôn ngữ nầy? Còn kinh chữ Việt, chúng ta đã có quá nhiều rồi, nên đề nghị các chùa không nên tự ý làm thêm Kinh Nhựt Tụng nữa, mà quý Tăng Ni hãy ngồi lại với nhau, xem coi trong những cuốn kinh nhựt tụng có cuốn nào thích hợp nhứt cho dân tộc Việt Nam chúng ta, thì biểu quyết chấp thuận cho dùng. Quý Phật tử sẵn sàng lắng nghe và hành trì những chỉ giáo từ chư Tôn Túc. Một khi chư Tôn Túc quyết định và chỉ giáo là Phật tử sẽ tuân hành, nhưng trước hết những người có trách nhiệm với tiền đồ đạo pháp phải ngồi lại với nhau để cùng chọn ra chỉ một bộ kinh nhật tụng nào ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa và xác thực với những lời Phật dạy. Đó là nói về kinh dành cho Phật tử, còn chư Tăng Ni xuất gia, mỗi khi tụng niệm riêng, muốn tụng kinh nào cũng được, Hán cũng được, Phạn cũng được, dài cũng được, mà ngắn cũng không sao. Điều cần nhứt là quý Tăng Ni phải cân nhắc lựa chọn cái nào thực tiển và thích hợp, cái nào không. Trong thời buổi khoa học hiện đạicon người đã gửi được những vệ tinh lên thám hiểm Hỏa Tinh, mà chúng ta vẫn còn khư khư giữ lấy những cổ tục không còn thích hợp nữa, thì e rằng sẽ không lôi kéo được giới thanh thiếu niên tân học. Ngày xưa Tần Thủy Hoàng, vì muốn thống nhứt chữ viết của Tàu nên đã phải đốt hết sách vở và giết sạch những ai còn mang nặng đầu óc địa phương, ngồi chép sách lại theo chữ viết của địa phương mình. Ngày nay, những người con Phật chúng ta có thừa những cái bi trí và dũng, cũng như từ bi hỉ xả của Phật Tổ trao truyền, chúng ta không cần chi đến hạ sách “đốt sách giết học trò.” Chúng ta có thể làm được điều ấy nếu tất cả chúng ta quyết một lòng vì đạo pháp. Những người có trách nhiệm hãy thử tưởng tượng, Phật tử đâu muốn chỉ đi một chùa, Phật tử muốn phò trì chánh pháp • tất cả những nơi nào có chùa. Thế nhưng đi từ chùa nầy qua chùa khác, như lạc vào một thế giới hoàn toàn khác biệt. Dù nói cùng một thứ tiếng, viết cùng một thứ chữ, nhưng kinh ai nấy đọc, chùa ai nấy đi, quả là buồn quá phải không quý vị? Chúng ta ai cũng hãnh diện về đạo Phật, vì đạo Phật là một đoàn thể tôn giáo lâu đời có hạng trên địa cầu nầy. Tuy nhiên, hãy nhìn lại mà xem, những tôn giáo sanh sau đẻ muộn, cho dù giáo lý của họ có thể chỉ là một mớ niềm tin mù quáng, thế nhưng họ phát triển mạnh và nhanh đến độ lấn lướt khắp toàn cầu. Quý vị có biết tại sao lại có thực trạng nầy không? Tại vì họ có một tổ chức kiện toàn từ cao xuống thấp. Còn đạo Phật chúng ta, với những chơn lý sống tu tuyệt vời, thế mà chúng ta phải chịu số phận của một ngọn đèn leo lét suốt gần hai mươi sáu thế kỷ nay. Những người con Phật có một chút thao thức đến sự tồn vong của đạo pháp đã thấy chưa? Tại sao chúng ta lại để cho một tôn giáo sống độngtích cực và tuyệt vời mà Đức Từ Phụ đã truyền trao, phải chịu số phận hẩm hiu như vậy?

Ngay từ thuở ban sơ của Phật giáo, Đức Từ Phụ đã từng khẳng định rằng tất cả các pháp môn, tất cả những tịnh xá, chùa chiền và tự viện chỉ là những phương tiệntuy nhiên, chính Ngài đã đứng ra tổ chức thật là có quy củ, từ những hệ thống tịnh xá, đến những tăng đoàn hoằng pháp. Theo Ngài, mặc dù cứu cánh cuối cùng của chúng sanh là “thành Phật,” nhưng những người con Phật cũng đừng quên rằng, nếu không có tổ chức và thiếu phương tiện, không sớm thì muộn chúng ta sẽ phải bị đào thảiĐồng ý đạo Phật chủ trương đi thẳng vào đời sống tâm linh của con ngườiđạo Phật xem nhẹ vật chất phù phiếmĐạo Phật đã xuất hiện từ con người và đã phục vụ đắc lực cho con ngườiĐồng ý không có sức mạnh nào bằng sức mạnh tâm linhTuy nhiênĐức Phật là một bậc Thế Gian GiảiThiên Nhân SưThiện ThệMinh Hạnh TúcĐiều Ngự Trượng Phu… thế nên Ngài đã quây quần được cả giới xuất gia lẫn tại gia chung quanh niềm tin và lẽ sống đạo của Ngài, không một chút khó khăn trở ngại. Còn chúng ta vì kém phước, sanh ra trong thời không có Phật, không được nghe những lời dạy dỗ từ chính miệng của Ngài, kinh điển thì cũng đã trải qua bao thăng trầm với biết bao lần kiết tập. Nếu chúng ta không chịu xiết tay nhau cùng hướng về sự tồn vong của Phật pháp, thì không biết rồi đây chúng ta sẽ đi về đâu?

Trong quá trình dài của gần hai ngàn năm Phật giáo Việt Nam, các bậc tiền bối đã cố gắng hết sức mình trong công cuộc hoằng pháp, song hành với công cuộc bảo vệ đất nước. Phật giáo Việt Nam đã làm nên những trang sử vẻ vang trải qua những thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn. Thế nhưng trải qua bao thăng trầm của lịch sửtrải qua bao cai nghiệt của thời cuộcPhật giáo lắm khi phải co cụm thành những nhóm nhỏ để tồn tại. Chẳng hạn như vào thời Pháp thuộc, lắm chùa chiền, tự viện phải bỏ hoang và dưới áp lực bạo tàn của giặc, lắm chư tăng ni đã phải vị pháp vong thân. Chính vì phải trải qua những giai đoạn nghiệt ngã ấy, mà mãi cho đến thời cận đạivấn đề tổ chức trong đạo Phật đã không có quy củ cho lắm. Nếu có chăng, chỉ là cục bộ và rời rạc, chứ không toàn diện và nhịp nhàng như các tôn giáo khác. Đồng ý là đạo Phật chú trọng về tâm linh, chú trọng về sự giác ngộ và giải thoát, nhưng ít ra chúng ta cũng phải có tổ chức thế nào cho Phật giáo đồ thật sự có nơi nương tựa, có nơi bồi dưỡng về tâm linh, để từ đó may ra mới có cơ được giác ngộ và giải thoát chứ! Chúng ta phải cố gắng tổ chức làm sao cho mọi người đều ý thức được rằng việc tới chùa là việc thiết yếu, chứ không phải đợi đến lúc hữu sự mới tìm đến chùa, hoặc xin phát tang cầu siêu, hoặc cầu an, hoặc thậm chí để xin xăm bói quẻ, vân vân và vân vân. Đừng ai có ý nghĩ tự xem những tổ chức Phật giáo ngang hàng với những tổ chức tầm thường của phàm phu tục tử. Làm sao những người con Phật chơn thuần có thể so sánh được như vậy?

