Đạo Huệ

Từ Điển Đạo Uyển

道慧; ?-1173
Thiền sư Việt Nam, thuộc phái thiền Vô Ngôn Thông đời thứ 9, nối pháp Thiền sư Thông Biện. Sư có nhiều đệ tử ngộ yếu chỉ thiền như Ðại Xả, Tịnh Không, Tín Học, Trường Nguyên, Tĩnh Lực, Trí Bảo và Minh Trí.
Sư họ Âu, quê ở Chân Hộ, làng Như Nguyệt, xuất gia tu học với Quốc sư Thông Biện tại chùa Phổ Minh năm 25 tuổi. Nơi đây, Sư ngộ được huyền chỉ của Thiền.
Sau, Sư đến chùa Quang Minh núi Thiên Phúc trong huyện Tiên Du trụ trì. Ðạo hạnh của Sư vang xa và cảm hoá được cả thú rừng. Niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 20 (1161), Hoàng Cô Thuỵ Minh mắc bệnh, vua sai sứ thỉnh Sư vào xem bệnh. Sư vừa đến cửa ngoài thì Hoàng Cô lành bệnh. Vua Lí Anh Tông rất mừng mời Sư ở lại chùa Báo Thiên hoằng pháp. Học chúng và đạo hữu khắp nơi đua nhau đến yết kiến. Sư vì vậy không trở về núi mà ở lại khai đường giáo hoá.
Ðến niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1173), ngày mồng 1 tháng 8, Sư có chút bệnh tự than rằng: “Loạn li lan rộng, ái chừ, từ đó mà đến.” Sư nói kệ:
地水火風識。原來一切空
如雲還聚散。佛日照無窮
色身與妙體。不合不分離
若人要甄別。爐中花一枝
Ðịa thuỷ hoả phong thức
Nguyên lai nhất thiết không
Như vân hoàn tụ tán
Phật nhật chiếu vô cùng
Sắc thân dữ diệu thể
Bất hiệp bất phân li
Nhược nhân yếu chân biệt
Lô trung hoa nhất chi
*Ðất nước lửa gió thức
Nguyên lai thảy đều không
Như mây lại tan họp
Phật nhật chiếu không cùng
Sắc thân cùng diệu thể
Chẳng họp chẳng chia lìa
Nếu người cần phân biệt
Trong lò một cành hoa.
Ðến canh ba, Sư im lặng thị tịch.