đan ba tang kết

Phật Quang Đại Từ Điển

(丹巴桑結) (? – 1117) Tạng: Dam-pa saís-rgysa. Vị tăng du phương người Nam Ấn độ truyền bá giáo pháp của phái Giác vực (Tạng: Good-yul-pa) và phái Hi giải (Tạng: Shibyed-pa) thuộc Phật giáo Tây tạng. Thủa nhỏ sư học Văn pháp, sau xuất gia theo ngài Quật tiết ma đề bà (Phạm: Kwemadeva) học tập giới luật và giữ giới rất nghiêm. Sư đã đến Tây tạng năm lần, truyền pháp ở miền Nam Tiền tạng và Hậu tạng. Giáo pháp của sư chủ yếu là Bát nhã, còn về Mật pháp thì sư truyền pháp môn Đại ấn. Năm Thiệu thánh thứ 4 (1097), sư xây chùa ở gần Định nhật tại Hậu tạng. Tương truyền lúc về già sư từng đến chiêm bái núi Ngũ đài. Sau khi sư tịch, chư tăng trong nước vẽ hình sư để lưu truyền. Giáo pháp do sư truyền được hình thành làm hai phái: 1. Phái Hi giải, tu hành theo nghĩa kinh Bát nhã, cốt yếu dứt trừ tất cả phiền não sinh tử. 2. Phái Giác vực, tuyên giảng tâm bồ đề từ bi và kiến giải tính không. Riêng phái Hi giải sau được truyền bá khắp nước Tây tạng, rồi lan cả đến Trung quốc, cũng gọi là phái Đan ba (Tạng:Dampa-ba) và ngài Đan ba tang kết được tôn làm Tổ khai sáng của phái này. [X. Deh-ther síon-po (The Blue Annals); G. Tucci: Tibetan Painted Scrolls; L. A. Waddell: The Buddhism of Tibet; H. Hoffmann: Die Religionen Tibets (The Religions of Tibet)].