Tổ chức Phật giáo phải vượt lên trên hết mọi tị hiềm tranh chấp của thường tình thế tục. Chúng ta không cần đến một vị Giáo Hoàng, nhưng ít ra tổ chức Phật giáo phải là một tổ chức hoằng pháp có tầm cở không kém chi Vatican. Phật đã từng vạch mở cho chúng ta thấy cả ba ngàn tam thiên đại thiên thế giới, thế mà chỉ duy có việc tổ chức cho có quy củ, không lý gì chúng ta đành nhắm mắt xuôi tay, phó mặc cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến chúng khống chế và sai khiến chúng ta hay sao? Những người con Phật có chút thao thức cho tiền đồ đạo pháp, hãy cùng xiết chặt tay nhau, trong phạm vi mình có thể làm được, đặc biệt là Phật giáo Việt NamChúng ta đã có một tổ chức mang tên Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tại sao chúng ta lại không có được một quyển kinh nhựt tụng thống nhất hở quý vị?

Nói như thế không có nghĩa là chỉ trích hay chê trách bất cứ ai. Tuy nhiên, những ai còn có chút gì thao thức với đạo pháp, đều phải ôn cố tri tân để vạch ra bước đường tồn tại trong tương lai. Hãy nhìn về quá khứ để thấy rằng vào hơn thế kỷ trước đây, trên đất Mỹ nhứt là tại miền nam California nầy đã có hàng trăm chùa của những người Trung Hoa đi xây dựng đường sắt xuyên lục địa Mỹ Châu. Thế nhưng vì thiếu tổ chức mà chỉ trong vòng năm mươi năm sau đó, sau khi những vị trụ trì viên tịch, thì những ngôi tự viện ấy đã lần lượt biến thành những quán ăn hoặc tiệm rượu. Quý vị có thấy tội nghiệp cho những ngôi chùa đó không quý vị? Lịch sử đã bắt đầu tái diễn ở Nam California nầy, nhưng lần nầy, không với cộng đồng Trung Hoa, mà là với cồng đồng Việt Nam chúng ta, quý vị ạ! Một vị sư tịch, ngôi chùa bị tranh chấp giữa Phật tử và thân nhân của vị sư ấy và cuối cùng ngôi chùa đã biến thành ngôi nhà, buồn quá quý vị hở!

Có lẽ nỗi niềm thao thức của người viết cũng giống như thao thức của của đại đa số Phật tửao ước sao cho quý vị có trách nhiệm với tiền đồ Phật giáo, hãy lưu ý nhiều hơn đến những lề lối sinh hoạt, kinh tế và chính trị, song song với cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho Phật giáo đồ. Đồng ý đưa toàn khối Phật giáo vào thành một khối thuần nhứt không phải là chuyện dễ, nhưng ít ra chúng ta phải có tổ chức, phải tổ chức thành một khối, hoặc một hệ thống tương đối từ cao xuống thấp, trong đó chúng ta phải ngồi lại với nhau trong tinh thần nhân bản và từ bi hỉ xả của nhà Phật, lấy khiêm cung hòa nhã làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Xin quý vị có trách nhiệm với tiền đồ Phật giáo, hãy quan tâm cho một tổ chức Phật giáo kiện toàn hơn là xây nhiều chùa chiền và tự viện lẻ tẻ và cục bộ. Hãy thật sự trao cho Phật giáo đồ tình thương và đạo đức. Có lẽ Phật giáo đồ sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, sung sướng và an lạc hơn nếu chúng ta chỉ có một vài ngôi chùa thật lớn và thật đúng nghĩa là chùa, trong đó vài trăm tăng chúng cùng sống cùng tu trong tinh thần lục hòa của nhà Phật, trong đó chư tăng ni có tổ chức thành nề nếp quy củ, để từ đó làm gương sáng dẫn dắt Phật giáo đồ, những người đang quay cuồng trong xã hội loạn động hôm nay.

Khi quá nhiều chùa chiền được dựng lên trong nợ nần chồng chất, trong lúc quý thầy phải lo sao cho có đủ tiền trả nợ, thì Phật tử cũng không làm sao tránh khỏi những nỗi xốn xang. Quý thầy không yên tâm tu, thì làm sao những người Phật tử trong xã hội quay cuồng nầy có được cái yên tâm để mà tu? Thời đại văn minh nầy, chắc chắn chúng ta không thể trở về con đường “khất thực độ sanh,” nhưng nếu có tổ chức, thì ngay tại Orange County nầy, chúng ta có thể có được năm ngôi chùa đúng nghĩa. Phật tử không đòi hỏi những người có trách nhiệm phải tổ chức một cách gượng ép, đem những điều lệ không hợp tình hợp lý mà áp đặt cho từng địa phương. Tuy nhiênPhật tử mong cầu những người có trách nhiệm, hãy ngồi lại với nhau mà hoằng pháp, hoặc ít ra cơ bản cũng phải có được sự phối hợp nhịp nhàng, chứ đừng kình chống nhau. Ở đây tuyệt nhiên chúng ta không nói đến quyền hành, vì những người con Phật chân chánh còn thiết chi đến quyền uy danh vọng? Mà ở đây chúng ta chỉ nói đến mọi người đều tương kính lẫn nhau, trong tinh thần nhìn tha nhân như một vị Phật tương lai, trong tinh thần khiêm cung từ tốn, chứ không mục hạ vô nhân.

