KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

Dẫn nhập

Bộ Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật nầy, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội bồ đề, vừa mới thành chánh giác, không rời khỏi toà ngồi mà ở trong định đến bảy nơi (ba nơi tại nhân gian, bốn nơi ở tại Thiên cung), vì các bậc đại thiện căn viên đốn, mà nói tự thân chứng được pháp môn viên đốn, đi thẳng vào đạo lý pháp giới, trải qua chín hội trong vòng hai mươi mốt ngày, thì nói xong bộ Kinh không thể nghĩ bàn nầy. Bộ Kinh nầy gồm có 45 phẩm Kinh văn, nhưng chỉ dịch ra được 39 phẩm, gồm 80 quyển. Trong mỗi hội Ðức Phật đều phóng quang, đại biểu nói Hoa Nghiêm pháp lớn. Quang minh là biểu thị cho trí huệ, gia bị cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lợi ích Phật Pháp.

Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy từ đầu cho đến cuối, đều nói đạo lý năm vòng nhân quả.
Hội thứ nhất thì nói về “tin nhân quả”.
Từ hội thứ hai đến hội thứ sáu thì nói về “sai biệt nhân quả”.
Hội thứ bảy thì nói “bình đẳng nhân quả”.
Hội thứ tám thì nói “thành hạnh nhân quả”.
Hội thứ chín thì nói “chứng nhập nhân quả”.

Ngài Thanh Lương Quốc Sư đem hết toàn bộ Kinh 80 quyển phân làm bốn phần. Hội thứ nhất có 11 quyển là : Cử quả hoan lạc sinh tín phần. Từ hội thứ hai đến hội thứ bảy cộng lại có 41 quyển là : Tu nhân khế quả sinh giải phần. Hội thứ tám có 7 quyển là : Thác pháp tiến tu thành hạnh phần. Hội thứ chín có 21 quyển là : Y nhân chứng nhập thành đức phần.

Hội thứ nhất tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, vị trí ở hướng tây cách thành Vương Xá nước Ma Kiệt Ðà khoảng hai trăm dặm, nay tức là Bodh Gaya. Hội nầy Ðức Phật phóng quang minh giữa lông mày, biểu thị quang minh của Phật chiếu khắp hết thảy mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh đến nghe pháp lớn. Lại phóng quang minh ở răng, biểu thị khiến cho chúng sinh nếm được pháp vị. Bộ Kinh nầy là mười phương chư Phật đều nói, cho nên trong các hội, phần nhiều là mười phương chư Phật gia bị cho Bồ Tát nói. Hội nầy là mười phương chư Phật gia trì cho Bồ Tát Phổ Hiền nói, Bồ Tát Phổ Hiền làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật mà nói : y, chánh hai báo trang nghiêm Phật quả, phát triệt tâm tín ngưỡng của chúng sinh. Hội nầy nói sáu phẩm :

1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu.
5. Phẩm Thế Giới Hoa Tạng.
6. PhẩmTỳ Lô Giá Na.

Sáu phẩm nầy là vòng tin nhân quả, là “quả cử hoan lạc sinh tín phần”.

Hội thứ nhì ở tại Ðiện Phổ Quang Minh. Hội nầy ở phía đông nam cây bồ đề, khoảng ba dặm trong khúc eo sông Ni Liên Thiền, là do các Long Vương vì Ðức Phật mà tạo nên. Ðức Phật phóng quang chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, nên tên là Ðiện Phổ Quang Minh. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang dưới hai bàn chân, biểu thị khiến cho chúng sinh y pháp tu hành. Hội nầy Bồ Tát Văn Thù làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật, mà nói đạo lý pháp môn Thập Tín mỹ đức, hội nầy nói sáu phẩm:

7. Phẩm Danh Hiệu Như Lai.
8. Phẩm Bốn Thánh Ðế.
9. Phẩm Quang Minh Giác.
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh.
11. Phẩm Tịnh Hạnh.
12. Phẩm Hiền Thủ.

Sáu phẩm nầy là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”. Trên đây là mười hai phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.

Hội thứ ba ở tại Ðiện Diệu Thắng trên cung trời Ðao Lợi. Hội nầy ở đỉnh núi Tu Di, là “địa cư thiên”, tức cũng là tầng trời thứ hai của dục giới. Ðức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm là pháp thân nói, pháp thân thì tận hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (không có chỗ nào mà không có). Cho nên, có thể đến bất cứ nơi nào giảng Kinh thuyết pháp. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang ở ngón chân, biểu thị pháp là từ chỗ thấp mà sinh ra, khiến cho chúng sinh từ cơ bản mà học lên. Hội nầy Bồ Tát Pháp Huệ làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói đạo lý Thập Trụ. Hội nầy cũng nói sáu phẩm.

