đàm diệu

Phật Quang Đại Từ Điển

(曇曜) Vị tăng ở đời Bắc Ngụy. Năm sinh năm mất và quê quán đều không rõ. Sư xuất gia từ thủa nhỏ, tu Thiền ở Lương châu, được thái tử Thác bạt hoảng kính trọng. Khi Thái vũ đế phế bỏ Phật giáo, chùa viện kinh tượng ở miền Bắc bị phá hủy, Phật sự đình đốn, sa môn phần nhiều hoàn tục. Mặc dầu Thái tử đã hai ba lần khuyến dụ sư hoàn tục, sư vẫn quyết giữ vững đạo tâm, không rời pháp phục. Sau khi Văn thành đế lên ngôi, phục hưng Phật giáo, vua đặc biệt cử sư giữ chức Chiêu huyền đô thống để lãnh đạo tăng ni. Sau khi nhận chức vụ, sư liền chỉnh đốn chúng tăng, sửa chữa chùa viện, đạo hạnh của sư ngày càng cao, vua thờ sư làm thầy. Theo lời thỉnh cầu của vua, sư cho đục mở năm hang đá ở mạn bắc hang núi Vũ chu, trong mỗi hang khắc một pho tượng Phật cao khoảng 60 thước (Tàu), hang cao hơn 20 trượng, có thể chứa 3 nghìn người, nét chạm trổ tinh vi đẹp đẽ. Sư còn dựng chùa Linh nham. Đây là công trình mở đầu cho quần thể hang động Vân cương ở Đại đồng. Sư lại tâu xin vua đặt ra chế độ Tăng kì hộ, Tăng kì túc và Phật đồ hộ để giúp cho việc hưng long Phật pháp. Về sau, sư ở trong chùa Thông lạc tại hang đá Đại đồng. Năm Hòa bình thứ 3 (462), sư triệu tập các bậc đại đức phiên dịch kinh Đại cát nghĩa thần chú 2 quyển, kinh Tịnh độ tam muội 1 quyển, Phó pháp tạng nhân duyên 4 quyển v.v… Phật pháp ở miền Bắc Trung quốc thời đó được chấn hưng trở lại, những chùa tháp bị phá hủy được trùng tu, tượng Phật, kinh luận được xuất hiện lại đều là nhờ công lao rất lớn của sư. [X. Tục cao tăng truyện Q.1; Lịch đại tam bảo kỉ Q.9; Quảng hoằng minh tập Q.2; Khai nguyên thích giáo lục Q.6; Ngụy thư thích lão chí Q.20].