Xin quý vị có trách nhiệm hãy bình tâm mà suy nghĩ để thấy rằng trong quá khứ, dù có nhiều cố gắng, nhưng các bậc tiền bối cũng đã mắc phải những khủng hoảng nội bộ trầm trọng, khiến cho dân tộc chúng ta mất đi rất nhiều cơ hội an cư lạc nghiệp. Chính vì những khủng hoảng nội bộ nầy mà đoàn ngủ Phật giáo bị rời rạc, không chặc chẻ, không phải mới đây, mà là hằng thế kỷ nay. Quý vị có trách nhiệm với tiền đồ đạo giáo hãy thẳng thắn mà nhìn nhận rằng vì thiếu tổ chức, thiếu trình độ và thiếu lãnh đạo, đã khiến cho Phật giáo Việt Nam chẳng những không lôi kéo được quần chúng Mỹ như Phật giáo Tây Tạng, mà còn không tự thích nghi được với những tình thế mới. Xin hãy vì đạo pháp mà dẹp bỏ đi những cái nhìn cạn cợt và thô thiển về một tổ chức Phật giáoPhật tử không yêu cầu quý thầy làm chánh trịPhật tử chỉ yêu cầu quý thầy gầy dựng nên một đội ngủ Phật giáo có quy củ và rồi quý thầy hãy đứng sau lưng mà yễm trợ cho những đứa con Phật tại gia làm chính trị giúp mình, giúp người và giúp đời. Xin quý vị có trách nhiệm hãy nhìn cho kỹ lại để thấy rằng hiện trạng chùa chiền mọc lên như nấm, nhưng tăng tài không được đào tạo đúng mức, sự truyền bá Phật pháp chỉ hạn hẹp trong giới cao niên, hoặc quá lứa trung niên, chứ không thật sự bén rễ vào giới thanh thiếu niên. Như thế ấy thì Phật giáo hải ngoại sẽ đi về đâu chắc ai trong chúng ta cũng đều thấy rõ? Nếu mới một ngày một bữa đặt chân lên đất nước nầy, thì cũng không nói làm gì, đằng nầy chúng ta đã có mặt ở đây trên hai mươi năm, nghĩa là một thế hệ rồi còn gì? Thế mà chúng ta đã có chương trình nào thích ứng được cho giới thanh thiếu niên trẻ hay chưa?

Những người Phật tử tìm đến chùa, mong được tựa nương vào Tam Bảo, hầu có được cuộc sống an lạc hơn, chứ người Phật tử không cần đâu những danh xưng hảo huyền. Tuy nhiên, cùng nói một thứ tiếng, cùng viết một thứ chữ, mà Phật tử chùa nầy qua chùa khác, như lạc vào một thế giới hoàn toàn xa lạ, quả là trục trặcĐồng ý Phật giáo Việt Nam có đến mười tông phái và mỗi tông phái đều có cách sinh hoạt cũng như tu tập khác nhau; tuy nhiên, khác nhau là khác nhau về hình thức, chứ Phật pháp thì tuyệt nhiên không nơi nào khác với nơi nào. Đồng ý chúng ta không cần một tổ chức có tính chất giáo quyền trung ương, nhưng chúng ta cần lắm sự thống nhứt về kinh nghĩa, để cho Phật tử tụng đọc dễ dàng, dễ hiểu, từ đó con đường tiến tu cũng mở rộng hơn. Đa phần Phật tử đến chùa là những người ở lớp tuổi 50 hoặc 60. Tại sao lại như vậy? Dễ hiểu thôi, không nói đâu cho xa, hãy nói những gì đã xãy ra ở các chùa, ngay tại trung tâm Orange County thuộc miền Nam California nầy thì chúng ta sẽ thấy. Các em sinh viên trẻ cũng như các vị ở lớp tuổi ba mươi, bốn mươi cũng đã đôi lần vãng lai đến chùa tìm chơn lý, nhưng đa phần chỉ tới một hai lần rồi thôi. Tại sao lại như vậy? Có lẽ họ không tìm được những phương thức thực tiển ở chùa vì khi nghe tụng niệm thì không hiểu, một phần do bởi những thời kinh dài lê thê, sau mỗI khóa lễ là chân cẳng tê cóng, không còn nhúc nhích cục cựa gì được; phần khác do bởi những kinh văn bằng Hán hoặc Phạn ngữ; rồi lại thêm một phần khác nữa là do bởi hãy còn nhiều chùa quá mang nặng đầu óc mê tín cổ truyền, không còn hợp thời với lứa tuổi thanh thiếu niên nữa. Đồng ý những kim ngôn ngọc ngữ của Đức Từ Phụ là không thể nghĩ bàn, nhưng chính Đức Thế Tôn đã từng nhắn nhủ với chúng đệ tử của Ngài là muốn tồn tại, phải thích ứng. Như vậy nếu chúng ta muốn cho những lời vàng ngọc của Thế Tôn được trao truyền đến tận tai mọi người, trước nhứt chúng ta phải chọn những phương thức nào dễ dàng và thích hợp với mọi người mọi giới trong hoàn cảnh mới nầy. Điều nầy thiết tưởng quý vị có trách nhiệm có thể làm được, nếu chúng ta chịu dẹp bớt đi cái “ngã” của chính mình. Nói không cần tổ chức là nói vậy, vì chúng ta đã gặp quá nhiều khó khăn, nhứt là tại Mỹ nầy, đất nước thì rộng lại thêm hoàn cảnh cay nghiệt, không được chính quyền lưu tâm yểm trợ như các tôn giáo khác. Thêm nữa, các chùa địa phương phải tự túc về tài chánh, đây là mặt khó khăn nhứt để cho ra đời một tổ chức có hệ thống từ cao xuống thấp, từ trung ương xuống địa phương, vì ai cũng nghĩ rằng mình tự túc, chứ có ai giúp mình đâu mà phải lắng nghe, hoặc chịu sự chi phối. Nói như vậy là tại vì cái ngã của mình quá lớn. Hãy thử nhìn Cơ Đốc Giáo mà xem. Họ không rải các phái đoàn đi truyền giáo khắp thế giới sao? Các nhà thờ địa phương của họ không tự túc về tài chánh, mà còn hơn tự túc. Hoàn cảnh sinh hoạt của họ ở địa phương không gặp lắm cai nghiệt hay sao? Nhưng tại sao họ làm được? Tại sao các linh mục chỉ lãnh số lương vừa đủ để chi tiêu, còn thì tất cả đều được gửi về làm giàu cho Vatican? Nếu nói rằng các linh mục vì đạo pháp, thì các thầy bên Phật giáo đã không vì đạo pháp hay sao? Nếu không vì đạo pháp thì làm sao quý thầy cát ái ly gia cho được?

Vạch rõ những điều nầy không để chỉ trích một ai, mục đích duy nhất là mong làm sao cho những người có trách nhiệm hãy suy nghĩ lại mà thương cho Phật tử và đạo phápĐồng ý Phật giáo thế giới, chứ không riêng gì Việt Nam, có quá nhiều tông phái, nào là Thiền tôngTịnh Độ tôngMật tông… nhưng có ai cấm cản chúng ta thành lập một Giáo Hội Phật Giáo như Giáo Hội Phật Giáo Đài Loan, Nhựt Bổn, Tàu và Đại Hàn… Trong giáo hội Phật giáo của họ có nhiều tông chi, họ vẫn đo vai sát cánh hoằng dương chánh pháp, giúp cho dân họ ngày càng thêm an lạc và đạo pháp ngày càng thêm rực rỡ. Ngoài chủ trương hoằng trì chánh pháp, họ không còn một chủ đích nào khác. Ngoài thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh, họ không còn mong cầu bất cứ thứ gì khác. Thế nên trong giáo hội của họ không có bất cứ sự tranh chấp nào xãy ra. Tranh gì chấp gì đây hỡi những người con Phật? Quyền gì lực gì nữa đây hỡi những người con Phật? Đã chấp nhận tu theo Phật là chấp nhận làm thanh tịnh chẳng những biệt nghiệp cho chính mình, mà còn những cọng nghiệp cho bá gia bá tánh nữa. Nói gì thì nói, tổ chức Phật giáo phải mang tính chất tự nguyện, tự nguyện vì đạo pháp và dân tộc.