13. Phẩm Thăng Lên Ðỉnh Tu Di.
14. Phẩm Kệ Tán Tu Di.
15. Phẩm Thập Trụ.
16. Phẩm Phạm Hạnh.
17. Phẩm Công Ðức Ban Ðầu Phát Tâm.
18. Phẩm Minh Pháp.

Sáu Phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.

Hội thứ tư ở tại Ðiện Bảo Trang Nghiêm, cung trời Dạ Ma. Hội nầy ở trên không đỉnh núi Tu Di, là “không cư thiên” (cõi trời ở trên không), tức cũng là tầng trời thứ ba của dục giới. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang ở mu hai bàn chân, biểu thị pháp là từ dưới mà lên, khiến cho chúng sinh y theo thứ lớp mà học lên. Hội nầy Bồ Tát Công Ðức Lâm làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói đạo lý pháp môn Thập Hạnh. Hội nầy nói bốn phẩm.

19. Phẩm Thăng Lên Trời Dạ Ma.
20. Phẩm Kệ Tán Dạ Ma.
21. Phẩm Thập Hạnh.
22. PhẩmThập Vô Tận Tạng.

Bốn phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.

Hội thứ năm ở tại Ðiện Nhất Thiết Diệu Bảo Trang Nghiêm, cung trời Ðâu Suất. Hội nầy ở phía trên trời Dạ Ma, tức cũng là tầng trời thứ tư của dục giới. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang hai đầu gối, biểu thị hồi hướng, khiến cho chúng sinh : hồi sự hướng lý, hồi nhân hướng quả, hồi tự hướng tha. Hội nầy Bồ Tát Kim Cang Tràng làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật mà nói đạo lý pháp môn Thập Hồi Hướng. Hội nầy nói ba phẩm.

23. Phẩm Thăng Lên Trời Ðâu Suất.
24. Phẩm Kệ Tán Ðâu Suất.
25. Phẩm Thập Hồi Hướng.

Ba phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.

Hội thứ sáu ở tại Ðiện Ma Ni Bảo Tạng, cung trời Tha Hoá Tự Tại. Hội nầy là tầng trời thứ sáu của dục giới, cũng là trời cao nhất của dục giới. Hội nầy Ðức Phật phóng quang minh ở giữa lông mày, hội nầy Bồ Tát Kim Cang Tạng làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói đạo lý pháp môn Thập Ðịa. Hội nầy chỉ nói một phẩm.

26. Phẩm Thập Ðịa.

Phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”. Trên đây là mười bốn phẩm diệu pháp nói ở trên Thiên cung.

Hội thứ bảy ở tại Ðiện Phổ Quang Minh. Ðức Phật lại từ trên trời trở về nhân gian. Hội nầy Ðức Phật phóng quang minh giữa lông mày và quang minh ở miệng, quang minh ở miệng là biểu thị, tất cả Phật tử từ trong miệng của Phật hoá sinh. Hội nầy Bồ Tát Phổ Hiền làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói pháp Ðẳng giác và Diệu giác, tức cũng là pháp môn nhân tròn quả đầy, sáu phẩm trước nói nhân tròn, năm phẩm sau nói quả đầy. Hội nầy nói mười một phẩm :

27. Phẩm Thập Ðịnh.
28. Phẩm Thập Thông.
29. Phẩm Thập Nhẫn.
30. Phẩm A Tăng Kỳ.
31. Phẩm Thọ Lượng.
32. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ.
33.Phẩm Phật Bất Tư Nghì Pháp.
34. Phẩm Thập Thân Tướng Hải.
35. Phẩm Tuỳ Hảo Quang Minh.
36. Phẩm Hạnh Phổ Hiền.
37. Phẩm Như Lai Xuất Hiện.

Mười một phẩm nầy là vòng nhân quả bình đẳng, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.

Hội thứ tám tại Ðiện Phổ Quang Minh. Trong hội nầy Ðức Phật không phóng quang minh, vì tại trọng xứ. Hội nầy cũng là Bồ Tát Phổ Hiền làm chủ đại hội, vì Bồ Tát Phổ Hiền là chủ Hoa Nghiêm Hải Hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật, mà nói pháp hai ngàn hạnh môn. Có vị Bồ Tát Phổ Huệ hỏi Bồ Tát Phổ Hiền : Những gì là pháp nương tựa của Bồ Tát ? Những gì là pháp thực hành của Bồ Tát ? .v.v., có hai trăm câu hỏi. Bồ Tát Phổ Hiền giải đáp thành hai nghìn câu trả lời. Hội nầy chỉ nói một phẩm

38. Phẩm Lìa Thế Gian.

Phẩm nầy là vòng thành hạnh nhân quả, là “thác pháp tiến tu thành hạnh phần”.