Giáo pháp của Đức Từ Phụ có thể tùy căn cơ trình độ của chúng sanh mà giảng thuyết, không cần chi phải thiết kế sẳn những bài giảng. Tuy nhiênphương tiện và phương cách hành đạo rất cần được thiết kế và tổ chức cho có quy củThế giới của thế kỷ 21 nầy là thế giới của tổ chức, nếu chúng ta không tìm cách đội ngủ hóa và tổ chức lại hàng ngủ cũng như cơ sở Phật giáo, cho dễ dàng trong công cuộc hoằng pháp và truyền pháp, tức là chúng ta tự đào thải lấy mình. Hai mươi sáu thế kỷ về trước mà Đức Từ Phụ còn phải tổ chức đội ngủ hoằng pháp và phương cách hoằng pháp của Ngài, để cho Phật giáo được phát triển và tồn tạichúng ta há có con đường nào khác? Chúng ta còn cầu chi lợi, hại, khen, chê, vinh, nhục, hơn thua, nhưng chúng ta cần lắm một đội ngủ Phật giáo đồ có tổ chức, có phương cách và phương tiện hoằng trì chánh pháp.

Đừng viện dẫn bất cứ lý do gì cho sự thiếu tổ chức của chúng ta, tổ chức ở đây không phải là một danh xưng, mà là sự làm việc hợp lý, từ phương cách đến phương tiện hoằng pháp. Hỡi những người có trách nhiệm, hãy bình tĩnh ngồi lại với nhau, để tìm ra những phương tiện hữu ích và những phương cách thực tiển, nhằm giúp làm vơi đi những nỗi đau khổ nhọc nhằn của chúng sanh trong xã hội loạn động hôm nay. Đa phần Phật tử đến chùa không phải để xem chùa to chùa đẹp, mà là mong muốn được sự hướng dẫn thiết thực của các bậc tu hànhPhật tử muốn thấy chư tăng ni là những tăng tài, có khả năng hoằng pháp, chứ Phật tử không muốn nhìn thấy những tự viện biến thành những nơi buôn bán thực phẩm, và chư tăng ni suốt ngày phải bận rộn với việc nấu nướng và phân phối thực phẩm để kiếm tiền trả tiền chùa. Như vậy, quý vị có trách nhiệm phải cố tìm ra những phương cách hữu hiệu để phát triển và tồn tại. Không nhứt thiết phải là chùa mọc lên như nấm. Một trăm năm về trước, một bãi nấm “chùa” đã mọc lên ngay tại California và đã tàn lụn sau đó ít lâu, vì thiếu tổ chức và thiếu phương cách hành đạo thực tiển. Những người con Phật có tâm huyết, quyết không để cho Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại phải lâm vào thế tình bi đát nầy đâu.

Xin đừng ai hiểu lầm tổ chức Phật giáo với bất kỳ tổ chức chính trị nào. Có thể những Phật tử sẽ phải tham gia vào quốc sự, nhưng muôn đời tổ chức Phật giáo phải được đặt lên trên tất cả mọi tổ chức tầm thường khác. Trong quá trình trên 2000 năm Phật giáo du nhập vào Việt NamPhật giáo luôn che chở và bao bọc cho dân tộc trải qua bao cơn sóng gió hãi hùng, nhưng Phật giáo chưa bao giờ xây dựng tham vọng cho một cá nhân nào, dù là xuất gia hay tại giaTuy nhiênlịch sử đã cho thấy những người con Phật luôn đứng ra gánh vác việc nước trong cơn quốc phá gia vong. Như quý vị đã thấy đó, trong quốc nội, dưới những chế độ độc tài phi nhân, thế mà những bậc có trách nhiệm đã dám làm những chuyện khó làm, đã dám đứng ra tổ chức một “Giáo Hội Thầm Lặng” ở miền Bắc và một “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” ở miền Nam. Còn chúng ta ở đây có ai cản trở chúng ta đâu, ngoại trừ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Thế thì đừng viện dẫn chi cả, hãy lên đường đi rồi sẽ đến. Phật giáo đã một triết lý sống hạnh phúc và là một tôn giáo tu giải thoát, mà các thế hệ Tây phương thời cận đại đang tìm đến, chỉ cần chúng ta xiết tay nhau, làm cho Phật giáo trở nên có tổ chức, có quy củ, thì ánh đạo vàng của Phật Tổ sẽ chiếu sáng khắp nơi nơi.

366. CHẤM DỨT ĐAU KHỔ VÀ KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT 

Hai mươi lăm thế kỷ trước, chính Đức Từ Phụ đã khẳng định rằng : “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Ngài đã ngang nhiên đánh đổ mọi giai cấp và thứ bậc bất công trong xã hội. Với Ngài, con vua không còn độc quyền làm vua nữa, mà ai cũng có thể làm vua nếu có khả năng và đức độ, cũng như ai cũng có thể thành Phật nếu chịu khó tu tập và hành trì chánh pháp. Dù Ngài không thừa nhận “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện,” nhưng với Ngài, mọi người đều có khả năng tìm lại cái bản thể chơn như, cái bản tánh thiện lành của mình từ vô thỉ, nếu chịu khó tu tập và hành trì, nếu chịu khó thực nghiệm tự thân. Với Ngài, con người sanh ra là để được hạnh phúc và không đau khổ. Tất cả mọi sinh hoạt của con người đều hướng về phục vụ cho hạnh phúcTuy nhiên, vì bị vô minh che mờ mà con người đã quên mất đường đi lối về, đã nhận giả làm chơn, nhận ác làm thiện, nhận khổ đau phiền não làm hạnh phúc

Chính vì thấy rõ như vậy mà Đức Thích Tôn Từ Phụ đã cảm thương và xót xa cho mọi loài. Ngài đã đem hết những gì mà Ngài đã chứng ngộ được ra mà chỉ dạy và hướng dẫn cho chúng sanh, sống hướng thượng và tu giải thoát. Ngài đã đặt nặng vấn đề giáo dục cá nhângiáo dục sao cho từng cá nhân thấy rõ được con đường nào nên đi, đường nào nên tránh, để cho mình và người luôn được hạnh phúc. Với Ngài, chẳng những con người là một sinh vật tối thượng, vì con người có lý trí và biết suy tưởng, mà con người còn là một sinh vật biết sống đời hướng thượng, biết mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho người. Ngài đã ví đời là một bể khổ; tuy nhiênchúng sanh trong bể khổ ấy có khả năng tu tập để chẳng những chấm dứt đau khổ, mà còn kiến tánh thành Phật nữa.

Muốn chấm dứt mọi đau khổ và muốn kiến tánh thành Phậtcon người phải làm sao? Tham chăng? Sân chăng? Si mêngã mạncống cao chăng? Chấp kiến thủ chăng? Thiền chăng? Tu bằng cái miệng chăng? Xin thưa, không có một thứ nào vừa kể trên đây có thể giúp cho con người thành Phật cả. Thiền chỉ là một phần trong công cuộc tu tập nhằm chấm dứt khổ đau và kiến tánh thành PhậtTuy nhiên, đừng chấp chặt vào thiền mà đốn bỏ những thứ khác. Nếu có thiền mà tham, sân, si, ngã mạn và chấp kiến thủ hãy còn đầy, thì thiền để làm gì cho uổng công và lãng phí thì giờ vốn dĩ đã không có của chúng ta? Lúc đó thiền chỉ để giải trí hay để giởn chơi cho vui mà thôi; lúc đó thiền sẽ chẳng đưa con người ta đến đâu cả.

Trong một buổi đàm đạo với thầy Phụng Sơn ở thiền viện Minh Đăng Quang, thầy đã ân cần chia xẻ về cách thức tu tập của thầy. Theo thầy, tu là làm sao chấm dứt mọi đau khổ cho mình và cho người. Tu là tự mình tìm về bầu trời hạnh phúc bao la thăm thẳm, chứ đừng mong cầu một sự chứng đắc viển vông nào cả. Theo thầy, thiền là tự mình lắng tâm để thấy được điều hay lẽ phải, cũng như điều sai lẽ quấy, để từ đó hành xử sao cho hợp với lẽ đạo, ấy là tự mình đang lần tìm về với cái tự tánh mà chúng ta đã một lần dại dột xa lìa. Chứ trong thiền, không có gì để chứng với đắc, chẳng qua chỉ là ảo giác của những kẻ ham thích dong ruổi mà thôi. Con đường duy nhất để chấm dứt mọi đau khổ và phiền não, để kiến tánh thành Phật phải là con đường tu hành theo mười phương ba đời chư Phật: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý.” Chư Phật đã tu hành như vậy để chấm dứt đau khổ và kiến tánh thành Phậtchúng ta há có con đường nào khác? Chắc là không đâu quý vị! Xin ai nấy hãy sớm hồi đầu.

Làm sao để có thể tu trì theo những lời Phật dạy? Muốn tu trì theo mười phương ba đời chư Phật, chúng ta phải thứ nhất là phải về nương nơi Tam Bảo, nơi có Phật BảoPháp Bảo và Tăng Bảo, nơi có những chân thiện hữu tri thức cho ta học hỏi và tu trì theo. Tuy nhiênchúng ta phải tự hạ mình khiêm cung từ tốn mà học hỏi và tu trì, thì chúng ta mới có thể trừ bỏ được tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiếnác kiến và chấp kiến thủ được. Thứ nhì là phải thấu triệt luật luân hồi nhân quả trong nhà Phật. Gieo nhân nào, gặt quả đó. Không cớ gì gieo nhân địa ngục mà gặt quả Niết Bàn. Nếu đời nay ta phải nhận chịu những khổ đau phiền não, thì biết rằng đời trước ta đã làm nhiều điều ác nghịch và hung dữ nên bị nghiệp báo. Ví bằng đời nay ta được thênh thang võng dù và cuộc sống thảnh thơi, ấy cũng là do nhân đời trước ta đã làm nhiều điều thiện lành nên được phước báo. Như vậy muốn biết đời sau ta thế nào, thì cứ công minh mà xét lấy những việc ta đang làm bây giờ. Đó là nói về nhân quả trường kỳ. Kỳ thật, lắm khi nhân quả xãy ra trước mắt, chứ không phải đợi đến chừng nào cả. Ngay trong ca dao bình dân chúng ta cũng có câu : “Đời xưa quả báo còn chầy, đời nay quả báo một giây nhãn tiền.” Thấy như vậy để chí tâm tu hành một cách thật tình, chứ không tu hình tướng. Không lật đật mà giả bộ chỉnh tề, không bề trong phiền hà mà mặt ngoài vui vẻ. Biết như vậy để không miệng nói đại từ mà tâm địa lại chất ngất với những bỏn xẻn hờn câm, miệng nói xót thương mà tâm hằng oán ghét. Một khi đã thấu triệt được luân hồi nhân quả, thì chúng ta sẽ không còn chấp chặt nữa, ngược lại chúng ta sẽ buông bỏ tất cả. Do đó mà công cuộc tu hành của ta sẽ mở rộng hơn.

Thứ ba là phải dứt trừ tham ác vì tham ác là nguồn cội của sân si và vọng động. Vì tham ác mà ta khởi lòng sát sanh, vì tham ác mà ta chỉ quý trọng sự sống của mình, chứ không quý trọng sự sống của người. Phật đã từng dạy rằng chúng sanh mọi loài đều có thức tánh, đều ham sống sợ chết như nhau. Như vậy người con Phật tu hành chân chánh luôn nhớ rằng muốn chấm dứt đau khổ và kiến tánh thành Phật, chớ nên vì tham ác mà vô cớ giết hại một chúng sanh nào. Cũng chính vì tham ác mà ta sanh tâm trộm cướp, tà dâmnói dối, khoe khoang, đâm thọc và chưởi rủa. Hãy nghe và biết cho rõ những lời Phật dạy để thấy rằng tam đồ lục đạo cũng do tham ác mà ra, để thấy rằng muôn loài vạn vật đều đến và đi, chứ không có thứ gì thường hằng, như vậy tham ác để mà chi cho thêm nặng nghiệp?

Thứ tư là phải tận diệt tánh ích kỷ bỏn xẻn, vì tất cả những tự ái, tự mãn, quý trọng mình, khinh chê người, sống chết mặc người… đều do lòng ích kỷ bỏn xẻn mà ra cả. Hãy tinh tấn mà vượt cho ra khỏi lao tù ích kỷ bỏn xẻn, hãy lướt lên mà sống trong vị tha bác áitrong vòng an lạc đạo đức. Hãy từ chối việc tiếp tục làm nô lệ cho ích kỷ bỏn xẻn, vì ích kỷ bỏn xẻn chính là cội nguồn của tám ngọn gió độc giết hại không biết bao nhiêu là những người mê muộiThành công cũng vì ích kỷ, thất bại cũng vì bỏn xẻn keo kiết. Tất cả những vui buồn, sướng khổ, vinh nhụcthăng trầm, tốt xấu, thị phi… cũng đều do lòng ích kỷ và tính bỏn xẻn mà ra.

Thứ năm là phải luôn tập sống tập tu một cách đơn giản, không đòi hỏi. Lưỡi chẳng những không nên nếm vị ngon, mà cũng chớ nên phân biệt ngon dở, khen chê. Ngược lại nên thường nếm những pháp vị an lạc và đạo lý giải thoát. Thân chớ nên trau chuốc, mà cũng đừng quá bỏ bê. Hãy buông bỏ mọi dính mắc và lệ thuộc vào tiền tài, vật chất và lợi danh. Ý không mong cầu, cũng đừng cố chấpMọi việc ở đời nầy, đến rồi sẽ đi thôi, sao cũng được, sao cũng vậy, sao cũng chẳng sao. Dù cho hoàn cảnh có như thế nào, ta vẫn cứ luôn như như bất động. Đừng tìm về quá khứ vì quá khứ đã qua đi và không bao giờ trở lại. Đừng tưởng nhớ tới tương lai vì tương lai là cái gì mù mịt không ai biết. Đừng tự cao tự đại vì tự cao tự đại là tự mình đóng chặt cửa ngõ tu hành của chính mình. Không biết mà nói biết, thì mình sẽ chẳng học được cái hay cái phải của người. Vả lại, người ta tưởng mình đã biết nên chẳng ai muốn dạy thêm cái gì cho mình. Người biết sống đơn giản thì lục trần không vướng mắc; tham, sân, si đoạn diệt; sát, đạo, dâm dứt trừ. Cuộc sống như vậy là gì nếu không là chấm dứt khổ đau? Cuộc tu như vậy là gì nếu không là kiến tánh thành Phật?