Hội thứ chín ở tại Rừng Thệ Ða. Ðịa điểm ở trong thành Xá Vệ, tức cũng là vườn ông Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, còn gọi là Tinh Xá Kỳ Hoàn, còn gọi là Trọng Các Giảng Ðường. Khi Ðức Phật thành chánh giác thì chưa có giảng đường nầy, sau này mới thành lập. Song, không có Trọng Các Giảng Ðường, vậy Ðức Phật làm thế nào thuyết pháp tại đây ? Ðó là cảnh giới diệu không thể nghĩ bàn. Ðức Phật có thể đem vô lượng kiếp quá khứ dời đến hiện tại, cũng có thể đem vô lượng kiếp vị lai dời đến hiện tại. Cho nên chẳng có phân biệt quá khứ, hiện tại và vị lai, là viên dung vô ngại. Giống như trong Kinh Kim Cang có nói :”Tam tâm bất khả đắc” (ba tâm không thể đắc được), cùng đạo lý ấy, nghĩa là : tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai cũng không thể nắm bắt. Tại sao ? Bạn nói có quá khứ tức là chấp trước, có hiện tại là chấp trước, có vị lai cũng là chấp trước. Vì quá khứ đã qua rồi, hiện lại không dừng lại, còn vị lai thì chưa đến, đó là phá chấp. Tại hội nầy Ðức Phật phóng luồng hào quang trắng, biểu thị chiếu khắp ba ngàn đại thiên, khiến cho tất cả chúng sinh được thấm nhuần mưa pháp, sinh ra căn lành. Hội nầy phân làm hội chính và hội phụ. Hội chính là Phật Thích Ca Mâu Ni làm hội chủ, nhập vào Tam muội Sư Tử Tần Thân, thị hiện mà nói diệu pháp, khiến cho đại chúng “đốn chứng pháp giới”. Hội phụ là các Bồ Tát làm hội chủ, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù và các vị thiện tri thức vì Thiện Tài Ðồng Tử mà nói rõ “tiệm chứng pháp giới”. Hội nầy chỉ nói một phẩm :

39. Phẩm Vào Pháp Giới.

Nhưng có hai mươi mốt quyển. Hội nầy là vòng chứng nhập nhân quả, là “y nhân chứng nhập thành đức phần”. Phần trên là mười ba phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Nay giới thiệu sơ lược về bảy nơi, chín hội, ba mươi chín phẩm, hy vọng mọi người ghi nhớ, đợi khi giảng đến phẩm nào thì biết được phẩm đó nói tại đâu, vị Bồ Tát nào nói, có khái niệm như thế thì mới thấu hiểu được.

Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy là pháp đại thừa, vì pháp thân Bồ Tát mà nói, hoàn toàn là tu bồ đề tâm, hành bồ đề đạo, do đó người tiểu thừa, tuy nhiên đồng ở trong pháp hội, nhưng như điếc như mù, “có mắt chẳng thấy được Lô Xá Na, có tai chẳng nghe được pháp viên đốn”. Vì khi họ ở tại nhân gian thì không tu pháp đại thừa, cho nên không có duyên đắc được lợi ích lớn. Vậy tức nhiên chúng ta chẳng phải là Bồ Tát, lại chẳng phải là A La Hán, tại sao lại nghe được tên Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, mà còn được nghe diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm ? Ðó là vì trong quá khứ chúng ta đã gieo căn lành với pháp đại thừa, cho nên hôm nay có duyên được đến nghe pháp, bằng không cũng giống như người tiểu thừa, như điết như mù. Ðây là cơ hội ngàn kiếp khó gặp. Hy vọng mọi người tinh tấn càng tinh tấn, nỗ lực càng nỗ lực, đến nghiên cứu diệu lý của bộ Kinh nầy. Tuy nhiên chỉ dịch ra được bốn vạn năm nghìn bài kệ, nhưng nếu nhớ được một bài kệ thì có diệu dụng vô lượng.

Vào đời đường có vị xuất gia tên là Vương Minh Cán. Vị đó tuy xuất gia làm hoà thượng, nhưng không tu hành. Một ngày nọ, bị quỷ vô thường bắt đi, vị đó gặp Bồ Tát Ðịa Tạng, dạy vị đó một bài kệ Kinh Hoa Nghiêm :

“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”.

Nghĩa là :

“Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Hết thảy do tâm tạo”.

Vị đó thấy vua Diêm Vương thì đọc ra bài kệ nầy, do đó được phóng thích. Bài kệ nầy không những cứu được sinh mạng của vị đó, mà cũng cứu được chúng sinh thọ khổ dưới địa ngục. Các bạn thấy đó ! Bài kệ nầy có diệu dụng như thế, cho nên phải tụng Kinh Hoa Nghiêm, phải lạy Kinh Hoa Nghiêm, phải ấn tống Kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định có công đức vô lượng.