Thứ sáu là luôn đặt mình vào hoàn cảnh và vai trò của người khác, để dễ cảm thông và tha thứ cho nhau. Có làm được như vậy, gia đình và xã hội mới có được niềm an lạc thực sự. Có làm được như vậy thì tấm lòng hòa ái của ta mới có cơ rải khắp nơi nơi, từ đó an vui và phúc lạc mới thăng tiến được. Có làm được như vậy, chúng ta mới vui theo cái vui của người, kham nhẫn được những bất trắc, gian nan và nhọc nhằn từ mọi phía mà không kêu ca ta thán.

Thứ bảy là luôn phát triển lòng từ bi, luôn ban vui cứu khổ một cách vô điều kiện. Hễ thấy ở đâu khổ là đến cứu khổ ban vui mà không có hậu ý. Theo Đức Thích Tôn Từ Phụ, một người muốn chấm dứt khổ đau và kiến tánh thành Phật, người ấy phải lập công bồi đức, phải bố thí của cải một cách vô điều kiện và bất vụ lợi, phải phát Bồ Đề tâm rộng lớn, phải thực hành hạnh Bồ Tát trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống nhân gian, phải đánh thức và làm sống dậy tánh giác giác ngộ nơi chính mình. Đừng bao giờ giả nhân giả nghĩa, bố thí vụ lợi, ban vui vụ lợi, cứu khổ với ý đồ cho mai hậu… Đừng bao giờ nói từ bi mà không làm từ bi; nói cứu khổ ban vui mà tâm địa chứa đầy ác dục, nhơ nhớp tợ như đống phân đống rác.

Sau khi đã vâng giữ những lời Phật dạy và tu trì những lời dạy dỗ trên một cách rốt ráo, bây giờ là lúc chúng ta nên ngồi xuống, lắng lòng để mà quán sát những việc mình đã làm, xem coi cái nào hay, đáng nuôi dưỡng và phát huy và cái nào tệ hại đáng bị loại trừ. Mỗi giờ mỗi ngày hành thiền là mỗi giờ mỗi ngày tự lắng tâm mình lại để hành xử sao cho hợp với lẽ đạo, ấy là tự lần tìm về cái cội nguồn tự tánh mà chúng ta đã một lần dại dột xa lìa. Như vậy điều thứ tám trong cuộc hành trình chấm dứt đau khổ và kiến tánh thành Phật là thiền định. Nghĩa là không cho tâm buông lung nghĩ ngợi, cả dĩ vãng, lẫn hiện tại và tương lai. Chúng ta quyết xóa trắng nghiệp chướng phiền não. Quyết cho tâm lắng đọng để thấy hễ cái gì đã từng gây đau khổ là xóa trắng. Từ đó chúng ta sẽ đoạn lìa từ từ những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Từ đó mà mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý … tuy vẫn tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… nhưng ta vẫn tự chủ, không bị chúng sai khiếnlôi cuốn chúng ta vào con đường điên đảo nữa. Cuộc sống cuộc tu của ta lúc đó là gì nếu không là chấm dứt mọi đau khổ và an nhiên tự tại? Làm được như vậy, ta đang làm gì nếu không phải là từng giờ từng ngày kiến tánh thành Phật? Lúc đó bông giác ngộ sẽ nở. Lúc đó ta hiểu rõ tất cả thật tướng của sự vật bằng trí huệ thật của chính mình. Mọi sự, mọi việc trên đời, tự đến, tự đi, sanh sanh diệt diệt không còn là những ưu tư đối với chúng ta nữa. Tất cả đều đến rồi đi do sự sai xử của nghiệp lựcChấm dứt nghiệp chướng là chấm dứt tất cả mọi thứ nhân duyên tương sanh. Lúc ấy chúng ta là gì nếu không là tự tạivô nhiễmvô ưunhư như và giải thoát?

367. ĐẠO PHẬT VÀ HÔN NHÂN DỊ GIÁO 

Đạo Phật là đạo của từ bi nhân bản, của vị tha bác ái, của hạnh phúc và an lạc. Người con Phật đi vào đời với những lời Phật dạy, để vừa mưu cầu hạnh phúc cho mình, mà cũng vừa mưu cầu cầu hạnh phúc cho người và cho đời. Hạnh nguyện của những người con Phật là nếu chưa được vuông tròn với “Thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh,” thì ít ra cũng luôn hướng về “Cứu khổ ban vui.” Triết lý nhà Phật thật là thực tiển và những người con Phật cũng thực tiển như thế ấy. Đạo Phật không bắt ai tin, cũng không bắt ai phải theo mình một cách vô lý và mù quáng. Những người con Phật, nhứt là những đứa con tại gia, vẫn còn phải tạo lập gia đình, vẫn còn phải đi vào đời, nhưng phải cố làm sao mang vào đời với những giáo lý tuyệt vời ấy.

Do bởi sự cởi mở và bao dung của đạo Phật, nên ngay trong việc tạo dựng mái ấm gia đìnhgiáo lý nhà Phật không và sẽ không bao giờ đưa ra những yếu lý để bắt buộc ai phải theo đạo Phật trong vấn đề hôn nhân. Theo đạo Phật, nếu duyên nghiệp hãy còn, đường trần chưa dứt, thì những người Phật tử tại gia vẫn phải lập gia đình và xây dựng hôn nhân hạnh phúcHôn nhân chẳng những là giao ước của tình yêu giữa hai người nam và nữ, mà hôn nhân còn là một sự nối kết thiêng liêng trong sự tồn vong của nhân loại. Sự lựa chọn trong hôn nhân phải được đặt lên trên tất cả những ép uổng gượng gạo của những giáo điều cứng nhắc. Đó phải là một sự lựa chọn thanh cao của tình yêu thươngxuất phát từ hai con tim muốn hòa chung điệu sống. Sự lựa chọn nầy đã nẩy mầm từ xa xưa, có thể nói là từ lúc con người mới bắt đầu xuất hiện và sống thành đoàn. Tín ngưỡng và tôn giáo là những thứ sanh sau đẻ muộn, là những thứ được đặt ra và biên diễn bởi con người. Hàng ngàn năm trước làm gì có tín ngưỡng để bắt buộc và ước lệ trong hôn nhân, thì bây giờ chuyện bắt ép người phối ngẫu phải theo tín ngưỡng của mình, chỉ là những giáo điều nhằm bành trướng tôn giáo mà thôi, không có một chút cơ bản vững chắc nào cả. Hãy gẫm lại mà xem, con người không sanh ra với một tôn giáo có sẳn. Xin hãy để cho con người ấy tự do tìm đến tín ngưỡng của chơn lý cho chính mình. Giáo lý nhà Phật đã không và sẽ không bao giờ bắt buộc người phối ngẫu phải có cùng tín ngưỡngGiáo lý ấy lại càng không bao giờ bắt buộc ai phải bỏ đi cái tín ngưỡng của mình để tin theo Phật. Hãy nhìn về lịch sử của những nước theo đạo Phật, thì chúng ta sẽ thấy rõ sự cởi mở và bao dung của đạo Phật. Trước khi đạo Phật du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam, ở những xứ nầy đã có sẳn Khổng giáoLão giáo và đạo thờ ông bà. Thế nhưng đạo Phật đâu có bắt buộc ai phải bỏ Khổng, Lão hoặc thờ ông bà để theo đạo Phật. Ngược lại, đạo Phật còn khuyến tấn những việc làm hợp tình, hợp lý và đầy ý nghĩa nầy. Chính vì thế mà đạo Phật đã ăn sâu vào tâm tư tình cảm của người Trung Hoa và Việt Nam một cách rất dễ dàng. Trong vấn đề hôn nhân với người khác đạo, đạo Phật chẳng những không chống đối hôn nhân dị giáo, mà đạo Phật cũng không bắt ép người phối ngẫu của Phật tử phải bỏ đạo mình để tin theo đạo PhậtĐạo Phật vạch rõ sự tốt đẹp của các tôn giáo và khuyến tấn người phối ngẫu khác đạo, nên giữ đạo của họ trong khi chung sống song hành với một người con Phật.

Đạo Phật chủ trương nếu hôn nhân với người cùng tín ngưỡng và tôn giáo thì càng tốt. Tuy nhiênđạo Phật không bao giờ chống báng việc Phật tử kết hôn với người khác đạo. Theo đạo Phật, tất cả chỉ vì có duyên mà hợp, rồi cũng vì hết duyên mà tan. Từ khi con cái còn nhỏ, cha mẹ phải có nhiệm vụ nuôi nấng và dạy dỗ con em mình với những giáo lý tuyệt vời của Đức Phật. Nếu ngay từ khi con cái còn nhỏ, mà cha mẹ không có đủ cơ duyên dìu dắt cho các em, hướng dẫn cho các em giao du với những bạn hữu cùng đạo, trong khi thời gian vẫn trôi, dòng đời vẫn chảy, các em vẫn phải lớn lên và phải có cuộc sống cho các em, các em vẫn phải làm thân và kết bạn. Rất có thể bạn bè của các em là những người không cùng chủng tộc, hoặc không cùng tôn giáo. Nếu sự thể đã như thế thì những bậc phụ huynh, nhứt là những người con Phật, phải làm sao đây?

Những người con Phật luôn quyết vâng giữ những kim ngôn ngọc ngữ của Phật như những lời dạy vàng ngọc mà đi vào đời, trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị, đến hôn nhân và cuộc sống hằng ngày. Người con Phật luôn nhớ rằng đạo Phật chưa bao giờ dạy ai phải bắt ép ai. Đạo Phật chưa bao giờ tạo ra một cuộc Phật chiến nào để bành trướng thế lực. Ngược lại, dù trong cõi Ta Bà ngũ trược nầy, với kiếp phù du của con người trong cảnh sống gửi thác về, dù nhân thế có lao xao thế mấy, đạo Phật vẫn luôn là đạo của từ bi nhân bảnvị tha bác ái và cởi mở bao dungĐạo Phật không bao giờ cho mình là đúng, là tuyệt đối, là toàn năng, hay là trung tâm của vũ trụ. Ngược lại, đạo Phật lấy thời gian làm thước đo và trả lời cho tất cả những chân như, ngụy giả, tốt xấu… Đạo Phật chủ trương không bắt ép ai phải theo mình, cũng không cấm cản ai bỏ đạo Phật để theo một tôn giáo khác vì bất cứ lý do gì. Những người con Phật chơn thuần cũng vậy, không bắt ai phải theo mình. Tuy nhiên, dù Phật không cấm cản bỏ đạo, những người con Phật cương quyết không vì bất cứ lý do gì mà bỏ đi chơn lý và lẽ sống của chính mình. Như vậy những bậc phụ huynh Phật tử quyết không cuồng tín, không khư khư giữ vững lập trường của mình, mà bắt ép ai phải chạy theo mình. Nếu con cái mình kết hôn được với những người cùng đạo thì tốt, ví bằng nếu có phải kết hôn với một người khác đạo cũng không phải là một điều xấu. Theo Phật, không có cái gì ngẫu nhiên mà xãy đến trên cõi đời nầy. Tất cả đều có duyên cớ của nó. Hôn nhân cũng vậy, nếu hai người không có dây mơ rễ má, không có những nợ nần năm cũ hoặc đời trước, thì chắc không bao giờ tương ngộ. Đã tương ngộ, ắt phải vì duyên nghiệp mà tương ngộ. Như vậy đừng ai bắt ép ai trong cuộc tương ngộ nầy. Ngược lại, hãy cùng giúp đở nhau đi trên những bước đường đời gian lao và lắm khi đầy cay nghiệt nầy.

Hiện tại cộng đồng Việt Nam chúng ta tại Orange County không phải là một cộng đồng lớn lắm, thế nên đa phần tuổi trẻ Việt Nam thuộc nhiều tôn giáo khác nhau, đã phải đến với nhau từ tình bằng hữu, rồi đi đến kết thân và hôn nhân. Chính vì vậy mà có lắm cảnh trái ngang đã ập đến với tuổi trẻTuổi trẻ nhứt là tuổi trẻ sanh ra và lớn lên tại Âu Mỹ, hễ thấy hợp thấy thương nhau là đến với nhau, chứ không cần suy đi nghĩ lại về tôn giáo, hoặc cũng không cần phải hỏi coi người bạn mình thuộc tôn giáo nào? Đến khi biết được người bạn mình khác đạo, thì tình yêu đã nở và phát triển mạnh quá rồi, không còn cách gì khác hơn là tiến đến hôn nhân. Thế là cả hai bên gia đình đều đau khổTuy nhiênchúng ta, nhất là những người con Phật phải nên luôn nhớ rằng mục đích của cuộc sống chúng ta là gì? Là hạnh phúc, là an vui, là hòa nhãVậy thì trong bất cứ tình huống nào, người con Phật cũng quyết giữ cho bằng được hạnh phúc, an vui và hòa nhã, ngay cả trong khi phải đương đầu với những hoàn cảnh gai gốc và khó xử nhất trên cõi đời nầy. Dù trong bất kỳ tình huống nào, đạo Phật vẫn luôn là đạo của tình thương, thế nên những người con Phật không muốn thấy, hoặc làm cho ai đau khổ cả. Đạo Phật luôn dành cho chúng ta sự lựa chọn, chứ không bắt buộc chúng ta phải tin, phải theo một cách mù quáng và vô lý. Trong những tình huống hôn nhân dị giáođạo Phật cho phép tín đồ của mình được kết hôn với người mà họ thương yêu và chọn lựa. Đạo Phật chủ trương mạnh ai nấy giữ những gì cao đẹp và hay ho nhứt của tôn giáo mình, rồi từ đó tu bổ cho nhau để chỉ đi về một hướng: đó là hướng thượng. Trong thời gian chung sống, hãy gạt bỏ qua một bên những dị biệt của niềm tin, để cùng nhau sống hòa điệu và đi tới. Hãy sống trọn vẹn với những gì cao cả nhứt mà tôn giáo mình đã dạy. Hãy sống thực và chứng tỏ cho người phối ngẫu mình thấy được sự cởi mở và bao dung, cũng như hạnh phúc và niềm an lạc tràn đầy dưới ngọn hải đăng Phật pháp. Hãy đem từ, bi, hỉ, xả mà đối trị với tham, sân, si. Hãy lấy khiêm cung từ tốn mà đáp lại ngã mạn cống cao. Hãy lấy nhu hòa nhẫn nhục ra mà ban tặng cho những cơn giận hờn trách móc của người phối ngẫu. Hãy sống y như lời Phật dạy. Hãy sống trọn vẹn với giới đức đạo hạnh của một người con Phật, thì rồi thế nào người phối ngẫu cũng sẽ nhìn thấy một cách trung thực về đạo Phật. Hãy lấy chính thân tâm mình mà sống, mà hành trì Phật pháp, rồi chúng ta sẽ thấy sự vi diệu của đạo Phật.

Đạo Phật từ bi và nhân ái như vậy đó, không muốn thấy ai phải buồn phải khổ. Đạo Phật không bao giờ tự cho mình là tuyệt đối, là trung tâm vũ trụhoặc giả những gì của mình là đúng, những gì của người là sai trái. Chính vì thế mà đạo Phật không ràng buộc hay bắt ép ai phải tin và phải theo đạo Phật vì bất cứ một lý do gì. Tuy nhiên, người Phật tử chúng ta cũng cần phải có đầy đủ cả bi, dũng và trí của một đứa con Phật, để không mù quáng bỏ đạo mà chạy theo tiếng gọi của con tim. Người Phật tử chơn thuần sẽ không vì tình yêu mà từ bỏ tất cả những giáo lý tuyệt vời của từ bihỉ xảquảng đại bao dung của nhà Phật… Người Phật tử chơn thuần sẽ cân nhắc một cách kỹ lưỡng trước khi tự quyết định, nhứt là quyết định vô cùng quan trọng nầy, quyết định có thể bỏ đạo, bỏ niềm tin tín ngưỡng của chính mình để tiến đến hôn nhân với một người khác đạo. Người Phật tử không bao giờ xem thường ảnh hưởng của nếp sống tâm linh trong cuộc sống sống hằng ngày, đừng nghĩ rằng đạo nào cũng vậy, rồi tùy tiện mà chạy theo tiếng gọi của tình yêu, thì sau nầy e rằng chúng ta sẽ phải ôm lấy khổ sở, có khi suốt cả một đời. Xin đừng bước xuống thuyền khi ta chưa biết chiếc thuyền ấy do ai lái và sẽ đi đâu?

Tóm lại, những người con Phật tại gia, nếu kết hôn được với những người cùng đạo thì tốt. Nếu gặp phải người khác đạo, đừng nên bắt buộc họ phải cãi đạo để theo mình. Cho dù người có bắt ép ta, ta cũng quyết không bắt ép người. Những người con Phật quyết không lấy niềm tin đạo giáo làm điều kiện tiên quyết trong vấn đề hôn nhân. Những người con Phật lại càng cương quyết không dùng bất cứ một yếu lý nào để xoay chuyển đức tin nơi người khác. Ngược lại, người con Phật chỉ dùng cuộc sống thiện hạnh của chính mình để cùng sống hòa điệu với tha nhân. Những người con Phật luôn nhớ rằng biết bao thảm cảnh đã và đang xãy ra trong vấn đề hôn nhân cho con trẻ, chỉ vì những giáo điều vô lý và không tưởng của ý đồ bành trướng và khống chế của các tôn giáo đang đi trên ngưởng cửa tuyệt vọngChúng ta quyết bằng mọi cách, không để cho con trẻ chúng ta trở thành nạn nhân của những thảm cảnh nầy. Dù là yếu lý của đạo nào cũng vậy, cũng đều muốn mang lại sự an bình và hạnh phúc cho địa cầu nầy. Đạo Phật thì lúc nào cũng muốn thấy chúng sanh luôn an vui hòa hiếu và tu hành giải thoát, còn đạo Chúa thì lúc nào cũng muốn bình an dưới thế cho người thiện tâm khi sống, và khi chết thì sẽ được Chúa rước về cõi thiên đàngVậy thì xin hãy vì hạnh phúc của con em mình mà cố cởi mở và bao dung thêm nữa, hỡi những người con Phật! Luôn nhớ rằng đạo Phật ở ngay trong lòng ta, chứ không phải là hình tướng bên ngoài. Thế cho nên dù trong bất cứ tình huống nào, chúng ta cũng có thể đem những chân lý tuyệt vời của từ, bi, hỉ, xả, tình yêu thương chân thật, cũng như cuộc sống nhu hòa nhẫn nhục và khiêm cung từ tốn ra mà ban vui cho người khác được, huống là đem ra ban cho chính người phối ngẫu của mình, là người mà ta sẽ cùng sống với nhau cho đến trọn đời hết kiếp. Tôn giáo được khai sanh chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đem lại hạnh phúc an vui cho con ngườiTôn giáo rất cần thiết cho chúng ta mỗi khi chúng ta gặp phải những khó khăn trong cuộc sống hằng ngàyCon người đến hay không đến với tôn giáo là sự tự nguyện, chứ không ai có quyền bắt ép ai. Những người con Phật cương quyết không để cho những giáo điều cứng nhắc và vô lý làm cản trở hôn nhân của con cái mình, hoặc giả làm cho cuộc sống của con cái mình trở nên đau khổ hơn. Tôn giáo lúc nào cũng cần thiết vì tôn giáo có thể giúp cho con người có được cuộc sống an lạc về mặt tinh thầntuy nhiên, bằng mọi cách tôn giáo phải được đem ra để phục vụ con người, chứ tôn giáo không có quyền bắt ép ai làm nô lệ để phục vụ cho những nhu cầu không tưởng của nó. Những người con Phật quyết không phục vụ hay tin theo các tín điều một cách mù quáng. Hãy dùng chánh kiến mà Đức Từ Phụ đã trao truyền năm xưa, để dìu dắt con em chúng ta đi vào hôn nhân dị giáo mà không phải đương đầu với quá nhiều khó khăn và phiền não không cần thiết.

Pages: 1 2 3